Đức Cha và cô tiếp viên hàng không

 Đức Cha và cô tiếp viên hàng không

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vào một ngày cuối năm 1965. Trên một chuyến máy bay đưa các Giám Mục người Mỹ trở về từ Ý sau khi đã dự Công Đồng Vatican 2, có một nữ tiếp viên hàng không rất xinh đẹp, tận tình và nhã nhặn phục vụ hành khách. Thế nhưng, trong suốt hành trình, cô tiếp viên hàng không trẻ đẹp này rất bực bội và rất mất tự nhiên vì có một người đàn ông, xem ra thiếu đứng đắn, cứ liên tục đảo đôi mắt chăm chú nhìn mình. Càng đáng bất bình hơn, khi đó là một người đàn ông đã lớn tuổi. Cô lại càng khó chịu hơn, vì ngay sau đó cô được biết, người đàn ông ấy chính là đức cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục thành New York, một con người nổi tiếng về khoa ăn nói, giảng dạy và đạo đức. Ngài là một Giám Mục tông đồ lừng danh nước Mỹ. Thật là quái gỡ không thể tưởng tượng! Một kẻ xem ra thiếu tư cách ấy, lại là con người của thành công, của sự nổi tiếng sao? Cô không hiểu nổi và thầm chê trách coi khinh vị Giám Mục già kia.

Đến lúc chiếc phi cơ hạ cánh, kỳ quái thật, vị Giám Mục già bị coi là “thiếu đứng đắn” kia lại không xuống cùng lúc với các hành khách. Không hiểu ngài có toan tính gì mà lại đợi mọi người trên máy bay xuống hết, chỉ còn mỗi mình ngài là vị khách xuống sau cùng. Đã vậy, khi đến cầu thang máy bay, Đức Cha Fulton Sheen còn ghé sát mặt mình vào tai cô tiếp viên hàng không nói thầm thì những lời gì đó, ngoài cô gái, chẳng ai có thể nghe thấy…

Câu chuyện đến đó, tưởng chừng kết thúc. Những tưởng sự khó chịu của cô gái tiếp viên hàng không rồi cũng trôi qua, cái nhìn tưởng như khiếm nhã của vị Giám Mục già rồi cũng chẳng còn ai nhớ, có chăng một ánh mắt dù khiếm nhã (theo như ý nghĩ của cô gái), thì cũng chỉ là một ánh mắt thoáng qua như bao nhiêu ánh mắt mà cô gái bắt gặp trong đời mình?

Không phải thế. Mọi sự không trôi đi, không mất. Bởi vào một buổi trưa, Đức Cha Futon Sheen nghe tiếng gõ cửa, và sau đó là sự bất ngờ của Đức Cha khi ngài mở cửa. Trước mặt ngài là cô gái tiếp viên hàng không trẻ tuổi có sắc đẹp mặn mà trên chuyến bay hôm nào, đã từng có ánh mắt thiếu thiện cảm với ngài.

Cô gái lên tiếng chào Đức Cha và hỏi: “Thưa Đức Cha, Đức Cha có nhớ con không?” Đức Cha Fulton Sheen từ tốn trả lời: “Cha nhớ chứ. Con chính là cô gái tiếp viên hàng không trên chiếc máy bay đưa chúng tôi trở về từ Công Đồng Vatican II”. Cô gái nói tiếp: “Vậy Đức Cha có nhớ Đức Cha đã nói nhỏ vào tai con điều gì không?” Đức Cha trả lời: “Nhớ! Cha nhớ, Cha đã khen con đẹp lắm. Và cha hỏi con rằng, có bao giờ con đã cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho con sắc đẹp tuyệt vời kia chưa?” Cô gái sung sướng nói tiếp: “Kính thưa Đức Cha, điều Đức Cha nói đã làm con băn khoăn nhiều. Cũng chính vì điều đó mà hôm nay con đến gặp Đức Cha. Vậy, theo ý Đức Cha, con phải làm gì để tạ ơn Chúa?” Hơi bất ngờ, Đức Cha Fulton Sheen lặng người suy nghĩ một chút. Sau đó Đức Cha dẫn cô gái tới trước tấm bảng đồ thế giới treo trên tường, vẫn giọng nói ôn tồn, Đức Cha hỏi: “Có bao giờ con nghe nói tới một trại phong cùi nào ở Việt Nam mang tên là trại phong Di Linh chưa?” Cô gái ngước đôi mắt xanh như dọ hỏi: “Kính thưa Đức Cha, có lần con đã đọc được trên báo. Con cũng đã được nghe ai đó kể một vài chuyện về trại cùi Di Linh.”

Đức Cha dõi mắt nhìn vào khoảng xa xăm trước mặt: “Này con, cách đây chưa lâu, cha nghe nói Đức Giám mục giáo phận Sài Gòn tên là Gioan Cassen đã từ chức Giám Mục Sài Gòn để đến phục vụ anh chị em trại phong Di Linh. Con có muốn cảm tạ Chúa bằng cách thử một lần đến trại phong Di Linh, gặp Đức Giám Mục Sài Gòn và ở lại với anh chị em bệnh phong khoảng sáu tháng không?” Quá bất ngờ trước lời đề nghị của Đức Giám Mục thành New York, cô gái không thốt lên một lời, lặng lẽ cúi chào Đức Cha rồi rút lui trong sự bàng hoàng của chính nội tâm của cô…

Một lần nữa, người ta cứ tưởng rằng câu chuyện thật nhẹ nhàng, nhưng cũng thật mãnh liệt của Đức Cha Fulton Sheen và cô tiếp viên hàng không kia đã chấm dứt. Nhưng thật lạ lùng, chỉ bằng ấy lời đề nghị nhẹ nhàng, nhưng dứt khoát của Đức Cha, đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của cô tiếp viên hàng không xinh đẹp.

Những tháng đầu năm 1966, người ta đọc thấy một bảng tin đáng khâm phục trên các phương tiện truyền thông của Sài Gòn và của Việt Nam nói chung: Một nữ tiếp viên hàng không rất trẻ, rất đẹp của một hãng hàng không Hoa Kỳ đã xin nghỉ nghề làm tiếp viên hàng không để đến trại phong Di Linh của Việt Nam, tình nguyện chăm sóc các bệnh nhân phong.

Thật đẹp, đẹp làm sao. Chỉ chừng ấy lời của một vị Giám Mục khả kính thôi, tâm hồn quả cảm của một cô gái lãng du thích phiêu bồng khi chọn cho mình nghề tiếp viên, rày đây mai đó, đã có thể chấp nhận trút bỏ tất cả tương lai đẹp như chính cái vẻ đẹp của cô để sống, không phải sáu tháng, nhưng là suốt đời cho một lý tưởng cũng đẹp không kém: TẠ ƠN THIÊN CHÚA.

Chỉ chừng ấy thôi, lời của một vị Giám Mục khả kính đã biến một cô chiêu đãi viên hàng không xinh đẹp thành một nữ tu. Bởi chính cô, sau một thời gian phục vụ anh chị em phong, đã tự nguyện khoác lấy chiếc áo nữ tu trong Hội Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn Việt Nam. Từ nay, bước vào đời sống tu trì, Người Nữ Tu, cô gái xinh đẹp của chúng ta, hoàn toàn trút bỏ mọi vướng bận của đời thường để yên tâm sống lý trưởng cảm tạ Chúa bằng việc phục vụ anh chị em phong của mình. Người nữ tu đã từng làm tiếp viên hàng không ấy, đẹp quá. Chị đẹp, không chỉ là một sắc đẹp thân xác, mà chính là một vẻ đẹp lộng lẫy của tâm hồn. Người Nữ Tu ấy, không ai khác hơn, nhưng đó chính là Chị Louise Bannet.

Chị Louise Bannet đã tình nguyện ở lại trại phong Di Linh suốt đời. Nhưng biến cố của năm 1975 gây ra nhiều biến động, khiến Chị không thể tiếp tục ý nguyện của mình. Sau mười năm phục vụ người phong, Chị đã phải lên đường về nước. Một thời gian sau, Chị lại xin Nhà Dòng cho đi phục vụ bệnh nhân phong ở Tahiti. Năm 1982, sau nhiều ngày bị căn bệnh ung thư quái ác hoành hành, Chị Louise Bannet đã qua đời giữa sự tiếc thương vô cùng của cộng đoàn anh chị em phong tại Tahiti. Và trong tình liên đới, cũng như trong lòng biết ơn của mình, cũng là chính lòng tiếc thương của các bệnh nhân phong Việt Nam nói chung và tất cả những ai sống tại trại phong Di Linh nói riêng.

Người Vợ Mù

Người Vợ Mù

Sưu tầm 

Trong một chương trình radio mang tên “Nẻo về của trái tim”, một cô gái mù đã gửi cho những người làm chương trình câu chuyện của mình. 
Mong muốn của cô là được chia sẻ niềm hạnh phúc mà mình đang có và gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới một người.

***

Tôi là một kiến trúc sư vui vẻ, hoạt bát. Cách đây một năm, tôi là người vợ hạnh phúc nhất.
Khi thức dậy cùng người mình yêu vào mỗi sáng, chúng tôi thường cùng nhau thưởng thức một tách trà trong không gian yên tĩnh đầu ngày.
Chúng tôi xây dựng cho mình một thói quen: sẽ luôn cố gắng chia sẻ với nhau những suy tư và cảm nhận chân thật nhất của mỗi người để gìn giữ hạnh phúc.

Cuộc sống của chúng tôi êm đềm trôi qua cho tới một ngày. Trên đường từ bến xe buýt vào tới công ty, tôi thấy mọi thứ như nhòa đi trước mắt, chỉ còn lại những tiếng còi xe inh ỏi. Rồi tôi lập tức được đưa vào bệnh viện. Ngày hôm đó, tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng cảm giác khi nghe câu kết luận của bác sĩ: 

“Đây là một căn bệnh thoái hóa nên chúng tôi cũng không thể giúp được gì”. 

Bác sĩ còn giải thích rất nhiều điều nữa, nhưng trong đầu tôi chỉ còn đọng lại duy nhất câu nói: “Cô sẽ sớm bị mù”.

Tôi không biết các bạn sẽ cảm thấy ra sao khi đối diện với sự thật này. Còn tôi, tôi đã đầu hàng một cách hèn nhát. Tôi khóc, tôi cáu bẳn thậm chí nhiều lần gắt gỏng, đặc biệt khi chỉ có tôi và anh, trong căn nhà hạnh phúc của chúng tôi.
Tôi đã rất sợ, sợ bị rơi vào bóng tối, sợ phải làm một người mù và sợ nhất rằng tình yêu của anh dành cho tôi cũng sẽ không còn.
Tôi không còn dùng trà vào mỗi buổi sáng với chồng nữa. Bởi tôi muốn tất cả phải chịu trách nhiệm về căn bệnh của mình, đặc biệt là chồng tôi.
Trước sự thay đổi chóng mặt của vợ, chồng tôi không nói gì, anh chỉ lẳng lặng quan sát và chịu đựng những cơn nóng giận vô cớ. Hơn thế anh giúp tôi làm mọi công việc nhà bất chấp sự phản đổi đầy ngang bướng của tôi. 

Thời gian đó, ông chủ vẫn sắp xếp cho tôi một công việc nhỏ trong văn phòng. Nhờ đó, tôi có thể được ra ngoài vào mỗi sáng. Được đi làm đã trở thành niềm hạnh phúc nhất của tôi khi ấy. Công việc cho tôi cảm giác tôi không phải là người thừa, tôi được chứng minh sự mạnh mẽ của mình và thỏa mãn cái tôi đang bị tổn thương ghê gớm.
Tôi quyết định vẫn đi xe buýt tới công ty như tôi luôn làm trước đây. Tôi biết mình đã rất quen với con đường và tôi cũng đã dần thành thục việc sử dụng cây gậy cho người mù.  
Chồng tôi đề nghị, hãy để anh đưa tôi đi làm mỗi sáng và trở về đón tôi mỗi buổi chiều.
Nhưng tôi từ chối, tôi không muốn anh phải vất vả như vậy, bởi nơi chúng tôi làm việc cách nhau rất xa.
Chồng tôi không phản đối, anh chỉ nói: “Hãy cẩn thận khi qua đường nhé, ngã ba đó khiến anh lo lắng hơn cả”.
Tôi giữ im lặng trước lời dặn dò của anh.
Mọi chuyện sau đó diễn ra suôn sẻ ngoài mong đợi của tôi. Có lẽ sư lo lắng của tôi và chồng đều là thái quá. Khi dừng đèn đỏ ở ngã ba đầu tiên, tôi nhớ lại lời của chồng và bắt đầu cảm thấy sợ. Ngay lúc ấy có một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên:

“Cô ơi, cô có thể dẫn cháu qua đường không?” 

Tôi quá đỗi ngạc nhiên với câu hỏi của cậu bé, hình như cậu bé không biết tôi bị mù.
 

“Cháu à, cô xin lỗi, nhưng cô sẽ không bảo đảm an toàn được cho cháu vì cô không nhìn thấy…” Tôi chưa kịp nói hết câu thì cậu bé chen vào.

“Cháu biết cô bị mù, cháu xin lỗi ý cháu là cô không nhìn thấy, nhưng không sao. Cô là người cao lớn, những người lái xe sẽ nhìn thấy cô, họ sẽ tránh chúng ta. Còn cháu sẽ dắt cô qua đường, cháu sẽ làm đôi mắt cho cô ở ngã ba này nhé.”

Trước lời nói ngây thơ của cậu bé, tôi thấy mũi mình cay cay. Chuyển gậy dò đường sang tay phải, tôi chìa bàn tay còn lại để nắm lấy bàn tay nhỏ bé đó. Cậu bé nắm tay tôi thật chặt. Cái siết tay của cậu khiến tôi có thêm rất nhiều tự tin. 

Hóa ra tôi vẫn còn có ích, vẫn có thể giúp đỡ một ai đó chứ không hoàn toàn là “đồ vô dụng” như tôi luôn nghĩ về mình sau khi không còn nhìn thấy. Bên trong tôi bất giác thấy lại được niềm vui.

Cậu bé quả là một người dẫn đường tài tình, chúng tôi đã qua đường an toàn và dường như không làm một người lái xe nào nổi giận. Khi chia tay ở ngã ba, cậu bé nói:

“Cháu hy vọng mai cô sẽ lại ở đây nữa, vì sáng nào cháu cũng phải đi qua ngã ba này để đến trường. Cảm ơn cô nhiều nhé. Giờ cháu đi học đây.”

Cậu bé chào tôi và chạy đi nhanh như một cơn gió. Trước khi đi, cậu bé quay lại, nói thật to: 

“Hẹn cô ngày mai nhé, cháu sẽ chờ cô đấy”.
Cậu bé khiến nụ cười trở về trên môi tôi, đôi má tôi cũng ửng hồng. 

Một cảm giác ấm áp khiến những căng thẳng bao ngày qua tan mất. Có lẽ ai đó nhìn thấy tôi lúc ấy sẽ phải thắc mắc: Cô gái mù ấy sao lại cười rạng rỡ thế?

Không để tôi thất vọng, ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa, cậu bé vẫn xuất hiện và chúng tôi đã trở thành đôi bạn “chinh phục ngã ba” từ đó.
Đôi lúc chúng tôi còn nán lại nói chuyện với nhau. Tôi đã biết cậu bé thiên thần ấy (chí ít là với tôi) tên là Jimmy. Jimmy nhỏ người, mặt nhiều tàn nhang, tóc màu hung và có một cái mũi hơi kì lạ. Đó là dáng vẻ mà cậu bé tả về mình cho tôi nghe.

Nhờ Jimmy bé nhỏ, tôi dần lấy lại niềm vui trong cuộc sống của mình. Tôi cũng đã có thể đối đãi dịu dàng trở lại với chồng, không còn nặng nề với anh nữa. Nhưng cảm giác muốn mở lòng để chia sẻ với chồng vẫn chưa trở về.

Niềm vui của tôi chỉ kéo dài được một tháng.
Sáng hôm đó, khi ở ngã ba tôi không thấy Jimmy, cậu bé đến muộn chăng? Tôi chợt hiểu ra rằng hình như những đứa trẻ đã kết thúc năm học và Jimmy sẽ không đến trường ngày hôm nay.
Tôi chưa biết làm thế nào để qua đường khi không có người hoa tiêu nhỏ bé, tiếng lanh lảnh quen thuộc vang lên: “Cô James chờ cháu.”

“Cháu đấy à, cô mừng quá, cô cứ nghĩ là cháu sẽ không đến”.

“Cháu không thể để cô một mình qua đường được. Đó là lời hứa danh dự. Nhưng cháu sắp theo bố mẹ về quê với ông bà rồi. Cô biết mà, trường học đã nghỉ hè và hôm nay là ngày cuối cùng cháu ở đây”.

Tôi cảm thấy lo lắng và hơi buồn, nhưng cố trấn tĩnh. Tôi hỏi Jimmy về “lời hứa danh dự” của cậu bé, điều khiến tôi cảm thấy rất tò mò.

“Cháu đã hứa với một người. Nhưng chú ấy không cho cháu nói điều này với cô.”
 
Chúng tôi cùng nhau băng qua đường trong im lặng. Nhưng khi tới nơi, cậu bé níu tay tôi lại, hỏi rằng tôi có thể đi với cậu bé một chút không? Tôi đồng ý và chúng tôi thả bộ cùng nhau trong một công viên gần đó. Hóa ra cậu bé muốn kể cho tôi nghe về lời hứa danh dự của mình.
Ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau, đã có một người đàn ông nhờ cậu bé dắt một phụ nữ xinh đẹp nhưng bị mù qua đường.
 
Người đàn ông ấy giải thích với cậu bé rằng, đó là vợ chú. Cô ấy vừa bị mất đi đôi mắt và chú không thể yên tâm để cô ấy một mình đi qua con phố đông đúc này. Nhưng chú cũng không thể tự tay dắt cô sang đường, vì cô đang đóng cửa tâm hồn mình với chú.

Nước mắt tôi bắt đầu rơi. Cậu bé tiếp tục kể.
Cậu bé đã đồng ý giúp người đàn ông lạ mặt đó.
“Không chỉ một lần, cháu không biết tại sao nhưng khi nghe chú ấy kể về cô, cháu nhớ đến cách bố cháu nói về mẹ, đầy yêu thương. Vì thế, cháu đã hỏi chú ấy có cần cháu giúp những ngày tiếp theo không. Đôi mắt của chú ấy lúc đấy rạng rỡ như mắt cháu lúc được đi chơi hay ăn kem vậy”.

“Đó là lý do vì sao sáng nào cháu cũng ở đây chờ cô?”
 
“Vâng, nhưng không chỉ chờ cô, cháu chờ cả chú ấy nữa. Chú ấy ngày nào cũng đi qua đường với chúng ta mà.
 
Chú chỉ lặng lẽ đi cạnh cô, cách cô một đoạn để cô không cảm thấy sự có mặt của chú ấy.
 
Chỉ khi cô cháu mình sang đường an toàn chú ấy mới đi làm”. “Thật vậy sao?”.
 
Tôi không còn biết nói gì hơn. “Cháu không định nói chuyện này cho cô nghe. Nhưng ngày mai cháu đi rồi. Cháu sợ cô sẽ thấy hoang mang vì không có cháu.
Thêm nữa cháu sợ cô vẫn giận chú”. “Vậy hôm nay chú ấy có đi cùng chúng ta không, Jimmy?” 
Chồng tôi đã đứng đó từ bao giờ. Anh đã lắng nghe câu chuyện của cô cháu tôi. Tôi không biết khuôn mặt anh lúc ấy như thế nào.. Chỉ biết có một bàn tay to lớn, ấm áp và rất quen thuộc nắm lấy bàn tay tôi, nhẹ nhàng dắt tôi đi hết quãng đường từ công viên tới văn phòng.

Sau ngày hôm ấy, tôi đồng ý để chồng chở đi làm, và buổi chiều tôi đi xe buýt về, anh đã nhờ được một người bạn trong công ty đưa tôi ra bến xe. Tôi còn được biết, công việc mà ông chủ sắp xếp cho tôi chính là nhờ anh đã tới gặp và thuyết phục ông.

Đó là câu chuyện tình yêu mà tôi muốn chia sẻ với các bạn.
 
Những ngày tháng vừa qua đã khiến tôi nhận ra rằng: Trong cuộc sống nhiều đau khổ này, tình yêu thực sự hiện hữu, và nó mang một sức mạnh chữa lành thật to lớn. Khi nghĩ về sự nhẫn nại của anh suốt thời gian cùng tôi và Jimmy sang đường, khi cảm nhận được rằng trái tim chan chứa thiện niệm của anh luôn nghĩ cho cảm giác của tôi, nghĩ đến việc làm thế nào để tôi an toàn và hạnh phúc nhất, tôi mới hiểu ra thế nào là thực sự yêu một ai đó..
 
Chia sẻ câu chuyện này cũng là cách tôi muốn anh biết:
 
Từ tận đáy lòng, tôi biết ơn tình thương và những điều anh đã dành cho tôi.
 
Và hơn thế, anh và Jimmy bé nhỏ đã cho tôi hiểu và học được rằng yêu thương một người là dành cho người đó sự bao dung, nhẫn nại và những điều thiện lành nhất mỗi ngày.
 
  
Sưu tầm 

Lương tâm một người đáng giá bao nhiêu?

 

Lương tâm một người đáng giá bao nhiêu?

Lương tâm một người liệu có thể đo được bằng tiền?

Hà Tam là lái xe chở hàng hóa. Hôm nay, xe đang bon bon chạy trên đường bỗng nhiên “khực” một cái rồi dừng lại. “Xe hỏng rồi!”. Anh xuống xe, đến bên vệ đường vác hai hòn đá to chặn bánh sau lại, rồi chui vào gầm sửa xe. Khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ thì xong. Anh lên xe nổ máy chuẩn bị đi tiếp.

Đúng lúc đó có một ông lão chăn bò bên cạnh đường chạy đến đập đập tay vào cửa xe, nói rất to: “Này anh lái xe, anh đánh rơi đồ kìa!”. Ông lão vừa nói vừa chỉ chỉ về phía sau xe. Hà Tam đoán ông lão nhắc đến hai hòn đá chặn bánh sau xe mà mình vác ra lúc nãy. Anh toét miệng cười, nói do vội đi nên quên mất. Nói vậy song anh vẫn cố ý nhấn ga cho xe chạy.

Ông lão vừa đuổi theo vừa quát to: “Anh làm người như thế à? Làm người phải có lương tâm chứ? Anh bỏ hai hòn đá to ở trên đường để cho người ta…”

Những lời trách cứ của ông lão chăn bò bị bỏ lại cùng đám bụi phía sau xe. Hà Tam cười thầm trong bụng: “Lương tâm giá bao nhiêu tiền một cân?”

Chạy hơn trăm cây số vào thành phố, đến trạm kiểm tra của cảnh sát, Hà Tam hết sờ túi này lại nắn túi nọ, tìm mãi không thấy giấy phép lái xe đâu. Anh thừ người ra: “Giấy phép lái xe rõ ràng là để trong chiếc ví da lúc nào cũng mang trong người, vậy sao lại tìm không thấy?”. Cẩn thận nhớ lại, anh mới chắc là chiếc ví da đã bị rơi khi mình chui vào gầm xe sửa chữa. Đành phải để xe lại trạm cảnh sát, Hà Tam vội vã vẫy taxi quay lại chỗ sửa xe ban nãy.

Khi quay lại, Hà Tam tìm khắp nơi không thấy cái ví cũng không thấy ông lão chăn bò đâu. Hai hòn đá chặn bánh xe đã được ai đó khuân vào để bên vệ đường. Trên hòn đá thấy dán mảnh giấy có mấy chữ xiêu xiêu vẹo vẹo: “Muốn lấy lại giấy tờ thì phải vác hòn đá này lên trên đồi”.

Ôi trời ơi! Hòn đá vừa to vừa nặng, ngọn đồi trước mặt lại vừa cao vừa dốc, vác hòn đá này liệu có bò lên được trên đó không? Hà Tam kêu to lên: “Đừng bắt ép người ta như thế! Cần bao nhiêu tiền cứ ra giá đi!”.

Khi Hà Tam vác hòn đá đến chân đồi thì thấy một cái mũ lá có kẹp một tờ giấy viết mấy chữ: “Đừng nói đến tiền, xin mời lên đồi”. Hà Tam tiếp tục đi, được một đoạn lại thấy cái mũ lá cũng có tờ giấy yêu cầu Hà Tam cứ vác đá lên đồi, các chuyện khác miễn bàn. Không còn cách nào khác, Hà Tam đành phải bê hòn đá vất vả từng bước bò lên.

Lên được đỉnh đồi thật không dễ gì. Vậy mà trên đó không thấy có người cũng không thấy giấy tờ lái xe, chỉ thấy có tờ giấy dán trên một thân cây yêu cầu Hà Tam vác hòn đá theo hướng chỉ dẫn đi xuống phía dưới.

Xuống được dưới chân đồi vẫn không thấy giấy tờ, ngoài một tờ giấy yêu cầu Hà Tam vác hòn đá đi ngược trở lên. Cứ như thế theo hướng chỉ dẫn trên các tờ giấy, Hà Tam vác hòn đá đi qua mấy quả đồi nhỏ, mệt tưởng chết, cuối cùng mới thấy cái ví da của mình đặt trên một nấm mồ đất trơ trọi.

Giấy tờ đủ cả, tiền bạc không thiếu một xu.

Dưới cái ví tiền còn có một tờ giấy viết:

“Cái ví này là do tôi nhặt được, bây giờ nó đã trở về với chủ của nó. Anh có biết vì sao tôi lại bắt anh vác hòn đá đi một quãng đường xa đến trước nấm mồ này không? Đây là mộ của con trai tôi. Vào một đêm 2 năm trước, nó đi xe máy về nhà, vấp phải hòn đá to của một kẻ nào đó không có lương tâm bỏ ở trên đường, bị ngã mà chết. Tôi đưa anh đến tận mồ của con trai tôi là mong anh hiểu rõ một đạo lý:

“Lương tâm là vô giá, làm người có thể để mất cái gì thì mất nhưng nhất thiết không được để mất lương tâm”.

(Sưu tầm)

Image may contain: flower and nature

Củ khoai Yên Bái

Củ khoai Yên Bái

 

 

 

 

 

 

Bác sĩ Nguyễn Đình Phùng – Bác Sĩ Phạm Hữu Phước.

  
Phước nhìn tôi mỉm cười:

“Mày đói lắm hay sao mà hối vợ mày làm cơm dữ vậy?”

Tôi vừa ra phi trường đón Phước về.

Chúng tôi không gặp nhau đã hơn ba mươi mấy năm. Tôi chỉ nghe nói Phước vượt biên nhiều lần nhưng không thoát, bị giam cầm nhiều năm. Cứ mỗi lần được thả ra, Phước lại tìm đường trốn, đến lần thứ bảy hay thứ tám gì đó, Phước mới sang được Úc, định cư tại đây và được hành nghề bác sĩ trở lại, tại Melbourne .

Tôi không tưởng tượng được có ngày nghe lại giọng nói của Phước qua đầu dây điện thoại, hẹn sẽ sang chơi và đến thăm nhà.

Tiếng cuời vẫn vui, tiếng nói vẫn sang sảng, như ngày nào chúng tôi cùng ở chung nhà, học thi để lên lớp cuối năm, đã ba mươi mấy năm trước.

Phước nhấp ngụm nước:

“Trong khi đợi vợ mày làm cơm, để tao kể cho mày nghe chuyện tao ở tù sau ngày Phước Long thất thủ.”

Ừ! Nghe mày kêu đói, tao sẽ tả cho mày biết cái đói thực sự nó ra thế nào . . .”

Phước có tài kể chuyện, tôi nhớ đến những ngày xưa cũ, khi ở chung, Phước thường kể chuyện rất có duyên. Những câu chuyện được xếp đặt thứ tự, mạch lạc đầu đuôi, có mở đầu, dẫn nhập, rồi vào chuyện, chi tiết lớp lang như theo một dàn bài. Tôi nhìn Phước, hít một hơi dài, mắt lim dim như muốn tìm đầy đủ những kỷ niệm, những cảm xúc của năm xưa. Phước như người cẩn thận, ngăn nắp tao từng biết, không muốn mất đi một ký ức nào đã ghim sâu vào tâm khảm, như người hằng ba mươi mấy năm nay đã chờ đợi để ngày hôm nay gặp lại, kể cho tôi nghe những câu chuyện của đời mình đã trải qua.

Phước cất tiếng:

“Mày biết không? Cuộc đời có những ngã rẽ không thể ngờ được. Ai cũng có định mệnh của mình. Không thể nào tránh khỏi được.

Nhiều đêm sau này trong tù tao vẫn nghĩ đến điều đó. Là nếu tao không nhất định giữ đúng ngày phép hạn định của mình, ở lại Sài Gòn, không trở lại Phước Long, tao đâu có bị những hoạn nạn kinh khủng đến như vậy!

Mày còn nhớ hồi ra trường, mày đi Tây Ninh còn tao đi bệnh viện Phước Long. Tao được đi phép một tuần về Sài Gòn trước ngày Việt Cộng đánh Phước Long. Vợ tao khóc quá mức khi thấy tao nhất định giữ đúng ngày phép, ra trình diện lại ở Cục Quân Y. Bố vợ tao cũng ngăn, nói tình hình nguy kịch quá rồi, ở nhà luôn đi, đừng lên Phước Long nữa.”

Phước thở dài:

“Mày biết, tính mình hồi đó còn tuổi trẻ, bồng bột, đâu biết tính toán gì. Tao không thích làm điều gì sai quấy, hạn phép nghỉ chỉ một tuần, hết hạn là mình ra trình diện, không muốn trốn ở lại.

Tao đến Cục Quân Y lúc đó là buổi chiều. Chiếc trực thăng đậu trong bãi đáp đang sửa soạn để cất cánh bay chuyến chót, bổ sung người cho bệnh viện tiểu khu Phước Long. Toán sĩ quan trợ y, Y tá đã ngồi đầy không còn một chỗ trống trên đó. Trung tá Y sĩ Liễn đích thân đưa tao ra và hạ lệnh cho trực thăng khoan cất cánh. Ông chỉ tay vào người sĩ quan trợ y ngồi sát bìa:

“Em đi xuống để chỗ cho bác sĩ Phước lên.”

Người thiếu úy trợ y khuôn mặt trẻ măng chắc mới ra trường vội vàng đi xuống, không dấu được vẻ mừng rỡ.

Tao sửa soạn để trèo lên trực thăng và ánh mắt chúng tao chạm nhau. Tao nhìn được sự sung sướng của người trợ y, như một kẻ sắp bước chân vào địa ngục được trở lại trần thế. Ai cũng biết Phước Long sắp mất trong nay mai mà bị gọi để đi lên Phước Long được coi như lãnh án tử hình. Vận mệnh của chúng tao đã trao đổi cho nhau trong giây phút đó, trong luồng ánh mắt gặp nhau buổi chiều hôm đó!

Tao không hiểu người thiếu úy trợ y được thoát chuyến bay cuối cùng đi lên bệnh viện tiểu khu sau này ra sao? Anh có thoát được những hiểm nghèo khác không trong những ngày sau chót của cuộc chiến? Hay anh đã chết trong một trận đánh nào khác? Hay anh đã bình yên và an lành sống một cuộc đời hiền hòa ở Hoa Kỳ, ở Úc hay một chỗ nào đó trên khắp quả địa cầu? Nhưng tao biết, tao đã lấy chỗ của anh để bước chân vào địa ngục. Vì vận mệnh của tao đã sắp đặt để sự việc xảy ra như thế, để tao phải bị đọa đầy trong mấy năm trời đằng đẵng, dài như cả một đời người!”

Phước ngồi thừ một lúc, không nói gì . . . Một lúc sau Phước bật cười kể tiếp:

“Ừ! Mày biết không? Tao lâu lâu vẫn nghĩ có ngày nào mình đi đâu đó, rồi gặp lại anh chàng trợ y minh đã hoán đổi định mệnh ba mươi mấy năm trước. Mình muốn biết anh chàng sau này ra sao? Cuộc đời hắn thế nào? Cũng hay đấy chứ nhỉ!”

Phước lắc lắc đầu mấy cái, như muốn đánh đuổi ý nghĩ đó ra khỏi đầu:

“Để tao kể tiếp cho mày nghe. Mày còn nhớ Trần Kim Phẫn không? Nó ra trường về cùng bệnh viện tiểu khu với tao. Chắc mày không biết điều này vì nó dấu kín với tất cả mọi người. Chỉ tao ở với nó trên Phước Long mới được biết. Mày không thể ngờ được là nhà nó nghèo đến thế nào. Ba nó đạp xích lô nuôi nó ăn học. Phẫn vào được trường y khoa, nó học rất giỏi vì chỉ ở trong nhà thương không bao giờ về nhà. Lý do là nhà nó kinh khủng quá, ở trong nhà thương ăn ở đầy đủ, lại có cơ hội thực hành nhiều, nên nó không về nhà nữa. Tao đã nghĩ chỉ mình mới gặp nhiều hoạn nạn, nhưng Phẫn, định mệnh của nó còn thê thảm hơn nhiều. Mày còn nhớ tuy nó là người bạn tốt, nhưng lại có biệt danh kỳ quái là Phano vì lúc nào cũng dễ phẫn nộ. Nhưng trong sự giận dữ của Phẫn tao thấy một niềm đau đớn nào đó. Có lẽ Phẫn đã linh cảm được cái chết sắp đến của mình.

Chiều hôm đó, chiếc trực thăng vừa đáp xuống bệnh viện tiểu khu, tao đã thấy Phẫn vội chạy ra. Thấy tao bước xuống, Phẫn nhào lại nắm lấy vai tao lắc mạnh:

“Trời ơi! Mày sao ngu quá vậy Phước! Tao đã mừng tưởng mày được đi phép là thoát rồi. Sao không ở lại luôn lên làm gì?”

Phẫn la hét chửi tao, cơn tức giận không dấu được như bừng bừng bốc lửa. Phẫn đánh mạnh vào tay tao làm tao đau điếng. Phẫn như người cuồng điên, sự phẫn nộ tràn ra ào ạt. Nhưng trong ánh mắt giận dữ của Phẫn, tao thấy được những lo âu, sợ hãi . . . Những xúc cảm mãnh liệt của Phẫn không dấu được sự kinh hoàng của người biết trước được định mệnh của mình, nhưng hầu như còn được chút an ủi là người bạn thân đồng khóa đã may mắn được về phép trước khi Việt Cộng tấn công Phước Long, tưởng là thoát khỏi hiểm nghèo, nay thấy tao đột nhiên xuất hiện trên chuyến trực thăng chót đưa người lên bệnh viện tiểu khu, đưa đầu vào chỗ chết, bảo sao Phẫn không nổi điên lên được!”

Phước không nói nữa. Một lúc sau, Phước nghẹn ngào, nói ngắn gọn:

“Đêm đó, Việt Cộng tấn công, Phẫn chết ngay trong đợt pháo kích đầu tiên!”

Phước nhìn tôi, lắc đầu:

“Tao định kể cho mày câu chuyện về đói cơ mà! Vợ mày chắc làm cơm sắp xong. Những chuyện khác trong trận đánh Phước Long, tao sẽ lần lượt kể sau cho mày nghe, nhưng trong đêm Phẫn chết đó, tao cũng bị thương nặng ở đùi và trở thành tù binh, cùng với bao nhiêu người lính khác bị Việt Cộng bắt sau trận đánh.

Chúng tao bị giam, bị bỏ đói, tao không biết bao nhiêu ngày nữa. Vết thương đùi của tao làm độc, tao không còn hơi sức, nằm một chỗ, nhức nhối đau đớn đến cùng cực. Đàn ruồi bay vo ve theo tao hàng mấy ngày rồi vì mùi thịt thối xông lên nồng nặc. Những người tù binh khác đều dạt ra xa vì không muốn phải ngửi mùi kinh khủng này. Chính tao lúc nào cũng buồn nôn muốn ói vì cái mùi ghê tởm ngày đêm bao phủ lấy mình. Tao không đi được, phải dùng hai cùi chỏ để lết. Nhưng sau cùng lết cũng không được vì mấy ngày không ăn đã kiệt lực không còn hơi sức. Tao chỉ còn cách nằm yên, nhắm mắt lại, cố gắng để quên cái đau và cơn đói đang hành hạ.

Bỗng dưng một mùi thơm lạ lùng thoảng vào mũi tao. Chừng như mùi hôi thối từ vết thương đùi cũng không đánh át được mùi thơm này. Tao mở mắt ra và thấy một anh lính địa phương quân tù binh đang được người mẹ cho ăn cháo. Bà mẹ nấu ít cháo đem đến cho con ăn. Tao không hiểu sao bà được Việt Cộng cho phép vào và đến thăm đứa con. Nhưng tao không muốn tìm hiểu gì thêm. Vì cơn đói như được mùi cháo thơm làm bùng dậy mạnh mẽ. Cái đói cồn cào, thôi thúc, còn hơn cả cơn đau vết thương đang hành hạ. Tao không thể nhịn được và như trong cơn mơ, tao thấy tao lết lại dần chỗ có mùi thơm kỳ diệu kia. Mắt tao không thể rời ra khỏi tô cháo anh lính đang đưa vào miệng húp.

Cơn đói càng lúc càng tăng lên làm tao run bần bật. Mắt tao hoa lên, mồ hôi ra ướt đẫm trán nhưng tao cố gắng để chặn mình không mở miệng ra xin ăn cháo. Cả đời tao chưa bao giờ bị đói. Và tao chưa hề một lần mở miệng xin xỏ ai, dù là bất cứ điều gì. Tao nghĩ đến bố mẹ tao, đến tổ tiên dòng họ, ngay thẳng chân chính, không hề quỵ luỵ ai, lúc nào cũng giữ lưng cho thẳng, có bao giờ mở miệng van xin dù có chết đi chăng nữa. Và tao đang nằm đây, mắt không chớp nhìn vào tô cháo, đánh nhau với chính mình, cố gắng bậm môi đến gần bật máu để không mở miệng xin ăn cháo.

Nhưng cái đói không để yên, sự hành hạ đã quá mức, tao không thể chịu nổi nữa. Tao nghe tiếng mình nói, thều thào:

“Cho… xin… chút… cháo!”

Anh lính Địa phương quân tù binh không quay đầu lại, tiếp tục húp cháo, nhưng bà mẹ quay sang tao, giọng thật hung dữ:

“Cháo này tao cho con tao ăn còn hổng đủ, dư đâu cho mày!”

Bà bĩu môi, hất tay như muốn xua tao đi chỗ khác.

Tao thấy quay cuồng, cơn đói, cơn đau vết thương và nỗi nhục nhã uất ức như cùng nhau hợp vào, ùa đến như làn sóng thần phủ chụp. Nước mắt tao chảy ra dàn dụa.

Anh lính lúc đó mới quay đầu lại, chừng như bất nhẫn, nhìn bà mẹ một hồi rồi ngập ngừng đưa tao tô cháo đang húp dở.

Tao giơ tay cầm tô cháo. Mùi thơm ùa vào mũi và như một phản xạ không kiềm chế được, tao há miệng cho dòng cháo chảy vào.

Nhưng nước mắt tao càng lúc càng chảy ra nhiều hơn.

Cái đau tinh thần đã thay thế cho tất cả những nỗi đau thân thể và cơn đói hành hạ.

Tao thấy tao: Một Bác sĩ vừa ra trường, cả đời chỉ lo học hành, đi tìm cái hay, cái đẹp của cuộc đời, muốn giúp người, cứu người . . . Và chỉ trong mấy tháng vừa qua sau khi ra trường làm việc tại Bệnh viện Tiểu khu này, tao đã cứu được nhiều thương bệnh binh và cũng được nhiều người kính phục. Tại sao tao lại ở đây, khổ sở, đau đớn, điên cuồng vì đói để bị sỉ nhục, khinh khi chỉ vì cái đói kinh khủng đã làm tao phải mở miệng để xin ăn cháo!

Dòng cháo thơm tho, nuôi sống, đã vào miệng rồi nhưng cơn nghẹn ngào và nước mắt tuôn rơi làm tao không thể nuốt nổi.

Cổ họng tao như thắt lại và dù cơn đói thôi thúc, tao nhả ra và trao lại tô cháo cho anh lính.

Tao cố gắng dùng tàn hơi để bắt mình lết dần sang một chỗ khác, để không thấy, không nghe tiếng húp cháo nữa, dù mùi cháo thơm tiếp tục bay đến hành hạ như không bao giờ ngơi nghỉ.”

* * *

Phước nhìn tôi, hỏi, nhưng cặp mắt mơ màng như vẫn còn đang sống trong kỷ niệm của ba mươi mấy năm về trước:

“Mày nghe đã sợ cái đói thực sự như thế nào chưa?

Nhưng khoan! Trước khi vào ăn cơm, để tao kể nốt cho mày nghe câu chuyện đói khác. Chuyện này có hậu hơn. Tao biết mày thích chuyện gì cũng phải có hậu mà phải không?

Tao sẽ kể thêm những chuyện trong trại tù binh ở miền Nam cho mày nghe sau, để tao nhảy sang chỗ tao bị chuyển ra Bắc, bị đưa ra trại Yên Bái tuốt miền Bắc, cùng với những Sĩ quan khác.

 

 

 

 

 

 

Đoàn xe của chúng tao chạy suốt quãng đưòng dài, dân chúng miền Bắc như được lệnh, thấy mặt chúng tao là sỉ vả, nguyền rủa. Tao có nhiều chuyện lắm cho cuộc hành trình này, tao sẽ lần lượt kể cho mày nghe sau. Nhưng để tao kể chuyện này khi gần đến Yên Bái.

Lúc đó trời đã về chiều, đoàn xe dừng lại. Những tên bộ đội đi xuống kiếm chỗ đi tiểu hay ăn uống. Chỗ này đã gần đến Yên Bái và đã có ít căn nhà thưa thớt của dân dọc hai bên đường. Một người đàn bà dáng đã già tiến lại hỏi mấy tên bộ đội về đoàn xe. Được nghe giải thích đây là những tù binh từ miền Nam bị bắt đưa ra trại giam Yên Bái, bà ta tiến lại chỗ chúng tao. Bà hoa chân múa tay bắt đầu chửi:

“Tiên sư bố chúng mày! Cho chúng mày chết hết đi! Đáng đời chúng mày!”

Bà càng chửi càng hăng hơn. Bộ đội thích thú cười. Chúng tản mát ra kiếm chỗ để lấy đồ ngồi ăn và uống nước.

Một lúc không thấy tên bộ đội nào lảng vảng gần đó nữa, bà cụ già tiến lại gần hơn chiếc xe tao đang nằm trên cáng, mặt bà dịu lại, vẻ dữ tợn biến đâu mất, trên khuôn mặt nhăn nheo, sạm nắng và cặp mắt trũng sâu, chỉ còn lòng trắc ẩn.

Bà lại gần tao, nhìn vào vết thương đùi không lành đã mấy tháng nay, lúc nào cũng đầy mủ và bắt đầu có dòi. Bà nói nho nhỏ:

“Tội nghiệp con! Làm sao để ra nông nỗi này. Chúng nó khốn nạn quá!”

Rồi bà rút trong ngực áo ra một củ khoai, dúi vào tay tao:

“Con ăn đi cho đỡ đói!”

Bà vừa nói vừa láo liên nhìn về phía bọn bộ đội. Thấy một tên đi xăm xăm lại, bà quay người đi ngay.

Tao ngẩn người nhìn theo bà lão. Dù đang đói lả, cơn đói như cào xé lấy ruột gan, tao cũng không thể ăn ngay được.

Cho đến khi bóng bà lão khuất sau hàng dậu thưa của căn nhà bên đường và tên bộ đội trở lại chỗ ngồi cũ, tao mới ngoạm vào củ khoai còn nóng.

Miếng khoai ngọt ngào trôi vào trong cổ họng, thơm ngon và ấm áp.

Nuớc mắt tao ứa ra, nhớ lại bát cháo ngày nào ở Phước Long. Miếng cháo cũng thơm ngọt, nhưng dù có sắp chết tao không thể nào nuốt trôi.

Còn miếng khoai này, đầy ắp tình người, đã nuôi sống tao buổi chiều hôm đó, cũng như giúp tao trải qua những đọa đày cùng cực của ba năm giam cầm ở trại giam Yên Bái.

 

 

 

 

 

 

 

Mày thấy không? Trong chốn địa ngục của trần gian đó, chỉ còn hy vọng là điều ngăn cách giữa cái sống và cái chết, giữa lương tri và ác độc, giữa chịu đựng và buông xuôi. Và tình người của bà lão Yên Bái đã giúp cho tao còn chút hy vọng, khi đã tuyệt vọng khôn cùng, khi chỉ còn muốn nhắm mắt để vĩnh viễn ra đi.

Củ khoai của bà đã nuôi sống tao đến tận bây giờ đó mày ạ.

Và đừng có bao giờ, đừng có ai nói chuyện hòa hợp hòa giải với tao nha!

Bác sĩ Nguyễn Đình Phùng – Bác Sĩ Phạm Hữu Phước.

Hạnh phúc là chia sẻ phúc lành bằng cả tấc lòng trong sáng (*).

 
 
Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and Đào Nguyên.

Tác giả: GS Phan văn Tường.

…Năm 1963, 17 tuổi, tôi bị cướp sạch tài sản trong đêm đầu tiên du học Pháp…

Năm ấy là năm 1963, tôi 17 tuổi.

Thật tôi sẽ nhớ mãi cái năm Mão ấy, tôi vừa bước chân tới nước Pháp để du học, thì tôi đã bị một người đồng hương tước mất gần hết tài sản ngay đêm đầu tiên.

Nếu vào thời điểm ngày hôm nay thì thực tình mà nói số tiền tôi mất hồi đó cũng không quá to, 3 ngàn đô-la. Nhưng đó là tất cả số tiền tôi đem đi để làm vốn cho ít nhất hai năm học, đối với một sinh viên không có nhà cửa gia đình anh em bên cạnh thì nó to lắm. Mà nó cũng rất to đối với cha mẹ tôi, vì đó cũng là tất cả số tiền cha mẹ tôi dành dụm để chuẩn bị cho con đi học ở nước ngoài. Với đồng lương công chức của cha tôi thì đó là công dành dụm từ nhiều năm về trước.

Thế nhưng ngay hôm đầu tiên tôi tới Pháp, mắt nhắm mắt mở, chân ướt chân ráo, giờ giấc ngược xuôi, thì tôi đã bị tước mất số tiền đó do một băng đảng du đãng ăn chơi, họ chuyên môn đón đầu những sinh viên còn ngây thơ vừa bước sang nước xa lạ. Tôi đã bị dọa bởi vũ khí, và tôi đã để tuột tất cả những gì có trong tay, cả số tiền khổng lồ được dành dụm bằng tình yêu của cha, được gói ghém từ bàn tay của mẹ. Và từ một thanh niên mới ra đời với nhiều ưu đãi, tôi đã biến trong khoảnh khắc thành một thằng bé vô gia cư, chưa có nghề nghiệp và nhất là không còn gì trong tay để phấn đấu, cũng như không có chỗ vịn thực sự, trên một đất nước mà mình chưa nói sõi tiếng người, chưa hiểu thực văn hóa, chưa có bạn, chưa có cả một tấm mền để trải nằm ban đêm.

Ngày đó đâu có như bây giờ, không có điện thoại di động, chỉ có telegram để báo tin khi cần, nhưng linh tính đã khuyên tôi không thông báo cho gia đình ở nước nhà. Vì chuyện đã rồi, việc báo tin chỉ làm cho cha mẹ lo thêm.

Thế là tôi một mình ôm bí mật rằng tôi đã trắng tay.

Vài chục năm sau, khi nghĩ lại sự cố đã xảy ra cho mình, thì tôi mới ngỡ ra là chính cái sự cố vô cùng bi đát ấy đã giúp cho tôi, một thằng bé 17 tuổi, sớm thành người.

Trùng lúc ở bên Pháp tôi bị trắng tay hết tiền, thì cha tôi lại bị sự cố tại nước nhà.

Một người bạn của cha đi công cán sang Pháp mới cho tôi thông tin không mấy vui về cha. Mẹ tôi có gửi ông bạn đó một lá thư trong đó mẹ dặn đi dặn lại là con cố cầm cự với số tiền mang theo càng lâu càng tốt, rồi đến khi gia đình ổn định trở lại thì mẹ sẽ gửi tiếp. Nào mẹ có biết sự thật phũ phàng phía bên này… Và tôi cũng viết vội vài hàng gửi mẹ qua tay của ông bạn rằng “mẹ đừng lo, số tiền cha mẹ cho con còn nguyên và nhờ đó con sẽ sống được thoải mái nhiều năm sắp tới”. Đó là lần đầu tiên tôi đã nói dối mẹ.

Vào những năm 60, xã hội Pháp không như ngày nay, đó là một xã hội tuy không kỳ thị nhưng vẫn khép kín. Người Pháp thì đã đành, nhưng ngay cả người Việt sống bên Pháp cũng không cởi mở như ngày nay. Ngày đó, chưa có các tiệm fastfood hay hamburger như McDonald’s hay Kingburger, nơi mà một người trẻ như tôi có thể kiếm việc dễ dàng để tự nuôi sống.

Thế nhưng, cũng vì tôi sang Pháp trễ so với niên học, nên tôi chỉ được đăng ký vào nội trú một trường ở ngoại ô xa, trường Francisque Sarcey ở Dourdan, cách Paris hơn 50 km. Cũng may cho tôi là tôi không được nhận vào các trường tại Paris, vì có lẽ tôi sẽ phải bỏ dở việc học do đời sống Paris quá đắt đỏ. Ngày ấy tại Dourdan, cái gì cũng rẻ, thêm vào đó, đây là một thị trấn rất nhỏ, gần như một cái làng lớn. Chính vì Dourdan nhỏ bé mà tôi đã tìm ra nơi nương tựa.

Trước hết tôi phải kể tới Cha Paul. Cha là cố đạo của nhà thờ Dourdan. Không có Cha có lẽ tôi đã không có ngày hôm nay.

Lần đầu tôi gặp Cha, là chính tôi đã mạnh dạn đến gõ cửa nhà thờ. Tối hôm đó, bụng đói, tôi đã mạo muội tìm đến nơi Thánh. Tôi vào nhà thờ, lòng bất an. Nhưng cánh cửa bên trong nhà thờ bất thình lình mở và Cha xuất hiện. Cha hiểu ngay tôi đang có vấn đề. Cha mời tôi vào nơi Cha tiếp khách. Cha không hỏi han gì mà lại chia ngay với tôi một khúc bánh mì. Cha nói: “Em vào đây chia sẻ bữa cơm của tôi.”

Thị trấn Dourdan – Nay trở thành một địa điểm du lịch tại Pháp.

Từ ngày hôm đó, tôi mới thực sự có một người bạn đầu tiên trên đất Pháp, đó chính là Cha Paul. Cứ đến chủ nhật là tôi đến giúp việc trong nhà thờ Dourdan và được Cha cho một bữa cơm ấm áp. Lần đầu ra đời gặp “nhân loại” tôi đã có ngay được cảm nhận là nhân loại không phải là một ý niệm gì trừu tượng, mà là những gương mặt cụ thể và tích cực. Gương mặt đầu tiên của nhân loại đối với tôi là Cha Paul.

Cha đã có những nghĩa cử đơn giản nhưng chứa chan tình người. Cha Paul đã là người đầu tiên làm cho tôi thấu hiểu được rằng hạnh phúc là một thứ gì rất chân thật, trong sáng, ấm áp. Và chỉ cần mỗi tuần một buổi sáng chủ nhật giúp việc trong lễ nhà thờ cũng đủ cho tôi cảm nhận phẳng phất được niềm hạnh phúc đó suốt tuần.

Và cũng không có gì sung sướng hơn là biết rằng Chúa ở trên cao đã đoái nhìn xuống ban cho tôi phúc lành, mà vẫn biết rằng phúc lành chỉ là một mẩu bánh mì mộc mạc.

Trong đời sống nhà trường, tôi được nội trú, tôi còn nhận được sự yêu thương của vợ chồng gác dan. Nhìn từ ngoài, ông bà Jean trông rất dữ dằn. Có lẽ nghề gác cửa, cấm kẻ lạ xâm nhập vào khu vực nhà trường, cấm học sinh thoát ra ngoài đi bụi đời đã vẽ lên nét mặt của cặp vợ chồng tất cả cái nghiêm nghị của thế gian. Tuy nhiên, trái tim của họ bằng vàng. Ông bà Jean đã thấu hiểu cảnh ngộ của tôi ngay từ lúc tôi nhập học ngày đầu.

Bà ấy thường hay rày tôi, nhưng lúc nào bà cũng quan tâm. Một hôm bà bảo tôi: “Mày giặt giũ làm sao? Trông mày dơ bẩn thế kia, mày cởi hết quần áo ra đưa tao giặt”. Thế là tôi được bà giặt quần áo miễn phí, bà còn ngụy biện rằng đằng nào ông bà cũng có máy giặt, nhiều ít gì cũng thế. Tuy nhiên, bà còn ủi thẳng thắn cho từng chiếc sơ mi, chiếc quần. Đến khi tôi chụp ảnh gửi về cho mẹ thì mẹ tôi rất ngạc nhiên hồi âm ngay hỏi rằng ai giặt và trông nom cho tôi mà áo quần ngay ngắn thế. Sau này khi mẹ tôi sang Pháp, mẹ đã tỏ ý muốn đến cám ơn tận nơi ông bà Jean.

Tôi thì cứ bị bà Jean mắng hoài hoài, nhưng tôi hiểu đó là lời mắng của sự quan tâm, lời mắng để cải thiện một thanh niên không được sống bên gia đình của mình. Những lời mắng này thật mát mẻ trong lòng tôi.

Ông Jean thì lại thương tôi một cách cụ thể hơn. Cứ đến hai ngày cuối tuần, ông rủ tôi đi làm thêm. Ông chuyên sửa điện nước, đổ rác, sơn nhà, đổ nền, nạo ống khói… Thế là ông và tôi chia nhau việc. Ông nhận việc chuyên môn, còn tôi thì việc chân tay. Có lần, tôi nạo xong ống khói mặt mũi đen đủi quần áo lọ lem làm mọi người cười. Tôi cũng cười, cái cười của một đứa thanh niên thật hãnh diện vừa nhận được chút tiền để tự nuôi thân. Ông bà Jean dần dần coi tôi như một đứa cháu trong nhà. Tôi cảm nhận được hạnh phúc sâu đậm đó, rằng tôi đã được người bản xứ nhận lãnh. Chỉ được nhìn nhận như vậy thôi cũng đủ để làm cho tôi cảm thấy mình thật quá may mắn.

Ở trong trường tôi còn được một người khác giúp đỡ tôi rất nhiều. Đó là bà Monique, bà là y tá săn sóc sức khỏe của học sinh nội trú. Gọi là bà, nhưng bà chưa có chồng tuy đã quá trạc 50. Người ác miệng nói là bà không có nhan sắc nghiêng thành do đó mới khó lấy chồng. Nhưng đối với tôi, thì bà là một con người nhân hậu mà tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi gặp bà lần đầu lúc tôi bị bệnh. Mùa đông năm 1963 kỷ lục lạnh, nhiệt độ xuống hơn 15 độ âm. Tôi thiếu quần áo ấm và sau một lớp thể dục ngoài trời tôi bị lạnh phổi và được đưa vào nằm phòng bệnh hai tuần.

Bà Monique mới hỏi tôi gia đình ở đâu, vì trên nguyên tắc, học sinh nhuốm bệnh phải được trả về gia đình, chứ giường bệnh nội trú chỉ là tạm thời, quá lắm là 2, 3 ngày. Sau khi tôi khai hết cảnh ngộ thì không những bà cho phép tôi ở lại mà bà còn chăm lo cho tôi thật tận tụy. Sau này, tôi thường hay lên thăm bà trong giờ chơi, tôi hay tặng bà một miếng bánh sô cô la hoặc là một bó hoa tôi hái trong rừng. Bà cũng thường viết thư trấn an mẹ tôi. Đây không phải là trách nhiệm của bà, tôi cảm nhận đó là lòng thương. Từ lúc đó, tôi mới lại hiểu cụ thể hơn thế nào là hạnh phúc. Hạnh phúc rút cục là sự cảm nhận tình thương mà mọi người dành cho mình. Nhưng trên hạnh phúc đó, còn có cái duyên mà Đấng trên cao đã sắp sẵn cho mình. Tại sao mình lại được hưởng đặc ân đó thì mình thực sự không biết.

Trường học của tôi có một tục lệ là cứ mỗi 15 ngày thì nhà trường tổng vệ sinh nên yêu cầu tất cả học sinh nội trú ra ngoài trong hai ngày cuối tuần. Tất cả học sinh đều đợi dịp đó để về với gia đình nên họ vui tíu tít. Ngược lại đối với tôi thì dịp đó lại gây cho tôi nhiều khó khăn vì tôi không có gia đình, không có nơi để về… Vào hai ngày cuối tuần đó người ta dọn giường của sinh viên nội trú, mở toang cửa số, khóa máy sưởi, rải thuốc Javel, phun vòi nước sát trùng để tổng tẩy uế.

Bà Monique là người đầu tiên cứu tôi, bà đề nghị tôi ở lại trong trường, nhưng ở tạm trong căn phòng dành cho người bệnh. Bà coi đó là một trường hợp bất khả kháng, do đó tôi không thể coi đó là giải pháp thường trực.

Tôi cũng có mấy người bạn Việt Nam ở trong nhà Lào Việt tại Cư Xá quốc tế cho phép tôi trải nệm ngủ lậu qua đêm. Ở đây ông gác dan biết chuyện nhưng ông ấy cũng tốt nên ông không cằn nhằn.

Nhưng riêng tôi lại còn có thêm một phương án khác. Một hôm, tôi gặp lại một bạn xưa tên là Lân, Lân mới rủ tôi tới nhà chị Trà. Chị Trà là một phụ nữ đã đứng tuổi có chân tu.
Nhà của chị Trà là một căn hộ nhỏ bé, vỏn vẹn có một phòng, ở ngoại ô Levallois. Tuy căn nhỏ bé nhưng lúc nào cũng đông sinh viên tới xin ngủ qua đêm. Chị bảo nhà của chị là nhà của Chúa, các em cứ tới trú.

Thế là đêm nào cũng có đứa trải nệm nằm la liệt dưới đất, có hôm năm đứa chúng tôi phải nằm sít gần nhau vì căn phòng nhỏ quá. Nhưng chúng tôi rất vui, vì không những được qua đêm miễn phí nhưng còn có sẵn một bếp nhỏ để nấu xào. Đông như thế làm cho chúng tôi như có gia đình bên cạnh. Hơn thế nữa, chính vì gặp gỡ nhau tại nhà chị Trà mà chúng tôi truyền cho nhau công việc làm để kiếm tiền thêm. Lân thì rủ tôi cùng đi hầu bàn, Hà thì chỉ cho những chỗ để mua trái cây rẻ, những hoa trái già héo sắp thối nhưng vẫn còn ăn được. Huy thì lại chỉ cho tôi một chỗ làm đêm được trả rất hậu hĩnh. Đó là những dịch vụ tại bệnh viện ít ai muốn làm và có chút rủi ro nếu không cẩn thận.

Từ lúc thường gặp những người bạn mới này, tôi không thiếu việc. Hễ mình chấp nhận viêc khó hoặc nặng nhọc thì kế sinh nhai đơn thuần không phải là một vấn đề. Nhận định này cho tôi có được tự tin. Tự tin rằng mình sẽ chẳng bao giờ sợ đói, chỉ một ý tưởng đó thôi đã làm cho tôi thấy cuộc đời đượm tươi màu hồng. Thật vui, thật hạnh phúc. Duy một cái là trong lớp học tôi không được xuất sắc cho lắm.

Trường Francisque Sarcey ngày nay

Cuối niên học 63-64, cuối cùng tôi cũng thi đậu. Điểm suýt soát, nhưng vừa vặn để lên Đại Học. Vừa đúng lúc đó thì cha tôi cũng hồi sức. Bao nhiêu mây đen phủ trên bầu trời của tôi như dần dần tản bay.

Phải mấy chục năm sau, tôi mới dám hồi tưởng lại cái thời kỳ kinh khủng đó. Vì khách quan mà nói, nó kinh khủng quá. Nhưng tại sao tôi không giữ lại một chút đắng cay là một điều tôi khó lý giải. Mẹ tôi, khi gặp lại tôi vài năm sau đó mới rõ sự thật, bà cứ khóc mãi, bà tự trách sao trót để đứa con yêu lâm vào cảnh ngộ quái dị như vậy. Nhưng trong lúc mẹ khóc thì tôi lại vui cười sung sướng ôm mẹ. Tôi còn nói với mẹ: “Mẹ ạ, suốt năm học ấy con không khổ chút nào mà rất sung sướng mẹ ạ, mẹ đừng khóc nữa vì chẳng có gì để khóc.”

Một hôm, vào năm 1994, tôi được cô thư ký đưa lên một đơn xin việc, lúc đó tôi đang làm phó Tổng giám đốc một tập đoàn đa quốc gia. Hồ sơ xin việc có cả hình của người nộp đơn. Tôi nhận ra ngay, đúng hắn, không thể sai, người đã cướp hết tài sản của tôi vào lúc tôi đang tập tễnh ra đời. Cô thư ký nể tôi, cứ mỗi khi có người Việt xin việc thì cô hay báo cáo trực tiếp cho tôi.

Tôi đã hít một hơi thở thật mạnh. Và chỉ trong một chớp mắt, tôi đã chỉ đạo “để cho Ban nhân sự xử lý bình thường đơn xin việc”, tôi không để lộ cho ai chuyện riêng của tôi. Có lẽ hắn cũng đã quên tôi và cả sự việc rồi, hơn 30 năm đã qua. Trong lòng tôi không có chút hận thù mà ngược lại tôi lại có cảm giác nhẹ nhõm hơn, cứ như đã trút được cái gì còn vướng mắc.

Nghĩ lại chuyện của tôi, tôi không khỏi bàng hoàng và cùng một lúc tôi có cảm giác hạnh phúc. Bàng hoàng vì có lẽ tôi sẽ không bao giờ sẵn sàng sống lại một thời kỳ như thế.

Nhưng tại sao tôi lại có cảm giác hạnh phúc từ sự trải nghiệm đó thì thực tình tôi không rõ.

Phải chăng tôi đã được hưởng trọn niềm hạnh phúc của một con người tự tạo nên. Từ bàn tay trắng tôi đã thành con người tôi ngày nay. Tôi đã lông bông nhưng chưa bao giờ bụi đời. Tôi mới khám phá ra rằng tôi đã được hưởng một cái ADN cứng cỏi, lấy tính hiền từ làm cách hành xử. Lấy nụ cười can trường để làm khiên bảo vệ. Những thứ đó như có sẵn trong cơ thể. Rõ ràng tôi chỉ biết mỉm cười mà không biết khóc.
Phải chăng đó là do tính lạc quan. Tôi chưa bao giờ nhìn nỗi khó trước mặt như là một cực hình mà ngược lại tôi đã chỉ trông thấy những cơ hội được mở ra, thậm chí những thách thức rất đáng sống.

Phải chăng là tôi đã hiểu rất sớm rằng hạnh phúc bắt nguồn từ tình yêu thương. Tôi đã được nhà trường Dourdan yêu thương, Cha Paul yêu thương, ông bà gác dan yêu thương, bà y tá Monique yêu thương, chị Trà thánh thượng yêu thương. Thế giới của tôi vào lúc đó chỉ có thế nhưng đó là thế giới của những người tình nghĩa. Tình nghĩa và đoàn kết, biết cảm nhận, biết xót xa, biết chia sẻ. Chia sẻ hột cơm, chia sẻ mồ hôi, chia sẻ ngọt bùi.

Phải chăng là tôi luôn luôn có trong người tế bào hy vọng. Tương lai sẽ luôn luôn sáng nếu còn hy vọng. Thực ra, chính khi mình nằm tận đáy thì mình mới bám vào hy vọng để trông chờ. Từ đáy thì mình chỉ có thể vươn lên, tương lai chỉ có thể sáng hơn.

Phải chăng là tôi có một niềm tin mãnh liệt nơi Đấng trên cao. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng, trong lời cầu nguyện tôi luôn luôn chỉ xin có thêm sức mạnh và sự soi sáng của Thượng đế chứ tôi chưa bao giờ xin những thứ khác. Và tôi ngạc nhiên tôi chưa bao giờ bị Đấng trên cao bỏ rơi.

“Hạnh phúc là cái gì con cảm nhận được khi con đã chia sẻ thật nhiệt tình, với tất cả lòng trong sáng từ bi”.

Có lần tôi hỏi cha tôi: “Bố ạ, thế nào là thành công? Thế nào là một cuộc đời sung mãn và hạnh phúc ?”

Ông nhìn đứa con và chậm rãi trả lời: “Người thành công là người muốn khẩn khoản chia lại những gì phúc lành đã ban cho mình. Chia lại tài sản, chia lại kiến thức, chia lại kinh nghiệm sống”.

Tôi lại hỏi cha: “Còn thế nào là hạnh phúc?” thì cha mới mỉm cười và ôn tồn chia sẻ với tôi: “Con ạ, hạnh phúc là cái gì con cảm nhận được khi con đã chia sẻ thật nhiệt tình, với tất cả lòng trong sáng từ bi.”

Và cha còn nói thêm: “Con hãy đem cả thân thế của con để xây dựng tình người, con hãy dùng tài sản riêng tư như là những viên gạch để kết nối và đoàn kết người với người. Con đừng bao giờ nhìn lên hay nhìn xuống mà coi mỗi người như là một người bạn đồng hành, đón nhận họ với những cá tính của họ, con hãy quý trọng ý kiến của mỗi người, vì chỉ có sự đa dạng mới làm nên một xã hội hùng mạnh, một đất nước trù phú.”

Những lời của cha còn văng vẳng bên tai. Nghĩ lại tôi vẫn choáng váng, và tôi chỉ mong suốt cuộc đời xứng đáng với ước niệm của cha.

Phan Văn Trường

Ảnh: Gs. Phan Văn Trường ký tặng sách.

***
(*): Tiêu đề do người đăng tự đặt.
Hạnh phúc là chia sẻ phúc lành bằng cả tấc lòng trong sáng.

Về tác giả:

Giáo sư Phan Văn Trường là chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực đàm phán quốc tế, và là cố vấn của chính phủ Pháp về thương mại quốc tế. Ông được Tổng thống Pháp đã trao tặng Huy chương Hiệp sĩ Bắc Đẩu Bội Tinh (Chevalier de la Légion d’Honneur) năm 2007 nhờ công lao đóng góp vào việc phát triển nước Pháp.

Ông từng tham gia vị trí quản lý cấp cao của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới, tham gia đàm phán các dự án lớn tại hàng chục quốc gia với tổng giá trị các hợp đồng hơn 60 tỷ USD. Ông là tác giả cuốn sách “Một đời thương thuyết”, gồm rất nhiều câu chuyện, kinh nghiệm hàng chục năm đàm phán ở hàng chục quốc gia.

*
Hạnh phúc bắt nguồn từ tình yêu thương.
Nhiệt thành giúp đỡ người không may và vị tha là niềm hạnh phúc vô biên.
Giàu có không nên là tiêu chuẩn đánh giá sự thành công.
Được cống hiến, được sống với đam mê, được nhìn nhận nhân phẩm… là đã hạnh phúc tuyệt vời.
Phan Thị Hồng

Image may contain: 3 people, people sitting
 

 

30 Tháng Tư

 
 
Phan Thị Hồng

Tác giả: Nguyễn Tài Ngọc

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ kèm theo hình ảnh tại chỗ do chính ông chụp. Nhiều bài và hình ảnh của ông hiện được phổ biến trên mạng internet, một số đã thành sách “Xin Em Tấm Hình” và tập truyện mới, “Bắc Kỳ”. Sau đây là bài mới ghi chép sơ lược ngày 30 tháng Tư năm xưa.

Hình ảnh một thời rất quí mà tác giả còn giữ: Căn cước VNCH, áo sơ mi mặc ngày ra đi, mảnh tin báo Mỹ tháng Năm 1975.

***

30-4 là một ngày không một người Việt nào có thể quên. Phe thắng, chính quyền Bắc Việt, chọn 30-4 là ngày lễ ăn mừng. Phe thua, Việt Nam Cộng Hòa, với một số đông người Việt chạy tỵ nạn Cộng Sản sang định cư ở khắp các nước tự do trên thế giới, ghi thêm trên giấy những kỷ niệm hãi hùng của ngày 30-4.

Tôi rời SàiGòn trong khi đang học lớp 11. Tôi vẫn còn giữ chiếc áo mặc ngày ra đi, (hình trên, bên trái)

Tôi cũng vẫn còn giữ nhiều giấy tờ, hình ảnh, tiền bạc mà tôi đã mang theo.

Bây giờ đọc lại thẻ căn cước làm ngày 20-2-1973, tôi mới biết lúc 15 tuổi tôi cao 1.57 mét (5.1 inch), nặng 34 kg (75 lbs). Nhờ cái thẻ căn cước đó tôi mới biết bây giờ tôi quá phì lũ. 182 lbs (83 kg)! Tôi mập hơn xưa gấp hai lần rưỡi. Trời đất quỷ thần thiên địa ơi!

Cùng với chiếc áo, tôi giữ lại những bản tin về Việt Nam sau tháng 4 1975. Thời đó, tôi cắt những bản tin này trong báo rồi dán vào một tập vở, giữ cho đến bây giờ. Tôi dịch lại vài bản tin đó để nhớ lại một quãng thời gian không thể nào quên:

*

Tựa đề bản tin 12-05-1975:

NAM VIỆT NAM LÊN ÁN HOA KỲ VỀ VIỆC DI TẢN

12-May-1975:

Chính phủ (Lâm thời) Nam Việt Nam lên án chính quyền Ford đã bắt buộc dân chúng Việt Nam di tản và bắt cóc trẻ con đem ra nước ngoài. Ủy ban Điều tra Tội phạm Chiến tranh Đế quốc Mỹ ngụy Gây ra mới tuyên bố lên án chính quyền Ford đã phạm tội với dân chúng Nam Việt Nam:

“Việc bắt cóc con nít và bắt buộc người lớn di tản từ nhà của họ vừa được giải phóng là vô nhân loại, bất hợp pháp, và phạm tội ác.”

“Hành động quá táo bạo này vi phạm luật pháp quốc tế căn cứ theo Hiệp Định Geneva năm 1949 là phải bảo vệ dân sự trong thời chiến, cấm đoán việc bắt buộc di tản, …..”

“Chính quyền Hoa Kỳ đã phạm tội với dân chúng Nam Việt Nam, xâm phạm quy định của Tòa Án Quốc Tế tại Nuremberg, nhúng tay vào tội ác diệt chủng Hiệp Định Geneva ngày 9-12-1948 cấm cản”.

– Ghi chú: “Bắt buộc dân chúng Việt Nam di tản?” “Bắt cóc trẻ con?” “Mỹ Ngụy phạm tội ác?”…. Đọc những lời lẽ này làm tôi nhớ lại ngày xưa sống ở Việt Nam tối ngày cứ nghe những lời nói quá láo khoét của người Cộng Sản.

*

Tựa đề bản tin:

ĐỜI SỐNG DỄ THỞ Ở SÀIGÒN ĐÃ CHẤM DỨT

Hãng thông tấn AP,

25-May-1975:

… Hôm qua, thanh niên nam nữ xuống đường ở đường Tự Do lên án nhạc và văn hóa đồi trụy miền Nam, ảnh hưởng của Đế quốc Mỹ. Cuộc sống dễ thở của 3.5 triệu người SàiGòn trong thời Mỹ viện trợ chấm dứt nhanh chóng khi Cộng Sản bắt đầu xiết gông cùm kiểm soát.

… Một việc xẩy ra ngoài đường hôm Thứ Ba phản ảnh chính trị vẫn âm ỷ cháy: Tại quảng trường trước Quốc Hội cũ với bức tượng lính của VNCH xây cất đã bị giật sập đổ, một người vất vào đống rác ở đó một lá cờ Bắc Việt, một lá cờ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, rồi châm lửa tự thiêu.

Bộ đội Cộng Sản đến tịch thu một xấp lá thư người tự thiêu để lại, không cho đám đông biết nội dung là gì.

… Phim ảnh Tây Phương bị cấm chiếu. Nhà cửa người tỵ nạn bỏ chạy để lại bị tịch thu cùng với tất cả vật dụng. Lính bộ đội vào chiếm đóng khách sạn cùng nhà cửa của dân lành.

*

Tựa đề bản tin UPI:

VIỆT NAM CẤM, RA LỆNH ĐỐT SÁCH

Hãng Thông Tấn UPI, 1975:

Cả trăm sinh viên xuống đường ủng hộ chiến dịch hủy diệt sách báo và băng thu thanh của chính quyền mới SàiGòn.

Các nhật báo tiếng Việt và tiếng Hoa in chữ in lớn “Cấm bán và tàng trữ sách báo, băng thu thanh để thực hành việc hủy diệt vết tích của Đế quốc Mỹ và tay sai ngụy để lại.”

Những nhật báo này nói rằng các sinh viên sẽ thi hành chiến dịch hủy diệt tất cả sách báo của chế độ cũ để bắt đầu một nền tảng mới của cách mạng văn hóa.

Tất cả tiệm bán sách báo đã được lệnh đóng cửa, cấm bán sách báo chính quyền ngụy. Cả trăm nghìn người ở SàiGòn đốt sách ở nhà để khỏi bị bắt về tội gìn giữ sách ngụy.

Phim ảnh Tây Phương bị cấm triệt để. Rạp ciné ở SàiGòn chỉ chiếu phim Bắc Việt, hầu hết về chiến tranh.

Truyền đơn sinh viên phân phát in: “Chúng ta phải hăng say tham gia tiêu diệt văn hóa phản cách mạnh, nô lệ, và tồi bại của Mỹ Ngụy. Phim ảnh, sách báo đồi trụy, nhạc ủy mị của chế độ cũ là thuốc độc giết hại thế hệ thanh thiếu niên.”

Ghi chú: Nhạc “đồi trụy” của quân Ngụy cần phải hủy diệt năm 1975 bây giờ được dân chúng ưa chuộng số 1 từ Móng Cái đến Cà Mau, được ca sĩ gốc Bắc lẫn gốc Nam trình diễn khắp nơi từ Hà Nội đến SàiGòn.

*

Tựa đề bản tin UPI:

1546 NGƯỜI TRỞ VỀ VIỆT NAM

Hãng Thông Tấn UPI, 28-Oct-1975:

Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng loan báo một con tầu chở 1546 người Việt tỵ nạn khởi hành từ Guam đã cặp bến ở Nam Việt Nam vào ngày 27-Oct, mặc dù chưa được phép hồi hương của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời.

Con tày này tên là Việt Nam Thương Tín, rời Guam vào ngày 16-Oct. Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng đã gửi bác sĩ đến bến để chăm sóc cho những người cần y tế.

Một hành khách chết trên đường đi đã được thủy táng.

Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng lên án chính quyền Tổng Thống Ford ngoan cố không nghe lời cảnh cáo của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời nên đã có những hành động vô trách nhiệm với những người bệnh tật, già yếu, thai nghén trên tầu Việt Nam Thương Tín.

Phát ngôn viên Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời tuyên bố chấp nhận thuyền trở về Việt Nam vì lý do nhân đạo. Còn những người tỵ nạn khác được Mỹ di tản nhưng muốn trở về Việt Nam thì phải nộp đơn xin phép. Mỗi trường hợp sẽ được xét xử riêng biệt.

Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng nói rằng hai phần ba người trên tầu trở về quê hương là “binh lính tay sai và công chức của chính quyền Ngụy.”

Ghi chú: Tháng Sáu 1975 gia đình tôi ở trại tỵ nạn ở Guam. Một ngày tôi có dịp chứng kiến một đám đông sau hàng kẽm gai la hét ầm ĩ, đốt lửa vài vật dụng. Lính Mỹ đến khống chế họ. Tôi hỏi thì mới biết những người này di tản đến Mỹ nhưng bây giờ muốn đòi trở về Việt Nam. Có một chiếc tầu to -Việt Nam Thương Tín- có thể dùng để họ lái về nước nhưng người Mỹ phải sửa soạn lương thực và xem xét tầu an toàn ra biển. Sự sửa soạn này làm việc đi về bị trì hoãn nên họ biểu tình phản đối Mỹ đình trệ.

Ai cũng biết hậu quả xấu số của những người ngu dại này khi trở về Việt Nam. (Tất cả đều bị lột truồng, kiểm soát tịch thu mọi vật dụng, sau đó tống vào trại tù cải tạo). Đã đến thiên đường Mỹ mà còn không biết!

*

Tựa đề bản tin:

SAIGON SỤP ĐỔ NHANH CHÓNG LÀM CỘNG SẢN NGẠC NHIÊN

New York Times, 1976

Tầng lớp lãnh đạo Cộng Sản không dự định là cuộc tấn công tối hậu vào VNCH năm ngoái sẽ đoạt lấy chiến thắng vĩnh viễn, rất ngạc nhiên là SaiGon sụp đổ quá nhanh chóng, căn cứ theo Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Cộng Sản.

Tướng Văn Tiến Dũng nói khi nghe tin cả chục nghìn binh lính VNCH và dân sự bỏ chạy trong hoảng sợ từ miền Trung Pleiku, bắt đầu một cuộc rút lui vô trật tự, ông ta không tin là chuyện ấy lại có thể xẩy ra: “Tại sao lại bỏ chạy?” “Ai đã ra lệnh tháo quân?”

Văn Tiến Dũng tiết lộ thêm những điểm sau đây:

– Sau khi bàn thảo chiến thuật từ 18-Dec-1974 đến 8-Jan-1975, Hà nội quyết định đánh Ban Mê Thuột trước.

– Lý do Ban Mê Thuột và các tỉnh vùng cao nguyên được chọn là khởi điểm bị tấn công vì tình báo CS cho biết Nguyễn Văn Thiệu nghĩ là CS sẽ đánh vào Tây Ninh, do đó Thiệu tập trung quân ở Tây Ninh, chỉ để binh lính rời rạc giữ vùng cao nguyên.

– CS biết Tướng VNCH Phạm Văn Phú đoán lầm là CS sẽ tấn công vào Kontum và Pleiku, nên Phú chỉ giữ một Trung đoàn ở Ban Mê Thuột.

– Văn Tiến Dũng đồng ý với lời phàn nàn của Nguyễn Văn Thiệu và người Mỹ ở VN là quyết định cắt giảm viện trợ làm VNCH không đủ sức đánh nhau. Dũng đoán sự cắt giảm này giảm súng ống đạn dược của VNCH đến 60%.

– Vào mùa thu 1974, trong khi bàn thảo quyết định tổng tấn công VNCH, các nhân vật lãnh đạo CS bàn cãi sôi nổi không biết Mỹ có nhẩy vào vòng chiến nếu VNCH bị tấn công. Cuối cùng, Hà Nội quyết định cứ đánh vì nghĩ rằng Mỹ sẽ không tham gia vì vụ Watergate và kinh tế Mỹ đang đi xuống.

Ghi chú : Theo Frank Snepp, làm cho CIA với chức vụ Giám Đốc phân tích chiến lược Cộng Sản Bắc Việt, trong quyển Decent Interval (Khoảng Cách Vừa Đủ) thì khi Cộng Sản tấn công vào vùng Cao Nguyên, Thiệu quyết định bỏ miền Trung, rút quân vào SàiGòn. Lý do không những để bảo vệ Thiệu chống quân Cộng Sản, mà Thiệu nghi ngờ phe Nguyễn Cao Kỳ nhân cơ hội đảo chánh nên Thiệu cần quân đội thân cận bảo vệ mình.

*

Tựa đề bản tin:

ĐIỂM THI CỦA HỌC SINH MỸ THUA HỌC SINH TỴ NẠN

Oceanside (San Diego), 1976:

Một giáo viên tiết lộ là chương trình giáo dục của Mỹ thất bại thảm hại sau khi khám phá điểm thi của học sinh tỵ nạn Việt Nam cao hơn học sinh Mỹ rất nhiều.

J. Paul Adkins, giáo viên dạy lớp Bốn ở Tiểu học San Luis Rey School nói: “Theo ý tôi, chương trình giáo dục của chúng ta (Hoa Kỳ) đang xuống dốc. Chúng ta có trách nhiệm nặng nề đã không đào tạo một nền giáo dục xuất sắc cho con em chúng ta.”

Adkins nói là ông tổ chức một kỳ thi cho 33 học sinh tỵ nạn Việt Nam và 100 học sinh Mỹ. Về môn Toán, nhóm học sinh Việt Nam làm 93% đúng, trong khi nhóm học sinh Mỹ làm đúng chỉ có 29%.

….Adkins nói là sau khi nói chuyện với tất cả các giáo viên trong trường, ông ta mới biết là học sinh tỵ nạn Việt Nam dẫn đầu học sinh Mỹ trong tất cả các môn, ngoại trừ mỗi một môn về tiếng Anh.

Ghi chú: Tôi sang Mỹ học lớp 12 ở Trung Học Hoover High, San Diego. Ở cấp Trung học, lối dạy của Mỹ khác với Việt Nam và các quốc gia Á Châu. Ở Việt Nam học sinh không có quyền chọn lựa môn học. Chương trình đã định sẵn, tất cả phải theo. Trong khi ở Mỹ học sinh có quyền chọn lựa. Bộ Giáo Dục ấn định số lượng “units” phải học xong nếu muốn tốt nghiệp Trung học.

Tôi nói thí dụ: Thí dụ Trung học ở VN khi học hết lớp 12 thì mọi học sinh đều phải học xong 30 units Hình Học, 30 units Lý Hóa… chẳng hạn. Nhưng ở Mỹ thì chỉ cần học xong tối thiểu 10 units Hình Học, 8 units Lý Hóa… Thành ra học sinh nào không thích môn Toán, Lý Hóa thì chỉ cần học units tối thiểu thôi (học sinh giỏi vẫn tiếp tục học hơn units đòi hỏi, 20, 30 units…).

Chính vì sự không bắt buộc này mà tôi nghĩ trình độ Toán, Lý Hóa, ngoại ngữ… của một học sinh lớp 12 của Mỹ có lẽ chỉ bằng trình độ của một học sinh lớp 10 của Việt Nam. Đây là lý do khi học sinh Việt tỵ nạn vào học Tiểu học, Trung học ở Mỹ thời bấy giờ, báo chí Mỹ thường đăng tải là học sinh tỵ nạn quá giỏi! Ngoại trừ lớp sinh ngữ tiếng Anh, dĩ nhiên!

*

Những ngày tháng đầu tiên định cư ở Mỹ là thời gian “rầu thúi ruột”, nhớ bạn học, nhớ láng giềng, nhớ trường lớp, nhớ xóm Bàn Cờ, nhớ bồ, và nhớ nhà. Để kết luận, tôi copy lại bài thơ “Nhớ Nhà” tôi làm ở những năm đầu tiên trên nước Mỹ (thơ trước tuổi đôi mươi):

NHỚ NHÀ

ta ngồi đây bên ánh đèn mờ ảo,
trong đêm không, trong bóng tối chập chùng.
bao năm qua xa dấu chốn quê hương,
lòng lặng chết như màn đêm áo não.

ngày ra đi tấm lòng vang rộn rã,
rời quê hương, nơi bốc ngút chiến tranh,
nơi đau thương tràn ngập khắp thị thành,
nơi cửa nát nhà tan đầy khắp lối.

nơi con thơ khóc gào niềm mất bố,
nơi vợ hiền cay đắng ngắm xác chồng,
nơi mẹ già điên dại bên xác con,
nơi cháu nhỏ thững thờ bên xác cố.

để đến đây bên phương trời Mỹ quốc,
nơi tự do tràn ngập khắp mọi người,
nơi an lành ngự trị khắp muôn nơi,
nơi tương lai rực ngời như ánh đuốc.

tuy sung sướng tinh thần lẫn vật chất,
thế nhưng ta đã mất thật nhiều điều:
mất ngôi trường cũ rích nhưng đáng yêu,
mất những con đường cây dài, bóng mát.

mất tiếng rao bán hàng tang tảng sáng,
mất giọng cười trong trẻo chị bánh cam.
mất tiếng xe nổ giòn bác xe lam,
mất giọng nô đùa trẻ con trai gái.

ôi quê hương, biết bao giờ trở lại?
ta ra đi không hẹn một ngày về.
sống ở đây như ngủ trong giấc mê,
khi tỉnh giấc, nhớ nhà, lòng tê tái.

Nguyễn Tài Ngọc
April 2018. Sài Gòn Ocean – Home

Image may contain: people standing
Image may contain: 1 person
No automatic alt text available.

NỢ CỨT

 
 
No automatic alt text available.
Bằng Kim Lạc

Nhân cái vụ đánh thuế nhà ở có giá trị trên 700 triệu, làm tôi nhớ đến bài viết Nợ Cứt của Phạm Thế Việt. Nát lắm, nếu điều dự thảo đó thật sự xảy ra! Bởi tài sản đó là từ tích cóp của mỗi cá nhân bằng tiền lương, tiền công lao động mới có được; trong quá trình lao động trước đó, người lao động đã được thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ về thuế.
————————————————————————–
NỢ CỨT

Ngày đó hợp tác xã ra một chiến dịch thu gom phân bắc (cứt người), mỗi gia đình một tháng phải đóng đủ mười cân, nếu không đóng đủ thì bị cắt gạo. Thật là một chiến dịch có một không hai trong xã hội loài người. Vậy nên, khi chiến dịch ra đời, cái cầu tiêu trở nên vô cùng quan trọng và cấp thiết. Người người, nhà nhà mua xi măng mua gạch về xây cầu tiêu.

Cầu tiêu phải làm bằng xi măng thì cứt mới không bị phân huỷ, chứ ỉa xuống đất vài ngày là bọ hung ăn hết, lấy gì mà đóng cho nhà nước. Vậy nên, cái cầu tiêu quan trọng hơn cái nhà. Chuyện ỉa đái lúc này cũng cực kỳ quan trọng, dù ai đó có bị tào tháo rượt ở đâu thì cũng phải nhanh nhanh ba chân bốn cẳng chạy thẳng về cầu tiêu nhà mình mà giải quyết chứ để mất đi một cục là mất đi lon gạo chứ chẳng chơi. Nhiều người đi làm ngoài đồng, ngày trước, khi mắc ỉa thì chạy vô bờ, vô bụi làm đại cho xong, nhưng bây giờ, làm như vậy có mà đói chết.

Vậy nên, phải tìm cách, có người làm đại vào bao ni lông, có người cuộn trong lá chuối, có người cẩn thận hơn đi vào trong cái càmèn đựng cơm để mang về cho an toàn mà đổ xuống cầu. Có nhiều chuyện dở khóc dở cười trong chiến dịch này lắm, ai sống thời đó chắc biết.

Khi chiến dịch ra đời thì cũng là lúc không biết bao nhiêu con chó phải chết. Chó chết vì đói, cơm khoai đã không có ăn, đến cục cứt cũng bị nhà nước dành mất thì lấy gì mà sống. Nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, cố gắng lắm không để thất thoát cục nào, vậy mà đến tháng vẫn không đủ cân nộp, má tôi sai anh em chúng tôi đi tìm đá sỏi bỏ vào cho đủ. Khi mang lên cân người ta kiểm tra và phát hiện nhà tôi gian lận nên lập biên bản và làm kiểm điểm. Họ còn ghi rõ ràng trong biên bản gian lận như thế nào, có bao nhiêu cục cứt và bao nhiêu cục đá sỏi.

Quả đúng không sai, cái đời người nông dân u tối làm sao mà lừa được mấy ông nhà nước, mấy ông tinh vi vô cùng. Kết quả là nhà tôi bị cấm không cho nhận gạo một tháng. Trong một buổi họp người ta đưa tên má tôi ra kiểm điểm trước dân về việc gian lận lấy đá sỏi trộn với cứt để nộp cho nhà nước. Họ không cho má tôi phân bua gì hết.

Nhưng không đành lòng nhìn cảnh con đói, bà đứng dậy thẳng thừng, dứt khoát. Bà nói: Việc tôi làm gian lận tôi chịu trách nhiệm trước toàn thể mọi người, nhưng các người nhìn đi thì cũng phải nhìn lại, nhìn ngược thì cũng phải nhìn xuôi, các người có nhìn vào nhà tôi không, nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, tôi thì suốt ngày đi làm ngoài hợp tác xã, có cục nào tôi đã ỉa ngoài hợp tác xã hết rồi, còn con tôi ở nhà, nó là con nít nó ăn bao nhiêu, ỉa bao nhiêu, nó ỉa ra cục nào chó lủm cục đó thì lấy đâu đủ cứt để mà nộp cho mấy ông.

Vậy mà bây giờ mấy ông kiểm điểm tôi, cắt gạo thì lấy gì tôi nuôi con, lấy gì ăn để mà ỉa mà đem cứt nộp cho mấy ông. Nói gì thì nói, la gì thì la, nhà tôi vẫn bị cắt gạo tháng đó. Không còn gì khốn nạn hơn thế. Nói thiệt, đến bây giờ trong hồ sơ giấy tờ ở kho lưu trữ quốc gia thì nhà tôi vẫn còn một món nợ lớn với nhà nước mà không thể nào trả nổi, đó là nợ cứt.

( Phạm Thế Việt )

Lái xe đâm người sợ bồi thường, đợi chết mới báo động, khi biết thân phận nạn nhân, anh chợt ngất xỉu

 

Lái xe đâm người sợ bồi thường, đợi chết mới báo động, khi biết thân phận nạn nhân, anh chợt ngất xỉu

“Chết tiệt!”, anh Vương lẩm bẩm một câu. Do cả hai đều đi với tốc độ cao, không kịp né tránh, chỉ nghe thấy xe máy phát ra âm thanh chói tai. Anh Vương sợ hãi đạp phanh một cách vô thức, hai mắt nhắm lại, để xe tùy ý lao về phía trước.

Một tiếng nổ mạnh, cửa kính ô tô vỡ kèm theo một tiếng thét thê lương, nghe có vẻ quen thuộc

Ảnh minh họa

Ngay lập tức, tâm trí anh Vương trống rỗng, cũng may anh chỉ bị thương một chút do mảnh vụn kính vỡ bắn vào mặt, ngoài ra không có tổn thương gì. Lấy lại bình tĩnh, anh mở cửa xe chạy đến xem người đi xe máy bị đâm trước mặt.

Bên ngoài trời tối như mực khiến anh không nhìn rõ, anh liền rút điện thoại ra. Thông qua ánh sáng mập mờ của điện thoại anh nhìn thấy một người đang nằm sấp trên đường, trên mặt dính đầy máu và mảnh vỡ thủy tinh, một vài vết thương lớn không ngừng chảy máu, trông rất đáng sợ, đã không còn nhìn thấy khuôn mặt vốn có của nạn nhân.

Đôi mắt vô thần của người đi xe máy nhìn anh Vương, cố gắng duỗi tay ra, dường như miệng lẩm bẩm: “Cứu tôi”. Anh Vương rùng mình một cái, thở hổn hển một hơi: “Không xong, đại họa đến rồi”. Không ngờ gần về đến nhà rồi còn gặp chuyện không may, anh Vương nghiến răng tức giận. Người bị đâm rất thê thảm, phải xử lý sao đây? Cứu sống được không? Có thể tàn phế hay không? Phải mất bao nhiêu tiền? Phải chịu bao nhiêu trách nhiệm? Những suy nghĩ đó liên tục xuất hiện trong đầu anh Vương. Xe chạy quá nhanh, người bị đâm lại bị thương hết sức nghiêm trọng, với tư cách là một người lái xe anh tự biết mình sẽ phải chịu trách nhiệm gì. “Chết tiệt, đâm chết có khi lại tốt hơn, xong hết mọi chuyện”, đột nhiên trong đầu anh có suy nghĩ như vậy. Đâm chết người tối đa cũng chỉ bồi thường một khoản tiền lớn nhưng nếu tàn phế thì giống như hố không đáy, chi phí y tế, tiền bồi thường, tiền phục hồi chức năng, v.v…, cộng lại là một con số thiên văn. “Lại đâm hắn một lần nữa?” Suy nghĩ khủng khiếp này thoáng hiện trong đầu nhưng anh không dám. Đâm một lần là tai nạn giao thông, đâm lần nữa là cố ý mưu sát, lợi hại trong đó anh cũng biết.

Phải làm thế nào? Báo động? Anh Vương rút điện thoại ra, định gọi báo động. “Nhưng khi gọi xong, cảnh sát và bác sĩ sẽ đến, mình không thể tránh khỏi bị khống chế, tiền bồi thường rất lớn, có lẽ bán chiếc xe này đi cũng không đủ”. Vừa nghĩ tới cuộc sống vất vả sau này và chi phí chữa bệnh dây dưa không ngừng, anh Vương liền sởn gai ốc.

Có nên gọi điện thoại báo động hay không? Anh Vương lâm vào tình thế khó xử, cảm thấy mình mang điện thoại thật là phiền phức, không có nó chẳng phải tốt hơn sao? Ở đây không có người, không có cửa hàng, chạy đến bốt điện thoại trong làng báo động xong thì hắn có lẽ đã chết vì mất quá nhiều máu, như thế sau này mình không phải lo lắng gì nữa đúng không?

Nghĩ đến đây, trong đầu anh Vương lóe lên ý nghĩ: “Điện thoại hết pin chẳng phải cũng giống như không có điện thoại sao? Thật là ngu ngốc!”. Anh Vương run rẩy mở nhạc trên điện thoại, tiếng nhạc lúc thì êm tai, lúc thì cao vút, trầm bổng, cộng với tiếng rên rỉ của nạn nhân. Trong bóng đêm tấu lên một khúc nhạc ai oán chết chóc. Khi bật đến bài hát thứ hai, nhờ ánh sáng của điện thoại, anh Vương nhìn thấy nạn nhân rủ người xuống, không còn giãy dụa nữa. Anh đưa tay lên mũi nạn nhân thấy hắn đã ngừng thở. Lúc này, pin điện thoại cũng hết, chung quang bổng trở nên đen kịt, anh Vương hoảng sợ lập tức thu tay về thét lên: “Mẹ ơi! Khiếp sợ quá”. Người đã chết, điện thoại không còn pin, anh Vương hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh rồi chạy vào trong thôn. Sau khoảng nửa giờ, anh đã chạy đến cửa thôn, gọi xong điện thoại báo động, lại nhanh chóng chạy vài bước nữa đến nhà mình. Vợ anh đang đứng ở cửa nhìn ra ngoài, vẻ mặt lo lắng.

Nhìn thấy chồng hấp tấp chạy về nhà, vợ anh Vương mắng: “Anh đi đâu bây giờ mới về? Sắp sang năm mới rồi còn không mau về nhà, cơm canh đều đã nguội lạnh hết rồi.”.Anh Vương lo lắng xua tay nói: “Đi đi, đã xảy ra chuyện rồi, tôi lo lắng lắm, hai mẹ con ăn cơm trước đi, tôi phải đi ngay, xong việc mới trở về.”

“Đã xảy ra chuyện gì? Con tôi đâu?” Vợ anh nóng nảy: “Sao chỉ có một mình anh trở về? Con đâu rồi?”

“Con ư? Con đi đâu rồi hả?” Trong đầu anh Vương bỗng thấy có điềm chẳng lành, nắm lấy quần áo của vợ.

“Con thấy anh muộn như thế chưa về, sợ anh gặp chuyện không may nên tìm bạn mượn xe máy để đi đón anh, trên đường anh không gặp nó sao?”

“Aaaa…”, anh Vương kêu to một tiếng, dậm chân nói: “Ôi! Con tôi”, mặt tối sầm lại, đột nhiên ngã xuống đất.

Người ta thường nói: “Cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp”. Nếu như khi xảy ra tai nạn, anh Vương nhanh chóng tìm cách cứu sống nạn nhân thì sự việc không diễn ra bi thương như vậy. Nhưng hiện nay, nhiều người sống chỉ vì lợi ích bản thân mà không có suy nghĩ cho người khác, thậm chí sẵn sàng làm việc ác. Đất trời có quy luật nhân quả, người hành ác sớm muộn có báo ứng, không đến với bạn thì sẽ là người trong gia đình, thế hệ sau… Giúp người chính là giúp mình, làm việc thiện ắt được phúc báo. Ai ai cũng có suy nghĩ như vậy, chẳng phải xã hội sẽ tốt đẹp hơn sao?

Huy Hoàng – Theo DKN

Ngộ Nhận

 Ngộ Nhận

 Đoàn Thị

Định cư hơn hai mươi năm, nàng chọn đúng xóm Little Sàigòn, thủ phủ tỵ nạn có đồng hương đông vui mà sinh sống.

Thuở trước nàng có đến mấy cuộc tình đẹp, vài đời chồng qua bạn bè mát tay giới thiệu, mấy mối “giữa đường gãy gánh” đồng cảnh ngộ, chàng nàng hăng hái mơ chuyến này thần tình ái đón chào hai đứa mình.

Sau vài năm chung sống cá tính của hai người không còn thích hợp, mỗi người tự động cất gánh ra đi không kèn trống khác hẳn “ngày hợp hôn” bạn bè đông đủ chúc mừng trăm năm hạnh phúc.

Để chấm dứt cảnh lanh thang đi tìm mái ấm nương nấu cuối đời, nàng quyết quay trở lại tình trường tuy nhiều chông gai, nhưng ai biết được giờ cuối nàng trúng lô độc đắc.

Chuyến này nàng khôn ngoan chọn bô lão trên bẩy bó cho chắn ăn, bà mai quen thuộc cũng là bạn của nàng nên việc tuyển chọn “phò mã” không khó, đây rồi một bác bảnh bao từ vóc dáng cho đến hầu bao rủng rỉnh đô la.

Ngày ra mắt chàng quần tây áo sơ mi thẳng nếp, nàng thong thả trong chiếc áo đầm đơn sơ tại quán cà phê, điểm hẹn quen thuộc của nhóm các bà cô đơn mà bà mai là chị cả đầu têu.

Tuy lớn hơn nàng mười mấy tuổi nhưng chàng còn phong độ chán, dân chơi tennis cao ráo, mình dây, tiền hưu vài ngàn đô một tháng, con cái có gia đình đã ra riêng, rứa là vài năm nay chàng neo đơn dữ dội.

Bà mai bảo mối này bảnh, Good deal, nàng cũng thấy vậy, tuy nhiên tính nết của hai người mới là yếu tố quyết định, ít nhiều họ cũng phải “nhìn về một hướng” mới tính chuyện dài lâu được.

Lần đầu mời nàng đến nhà dùng cơm trưa, chàng cố tình để trên bàn salon mớ tạp chí ”Salut les Copains”, truyện tranh Tintin…, chàng tự xưng cựu học sinh Taberd Sàigòn thập niên năm mươi.

Nàng cũng dân trường Tây nên học sinh Taberd chưa phải là thứ gộc như JJ Rousseau trường Nam Trung Học của Pháp, tuy nhiên chi tiết này cũng là điểm cộng trên bảng thành tích của chàng.

Trên bẩy mươi chàng không có bệnh nan y, chủ một căn nhà trên nửa triệu đô, tiền hưu cao hơn cả lương tháng của nàng, trình độ học vấn không cao hơn nàng, một lợi thế để nàng “làm giá”.

Xe Lexus, quần tây, sơ mi, áo khoát, cà vạt, nước hoa…chàng xài hàng Pháp, thức ăn chàng chuộng cơm phở, đặc biệt món thịt kho trứng một nồi lớn ăn cả tuần mới hết, ngon, rẻ, bổ cho túi tiền.

Tính “từ đầu đến chân” thì chàng được xếp vào hàng cao thủ tuy chưa đạt tới điểm “đụng trần” nhưng bảnh hơn khối bô lão sau khi ly dị vách ba lô đi thuê phòng trọ.

Tiêu chuẩn của chàng dư sức tìm một em “Sàigòn Mới” từ VN sang, trẻ, xinh có cả rổ “tiền tươi” chứ nị, muốn “nàm ăn” kiểu gì chả được, mấy mợ sồn sồn cán cộng, vợ cũ của cán cuốc, tư sản đỏ vốn liếng vài triệu “đô na” nà chuyện cò con.

Chàng không ưa vixi, ngại cảnh đồng sàn dị mộng, đêm khuya mợ cán đỏ lên cơn mộng du cùng bác đảng xách dao đòi phanh thây bọn Mỹ ngụy thì tàn đời “gia già” của chàng mất.

Ta về ta tắm ao Ta cho chắc ăn, mà nàng trông cũng được, tính hơi khù khờ, cả tin như ri chàng tha hồ, chồng xướng vợ tùy, “trên bảo dưới vâng lời” hiểu theo nghĩa nào cũng đúng.

Trước đám cưới chàng hứa hẹn sẽ cho nàng đứng tên chung căn nhà, lỡ một mai chàng quy tiên nàng có nơi nương nấu tuổi già, tình nghĩa nặng cả trăm ngàn đô la bảo sao nàng không nhắm mắt gật đầu nhận lời cầu hôn của chàng.

Sau hai tháng lui tới, chàng ký giấy hôn thú đúng mùa Noël, Giáng Sinh năm nay chúng mình hết cô đơn, con của chàng mừng húm có người nâng khăn chùi mũi lúc chàng sụt sùi ấm đầu cảm mạo.

Sẳn đà đầu năm họ tổ chức đám cưới cho xôm tụ, thiên hạ ăn “New Year”, ai đứa mình ăn “New Love”, hằng năm cả thế giới cùng hai đứa mình mừng kỷ niệm ngày cưới, tuyệt chiêu.

Tội nghiệp chị Hai của nàng từ tiểu bang lạnh khăn gói đi ăn cưới lần thứ ba cô em út, chị hy vọng nhất quá tam, nàng sẽ neo bến này đến cuối đời.

Lần đầu giáp mặt em rể lớn hơn mình chục tuổi, miệng lưỡi ngọt như mía lùi, ngọt mật khiến con ruồi mù lòa em chị sẽ chết chắc chuyến này, chết ngộp trong hạnh phúc hay sẽ chết lần mòn trong bất hạnh. Chị chợt rùng mình, mơ hồ thấy viễn cảnh không mấy sáng lạng sắp tới nhưng nói năng chi bi chừ cũng thừa, ván đã đóng thuyền mất rồi

Một mái nhà House sạch bóng làm hai quả tim bắt đầu va chạm, chàng có “bệnh ở sạch”, nhất cử nhất động chàng lau chùi liền tay, sáng ra vừa đánh răng xong chàng lau sạch, lau khô ngay cái lavabo.

Ly tách ăn sáng vừa úp lên sóng chén chàng chùi cái sink bóng mộng, cầu tiêu nhà tắm đều đúng quy trình như rứa khiến nàng ngại vào WC trước khi đi làm đành “nín” vào sở tính tiếp, cái nín chịu đầu tiên của nàng dưới mái nhà lý tưởng khiến nàng bắt đầu “suy tư”.

Cơm canh của chàng thật đơn giản, thịt ba rọi, trứng gà làm một nồi kho tổ chảng ăn cả tuần, rau rợ ra vườn hái ăn, hết thịt kho ăn cơm trứng chiên, mì gói …tiền chợ mỗi tuần trên dưới mười đô.

Hôm nào chán cơm, nàng mua phở bò, bún bò Huế, hủ tíu mì… tô xe lửa mang về nhà hai đứa húp, nước lèo dư hôm sau chàng trụng thêm bánh phở khô, hủ tíu khô ăn tiếp.

Theo đúng cách sống Mỹ, hai đứa chung nhà sẽ mở một Account chung để lương em, tiền hưu của anh hằng tháng rót hết vào đây, chung gạo thổi cơm, công chồng của vợ ấy mà.

Sau vài tháng “góp gạo”, chàng đề nghị nàng rút vài chục ngàn trong Account riêng của nàng và lấy thêm vài chục nữa bên 41k của nàng bỏ vào Account riêng của chàng, tích tiểu thành đại để chành trả bớt nợ nhà, sau đó chàng sẽ đưa tên nàng vào danh sách thừa kế căn nhà.

Nàng gom gần hết gia sản rót vào căn nhà tương lai nàng ngỡ có phần đóng góp của mình, chàng cũng rút vài chục ngàn trong 41K riêng của mình cho đủ trăm ngàn trả bớt nợ nhà.

Thủ tục rút tiền, trả nợ ngân hàng đợt đầu hoàn thành nhanh chóng nhưng việc ghi tên nàng vào tờ chủ quyền căn nhà chàng lắc đầu bảo chưa đúng lúc, nàng mơ hồ nhận ra chân tướng của chàng, lòng nàng bất an.

Để ăn mừng phi vụ đầu tiên thành công như dự tính, trả bớt nợ nhà nhưng chỉ riêng chàng sở hữu căn nhà, chàng mời bạn bè đến nhà ăn cơm, một kiểu Potluck quen thuộc của dân mình, chàng mua gà vịt quay bánh mì, khỏi nấu dơ cái sink.

Bạn bè mừng cho nàng tuổi già có nơi nương tựa, không phải đi ở thuê như dạo trước, chàng có khuất bóng nàng cũng có nhà ở, có tiền sống tới chết.

Thúy bạn thân của nàng khen :

– Mi tốt số thật, hậu vận có chồng bảnh bao, nhà cửa đàng hoàng, ở xóm Bolsa đầy cám dỗ này mà hắn không xiêu lòng trước đám phụ nữ độc thân láng mướt, hắn thuộc loại khôn ngoan đấy.

Nàng cười không trả lời, chua chát cho mớ tài sản nàng vừa chung đủ cho chàng trả bớt nợ nhà mà vẫn hoang mang cho thân phận ăn nhờ ở đậu của mình nhưng đành im lặng cho yên nhà ấm cửa.

Nàng ăn sang như Tây dù nàng không ăn diện đồ Pháp như chàng, kem, chocolat, phô mai nàng quen mua ở Trader Joe, bánh gâteau mua ở tiệm bánh Đại Hàn.

Chàng “ăn mắm hút dòi”, mua bánh Tây ở tiệm bánh Ta, gâteau, bánh kem, kem tráng miệng…giá không quá năm đô, mua bánh mì thịt lựa tiệm bán hai tặng một, ba ổ bánh mì ăn cả ngày thế cơm, đói ăn thêm mì gói.

Nàng đi làm, chàng đi chợ mua đủ thứ rẻ tiền cho hai đứa ăn, nàng ăn không vô cũng ráng nuốt mấy tháng liền, hột cơm chính tới nhưng vẫn sượng ngang cổ họng nàng.

Một hôm nàng bỗng giựt mình tự hỏi, ô hay mình lấy chồng hay lấy “ông nội” phải vâng phục cho hết kiếp, câu hỏi một lần nữa làm nàng “suy tư” dữ dội.

Sau này cuối tuần nàng giành đi chợ mua thức ăn đắt tiền nhưng ngon nên hai người ăn hết sạch, đầu tuần hai đứa ăn tiếp đồ ăn cũ chàng nấu tuần trước.

Nuốt không trôi cơm thịt kho rệu rạo của chàng, tan sở thỉnh thoảng nàng ghé tiệm mì, phở, bún Bò, bún riêu làm một tô, về nhà ăn qua loa cho qua ngày đoạn tháng.

Từ ngày lấy chồng, nàng tiếp tục cuộc sống như Mỹ, sắm áo quần, bóp ví, giầy cao gót, cuối tuần đi ăn nhà hàng, mùa hè nàng đòi đi du lịch, mùa đông ra đảo Hawaï tắm nắng.

Nàng nghĩ có làm có hưởng khiến chàng chóng mặt, ăn để sống chàng còn không dám liều ăn uống đàng hoàng, nói gì đến chuyện ăn mặc, du sơn du thủy như ri chàng chịu sao thấu.

Chàng nghĩ sống kiểu này lương tháng nàng mang về sẽ bị thâm thủng, tiền lương thặng dư sẽ “teo dần”, nói gì cũng là tiền của nàng, cấm cản cũng không được, để “thu hồi” khoảng chi tiêu xa hoa của nàng, chàng đã thao thức bao đêm mới nghĩ ra kế sách .

Một sáng chủ nhật chàng thức sớm chạy ra tiệm bánh của ông Tây gốc Việt phố Bolsa, mua bánh sừng trâu (croissant) đãi nàng.

Bên bàn cà phê, chàng đẩy dĩa sừng trâu trước mặt nàng mời mọc :

– Bánh nóng hổi anh mua ở tiệm ông Tây Mít, em ăn đi.

Nàng hơi ngạc nhiên trước vẻ “galant” đã lặng sâu sau ngày cưới, sáng nay tính hào sản bỗng nổi lên lều bều như bèo, rứa là có chuyện vui hay buồn hãy đợi đấy.

Giọng chàng cắt đứt suy nghĩ của nàng :

– Anh thấy em thích mua sắm cũng đúng, phụ nữ phải ăn diện là chuyện thường, tuy nhiên để tiền lương của em không bị hao hụt mỗi tháng em nên làm thêm (over time) bù vào khoảng chi tiêu kia.

Chàng dứt lời nàng chóng mặt vì không ngờ chàng bắt nàng “hoàn lại” số tiền nàng lỡ chi tiêu, dù đó là tiền lương của nàng.

Thở thật sâu, nàng nhỏ nhẹ :

– Anh à, em nghĩ em có mua sắm ăn tiêu gì cũng chưa xài hết số tiền em mang về mỗi tháng và chắc chắn không lẹm vào lương hưu của anh, anh lo chi chuyện “con bò trắng răng”.

Buổi ăn sáng kết thúc với chiếc bánh sừng trâu nàng cắn được một nửa, nàng chợt hiểu, nàng là con bò để chàng vắt sữa, nàng trở thành con bò hồi mô mà phải đợi chàng lên tiếng nàng mới giật mình nhận ra mình “ngu như bò”. 

Từ đó nàng ít mua sắm để chàng bớt lo âu nhưng nàng lại thấy phiền lòng, nàng lại suy tư, suy diễn ở tuổi này nàng phải chịu sự kiểm soát, sự chỉ bảo của thằng “ông nội”, “chồng là tình nhân, là cha, là ông cố nội” câu này nghe quen quen.   

“Lady first” của xứ Mẽo hạ đo ván đàn ông, chàng là dân “mít đặc” làm răng chấp nhận kiểu văn minh quá trớn của Mỹ, đàn ông không gia trưởng đâu phải là đấng trượng phu, “Đông Tây” choảng  nhau ở điểm này.

Cú sốt “tiền em là tiền của anh” em không nên tiêu dùng cho riêng em chưa nguôi, mấy tháng sau nàng phát giác tiền dư của hai đứa trong Account chung từ dạo chúng mình góp gạo thổi cơm bị thổi bay mất tiêu.

Làm con tính rợ, tiền lương của nàng trừ chi phí mỗi tháng dư trên một ngàn đô, mười mấy tháng chung sống số tiền thặng dư của nàng không cánh mà bay một cái vèo, dĩ nhiên vài chục ngàn tiền hưu của chàng cũng được di dời về nơi mô nàng phải hỏi cho ra lẽ.

Tưởng chàng e ngại khi nàng hạch sách, nghe này giọng chàng chắc nịch :

– Anh rút tiền dư trong Account chung đưa qua Account riêng của anh coi như tiền tiết kiệm, nếu để chung với tiền chi tiêu mỗi tháng khó tính.

Nàng thất kinh hồn vía vừa nhận ra chân tướng …cướp, nàng nín thở hỏi một câu ngớ ngẩn :

– Nếu em muốn rút một ít tiền trong đó thì sao ?

Chàng trả lời như đùa :

– Dễ ợt, anh sẽ rút tiền đưa lại cho em, hiện nay tiền lương mỗi tháng của em còn dư trong Account chung, em cần gì đến số tiền thặng dư kia, đã bảo là tiết kiệm thì chớ có đụng vào.

Thôi rồi nàng gặp phải một “gangster” thứ thiệt, tiền đã vào tay chàng làm gì có đường ra, tiền mất tình chưa đủ mạnh để nàng vượt qua con sóng lớn, nàng dại dột chui vào hang cọp, không bị xơi tái mới lạ.

Mang tiếng là vợ chủ nhà nhưng nàng chả có chủ quyền dù phải nộp gần hết gia sản cho chàng, lương tháng cũng bị chặt đẹp, cơm canh ăn để sống qua ngày chứ không phải ăn ngon mặc đẹp, “chơi bời” du lịch du liếc quên đi em.

Đời nàng lọt thỏm vào ngõ hẹp, hẹp đến khó thở, giời ạ vợ chồng son mới cưới vừa qua “thôi nôi” vài tháng, mối tình mong manh vừa chập chững biết đi đã ngả quỵ, nàng rơi vào cơn trầm cảm sâu thâm thẩm.

Bạn bè cố vấn nàng phải đòi lại số tiền bị tịch thu, nàng suy đi nghĩ lại, không đòi thì nàng mất ăn mất ngủ, mà đòi chàng trả tiền thì khác gì tuyên chiến với chàng, đụng phải du đãng thứ thiệt núp bóng “Gentleman” liệu nàng có sức cầm cự nổi những ngày sau sắp tới.

Sau bao đêm trăn trở nàng gom hết can đảm đem nỗi lòng rối rắm giãi bày với chàng như ri :

– Anh à, anh có thể giải thích cho em hiểu tại sao anh tự tiện chuyển tiền dư từ Account chung đưa vào Account riêng của anh ?

Thắc mắc này chàng nghi ngại có ngày nàng sẽ đưa ra, không ngờ nó đến sớm hơn dự đoán của chàng. Không sao chàng từng cuỗm gọn tiền của hai bà vợ cũ một cách tài tình, nàng là con nai tơ cũng sẽ cùng số phận như họ thôi, chàng là dân cao thủ dư sức xỏ mũi con bò ngu ngơ này.

Chàng thở dài, chậm rãi :

–  Em khéo lo, anh lấy số tiền đó đưa vào Account riêng của anh để sau này tiện trả tiếp nợ nhà.

Nàng thở ngắn, hỏi ngay :

– Anh đã lấy tiền tiết kiệm của em trả bớt nợ nhà, bây giờ anh lấy thêm tiền lương của em tích lũy trả dứt nợ trong khi em vẫn chưa được đứng tên chủ quyền nhà, như vậy là anh không công bằng.

Chàng tỏ vẻ khó chịu :

– Em khéo lo, anh chỉ trả dần nợ chứ đã dứt nợ đâu, khi sạch nợ anh sẽ làm giấy thừa kế cho em ngay.

Thế là nàng tàn đời, tiền của nàng trao vào tay chàng rồi nhưng cháo chưa chính chưa nhừ làm răng múc cho nàng một tô húp đỡ dạ đây, kiểu này nàng sẽ loét bao tử dài dài.

Nhưng dạ dày không loét mà nàng bị rối loạn tâm thần, tự dằn vặt đến tuổi này còn nhìn nhầm người, nhầm lẫn tình không mua bán với kẻ bán linh hồn cho thần tiền từ lâu rồi. 
Tiền của nàng đang có bỗng chui tọt vào túi chàng mang cho chàng niềm vui vô tận, nàng vật vờ như đứa vô hồn vì tiền mất mà tình cũng bay xa.

Ai biểu nàng ngộ nhận nghĩ mình học thức hơn chàng, trẻ hơn chàng một con giáp mà không nhận diện chàng chả giống con giáp nào cả.

Chàng sinh dưới ngôi sao đôla, tiền là Tiên là Phật, dù nàng có trẻ, có giỏi cách mấy mà không đẻ ra thật nhiều tiền làm răng hớp hồn chàng được.

Đoạn cuối cuộc tình bèo nhèo là buổi hẹn ngoài tòa ly dị, sau hai mươi ba tháng chung sống, ông tòa gõ búa một cái cụp trả tự do cho hai kẻ nhìn nhau với ánh mắt hình viên đạn.

Hú hồn nàng vừa thu lại mấy chục ngàn bị giam trong Account của anh chồng cũ, nàng thề chuyến này không thèm lấy chồng, chỉ tìm bạn tâm giao uống cà phê, du lịch …cho vui Tuổi Hạc.

Ngộ thật, làm gì có bô lão chịu kết bạn tâm giao như ri, họ cần một tấm lòng, một bàn tay chăm sóc những ngày trở trời đau yếu, nàng chưa bao giờ là vợ hiền, vợ đảm đang, bảo sao nàng không ngộ nhận dài dài.

Jan 2018

From : Tu-Phung gởi

Thằng Ngụy Con

 Anka Pham‘s post.

 

Image may contain: one or more people and outdoor

Anka Pham to Miền Nam Việt Nam

Thằng Ngụy Con

Khi bị chuyển về khám đường Bà Rịa, tôi bị nhốt vào một căn phòng rất nhỏ. Trong phòng ấy đã có sẵn một người: ông Đoàn. Cửa phòng là một bửng sắt khá dày, bị sét rỉ toàn bộ, chứng tỏ nó đã khá lâu đời. Sét rĩ đã xoi tấm cửa này
thủng nhiều lỗ cỡ đầu ngón tay. Đặc biệt có một lỗ dưới cùng rộng có thể thò lọt cả bàn tay. Những lỗ đó đã cho chúng tôi chút ánh sáng trong căn phòng ít khi được mở này. Một hôm tôi đang rầu rĩ bỗng nghe nhiều giọng nữ xôn xao bên ngoài. Tôi chạy lại cửa dán mắt vào mấy lỗ thủng. Thì ra phòng tù nữ ở gần phòng tôi được cho ra tắm giặt. Thật là một cảnh sinh hoạt rộn ràng. Tiếng gàu thau chạm nhau rổn rảng, tiếng người thúc giục nhau, chen lấn cãi cọ nhau ỏm tỏi. Họ giặt đồ, tắm rửa, chải tóc, phơi quần áo….trông ai cũng làm việc với vẻ gấp rút. Người quá đông mà chỉ có hai cái giếng, thì giờ cho phép lại giới hạn, nên họ sợ hết phần….

Tôi bỗng giật mình khi thấy một thằng nhỏ từ trong hiên nhảy ra. Nó chạy vụt lại phía hai con vịt xiêm đang rỉa lông cho nhau trước cửa phòng tôi làm chúng hoảng hốt bay xa một đoạn. Một người đàn bà gọi với:”Không được nghịch, mẹ đánh đấy!”Thằng nhỏ đứng lại.. Qua giây phút hoảng hốt, đôi vịt lại tiếp tục rỉa lông cho nhau. Thăng nhỏ khoảng chừng hai, ba tuổi, trắng trẻo, khaú khỉnh làm sao! Tại sao nó lại lọt vào chốn tù ngục này? Nó làm sao chịu được cảnh thiếu ăn, thiếu bạn bè, thèm khát đủ thứ, ngaỳ ngày ru rú trong một căn phòng chật hẹp với không khí ngột ngạt, hôi hám ấy? Tâm tính nó sẽ ra sao về sau?Thằng nhỏ có vẻ khoái đôi vịt xiêm lắm. Nó đang say sưa ngắm chúng thì mẹ nó gọi trở về phòng. Nó vưà đi vừa ngoái cổ nhìn lui, mẹ nó phải giục mấy lần.

Tôi quay lại hỏi ông Đoàn:-Bên phòng nữ có một thằng nhỏ dễ thương quá! Vì sao nó phải vô trong này ông biết không?Ông Đoàn nói:
-Nghe đâu cha nó là một viên thiếu tá đã đi Mỹ còn mẹ nó là một nhân viên Thiên Nga. Khi tôi vô đây đã thấy có nó rồi! Lúc đó nó mới biết đi lẫm đẫm. 
Tôi tức cười:
-Sau này có thể nó phải ghi vào lý lịch: Mới một tuổi tôi đã phải sống trong khám đường….

Mấy hôm nay tôi chỉ được phát mỗi ngày hai vắt nhỏ bột sắn xay chia làm hai bữa với một ít canh cải bẹ xanh mặn chát.
Không hiểu thằng nhỏ có được phát tiêu chuẩn khẩu phần không hay phải ăn vào phần của mẹ nó? 
Tôi nói:
-Thằng nhỏ mặc sức mà thèm đường thèm sữa!
Ông Đoàn cười:
-Ông khỏi lo! Mấy ngày thăm nuôi nó được cán bộ thả đi lung tung, người ta cho nhiều quà lắm. Ngay taị phòng nó lại có rất nhiều người đã từng làm mẹ, làm chị, chẳng ai nỡ để một đứa nhỏ dễ thương như thế đói đâu! Tôi đã từng thấy một con chó mẹ nằm cho mấy con mèo con bị mất mẹ bú.

Thiên tính thương trẻ của các bà làm mẹ hẳn còn cao hơn nhiều!
Tôi cảm thán:
-Vậy sao? Hoá ra nó lại sướng hơn lũ con tôi! 
Tôi có ba thằng con, thằng út có lẽ cũng cỡ tuổi nó. Khi tôi đi tù nó mới vừa đúng một tuổi, chưa biết đứng. Trước kia mình đâu biết dành dụm lo xa, khi vào tù tôi chẳng có chút gì để lại cho vợ con cả.. Nghĩ đến cảnh một người đàn bà chân yếu tay mền phải chạy vạy để nuôi sống ba đứa con giữa lúc này tôi đau ruột lắm. Nhưng ăn năn cũng muộn mất rồi!

Mấy hôm sau phòng tù nữ lại được mở cho ra tắm giặt. Thằng nhỏ sau khi tắm rửa xong lại chạy sang trước phòng tôi. Không thấy đôi vịt, nó ngồi vào bậc thềm lưng dựa vào cửa phòng. Tôi nhẹ thò ngón tay ra lỗ thủng chọt vào lưng nó một cái. Nó giật mình nhỏm dậy quay lại:
-Hết hồn!
Tôi lấy làm thú vị khi nghe một thằng tí hon lại dùng cái tiếng “hết hồn” có vẻ người lớn đó. Biết tôi đùa, thằng nhỏ lại ngồi xuống chỗ cũ.
Tôi hỏi:
-Chaú tên gỉ?
-“Nguỵ con”!
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
-Chú hỏi cháu tên là gì?
-“Nguỵ con”!
-Ai đặt tên ấy cho chaú?
-Mấy chú cán bộ!
-Thế mẹ cháu không đặt tên cho cháu à?
-Có, mẹ chaú đặt tên “con”, mấy chú cán bộ thì kêu “nguỵ con” rồi các cô dì trong phòng cũng kêu cháu là ” nguỵ con”!
Trời đất ơi! Cái tên này có thể tạo một ấn tượng khó đoán khi thằng nhỏ khôn lớn! Tôi định hỏi vài câu nữa nhưng nó đã bị gọi về phòng .

Rồi ngày thăm nuôi đến-ngày đó coi như ngày Tết của khám đường. Các phòng giam đông người đều được mở cửa suốt thời gian cho thăm để người ta tiện đưa đồ thăm cũng như dẫn dắt những người được gặp người thân ra vào. Những người được ra gặp người thân phải mặc đồ lành sạch. Ai không có phải đi mượn đồ của người khác. Vì vậy, ngày thăm nuôi tù vẫn ăn mặc sáng sủa khác hẳn ngày thường. Các cán bộ cũng dẹp bớt cái vẻ nghiêm khắc hàng ngày để hồ hởi thưởng thức những hơi khói thơm….

Những người không được thăm cũng vui hơn vì ít nhất cửa phòng mở họ cũng hưởng được chút ánh sáng và không khí dễ thở. Họ cũng có thể ké được chút quà tươi hoặc sớt được phần ăn tiêu chuẩn của người được thăm không dùng tới. Những phòng ít người phần nhiều bị kỷ luật, ít được thăm, cưả đóng im ỉm, nhưng ít nhất ngaỳ đó họ cũng yên trí không bị cán bộ quấy rầy. Nói chung, trong ngày thăm nuôi, bất cứ ai đang sống tại khám đường cũng chia được ít nhiều niềm vui, dù chỉ là niềm vui tạm bợ giữa một hoàn cảnh bất hạnh. Kẻ hưởng được hạnh phúc thật sự hoạ chăng chỉ có một người: “thằng nguỵ con”!

Trong lúc cán bộ và tù trật tự bận rộn mang đồ thăm hoặc dẫn tù đi gặp người thân thì thằng nhỏ tung tăng chạy hết phòng này đến phòng khác. Nó rất khôn, cứ gặp cán bộ lại cất giọng lảnh lót “chào cán bộ” thật dễ thương. Vì thế không ai la rầy, cản trở nó cả. Tôi nghĩ chính thằng nhỏ là một nhân tố làm giảm bớt vẻ ngăn cách giữa cán bộ và tù. Đến đâu nó cũng được tiếp đón nồng hậu, quà cứ nườm nượp vào tay nó. Bao nhiêu lần nó sung sướng ôm đầy quà trên tay: bánh tráng, cốm bắp, kẹo….về giao cho mẹ nó.

Trông nét mặt hớn hở của nó vào những lúc ấy ai mà chẳng vui lây! Rồi một tháng trôi qua, lại đến kỳ thăm nuôi.. Hôm ấy trời mưa lâm râm và có gió hiu hắt. Tôi lại dán mắt trước cửa hưởng ké niềm vui của mọi người. Thằng nhỏ lại thả sức tung tăng đi nhận quà. Thấy trời hơi lạnh, lại sợ con bị ướt nên mẹ nó đã cẩn thận bận thêm cho nó một cái aó mưa bằng nylon khá gọn. Lần ấy, có lẽ vì quà tặng hơi nhiều, thằng nhỏ lại không biết sợ lạnh, nó cởi cái aó mưa làm đồ đựng. Khi nó đang ôm bọc quà hí hửng chạy về phòng thì gặp Sơn, một cán bộ nghiêm khắt nhất khám đường. Gã tươi cười đón nó lại:
-“Nguỵ con” có nhiều quà quá, chia cho chú vơí nào!
Thằng nhỏ lính quýnh giẫm vào chỗ đất trơn, té oạch một cái làm quà văng lung tung. Sơn cúi xuống lượm giùm. Xong,
gã vờ bốc lấy một goí giấy, bảo:
-Gói này cho chú xin nghe!
Thằng nhỏ tưởng thật hoảng hốt:
-Không được đâu! Gói này không được đưa cho cán bộ coi!
Nghe thằng nhỏ nói hơi lạ tai, Sơn nghi ngờ mở cái gói ra xem. Gã bỗng trừng mắt đạp vào ngực thằng nhỏ một cái ngã ngửa. Thằng nhỏ nằm lặng một hồi mới khóc ra tiếng. Ai nấy chới với chưa hiểu chuyện gì thì nghe tiếng Sơn nạt:
– Đ.M. đồ cái giống nguỵ ra khác, chưa ráo máu đầu đã học phản động!
Quay lại phiá anh tù trật tự, Sơn hét:
-Bắt nó quỳ dưới cột lưới bóng rổ!
Lập tức thằng nhỏ bị lôi dậy, kéo đi. Liền đó Sơn dẫn một anh tù trật tự khác đến phòng B5. Gã đứng trước cửa hoạnh hoẹ hỏi chuyện. Lát sau một anh tù vưà mới được thăm nuôi hồi sáng bước ra khỏi phòng. Sơn bắt anh tù đứng nghiêm rồi tha hồ đấm đá. Anh tù nhiều lần bị ngã nhưng Sơn lại bắt đứng lên để đấm đá tiếp. Trong chốc lát anh tù đã xác xơ, rục rã. Nhưng Sơn vẫn chưa tha, gã còng cắp cánh tay anh ta lại rồi sai người đưa vào phòng kỷ luật .

Trời vẫn mưa lâm râm, gió vẫn hiu hắt. Thằng nhỏ vẫn quỳ dước chân cột lươí bóng rổ. Sơn vẫn tiếp tục ra vào kiểm soát việc thăm nuôi. Quá nóng ruột, người mẹ phải liều vói mặt ra khỏi phòng van xin chéo véo. Nhưng Sơn cứ phớt lờ, cả giờ sau gã mới chịu cho thằng nhỏ về phòng. Người nó lạnh như cục nước đá, run lập cập, nói không thành tiếng… Buổi tối, khi đưa cơm vào phòng tôi, Sơn cảnh cáo:
-Các anh coi chừng, chớ lợi dụng “thằng nguỵ con” để thông tin tức với nhau! Dù là chỉ hỏi thăm sức khoẻ tôi cũng trị trắng máu ra!

Tôi hiểu ngay anh tù đã phạm nội quy của khám đường. Về sau tôi được biết rỏ hơn là anh tù đã gởi quà với mấy lời nhắn cho một người quen ở phòng tù nữ. Vụ trừng phạt ấy cứ lởn vởn ở trong đầu tôi suốt đêm. Tội nghiệp thằng nhỏ đã bị đòn lại phải chiụ ướt lạnh suốt mấy giờ.

Hôm sau, khoảng nửa đêm tôi phải thức giấc bởi tiếng kêu cứu từ phòng tù nữ:
-Báo cáo cán bộ, phòng A5 có người bệnh nặng!
Tôi giật mình: biết đâu lại là thằng nhỏ? Tiếng từ phòng trực hỏi lại:
-Nặng bao nhiêu ký?
Tiếng kêu cứu từ phòng nữ có vẻ khẩn thiết hơn:
-Báo cáo cán bộ, phòng A5 có người sắp chết!
-Nghe rồi, đợi đó giải quyết!

Chừng nửa giờ sau tôi nghe có người nói chuyện ồn ào trước sân. Có lẽ cán bộ y tế đã đến. Rồi cả khám đường yên ắng trở lại.Gần sáng tôi lại bị ông Đoàn đánh thức:
-Ông nghe gì không?Trời ơi, rõ là tiếng kêu khóc thảm thiết của một người đàn bà:
-Con ơi con, sao nỡ bỏ mẹ mà đi như thế con ơi! Con tôi chưa đầy ba tuổi đã biết gì đâu mà phản động, đau đớn lắm trời ơi!……
Tôi giật mình thở dài: Trời ơi! thằng nguỵ con! Liền đó tôi nghe tiếng nạt nộ:
-Con bị sưng phổi không chiụ lo báo cáo sớm, bây giờ không để người ta chôn cất còn khóc gào đổ thừa cho ai? Tiếp đó tôi lại nghe tiếp nhiều tiếng nấc nghẹn ngào….

Ngô Viết Trọng    

ÔNG THÔNG GIA – VŨ THƯ HIÊN

  ÔNG THÔNG GIA –  VŨ THƯ HIÊN
1-Tôi sung sướng đằm mình trong nước mát. Trên đầu tôi, quanh tôi, nắng chói loà. Tôi bập bềnh trôi. Có tiếng sáo diều văng vẳng. Đang say sưa ngụp lặn, bỗng có một cái gì va vào tôi làm tôi vùng vẫy, sặc̣ sụa.

– Cậu ngủ say quá thể! – nghe tiếng người, tôi nhận ra tiếng cô Lương – Dậy đi, cậu.

Cô Lương lột tấm chăn tôi trùm kín đầu. Tôi giằng lại, nhưng không được. Thế là tỉnh hẳn.

– Có việc gì mà cô đến sớm thế? – tôi tung chăn ngồi dạy, càu nhàu.

Tôi tiếc giấc mơ. Tiếc lắm. Không dễ gì gặp được một giấc mơ như thế. Với tôi, dòng sông quê hương mà tôi vừa được thoải mái trầm mình trong đó giờ đây xa lơ xa lắc. Tưởng chừng nó đã mất hẳn trong trí nhớ. Giấc mơ như một món quà bất ngờ. Món quà tan biến chỉ vì cái nhà cô Lương thổ tả kia.

Tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp đi về phía bếp, tiếng nước đổ vào ấm, tiếng bật công tắc.

– Sớm gì mà sớm. – tiếng cô Lương nói – Trưa rồi.

Tôi vẫn còn chưa hết bực mình. Mở mắt thấy kim đồng hồ trên bàn chập nhau ở con số 12. Trưa thật rồi.

Cô Lương chậm rãi pha trà. Giữa chúng tôi, hơi trà ngào ngạt và ấm áp bốc trên miệng chén. Ở khoảng cách gần, tôi thấy cô già sọm – hai mắt lõm sâu, má hóp, da mặt đã có màu bao xi măng. Mấy chiếc răng cửa hơi đưa ra, vốn là cái duyên của cô, giờ xuống màu, với những khe rộng hơn trước. Giọng cô không còn trong, không còn cao, nó mệt mỏi, khàn khàn. Từ nốt ruồi ở hàm bên phải chui ra một sợi râu bạc.

– Cửa cũng không thèm đóng. – cô chép miệng – Em chỉ việc đẩy vào. Có ngày trộm vét sạch. Thật đấy. Cậu biết hôm nay ngày gì không?

– Ngày gì?

– Ngày Ông Táo lên chầu giời rồi đấy.

– Ờ…

Lại một năm trôi qua. Cô Lương là cuốn lịch sống của tôi. Không có cô nhắc, tôi sẽ không biết mình đang ở đâu trong dòng chảy vô hình ấy. Đã nhiều năm, mỗi khi phải lấy áo ấm ra mặc, thấy tuyết rơi, tôi biết là mùa đông đến; phải lôi cái quạt máy trong đống đồ xếp xó ra cho nó chạy, tôi biết đã vào hè.

– Em mang ít đồ cúng sang cho cậu.

Nhìn lên nóc tủ tôi thấy có mâm ngũ quả, xôi lạc, gà luộc. Và nén nhang mới bén.

– Cảm ơn cô.

Cô cười không tươi.

– Đàng nào em chả cúng. Cậu thì cái gì cũng phiên phiến, phiên phiến. Tết nhất phải có chút gì gọi là hương khói để nhớ đến tổ tiên, ông bà. Tết này cậu sang em, ăn Tết bên em nhá?

– Ờ…

– Hôm nay em sang đây – cô nói, giọng ngập ngừng – là có việc phiền cậu

Tôi đặt chén trà xuống, nhìn cô, chờ đợi. Ở đây, chỉ tôi là người thường nhờ vả cô. Chứ cô chẳng bao giờ nhờ vả tôi.

– Việc gì vậy?

Cô ngần ngừ.

– Em muốn phiền cậu đi Berlin với em một chuyến.

Tôi ngạc nhiên. Từ khi dọn về đây ở gần cô, tôi chưa thấy cô đi đâu.

– Đi Berlin? Làm gì chứ?

Cô nhoẻn cười, ngượng ngập:

– Hỏi vợ cho cháu Hiếu

2- Tôi và cô Lương có một tình bạn dài nửa thế kỷ.

Tình bạn của chúng tôi bắt đầu bằng một món ăn. Cô Lương không phải người bình thường. Ở đất thủ đô, cô là người nổi tiếng. Cô nổi tiếng không phải vì cái gì to tát, mà nhờ một món ăn – món bún mọc. Tôi sẽ không tả bún mọc của cô ngon như thế nào. Không ai có thể tả được cái sự ngon. Chuyện ấy là của riêng cái lưỡi. Cứ phải ăn mới biết. Chỉ có thể nói gọn một câu: bún mọc là món độc quyền của cô Lương trong toàn thành phố. Về món này không ai tranh hơn được với cô. Quanh gánh bún cô Lương, khách ngồi chật vỉa hè đợi đến lượt. Đông thế mà cô tài nhớ lắm: ai đến trước, ai đến sau, cô không bao giờ lẫn. Cô tươi nở múc cho từng người suất bún nóng hổi, thơm phức, nước dùng ngọt lịm, húp bỏng miệng. Những viên mọc của cô, được chế tạo cách nào không biết, nêm nếm thế nào không biết, mềm và đàn hồi, cắn ngập chân răng, như thể chúng không phải được nặn bằng thịt lợn tầm thường của trần thế.

Đến đây tôi phải nói ngay rằng giữa hai chúng tôi không hề có chuyện ong bướm. Đơn giản vì cô Lương không phải là một cô. Cô không phải đàn bà.

Trở thành khách quen của gánh bún mọc, tôi gọi anh chàng Lương này bằng cô, như cách mọi người gọi. Có người còn gọi là cô đồng Lương. Gọi thế không đúng – Lương không phải cô đồng. Không hầu đồng, không am miếu, không hương khói, đàn địch, không con công (con nhang?) đệ tử, sao gọi thế được. Các nhà khoa học viết khá nhiều về hiện tượng ái nam ái nữ, tôi có đọc, nhưng không hài lòng. Thế giới “ái” rất đa dạng, rất phức tạp, theo tôi quan sát. Nó không dễ giải thích. Đơn giản hoá nó, sơ lược hoá nó, trong cái nhìn bất biến, đinh ninh, miêu tả qua lăng kính duy vật cho ra vẻ khoa học là không được. Lấy cô Lương làm ví dụ. Đực rựa, có vợ có con hẳn hoi. Chị vợ, tôi đã gặp, xinh gái, đàn bà trăm phần trăm, mẹ của hai đứa con giống bố như đúc. Một gia đình như mọi gia đình. Cái khác là trong gia đình này anh chồng từ tấm bé đã thích trang điểm theo cách nữ – ở nhà không biết thế nào, chứ ra đường là phải thoa một chút phấn hồng lên má, quệt một đường son nhẹ lên môi. Lại còn đeo nịt vú nữa chứ (nó hiện rõ qua lần áo phin nõn), ai cũng thấy. Nói ỏn ẻn, đi nhún nhẩy, hai tay phẩy phẩy bên hông, không khác đàn bà. Thế mới thành cô Lương. Nhưng “cô” không có một nhân tình đàn ông nào, tuyệt không. Chưa ai bắt gặp “cô” cặp kè với một người phái nam. Vì thế, nói rằng trong con người cô Lương có thứ tình dục đồng giới, bệnh hoạn, theo cách nhìn của thế hệ tôi, là nói bậy.

Tôi là người không háo lên án ai, lên án cái gì. Tôi chỉ háo ăn ngon. Qua một lần nếm thử đã đủ để tôi trở thành khách quen của gánh bún mọc cô Lương. Thấy tôi, khi nào cô cũng đon đả:

– Kìa, anh giai! – múc bát mọc cho tôi xong, cô vui vẻ hỏi – Anh giai thêm hành trần nhá? Ớt tươi chứ? Em biết tính ông anh mà, sành lắm, ăn mọc chẳng chịu tra tương ớt đâu. Ngần này đủ chưa ạ?

Rồi lại sợ mất lòng một ông khách nào đó nghiện tương ớt, cô bả lả:

– Nói vậy chứ bách nhân bách tính, có người thiếu tương ớt là nhạt mồm nhạt miệng, ăn mất ngon, có phải không các bác?

Hoặc:

– Anh giai nom có vẻ mệt, em nhúng hai trứng nhá? Anh giai bổ dưỡng đi cho chị em vui.

Tôi đỏ mặt vì những lời chớt nhả ấy. Khách tủm tỉm nhận xét: múc cho tôi, trong muôi của cô bao giờ cũng có nhiều mọc hơn cho người khác, một chút thôi, nhưng hơn. Họ đùa cợt bảo: là do tôi đẹp trai. Tôi soi gương chẳng thấy mình đẹp trai tẹo nào, có lẽ tại hai chúng tôi có duyên tiền kiếp.

Đùng một cái, không thấy cô Lương dọn hàng. Không ai biết cô biến đi đâu.

Khách hàng nghiện bún mọc buổi sáng nhìn cái vỉa hè quen thuộc từ lâu đông nghịt giờ đây trống trơn, chưng hửng dắt xe đi. Hỏi người chủ ngôi nhà trước gánh bún mọc của cô Lương, một ông già cao lêu đêu, ông ta lắc đầu: không biết. Cô Lương đến xin đặt nhờ gánh bún thì ông cho, ông không khoảnh. Ông cho cô ngồi nhờ ở hàng hiên nhà ông vô điều kiện. Để cảm ơn ông, sáng nào cô cũng làm một bát mọc tú hụ bưng vào cho ông. Khi khách quá đông, ngồi chật cả lối ra vào, ông chưa kịp trách thì cô Lương đã bẽn lẽn xin gửi ông ít tiền hàng tháng, coi như thuê chỗ.

– Cô ấy cứ giúi vào tay, bắt tôi phải nhận. Chứ tôi không đòi. – ông nói như phân bua – Thời buổi này giúp nhau được chút gì thì giúp, là cái nghĩa đồng bào. Vỉa hè nào phải của tôi. Nhưng cô ấy là người biết điều. Thấy làm phiền người nhà đi ra đi vào, cô ấy ngại. Tôi không biết cô ấy dọn đi đâu, thật vậy.

Hoá ra trong những ngày ấy cô Lương ở tù. Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau thấy ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại nào nhỉ?

3- Tôi gặp lại cô Lương ở một nơi mà cả hai đều không ngờ: trại tị nạn Hồng Kong.

– Giời ạ, cậu?! – trông thấy tôi, cô Lương túm lấy, mừng quýnh. Rồi trợn mắt lên, thì thào – Cậu, sao lại ở đây?

– Thì có gì lạ?

– Cậu là cán bộ kia mà.

Cô Lương thay đổi đến khó nhận ra: son phấn không, áo quần luộm thuộm, nhếch nhác, trên mép là một hàng ria nham nhở. Bây giờ tôi không còn là khách hàng nữa, cô gọi tôi bằng “cậu”. Tiếng “cậu” của ta có nhiều nghĩa, là cách bạn bè thân mật gọi nhau, cách con gọi cha, vợ gọi chồng, cháu gọi em ruột của mẹ. Còn khi dùng với người ngoài không gần gụi, nó lại là cách xưng hô tỏ sự tôn trọng đối với người có vai vế hơn mình.

– Cán bộ thì đã sao? – tôi ôm chầm lấy cô – Đến đây lâu chưa?

– Hai năm rồi. Còn cậu?

– Mới.

– Em tưởng chỉ có dân chúng em khổ quá mới phải đi thôi – cô Lương cụp mắt nhìn xuống bàn chân đầy bụi di di trên mặt đất – Ai tự dưng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ quê hương bản quán? Báu lắm đấy, cái đồng đất xứ người… Mà tại sao cậu cũng đi?

– Chuyện dài – tôi đáp – Lúc nào rảnh, tôi kể. Còn cô, đang đắt khách sao lại dẹp hàng, rồi ở đây?

– Cũng là chuyện dài, cậu ơi.

Chuyện dài ấy là thế này:

Trước, hai mẹ con cô Lương là xã viên hợp tác xã thu mua đồ phế thải, nôm na là hợp tác xã đồng nát. Dân ta vốn thích oai, gọi vống lên cho sướng, chứ xã viên của cái hợp tác xã này vẫn là những bà đồng nát ngày trước. Đòn gánh trên vai, hai đầu hai thúng, họ lang thang khắp phố phường mua đủ thứ đồ vứt đi: sắt vụn, nồi thủng, mâm bẹp, giấy lộn, tóc rối…, đem bán lại cho các vựa. Để được phép làm việc ấy, tháng tháng họ phải đóng một khoản tiền cho hợp tác xã, coi như mua sự hợp pháp. Mẹ cô Lương là con gái Ước Lễ. Làng này nổi danh cả nước về nghề giò chả. Chồng chết sớm, bà mở hàng ăn kiếm sống, nuôi con. Có nghiệp tổ, miễn chăm làm thì không giàu được cũng đủ sống. Mở hàng mới được ít lâu thì đùng một cái, nhà nước ra lệnh cấm tiệt mọi nghề dính dáng tới lương thực, tức là tuốt tuột mọi thứ – gạo, ngô, khoai, sắn và bất cứ thứ gì có chứa tinh bột. Vốn liếng thế là tong. Cũng có vài hàng phở, hàng cháo lòng đánh liều, bán chui trong nhà. Bà không có cái gan ấy. Để được bán chui phải chạy vạy, phải đi đêm với đủ loại quan nha, chức sắc: cán bộ phòng thuế, cán bộ quản lý thị trường, công an khu vực… mới yên. Suy đi tính lại, chỉ có cái nghề mạt hạng, bị khinh khi, là nghề đồng nát, người ta mới không nhòm đến.

Cuộc sống vất vả làm sức khoẻ bà suy sụp, rồi mất. Cô Lương còn lại một mình. Cô bỏ gánh giấy vụn, đi làm thuê cho một quán phở chui. Cho đến khi ông nhà nước thấy cuộc sống sa sút quá, kinh tế xuống dốc quá, thành phố tiêu điều quá, mới rộng lượng ngoảnh mặt đi cho những người buôn thúng bán bưng muốn làm gì thì làm, cô Lương nhớ nghề tổ mới dám nghĩ tới việc vay mượn họ hàng sắm sanh gánh bún mọc cho mình. Rồi lấy vợ, đẻ con.

Ai ngờ một gánh bún mà làm nên cơ đồ.

Cô Lương trở nên giàu có. Nói giàu là nói trong khái niệm tương đối. Giàu ở đây là có nhiều tiền hơn người quanh mình thôi, chứ chẳng phải thiên ức vạn tải gì. Có đồng ra đồng vào, cô cũng chẳng sung sướng. Thời bấy giờ, giàu cũng là cái tội cái nợ. Sắm sửa thì hàng xóm biết, gửi tiết kiệm nhiều tiền thì nhà nước biết. Phải tìm mọi cách giấu cho kín cái giàu, không được hở cho bất cứ ai. Đã trở thành thói tục: người này theo dõi người kia, nhà này nhòm ngó nhà khác, không trừ cả thân thuộc. Thành thử cô Lương phải hết sức giấu giếm cái sự giàu của cô. Nhưng chẳng lẽ cứ tích tiền để đấy trong lúc nó mất giá hàng ngày?

Nhờ ông anh họ mách nước, cô trở thành người “chơi” đồ cổ. Ông này rất sành sỏi trong lĩnh vực gốm sứ, nghe nói vậy. Đến Viện bảo tàng Lịch sử cũng phải mời ông ấy cố vấn mỗi khi phải xác định niên đại một hiện vật mà nhận định của các chuyên gia không thống nhất. Người như thế lẽ ra phải ở trong biên chế, nhưng ông không thể có cái đó vì lý lịch – cha ông có thời làm thông phán trong phủ Toàn quyền. 

Ông khuyên cô:

– Chú cứ nghe tôi: để tiền vào đồ cổ là an toàn nhất hạng. Nó là thứ không thiu không thối, càng để lâu càng có giá. Chú quen nghề đồng nát, biết nhiều nhà, cứ lân la dò hỏi, biết đâu đấy, có khi vớ được của quý cũng nên. Gặp đồ cổ chú cứ gọi tôi, tôi biết cái gì quý, cái gì không quý, trả bao nhiêu là vừa. Nhà nước mua lại đồ cổ của dân bằng giá rẻ mạt, chẳng ai muốn bán. Dân đào được đồ cổ cũng bị thu mua, chỉ được tí tiền gọi là bồi dưỡng. Mình trả cao hơn nhà nước là người ta bán liền. Quen rồi, người nọ mách người kia, mình sẽ mua được khối thứ quý. Mua rồi cứ để đấy.

Cô hỏi ông anh:

– Mua để đấy phỏng có ích gì?

– Xì, chú không biết nhìn xa.

– Là thế nào ạ?

Ông nói chắc nịch:

– Thể nào rồi cũng có một ngày khác bây giờ. Cứ thế này mãi có mà chết. Lúc ấy chú cứ gọi là ngồi trên đống của.

Cô Lương nghe lời ông anh. Cô làm quen với giới buôn đồ cổ “chui”. Cô dò hỏi, cô lùng sục, gặp đồ nào ông anh bảo là đồ quý, cô mua. Dần dà, cái việc không quen trở thành quen, thành đam mê. Nhờ sự dạy dỗ của ông anh, riết rồi cô cũng trở thành một chuyên gia đáng nể. Cầm cái bát, cái đĩa hay lọ độc bình lên, ước lượng nặng nhẹ để biết xương, xem men, xem dáng, cô có thể nói ngay niên đại của món đồ, thuộc đời nào Tống, Đường, Minh, Thanh hay Lý, Trần. Lê mạt. Còn hơn chuyên gia, cô sở hữu một số đồ độc nhất vô nhị.

Các cụ nói: cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, đồ cổ thì thứ nào cũng lớn hơn cái kim hết. Thế rồi một ngày kia có người chào cô mấy cái đĩa men ngọc đời Lý, lại là men rạn, cực hiếm. Cô mua ngay. Cuộc mua bán vừa xong tay là công an ập vào. Họ nói được báo có những hiện vật bảo tàng vừa bị mất trộm, chính là mấy cái đĩa ấy. Để “làm rõ” lý lịch những đồ cổ khác, người ta thu tất tần tật các thứ cô Lương tích cóp được. Cô Lương bị tống giam vì tội “tiêu thụ của gian”. Cô ở tù gần một năm, không xét xử, gọi là giam cứu.

– Rồi họ xác minh cô vô tội?

– Làm gì có chuyện ấy?! – cô cười gằn – Họ bảo em nhận tội đi rồi họ tha, không nhận thì cứ ở đấy.

– Rồi cô nhận?

– Chứ sao.

Ra tù, cô trắng tay. Với tấm giấy tạm tha trong túi. Cô vợ xinh gái đi theo một tay cán bộ phòng thuế. Có thể gây dựng lại cuộc đời bằng gánh bún mọc, như trước kia, nhưng cô không còn sức, nói cho đúng, sau khi ở tù ra cô chán mọi sự đời, không còn ý chí, không còn ham muốn. Nghe người ta mách, cô dắt hai con xuống Hải Phòng tìm đường đi xứ khác. Cũng lại do ông anh họ chuyên gia đồ cổ:

– Chú đi đi, chú đã bị bỏ tù một lần, coi như có tì vết, không tiền án cũng tiền sự, ở đây khó sống lắm. Giờ người ta đi ầm ầm. Tôi xin lỗi chú. – ông quệt nước mắt, sụt sùi – Cũng là tại cái thằng tôi, chú mới sa vòng tù tội…

Chuyện vượt biên xưa như trái đất, khỏi kể. Sóng gió, đói khát, cạn nhiên liệu, chìm tàu… vân vân. Tất cả những cái đó xảy ra với bất kỳ ai.

4- Tôi bằng lòng đi Berlin với cô Lương. Cô nói không có tôi đi cùng, cô sẽ lúng túng, không biết ứng xử thế nào với nhà gái cho phải phép.

Ở nhà cô, một chàng trai cao, to, để ria mép, trân trân nhìn tôi.

– Cháu Hiếu đấy – cô Lương nói, vẻ tự hào pha ngượng nghịu.

– Chào cháu – tôi chào nó, biết rằng nó sẽ không chào tôi trước – Bác không nhận ra cháu đấy.
– Nhìn tôi, nó nói – Bác khoẻ.

Cô Lương liếc tôi, cái nhìn biết lỗi.

– Khi chúng mình gặp lại nhau, cháu mới bằng ngần này. – tôi cười xoà với cô Lượng, rồi giơ bàn tay úp sấp làm hiệu chỉ chiều cao của nó hồi ấy – Từng ấy năm, cháu làm sao nhớ được tôi là ai. 

Nghe cô kể thì thằng Hiếu sáng dạ, học trung cấp cơ khí, bây giờ đã là trưởng ca hay trưởng kíp gì đó trong một nhà máy, công việc tốt, lương cao. 

– Ba, con ra tiệm Một lát – nó bước ra cửa – Con đi Máy của con vừa bị đao -Ba với bác chuẩn bị sẵn sàng nhé!

Tôi nhớ lúc còn nhỏ, hai đứa con cô Lương không gọi cô bằng “ba”. “Ba” hiện đại hơn, sang hơn “bố”.

Đi ngang tôi, thằng Hiếu vẫy tay

Thì ra cái Audi đen bóng đậu ngoài phố, lối vào nhà, là của nó.

– Bọn trẻ giờ thế cả. Không biết lễ phép là gì – cô Lương thở dài – Sang đây chúng nó thành Tây hết. Nó vừa nói cái gì vậy, cậu?

Tôi giải thích. Cô Lương không biết computer là cái gì.

– Cậu đừng chấp – cô Lương bảo tôi – Thế là toi cái Tết. Mình lên đấy rồi về chắc gì kịp ăn Tết. Em mời cậu Tết này ăn Tết với em, mời thật tình, mà hoá ra mời rơi. Cậu vào đây mà xem: em đã lo sẵn hết cả: măng lưỡi lợn nhá, chân giò nhá, lá giong gói bánh nhá, thịt xay làm mọc nhá… tất tần tật. Em nghĩ lại rồi, em đi một mình cũng được, bắt tội cậu đi với em những ngày này, em ái ngại quá.

– Vẽ, đi là đi. Tôi nói rồi, với tôi ngày Tết chẳng có gì quan trọng. Cô đừng nghĩ ngợi.

– Thằng Hiếu lấy Tây hay ta đấy?

– Ta, cậu ạ. May thế!

Cô chị thằng Hiếu lấy Tây. Bố vợ với con rể chỉ gút tần tác, gút tần nác[6] với chuýt là hết chuyện. Cô Lương rầu lắm. Cô còn rầu hơn nữa là đến bẹo má thằng cháu ngoại một cái cũng không được, sờ cái giống của nó cũng bị cấm – Tây nó không thích. Nó sợ cô làm bẩn con nó.

Cô phân trần:

– Nhà gái đòi phải có chạm ngõ, ăn hỏi, rồi mới cho cưới. Lôi thôi quá, cậu ơi. Lần trước gọi điện về, thằng Hiếu đã giục. Em bảo: để thư thư, Tết ra đi cũng được. Đùng một cái, ông bố vợ nó bị đâm xe.

– Nặng không?

– Nặng, mới khổ. Bà mẹ vợ bảo thằng Hiếu phải tức tốc về đón em lên để chính thức có nhời với người ta. Nếu chẳng may ông ấy có mệnh hệ nào họ còn cho cưới chạy tang.

– Hiểu rồi. Cô biết nhà gái chứ?

– Thằng Hiếu có nói gì trước với em đâu.

Mặt cô Lương chảy dài. Khi cô buồn, hay là có điều suy nghĩ, cô bước những bước chậm chạp, cái lưng gù xuống.

5- Làng, nơi chúng tôi ở, thuộc miền Nam Đức. Nhỏ nhưng sạch sẽ, ngăn nắp, an bình. Nói chung, làng quê ở vùng này đều thế: gọn gàng, tiện lợi, bé tí, mà cái gì cũng có – bưu điện, cửa hàng dược phẩm, bệnh viện, trạm xăng, siêu thị. Thằng Hiếu vui vì tôi nhận lời đi cùng bố nó, nhà trai như thế là đủ hoành tráng. Nhưng nó chê ỏng chê eo nơi ở của chúng tôi:

– Cháu đã bảo ba cháu dọn lên Berlin, ông ấy không chịu, kêu ở thành phố lớn ồn. Ra đến nước ngoài mà còn chui rúc xó xỉnh. Ở cái chốn nhà quê thế này, bác tính, vui thú nỗi gì cơ chứ? – nó nói với tôi trên con đường làng hẹp – Sorry[7] bác, mấy ông khốt[8] giống nhau như đúc, sợ thay đổi như sợ cọp…

Cô Lương im lặng. Tôi ậm ừ. Tôi cảm thấy mếch lòng. Cứ như thể bố nó không chịu đi là do tôi, ông ấy thích ở đây là vì ở đây có tôi.

– Được cái ông bố vợ cháu khá. – thằng Hiếu hồn nhiên tiếp tục – Khác hẳn bố cháu. Nhanh nhẹn lắm, cứ như thanh niên í. Hồi mới sang, ông í đứng đường bán thuốc lá lậu, rồi cầm đầu hẳn một băng, kiếm khẳm. Tậu được nhà. Nhà hẳn hoi, chứ không phải căn hộ. Thay xe như thay áo. Mẹ vợ cháu cũng đảm, làm chủ một resto[9] trên năm chục bàn. Ba cháu mà như người ta thì đâu đến nỗi như bây giờ. Mèng ra cũng có một cái  imbiss[10]. – Tội nghiệp, không biết liệu ông bố vợ cháu có tai qua nạn khỏi không? 

Không giống nhiều thanh niên khác, Hiếu vẫn nói thạo tiếng mẹ đẻ, chỉ thỉnh thoảng nó mới chêm vào vài tiếng Đức quen miệng, vài tiếng Anh thời thượng. Trên xe, nó nói với tôi nhiều hơn nói với bố. 

– Này, anh Hiếu, thế ông ấy đã làm… hừm, gọi là cái gì nhỉ, à, cái di chúc chưa đấy? – giữa câu chuyện, cô Lương đang lim dim ở ghế sau, nhổm lên nói. 

– Ông ấy khoẻ như vâm, – thằng Hiếu nhún vai – nghĩ gì đến di chúc.

– Vạn nhất ông ấy không qua khỏi mà không có di chúc để lại thì, hì hì…, vợ chồng anh dễ bị thiệt lắm.

Trong câu nói của cô Lương có âm sắc mai mỉa. Nhưng con trai cô không nhận thấy.

– Ông ấy có gì để lại? Khôn như rận, ba ơi, cái gì cũng tên vợ hết. Ông ấy sợ. Bọn Đức khiếp lắm, trốn thuế cả chục năm rồi chúng vẫn moi ra đấy.

Chúng tôi đến Berlin vào buổi tối.

Bà thông gia phốp pháp, son phấn tưng bừng ngay cả khi đang điều khiển nhà hàng. Nhác trông cũng thấy được sự không môn đăng hộ đối giữa nhà trai với nhà gái. 

– Chúng em không oẻ hoẹ tương tàu đâu, thưa hai bác – bà nói, giọng ngọt lịm – Nhưng mà, thưa hai bác, gì thì gì mình vẫn cứ phải giữ lề thói cha ông. Con nhà gia giáo chữ lễ phải coi trọng, phải là nhất, có đúng thế không ạ? Em dễ tính, cứ phiên phiến, thế nào cũng xong, chứ ông nhà em cổ lắm, nhất nhất phải theo phép xưa mới chịu. Phật tử đấy ạ, chăm đi chùa lắm. Mà chùa thì xa, có gần đâu. Tối nào cũng ngồi thiền, tụng kinh niệm Phật.

– Ông bà nghĩ thế là chí phải. – cô Lương chắp tay lễ phép – Chúng tôi nhất nhất xin theo. Ngặt vì mình nay ở xứ người, có nhiều cái không thể được như ở nhà, chúng tôi có điều gì thất thố, xin ông bà bỏ quá cho.

Cô Lương nói kiểu lịch sự trơn tru, làm tôi ngạc nhiên. Thường ngày không khi nào cô có cái giọng ấy, có khác một chút cũng chất phác, mộc mạc. 

– Con Thuỷ đâu rồi? – bà cao giọng gọi vào trong bếp – Ra đây.

Một cô gái trẻ, vận quần áo đúng mốt, có hở một chút rốn, nhanh nhẹn chạy ra. Mắt thằng Hiếu sáng lên. Hai đứa nhìn nhau lúng liếng. Con bé này rồi cũng đảm chẳng kém mẹ, tôi nhận xét.

– Con chào hai bác đi. Bây giờ thế đấy, hai đứa chúng nó quen nhau từ lúc nào em đâu biết, chúng nó đâu có báo cáo báo cầy gì với bố mẹ. Thôi thì không bằng lòng cũng phải bằng lòng, bác không kén dâu, chúng em cũng chẳng kén rể…

– Dạ.

– Mà có kén cũng chẳng được, thưa hai bác, thời bây giờ chúng nó tự kén nhau, chẳng nhòm nhõi gì đến ta, chẳng cần lề thói, phép tắc như xưa, có phải không ạ? Thôi thì cũng là cái duyên cái số. Nhà trai đến, có nhời với chúng em là chúng em vui rồi. – bà rơm rớm nước mắt – Vui đến, buồn cũng đến, năm nay nhà em gặp hạn. Ông nhà em lái xe cẩn thận lắm, thế mà vẫn bị. Tổ cha cái thằng Đức lợn, nó phóng bạt mạng, mới ra nông nỗi. Thổi bong bóng thằng ấy thấy có hơi rượu, nhưng cảnh sát bảo còn dưới mức cho phép. Chúng nó bênh nhau ấy mà, ai chả biết. May, nhà em đã mua bảo hiểm toàn phần…

Cô Lương đến lúc ấy mới dám lí nhí hỏi câu cô muốn hỏi.

– Thưa, bệnh tình ông nhà… thế nào rồi?

Bà thông gia vui vẻ:

– May, tưởng nặng, hoá không phải. Không mổ xẻ gì hết, chỉ mấy mũi khâu, băng bó xong nằm tĩnh dưỡng ít hôm là về. Nhà em hiếu khách lắm, ông ấy mà gặp hai bác thì chuyện dứt không ra. Mấy hôm nữa, khoẻ lại rồi, nhà em sẽ đưa hai bác đi thăm danh lam thắng cảnh ở đây. Còn bây giờ thì em xin mời hai bác dùng bữa rồi về nghỉ ở nhà em. Nhà không đến nỗi chật, em đã chuẩn bị, hai bác mỗi người mỗi phòng ạ.

– Cảm ơn bà, bà chu đáo quá. Bác cháu đây (cô Lương chỉ tôi) trước cũng ở Berlin, bác cháu đã gọi điện đặt phòng ở một khách sạn quen rồi – cô nói dối ráo hoảnh, làm tôi một lần nữa ngạc nhiên – Chúng tôi nhận phòng xong rồi mới lại yết kiến bác đấy ạ…

6- Đến bệnh viện, chúng tôi không khó khăn tìm được phòng của bố vợ thằng Hiếu. Nhác thấy người bệnh qua cánh cửa khép hờ, cô Lương như bị điện giật, nắm chặt tay tôi.

– Ông sao vậy? – tôi ghé sát vào tai cô Lương, thì thào.

Cô Lương xua xua tay, nói khẽ:

– Không, không sao.

Mắt không rời khe cửa, mặt cô Lương đờ ra, xám ngoét. Rồi lôi tôi khỏi chỗ ấy.

– Thằng Hiếu đâu rồi?

– Tôi không biết. Nó vừa đây mà.

Thì ra thằng Hiếu dừng lại ở ngoài cổng hút thuốc. Cô Lương lật đật chạy đến, túm lấy nó, tôi hối hả theo sau.

Đứng trước mặt con, cô dằn giọng:

– Hiếu, bố vợ mày tên là gì?

Nó trố mắt:

– Sao, có chuyện gì mà ba hỏi thế? Sao mặt ba tái đi thế?

– Tao hỏi: bố vợ mày tên gì?

Thằng Hiếu ngớ ra.

– Ông ấy tên là Khởi, ông Khởi. Có chuyện gì thế, ba?

– Đúng, đúng là nó.

Cô Lương lẩm bẩm rồi cúi gập xuống như một thân cây bị đốn. Tôi vội đỡ cô. Thằng Hiếu lại càng hốt hoảng:

– Ba, ba sao vậy? Bác có biết ba cháu bị sao không?

Tôi lắc đầu. Cô Lương phẩy phẩy tay:

– Đi về. Đi về.

– Sao đến đây rồi lại đi về, ba?

– Đi về là đi về.

Tôi đoán là có chuyện nghiêm trọng, liên quan tới người bệnh đang nằm trong kia.

Tôi kéo cô vào quán nước gần nhất. Dọc đường cô như người mất hồn, mặc tôi muốn đưa cô đi đâu thì đi.

Đặt cô ngồi xuống ghế, tôi gọi mấy ly bia. Cô run run cầm cái ly lên, lẳng lặng uống cạn. Đợi cô uống xong, rồi ghé sát vào tai cô thì thào:

– Ông biết ông ta?

Cô Lương nhìn chằm chằm vào khoảng không, môi mím chặt:

– Chính là nó. Chính là nó đấy, ông ạ. Khi có người thứ ba, chúng tôi không xưng hô với nhau như thường ngày nữa, mà “ông, tôi”. Cái đó đã trở thành quy ước, nó gắn chặt thêm tình thân giữa chúng tôi, như giữa hai kẻ đồng mưu.

– Mà nó là ai kia chứ? – tôi gặng.

Cô hít vào một hơi rồi thở ra hộc ra, như muốn trút hết không khí khỏi lồng ngực:

– Là thằng làm đời tôi tan nát ấy. Nó. Chính là nó. Có đến chết tôi cũng không quên mặt nó, cái thẳng khốn nạn ấy. Chính là cái thằng giả dạng đem bán cho tôi mấy cái đĩa cổ, rồi làm hiệu cho đồng bọn ùa vào khám nhà để tống tôi vào tù đấy.

Một giọt nước mắt xúc động lăn trên gò má, cô lấy mu bàn tay quệt đi. Rồi ngẩng lên, nhìn vào mặt con:

– Thằng Hiếu nghe đây!

Thằng Hiếu ngẩn ngơ trước thái độ không bình thường của bố. Bình thường bố gọi nó bằng anh, một điều anh Hiếu, hai điều anh Hiếu, với giọng trịnh trọng của ông bố đã có tuổi nói với đứa con đã thành nhân, không bao giờ bố gọi nó bằng thằng. Trước mặt nó giờ đây không phải là ông bố hiền lành, ông bố đụt, mà nó đã quen thấy, mà nó hằng coi thường. Trước mặt nó là một người đàn ông dữ dằn đang nổi cơn điên. 

Nó bất giác khoanh hai tay lại, cử chỉ từ lâu nó không làm.

– Dạ.

– Nghe tao nói đây: mày sẽ không lấy cái con nhà ấy, hiểu không? – cô nhìn thẳng vào mắt nó, dằn từng tiếng, như bắt nó phải khắc trong trí – Con ấy có là tiên cũng không lấy nữa, không được. Thằng Khởi là kẻ thù của gia đình ta. Chính nó đã làm cho gia đình ta điêu đứng. Hôm nay có súng trong tay thì tao đã bắn chết nó…

Thằng Hiếu im lặng ngồi phịch xuống ghế. Hai tay ôm đầu, nó ảo não nhìn bố.

Vẫn giọng chắc nịch, cô Lương không nói, mà tuyên bố:

– Thà chết, chứ tao không thông gia với cái giống ấy.

Tôi ôm lấy vai cô:

– Việc gì thì cũng phải bình tĩnh, từ từ suy nghĩ, trước hết là phải bình tĩnh, không nên nóng nảy. Giờ ta về khách sạn. Rồi tính tiếp .

7- Ngày hôm đó kẻ vất vả nhất, khốn khổ nhất, là thằng Hiếu. Nó lái xe chạy cuồng giữa ba đỉnh của một hình tam giác – khách sạn, nhà thương, nhà hàng. Nghe lời tôi, nó nói dối bố mẹ vợ rằng lễ vấn danh theo kế hoạch như thế là phải hoãn – bố nó bất thình lình trúng gió, nằm liệt, không đi lại được. Ông bố không nói gì, nhưng bà mẹ và cô con gái cuống lên, nằng nặc đòi đến thăm. Nó phải ra sức cản, viện lẽ chừng nào bố nó chưa được định bệnh thì không thể và không nên đến, biết đâu đấy, chưa chừng bố nó nhiễm chứng cúm châu Á ngay trước khi lên đường đi Berlin cũng nên, bệnh ấy vừa xuất hiện, người bệnh cần được cách ly. Lời nói dối có hiệu quả – ở Đức người ta sợ cúm châu Á còn hơn sợ dịch tả. Người Việt ở Đức cũng sợ lây.

Tôi không nói với cô Lương đó là kế hoãn binh của tôi. Tôi nói ra, cô sẽ nổi khùng. Cả ngày, cô chẳng nói chẳng rằng, chỉ nằm ngửa nhìn lên trần. 

Đêm đến, thấy cô có vẻ đã nguôi ngoai, tôi mới lựa lời khuyên nhủ:

– Cô nóng quá. Sự đời rắc rối, nó đã xoay ra thế rồi, sức mình không cải được, thì đành chịu vậy thôi, chứ biết làm sao?

Cô Lương trợn mắt:

– Cậu nói thế là ý thế nào? Là em phải quên đi, phải chịu làm thông gia với thằng khốn kiếp ấy? Cậu muốn em muối mặt đến gặp nó để xin con bé cho thằng Hiếu? – cô Lương tung chăn ngồi phắt dậy – Không, cậu ơi, không, em không thể nhìn mặt nó. Em không thể làm thông gia với nó. Không là không.

– Thì tôi có bảo cô phải đến gặp nó đâu. Tôi chỉ muốn nói là hai trẻ đã trót yêu nhau rồi, thì mình phải nghĩ cách sao cho vẹn mọi đường…

– Cách gì?

– Thì phải nghĩ đã chứ, tôi nói rồi mà. Sao cho chúng nó không đau khổ.

– Chúng nó đau khổ thì mặc chúng nó.

Cô Lương quay đi, chấm dứt câu chuyện.

Tôi vắt óc chẳng nghĩ ra cách nào hay ho. Khuyên được nạn nhân hoà giải với kẻ thù là chuyện vá trời.

Gần sáng, tỉnh dậy, thấy cô Lương vẫn thức, tôi pha trà, rồi bảo:

– Thế này: tôi đưa cô ra ga đi tàu về trước, tôi ở lại. Mình sẽ nói rằng cô đã được chuyển về bệnh viện địa phương tiếp tục điều trị.

Cô lắc đầu:

– Việc gì phải nói dối? Như thế cầm bằng em sợ nó, em không dám giáp mặt nó. Em không sợ nó. Em căm thù nó.

Tôi thở dài:

– Từ từ đã nào. Tôi đâu có nói cô sợ nó. Tôi hỏi cô: có phải cô nhờ tôi đi cùng để chu tất việc hỏi vợ cho thằng Hiếu không nào? Thế thì tôi phải lo mọi việc cùng cô. Trông thằng Hiếu mà thương. Nó sợ cô đến nỗi không dám vào đây, mỗi lần tôi mở cửa lại thấy nó lấp ló ở đấy.

Cô Lương ngước mắt lên, hỏi:

– Cậu nghĩ sao? Nó sợ hay nó ghét mặt bố nó?

Tôi quả quyết:

– Nó sợ đấy. Lúc cô thiếp đi, tôi ra ngoài thì gặp nó. Tôi đã kể cho nó nghe hết sự tình, tức là tất cả mọi chuyện mà tôi biết. Nó khóc. Nó thương bố lắm.

Mặt cô Lương dãn ra ra khi nghe tôi nói thế. Mà tôi nói điều này là thật, gặp nó tôi tưởng ngữ này coi bố như rác, hoá ra thấy bố phát khùng thì nó run. 

– Nhưng mà em dù sao thì cũng không thể thông gia với cái giống chó má ấy được, cậu ơi. – cô lại ôm đầu – Không đời nào.

– Tôi nghĩ rồi. Cô không đứng ra là phải. Thì tôi đứng ra. Cứ không phải cô là được. Cô tưởng tôi chịu được khi thấy cô phải muối mặt gặp thằng ấy à? Coi như tôi là bố nuôi thằng Hiếu, cô không đến thì tôi thay mặt nhà trai đến chạm ngõ. Còn sau này ra sao, hạ hồi phân giải.

Nghe đến đấy cô Lương quay mặt vào tường, im lặng.

8- Nằm trên giường bệnh là một người khoẻ mạnh. Nụ cười hồ hởi nở trên gương mặt phương phi, ông ta đưa tay cho tôi bắt. Nước da ngăm ngăm đen làm tôi hình dung ra ông trong bộ cảnh phục và câu nói cửa miệng của dân Hà Nội chỉ đám công an: “chân chì, da thiết bì, mũ bình thiên”.

Thằng Hiếu cho biết: khi tai nạn xảy ra, ông bố vợ nó có bị thương, có chảy nhiều máu thật, nhưng hoàn toàn tỉnh táo. Mới lấy máu bôi lem nhem khắp mặt mũi, rồi giả bộ ngất. Tưởng thế là đủ để cảnh sát làm một biên bản thuận lợi cho sự bắt đền, nào ngờ thấy máu me bê bết, họ vội gọi xe cấp cứu chở phắt đi bệnh viện. Mà ở bệnh viện thì tình trạng thương tật của ông thế nào người ta biết ngay. Sở dĩ ông còn được nằm nán lại mấy ngày là vì ông vờ bị choáng, thỉnh thoảng lại ngất đi, tính kiếm thêm ít điểm cho sự bồi thường được đậm thêm.

Nó dẫn tôi đến, rồi đứng ngoài, để hai người lớn nói chuyện.

– Tôi trông ông quen quen. – ông ta vui vẻ nói.

– Tôi cũng vậy. Tôi cũng có cảm giác chúng ta từng gặp nhau, nhưng ở đâu thì không nhớ ra. – tôi vỗ trán, làm ra vẻ cố nhớ.

– Già rồi là hay quên lắm, tôi cũng thế, không nhớ ra.

Mào đầu thế là đủ, tôi lấy giọng trịnh trọng:

– Chắc cháu Hiếu đã thưa với ông: tôi là cha nuôi của cháu. Bố cháu ngã bệnh thời khí nhất thời không đến được, nên tôi mạn phép được thay mặt nhà trai, trước hết để vấn an ông, sau là có lời xin ông bà cho cháu Thuỷ làm dâu…

Ông bố vợ tương lai cười hì hì:

– Biết rồi, biết rồi. Lại bà nhà tôi đây, bà ấy chúa hay vẽ chuyện. Cũng là phú quý sinh lễ nghĩa thôi. – rồi hạ giọng, thân mật – Chứ hồi tôi với bà ấy lấy nhau ấy mà, lễ nghĩa quái gì đâu, chẳng chạm mặt, cũng chẳng ăn hỏi. A lê hấp, cưới. Mà cưới tập thể cơ đấy, ông ạ. Nhoáng nhoàng, nhoáng nhoàng, buồn cười lắm: chủ toạ buổi lễ chưa nói dứt câu thì cả đám cô dâu chú rể đã xông vào xơi kẹo bánh ào ào như tằm ăn rỗi, rồi ào ào kéo nhau đi tuốt…

Giọng nói của ông ta gợi nhớ đến một cái gì quen quen. Cả gương mặt nữa. Tôi đã thấy nó ở đâu nhỉ?

– Tôi là người hiện đại. – ông ta tiếp tục câu chuyện vui vẻ – Lễ nghĩa là cái quái gì cơ chứ? Che mắt thế gian thôi. Cưới là cái tục thôi. Là để lên giường có giấy phép, hì hì, có sự thừa nhận chính thức của nhà nước, để không bị ghép vào tội hủ hoá, có đúng thế không nào? Ông trạc tuổi tôi, ông còn nhớ người ta trị cái tội ấy nghiêm khắc thế nào. Kinh lắm. Lũ trẻ bây giờ chúng nó măng phú hết, chúng nó đếch cần lễ nghĩa gì ráo…

– Quả có thế.

– Ở bên Tây này khỏi nói, dưng mà ở trong nước cũng thế, mới lạ. Gọi là sống thử, chưa cưới cũng ở chung, vui ra phết…

– Dù sao thì…

– Ông muốn nói: cứ phải theo thủ tục của ông bà để lại mới tốt chứ gì? Ờ, thì cũng tốt, cũng tốt thôi, tôi không chống. Thừa còn hơn thiếu, ít nhất thì để cho bà nhà tôi sướng, làm như thế, tức là đủ thủ tục thì bà ấy sướng lắm đấy…

– Dạ.

– Ông thấy cần làm gì cứ làm, tôi không phản đối. Mà này…

– Ông bảo sao?

Ông ta suồng sã nháy mắt với tôi:

– Có cái hủ tục ấy anh em mình mới có dịp gặp lại nhau chứ.

Thế là thế nào?

Trong một thoáng tôi sực nhớ: phải rồi, trước mặt tôi, người đang nằm trên giường kia chính là tên công an đã hành tôi nhiều đêm trong một cuộc hỏi cung kéo dài bất tận. 

Chuyện là thế này. Tôi có bà cô ruột ở Sài Gòn. Qua họ hàng vào thăm bà biết tôi từng bị bắt đi cải tạo, bà thương tôi, khi sửa soạn vượt biên bà muốn đưa tôi cùng. Trước đó tôi còn không biết mặt bà. Cô cháu tôi không gặp may. Tên chủ tàu phản thùng. Nó thu vàng rồi báo công an. Cả tàu bị bắt. Tên Khởi này không phải là người hỏi cung chính, hồi ấy hắn mới là phụ tá.

– Tôi nhớ ra rồi. Ông là… Điều tôi không ngờ là chúng ta lại gặp nhau ở đây. – tôi cười chua chát – Ông nhận ra tôi?

– Chứ sao! – hắn cười to – Trái đất tròn mà. Trí nhớ công an mà. Chúng tôi không quên cái gì. Chúng tôi được huấn luyện để không quên.

– Tài thật. Bằng ấy năm rồi mà ông vẫn nhận ra ngay.

– Còn hơn thế nữa kia. Tôi còn biết tại sao lại là ông, chứ không phải bố thằng Hiếu, đến gặp tôi.

– ???

Hắn nói chậm, rõ từng tiếng:

– Ông đến là vì cô đồng Lương không muốn giáp mặt tôi.

Tôi ngạc nhiên. Phải nói là sửng sốt mới đúng. Chúng tôi chỉ thập thò ở cửa phòng bệnh của hắn chưa đến một phút.

– Quỷ quái, ông đã nhìn thấy? Ông nhận ra ông ấy?

Vẻ đắc thắng, hắn hơi nhổm người lên, cười vào mặt tôi:

– Sao không? Chỉ thoáng thấy ông ấy ở ngoài cửa là tôi nhận ra liền. Tôi biết: ông ấy còn căm tôi lắm. Ông khác, ông quên rồi.

Tôi lắc đầu, cố giữ vẻ bình thản:

– Không, tôi không quên.

– Ông quên. Bằng chứng là ông không nhận ra tôi khi bước vào đây. Ngay cả khi ngồi trước mặt tôi, ông cũng không nhận ra. Ông chỉ nhận ra khi tôi nhắc.

– Tôi vốn không có tài nhớ mặt người. – tôi lạnh lùng – Nhưng sự việc thì nhớ. Có nhiều sự việc con người không thể quên.

– Thế là tốt. Nhớ nhiều quá chẳng hay gì.

Khởi cười khẩy, cái cười khẩy đểu cáng, làm tôi nhớ thêm một chi tiết trong cuộc hỏi cung. Đêm ấy hắn cũng cười như thế khi hỏi tôi: “Bà cô cậu bảo nếu tớ thả hai cô cháu cậu ra, bà ấy xin chết bốn cây. Liệu hai cô cháu cậu có định cho tớ leo cây không đấy?”

Tôi nhìn vào mặt hắn:

– Tôi có điều không hiểu: tại sao ông lại ở đây?

– Dớ dẩn. Ông đặt một câu hỏi thừa, một câu hỏi không nên đặt ra tí nào. Câu trả lời rất đơn giản: cũng như các ông thôi.

– Chúng tôi khác, ông khác. Ông ở trong đám người có quyền đè đầu cưỡi cổ kẻ khác. Ông đi làm gì?

Khởi vẫn không mất vẻ tươi cười:

– Tội nghiệp, ông âm lịch quá. Con người ta sinh ra đã biết lựa chọn rồi, đã biết so sánh rồi, so sánh là để lựa chọn cho đúng. Cái tốt hơn đặt bên cái tốt kém, thì cái tốt kém là cái xấu. Tôi chọn cái tốt hơn. Nếu không thể chọn cái tốt nhất. Ở trong nước cũng thế, ở đây cũng thế.

Tôi khen hắn, thật lòng:

– Ông thật tinh quái.

– Chúng tôi được dạy dỗ để trở thành tinh quái mà. – hắn cười, vừa độ lượng, vừa thoả mãn – Ông cứ xem các nhà lãnh đạo quốc gia của chúng ta bây giờ xem – có ông nào không giàu đâu. Tôi không làm được như họ, bởi vì tôi không có cái thế của họ. Hoặc tôi không tốt số như họ. Thì tôi phải đi tìm chỗ khác. Có thế thôi. Người như tôi nhiều. Người như ông với cô Lương hiếm. Ông không nên tự hào về sự hiếm ấy. Với tôi, đó là sự lạc hậu. 

Tôi mím môi, thở dài qua mũi.

Hắn nắm tay tôi:

– Quên, tôi chưa hỏi ông: cô Lương, à ông Lương, sang đây không làm ăn gì à? Không mở cái quán nào?

– Không. Ông ấy đi làm nhà máy. Rồi về hưu.

Hắn cũng thở dài:

– Dại. Dại quá. Có tài nấu nướng như ông ấy, mở một cái imbiss[11] cũng khẳm tiền. Có tiền là có điều kiện cho con ăn học đến nơi đến chốn. 

– Hai cháu cũng được học hành tử tế đấy chứ, cũng nên người đấy chứ. Tôi không thấy có gì đáng phàn nàn.

Hắn đặt bàn tay béo tốt, gần như mũm mĩm, lên tay tôi, một lần nữa:

– Thế này nhé! Chuyện thằng Hiếu với con Thuỷ coi như xong. Ông Lương không đến cũng được. Kể cả ông nữa. Cứ coi ông là người đại diện nhà giai đi. Không sao. Không phải chúng ta là người quyết định. Làm gì còn có sự gả bán nữa. Thời này không phải thời của chúng ta nữa rồi.

– Dù sao thì chúng tôi cũng phải có lời xin cháu về làm dâu đàng chúng tôi. Mình cứ là phải giữ cho đủ lễ.

Hắn nhếch mép cười buồn. Rồi bảo:

– Con người ta tham lắm, ông ạ. Nói thật với ông, không muốn có một thằng rể chỉ tốt nghiệp trung cấp. Tôi muốn một thằng rể bét ra cũng phải kỹ sư, tiến sĩ. Hoặc một ông chủ công ty lớn. Hai đứa chúng nó đặt tôi vào thế kẹt. Biết làm thế nào? Thôi thì đành chịu vậy.

Khi tôi kiếu từ, hắn còn nói theo:

– Ông yên trí, tôi sẽ nhào nặn lại thằng Hiếu. Nó chịu khó, chăm làm, cũng có chút chí tiến thủ, không như bố nó. Cái nó thiếu mà tôi không thể cho nó được là nó không có cao vọng. 

9- Câu chuyện này đến đấy là kết thúc. Nó là chuyện tầm phào, không đáng để kể ra. Nhưng, cũng như mọi chuyện tầm phào khác, nếu ta nhìn bằng cái nhìn chăm chú thì thể nào ta cũng tìm thấy trong đó một cái gì đáng để suy ngẫm, cho dù sau đó chẳng đi đến một kết luận rõ ràng.

Tôi không tường thuật cho cô Lương nghe cuộc đối thoại giữa tôi với thằng Khởi. Nó không chỉ là kẻ thù của riêng cô Lương. Nó còn là kẻ thù của tôi nữa. Điều này tôi giấu, không nói ra. Nếu tôi nói, có thể cô Lương sẽ cảm thấy lòng căm thù của cô được san sẻ. Nhưng, khốn nạn thay, không phải vì được san sẻ mà hận thù nơi cô nhẹ đi. Có khi nó còn nặng thêm, vì cô thấy nó có lý hơn.

Chỉ có thời gian mới có khả năng xoá đi hận thù. Mà thời gian đủ để xoá là bao lâu thì không ai biết, không ai có thể chỉ ra.

Ba năm liền, hai ông thông gia không giáp mặt nhau, không gửi cho nhau một lời hỏi thăm.

Năm thứ tư, tôi bắt gặp hai kẻ thù một thời đi cùng nhau ở quảng trường Brandenburg. Họ đi bên nhau, mỗi người nhìn về một phía, mặt lạnh tanh. Giữa hai người là đứa cháu mới chập chững biết đi. 

Nó cười toe toét, tin cậy giao hai bàn tay bé tí cho hai ông nó dắt.

VŨ THƯ HIÊN 

 
[6] Chào, buổi tối (tiếng Đức)
[7] Xin lỗi (tiếng Anh)
[8] Ông già dở hơi (tiếng lóng, lấy từ phim Liên Xô “Ông già Khốt Ta Bít”)
[9] Nhà hàng
[10] Quán ăn nhanh
[11] Quán ăn nhanh (tiếng Đức).

MẸ VÀ VỢ, CHỌN AI?

Image may contain: one or more people, people sitting, people eating and indoor

Thông Điệp Cuộc Sống.

MẸ VÀ VỢ, CHỌN AI?

Đọc và cùng suy ngẫm.

Con dâu nói : “Nấu nhạt tý bà lại chê nhạt nhẻo, giờ nấu mặn chút bà lại bảo nuốt không vô, rốt cuộc bà muốn sao đây?”

Mẹ nhìn thấy con trai vừa về đến nhà, một câu không rằng bèn gắp thức ăn bỏ vào miệng nhai. Cô ta hằn hộc nhìn chồng. Anh gắp thử một miếng ăn, nhả ra ngay tức thì.

Con trai nói : “Anh không phải đã dặn em rồi sao, mẹ bị bệnh không thể ăn quá mặn !”

“OK ! Mẹ là của anh, sau này do anh nấu nhé !” Con dâu giận dỗi đi thẳng vào phòng. Con trai chỉ còn cách thở dài, và quay sang nói với mẹ : “Mẹ, đừng ăn nữa, con đi nấu mì cho mẹ ăn.”

Mẹ nói : “Không phải con có chuyện muốn nói với mẹ sao, có thì giờ hẵn nói, đừng để trong lòng !”

Con trai nói : “Mẹ à, tháng sau con được thăng chức, con sẽ rất là bận … còn phần vợ con, cô ta nói muốn ra ngoài kiếm việc làm, cho nên ……”

Ngay lập tức mẹ hiểu ý con trai muốn nói gì : “Con trai ơi, đừng gửi mẹ vào viện dưỡng lão nhé con !” Giọng nói nức nghẹn như khẩn cầu van xin .

Con trai trầm tư nghĩ ngợi một hồi lâu, trong đầu anh ta như đang cố tìm một lý do tốt hơn để thuyết phục mẹ :

“Mẹ à, thật ra viện dưỡng lão không phải là một nơi không tốt, mẹ biết rồi đấy, khi vợ con kiếm được công việc, nhất định sẽ không còn thời gian chăm sóc mẹ chu đáo nữa đâu. Trong viện dưỡng lão vừa có cái ăn, vừa có chỗ ở, lại có người chăm sóc, không phải tốt hơn nhiều so với ở nhà hay sao ?”

Tắm xong, ăn tạm một tô mì gói, con trai bèn đi vào phòng sách. Anh thờ người đứng trước cửa sổ, có vẻ do dự. Ngày ấy mẹ còn trẻ đã ở góa, ngặm đắng nuốt cay nuôi anh khôn lớn nên người, và còn gửi anh ra nước ngoài du học.

Nhưng, bà chưa bao giờ dùng tuổi thanh xuân của mình đã một đời hy sinh vì anh đem ra uy hiếp mặc cả về sự hiếu thảo của anh, ngược lại là vợ đã đem hôn nhân ra uy hiếp anh ! Không lẻ phải cho mẹ vào viện dưỡng lão thật sao ? Anh tự hỏi bản thân, anh ta có chút không nhẫn tâm.

“Có thể cùng cậu đi hết cuộc đời là vợ cậu, không nhẽ là mẹ cậu sao ?” Con trai của bác Tài thường hay nhắc khẽ anh như thế.

“Mẹ cậu đã lớn tuổi như thế, tốt số thì có thể sống thêm vài năm, Tại sao không tranh thủ thời gian đó sống thật hiếu thảo với bà cơ chứ ? Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn phụng dưỡng mà người còn đâu!” Bà con họ hàng thường hay khuyên nhủ anh như thế.

Con trai không muốn suy nghĩ thêm nữa, sợ mình sẽ vì thế mà thay đổi quyết định. Ánh mặt trời tắt dần những tia nắng chói chang và khuất dần sau ngọn đồi, trả lại bầu trời một màn đêm u tịch. Một ngôi nhà quý tộc dành cho người già được xây dựng ở vùng ngoại ô trên đồi núi.

Đúng thật, tiền càng chi ra nhiều, con trai càng cảm thấy an lòng. Khi con trai dắt mẹ bước vào đại sảnh, một chiếc ti vi 42 inch mới tinh đang chiếu một bộ phim hài, nhưng người xem nơi ấy không hề nở một nụ cười.

Những người già mặc cùng một kiểu áo, tóc tai đều na ná nhau đang ngồi cô quạnh trên chiếc ghế sofa, thần sắc đờ đẫn đến u buồn. Có người thì đang ngồi lẩm bẩm một mình, có người thì đang chầm chậm cúi người xuống muốn nhặt lấy một mẫu bánh vụn đang nằm trên sàn nhà.

Con trai biết mẹ thích nơi tươi sáng, vì thế đã chọn cho bà một căn phòng đầy đủ ánh sáng. Từ cửa sổ nhìn ra ngoài, dưới bóng râm là một vườn cỏ thơm ngát. Mấy cô y tá đang đẩy những người già ngồi trên xe lăn, cùng họ tản bộ dưới ánh hoàng hôn, bốn bề tĩnh lặng khiến cho người cảm thấy xót lòng. Dù hoàng hôn có đẹp bao nhiêu, ánh chiều tà rồi cũng dần buông xuống, anh ngậm ngùi tiếc nuối.

“Mẹ ơi, con … con phải đi rồi !” Mẹ chỉ biết gật đầu.

Khi anh đi khỏi, đôi tay gầy guộc của mẹ giơ lên vẫy chào anh, miệng không còn một chiếc răng, đôi môi khô tái nhợt muốn lên tiếng gọi với anh, nhưng gọi không thành tiếng, lộ ra một ánh mắt ngập ngừng đậm vẻ u sầu.

Lúc này con trai chợt nhận ra mái tóc của mẹ đã bạc dần, đôi mắt sâu thẩm và khuôn mặt xuất hiện nhiều vết chân chim. Mẹ quả thật đã già đi rồi !

Anh chợt hồi tưởng lại một số chuyện ngày xưa. Năm đó anh mới 6 tuổi, mẹ có công chuyện phải về quê, không tiện dắt anh theo, nên đành phải gửi tạm nhà bác Tài vài hôm. Lúc mẹ sắp rời khỏi, anh sợ hãi ôm chặt lấy chân mẹ không chịu buông, khóc thật thê lương và kêu gào trong nước mắt : “Mẹ, mẹ ơi, đừng bỏ con mà đi ! Mẹ đừng có đi mẹ ơi !” Cuối cùng mẹ cũng không bỏ lại anh một mình ……

Anh vội rời khỏi phòng, tiện tay đóng cửa phòng lại, không dám ngoáy đầu nhìn lại, anh sợ, sợ cái ký ức ấy hiện về như bóng ma cứ lờn vờn bám lấy anh.

Anh về đến nhà, nhìn thấy vợ và mẹ vợ đang hăng tiết vứt bỏ tất cả những vật dụng trong phòng của mẹ với khuôn mặt khoái chí vui mừng.

Một chiếc huy chương —– đó là chiến lợi phẩm đoạt giải nhất trong cuộc thi viết văn hồi tiểu học của anh với chủ đề “MẸ CỦA TÔI” ; Một quyển từ điển Anh – Việt —– đó là món quà đầu tiên mẹ đã dành dụm tiền chi tiêu cả tháng trời để mua tặng anh ! Và còn nữa, chai dầu gió mẹ phải xoa trước khi đi ngủ, không có anh xoa dầu cho bà, gửi bà đến viện dưỡng lão thì còn ý nghĩa gì nữa kia chứ ?

“Đủ rồi, đừng vứt nữa !” Con trai tức giận.

“Rác nhiều như thế, không đem vứt đi, thì sao có thể chứa được đồ của tôi.” Mẹ vợ thở hổn hển nói.

“Thì đúng rồi đấy ! Anh mau mau đem cái giường cũ nát của mẹ anh khiên ra ngoài đi, ngày mai tôi sẽ mua cho mẹ tôi một chiếc giường mới !”  

Một đống ảnh lúc ấu thơ chợt hiện ra trong mắt anh, đó là những tấm ảnh mẹ đã dẫn anh đi sở thú chụp lưu niệm.

“Tất cả đều là tài sản của mẹ tôi, một thứ cũng không được bỏ !”

“Anh tỏ thái độ gì vậy hả ? Dám lớn tiếng với mẹ tôi ư, tôi bắt anh phải xin lỗi mẹ tôi ngay lập tức !”

“Tôi cưới cô là có nghĩa vụ yêu thương mẹ cô, tại sao ? Cô lấy tôi thì không thể yêu thương mẹ tôi được sao ?”

Cơn mưa sau đêm tối mang một chút hơi lạnh lẽo, đường phố vắng lặng đìu hiu, xe cộ và người đi trên đường thưa thớt dần. Một chiếc xe hơi đang chạy vượt đèn đỏ và phóng qua những biển cấm nguy hiểm, không ngừng tăng tốc phóng nhanh trên đường.

Chiếc xe hơi ấy chạy thẳng đến viện dưỡng lão được nằm trên lưng chừng đồi núi, anh ngừng xe và phóng nhanh lên lầu, mở cửa phòng ngủ của mẹ. Anh đứng nhìn bất động, mẹ đang lấy tay xoa đôi chân phong thấp của mình âm thầm khóc trong đêm.

Bà nhìn thấy con trai đang cầm trên tay chai dầu gió, cảm thấy an ủi và nói : “Mẹ quên lấy đi, cũng may con mang đến cho mẹ !”

Anh bước vội đến bên mẹ và quỳ xuống.

“Tối rồi, tự mình mẹ có thể xoa được mà, ngày mai con còn phải đi làm, hãy về nhà đi !”

Anh ngập ngừng một hồi lâu, nhưng cuối cùng không nhịn được khóc và nói : “Mẹ ơi, con xin lỗi, xin………. lỗi……..”

P/S : Cảm ơn bạn đã đọc bài, nếu thấy hay và ý nghĩa thì đừng quên chia sẻ cho mọi người cùng đọc,và chia sẻ để nhận chia sẻ nhiều hơn bạn nhé…

Sưu tầm.