BÔNG LÚA CHÍN LÀ BÔNG LÚA CÚI ĐẦU!

BÔNG LÚA CHÍN LÀ BÔNG LÚA CÚI ĐẦU!

Nhớ hồi vợ chồng tôi và hai đứa con nhỏ (một trong hai đứa còn nằm trong bụng mẹ, tháng thứ 6) xuất cảnh đi Mỹ.

Vì trường hợp phụ nữ mang thai nên IOM (cơ quan di dân quốc tế) thu xếp cho riêng chúng tôi đi đường bay quá cảnh phi trường Kyoto Nhật Bản thay vì đường ghé Hàn quốc như những gia đình khác cùng đợt hồ sơ, như vậy chúng tôi sẽ được rút ngắn chuyến đi gần nửa ngày.

Sự tử tế chu đáo và bất ngờ này của một cơ quan thuộc Liên Hiệp Quốc, những ‘người dưng nước lã’ hoàn toàn xa lạ, làm tôi cảm động. Tiền mua vé máy bay cho tất cả những di dân diện tị nạn đều do IOM cho vay trước, chúng tôi sẽ trả góp sau khi đã an toàn định cư ở quốc gia mới.                                                                                                                         

Gia đình nhỏ chúng tôi ghé đến phi trường Nhật, te tua xơ mướp vì mệt, lết tha lết thếch không giống ai giữa chuyến bay toàn hành khách sang trọng. Chúng tôi ngồi ở hàng ghế cuối, biết thân biết phận nên chờ cho mọi người ra hết mới dắt díu nhau ra sau cùng.

Vậy mà vừa bước ra khỏi cửa máy bay, một tình nguyện viên của IOM, một thanh niên (sinh viên) người Nhật sáng sủa cao ráo, mặc bộ vest rất chỉnh tề, đứng sẵn đó, thấy chúng tôi là gập người chào cung kính. Cầm trên tay tấm giấy lớn ghi tên chúng tôi nhưng thực ra anh ta chẳng cần nữa vì quá dễ nhận ra cái gia đình nghèo vừa rời khỏi đất nước nghèo này. Chúng tôi sững người, ngượng nghịu lúng túng trước cái cúi chào đặc biệt của người Nhật lần đầu tiên trên đời mình được nhận.

     Sau đó anh chàng kính cẩn ân cần, cố đi thật chậm để bà xã tôi không phải vội, dù đôi chân cao ngồng của chàng ta chỉ cần sải một bước là bằng chúng tôi đi ba bước. Anh chàng nói tiếng Anh chậm rãi và cố tình chọn những từ dễ đến nỗi đứa dốt sinh ngữ như tôi cũng hiểu ngay. Cái cách anh chàng tế nhị đưa chúng tôi đến nhà vệ sinh và sẵn sàng kiên nhẫn chờ ở ngoài làm tôi càng phục lăn! Nước Nhật giáo dục kiểu gì mà người trẻ của họ tuyệt vời đến thế này nhỉ?

Rồi anh chàng chậm rãi dẫn chúng tôi đi dọc các hành lang sân bay quốc tế rộng mênh mông để đến cổng chờ chuyến bay đi Mỹ. Tôi nhớ chúng tôi đi bộ gần nửa tiếng mới tới. Cung cách của anh chàng không khác gì đang hộ tống những nhân vật quan trọng. A không, đang ấm áp đón tiếp những người rất thân thiết. Tôi nghĩ người thân ruột thịt cũng không ân cần được đến thế!

Đến nơi, anh chàng lại cung kính và áy náy xin lỗi vì bận việc phải đi gấp. Anh chàng nói sẽ gọi điện nhờ một người bạn đến ở với chúng tôi trong 8 tiếng chờ đợi.

Thì ra anh chàng đã gọi phone nhờ cô người yêu của mình  từ hồi nào. Cô ấy đến, cũng là sinh viên, nhỏ nhắn dễ thương, vừa đẹp vừa hiền, đem theo bữa cơm đắt tiền mua ở nhà hàng cùng một giỏ trái cây. Vừa gặp chúng tôi, cô ấy cũng gập người chào rất lễ phép.

Tôi lại một lần nữa xúc động khi hiểu ra IOM có đặt sẵn suất thức ăn nhanh ở phi trường cho chúng tôi, nhưng đôi bạn trẻ này muốn đãi ‘bà bầu’ và hai em bé một bữa chu đáo hơn bằng chính tiền túi của họ.

Không còn biết nói gì nữa khi nhìn cô gái Nhật dịu dàng dọn bữa ăn vẫn còn nóng ra chiếc băng ghế phi trường, chén đũa đàng hoàng, mời chúng tôi, ngồi ‘hầu’ bên cạnh chúng tôi với nụ cười luôn nở trên khuôn mặt dễ mến, ân cần hỏi han vợ con tôi.

Tôi không còn tâm trí đâu mà thưởng thức món ăn. Mỗi một miếng đưa lên miệng là mỗi hạt ngọc hạt vàng! Tôi cảm thấy mình không xứng đáng ngồi đó để được cô bé tiếp đãi như thế này. Tôi xin kiếu, xin được đi lòng vòng để ngắm cái phi trường hiện đại, để trố mắt nhìn cái thế giới khác hẳn thế giới quen thuộc của mình ở quê hương.

Nói thật, suốt đời còn lại chúng tôi không thể quên sự tử tế và khiêm nhu của hai người bạn trẻ Nhật ấy! Con gái đầu của chúng tôi năm đó mới 8 tuổi, nó nói lớn lên, quốc gia đầu tiên con phải đi thăm, trước cả về thăm quê hương Việt Nam, nhất định phải là nước Nhật!

Gần đây tôi mới biết câu thành ngữ cổ xưa của người Nhật: “Bông lúa chín là bông lúa cúi đầu”. Bao thế hệ đi trước của người Nhật đã truyền lại lời dạy đó cho con cháu: Một cây lúa khi được mùa, trĩu hạt, thì nó biết cúi đầu. Khi mình đã sung túc thịnh vượng, không được nghếch mặt lên trời tự mãn kiêu căng, nhưng biết cúi mình để kính trọng và yêu thương người khác!
•••
Bông lúa chín là bông lúa cúi đầu câu châm ngôn của người Nhật Bản 実(みの)る程頭(ほどあたま)の下(さ)がる稲穂(いな

From Truong Nghia

Tình anh thương em …

TRUYỆN NGẮN:

Tình anh thương em ……

Năm cô 6 tuổi, cô mất cả bố lẫn mẹ, họ bị tai nạn ô tô trong lần về quê thắp hương cho ông bà nội.

6 tuổi, cô chưa thể hiểu hết mọi chuyện đang xảy ra trong gia đình, cô chỉ biết khóc suốt ngày vì thấy bố mẹ không quay về.

Cô còn một người anh trai tên là Nam, cậu bé 14 tuổi, dáng người to cao giống bố. Lúc bố mẹ mất, cậu không khóc, không gào thét mà chỉ ôm chặt cô em gái vào lòng cho đến khi ngủ thiếp đi. Suốt ngày cô đều theo sau anh trai đòi bố, đòi mẹ; cô không thích ăn cơm nửa sống nửa chín của anh trai nấu, không thích mặc bộ đồ nhăn rúm anh trai giặt,…

Kể từ ngày hiểu ra rằng bố mẹ mãi mãi không về, cô bắt đầu dựa dẫm vào anh trai vì sợ anh lại bỏ cô mà đi

Đêm hôm đó, trời đã rất muộn, rất muộn nhưng cô không chịu ngủ mà ngồi dậy kéo anh trai và hét to:
– “Em muốn gặp mẹ!”.

Bỗng nhiên, Nam kéo cô từ trong chăn ra, hai tay nắm lấy đôi vai bé nhỏ của cô và nói:
– “Mẹ mất rồi, đừng có tìm mẹ nữa, bố mẹ đều không còn nữa, họ sẽ không quay về nữa đâu!”.

Giọng nói của Nam vang lên rất to khiến cô phải im lặng vì sợ hãi. Sau đó, cô dần dần hiểu được bố mẹ cô mãi mãi không quay về, cô hiểu được trên thế giới này chỉ còn anh trai là người thân duy nhất của mình.

Nam úp mặt xuống giường và khóc thật to, đó là lần đầu tiên cô nhìn thấy anh trai khóc kể từ ngày bố mẹ mất. Cô nhẹ nhàng cúi xuống rồi nằm trên lưng anh trai, cô dùng đôi tay bé nhỏ của mình ôm lấy anh, cảm giác ấm áp như ôm bố mẹ vậy.

Cô bắt đầu dựa dẫm vào anh trai giống như trước kia từng dựa vào bố mẹ, đi học, cô đòi anh chở đi; tan học, anh trai phải đến đón cô.

Trường của cô cách nhà khá xa, mỗi buổi sáng Nam đều chở cô đến trường, đến nơi người Nam ướt đẫm mồ hôi. Ngồi trên xe, cô nắm chặt lấy vạt áo của anh không rời, cô không khóc đòi bố mẹ như trước nữa. Trước giờ cô chưa từng nói với anh, kể từ khi hiểu ra rằng bố mẹ mãi mãi không quay về nữa, trong lòng cô luôn bao trùm một nỗi sợ hãi, cô sợ rằng một ngày nào đó, anh trai cũng sẽ rời xa cô.

Cảm giác sợ hãi đó khiến một đứa bé 6 tuổi trở nên ngoan ngoãn, nghe lời đến lạ. Thế rồi, có mơ cô cũng không tưởng tượng được rằng cuối cùng anh trai vẫn bỏ rơi cô.

Hôm đó là ngày cuối tuần, mới sáng sớm, Nam đã phải mất hơn nửa tiếng đồng hồ chăm chút buộc cho cô hai bím tóc, mặc cho cô bộ váy màu trắng mà cô không biết anh mua cho cô từ khi nào, sau đó cô được anh trai dẫn đi công viên chơi rất nhiều trò, ăn rất nhiều món, cho đến khi mệt, cô ngủ say trên lưng anh.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, cô thấy mình nằm trên giường của nhà khác còn anh trai thì không thấy đâu nữa.

Cô hốt hoảng chạy đi tìm anh, sau đó một người hàng xóm mà cô gọi là “thím” nói với cô rằng anh trai cô đi làm thuê rồi, từ nay về sau, cô sẽ sống cùng với gia đình họ. Mặc dù cô biết, chú thím là bạn thân thiết của bố mẹ mình nhưng cảm giác bị anh trai bỏ rơi lúc này còn tuyệt vọng, đau đớn hơn khi bố mẹ rời đi. Là anh trai đã bỏ rơi cô, cô đã bị anh trai bán lấy tiền, anh trai không cần cô nữa.

Sau khi biết anh trai cũng bỏ đi không về như bố mẹ, cô nhanh chóng thích nghi với cuộc sống mới, có nhiều sự thay đổi. Sự thích nghi nhanh chóng đó mãi đến khi lớn lên, cô nhận ra rằng đó chính là một kiểu để quên đi đau thương.

Cô chủ động học làm việc nhà, tự giặt quần áo, cô biết đây không phải là nhà của mình, họ không phải người thân của mình nên cô không dần dần không còn dựa dẫm vào ai nữa. Kể từ khi anh trai bỏ đi, cô hòa toàn mất đi quyền được nũng nịu, đòi được yêu chiều. Cô cũng có một người anh trai nữa, người đó hơn cô một tuổi, rất nghịch ngợm và đôi lúc còn bắt nạt cô.

Cũng may là bố mẹ nuôi rất thương cô, mỗi năm họ đều mua quần áo mới cho cô, có đồ ăn ngon cũng luôn để phần. Tình cảm cô đối với bố mẹ nuôi, có yêu thương, nhưng sự cảm kích, ơn huệ lại là phần nhiều.

Năm cô 11 tuổi, lúc đó cô đang học lớp 4, một buổi tối nọ, cô đang giúp mẹ vá lại chiếc áo, bỗng mẹ nuôi nói:
– “Mấy năm nay, con không nhớ Nam sao? Lúc đó, nó còn bé, sao có thể chăm lo cho con được?”

Cô im lặng không nói, đúng vậy, cô không nhớ anh trai, mới nghĩ đến cô đã thấy hận, vì thế cô không muốn nghĩ. Cô nói với mẹ:
– “Mẹ à, đừng nhắc đến anh con nữa”.

Mẹ nuôi thở dài, hình như trong lòng vẫn còn điều gì đó muốn nói nhưng cô đã đi về phòng mất.

Chính xác, cô hận anh, cô không sợ khổ khi đi theo anh, không được đi học thì có gì đáng sợ đâu, cô sẽ theo anh đi kiếm cơm vậy. Nhưng anh đã đập tan mộng tưởng của cô, đã làm mất đi chỗ dựa của người thân duy nhất, đó chính là sự hủy diệt triệt để, không để lại điều gì cả. Vì thế, cô không thể tha thứ cho anh trai mình.

Năm 16 tuổi, thành tích học tâp đứng đầu toàn trường giúp cô thi đỗ vào trường cấp ba, người anh lớn hơn cô một tuổi đang học lớp 11.

Một năm sau, khi người anh đó đang chuẩn bị tốt nghiệp cấp ba, bố nuôi nghỉ việc, ông thuê một cửa hàng nhỏ ở chợ để bán rau. Tối hôm đó, đang ngồi học cô khát nước nên đi ra phòng khách uống thì tình cờ nghe được cuộc trò chuyện bên phòng của bố mẹ. Anh trai nuôi nói với mẹ rằng: “Mẹ, con không biết, dù thế nào đi nữa con cũng phải học Đại học”.

“Không được, cái Mai học tốt hơn con, nó có khả năng thi đỗ Đại học”. Tiếng nói của bố nuôi nhỏ nhẹ nhưng rất quyết đoán.

“Lấy đâu ra tiền mà nuôi hai đưa ăn học cùng một lúc chứ?” Mẹ nuôi nói.

Nghe đến đó, cô vội quay về phòng, cô không muốn nghe gì nữa. Lúc đó, cô quyết định để cho anh trai học Đại học, còn cô, học xong cấp ba, cô sẽ đi tìm việc. Bởi từ khi anh trai bỏ cô mà đi, bố mẹ nuôi đã cho cô quá nhiều, cô không muốn thêm gánh nặng cho họ nữa.

Đáng tiếc là anh trai nuôi của cô thi không đỗ và bố nuôi cô vẫn kiên quyết rằng cô phải vào Đại học.

Cô vẫn kiên quyết:
– “Con không thi đâu, con quyết định rồi!”.

Tranh luận hồi lâu không được, mẹ nuôi cô từ trong bếp nói vọng ra: “Mai à, con bắt buộc phải thi vào Đại học. Con có biết không, anh trai con đã gửi đủ số tiền học phí cho con rồi nên con nhất định phải học Đại học, đừng phụ lòng nó, nó không dễ dàng gì…”.

Cô ngẩn người. 11 năm sau, lần đầu tiên cô lại tìm về hồi ức của anh trai mình.

Bố mẹ nuôi nói với cô:
– “Năm đó, anh trai con biết một đứa trẻ 14 tuổi như nó không có khả năng để nuôi em gái nên nó mới quyết định ra ngoài đi làm kiếm cơm, còn gửi con lại cho bố mẹ. Nó bán nhà và đưa hết số tiền đó cho bố mẹ bởi nó tin rằng bố mẹ sẽ chăm sóc tốt cho con. Buổi sáng sớm hôm đó, trước khi rời đi, anh con ôm con đang ngủ say trong lòng đưa cho mẹ bế, sau đó nhìn con và hứa rằng: “Thím à, con nhất định sẽ về đón em con, mong thím chăm sóc tốt cho nó…”.

“Từ khi con bắt đầu lên lớp 4, mỗi tháng nó đều gửi tiền về cho mẹ, bố mẹ cũng tích góp lại cho nó. Là bố mẹ vô dụng, nhiều năm qua luôn để con phải chịu ấm ức…” Bố mẹ nuôi nghẹn lòng không nói nên lời, họ cầm lấy tay cô và khóc.

Vậy những năm qua anh ấy đi đâu, sống như thế nào?…Hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu, thì ra anh trai chưa từng bỏ rơi cô, anh trai vẫn luôn yêu cô nhưng bằng cách mà mấy năm qua cô không thể lý giải được:
– “Thế tại sao anh lại không về thăm mình chứ, không phải anh đã hứa sẽ về thăm mình rồi ư?…”.

Số tiền gửi từ Sài Gòn về, bên ngoài phong bì không ghi địa chỉ cụ thể, cô hạ quyết tâm nhất định phải vào Sài Gòn tìm anh.

Một năm sau, cô thi đỗ và vào Sài Gòn học tập, cô vẫn không thôi nghĩ đến việc tìm anh trai, thế nhưng giữa đất Sài Gòn rộng lớn như thế, đi tìm một người quả như là mò kim đáy bể.

Tốt nghiệp xong, cô ở lại Sài Gòn và làm việc ở đó, cũng là để tìm anh trai luôn. Vào lúc cô gần như tuyệt vọng, bỗng nhiên cô nhìn thấy một bức ảnh trên mạng: “Trước một quầy báo nhỏ, có một chàng trai người gầy gò ốm yếu miệng, bị mất một tay đang sửa xe đạp…” Khi nhìn thấy dòng chữ ghi tên Nam, cô hoa mắt, người đó chẳng phải là anh trai mình sao? Đúng rồi, là anh ấy.

Cô xem tiếp: “Năm 19 tuổi, người thanh niên làm việc ở một công trường xây dựng, trong lúc đang làm việc thì do gặp sự cố về máy móc nên anh ta đã bị mất đi một cánh tay, từ đó anh lang thang phiêu bạt khắp nơi, làm đủ nghề để mưu sinh: nhặt phế thải, đi bán báo, phát tờ rơi,…Và 3 năm trước, anh ta mở một quầy báo nhỏ vừa bán báo vừa sửa xe đạp. Động lực duy nhất để anh sống lạc quan như thế chính là cô em gái…”.

Khi cô xuất hiện trước quầy báo, anh trai cô đang bận rộn với công việc sửa xe đạp, mặc dù mất một tay nhưng động tác của anh vô cùng nhanh nhẹn và điêu luyện. Cô nhẹ nhàng bước lại gần, nước mắt cô rơi xuống lã chã, trước mắt cô chính là người anh mà cô từng hận vì đã bỏ rơi cô, chính là người yêu thương cô nhất, bất chấp tất cả để lo cho cô một cuộc sống đầy đủ.

“Cô gái, cô…” Anh ngạc nhiên khi nhìn thấy cô, cô khóc nức nở và ngồi xuống nhẹ nhàng lấy khăn lau mồ hôi cho anh.
– “Anh à, em là Mai đây!…”

Cô vội vàng ôm lấy anh, đã lâu lắm rồi cô không được ôm anh như vậy, cảm giác đó vẫn ấm áp như hồi bé, cảm giác được an toàn, được yêu chiều…

Tình cảm gia đình luôn thiêng liêng như vậy, nó luôn là chỗ dựa để ta lớn lên, luôn là động lực để ta bước tiếp, dù người thân có làm gì thì hãy luôn nhớ rằng, tất cả đều vì những người mà họ thương yêu mà thôi!.

Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: one or more people and closeup
Image may contain: one or more people, people standing, child, shorts and outdoor

TIỂU THƠ

TIỂU THƠ

 Phạm Tín An Ninh

Rầm!
Tôi và hai thằng bạn vừa rà thắng xe đạp trước rạp Tân Tân để vào xem phim “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” thì bị một chiếc Vélo Solex húc từ đằng sau tới. Cả ba thằng ngã xuống đất. Riêng tôi còn bị cái xe của thằng bạn đè lên bụng đau muốn nín thở. Mới loi ngoi bò dậy, chưa kịp phủi bụi trên áo quần thì nghe tiếng quát tháo:
– Ê! Bộ ba “chàng ngự lâm pháo thủ” mù cả hà. Dừng ngựa mà chẳng coi chừng phía đàng sau! Đáng đời!
Vừa ngượng vừa tức giận bởi tự dưng bị húc té nhào giữa thanh thiên bạch nhật và trước bao nhiêu nguời đẹp, chưa kịp nắm cổ áo cho một trận, thì bị thủ phạm tiếp tục tấn công phủ đầu. Đúng là cà chớn. Nhưng nhìn lên thì.. à.. cả ba thằng khựng lại: đối phương là một cô gái, tuồi ô mai, tóc còn thắt bím, ngồi trên Vélo, vòng tay trước ngực, trề môi, rồi trợn đôi mắt to như hai cái đèn “ô tô”: 
– Số còn hên đó. Cái vélo không bị hư gì. Tiểu thơ tha cho đó. Lần sau liệu hồn!
Nói xong cô bé nguýt một cái rồi rồ ga chạy mất tiêu.
Dù chưa bao giờ bị thầy Bửu Cân phán cho cái tội “con nhà không có lư hương”, bọn tôi cũng phải chửi thề một tiếng cho hả giận. Thằng Cường, đứa hiền lành ít nói nhất trong bọn tôi, xăn tay áo, xổ nho trước:
– Đ.M., con gái nhà ai trông đẹp thế mà đanh đá như bà chằn. Phải mà con trai thì biết tay tao.
Đúng là cô bé khá xinh, nhất là đôi mắt thật to và đôi môi mộng đỏ, dù có trề lên ngạo nghễ, cũng vẫn đáng yêu ghê lắm. Tôi nghĩ vẩn vơ như thế khi theo người soát vé dẫn tới chỗ ngồi. Trong rạp tối mò. Ba thằng chúng tôi vào trễ. Trên màn ảnh đang chiếu phim thời sự: Tổng thồng Ngô Đình Diệm đang kinh lý Ban Mê Thuột (nhưng không thấy cảnh ông bị ám sát hụt).
Suốt buổi hôm ấy, mắt nhìn lên màn ảnh, mà tâm trí tôi thì chỉ thấy có đôi mắt cô bé, trừ khi nào có tiếng súng nổ của ba chàng ngự lâm, tôi mới giật mình trở lại với truyện phim đôi ba phút.
Cha tôi nói đúng. Hồi mới ba tuổi, tôi đã khóc đến cả tháng trời khi mẹ tôi mất, ông bảo rồi sau này tôi sẽ là một thằng đa sầu đa cảm. Và hôm nay, dường như tôi bắt đầu biết tương tư đây.
Nha Trang cũng chẳng lớn hơn cái thành phố núi Pleiku là bao nhiêu, để ông nhà thơ nào đó “đi dăm phút trở về chốn cũ”, vậy mà cả mấy tháng rồi, tôi chưa gặp lại cô bé, mặc dù thời ấy Nha Trang đã có khá nhiều vélo solex, đủ làm tôi nhìn theo muốn ngoẹo cổ. Tôi nghĩ, chắc là cô bé từ đâu đến chơi. Trông nước da trắng hồng, có thể là từ Đà Lạt xuống thăm ai đó rồi lại biến mất như một nàng tiên trong cổ tích.
Quê tôi ở ngoài Vạn Giã. Vào Nha Trang học, ở nhà ông chú, trước ở gần rạp ciné Moderne của ông Bác Ái, sau này dọn lên gần Ty Thông Tin. Chú tôi, ngoài làm chủ tiệm bán mọi vật dụng về điện, còn thầu các công trình điện. Ông bà chỉ có một cô con gái rượu, cưng như trứng mỏng, nên mọi thứ ngược xuôi giao dịch ông cần tới tôi. Để tôi lên tinh thần, bỏ bớt cái tật ham chơi và lười biếng có lẽ từ khi còn trong bụng mẹ, ông thường bảo: “Cháu còn nhỏ mà coi bộ có khả năng thương mại. Cố gắng theo chú học hỏi, sau này dám qua mặt tao nữa đó “. (Cái này thì ông nói trật lất. Vì sau này tôi trở thành lính đánh giặc, nên cả đời có buôn bán được cái gì đâu).
Cả năm cứ mong tới mùa hè là tôi dọt về quê thăm cha tôi và chơi với mấy thằng bạn nối khố, rủ nhau ra con sông quê, ngày bơi lội, tối cắm câu, ngủ ngoài trời mà đua nhau đếm thử có bao nhiêu vì sao, tìm đâu là dải Ngân Hà có cái Cầu Ô Thước của Ngưu Lang Chức Nữ. Coi bộ vui và lãng mạn hơn ở trong cái thành phố Nha Trang này nhiều. Vậy mà mùa hè này tôi bị ông chú tôi giữ lại, sau khi thuyết phục được ông già tôi, bảo là để cho tôi tập làm quen với thương trường(!). Tôi nghe mà phát sợ, cứ như là sắp sửa bị ông đẩy tôi ra giữa chốn sa trường!
Bài học đầu tay là tôi xách cặp theo ông, đi dự một cuộc họp với mấy ông thầu khoán khác, trong một công trình “hợp tác mỗi bên cùng có lợi”. Nơi họp là một ngôi biệt thự khá đẹp nằm trên con đường Duy Tân có gió reo sóng vỗ.
Tôi rụt rè theo sau ông chú, bước vào phòng khách. Nhiều người đã có mặt. Ông nào trông cũng bệ vệ, đặc biệt có một ông mặc quân phục, oai phong cao lớn, mà coi bộ mọi người ai cũng nễ trọng. Nghe nói chuyện một hồi tôi mới biết đó là ông đại tá Đỗ Cao Trí, chỉ huy quân trường Đồng Đế. Lúc ấy tôi còn nhỏ, đâu có biết gì nhiều về lính tráng, nhưng tôi có nghe nhiều người kể chuyện tình ông đại tá này với một bà dược sĩ nào đó có tiệm thuốc tây trên đường Độc Lập. Bà này mới vừa ly thân ông chồng dược sĩ, có ông bồ là đại úy phi công trẻ tuổi đẹp trai thường đèo bà trên chiếc vespa chạy vòng vòng ngoài bờ biển, mặc dù bà có chiếc xe hơi thể thao trọc mui duy nhất ở thành phố này. Tội nghiệp ông phi công, vừa mới bị ông đại tá này nói nhỏ bạn bè làm lớn bên Không Quân cho bay ra tận ngoài vùng 1 xa tít mịt mù. (Sau này ông phi công hào hoa lấy một cô ca sĩ có giọng hát buồn… vào hồn không tên nào đó). Nghe mấy ông bàn bạc, tôi mới biết buổi họp này là để bàn việc xây cất và chỉnh trang lại toàn bộ doanh trại của quân trường Đồng Đế, mà chú tôi và mấy ông bạn thầu khoán vừa mới trúng thầu.
Tôi ngồi sau lưng ông chú, ghi ghi chép chép cứ như là… phóng viên tập sự. Nửa buổi thì ngưng họp ăn cơm. Một bữa ăn thịnh sọan từ nhà hàng mang tới. Vì thuộc hàng con nít, nên tôi được ưu tiên ra sân sau ngồi chung với mấy anh tài xế và con cháu ông chủ nhà. Vừa bước ra, chưa kịp tìm chỗ ngồi, thì tôi giật mình, sững sờ đến mấy phút. Cô bé, cô tiểu thơ… vélo solex, tông bọn tôi trước rạp Tân Tân gần ba tháng trước, đang ngồi chễm chệ tự lúc nào trong cái ghế bành duy nhất bên bàn ăn.
Lấy lại bình tĩnh, tôi đến kéo chiếc ghế bên cạnh cô bé:
– Chào tiểu thơ, chàng ngự lâm pháo thủ bị xe tông… ngã ngựa có được phép ngồi đây không ạ?
Cô bé nhìn tôi tròn xoe đôi mắt. Đôi mắt mà tôi đã tìm kiếm hơn ba tháng nay, cứ tưởng đã biến mất khỏi Nha Trang, bỗng dưng bây giờ đang mở lớn hết cỡ trước mắt tôi. Tôi ngồi yên như bị thôi miên. Dường như vừa mới nhớ ra tôi, cô bé nhoẻn miệng cười:
– À, hữu duyên thiên lý năng tương ngộ! Vous cứ tự nhiên.
Tôi ngạc nhiên, cô bé coi bộ tây này còn xổ cả tiếng nôm tiếng hán. Tôi nhủ lòng: Không phải vừa đâu nghe.
Vậy mà cái cuộc trùng phùng khá bất ngờ này lại đưa đẩy tôi đến một nấc thang danh vọng: làm gia sư cho cô bé. Nói gia sư cho oai phong, chứ hồi đó chì có mỗi chữ “dạy kèm” thôi chứ sư với siếc gì.
Số là sau này, khi thực hiện công trình, tôi thường theo chú tôi đến đây, cũng có nhiều lúc tôi đến một mình để trao giấy tờ và tham khảo ý kiến của ông chủ thầu, papa của nàng. Dần dà tôi quen thân với cả nhà. Gia đình trước sống ở Đà Lạt, làm chủ mấy cái hotel. Bà vợ bị chết bởi một tai nạn giao thông ngay trên đèo Ngọan Mục, ông già buồn quá không muốn mỗi ngày nhìn thấy bóng dáng bà vợ trong thành phố sương mù, nên dọn xuống Nha Trang, trở lại nghề thầu khoán gia truyền từ mấy đời trước. Ông bà chỉ có mỗi một cô con gái, nhưng trong nhà ông nuôi nhiều cháu và gia nhân. Gặp tôi nhiều lần, và qua chú tôi, ông già cô bé nghe nói tôi cũng gốc nhà quê, hiền lành chăm chỉ, nên nhờ tôi, cứ ba tối mỗi tuần ghé lại nhà kèm cô con gái cưng của ông về môn toán và Việt văn. Cô bé vừa từ trường Domaine de Marie ở Đà Lạt chuyển xuống lớp đệ ngũ trường Nữ Trung Học Nha Trang, đọc thơ Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc mà không hiểu bà Đoàn thị Điểm và ông Ôn Như Hầu nói cái gì trong đó…  Môn toán thì tôi không biết vẽ rồng vẽ rắn, chứ cái môn Việt văn này coi bộ bao la trời biển quá, vẽ cái gì chẳng được.
Hôm đầu tiên, tiểu thơ vẫn còn cao điệu, gọi tôi là Thầy. Không biết là do lệnh của ông già, vì đề phòng tôi “tán bậy” con gái, nên phong cho tôi cái chức “bán tự vi sư nhất tự vi sư” để tôi biết phận mà giữ mình, hay là cô bé choc quê tôi không biết.
Thấy “diễn nôm điển tích” mấy câu thơ trong Cung Oán Ngâm Khúc coi bộ không ăn khách, chẳng hấp dẫn nổi cô bé, tôi quay sang đọc thơ cho cô bé nghe. Hồi đó ở Võ Tánh có hai nhà thơ rất sớm nổi tiếng, mà dù là tên thật hay bút hiệu gì nghe cũng đẹp làm sao: Thanh Nhung và Cao Hoành Nhân, Tôn Nữ Nha Trang và Bùi Cao Hoành gì đó. Không biết có đúng hay không, nhưng tôi nghe bạn bè thêu dệt về cuộc tình lãng mạn của hai nhà thơ học trò vang bóng một thời này. Tôi chọn mấy bài thơ ướt át nhất của hai người đọc cho cô bé nghe. Và cũng lạ, không cần diễn nôm diễn nghĩa gì cả, cô bé không những hiểu rất nhanh mà còn cảm nhận đến độ lim dim đôi mắt… nhìn xa xăm.
Có một điều tôi quên nói: cô bé cũng thuộc dòng Tôn Nữ, cũng có một cái tên hay lắm: Tôn Nữ Giáng Vân. Nhưng tôi vẫn thích gọi cô bé là Tiểu Thơ, cái tên mà nàng đã tự xưng khi đụng tôi trước rạp Tân Tân. Hơn nữa tôi thấy cái tên này cũng hợp với cô bé lắm. Tôi nghĩ thầm, có lẽ nàng Tôn Nữ xứ Huế nào cũng đẹp và.. lãng mạn đa tình.
Các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn, cô bé mê nhất là Hồn Bướm Mơ Tiên, nên thường bắt tôi kể lại cho nàng nghe. Mẹ nàng vốn là một phật tử ngoan đạo. Sau ngày bà chết, ba nàng cúng dường khá nhiều tiền để chỉnh trang hai ngôi chùa Tỉnh Hội, Hải Đức và cung thỉnh thêm nhiều tượng Phật. Cô bé thường theo cha lên chùa Hải Đức. Nàng bảo mỗi lần lễ Phật, nàng cứ tưởng tượng mình là “chú tiểu” Lan, nhưng lại rất sợ và bịt kín tai khi nghe có tiếng đại hồng chung, nên chắc không thể nào giả trai lên chùa tu được.
Một hôm cô bé nhất quyết bắt ông thầy phải làm cho cô bé một bài thơ. Nếu không thì không chịu học. Cái này thì đúng là tiểu thơ muốn hại “đời tư” của tôi đây. Mang tiếng là học ban C nhưng hồi giờ tôi có thơ với thẩn gì đâu, chỉ lâu lâu cùng với mấy thằng bạn trong lớp nghịch ngợm bày ra trò chơi nối vần một bài lục bát con cóc để ghẹo cô bạn nào đanh đá trong lớp. Vậy mà hôm ấy, không biết con tim nó ướt át đến cỡ nào, tôi phóng bút làm xong một bài thơ chưa đầy mười phút. Đọc qua nghe có mùi cải lương không chịu nổi, nhưng tôi cũng tự phục mình. Tôi đưa bài thơ cho nàng đọc:

Ngày tháng trôi dần theo nhớ thương
I như duyên nợ đã vấn vương
Nên tình mây nước cùng trăng gíó
Hẹn ở ngày mai một nẻo đường
YÊU vầng trăng sáng in cành lá
Và khúc nhạc lòng dâng đến hương
Ân ái giờ đây là mơ ước
Ngỡ một tâm tình một vấn vương

Cô bé đọc xong không biết có hiểu gì không, (mà thực ra bài thơ cũng có nghĩa gì đâu mà hiểu với không), gật gù khen và hỏi:
– Sao bài thơ không có tên?
– Có tên rồi đó mà tiểu thơ không thấy à?
Cô bé lật qua lật lại mảnh giấy:
– Tên với tựa gì đâu, không thấy. Trả lại thầy, không thèm.
Tôi cười, vuốt ve cô học trò:
– Thì Vân cứ ghép tất cả các mẫu tự đầu ở mỗi câu lại, sẽ thấy cái tựa liền.
Khổ thật, tôi còn phải giải nghĩa thêm mẫu tự là cái gì, thì cô ta mới tìm được cái tựa bài thơ. Cô bé đỏ mặt, vất mảnh giấy có bài thơ xuống đất :
– Không thèm chơi với Thầy nữa.
Nói là không thèm chơi, nhưng cũng kể từ hôm ấy cô bé thân thiết và gần gũi với tôi hơn. Ba nàng cũng thấy tin và quí ông gia sư nhóc tì này, vì thấy con gái cưng của mình chăm học, vui vẻ yêu đời hơn. 
Mùa hè năm đó, cô bé theo tôi về nhà quê chơi, nhân tiện có cô con gái của ông chú tôi cùng về thăm quê nội. Dường như đó là lần đầu tiên cô bé ra một vùng quê. Không biết là gió nội hương đồng hấp dẫn cô bé, hay là suốt ngày dung dăng dung dẻ làm nũng làm nịu với “ông Thầy”, cô bé ca hát líu lo và bảo là yêu… đồng quê ghê lắm. Và đó cũng là một mùa hè đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong đời học trò của tôi, dù ở quê tôi chẳng có cây phượng vĩ và cũng chẳng nghe có tiếng con ve sầu nào rên rỉ.
Hai năm sau, tôi rời Nha Trang vào Sài gòn học tiếp. Tôi buồn và tiếc nuối vì phải chia tay cái nghề gia sư với cô hoc trò nhỏ nhưng có đôi mắt thật to… của mình. Cô bé được ông già chở lên ga Nha Trang tiễn tôi đi. Tôi cũng cố làm ra vẻ “đi là chết ở trong lòng một ít”, làm cô bé mủi lòng muốn khóc. Ông già cứ tưởng là nhờ ơn tôi mà cô bé vừa đậu cái bằng trung học kỳ rồi, nên cũng nắm chặt tay tôi, lì xì một mớ tiền và cám ơn rối rít…
Vậy mà cái tình yêu ấy (không biết có đúng là tình yêu hay không, nhưng cứ nói như thế cho nó lãng mạn và người lớn một chút) cũng làm cho lòng tôi xốn xang một dạo.
Sau đó chỉ có vài lần tôi nhận được thư cô bé, kể chuyện những bạn bè thân quen của cô bên trường Nữ, và chuyện chiếc máy bay phản lực rơi xuống bên cạnh rạp Tân Tân, nơi mà lần đầu tiên tôi biết cô bé nhờ chiếc vélo của cô tông tôi ngã xuống bên lề đường. Nhưng lần nào cũng kèm theo một bài thơ tình… con cóc.
Năm năm sau, khi cô bé đã trở thành người lớn và quên “ông Thầy” thích đọc thơ tình cho cô học trò… lim dim đôi mắt, thì cũng là lúc tôi hát khúc Biệt Kinh Kỳ, xếp bút nghiên theo việc kiếm cung. 
Ra trường, tôi được bổ sung về một đơn vị lưu động trên vùng Cao nguyên gió lạnh mưa mùa. Năm 1972, tôi bị thương trong trận Mủa Hè Đỏ Lửa ở Kontum, được đưa về QYV Pleiku điều trị. Khi vết thương vừa lành, tôi nhận Sự Vụ Lệnh của đơn vì đề cử về Sài gòn trong đoàn “chiến sĩ xuất sắc” được Tổng Thống tiếp đón tại khu vườn Dinh Độc Lập. Thực ra là tôi có xuất với sắc cái gì đâu. Khi còn độc thân thì hăng máu lắm, chứ đã có vợ rồi thì cũng hơi lạnh cẳng, ngại cái cảnh “anh trở về dang dở đời em”. Nhưng chiến tranh đang hồi ác liệt, nếu cử chiến sĩ xuất sắc thứ thiệt đi thì thiếu người đánh giặc giỏi, mà lại hao hụt quân số tác chiến, tôi đang trong tình trạng bất khiển dụng, nên cho tôi đi là nhất cử lưỡng tiện. “Chiến sĩ xuất sắc” được ưu ái đi bằng máy bay dân sự. Tại phi trường Pleiku bụi đỏ, tôi bất ngờ gặp lại Tiểu Thơ khi tôi vừa ngơ ngác bước lên máy bay Air Vietnam và khựng lại trước đôi mắt thật to của cô hôtesse de l’air đang mỉm cười chào khách. Trong chiếc áo dài màu thiên thanh, có thêu hai con rồng trên cổ áo, nàng đẹp như một nàng tiên. Khi chiếc máy bay DC 4 đã lấy lại thăng bằng trên cao độ, nàng đến ngồi chiếc ghế trống trước mặt tôi, quay ra sau trò chuyện. Trong chớp nhoáng, tôi biết là nàng đã có chồng. Anh ta là một phi công phản lực F5, thuộc dơn vị Biên Hòa. Hai người làm đám cưới hơn một năm. Tôi nghĩ, con gái đẹp thường chọn mấy ông không quân, vừa được tiếng có ông xã hào hoa, đi mây về gió, vừa khó trở thành góa phụ. Anh phi công nào phải vừa bô trai vừa tốt số lắm mới lọt được vào đôi mắt của Tiểu Thơ này. Tôi nghĩ như thế mà lòng thì cũng thấy một chút bâng khuâng.
Chỉ nói chuyện được vài câu, nàng ghi địa chỉ của tôi ở Sài gòn, rồi hẹn sẽ cùng đức lang quân ghé đón đi Maxim nghe Lệ Thu hát bài Kỷ Vật Cho Em. Tôi cười, bảo là rất sợ bài hát này, cái bài hát mà thằng lính nào nhát gan nghe xong là không còn muốn “đáo nhậm” đơn vị nữa. 
Cuối cùng nàng đến có một mình, “ông xã” vừa mới biệt phái ra Vùng 1. Tối đó thay vì đến nhà hàng Maxim, nàng đưa tôi ra Quán Cái Chùa cho có vẻ nghệ sĩ một chút, mời “ông Thầy” uống cà phê có hương vị Tùng Đà Lạt – mà chủ nhân thường pha chế đặc biệt cho riêng nàng – để nhớ những ngày cô còn ở đó… Dường như khi đã lớn rồi, người ta lại muốn tìm về cái thời đi học. Hai đứa chỉ ngồi nhắc lại chuyện Nha Trang, chuyện mấy bài thơ con cóc, rồi chia tay không hẹn ngày tái ngộ. Thời chiến tranh mà, “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” biết đâu mà hẹn. 
Tháng 3/1975, Nha Trang rồi cả Vùng 2 mất. Bao nhiêu năm sống chết với núi rừng Hoàng Triều Cương Thổ, tôi theo đơn vị chỉ còn một phần tư quân số “di tản” vào Vũng Tàu để tái bổ sung, rồi kéo xuống tham dự những trân đánh cuối cùng cô đơn và buồn tẻ ở những địa danh xa lạ: Bến Lức, Cần Giuộc thuộc tỉnh Long An, nhằm ngăn chận địch quân đang tràn về vây hãm và pháo kích Sài Gòn.
Cũng như nhiều đơn vị khác, vào giờ thứ 25, chúng tôi đánh giặc không có “đại bàng”. Lần cuối cùng tập họp anh em lại hô “tan hàng” mà không còn nghe “cố gắng” nữa, thì tôi mới biết là ông tướng tư lệnh đã có mặt trên đệ thất hạm đội Mỹ trước đó hai ngày rồi! Thôi thì, xưa nay người ta đã nói “nhất tướng công thành vạn cốt khô” mà. Cuối cùng thì miền Nam cũng thất thủ. Đám tụi tôi được người “anh em” chiến thắng mời vô trại cải tạo để được hưởng “chính sách khoan hồng của kách mệnh”!
Tám năm lưu đày từ nam ra bắc, cuộc đời thôi đành cứ như gởi theo những đám mây bay. Cái hạnh phúc bây giờ chỉ còn là những phút giây hồi tưởng. Mà hồi tưởng cũng phải “cảnh giác”, chứ không khéo cũng bị cùm vì cái tội “luyến tiếc quá khứ”. Bạn bè cùng cảnh luyến tiếc điều gì thì tôi không biết, nhưng riêng tôi lại tiếc nhớ cái tuổi học trò, và cái thời con tim mới biết yêu. Tôi lại nhớ đến Tiểu Thơ, đến đôi mắt tròn xoe của cô bé, và nhớ tới cái hạnh phúc làm “gia sư” của tôi còn hơn là nhớ tới mười mấy năm làm bạn với ông Nguyễn Bắc Sơn “ta vốn hiền khô – ta là lính cậu, đi hành quân rượu đế vẫn mang theo, mang trong đầu những ý nghĩ trong veo, xem chiến cuộc như tai trời ách nước”. Tôi hình dung bây giờ chắc nàng đang hạnh phúc ở một chốn thiên đường nào bên nước Mỹ. Ông xã là không quân mà, lại đóng ở Biên Hòa nữa. Chỉ cần một lần cất cánh nhẹ nhàng là thay đổi cả cuộc đời.
Ra tù, trở lại thành phố xưa, tôi có cảm gíác Nha Trang sao bây giờ xa lạ quá, không còn là “hang động tuổi thơ” của bọn tôi ngày trước nữa. Nhưng rồi tôi cũng đâu có được phép ở lại cái thành phố này, mà phải về tạm trú ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Ở đó tôi chỉ còn một bà cô già sống quạnh hiu trong ngồi nhà từ đường có mái ngói âm dương của ông bà nội. Cha tôi thì cũng đã chết cách đây sáu năm trong trại cải tạo Đá Bàn. Mồ mả còn chưa biết ở đâu. Nhưng rồi tôi còn có cái may, là gần như mỗi ngày tôi đều ghé lại Nha Trang một lần, bởi tôi được ông anh bà con cho tôi làm tài xế phụ kiêm lơ xe cho chiếc xe đò nhỏ của ông chạy đường Nha Trang – Tuy Hòa. Xe chạy bằng than và khách hầu hết là mấy bà đi buôn chuyến. 
Một hôm tôi đang lui cui đứng trên mui, thì một bà khách kêu tôi nhấc hộ đội thúng của bà lên. Bà lấy hết sức đưa từng chiếc thúng lên, nhưng rồi lại bị sà xuống. Trong đôi thúng là những thỏi đường màu đen khá nặng. Tôi phải dùng một cây móc sắt đưa xuống, bảo bà móc vào để tôi kéo lên. Khi lấy sức kéo đôi thúng lên tôi bất ngờ gặp đôi mắt thật to và tròn xoe. Đôi mắt nhìn tôi tựa hồ như xoáy vào lòng tôi nhát dao đau buốt. Tôi nhảy xuống xe, nắm chặt đôi vai gầy còm của bà khách:
– Là em, là Tiểu Thơ đây à?
Nàng nhìn tôi, rồi nước mắt đầm đìa.
– Tiểu Thơ, à quên… Vân, làm sao mà em lại ra đến nỗi này.
Nàng cúi xuống im lặng, không nói một lời nào.
Ra đến Tuy Hòa, tôi gánh hộ nàng gánh đường giao cho một cái quán trong chợ, rồi mời nàng đi ăn cơm trưa. Tôi đang nóng lòng được biết về hoàn cảnh của nàng:
– Ông xã em bị kẹt ngoài Vùng 1 rồi mất tích luôn từ đó tới bây giờ. Em có đi hỏi một vài người bạn cùng phi đoàn, thì họ cho biết là anh ấy bị bắn rơi khi yểm trợ cho anh em Thủy Quân Lục Chiến rút về Đà Nẵng. Em chờ đợi xem anh có bị bắt cầm tù ở đâu không, nhưng đến bây giờ thì chắc chắn là anh đã chết thật rồi.
– Còn ba em đâu?
– Nhà cửa ba em bị tịch thu hết. Ông bị bắt đi cải tạo với lý do từng thầu xây cất doanh trại cho Mỹ trong phi trường. Chỉ một năm là ông chết.
– Vậy bây giờ Vân ở với ai?
– Em ở với con gái em. Nó gần mười tuồi rồi. Khi gặp anh ở Sài gòn là em vừa mang thai nó mà chưa biết. Mẹ con em được đền bù một căn nhà tôn nhỏ của thương phế binh hồi trước, nằm sau ga xe lửa.
Tôi nhét vào tay Vân tất cả số tiền mà tôi kiếm được hôm ấy, bảo nàng mua hộ tôi quà cho cháu gái.
Sau đó, tôi gặp lại nàng chỉ thêm hai lần nữa, vì ông anh họ tôi đã phải bán rẻ cái xe hơi cho người khác, bởi không dủ tiền sửa chữa mà còn cứ bị chính quyền trưng dụng đi chở lúa cho hợp tác xã, không trả một đồng nào. Cũng đúng vào lúc này, tôi tính chuyện vượt biên. 
Tôi kể chuyện Tiểu Thơ cho vợ tôi nghe. Bây giờ tôi thương cô như một người em gái. Vợ tôi tốt bụng, thương mẹ con cô cũng như hoàn cảnh của chính mình, sẵn sàng cùng tôi giúp mẹ con nàng đi cùng chuyến vượt biên, do chính tôi tổ chức.
Một tuần trước khi ra đi, tôi vào Nha Trang tìm đến nhà nàng. Căn nhà khóa kín cửa. Tôi chờ đến tối mà chẳng thấy mẹ con cô trở về. Tôi gõ cửa căn nhà bên cạnh. Chủ nhà lại là một anh thương phế binh, nhờ mất cả hai chân nên không bị đuổi khỏi nhà… Anh cho biết là mẹ con nàng đã dọn đi đâu cả mấy tuần rồi, không thấy về nhà.
Trời thương, chuyến vượt biên cũng đến được bến bờ, nhờ một chiếc tàu chở dầu của Vương Quốc Na Uy vớt trên biển, trước khi cơn bão ập đến. Với ân tình này, vợ chồng tôi chọn Na Uy là nơi để gởi gấm phần đời còn lại của mình và vun đắp tương lai cho mấy đứa con nhỏ dại.
Mùa hè năm 1989, vợ chồng tôi đưa hai cô con gái sang Mỹ học, nhân tiện ghé thăm và chia buồn gia đình ông anh họ, đi từ năm 78, định cư ở thành phố Sacramento, bắc Cali. Anh chị vừa có thằng con trai bị chết đuối khi theo cha đi câu ngoài biển.
Bao nhiêu năm gặp lại nhau, anh chị tiếp đón chúng tôi thật ân cần, nhưng không vui vì cái bàn thờ đứa con trai còn nghi ngút khói hương. Sáng hôm sau, anh chị đưa tôi đến nghĩa trang thăm mộ cháu rồi chở chúng tôi đến một ngôi chùa Sư Nữ ở gần đó, để bàn việc làm lễ cầu siêu cho cháu. Anh cho biết anh chị rất thân quen với Sư Bà trù trì, Bà rất quí anh chị không chỉ vì biết nhau từ lúc còn ở Nha Trang mà vì anh làm nghề thầu sửa chữa nhà cửa, nên cả ngôi chùa này phần lớn là do công sức của anh cúng dường. 
Ngôi chùa không lớn lắm, khu chánh điện còn đang dang dở, nhưng vườn khá rộng và trồng nhiều loại hoa. Trong chùa tiếng tụng kinh, gõ mõ càng đượm không khí trang nghiêm. Chúng tôi được một cô phật tử mời ngồi uống trà và xin chờ chừng nửa tiếng, vì Sư Bà đang cúng ngọ. 
Khi ông anh bà chị đứng bật dậy, chúng tôi chợt nhìn thấy Sư Bà vừa bước ra. Tôi ngạc nhiên vì Sư Bà còn trẻ và trông rất phương phi, nhất là hai tai thật to và dài xuống như tai các tượng Phật tôi thường nhìn thấy trong các ngôi chùa. Điều làm chúng tôi thú vị là bà rất vui vẻ cởi mở. Bà bảo bà cũng là dân Nha Trang nên rất mừng khi tiếp được người đồng hương từ tận bắc Âu đến viếng.
Sau một lúc hàn huyên, tôi biết được Sư Bà là người có trình độ học vấn cao. Bà có cử nhân Văn Khoa và đang học năm cuối cao học văn chương tại đại học Vạn Hạnh thì miền Nam thất thủ. Điều ngạc nhiên hơn là Sư Bà cho biết có khá nhiều ni cô gốc Nha trang đang tu ở chùa này, trong đó có con gái của ông chủ tiệm ảnh nổi tiếng một thời ở đường Phan Bội Châu mà ngày xưa tôi cùng đám bạn bè thường đến để chụp ảnh, con gái một bà chủ tiệm vàng trước Grande Pharmacie, và một vài ni cô nữa. 
Bà còn bảo thật là tội nghiệp, có vài cô đã gặp bao nhiêu nghịch cảnh thương tâm trên biển Đông, chồng chết con chết, chỉ còn lại một mình. Ban đầu, Bà đưa về chùa cưu mang, rồi sau đó các cô xin được xuống tóc qui y luôn. Sư Bà mời chúng tôi ở lại dùng cơm chay cùng với Bà, nhân tiện bà giới thiệu với mấy ni cô gốc Nha Trang cho biết, bởi tôi cũng là một phật tử thuần thành.
Tôi theo ông anh bà chị xuống bếp phụ dọn cơm. Nhưng ông anh ngăn lại: 
– Chú là người lạ, không nên vào bếp. Hôm nay chú thím là khách của Sư Bà mà.
Ngồi dọc theo chiếc bàn dài, gồm các ni cô và một vài phật tử, chỉ có chúng tôi là “dân sự”. Sư Bà giới thiệu chúng tôi là đồng hương, những phật tử đến từ tận Bắc Âu. Tôi vừa đứng lên chấp hai tay trước ngực, bỗng bất ngờ bắt gặp đôi mắt thật to, tròn xoe của một ni cô ngồi ở phía cuối bàn. Ni cô cũng vừa nhìn tôi rồi cúi xuống. Đôi mắt đó với tôi có một cái gì thần giao cách cảm. Đúng. Trên thế gian này chỉ có Tiểu Thơ mới có đôi mắt ấy mà thôi
Dùng cơm xong, là đến giờ nghỉ trưa của Sư Bà. Chúng tôi cám ơn Sư Bà và xin được cúng dường một số hiện kim để trùng tu chánh điện. 
Tôi từ giã Sư Bà, trong lúc mắt nhìn quanh như muốn tìm kiếm một điều gì. Nhưng tất cả chỉ có im lặng, ngoài tiếng chuông chùa ngân nga như chẳng bao giờ muốn tan đi trong không gian bao la vô tận.
Tôi bước ra khỏi cổng chùa. Chùa nằm trên một khu đất bằng phằng, nhưng sao tôi có cảm giác như mình đang lững thững bước xuống chân đồi. Tôi hình dung đến Ngọc vừa chia tay “chú tiểu” Lan lần cuối cùng ở chùa Long Giáng trong Hồn Bươm Mơ Tiên của nhà văn Khái Hưng, mà ngày xưa Tiểu Thơ đã bắt tôi phải kể đi kể lại bao nhiêu lần.

Phạm Tín An Ninh

Thời Thế, Thiện, Ác, và… Con Người

TRUYỆN NGẮN – Những ai luôn mồm mở miệng kêu gọi: “hòa giải-hòa hợp” hãy đọc và suy gẫm cho kỹ thế nào là “hòa giải-hòa hợp” hay xóa bỏ hận thù nhé….!!!
*************

Thời Thế, Thiện, Ác, và… Con Người
Vương Mộng Long – K20.

Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương.

Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.

Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.

Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương.Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết. Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng.

Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư :
– Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?
– Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!
– Việt-Cộng à?
– Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari , giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ )
– Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?
– “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.

Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi
– Hắn thuộc đơn vị nào vậy?
– Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.
– Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?
– Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.
– Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.
– “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm . Tôi gật đầu, tán đồng,
– Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.

Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.

Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.

Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh. Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng. Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản. Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.

Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:
” Ối! Ối! Đau! Đau quá!… Ư!… Ư!… ư… ư…”

Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:
“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”
Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.

Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì.Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay. Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi. Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm? Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều…

Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra .Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm.

“Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn. Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể. Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!
“Here it is!”

Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn. Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác. Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.

Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau. Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.

Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.

Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào. Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà. Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu: “Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby…”

Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt. Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.

Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây. Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người.Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.

Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ:
– Thank you!
Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói. Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,
– Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!
– Không thèm! nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng. Tôi tỉnh như ruồi,
– Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.
-Thuốc của đế quốc, không thèm hút!
– Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.

Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho.Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.

Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,
– Take it! It’s good for you!
Tôi chêm thêm,
– Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!
Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,
– May you tell him to take it?
Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm.
– Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy! Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.

Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe.Tôi mồi một điếu Salem , đưa cho tên Việt-Cộng,
– Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.
Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.
– Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.
– Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.
– E mấy?
– Hăm Tám (28)

Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,
– Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó
– Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.
– Cấp chức gì?
– Trung úy Đặc-Công.
– Quê ở đâu?
– Hải …”Rương
– Làng nào?
– Hỏi gì mà lắm thế?
– Thôi không hỏi nữa!
Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.

Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.

Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài. Mấy lần y mở miệng gọi tôi:
“Này! Này!”

Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya. Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.

Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ:
– Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?
Tôi ngạc nhiên
– Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?
Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,
– Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi phì cười.
– Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!
Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:
“Chẳng lẽ chính ủy nói sai?” tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.
– Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò.
– Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?
Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc.

Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện.Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng.
– Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!
Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm.Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn.Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh.
– Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương…
Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái.
– Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra… các anh có độc ác đâu? Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.
Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.
“Don’t throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.
Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.
“Take care! Good bye! My son!” phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.

Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”

Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.

Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào. Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình
***********

Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư.
– Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?
– Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi. Tôi biểu đồng tình.
– Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu? Tôi hỏi tiếp.
– Sau này anh có còn gặp lại y không?
– Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?

Tôi nhắc anh Tư.
– Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?
– “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.
– Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam .
Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp.
– Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.
Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng.
– Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy.
Anh Tư gật gù.
– Có khi hai người là bà con cũng nên?
Tôi cũng gật gù theo.
– Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”. Anh Tư phụ họa.
– Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!
**************

Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.
Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.

Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ. Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau. Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này.

Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”. Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ.

Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:
“Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”

Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác. Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng.Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.

Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố: “Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”

Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ? Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19. Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra. Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm.
– Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết.

Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán. Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:
– Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!

“Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3. Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”.Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai. Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm.
– Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy! Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.

Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.

Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!

Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta.Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh núp đàng sau một khuôn mặt điển trai. Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?

Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước. Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng. Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói.
– Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả! Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại!Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm!Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.

Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:
“Don’t worry! Don’t worry! You will be Okay!”

Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.

Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.

Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,
– Lẹ lên! Lẹ lên!
Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh. Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng. Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.
“Ối!…Ối! …Ối!…ôi!…ôi!…ôi!..ư…ư…ư..”

Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.

Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền.Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp. Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!… Hừ!…hừ! …hừ!…” Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:

“Hừ!… Hừ!…Hừ!..Hường…ơi!…Hư…ường …ơi!…ực!… ực!…ực!…”
Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!…Ư! Ử!…ư! ử!…” nhỏ dần.

Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.

Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa. Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.

Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi.Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.

Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng.Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17. Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào… đứng một lúc, nghe ngóng… rồi đi vào.

Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương.Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.

Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Đại-Úy Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.
Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt. Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.

Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian. Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không?Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện. Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi.Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.

Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay. Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác. Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.
Vương Mộng Long

Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: 1 person, hat

Cho đi là nhận lại.

 Cho đi là nhận lại.

Để thấy cuộc sống trên trần gian này tràn đầy ý nghĩa cao đẹp tình người, mỗi khi bạn có cơ hội được phục vụ tha nhân vô vụ lợi, bạn sẽ nhận lại nhiều được hơn những gì bạn đã cho đi. 

Câu chuyện bắt đầu từ một người nông dân nghèo tên Fleming ở Scotland. Một ngày nọ ông đang làm việc để nuôi gia đình thì bỗng nghe tiếng kêu cứu từ cái đầm lầy gần đó. Ông vội chạy đến nơi thì nhìn thấy một cậu bé bị sa lầy trong ao, sình ngập đến đầu. Cậu bé đang giãy giụa gào khóc. Người nông dân liền lập tức cứu cậu bé lên bờ.

Hôm sau, một cỗ xe sang trọng đi tới căn lều của Fleming. Một người đàn ông ăn mặc sang trọng bước ra, tự giới thiệu mình là Randolph Henry Spencer Churchill, cha của cậu bé được ông cứu sống ngày hôm qua.

Ông ta nói: “Tôi đến để cảm ơn và hậu tạ anh đã cứu mạng con trai tôi!”

Ông Fleming đáp: “Không có chi. Đây là chuyện nên làm và ông không cần phải hậu tạ, thưởng công. Tôi quyết không nhận đâu.”

Ngay lúc đó, cậu con trai khoảng 10 tuổi của Fleming bước vào lều. 

Ông nhà giàu hỏi: “Đây là con trai anh phải không?”.  “Vâng.”  Ông Fleming trả lời đầy vẻ tự hào.

Nhà quý tộc ân cần hỏi cậu bé: “Khi lớn lên, cháu muốn làm gì?” Cậu bé nhỏ nhẹ thưa: “Thưa ông, chắc cháu sẽ tiếp tục nghề làm ruộng của cha cháu.” Nhà quý tộc lại gặng hỏi: “Thế cháu không còn ước mơ nào lớn hơn nữa sao?”

Cậu bé im lặng cúi đầu một lúc rồi mới trả lời: “Dạ thưa ông, nhà cháu nghèo thế này thì cháu còn biết ước mơ điều gì nữa đây?”

Lại tiếp tục một câu hỏi chân tình: “Nhưng bác muốn biết, nếu cháu được phép mơ ước thì cháu sẽ ước mơ điều gì”

Và lần này cũng lại là một câu trả lời thật thà:  “Thưa ông, cháu muốn được đi học, cháu muốn trở thành một bác sĩ!”

Vậy thì cho phép tôi đề nghị như thế này anh Fleming: “Hãy để tôi chu cấp việc học cho con trai anh hệt như tôi đã lo cho con trai mình. Nếu con trai anh mà giống tính cha nó thì tôi tin rằng ngày sau này cậu ấy sẽ trở thành một người mà cả hai chúng ta đều hãnh diện.”

Ông Fleming nhà nghèo nghe vậy thì đồng ý.

Thế là từ đó cậu con trai của Fleming được theo học tại những trường danh tiếng và tốt nghiệp đại học Y khoa Stainte-Marie ở London. Nhờ có hoài bão lớn lao, không ngừng phấn đấu, cuối cùng tài năng của cậu cũng được cả thế giới công nhận. 

Cậu chính là bác sĩ lừng danh Alexander Fleming. 

Vào năm 1927, bác sĩ Alexander Fleming sáng chế ra thuốc kháng sinh Penicillin cứu mạng được không biết bao nhiêu người trên thế giới. Năm 1945, ông được trao giải Nobel về y học.

Vài năm sau, người con trai của ông được cứu sống khỏi đầm lầy ngày xưa bị bệnh viêm phổi. May nhờ  thuốc Pénicillin này đã cứu cậu thoát chết. Tên cậu là Winston Churchill. Sau này cậu trở thành một vĩ nhân, là người mà cả nước Anh đều tự hào và hãnh diện. Đó chính là Thủ tướng trứ danh của nước Anh — Thủ Tướng Winston Churchill.

Điều thú vị là Ngài Winston Churchill và bác sĩ tài danh Alexander Fleming là đôi bạn rất thân của nhau trong suốt cuộc đời. 

Bác sĩ Alexander Fleming mất năm 1955 tại London ở tuổi 74 và Thủ tướng Winston Churchill mất năm 1965 ở tuổi 91 tại London. Cả hai ông đều yên nghỉ trong cùng một nghĩa trang.

Điều này chứng minh rằng hành thiện nhất định sẽ gặp thiện báo. Tất cả những gì ta cho ra đều sẽ được nhận lại; những gì bạn đã cho, tặng cho người khác bằng cả trái tim thì nhất định sẽ không mất. 

S.T. 

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

TÌNH MUỘN

Kimtrong Lam
TÌNH MUỘN

Tôi biết anh từ sau 1975 chừng vài tháng, khi mà mấy ông Thầy bị sàng lọc và đuổi ra khỏi trường mà không cần biết lý do, để đưa những tên cán bộ chính trị của Đại học Pắc Pó từ miền Bắc vào giảng dạy. Cộng Sản là thảm họa của cả miền Nam kể từ dạo ấy và đối với riêng anh việc bị đuổi ra khỏi trường Văn Khoa là một biến cố đau buồn nhất trong đời, nó thường xuyên ám ảnh đến cả giấc mơ đầy ác mộng của anh sau này. Anh là bạn thân của ông Thầy dạy tôi thời Trung học, hai người bạn thất nghiệp đi lang thang và ghé vào căn phòng trọ của cô học trò nhỏ, cả Thầy trò đều xác xơ đến tội nghiệp, tôi loay hoay nấu cơm bằng cái nồi nhỏ xíu với chút rau luộc và cái trứng vịt dầm nước mắm, buổi cơm đạm bạc nhưng chân tình. Tôi ấm ức kể cho Thầy nghe những bực bội trong cuộc sống mới mà tôi phải chịu đựng, những bất mãn hậm hực trong chế độ XHCN nói một đàng làm một nẻo này, tức mà không biết nói với ai..Tôi viết nhật ký và in roneo cả xấp, không biết để làm gì nữa nhưng chắc cũng đở buồn đôi chút. Thời buổi này biết tin ai bây giờ ngoài Thầy, tôi không có dịp học với anh dù nửa chữ, nhưng tôi kính anh như thầy mình. Tôi đưa bản nháp cuốn nhật ký cho hai ông, coi như có người để chia sẻ tâm sự..Năm 1978 Cuốn nhật ký được một người thân lén chuyển qua Mỹ, và được in làm nhiều kỳ trong bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và đầu năm 1979 tôi vào tù, tôi nghĩ chuyện tới đó là chấm hết.
Thời gian như cuồng phong phẩn nộ cuốn phăng mọi thứ, mất hút trong mưa giông là những dề lục bình tuổi thơ mơ mộng của bạn bè tôi, dật dờ rác rưởi trong chế độ mà “đôi dép râu làm sầu tuổi trẻ, nón tai bèo dẫm nát mộng đời trai”, gió đưa gió đẩy không về rẫy Kinh Tế Mới thì cũng ra khơi vượt biển tìm Tự Do. Thời điểm sôi bỏng lúc đó ai cũng muốn đi, dù biết chắc rủi ro phía trước.
Cuộc sống bức bách trong thời gian đầu khiến anh không thể chịu đựng nổi, Anh dẫn vợ con ra khơi trên chiếc ghe chông chênh túm húm phó thác tánh mạng cho Trời. Tôi chọn sự ở lại để cùng chồng mưu toan “bẻ gậy chống trời”, mọi việc không thành, cả nhà bị bắt, chồng tôi bị tuyên án Tử Hình, tôi chôn tuổi trẻ của mình hơn 10 trong lao tù Cộng Sản, thằng con trai mới hơn một tuổi cũng bị vạ lây vướng vòng lao lý đến độ tật nguyền. Câu chuyện đau thương và trãi dài biết bao khốn khổ bất hạnh trong suốt những năm tháng buồn hiu đó. Cuối cùng thì tôi cũng ra tù, con trai tôi được một tổ chức nhân đạo bên Thụy Sĩ mang ra khỏi trại giam trước đó vài năm, sự giải thoát chậm trể đã khiến nó tàn tật suốt đời, chính điều này đã làm tôi đau đớn ân hận mãi không nguôi.
Phần anh sau chuyến vượt biển thành công, chiếc ghe mong manh tấp vô một đảo nào đó bên Indo chờ ngày qua Mỹ định cư, giống như định mệnh được báo trước, những ngày trong trại tỵ nạn, tạp chí VNHN tình cờ lọt vào tay anh và những đoạn nhật ký rời rạc trong đó khiến anh thảng thốt vì anh đã biết tác giả là ai, anh đã từng đọc nó bằng bản roneo nhòe mực, và anh đã đốt nó trước khi xuống tàu ra đi, anh chọn sự bỏ cuộc và cô học trò chọn sự ở lại để đối đầu với cả một chế độ. Tuổi trẻ của cô ta thật dũng cảm, anh đã không làm được điều đó. Có cái gì như ân hận ray rức khiến anh bồn chồn trong bụng.
Vài năm sau, khi cuộc sống tạm ổn định anh gọi về Sài gòn gặp người bạn cũ để hỏi thăm tin tức về con nhỏ năm xưa, Thầy tôi cũng nghe loáng thoáng trong đám học trò “..hình như nó bị bắt và chết trong tù..” Anh thực sự đau buồn thương tiếc một người con gái trẻ sớm lìa đời…
Những bầm dập trong tù đã không làm tôi gục ngã, tôi sống sót để trở về với bao tang thương mất mát không cách gì bù đắp nổi
Ra trại, trở lại cuộc sống bình thường nhưng không yên ổn, cơm áo mưu sinh vất vả, thường xuyên đối mặt với những kỳ thị hoạnh họe của chính quyền địa phương, với cái lý lịch tăm tối tù tội trong quá khứ khiến tôi thật sự mệt mỏi. Trong một lần đi họp trường xưa bạn cũ, tôi đến chào Thầy, ông ngỡ ngàng nhận ra “con nhỏ học trò”thuở nào và buột miệng “ em còn sống hả Ánh? Em còn nhớ Thầy S không? nó cũng hay về thăm tôi, có lần nó hỏi thăm em, tôi nói em chết rồi , nó buồn xo..” Mấy chục năm qua rồi, gặp anh một lần như thoáng gió, có yêu thương hò hẹn gì đâu mà nhung nhớ, tôi lúc đó hừng hực lửa hai mươi, còn anh có vợ 4 con bộn bề trăm nỗi. Cái buồn xo nếu có chắc cũng chỉ là tội nghiệp đứa học trò lận đận mà thôi!.
Trong mùa hè nào đó, tôi nhận được cú phone lạ “ Thầy S đây, con có nhớ thầy không?” Phản ứng rất tự nhiên tôi “dạ – không” gọn lỏn, bên kia đầu dây ngập ngừng một chút “ Ờ hôm nào Thầy trò mình gặp nhau nhe”.
Cũng không có gì bất ngờ luống cuống, hai ông thầy lại đến thăm cô học trò đã già hơn xưa sau hai mươi mấy năm không liên lạc, lại có bữa cơm thân tình nhưng tươm tất hơn trước, lại những câu chuyện kể đứt khúc như cuốn phim buồn, thật tình tôi muốn quên đi quá khứ đau thương. Ra về anh ghi vội cho tôi email để Thầy trò liên lạc nhau, và tôi vẫn kính cẩn “Thưa Thầy” mặc dù tới bấy giờ Thầy vẫn chưa dạy tôi cách dùng email để viết ..thư tình.
Thời đó có Computer trong nhà là một mơ ước của tôi, anh đâu biết mỗi lần trả lời email tôi phải chạy hàng mấy cây số mới tới chỗ dịch vụ Internet, loay hoay tự học mổ cò từng chữ.

Rồi thư qua thư lại, lúc đầu chỉ là những chia sẻ trong cuộc sống ở hai bờ đại dương xa lắc, anh còn đi dạy, lũ học trò tiểu học dễ thương, các con đã lớn có cuộc sống riêng, vợ anh ly dị đã lâu, anh ở một mình trong căn nhà rộng vắng vào ra cô đơn lặng lẽ, cơm nước tự nấu bữa sống bữa chín.
Còn tôi làm công nhân trong một xưởng gỗ tư nhân, mỗi ngày đạp xe hì hục trên xa lộ nắng cháy mà không biết tai nạn chết chóc xảy ra lúc nào, không có bằng Đại Học thì chỉ làm công nhân suốt đời, tôi nghĩ vậy mà cố gắng ghi tên học lại, rồi mấy năm đèn sách vất vả cũng qua đi.Khi anh gặp tôi thì mọi việc có vẽ như ổn định, tôi tự đứng dậy được trên đôi chân của mình. Email qua lại cả hai năm trời, anh gọi phone cho tôi thường xuyên hơn, thân thiết hơn và không biết từ chữ “Thầy” chuyển qua chữ “Anh” lúc nào mà tự nhiên chúng tôi không còn thấy khoảng cách hàng mươi ngàn cây số giữa Mỹ và Sàigòn xa xôi mút chỉ nữa, những lá thư tình chất đầy ngăn kéo đã kết nối đôi bờ.

Mùa hè 2004 Anh quyết định bay về nói chuyện kết hôn, Má tôi im lặng một hồi mới nói “ Già rồi ở vậy cho rảnh” nhưng nói là nói vậy thôi, Má sợ tôi bước thêm bước nữa rồi khổ. Nhưng Má ơi, tử vi nói con hết cơn bỉ cực rồi Tôi chợt nhìn xuống chân”ông rể” tương lai của Má, ai đời buổi ra mắt nhà vợ đầu tiên mà anh mang vớ chiếc xanh chiếc xám bê bối thấy mà thương, mới biết anh chàng đã làm mềm lòng trái tim tưởng đã hóa thạch của tôi từ những điều nhỏ nhặt.

Vậy đó, tôi làm cô dâu ở tuổi 50, trong chiếc áo dài đơn sơ giản dị, bạn bè hai bên chừng vài bàn, buổi tiệc nhỏ đầy ấm cúng, ai cũng chúc mừng cho hạnh phúc muộn màng nhưng rạng rở của tôi, lối xóm bàn tán “cô ta hên ghê có chồng Việt kiều về cưới”. Anh nắm tay tôi ấm áp dỗ dành, tôi nghĩ mình thật hạnh phúc và bình yên khi có anh bên cạnh.
Sau ngày cưới, thấy không thể nấn ná trong cái xã hội đầy rẫy sự bất an ngang ngược từng ngày này, anh quyết định mang tôi đi xa hơn về miền đất hứa…
Ngày tôi lên máy bay rời Sài gòn cũng vào mùa hè, tháng 5 và những chùm phượng đỏ rưng rưng ướt đẫm trong cơn mưa đầu mùa, tôi biết mình đã mất Quê Hương từ cái ngày 30/4/1975 đáng nguyền rủa ấy, nhưng lần ra đi này mới thật sự thấy thấm nỗi chia ly, biết bao người đã bỏ nước ra đi và chết tức tưởi trên biển cả, còn tôi đã may mắn hơn triệu triệu người khi vượt biển trên chuyến bay American Airlines, để đến một nơi mà mình biết chắc là có Tự Do Hạnh Phúc thật sự chứ không phải thứ Tự do được rêu rao bịp bợm gian trá trong cái gọi là CNXH.
Qua rồi những bão tố gian nan, những cay nghiệt khốn khổ trong cuộc sống tù đày của ba mươi năm trước, tôi khép lại quá khứ nhọc nhằn, lau khô những giọt nước mắt bi thãm để nắm tay anh đứng dậy. Cuộc sống vốn ngắn ngủi cho những ai bi quan, tôi nghĩ mình đang hướng về phía mặt trời. Như cuốn tiểu thuyết có hậu ở trang cuối, tôi cám ơn anh đã viết Tình Yêu bằng chữ hoa trân trọng cho những năm tháng còn lại của chúng tôi. Hạnh Phúc thật sự chỉ có trong trái tim rộng lượng, chân tình.

Cám ơn anh, cám ơn nước Mỹ đã dung chứa thêm một người tị nạn khốn khổ như tôi. Chào một ngày mới bắt đầu trên quê hương mà bao người mơ ước được đặt chân tới. “America Dream”
Ngọc Ánh
(Tháng 8/2018)

Image may contain: 1 person

“Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm.”

Image may contain: 1 person, sitting and standing

Nicolas Đặng to Salut Saigon & Salut Les Copains

“Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm.”

Lần đầu gặp anh, chị mới 16 tuổi, nhỏ xíu, tóc bó đuôi gà, đôi môi mỏng lém lỉnh. Hôm ấy, Ba chị đưa về một thanh niên trẻ người Mỹ, giới thiệu người phụ tá của mình với gia đình, anh đã nhìn chị không chớp mắt. Đến khi chị vênh mặt hỏi “Tôi có chỗ nào không ổn”, anh mới ngượng ngùng sực tỉnh, lí nhí… nói câu xin lỗi!

Không biết sao anh bị chị thu hút, đến mất hồn mất vía, còn chị thì tỉnh rụi, chẳng để ý gì đến anh chàng người Mỹ đồng nghiệp của ba mình. Sau đó anh hỏi Ba chị thuê hẳn một tầng lầu trên cùng để ở, thì chị và anh gặp nhau mỗi ngày.

Sống chung nhà, nhưng đường ai nấy đi, đối với chị, anh là bạn của Ba, người lớn rồi, nên chị không coi anh như bạn bè của mình, nhưng rồi chị cũng biết anh mới 24 tuổi, đến từ Washington DC, nhiệm sở ở VN này là công việc đầu tiên của anh sau khi tốt nghiệp đại học. Tuy còn bỡ ngỡ với xã hội VN, nhưng lạ một điều là anh nói tiếng Việt giọng Bắc rất chuẩn và lưu loát như được đào tạo qua trường lớp đàng hoàng.

Anh ít nói nghiêm nghị, nhưng mỗi lần gặp chị, anh lúng túng, mặt mày đỏ gay, làm chị nổi tính nghịch ngợm, muốn trêu anh.

Có lần trong bữa ăn, chị đưa cho anh quả ớt tròn đỏ, rất đẹp, chị bỏ nguyên trái vô miệng, nói ngon lắm, và đưa cho anh một trái, bảo ăn thử. Anh tưởng thật, bắt chước chị, bỏ vô miệng nguyên trái, nhai rốt rột, rồi anh sặc, anh ho, anh khóc, còn chị nhả trái ớt ra, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Anh cay quá, có ý giận, cầm cốc nước bỏ lên lầu một mạch.

Đến tối không thấy anh xuống, thấy cũng tội nghiệp, chị sai thằng em bưng lên cho anh ly nước đậu nành tạ tội, nhưng thằng em xuống nói anh ấy không có ở trên lầu, đi đâu rồi?

Chị có ý đợi, muốn thử coi sau khi ăn trái ớt, mặt mũi anh ra sao? Nhưng mấy ngày liền anh không về, nghe Ba nói với mẹ anh đi công tác.
Cả tuần không gặp, chị thấy thiếu thiếu, chị nghĩ có lẽ tại mình chơi ác với người ta nên mình thấy có lỗi, áy náy đó thôi.

Tuần sau anh về, bước vô nhà thấy chị, còn tức nên vờ như không thấy, anh xách vali đi thẳng lên lầu, từ đó anh luôn giữ vẻ mặt lạnh lùng làm chị thấy… tự ái ghê gớm luôn.

Một hôm chị đang học thi tú tài, ban đêm ở trường thầy Hai Ngô về, từ đường Nguyễn Huệ đạp xe về tới nhà chị cũng khá xa, vừa tới góc ngã ba hơi tối, xe chị tự nhiên trở chứng, phải dắt bộ về, đường tối chị thấy sợ ma. Vừa đi vừa run, vậy mà xui khiến sao gặp anh, đang lái xe đi ngang mặt, tài thật anh nhận ra chị ngay, và “de” xe ngược lại. Dù đang giận, nhưng chị cũng để anh giúp, đem xe về nhà. Trên đường về anh không nói, chị cũng không…(đang hờn mát mà).

Gần tới nhà, anh quay qua nhẹ giọng hỏi chị: “Sao em ghét tôi quá thế?”
Bị hỏi thình lình, chị ấm ớ: “Tôi có ghét anh đâu?”.
Anh nhìn vào mắt chị (trời ạ, tối thui, sao mắt anh ấy sáng thế, xanh biếc như hai vì sao…). 
“Thế sao em vẫn muốn tôi khóc, để em cười?”
Tự nhiên chị thấy lúng túng. May quá tới nhà, chị cảm ơn, rồi vội vã xuống xe vào nhà, để anh ngẩn ngơ nhìn theo…

Đêm ấy lạ ghê, không ngủ được, chị cứ thấy đôi mắt như hai ánh sao của anh chập chờn trước mặt, lần đầu tiên chị mất ngủ vì một chàng trai.
Sáng ra, trước khi đi học chị có ý chờ xem có gặp anh không, nhưng không gặp, đến giờ, chị phải đi học thôi. Chiều về chị cũng không gặp. Ba chị nói, anh về nước có chuyện gấp.

Mấy ngày anh không có ở nhà, chị như người mất hồn, cứ ra vô, ăn ngủ không yên. Lạ nhỉ, sao tâm trạng mình bất ổn như vậy?

Đến khi anh về, vừa thấy anh bước vô từ cửa, chị mừng như bắt được vàng, ánh mắt long lanh, chị cười nói huyên thuyên. Anh bỏ vali xuống, rạng rỡ nhìn chị, âu yếm lắng nghe và cuối cùng hỏi chị một câu:

“Em nhớ tôi lắm hả???”

Câu hỏi bất ngờ làm chị khựng lại mấy giây, đỏ mặt… như ăn trộm bị bắt quả tang. Xấu hổ quá, (sao anh ta có thể đọc được ý nghĩ của mình thế nhỉ?), chị vờ có việc, kiếm cớ bỏ đi.

Sinh nhật 17 tuổi của chị, chị mời bạn bè tới nhà chơi, một đám choai choai con nít, nói cười ầm ĩ. Tới tối tiệc tan, lúc về phòng ở lầu hai, chị thấy anh đứng đó, trong bóng tối, chìa ra cho chị một bó hoa hồng rồi anh bỏ đi.

Ôm bó hoa, chị hồi hộp… Về phòng, cả đêm chị cứ ngắm bó hoa, từng cánh nhung mềm mại, đẹp ơi là đẹp, mở ra, trong cánh thiệp mỏng có bức thư ngắn kèm theo:

“Em của tôi.
Lần đầu gặp, em đẹp như một bức tranh.
Lần thứ hai gặp, em tinh quái như một con mèo.
Lần thứ ba gặp, con mèo đánh cắp trái tim tôi…
Bây giờ, tôi bắt đền … em để trái tim tôi ở đâu?
Tôi muốn xin em trả lại…!”

Trời đất! Phải làm sao đây? Đọc xong bức thư, chị tái mặt… lại cả đêm trằn trọc, sáng ra chị không dám ra khỏi phòng, lỡ gặp anh chàng thì biết ăn nói làm sao???
.

Mối tình của chị bắt đầu như vậy, dễ thương, nhẹ nhàng.

Năm ấy, chị thi tú tài IBM lần đầu ở Qui Nhơn. Tràn đầy tự tin, chị xúc tiến thủ tục đi du học…

Nhưng một sáng mùa hè, năm 75, anh đi SG họp khẩn cấp và không trở về. Toàn bộ nhân viên Ngoại giao được lệnh rút khỏi VN. Anh gọi điện thoại cho Ba chị, xin ông đưa cả gia đình đi, anh sẽ sắp xếp chuyến bay, nhưng ba chị không chịu.

Anh lại xin Ba chị cho cưới chị để đưa chị theo, nhưng ba chị cũng không chịu, đời nào ông để con gái ông lấy Mỹ?

Những chi tiết này chị không hề hay biết, thấp thỏm chờ, và lòng chị có ý trách, sao anh nỡ bỏ đi không một lời từ giã…

Biến cố 75 ập tới. Ba chị đi tù (là nhân viên ngoại giao cao cấp), nhà cửa toàn bộ bị tịch biên hết, giấc mộng du học của chị vỡ tan. 
Cả gia đình chị tan tác như chiếc lá rơi rụng cuối mùa, chị buồn đau một thời gian dài…

Rồi chị cũng gượng dậy giúp mẹ bôn ba, buôn bán nuôi đàn em dại. Và chị lấy chồng, hai vợ chồng tương đối hạnh phúc, nhưng lại gặp phải mẹ chồng khắc nghiệt nên làm chị kiệt quệ tinh thần lẫn thể xác. Chị thất vọng về chồng mình, vì thấy anh rất sợ mẹ, không giúp gì được cho chị, dù bụng mang dạ chửa, chị cũng phải quần quật không khác gì con ở, nên với chồng chị có phần oán trách, và tình cảm chị dành cho chồng, do đó phai nhạt ít nhiều.

Đứa con gái ra đời, cũng không cứu vãn được vấn đề. Mẹ chồng lúc nào cũng chì chiết, hà khắc, chị cô đơn trong gia đình chồng, đến nỗi có lần chị xin chồng ly dị, vì thấy mình khổ quá không chịu nổi. Nhưng rồi… chị phát giác mình mang thai đứa con thứ hai.

Đành vậy, có những lúc buồn, chị ôm con mà nhớ quay quắt về anh, với những thương yêu cũ. Sau này chị đã biết rõ câu chuyện do ba chị trước khi đi tù, đã kể lại với giọng ân hận: “Biết vậy Ba gả con cho nó”.

Khi chị biết anh đã tìm đủ mọi cách có thể để đưa chị đi nhưng tình trạng hỗn loạn lúc đó, anh không làm sao hơn được, chị tin chắc anh cũng đau lòng như chị, khi phải đành phải xa nhau. Và chị chấp nhận số phận, không còn oán trách anh nữa.

Sau đó không lâu, có một người lạ mặt tới đưa cho má chị ít tiền và địa chỉ và số điện thoại của anh bên Mỹ. Chị cầm đọc, mà hai hàng nước mắt chảy dài, chẳng biết để làm gì, nhưng chị vẫn cất kỹ số điện thoại và địa chỉ của anh, để thỉnh thoảng lấy ra nhìn, mà buồn vời vợi…

Mang thai lần này chị yếu hẳn, thai 7 tháng mà bụng chị nhỏ xíu, chị gầy, khô như que củi, nhìn vô gương chị không nhận ra mình, đứa con gái xinh đẹp, nhí nhảnh, năng động năm xưa đâu rồi nhỉ?

Thình lình, một tối chồng chị về, mẹ con rầm rì to nhỏ, có chuyến đi vượt biên. Mẹ chồng muốn mẹ con chị ở lại, để chồng chị đi một mình. Nhưng anh không chịu, đi thì phải đi cùng. Lần đầu tiên chị thấy anh cương quyết, cuối cùng mẹ chồng nhượng bộ. Vậy là vợ chồng, con cái chị, dắt díu nhau ra khơi.

Tàu gặp bão, giông tố tưởng đã nhấn chìm con tàu mấy lượt, vậy mà trời thương, may sao chiếc tàu rách nát vẫn còn tiếp tục chạy. Nhưng mấy hôm sau nữa thì máy hư, hết nước, hết thức ăn, lênh đênh vô định trên biển…

Môi nứt nẻ, rướm máu, sức tàn lực kiệt. Mấy lần chị hôn mê tưởng chừng không bao giờ tỉnh lại. Trong cơn mộng mị, chị thấy mình về lại ngày mới lớn, vui tươi, nhí nhảnh bên anh, những ngày lãng mạn, tươi đẹp, nhuộm xanh cả bầu trời.

Hình như giấc mơ đã giúp cho chị thêm chút sức lực, và trời thương, đã có lúc chị thấy mình mở mắt, để thấy đứa con gái bé bỏng ngủ vùi trong lòng mình và đứa con trong bụng có lúc quẫy đạp.

Có lẽ nhờ đó, mà ý chí phải sống trong chị trỗi dậy mạnh mẽ, nhưng tới lúc gặp được tàu cứu thì chị một lần nữa chìm sâu vào hôn mê.

Không biết bao lâu, khi chị tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trong bệnh xá xa lạ, tâm trí hoang mang, mơ hồ. Chị hỏi đây là đâu. Qua người y tá bản xứ, chị biết đây là một đảo thuộc Mã Lai.

Biết mình đã tới bến tự do, nhưng quá yếu, chị lại hôn mê. Trước khi ngất, không hiểu sao trong tiềm thức, như một lời trăn trối, chị rút cái địa chỉ giấu trong lai áo, đưa cho cô y tá, nhờ đánh giùm điện tín cho người này, nói chị đang ở đây.

Qua hôm sau, trong cơn thập tử nhất sinh, cái thai có triệu chứng sinh non, mà chị lại quá yếu, Bác sĩ đang lo lắng, không biết có cứu nổi cả mẹ lẫn con không? 
Trong cơn mê, chị nghe tiếng khóc của chồng, và cảm giác hơi ấm bàn tay nhỏ nhắn của đứa con gái bé bỏng vuốt ve trên mặt, chị như được được hồi sinh lần nữa. Bác sĩ quyết định mổ.

Như cơn gió lốc… 
Anh của những ngày tháng cũ, vẫn cao gầy, dáng thư sinh, tuy khuôn mặt bơ phờ, mái tóc nâu rối bời, và cặp mắt xanh lơ, giờ đã không còn sáng như hai vì sao nữa, bởi từ lúc nhận được điện tín, liên lạc được với Liên Hiệp Quốc để xác minh, anh đã không hề chợp mắt.

Chuyến bay tốc hành đã đưa anh tới đảo nhỏ này, và giờ đây, đứng nhìn chị bé bỏng, hôn mê trên giường bệnh.

Trước khi đi qua đây, trong đầu anh không hề nghĩ tới chị đã có chồng, con, và một đứa nữa sắp chào đời.

Đứng đó nhìn chị, anh đau đớn, xót xa, đầu óc anh tràn đầy xúc động. Anh véo tay mình mấy lần, để biết chắc đây không phải là một giấc mơ.

Khoảnh khắc, đau đớn, ngỡ ngàng rồi cũng qua đi, Anh thảo luận với bác sĩ, nói chuyện với chồng chị, giới thiệu sơ về mình, và anh khẩn cấp liên lạc bệnh viện lớn nhờ giúp đỡ.
.

Ngay ngày hôm đó chị được trực thăng chuyển về bệnh viện lớn ở thủ đô Kuala Lumpur, với sự chăm sóc đầy đủ nhất. Chị được cứu sống, cả mẹ lẫn con.

Biết chị đã vượt qua cơn nguy hiểm, lòng anh rộn rã. Đứng bên ngoài phòng, nhìn đứa bé gái sinh non, lớn hơn con mèo một chút, ngo ngoe trong lồng kính, cảm giác tràn ngập thương yêu như chính con mình. Anh ngỏ lời với chồng chị, xin làm cha đỡ đầu của đứa bé.

Trước hôm về lại Mỹ, anh và chị lần đầu nói chuyện trực tiếp với nhau ở bệnh viện, khi chị đã tỉnh táo. Bên giường bệnh, nhìn chị, ốm xanh như chiếc lá. Ánh mắt yêu thương, như ngàn lời muốn nói, nhưng anh biết, có rất nhiều điều cần phải giữ lại cho riêng mình.

Chị nhìn anh cảm kích, biết ơn. Những thứ này có nghĩa gì với những điều chị đang chất chứa trong lòng. Nhưng cũng như anh, chị biết mình không thể nói hay biểu lộ ra những gì mình đang nghĩ, tự nhủ lòng… phải quên thôi!

Ánh mắt nhìn nhau thăm thẳm như biển sâu, chị chỉ nói được một câu: “Em xin lỗi”.

Có những niềm riêng một đời giấu kín 
Như rong rêu chìm đắm trong biển khơi
Có những niềm riêng một đời câm nín
Nên khi xuôi tay còn chút ngậm ngùi…

Trước lúc chia tay, anh trao riêng cho chồng chị một phong bì, bên trong có một xấp tiền mặt. Chồng chị tự ái, không nhận, nhưng anh cứ bắt chồng chị phải nhận, anh nói:

“Cứ coi như tôi cho mượn, sau này anh có thì trả lại tôi…”

Bốn tháng sau, giữa năm 80 gia đình chị chính thức định cư ở San Jose, Ca…

Thời gian qua nhanh, hai năm sau đó chị có thêm một thằng cu Tí ra đời. Nhìn ba đứa con ngày mỗi lớn, chị giờ đã bình thản hơn, sóng gió trong lòng đã dịu đi nhiều. Mỗi năm đến ngày lễ lớn hay sinh nhật của từng đứa con chị, anh đều gửi thiệp, gửi quà. Nhưng hai bên không ai nói chuyện trực tiếp, chị thấy vậy cũng tốt, thôi thì cố coi như “… chỉ là giấc mơ qua”!

Hai vợ chồng chị đều đi học lại, có nghề nghiệp ổn định và đời sống kinh tế vững vàng. Món tiền 7 ngàn dollars năm xưa, chồng chị gởi trả lại cho anh sau 3 năm tới Mỹ.

Nợ tiền đã trả được… nhưng nợ tình thì sao?

Có một điều làm chị bứt rứt là anh không lấy vợ, 40 tuổi anh vẫn sống độc thân. Công việc của anh đi nhiều, và anh lấy công việc bận rộn làm vui…

Mẹ anh thỉnh thoảng nói chuyện với chị qua điện thoại. Bà thương chị như con dù chưa bao giờ gặp, tuy nhiên bà biết mặt chị qua tấm ảnh trong phòng anh.

Những gì bà ấy nói thường làm chị buốt nhói trái tim, làm chị cảm động đến khóc được, và qua bà, chị biết được toàn bộ cuộc sống của anh. Hai người đàn bà, cùng nắm giữ trái tim một người đàn ông. Chị gọi bà bằng Mẹ, các con chị gọi bà là bà ngoại.

Một chiều mùa thu, bà gọi cho chị biết anh đang ốm nặng.
Chị muốn đi thăm lắm nhưng vì công việc làm không thể nghỉ, hơn nữa có những lý do tế nhị chị không đi được. Chị chỉ có thể gởi một bình hoa thật đẹp vào bệnh viện cho anh.
Hôm biết anh xuất viện, chị gọi điện thăm nhưng anh còn yếu, chưa nói chuyện được.

Mẹ anh vừa khóc vừa nói vớí chị: “Con biết không? Họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp gửi hoa tới bệnh viện rất nhiều nhưng đến lúc xuất viện, ngồi trên xe lăn, còn rất yếu mà nó chỉ ôm khư khư bình hoa của con, đem về nhà, để bên đầu giường”.

Chị khóc !

Hai năm sau đang giờ làm việc, mẹ anh gọi báo tin anh hấp hối, cuộc giải phẫu tim không thành công.

Chị bỏ hết công việc lên thăm anh lần cuối, đi cùng chị có con bé giữa, đứa bé năm nào nhờ anh mà được sống sót…

Nhìn anh thoi thóp trên giường bệnh, chị khóc như chưa bao giờ được khóc, lần đầu cũng là lần cuối, chị khóc thương cho tình yêu của anh và của chị. Khóc thương cho người đàn ông đã yêu chị bằng một tình yêu bền bỉ, không bao giờ ngưng nghỉ, chưa hề đòi hỏi ở chị một điều gì.

Trong một lúc hiếm hoi, tỉnh táo, anh bình thản nhìn chị với ánh mắt tràn ngập thương yêu… Anh cười, bảo chị đừng buồn, đời sống có sinh, có tử. Anh cảm ơn thượng đế, đã cho anh gặp và yêu chị. Chị đau đớn nghẹn lời, cũng chỉ nói được một câu: “Em xin lỗi”.

Ánh mắt xanh lơ, cái nhìn đằm thắm, anh thu hết tàn lực nói với chị rằng:

“Nếu có kiếp sau, em đừng nói câu xin lỗi”.

Đám tang anh vào một ngày đầu mùa đông… buồn. Anh ra đi ở tuổi 46.

Chị trở về cuộc sống thường ngày, thế gian này từ nay thiếu vắng anh nhưng trong lòng chị, anh vẫn có một chỗ đặc biệt dành riêng.

Ba tháng sau đám tang anh, chị nhận được thư mời của luật sư, sẵn dịp chị bay lên thăm mẹ anh, bà đã già đi nhiều sau cái chết của con trai.

Hôm mở di chúc của anh, chị mới biết cả ba đứa con chị đều có phần trong tài sản của anh để lại. Số tiền không nhiều nhưng dư đủ cho cả ba đứa vào học những trường đại học danh tiếng nhất.

Chiều tàn, bên ngôi mộ anh, chị lặng lẽ thầm thì những lời thương yêu mà lúc anh còn sống chị đã không thể nói.

Theo gió chị gửi tới anh, những lời của một tình yêu, mà chị biết kiếp này và… cho tới kiếp sau chị vẫn ao ước được có, cũng như được gặp lại.

Văng vẳng bên tai chị nghe có tiếng anh thì thầm, “Nếu có kiếp sau xin em đừng nói câu xin lỗi”…

(Người viết: Khuyết Danh)

Ảnh minh họa: Tấm ảnh cũ – Kỷ vật quý giá của cựu binh Jim Reischl trong hành trình tìm kiếm bạn gái xa cách 45 năm.

Người Việt Gốc Mỹ

Người Việt Gốc Mỹ

Nguyễn Thế Thăng 

Tác giả Nguyễn Thế Thăng tốt nghiệp khóa K2DH/DH/CTCT, định cư tại Mỹ 1992, diện HO 13, hiện là cư dân tiểu bang Oregon. Công việc: Sỹ quan điều hành tổ thông dịch viên của Lực Lựơng Phòng Vệ thuộc Vệ Binh Quốc Gia, Oregon, cấp bậc Thiếu Tá. (Oregon Army National Guard/State Defense Force/Interpreters Team/X.O) (ORANG/SDF/Interp. Team/XO)..

Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện về một người bạn cựu chiến binh Mỹ tự xưng là “người Việt gốc Mỹ”. 

Tôi biết Mike khoảng hai năm sau ngày đặt chân lên đất Hoa Kỳ. Dù hành trang sẵn có chút ít tiếng Anh từ trước 1975, tôi vẫn phải vất vả hội nhập vào xã hội mới bằng những bước chân chập chững, e dè trong độ tuổi “bất hoặc”. 

Thật may mắn, tôi tình cờ được gặp và quen biết Mike. Anh đã cho tôi một cái nhìn khá bao quát nước Mỹ từ phong tục tập quán đến văn hóa xã hội lẫn chính trị. Mike đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ cả vật chất tinh thần để tôi có được một nghị lực, niềm tự tin, sự phấn khởi tràn trề khi bắt đầu nửa cuộc đời còn lại nơi tha phương, đất khách.

Trong buổi họp mặt cựu Chiến Binh nhân dịp Memorial Day của State Guards Association of U.S (SGAUS), bàn của tụi tôi rất ồn ào với đủ mọi vấn đề trên trời dưới đất, vui nhất là những chuyện tiếu lâm xoay quanh đời sống thường nhật của người Mỹ, đặc biệt lớp tuổi về hưu phải đương đầu với nhà dưỡng lão, bệnh tật, nhất là bệnh lãng trí Alzheimer…

Hôm ấy, tôi kể chuyện một đôi vợ chồng già, Bác Sĩ nói với người vợ: tôi thấy sức khỏe ông nhà ngày càng khá hơn khi ông tìm được niềm vui nơi Thượng Đế, tin tưởng nhiều hơn vào Chúa Quan Phòng, đến nỗi, ông nghĩ Chúa đang theo giúp đỡ ông trong mọi việc, trong từng bước chân đi. Ông nói với tôi, đêm qua, khi ông vừa mở cửa nhà vệ sinh để đi tiểu thì Chúa bật đèn lên cho ông liền…

Bà vợ la lên, ngắt lời Bác Sĩ:

– Ôi lạy Chúa tôi, ổng lại đái vào tủ lạnh của tôi rồi!!!

Cả bọn cười bò lê bò càng. Cười lớn nhất là một chàng cao lớn, tóc vàng tên là Mike.

Anh vỗ vai tôi:

– Ê, bạn người gốc nước nào?

– Việt Nam.

Mike bật đứng dậy, bàn tay như hộ pháp chụp lên đầu tôi, nói thật lớn, nguyên văn bằng tiếng Việt đặc sệt giọng miền nam:

– Đ.M. nãy giờ sao hổng nói?

– Ủa, anh biết tiếng Việt hả?

Mike vênh mặt lên, tay phải vỗ bồm bộp vào cái ngực đang ưỡn, vẫn dùng tiếng Việt:

– Hai lần công tác Việt Nam, đem về Mỹ một cô giáo dạy tiếng Việt tại gia từ 1972, học và nói tiếng Việt từ hồi đó đến giờ, bộ ngu lắm sao mà không biết, biết rành quá đi chứ!!

Không ngờ trong bàn lại có một số cựu chiến binh Việt Nam khác, đua nhau xổ ra những câu tiếng Việt họ còn nhớ lõm bõm:

– Chòi đắt ui (trời đất ơi)

– chào cắc Ong, mành giỏi? (chào các Ông, mạnh giỏi)

– Con gái Viết Nàmdde.p lám (con gái VN đẹp lắm)

– Ngùi Viết Nàmtót lám, đi đi mao, đin – kí đàu (người VN tốt lắm, đi đi mau, điên cái đầu !)…

Riêng Mike nói tiếng Việt rất lưu loát, không hề sai một âm nào (giống như ca sĩ Delena hát tiếng Việt vậy), kể cả cách dùng chữ rất trí thức, đôi khi dí dỏm, có lúc thật tiếu lâm.

Tôi đã gặp một nhân viên Bộ Ngoại Giao rành tiếng Việt đến nỗi khi tôi đùa hỏi “Anh người gì mà nói tiếng Việt ngon lành vậy” Anh trả lời tỉnh bơ “Tôi người Bắc !”.

Tôi cũng đã gặp một số người Mỹ chính gốc, thuộc giáo phái Mormon, họ thảo luận Kinh Thánh, đi truyền đạo Tin Lành bằng tiếng Việt thật trôi chảy, nhưng đó là nghề của họ.

Còn Mike, anh nói tiếng Việt bằng cả tấm lòng: tên Mỹ của tôi là Micheal, tên Việt của tôi là Mai, theo giọng Việt Nam có nghĩa là hên, là may mắn, còn giọng Việt Bắc (?) hay Việt Trung (?) có nghĩa là hoa mai, một loài hoa rực rỡ mùa xuân!

Vợ tôi vẫn thích kêu tôi là Mai Cồ, hay Anh Cồ, hoặc Cồ ơi chỉ vì tôi bự con! Con rể của nước Đại Cồ Việt mà! Một ông thày bói VN nói số tôi phải cưới vợ họ Trần vì cả đời tôi không thích mặc áo..vv và vv … tôi há hốc miệng ngồi nghe một chàng mắt xanh, mũi lõ, tóc vàng 100% Anglo-Saxon đang chơi chữ bằng chính ngôn ngữ của tôi !!!

Một đêm hội ngộ tuyệt vời, vui như chưa từng thấy từ ngày sống kiếp lưu vong.

Một tuần sau, Mike điện thoại mời tôi đến nhà..

Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: gia đình Mike gồm vợ chồng và 2 con hoàn toàn sinh hoạt theo truyền thống Việt Nam và tự nhận là người VN. Mike nói: đúng ra tôi là người Việt gốc Mỹ! Người bản xứ khi nghe tôi giới thiệu là người VN, nói tiếng VN thì họ vui lắm, vài người lúc đầu cứ tưởng nước VN ở đâu đó bên Đông Âu nên mới tóc vàng, mắt xanh!

Người gốc VN lại tưởng tôi là Mỹ lai, càng vui hơn, gần gũi hơn vì có 50% máu Việt Nam trong người mà, ai cũng vui. Mike dùng chữ “vui cả làng”!

Cả gia đình dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ chính.

Sống trên đất Mỹ, Mike tâm sự, nói tiếng Anh là việc đương nhiên, thế mà nhiều gia đình VN từ vợ chồng con cái đều ra vẻ hãnh diện với mớ tiếng Mỹ đôi khi trật giọng, sai văn phạm….hoặc nói đệm, câu nào cũng chêm thêm chữ Mỹ vào, trong khi cố tình lơ lớ tiếng mẹ đẻ của mình, dễ mất gốc quá, tủi hổ ông bà tổ tiên quá, uổng phí quá.

Lại có cả vài người viết văn, nhiều chữ thông thường không biết, hay giả vờ không biết, lại phải dùng tiếng Anh mới thấy dổm làm sao.

Tôi rất khâm phục những gia đình còn giữ vững truyền thống tốt đẹp VN. Tôi thấy những em bé VN thật dễ thương với tiếng Việt líu lo như chim hót nhưng tôi nhìn các em với cặp mắt bình thường nếu các em nói tiếng Anh, thật bình thường vì đây là nước Mỹ, sau này khi lớn lên phải học thêm một ngoại ngữ ngoài tiếng Anh, họ sẽ hối hận. Tiếc quá, Mike chặt lưỡi, lập đi lập lại, tiếc quá !!

Anh có biết “bà lang kẹt” là ai không? Thế mà một ông VN đã tuyên bố tự nhiên như người Sàigòn, vào mỗi mùa Đông, trên giường của ông phải có ít nhất hai bà lang kẹt ngủ mới đã, mới đủ ấm !?!?

Mai Liên, vợ anh, một sinh viên Đại Học Cần Thơ sinh quán Sóc Trăng.

Hai người quen nhau khi Mai Liên đi học thêm Anh ngữ trong một lớp do chính Mike phụ trách phần đàm thoại và luyện giọng. Thế rồi hai người yêu nhau nhưng không thể tiến đến hôn nhân vì gia đình hai bên đều không tán thành.

Mike phải xin trở lại Việt Nam lần thứ hai, kiên trì thuyết phục cha mẹ Mai Liên bằng chính tiếng Việt anh đã học được từ người tình. Cuối cùng không những cha mẹ, anh chị em của Mai Liên mà cả bà con xóm giềng cũng hài lòng với “thằng Cồ” vui tánh dễ thương lúc nào, nơi nào cũng pha trò được.

Riêng gia đình Mike lúc đầu vẫn chưa mấy thiện cảm với người dâu dị tộc. Hai vợ chồng son cố gắng sống hòa hợp với mọi người, không tỏ ra khó chịu mà còn thấy vui vui với cái tên Liên vài người cố tình đọc trại thành Alien (=người lạ).

Chẳng bao lâu sau tình thế hoàn toàn đảo ngược. Khi cha mẹ Mike dọn vô nhà dưỡng lão chỉ có vợ chồng Mike thăm viếng thường xuyên.

Ông bà rất cảm động, thỉnh thoảng lại công khai ngỏ lời xin lỗi Mai Liên và giới thiệu với mọi người Liên là đứa con gái yêu quý nhất.

Bốn gia đình anh chị của Mike tan vỡ hết ba, sự kiện phổ thông với trên 60% gia đình Mỹ bị rắc rối trong hôn nhân. Cứ một lần li dị lại một lần chia gia tài, riết giống như chuyện thường tình. Tuy nhiên, có điều lạ là sau khi chia tay, họ vẫn liên lạc qua lại với nhau, coi nhau như bạn, không ai ghen tuông gì hết.

“Tạ ơn trời đất (Mike không dùng chữ Chúa) tôi có được một bà vợ tuyệt vời. Liên lo lắng chăm sóc tôi kỹ lắm từ mọi sinh hoạt đến từng miếng ăn hàng ngày. Tôi đã quen và rất thích thức ăn Việt Nam. Rất hợp lý nếu ta không biết kiêng cữ, cứ ăn tầm bậy là đưa đủ thứ bệnh tật vào thân thể mình thôi. Anh ăn cái gì anh sẽ như thứ ấy.

Ăn nhiều rau, đậu, trái cây tươi, da thịt anh sẽ tươi. Anh ăn mỡ, cơ thể anh sẽ phải đeo mỡ.

Tốt nhứt nên ăn chay. Gia đình tôi ăn chay mỗi tuần một lần, nhiều nhất là các loại rau. Đồ chay Liên làm ngon lắm. Món nào cũng ngon, cũng tốt cho sức khỏe vì Liên chỉ dùng dầu olive thay cho mỡ động vật, không mặn lắm, không ngọt quá như đồ ăn Mỹ, nhất là hoàn toàn không dùng bột ngọt. Đặc biệt nước mắm ăn riết rồi mê luôn nhưng điều cần thiết nước mắm mua ở chợ về phải đem nấu cho sôi lên rồi đổ lại vô chai xài vì trong nước mắm có thể có nhiều siêu vi trùng, nhất là siêu vi bệnh gan, các loại mắm cũng vậy..

Chế độ ăn uống như thế làm sao bị phát phì như ba phần tư dân Mỹ hiện nay. Đến như con nít trên 6 tuổi thì phân nửa đã vượt quá trọng lượng được coi là mập rồi. Còn về thẩm mỹ, Anh thấy không, thông thường da người Mỹ trắng lại quá trắng, trắng nhễ nhại (?!)trắng như Bạch Tuyết nên trông có vẻ yếu đuối, bệnh tật, vì vậy họ phải đi phơi nắng ngoài biển hay vô các phòng nhuộm da trong các tanning clubs để cho da họ có màu đồng nâu hay màu bánh mật, nhìn rất khỏe mạnh, thể thao hơn, mốt thời thượng mà! Bà xã tôi được Trời Đất thương cho cái màu tự nhiên đó từ bé nên Ông Bà Ngoại sắp nhỏ mới đặt cho cái tên Mai Liên, anh đọc lái lại coi?!”

Nghe đến đây chính tôi đã phải kêu lên: chu choa mệ tổ ơi, mần răng mà cái chi mô anh cũng biết hết rứa chừ hết biết luôn.

Mike hiện nguyên hình một “chú Sam” há hốc miệng “Wh…what? What d’you say?”

Ngay sau khi dành thắng lợi đem được Mai Liên về Mỹ, Mike giải ngũ. Liên đi làm 2 nghề khác nhau cho phép Mike trở lại Đại Học lấy xong bằng Kỹ Sư Điện Tử.

Mike rất vui mỗi lần nhắc lại giai đoạn này:

tôi sướng như Ông Trời con, ngày ngày đi học, còn Liên cực lắm, hy sinh vừa đi làm vừa lo cho tôi còn hơn Ba Má tôi ngày xưa, dĩ nhiên tôi yên tâm học xong rất nhanh.

Bên Mỹ này anh muốn học là phải được, muốn học gì cũng được, muốn lấy bằng gì cũng có, chỉ cần anh có ý thích và có ý chí. Anh có thể học toàn thời gian, bán thời gian, học hàm thụ hay học ngay cả trên online. Không có tiền thì Chánh Phủ hoặc một cơ sở, một công ty hay một tổ chức nào đó ứng tiền cho mượn nếu đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên khi nộp đơn xin việc làm, người chủ chỉ căn cứ một phần trên bằng cấp, còn phần lớn dựa trên kinh nghiệm việc làm đã qua và sự giới thiệu, phê bình của các chủ cũ.

Tôi là cựu chiến binh, gần lấy xong bằng Kỹ Sư thì hãng Điện Tử Intel đã nhận trước rồi.

Năm đầu tiên tôi đi làm Liên chỉ còn làm một nghề, đến năm thứ hai Liên nghỉ việc hoàn toàn để đi học ngành Y tá. Đó là lý do chúng tôi chậm có con và chỉ có hai đứa.

Bên Mỹ này nghe nhà nào có 3,4 con là thiên hạ lắc đầu, le lưỡi liền. Có bầu, sanh con thật dễ dàng nhưng khó nhất, đau đầu nhất là vấn đề giáo dục, không dạy dỗ con được thì lại đổ thừa “cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh”, chưa chắc vậy đâu !

Có rất nhiều gia đình nuôi con đến 18 tuổi là bắt nó phải tự lập, nghĩa là đẩy nó ra ngoài xã hội, xét cho cùng điều này cũng có phần tốt..

Vì vậy, cũng rất công bằng khi bố mẹ già yếu, đến phiên chúng nó sẽ đẩy bố mẹ vô nhà hưu dưỡng thôi!

– Mai Lan ơi, ra chào chú đi con, Mike gọi.

Một cô gái Mỹ đẹp như tài tử điện ảnh Hollywood tươi cười bước ra, hai tay khoanh trước ngực, đầu cúi xuống, nói bằng tiếng Việt rất chuẩn:

– Cháu tên Mai Lan, cháu chào chú.

Tôi đứng dậy, Mai Lan bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay:

– Chú tên là Long, Chú rất hân hạnh được biết cháu, được quen biết gia đình cháu, một gia đình tuyệt vời, cháu là một cô gái tuyệt vời.. Cháu có về VN lần nào chưa?

– Dạ, cám ơn lời khen của Chú. Cháu đã về VN hai lần. Năm rồi cháu đi VN miễn phí.

– Sao vậy?

– Cháu có hai người bạn, hai chị em, bố mẹ họ là người Việt, hai bạn cháu không rành tiếng Việt nên bao cháu đi chung về VN để làm thông ngôn. Vui quá chừng. Bà con chòm xóm dưới quê cứ nhìn cháu chằm chằm: sao kỳ quá hè, Mỹ nói tiếng Việt còn Việt đặc thì bù trất, kỳ hén!

Lại nữa, Mỹ thì tên Việt còn Việt lại lấy tên Mỹ, ngộ ghê!

Cháu dịch lại cho hai đứa bạn nghe, tụi nó mắc cỡ quá, về đến Mỹ bắt đầu học tiếng Việt ngay.

Ba má tụi nó kèm riết, cháu cũng dạy thêm, bây giờ nói được hơi nhiều rồi. Hè năm nay tụi cháu lại về VN nhưng lần này cháu phải trả tiền vé máy bay vì bạn cháu không cần thông ngôn nữa, thông ngôn thất nghiệp rồi !

Ông bà ngoại cùng gia đình mấy Cậu, mấy Dì thương cháu lắm. Cũng có thể sẽ có anh Liêm đi cùng.

– Liêm là ai?

– Anh Hai cháu. Ảnh tên là Uy Liêm.

– Có phải đó là phiên âm tiếng Việt của chữ William không?

– Dạ đúng

– Thế anh cháu thích tên nào?

– Cả nhà cháu thích tên Uy Liêm hơn vì đa số tên riêng của Mỹ không có ý nghĩa gì hết, thường được bắt chước từ trong Kinh Thánh. Còn tên VN có lồng nghĩa trong đó, có khi mang cả ước vọng của cha mẹ đặt ở người con.

– Vậy Uy Liêm nghĩa là sao? Tôi giả vờ hỏi..

– Uy là uy phong, uy nghi, uy quyền, uy lực… còn Liêm là liêm chính, liêm sỉ, thanh liêm.

Người có quyền uy thì phải liêm chính. Người ta khi có chút quyền chức thường hay sanh tật xấu, rồi tham nhũng, rồi phách lối..

Ba má cháu muốn anh Hai khi nào có địa vị lớn thì phải sống thanh liêm..

– Anh hai cháu đã có địa vị lớn chưa?
– Dạ ảnh chỉ mới là Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến đang chiến đấu ở Iraq. Còn 4 tháng nữa ảnh sẽ xong nghĩa vụ, khi trở lại Mỹ, được nghỉ phép, anh Hai sẽ theo tụi cháu về thăm Ngoại.
– Anh Hai có biết tiếng Việt không?
– Hết sẩy Chú ơi, dù dở nhứt nhà nhưng cũng gần ngang tầm với Ba cháu …

Mike ngồi nghe tôi khảo hạch cô con gái, miệng cứ tủm tỉm cười.

Tôi thật sự cảm động, nếu không nói là choáng váng, cứ ngây người ra. Giả sử có ai đó kể tôi nghe về một gia đình như thế này, về một cô gái Mỹ thế này, về một Đại Úy Đại Đội Trưởng TQLC Mỹ như vậy… chắc chắn tôi không thể tin vì tôi đã phải chứng kiến nhiều hoàn cảnh trái ngược.

Có lần, vừa bước vô nhà một người bạn VN, ngay tại phòng khách treo một tấm bảng bằng carton với chữ: “No Vietnamese!” tôi ngập ngừng, hơi tái mặt, rồi lẳng lặng, chẳng nói chẳng rằng bước ra ngoài. Chủ nhà chạy theo đon đả.

Tôi nuốt nước miếng cho dằn cái gì đó nghèn nghẹn trong cổ họng rồi chậm rãi: có phải ông không muốn tiếp khách người VN hay ông không cho phép ai ngồi trong phòng đó nói tiếng Việt?

Anh ta phân bua: tôi chỉ muốn bà Xã và các cháu luyện tiếng Anh cho thật nhuyễn để mau thành dân Mỹ thôi !?!?

Vậy nếu ông vào một nhà hàng, một công viên, lên máy bay, xe lửa, xe buýt hay vô nhà một người Mỹ nào đó, ông thấy hàng chữ này, ông hiểu nó thế nào?!?!

Cách đây vài chục năm, khi tình trạng kỳ thị chủng tộc còn tồn tại trên đất nước Mỹ, người ta thường thấy trên xe buýt hay công viên có đeo bảng: No dogs and negroes (cấm chó và người da đen). Đến thập niên 60 mới chấm dứt. Bây giờ ông treo “No Vietnamese” trong phòng khách nghĩa là làm sao?!?!

Ông ta gỡ bảng xuống liền..

Ông bà này nghe nói qua Mỹ có mấy năm đã về VN xum xue, bà con bên nhà ngạc nhiên thấy ông và gia đình lột xác nhanh quá, sức mạnh một đại cường quốc có khác. Bên này cả hai ông bà đi làm vệ sinh, quét dọn trường học, về VN khoe làm trong ngành giáo dục nên rất ít nói tiếng Việt.

Riêng dân Mỹ hay người VN tại Mỹ chỉ nghe âm Mít đặc, không cần nhìn, đều biết ngay ông chánh gốc là “dân địa phương” Alaska vì, mười câu hết chín, ông đều nhắc đến tên một thành phố lớn của Tiểu Bang này: Du nô.

Nhưng thôi, đây là đất nước tự do mà! Tự do dân chủ với lưỡng đảng đàng hoàng.

Mike thường nói đùa với tôi “coi dzậy chứ hổng phải dzậy mà còn quá cha dzậy nữa” khi đề cập đến hệ thống lưỡng đảng của Hoa Kỳ hiện nay.

Cứ nhìn vô gia đình Thống Đốc Tiểu Bang California: Ông chồng Schwarzenegger thuộc đảng Cộng Hòa trong khi bà vợ lại theo Dân Chủ.. Khi làm việc, hai đảng kiểm soát lẫn nhau như vợ theo dõi chồng, như chồng để ý coi chừng bà vợ.

Nhưng khi có những sự kiện trọng đại liên quan đến an ninh đất nước, đến sự tồn vong của quốc gia, đến sự sống còn của dân tộc Hoa Kỳ thì hai đảng chỉ là một như sau vụ 9/11 mấy năm trước đây. Hình như có một thứ siêu chính quyền đâu đó quyết định tất cả, tương tự ảnh hưởng nội ngoại trên hai vợ chồng giữ cho hạnh phúc lứa đôi bền vững, từ đó nuôi dạy con cái thành công, kinh tế gia đình thịnh vượng, cho nước Mỹ chỉ mới hơn 200 năm lập quốc đã tiến lên bá chủ hoàn cầu. Nước Mỹ đang đứng nhất trên toàn thế giới về mọi phương diện nhưng rất tiếc, nhất luôn về vô luân thường, vô đạo lý và nhất luôn về cả lãnh vực tội phạm!

Đấy, Mike hướng dẫn cho tôi nhiều, rất nhiều điều, nhiều chuyện.

Chúng tôi ngày càng thân hơn khi biết tôi ngày xưa cũng có một thời gian đi dạy học. Vợ chồng Mike và cháu Lan lại thích tìm hiểu sâu xa tiếng Việt hơn qua những từ ngữ Hán Nôm mà tôi đã được Ông Ngoại, một Cử Nhân Hán Văn, khoa thi cuối cùng, dạy dỗ.

Nhờ vợ chồng Mike, tôi thực sự hội nhập vào xã hội Mỹ lúc nào không hay. Từ sự nhiệt tình giới thiệu của Mike, tôi được một chân Technician trong hãng Merix ở Forest Grove. Một năm sau, Mike khuyến khích và hướng dẫn vợ chồng tôi mua một cơ sở kinh doanh riêng ngay trung tâm thành phố Tigard đến nay đã tròn 12 năm.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi nhanh như những áng mây ngoài khung trời rộng. Thênh thang như giấc mơ Hoa Kỳ của gia đình tôi liên tiếp nở hoa.

Cho đến một ngày… Tin như sét đánh ngang tai. Hai vợ chồng Mike vừa qua đời trong một tai nạn xe! Cháu Lan gọi báo cho tôi bằng tiếng được tiếng mất, tức tưởi, nghẹn ngào.

Một anh Mễ nhập cư bất hợp pháp say rượu lái xe vào đường cấm ngược chiều. Xe Toyota Camry của vợ chồng Mike nằm bẹp dí dưới gầm chiếc xe tải F350 chở đầy đồ nghề làm vườn cắt cỏ.

Toán cấp cứu phải cưa xe mới đem được hai người ra nhưng cả hai đều đã tắt thở vì sức va chạm quá mạnh và vì vết thương quá nặng…

Lại thêm một nhức nhối của người Mỹ trước làn sóng nhập cư bất hợp pháp… lại thêm một vết đen tệ nạn say rượu, say xì ke lái xe DUI ngày càng nhiều…

Tang lễ thật đơn giản gồm đa số người quen gia đình, bạn bè làm chung Intel với Mike và đồng nghiệp trong bệnh viện của Mai Liên.

Cháu Uy Liêm được thông báo từ Iraq về để vừa kịp nhìn cha mẹ lần cuối trước khi đóng nắp quan tài..

Trời Oregon chiều nay mưa buồn day dứt. Nghĩa trang Finley Sunset Hills với những dốc thoai thoải quay về hướng Tây, về hướng Thái Bình Dương mà tận cùng bên kia bờ có một vùng đất mang tên VN, quê hương yêu dấu của Mike và Mai Liên suốt cả đời người. Gió buốt miên man như xoáy sâu vào tận xương tủy. Như chưa bao giờ.

Vài tia sáng yếu ớt long lanh trên những ngọn cỏ đầm đìa. Mắt tôi nhạt nhòa trong cái lạnh tái tê. Cũng xong một kiếp trong vô lượng luân hồi. Một chút gì đó có lẽ hai người đang hài lòng là vẫn còn được đi chung với nhau, vẫn còn được tay trong tay, cùng qua một thế giới khác, hy vọng sẽ tốt đẹp hơn.

Ít nhất về vật chất bây giờ xác hai người vẫn còn được nằm bên nhau, hai ngôi mộ song song, cùng nhìn về quê hương VN tít mù xa thẳm cuối chân trời.

Riêng tôi lòng trĩu nặng mối ân tình chưa thanh thỏa.

Trong suốt cuộc đời còn lại, dù còn sống trên đất Mỹ này, hay giang hồ đó đây, hình ảnh tươi vui khỏe mạnh, tràn đầy sinh lực, gương mặt dễ thương, cử chỉ ân cần, lời nói nhã nhặn nhiệt tình và đặc biệt ân nghĩa của vợ chồng Mike đã dành cho gia đình tôi chắc chắn sẽ khó phai mờ.

Cám ơn Michael Erickson. Cám ơn Mai Liên Trần. Xin tạm biệt. 

Nguyễn Thế Thăng

From Lucie 1937

Cảm ngộ

Cảm ngộ

 Câu chuyện thứ 1:

Nelson Mandela từng bị giam giữ và xúc phạm trong suốt 27 năm. Đến khi ông trở thành Tổng thống Nam Phi, ông đã mời 3 người cai ngục từng canh giữ ông trong thời gian chốn lao tù đến gặp mặt. Khi Mandela đứng dậy cung kính chào 3 vị này thì mọi người có mặt và trên toàn thế giới đều phải tĩnh lặng.
Ông nói: “Khi tôi bước ra khỏi phòng giam của mình, đi qua cánh cổng nhà tù để được tự do, tôi đã hiểu rõ ràng rằng, nếu không thể để nỗi đau của riêng mình và oán giận ở lại đằng sau, thì tôi vẫn là còn ở trong tù”.

Cảm ngộ:

Tha thứ cho người khác, nhưng thực ra là giải thoát chính mình.

Câu chuyện thứ 2:

Có một người hỏi vị nông phu: “Trồng loại lúa mì nhé?”. Nông phu đáp: “Mỗi ngày đều phải chăm sóc nó thật tốt! Không, tôi sợ rằng trời sẽ không mưa”. Người kia lại hỏi: “Vậy ông trồng bông không?”, nông phu nói: “Không, tôi lo lắng sâu sẽ ăn bông”. Người kia hỏi tiếp: “Vậy ông sẽ trồng loại cây gì?”. Nông phu nói rằng: “Cây gì cũng không được, tôi muốn đảm bảo chắc chắn an toàn”.

Cảm ngộ:
Mọi điều đều không muốn nỗ lực, đều không muốn mạo hiểm, luôn sợ rủi ro, những người vô tích sự như vậy đương nhiên sẽ không làm nên việc gì.

Câu chuyện thứ 3:

Có một con quạ đang bay trên đường thì đụng phải một ngôi nhà chim bồ câu. Bồ câu hỏi:“Bạn muốn bay đi đâu?”. Quạ nói: “Thực ra là tôi không muốn đi, nhưng vì mọi người đều

lo ngại rằng tiếng kêu của tôi không tốt lành, cho nên tôi phải rời đi”. Bồ câu nói với quạ: “Vậy thì tốt nhất là bạn đừng phí công vô sức! Nếu bạn không thực sự thay đổi tiếng kêu của mình thì cho dù bạn đi đến chỗ nào cũng sẽ đều không được chào đón”.

Cảm ngộ:

Nếu bạn mong muốn hết thảy mọi thứ xung quanh mình trở nên tốt đẹp, thì trước tiên hãy thay đổi chính mình.

Câu chuyện thứ 4:

Một gia đình có 3 người con trai, lũ trẻ từ nhỏ đã phải lớn lên trong tiếng cãi vã giữa cha mẹ, mẹ của chúng thường xuyên bị đánh tới mức thương tích khắp người. Người anh cả nghĩ:“Mẹ của mình thật đáng thương! Ta sau này nhất định sẽ đối xử tốt với vợ của mình”. Người anh thứ 2 nói: “Hôn nhân thật vô nghĩa, ta khi trưởng thành nhất định sẽ không kết hôn”.Người em út nói:“Hóa ra, làm chồng là có thể đánh đập vợ mình như vậy!”

Cảm ngộ:
Với cùng một hoàn cảnh nhưng sẽ có những lối suy nghĩ khác nhau, cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sau này. Vì vậy, là cha mẹ ngoài việc giáo dục con cái bằng những hành động gương mẫu của mình, thì lời nói cũng vô cùng quan trọng.

Câu chuyện thứ 5:

Có một vị tiểu hòa thượng phụ trách quét dọn lá rụng trong chùa, mỗi ngày phải cần rất nhiều thời gian mới có thể quét xong. Một người nói với anh ta: “Ngươi hãy rung cái cây thật mạnh cho lá rụng xuống rồi hãy quét, như vậy ngày mai sẽ không phải quét nữa!”. Tiểu hòa thường nghe vậy thấy cũng có lý, liền cao hứng làm theo, nhưng ngày hôm sau lá lại vẫn rụng khắp sân chùa như cũ. Mặc cho người này hôm nay ra sức rung mạnh cây, ngày mai lá vẫn lại rụng xuống như vậy.

Cảm ngộ:

Mọi việc đều không thể nóng lòng làm cho xong, làm tốt việc của ngày hôm nay, chính là có trách nhiệm với cuộc sống của mình vậy.

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Bỏ qua oán hờn

Bỏ qua oán hờn

Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ, có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi công việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất.

Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.

Người em hỏi người anh: – Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không?
Người anh đáp:
-Không.

Tuy thế người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi:
– Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó !Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào.

Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ.

Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng:
-Anh đã ở đây bao lâu rồi?

Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp:
-Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi.
Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.

Anh ta đề nghị:
-Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không?
Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa. phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau.

Điều này không dễ dàng nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến.

Sưu Tầm

 From: Cam Tuyet & KimBang Nguyen

Mối Tình Thiên Thu

Image may contain: one or more people, sky and nature
Image may contain: text
Van H Pham

Chúng ta thường nói với nhau: “sẽ yêu thương nhau suốt cuộc đời. Nhưng liệu chúng ta đủ can đảm để cùng nắm tay ra đi về bên kia thế giới???”.
**************

Mối Tình Thiên Thu…

Verona, New York: (Theo New York Daily News): Vào hôm Chúa nhật 27 tháng 4 năm 2014, ông Earl Myatt và bà vợ Mary, cả hai cùng ở lứa tuổi 59, đã hiên ngang đứng trên đường rầy ở nhà ga Verona , New York, khi một đoàn tàu tốc hành đang chạy tới.

Cả hai đã chết ngay tại chỗ.

Các nhân viên điều tra, sau đó, đã tìm thấy lá thư tuyệt mệnh của ông Earl, trong chiếc xe hơi đậu gần đó.

Vài phút trước khi ông và bà vợ ra đứng trước đoàn tàu chạy đến, ông Earl đã điện thoại cho một người con trai, nói là ông ta thương yêu con và xin lỗi con về chuyện mà ông sắp sửa làm.

Ông Earl quen bà vợ Mary từ khi hai người còn học ở trung học và mới có 17 tuổi. Cả hai đã sống với nhau hạnh phúc trong 42 năm, có hai đứa con trai và bốn đứa cháu nội.

Vào đầu năm nay, bà Mary bị chứng phù não (brain aneurysm) đã làm cho bà này không thể tự tự săn sóc , và khó khăn trong việc phát âm.

Ông Earl làm việc cho một tiệm sách trong trường cao đẳng cộng đồng Mohawks Valley và đã phải đi làm từ lúc 3.30 sáng mỗi ngày, để có thì giờ còn lại trong ngày, săn sóc cho bà vợ.

Ông Earl đã suy thoái tâm thần khi nhìn thấy sự suy sụp về sức khỏe của bà vợ. Và họ đã quyết định cùng chết cho Mối tình đầu cũng là mối tình cuối.

Lạy Chúa, xin tha phần phạt cho hai linh hồn này. Amen.

Tự hứa và quyết tâm làm hòa

Tự hứa và quyết tâm làm hòa

 Câu chuyện có thật rất cảm động

 Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó, trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5, 23-24)

Những buổi chiều tối mùa đông ở thành phố Dalat thật lạnh, càng về đêm cái lạnh càng se sắt cắt da, sương mù giăng dầy đặc… Phố xá đã lên đèn từ bao giờ, tia sáng vàng vọt của những ngọn đèn đường tỏa chiếu lung linh trên mặt đường, xuyên qua màn sương thật đẹp, thật dịu dàng… trong khi nhà mình thì vẫn tối tăm kể từ ngày đổi đời (1975).

Tôi dắt bốn đứa con nhỏ đến nhà thờ chánh tòa để tham dự Thánh Lễ đêm. Đêm nay khắp thế giới đang tưng bừng kỷ niệm mừng đón Chúa Giáng Sinh.

Hàng cây anh đào hai bên đường ủ rũ đứng lặng im trong sương đêm. Mẹ con tôi dắt díu nhau co ro đi trên phố vắng thật vắng, tự nhiên tôi rùng mình, cảm tưởng có một chút gì rờn rợn trong tâm tư thật tê tái như sợ sợ, như buồn buồn, như thảm thảm… khung cảnh sao mà buồn da diết,  tâm hồn tôi cũng da diết buồn và tủi thân tủi phận… „người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“.

Nhìn bốn đứa con gầy guộc, hốc hác, ăn mặc không đủ ấm so với những ngày bình yên trước 1975, lòng tôi đau như cắt, nước mắt lúc nào cũng đoanh tròng chỉ chực rơi.

Mừng Chúa Giáng Sinh mà mẹ con cũng chả được một bữa ăn cho no, nói chi đến đầy đủ calorie, nói chi đến gà nướng, bánh Noel và những gói quà dưới gốc cây thông như đã từng, và v.v…

Miền Nam đổi chủ, Dalat thơ mộng của chúng tôi cùng cả miền Nam Việt Nam đón tiếp những hoảng hốt, những nghi ngờ, những hoang mang, đầy sự sợ hãi. Nhìn vẻ mặt thất thần của những em bé thơ ngây, những học sinh mới lớn đến các cụ già đều hằn sâu nét nhẫn nhục, chịu đựng, sợ sệt.

Nhất là chị em chúng tôi, những người vợ lính cô đơn cô độc, bơ vơ giữa đời lạ, ngay nơi mình được sinh ra, sống và lớn lên… Người phối nhẫu của chúng tôi  bị nhà cầm quyền ghép là „những người có tội với nhân dân“ lùa vào trại cải tạo.

Chính sách đổi tiền của nhà nước cộng thêm sự càn quét của cải ở miền Nam đem ra miền Bắc khiến dân miền Nam rơi vào cảnh đói nghèo khốn khổ. Chúng tôi cũng không ngoại lệ,

Từ ngày chồng tôi được nhà nước kêu đi trình diện mang theo lương thực cho 10 ngày. Thế mà cho đến nay đã bốn năm rồi, mẹ con tôi chờ đợi mòn mỏi, trong thất vọng rồi trong tuyệt vọng (tôi nghĩ chắc là không bao giờ còn được gặp mặt nhau nữa). Cảnh sống bữa đói, bữa lưng lửng thường trực ngự trị hằng ngày giữa mẹ con tôi. Nỗi cô đơn, bơ vơ, lẻ loi, sợ sệt luôn bao trùm cuộc sống của chúng tôi trong từng bữa ăn, từng giấc ngủ… mấy mẹ con không có chút niềm vui hay hy vọng và bình an nào.

Trong tháng 3.1975 khi cả miền Nam sôi xục hốt hoảng chạy, mẹ con chúng tôi theo đoàn người di tản về Saigon vì hy vọng chồng tôi cũng từ đơn vị đóng ở Pleiku sẽ theo đoàn quân di tản về Saigon, nên „đồ tuế nhuyễn, của riêng tây“ trong nhà bị mất sạch. Tháng 5.1975 chúng tôi trở về Dalat thì may mắn còn căn nhà trống không, đôi đũa, cái chén cũng không còn. (may mắn vì nhà ở đường hẻm) cỏ trong vườn cao ngập đầu người.

Để tồn tại, tôi cố gắng tập tành buôn thúng bán bưng nuôi 4 đứa con vị thành niên. Tôi ra chợ Dalat tìm những người quen của ba mẹ tôi xưa kia bán hàng ngoài chợ xin họ cho tôi lấy trái cây đem đi bán lẻ để kiếm chút tiền lời đong gạo nuôi con mà cũng không nên thân. Đêm về thì luôn luôn hồi hộp lo sợ, không bao giờ được ngủ yên giấc vì bụng đói cồn cào, vì lo lắng không biết sống ra sao, vì sợ nhỡ công an đang đêm đập cửa, nói là khám xét nhà, rồi vô cớ bắt tôi đi tù cải tạo nữa thì các con tôi còn quá nhỏ sẽ ra làm sao đây (vì tôi là công chức của Việt Nam Cộng Hòa), cứ nghĩ đến đó là rùng mình, rởn tóc!

Thời gian này có cô hàng xóm sống bằng nghề buôn bán rau trái, trước kia sống gần bên cạnh nông trại của ba mẹ tôi ở ấp Đa Thiện, nhìn thấy tôi khổ sở quá nên động lòng thương, rủ tôi đi buôn chung với cô.

Tôi không có một đồng xu lận lưng thì làm sao buôn chung được. Cô tự nguyện bỏ tiền ra, mỗi buổi sáng sớm tôi và cô ta, hai chị em ra chợ găp nhau, rồi cùng đi vào các làng trồng rau quả xem có gì thì mua nấy và đem ra chợ bán kiếm lời. Những nhà vườn ở Dalat rất nhân đức, khi chúng tôi không có tiền trả thì họ cho đem hàng ra chợ bán xong hôm sau đem tiền về đưa cho họ cũng được. Đây là một truyền thống của tất cả những nhà vườn trồng rau và trái cây ở Dalạt, Ba mẹ tôi thời còn nông trại cũng sống như vậy.

Ngày nào lời được chút tiền thì hai chị em được ăn phần cơm trưa, cũng có chút tiền mua gạo cho con và vài cục đường hay gói bột bích chi để dành cuối tháng đi thăm chồng trong tù cải tạo.Tạ ơn Chúa, cho thiên thần là cô bạn quý này đến giúp mẹ con tôi trong lúc khốn khổ tột cùng, kéo dài cuộc sống.

Trong lúc mẹ con tôi sống cơ cực, túng quẫn và khốn khổ như thế, mà cô bạn thân bị người tình phụ bạc quất ngựa truy phong, bây giờ mang cái bào thai oái oăm đến xin tá túc, nhờ tôi nâng đỡ. Thương bạn nhiều mà thương mình nhiều hơn nên cứ dùng dằng trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Thời buổi này nhà nước họ kiểm soát gắt gao lắm. Cứ vài ngày ông tổ trưởng dân phố và chàng công an khu vực lại ghé thăm mà mắt thì láo liên dòm từng ngõ ngách, dù nhà đã trống trơn không bàn, không ghế, không tủ… làm sao tôi dám chứa cô bạn mình ở nhà đây!?

Phần thì cơm gạo đâu mà nuôi thêm hai miệng ăn nữa chứ, trong khi mẹ con tôi còn phải hàng ngày nhịn bớt để có chút đỉnh tiền mà đi thăm nuôi chồng trong tù cải tạo.

Ôi! Gánh tôi sao mà nặng thế này!!! Bạn mình không dám về nhà vì sợ ba mẹ, sợ thiên hạ xầm xì, phỉ nhổ, cười chê gia đình nên cứ liều ở lì nhà tôi. Tôi cũng liều cưu mang bạn mình. Tôi dấu bạn tôi ở trên gác, chỉ thỉnh thoảng vào lúc đêm tối mới dám đưa bạn ra ngoài đi dạo một chút.

Vài tháng sau tôi trở thành con nợ như chúa chổm. Tối nào cũng có người đến đòi nợ, cô bạn tôi có chút tiền dành dụm cũng tiêu tan hết. Chúng tôi chả còn biết trong cậy vào đâu?

Cô bạn tôi đánh liều sai tôi đi Saigon thú thật hết mọi việc cho hai cụ thân sinh của bạn để xin viện trợ.Thế là tôi chạy vạy, vay mượn đủ tiền mua một vé xe đò đi về Saigon gặp hai cụ để ca bài „con cá nó sống vì nước“.

Sau khi trình bày ngọn ngành tình trạng khó khăn của mẹ con tôi và tình trạng đau thương của cô bạn, cụ bà liền phán một câu: „Cho nó chết đi chứ sống làm gì mà làm nhục gia phong như thế à“. Tôi chỉ biết cúi đầu và ngậm câm. „Thôi được rồi, bây giờ bác đưa cho con ít tiền để con cưu mang nó trong lúc này, con cứ để nó ở trên Dalat và dấu kỹ nó dùm cho bác, chứ nó mà chường mặt ra cho dân Dalat trông thấy hay vác cái bầu ấy về đây thì bác độn thổ con ạ“.

Thế là từ đó thỉnh thoảng cạn tiền tôi lại được sai đi Saigon. Nhờ món tiền này của mẹ bạn, tôi thanh toán một số nợ nần khi tôi mua chịu thức ăn nuôi bảy  miệng ăn trong gia đình, và nuôi sống chúng tôi trong lúc khốn quẫn quá chừng quá đỗi.

Để lo tìm người quen và tin cẩn gởi đứa bé. Tôi phải mất nhiều thời gian dò hỏi và may mắn tìm được người hàng xóm trước kia của chúng tôi. Anh chị đều là nhân viên cảnh sát, đã nhanh chân chạy về Saigon khi di tản và đổi tên, đổi họ ở lại Saigon, anh chị sống bằng cách nhận đan áo len cho các tiệm bán quần áo và sinh sống ở Tân Định.

Gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa của bạn, tôi đưa bạn mình về Saigon và gởi ở nhà anh chị cho đến khi sanh nở. Bây giờ đến lượt anh chị săn sóc cho bạn tôi song tôi vẫn là người liên lạc với các cụ, để các cụ cứ nghĩ là tôi còn dấu con và cháu gái của cụ ở Dalat.

Khi bé gái được đầy tháng tôi về Saigon đưa bạn tôi về nhà xin lỗi hai cụ và xin hai cụ chu cấp hàng tháng cho hai mẹ con cách kín đáo. Hai cụ đồng ý chu cấp qua anh chị nuôi cháu bé, song vẫn còn giận con gái nên không cho con bước vào nhà và  không cho phép được bén mảng đến nhà. Tôi biết cụ còn giận con gái lắm chứ, nhưng thương thì vẫn thương nhiều lắm.

Nhân dịp này bà cụ đòi tôi phải đưa trả lại nửa số tiền cụ đưa cho tôi hàng tháng để lo cho con gái cụ. Trong người tôi không có một đồng xu dính túi lấy tiền đâu mà trả cho cụ. Đồng tiền như miếng chín, có thì tiêu, nhất là „tiền vào nhà khó như gió vô nhà trống“. Tôi buồn và giận lắm, không kềm chế được, tôi khóc và chào hai cụ rồi quay về Dalat ngay.

Hai cụ chỉ biết quý đồng tiền mà không hề nghĩ đến công khó cùng sự vất vả của tôi trong mấy tháng cưu mang bạn mình trong lúc hoạn nạn. Hai cụ cũng không biết thương hại mẹ con tôi trong hoàn cảnh khốn khó trong lúc đổi đời như thế này mà chồng tôi còn trong tù cải tạo.

Tôi buồn lắm, giận mình, giận bạn, giận đời và tủi cho thân phận, mà không biết tâm sự cùng ai…chỉ biết khóc… Vài tháng sau, tôi đi Saigon đem cuốn sổ ghi tất cả những chi phí cho bạn mình trong thời gian tôi giúp đỡ bạn cho đến nay, trao cho cụ. Tôi buồn giận hơn nữa là cô bạn thân từ ngày về Saigon cũng chẳng liên lạc gì với mình.

*    *     *

Đêm nay, trong ngôi Vương Cung Thánh Đường Dalat, với không khí thật trang trọng, thiêng liêng trong Thánh Lễ. Tôi lắng nghe đoạn Tin Mừng:

Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5,23-24).

Vị linh mục chủ tế giảng:

Đâu là bác ái của người Kitô hữu?

Anh chị em thể hiện tình bác ái thế nào với tha nhân?

Nếu mình có lỗi với anh em mà mình biết lỗi và đến xin lỗi thì chuyện rất bình thường. Nhưng Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, cả tôi và anh chị em, con cái của Ngài phải thể hiện tình bác ái bằng cách, khi người anh em có lỗi với mình, mình đến với họ, xin lỗi họ, làm hòa với họ“,

 như thế mình mới thể hiện lòng bác ái của Chúa Kitô. (cha chủ tế nay là Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Việt Nam)

Âm vang của đoạn Phúc Âm và lời giảng của cha đánh động tâm tư tôi rất mạnh. Nhìn lại mình tôi thấy mình thật có lỗi lớn trong chuyện này. Mình đã không tế nhị, không chút khiêm nhường, không kính trọng bậc trưởng thượng như cha mẹ mình.

Tôi có lỗi đã không chịu nhẹ nhàng và tế nhị giải thích cho hai cụ hiểu mà thương đến hoàn cảnh khó khăn của hai chúng tôi, cả tôi và bạn tôi đều có lỗi bất hiếu với hai cụ và thiếu tình thương với bạn mình.

Trong tim, tôi tự hứa với mình sẽ phải đến xin lỗi hai cụ. Nhưng thật khó khăn làm sao!

Chúa ơi, xin Ngài giúp con để con can đảm thực hành việc này. Tôi đắm chìm trong cầu nguyện, tha thiết xin Chúa giúp.

Cho đến lúc rước Thánh Thể Giêsu vào lòng,

tôi tự hứa với Chúa Giêsu :

tôi sẽ nhất quyết đến làm hòa với bạn mình

và xin lỗi hai cụ.

Tuần sau đó, vào một buổi tối ở Saigon, tôi đến nhà bạn. Người ra mở cửa là cô em bạn tôi. Vừa nhìn thấy tôi, cô ta quay vào nhà la thật lớn:

Chị V. ơi, chị T…. Rồi cầm tay tôi lôi vào nhà.

Bạn tôi từ trên lầu chạy  xuống ôm chầm lấy tôi, hai đứa không nói được lời nào. Chỉ có nước mắt đã nói thay tất cả. Hai chúng tôi khóc, cô em gái khóc và ông cụ đang đau ốm, nằm trên giường bệnh đã mấy năm nay cũng khóc.

Tôi được biết cụ bà đã qua đời cách đây vài tháng vì bệnh tim.Trong khi nằm bệnh viện và trước lúc qua đời cụ cứ nhắc đến tôi với lòng thương cảm và chút ân hận.

Tạ ơn Chúa đã thêm sức cho con, đã đồng hành với con để giúp con biết làm hòa với anh chị em con như Lời Chúa dạy. Phần thưởng Chúa ban cho chúng tôi là tình thân gia đình và tình bạn của chúng tôi lại thắm thiết hơn xưa.

Cụ ông cứ nắm tay tôi thật lâu không buông và nói đi nói lại hoài một câu:

Bác thương con lắm… thương con lắm.

Tôi sung sướng tràn ngập đón nhận tình thương của gia đình bạn và tình thương này đã nâng đỡ đời sống tôi rất nhiều. Tạ ơn Chúa và Ngợi Khen Ngài.

Elisabeth Nguyễn

From: Tramtubensuoi gởi