Tự hứa và quyết tâm làm hòa

Tự hứa và quyết tâm làm hòa

 Câu chuyện có thật rất cảm động

 Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó, trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5, 23-24)

Những buổi chiều tối mùa đông ở thành phố Dalat thật lạnh, càng về đêm cái lạnh càng se sắt cắt da, sương mù giăng dầy đặc… Phố xá đã lên đèn từ bao giờ, tia sáng vàng vọt của những ngọn đèn đường tỏa chiếu lung linh trên mặt đường, xuyên qua màn sương thật đẹp, thật dịu dàng… trong khi nhà mình thì vẫn tối tăm kể từ ngày đổi đời (1975).

Tôi dắt bốn đứa con nhỏ đến nhà thờ chánh tòa để tham dự Thánh Lễ đêm. Đêm nay khắp thế giới đang tưng bừng kỷ niệm mừng đón Chúa Giáng Sinh.

Hàng cây anh đào hai bên đường ủ rũ đứng lặng im trong sương đêm. Mẹ con tôi dắt díu nhau co ro đi trên phố vắng thật vắng, tự nhiên tôi rùng mình, cảm tưởng có một chút gì rờn rợn trong tâm tư thật tê tái như sợ sợ, như buồn buồn, như thảm thảm… khung cảnh sao mà buồn da diết,  tâm hồn tôi cũng da diết buồn và tủi thân tủi phận… „người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“.

Nhìn bốn đứa con gầy guộc, hốc hác, ăn mặc không đủ ấm so với những ngày bình yên trước 1975, lòng tôi đau như cắt, nước mắt lúc nào cũng đoanh tròng chỉ chực rơi.

Mừng Chúa Giáng Sinh mà mẹ con cũng chả được một bữa ăn cho no, nói chi đến đầy đủ calorie, nói chi đến gà nướng, bánh Noel và những gói quà dưới gốc cây thông như đã từng, và v.v…

Miền Nam đổi chủ, Dalat thơ mộng của chúng tôi cùng cả miền Nam Việt Nam đón tiếp những hoảng hốt, những nghi ngờ, những hoang mang, đầy sự sợ hãi. Nhìn vẻ mặt thất thần của những em bé thơ ngây, những học sinh mới lớn đến các cụ già đều hằn sâu nét nhẫn nhục, chịu đựng, sợ sệt.

Nhất là chị em chúng tôi, những người vợ lính cô đơn cô độc, bơ vơ giữa đời lạ, ngay nơi mình được sinh ra, sống và lớn lên… Người phối nhẫu của chúng tôi  bị nhà cầm quyền ghép là „những người có tội với nhân dân“ lùa vào trại cải tạo.

Chính sách đổi tiền của nhà nước cộng thêm sự càn quét của cải ở miền Nam đem ra miền Bắc khiến dân miền Nam rơi vào cảnh đói nghèo khốn khổ. Chúng tôi cũng không ngoại lệ,

Từ ngày chồng tôi được nhà nước kêu đi trình diện mang theo lương thực cho 10 ngày. Thế mà cho đến nay đã bốn năm rồi, mẹ con tôi chờ đợi mòn mỏi, trong thất vọng rồi trong tuyệt vọng (tôi nghĩ chắc là không bao giờ còn được gặp mặt nhau nữa). Cảnh sống bữa đói, bữa lưng lửng thường trực ngự trị hằng ngày giữa mẹ con tôi. Nỗi cô đơn, bơ vơ, lẻ loi, sợ sệt luôn bao trùm cuộc sống của chúng tôi trong từng bữa ăn, từng giấc ngủ… mấy mẹ con không có chút niềm vui hay hy vọng và bình an nào.

Trong tháng 3.1975 khi cả miền Nam sôi xục hốt hoảng chạy, mẹ con chúng tôi theo đoàn người di tản về Saigon vì hy vọng chồng tôi cũng từ đơn vị đóng ở Pleiku sẽ theo đoàn quân di tản về Saigon, nên „đồ tuế nhuyễn, của riêng tây“ trong nhà bị mất sạch. Tháng 5.1975 chúng tôi trở về Dalat thì may mắn còn căn nhà trống không, đôi đũa, cái chén cũng không còn. (may mắn vì nhà ở đường hẻm) cỏ trong vườn cao ngập đầu người.

Để tồn tại, tôi cố gắng tập tành buôn thúng bán bưng nuôi 4 đứa con vị thành niên. Tôi ra chợ Dalat tìm những người quen của ba mẹ tôi xưa kia bán hàng ngoài chợ xin họ cho tôi lấy trái cây đem đi bán lẻ để kiếm chút tiền lời đong gạo nuôi con mà cũng không nên thân. Đêm về thì luôn luôn hồi hộp lo sợ, không bao giờ được ngủ yên giấc vì bụng đói cồn cào, vì lo lắng không biết sống ra sao, vì sợ nhỡ công an đang đêm đập cửa, nói là khám xét nhà, rồi vô cớ bắt tôi đi tù cải tạo nữa thì các con tôi còn quá nhỏ sẽ ra làm sao đây (vì tôi là công chức của Việt Nam Cộng Hòa), cứ nghĩ đến đó là rùng mình, rởn tóc!

Thời gian này có cô hàng xóm sống bằng nghề buôn bán rau trái, trước kia sống gần bên cạnh nông trại của ba mẹ tôi ở ấp Đa Thiện, nhìn thấy tôi khổ sở quá nên động lòng thương, rủ tôi đi buôn chung với cô.

Tôi không có một đồng xu lận lưng thì làm sao buôn chung được. Cô tự nguyện bỏ tiền ra, mỗi buổi sáng sớm tôi và cô ta, hai chị em ra chợ găp nhau, rồi cùng đi vào các làng trồng rau quả xem có gì thì mua nấy và đem ra chợ bán kiếm lời. Những nhà vườn ở Dalat rất nhân đức, khi chúng tôi không có tiền trả thì họ cho đem hàng ra chợ bán xong hôm sau đem tiền về đưa cho họ cũng được. Đây là một truyền thống của tất cả những nhà vườn trồng rau và trái cây ở Dalạt, Ba mẹ tôi thời còn nông trại cũng sống như vậy.

Ngày nào lời được chút tiền thì hai chị em được ăn phần cơm trưa, cũng có chút tiền mua gạo cho con và vài cục đường hay gói bột bích chi để dành cuối tháng đi thăm chồng trong tù cải tạo.Tạ ơn Chúa, cho thiên thần là cô bạn quý này đến giúp mẹ con tôi trong lúc khốn khổ tột cùng, kéo dài cuộc sống.

Trong lúc mẹ con tôi sống cơ cực, túng quẫn và khốn khổ như thế, mà cô bạn thân bị người tình phụ bạc quất ngựa truy phong, bây giờ mang cái bào thai oái oăm đến xin tá túc, nhờ tôi nâng đỡ. Thương bạn nhiều mà thương mình nhiều hơn nên cứ dùng dằng trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Thời buổi này nhà nước họ kiểm soát gắt gao lắm. Cứ vài ngày ông tổ trưởng dân phố và chàng công an khu vực lại ghé thăm mà mắt thì láo liên dòm từng ngõ ngách, dù nhà đã trống trơn không bàn, không ghế, không tủ… làm sao tôi dám chứa cô bạn mình ở nhà đây!?

Phần thì cơm gạo đâu mà nuôi thêm hai miệng ăn nữa chứ, trong khi mẹ con tôi còn phải hàng ngày nhịn bớt để có chút đỉnh tiền mà đi thăm nuôi chồng trong tù cải tạo.

Ôi! Gánh tôi sao mà nặng thế này!!! Bạn mình không dám về nhà vì sợ ba mẹ, sợ thiên hạ xầm xì, phỉ nhổ, cười chê gia đình nên cứ liều ở lì nhà tôi. Tôi cũng liều cưu mang bạn mình. Tôi dấu bạn tôi ở trên gác, chỉ thỉnh thoảng vào lúc đêm tối mới dám đưa bạn ra ngoài đi dạo một chút.

Vài tháng sau tôi trở thành con nợ như chúa chổm. Tối nào cũng có người đến đòi nợ, cô bạn tôi có chút tiền dành dụm cũng tiêu tan hết. Chúng tôi chả còn biết trong cậy vào đâu?

Cô bạn tôi đánh liều sai tôi đi Saigon thú thật hết mọi việc cho hai cụ thân sinh của bạn để xin viện trợ.Thế là tôi chạy vạy, vay mượn đủ tiền mua một vé xe đò đi về Saigon gặp hai cụ để ca bài „con cá nó sống vì nước“.

Sau khi trình bày ngọn ngành tình trạng khó khăn của mẹ con tôi và tình trạng đau thương của cô bạn, cụ bà liền phán một câu: „Cho nó chết đi chứ sống làm gì mà làm nhục gia phong như thế à“. Tôi chỉ biết cúi đầu và ngậm câm. „Thôi được rồi, bây giờ bác đưa cho con ít tiền để con cưu mang nó trong lúc này, con cứ để nó ở trên Dalat và dấu kỹ nó dùm cho bác, chứ nó mà chường mặt ra cho dân Dalat trông thấy hay vác cái bầu ấy về đây thì bác độn thổ con ạ“.

Thế là từ đó thỉnh thoảng cạn tiền tôi lại được sai đi Saigon. Nhờ món tiền này của mẹ bạn, tôi thanh toán một số nợ nần khi tôi mua chịu thức ăn nuôi bảy  miệng ăn trong gia đình, và nuôi sống chúng tôi trong lúc khốn quẫn quá chừng quá đỗi.

Để lo tìm người quen và tin cẩn gởi đứa bé. Tôi phải mất nhiều thời gian dò hỏi và may mắn tìm được người hàng xóm trước kia của chúng tôi. Anh chị đều là nhân viên cảnh sát, đã nhanh chân chạy về Saigon khi di tản và đổi tên, đổi họ ở lại Saigon, anh chị sống bằng cách nhận đan áo len cho các tiệm bán quần áo và sinh sống ở Tân Định.

Gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa của bạn, tôi đưa bạn mình về Saigon và gởi ở nhà anh chị cho đến khi sanh nở. Bây giờ đến lượt anh chị săn sóc cho bạn tôi song tôi vẫn là người liên lạc với các cụ, để các cụ cứ nghĩ là tôi còn dấu con và cháu gái của cụ ở Dalat.

Khi bé gái được đầy tháng tôi về Saigon đưa bạn tôi về nhà xin lỗi hai cụ và xin hai cụ chu cấp hàng tháng cho hai mẹ con cách kín đáo. Hai cụ đồng ý chu cấp qua anh chị nuôi cháu bé, song vẫn còn giận con gái nên không cho con bước vào nhà và  không cho phép được bén mảng đến nhà. Tôi biết cụ còn giận con gái lắm chứ, nhưng thương thì vẫn thương nhiều lắm.

Nhân dịp này bà cụ đòi tôi phải đưa trả lại nửa số tiền cụ đưa cho tôi hàng tháng để lo cho con gái cụ. Trong người tôi không có một đồng xu dính túi lấy tiền đâu mà trả cho cụ. Đồng tiền như miếng chín, có thì tiêu, nhất là „tiền vào nhà khó như gió vô nhà trống“. Tôi buồn và giận lắm, không kềm chế được, tôi khóc và chào hai cụ rồi quay về Dalat ngay.

Hai cụ chỉ biết quý đồng tiền mà không hề nghĩ đến công khó cùng sự vất vả của tôi trong mấy tháng cưu mang bạn mình trong lúc hoạn nạn. Hai cụ cũng không biết thương hại mẹ con tôi trong hoàn cảnh khốn khó trong lúc đổi đời như thế này mà chồng tôi còn trong tù cải tạo.

Tôi buồn lắm, giận mình, giận bạn, giận đời và tủi cho thân phận, mà không biết tâm sự cùng ai…chỉ biết khóc… Vài tháng sau, tôi đi Saigon đem cuốn sổ ghi tất cả những chi phí cho bạn mình trong thời gian tôi giúp đỡ bạn cho đến nay, trao cho cụ. Tôi buồn giận hơn nữa là cô bạn thân từ ngày về Saigon cũng chẳng liên lạc gì với mình.

*    *     *

Đêm nay, trong ngôi Vương Cung Thánh Đường Dalat, với không khí thật trang trọng, thiêng liêng trong Thánh Lễ. Tôi lắng nghe đoạn Tin Mừng:

Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5,23-24).

Vị linh mục chủ tế giảng:

Đâu là bác ái của người Kitô hữu?

Anh chị em thể hiện tình bác ái thế nào với tha nhân?

Nếu mình có lỗi với anh em mà mình biết lỗi và đến xin lỗi thì chuyện rất bình thường. Nhưng Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, cả tôi và anh chị em, con cái của Ngài phải thể hiện tình bác ái bằng cách, khi người anh em có lỗi với mình, mình đến với họ, xin lỗi họ, làm hòa với họ“,

 như thế mình mới thể hiện lòng bác ái của Chúa Kitô. (cha chủ tế nay là Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Việt Nam)

Âm vang của đoạn Phúc Âm và lời giảng của cha đánh động tâm tư tôi rất mạnh. Nhìn lại mình tôi thấy mình thật có lỗi lớn trong chuyện này. Mình đã không tế nhị, không chút khiêm nhường, không kính trọng bậc trưởng thượng như cha mẹ mình.

Tôi có lỗi đã không chịu nhẹ nhàng và tế nhị giải thích cho hai cụ hiểu mà thương đến hoàn cảnh khó khăn của hai chúng tôi, cả tôi và bạn tôi đều có lỗi bất hiếu với hai cụ và thiếu tình thương với bạn mình.

Trong tim, tôi tự hứa với mình sẽ phải đến xin lỗi hai cụ. Nhưng thật khó khăn làm sao!

Chúa ơi, xin Ngài giúp con để con can đảm thực hành việc này. Tôi đắm chìm trong cầu nguyện, tha thiết xin Chúa giúp.

Cho đến lúc rước Thánh Thể Giêsu vào lòng,

tôi tự hứa với Chúa Giêsu :

tôi sẽ nhất quyết đến làm hòa với bạn mình

và xin lỗi hai cụ.

Tuần sau đó, vào một buổi tối ở Saigon, tôi đến nhà bạn. Người ra mở cửa là cô em bạn tôi. Vừa nhìn thấy tôi, cô ta quay vào nhà la thật lớn:

Chị V. ơi, chị T…. Rồi cầm tay tôi lôi vào nhà.

Bạn tôi từ trên lầu chạy  xuống ôm chầm lấy tôi, hai đứa không nói được lời nào. Chỉ có nước mắt đã nói thay tất cả. Hai chúng tôi khóc, cô em gái khóc và ông cụ đang đau ốm, nằm trên giường bệnh đã mấy năm nay cũng khóc.

Tôi được biết cụ bà đã qua đời cách đây vài tháng vì bệnh tim.Trong khi nằm bệnh viện và trước lúc qua đời cụ cứ nhắc đến tôi với lòng thương cảm và chút ân hận.

Tạ ơn Chúa đã thêm sức cho con, đã đồng hành với con để giúp con biết làm hòa với anh chị em con như Lời Chúa dạy. Phần thưởng Chúa ban cho chúng tôi là tình thân gia đình và tình bạn của chúng tôi lại thắm thiết hơn xưa.

Cụ ông cứ nắm tay tôi thật lâu không buông và nói đi nói lại hoài một câu:

Bác thương con lắm… thương con lắm.

Tôi sung sướng tràn ngập đón nhận tình thương của gia đình bạn và tình thương này đã nâng đỡ đời sống tôi rất nhiều. Tạ ơn Chúa và Ngợi Khen Ngài.

Elisabeth Nguyễn

From: Tramtubensuoi gởi

Bức thư đầu tiên của người vợ

Image may contain: one or more people
No automatic alt text available.

Van H Pham

Đọc câu chuyện này, một số bạn cho là hư cấu hoặc thời buổi này tìm đâu ra mẫu nguời như thế?!!! Nhưng nếu chúng ta là những người biết trân trọng qúa khứ thì sẽ hiểu vì sao?

************

TRUYỆN NGẮN….

Bức thư đầu tiên của người vợ

Vào một buổi tối, nhìn vào cơ thể thon thả, mảnh mai của người con gái đang nằm bên cạnh anh. Giây phút đó, anh thề rằng, anh nhất định sẽ mang lại hạnh phúc cho cô. Anh ta từ một kỹ sư xây dựng mới chân ướt chân ráo bước ra khỏi cánh cổng trường đại học,và sau đó xây dựng đội ngũ kỹ thuật của riêng mình.

Bây giờ, đã trở thành ông chủ một công ty xây dựng có tiếng tăm trong thành phố. Bên cạnh anh có quá nhiều cám dỗ. Trong khi đó, vợ anh ngày càng xấu đi, thân hình trở nên xồ xề, da dẻ cũng không hồng hào, mịn màng như trước. So với vô vàn kiều nữ bên cạnh anh, vợ anh thật quê mùa, ảm đạm. Sự hiện diện của vợ nhắc nhở quá khứ tầm thường, thấp kém của anh.

Anh nghĩ cuộc hôn nhân này nên chấm dứt ở đây. Anh gửi vào tài khoản của vợ 500 triệu, mua cho cô một ngôi nhà ở trung tâm thành phố nhộn nhịp. Anh không phải người đàn ông vô lương tâm. Vì vậy, nếu như không sắp xếp cuộc sống ổn thỏa cho vợ anh sau này, anh sẽ cảm thấy vô cùng tội lỗi…

Cuối cùng, anh chủ động đề nghị ly hôn. Vợ anh ngồi đối diện, trầm tư nghe anh giải thích lý do ly hôn. Đôi mắt ấy rất đỗi dịu dàng. Nhưng 20 năm làm vợ chồng, anh quá hiểu rõ về cô, đằng sau đôi mắt hiền dịu ấy, anh biết rằng trái tim cô đang rỉ máu. Anh chợt nhận ra mình thật tàn nhẫn.

Ngày vợ anh đồng ý rời khỏi nhà. Công ty phải giải quyết một vài vấn đề, anh bảo cô đợi ở nhà,trưa về anh sẽ giúp cô chuyển nhà,chuyển đến căn hộ chung cư anh mua cho. Đồng nghĩa với việc cuộc hôn nhân kéo dài 20 năm sẽ kết thúc tại đây.

Buổi sáng ngồi trong phòng làm việc ,anh bồn chồn,thấp thỏm . Đến trưa, anh vội vã về nhà. Căn nhà được dọn dẹp sạch sẽ, vợ anh đã đi mất rồi. Trên bàn đặt chiếc chìa khóa nhà anh mua cho cô , sổ tiết kiệm 500 triệu đồng và một bức thư cô viết cho anh.

Đây là bức thư đầu tiên mà cô viết cho anh: “ Em đi đây, em về nhà mẹ. Chăn em giặt phơi khô rồi đấy, cất ở ngăn cuối cùng bên trái tủ quần áo. Trời lạnh anh nhớ lấy ra đắp. Giày da tất cả em đều đánh xi rồi nhé, nếu anh không tự mình đánh được thì mang đến tiệm ông Tư đầu ngõ ấy. Sơ mi treo ở phía trên, vớ, thắt lưng ở trong ngăn kéo phía dưới tủ.Mua gạo nhớ mua gạo tám thơm của Thái Lan, anh nhớ vào siêu thị mua nhé, mua bên ngoài anh không thạo người ta bán hàng giả cho đấy. Dì Hai mỗi tuần đều đến dọn dẹp nhà cửa một lần, cuối tháng anh nhớ gửi tiền cho dì ấy. Còn nữa, đồ cũ cứ cho ông Tư đầu ngõ nhé, ông ấy gửi về quê cho bọn trẻ con,chắc chúng nó sẽ vui lắm. Dạ dày anh không tốt, em đi rồi anh nhớ uống thuốc đều đặn. Thuốc em nhờ người ta mua từ Quảng Bình, có lẽ cũng đủ dùng nửa năm. Anh ra ngoài thường quên mang theo chìa khóa nhà, em gửi một chùm ở chỗ bảo vệ , lần sau nếu quên thì đến đấy lấy nhé. Buổi sáng đi ra ngoài anh nhớ đóng cửa sổ, mưa tạt vào sẽ làm ướt nhà đấy. Canh cá lóc – món mà anh thích em để ở trong tủ lạnh. Anh về nhớ hâm lại rồi hãy ăn nhé. Gửi anh , người em yêu nhất”.

Những dòng chữ xiêu vẹo nhưng tại sao nó cứ như những viên đạn bắn vào trái tim anh, mỗi viên đều mang theo tấm chân tình xuyên thẳng vào ngực – đau nhói. Anh từ từ đi vào nhà bếp.Mỗi đồ vật ở đây đều lưu giữ dấu tay, hơi thở của cô. Anh chợt nhớ về 20 năm trước, anh làm ở công trường xây dựng dầm mưa dãi nắng. Những ngày tháng bần hàn của cuộc đời đều có cô bên cạnh. Nhớ lại bát canh cá lóc nóng hổi đã sưởi ấm trái tim anh trong những ngày mùa đông lạnh cắt da cắt thịt, nhớ lại giây phút anh đã từng hứa với lòng mình nhất định sẽ mang lại hạnh phúc suốt đời cho cô.

Anh quay người , nhanh chóng khởi động xe. Nửa tiếng sau, cuối cùng anh cũng tìm thấy cô đang đợi tàu trở về quê. Anh giận dữ nói: “ Em muốn đi đâu? Anh làm việc mệt mỏi cả ngày, về đến nhà ,đến cơm nóng cũng không có mà ăn. Em làm vợ như vậy à? Về nhà với anh ngay” Anh trông rất hung dữ và thô lỗ. Đôi mắt cô ướt nhòe, cô đứng lên, ngoan ngoãn theo sau anh đi về nhà . Giọt nước mắt xen lẫn niềm vui …… Cô không biết rằng, lúc này đi trước cô, anh đang dằn lòng cố kìm nén những giọt nước mắt…

Suốt quãng đường từ nhà đến đây, anh thực sự rất sợ, sợ không tìm thấy cô, sợ từ đây sẽ mất cô mãi mãi. Anh tự trách mình sao lại ngu ngốc đến vậy, hóa ra đánh mất cô ấy cũng giống như anh đánh gãy xương sườn của mình…Hai mươi năm đồng cam cộng khổ, hai người đã buộc chặt cuộc đời mình vào nhau, mãi mãi không thể tách rời.

Tại thời điểm sai lầm, địa điểm sai lầm, chỉ cần gặp được đúng người, tất thảy mọi thứ đều sẽ đúng!

Giàu có thực sự không phải số tiền trong thẻ ngân hàng, mà là nụ cười hạnh phúc trên khuôn mặt bạn. Tiền nhiều hay ít không quan trọng, quan trọng là tìm được một người toàn tâm toàn ý yêu thương bạn.

Trên thế giới này , hạnh phúc nhất là 3 từ “ta yêu nhau”. Hiểu được bản thân mình muốn gì, thế giới mới có thể hiểu được bạn

Tàu đắm, chồng bỏ mặc vợ.

Tàu đắm, chồng bỏ mặc vợ.

Tàu đắm, chồng bỏ mặc vợ tìm cách thoát thân, người vợ nói một câu ai nghe cũng kinh ngạc. Người vợ trong câu chuyện này đã cố nói gì với chồng, trước khi tàu chìm xuống biển?

Lựa chọn của người chồng.

Một câu chuyện đang được chia sẻ rộng rãi trên ứng dụng Wechat của Trung Quốc. Nội dung câu chuyện như sau:

Có một chiếc tàu lớn đang trên đường chở du khách ra biển tham quan thì gặp nạn. Trên tàu đó có một cặp vợ chồng, khó khăn lắm họ mới đến gần được chiếc thuyền cứu sinh.

Nhưng tiếc thay, trên thuyền cứu sinh khi đó chỉ còn duy nhất một chỗ ngồi. Và không do dự quá lâu, người chồng quyết định đẩy vợ lại phía sau, còn mình nhảy xuống thuyền cứu sinh trở về đất liền.

Người vự đứng trên chiếc tàu lớn đang chìm dần, cố hết sức hét lên một câu…

Nói đến đây, thầy giáo dừng lại hỏi học sinh: “Các em đoán xem, người phụ nữ đã hét lên câu gì với chồng của cô ấy?”

Các nhóm học sinh tỏ ra khá bực tức, nhiều em đồng thanh trả lời: “Tôi hận anh, tôi có mắt mà như mù!”

Khi đó, thầy giáo chú ý đến một học sinh nãy giờ ngồi im không nói gì. Thầy liền nhắc lại câu hỏi với chính em học sinh đó và nhận được câu trả lời: “Thưa thầy, em nghĩ rằng người phụ nữ đó đã hét lên rằng: “Hãy chăm sóc con của chúng ta thật tốt!”

Thầy giáo kinh ngạc hỏi: “Em nghe câu chuyện này rồi phải không?”

Em học sinh lắc đầu: “Không ạ. Nhưng trước khi mẹ em bệnh nặng qua đời, đã nói với bố em như vậy ạ!”

Thầy giáo cảm động nói: “Đáp án chính xác.”

Chiếc thuyền chìm dần phía sau lưng, người đàn ông đem theo nỗi đau tột cùng trở về nhà, nuôi các con khôn lớn trưởng thành.

Nhiều năm sau, người đàn ông lâm bệnh qua đời. Con gái ông trong lúc sắp xếp lại di vật của bố, đã phát hiện cuốn nhật ký của ông.

Thì ra, khi bố và mẹ cô đi thuyền ra biển chơi, là lúc mẹ cô đã bệnh nặng không thể cứu chữa. Vào thời khắc sinh tử, bố cô đã quyết định chọn cơ hội sống sót cho mình.

Trong nhật ký, ông viết: “Tôi đã rất muốn cùng mình, cùng chìm xuống đáy biển, nhưng tôi không thể. Vì con gái, tôi chỉ có thể để mình một mình an giấc dài dưới đáy biển sâu.”

Thầy giáo kể xong câu chuyện, cả lớp học trầm lắng không một tiếng động. Thầy giáo biết các em học sinh có lẽ đều đã hiểu ý nghĩa của câu chuyện này, rằng:

Sự thiện, ác trên đời có nhiều khi thật phức tạp, khó có thể phân biệt rạch ròi. Vì thế, với mọi hiện tượng, chúng ta không nên chỉ nhìn vẻ ngoài, mà khinh suất trong việc phán xét người khác.

Cùng ngẫm

Người thích chủ động thanh toán tiền, không phải bởi vì họ nhiều tiền, mà bởi họ coi trọng tình bằng hữu hơn tiền bạc.

Người chủ động làm nhiều hơn trong công việc, không phải họ ngốc nghếch, mà họ sống với tinh thần trách nhiệm cao.

Người xin lỗi trước sau khi cãi nhau, không phải vì họ nhận ra họ sai, mà bởi họ hiểu cách trân trọng những người xung quanh mình.

Người tình nguyện giúp đỡ bạn, không phải họ nợ bạn, mà họ coi bạn là bạn thực sự.

Người thường xuyên nhắn tin thăm hỏi bạn, không phải họ rảnh không có việc gì làm, mà bởi trong lòng họ có bạn.

From: Xuan Nguyen  

CHẾT TRONG ĐỒN

Đỗ Cao Cường was with Đỗ Cường.

(Tôi viết là để tưởng nhớ những thân phận được mời lên đồn công an làm việc và bị chết một cách mờ ám …)

Trời mưa tầm tã, mưa thối đất thối cát, cứ thế này thì làm sao mà mang hàng đi bán được, bơ thối phân nửa rồi, mà không bán thì chỉ có nước chết đói, cứ cái đà này rồi sẽ phải ngủ ngoài đường, cuối tháng lão chủ trọ sẽ tống cổ mẹ con lão ra khỏi đây.

Tay chắp sau đít, mân mê điếu thuốc sắp tàn, lão hết ra lại vào, trong căn phòng vỏn vẹn chưa đầy 10m2, tiếng nước rơi lả tả trên mái tôn như có thằng nào rắc lựu đạn xuống, lão lẩm bẩm chửi một mình, nhưng chả có ai nghe, chửi thì cứ chửi, mà mưa thì vẫn cứ mưa.

Sấm kèm theo sét, giật đùng đùng vang cả một góc trời, hễ nghe thấy tiếng sấm là con Mác nhà lão lại chạy cong đít, nó rúc đầu vào gầm giường, đuôi nó vẫy vẫy, miệng nó rên ư ử, một số con ve chó rơi ra nền đất, bò lổm ngà lổm ngổm.

Mặc kệ, hắn phải đi, phố xá lúc này ngập ngụa với đủ thứ rác thải, băng vệ

sinh, xác chuột chết nổi trương phình.
– Việt ơi, ngoài đường còn ngập, mới hôm nọ cống sập có đứa rơi xuống chết, con ở nhà đi, thằng Nam ỉa đùn ra quần rồi.
– Không đi thì cuối tháng tất cả ra đường ở, bu cứ để mặc tôi!

Bà cụ Uột rơm rớm nước mắt, mặt cụ méo xệch đi. Ngay lúc này, cụ chỉ muốn chết quách đi cho xong, sắp chết rồi mà còn phải chứng kiến cảnh con, cháu mình lay lắt cực nhọc, sống thế này thì khổ quá.

Mà thử hỏi, có ai khổ bằng cái nhà cụ Uột không, cứ tưởng người xưa nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” là đúng. Nhưng đến nay đã là đời thứ 5 rồi mà vẫn còn nghèo, nhà cũng toàn người chịu cày, chịu cuốc, chứ có quậy làng quậy xóm gì cho cam.

Ngoài kia, sét vẫn đánh tưng bừng, mưa vẫn còn nặng hạt, thi thoảng lại nổ lên một thứ âm thanh rùng rợn, ánh sáng chiếu thẳng vào phòng trọ, nước cống, nước rác tràn theo, ngồi trên tấm phản tựa vai vào tường, tay quyệt nước mắt rồi cụ Uột nhớ về những ngày trẻ, những ngày còn sống ở quê nhà có mồ mả tổ tiên, đang yên đang lành thì người ta tới bắt vợ chồng cụ đi xa làm kinh tế mới, từ khi cái khu rừng chết tiệt này còn là nơi trú ngụ của bọn hổ, rắn, cáo, chồn, hết năm này qua năm khác, nhờ công đốt rừng làm nương rẫy, bỏ biết bao công sức, mồ hôi, chết lên chết xuống mấy lần mới có được quả đồi cà phê tươm tất. Ấy vậy mà đùng một cái, chả biết giải phóng, giải pháp cái con mẹ gì mà chính quyền thu luôn cả ruộng vườn, nhà cửa của cụ.

Gào mồm đi kêu cứu khắp nơi chẳng được, ông chồng còn bị bắt về tội gây rối làm mất trật tự an ninh, uất quá, ông đứng trước cổng Ủy ban tỉnh tự thiêu rồi lăn đùng ra chết, bà vợ đến nơi thấy chồng mình toàn thân cháy xạm, tóc tai quăn tít, khét lẹt, nhưng mắt chồng cụ thì vẫn mở thao láo.

Cụ Uột có mỗi thằng con trai, lấy được cô vợ thì cuối cùng vợ bỏ, đến giờ vẫn không có tăm hơi gì, ả đi bỏ lại đứa con tật nguyền, tức thằng cháu đích tôn của cụ, nó cứ nằm một chỗ, nằm để chờ chết.
Cuối cùng, ba bà cháu bồng bế, dắt díu nhau lên cái thành phố đông đúc, ô nhiễm này để bấu víu, cụ đi rửa bát trong quán phở, lão con lết ra ngoài vỉa hè đánh giày, bán hủ tiếu, bánh canh rồi giờ chuyển sang bán bơ sáp, bơ do lão nhập từ Đắk Lắk về.

Sau bao nhiêu năm, tưởng sẽ dành dụm được ít tiền, nào ngờ tiền thuốc điều trị cho thằng cháu giờ còn chả có, lại còn nghe đâu chỗ bán thuốc cho nó, ông chủ hiệu thuốc mới bị bắt vì tội nhập thuốc tây giả, thảo nào bệnh thằng cháu cụ ngày càng nặng thêm. Năm nay cụ Uột cũng đã 80 tuổi, lưng còng, mắt mỏi, chân què, thôi thì cứ ngồi chờ chết chứ còn biết làm sao.
Lão cũng đã ngoài 50, ngày trước còn tươi cười hớn hở lắm, nhưng mấy năm nay lão cứ lầm lầm lì lì, ai hỏi cũng không nói, chủ yếu là lắc với gật. Ngày hai bận, lão lại lôi rượu ra tu, không mồi, không bạn, lão ngồi tu một mình.
 

*  *  *

Vậy là cuối cùng lão cũng lết ra được vỉa hè, chỗ mà ban ngày lão đứng, tối phải nhường chỗ cho mấy cô nàng bán thân. Hôm nay là một ngày tồi tệ đối với lão, gần đến nơi thì lão và và nhiều trái bơ của lão lăn đùng ra, không biết cái thằng bỏ bà nào phóng xe như điên khiến sóng đường như sóng biển, làm cho chiếc xe đạp Phượng Hoàng bị nghiêng sang một bên, khiến nhiều trái bơ bị dập.

Lão tới nơi lúc 9 giờ 21 phút sáng, đến 4 giờ chiều mới bán được 5 ký, che miếng nilon nham nhở nên người ướt như chuột lột, trời vừa mới tạnh nhưng đường vẫn đang còn ngập, lão tính đứng một lúc nữa rồi dắt xe về thì tự nhiên một chiếc xe tải đỗ ngay trước mặt lão, hai thanh niên to khỏe, một người mặc sắc phục công an, một người mặc áo đen, đeo kính râm chạy đến, trên xe có một thằng cũng mặc sắc phục bụng phệ, nó quát:
– Đứa nào không làm luật thì cứ thu hết đồ cho tao.

Nghe xong, thằng mặc sắc phục nháy mắt ra hiệu cho thằng kính đen, cả hai thằng lao vào nhấc, khiêng bổng chiếc xe đạp của lão lên, lão giằng lại, thằng mặc sắc phục giả vờ ngã, vừa lăn qua lăn lại nó vừa hét:
– Chống người thi hành công vụ, bắt nó lại!

Lập tức, hai thằng ngồi trên xe tải chạy đến tiếp ứng, chúng túm tóc, quật ngã lão bán bơ nghèo khổ, một thằng bẻ tay lão ra sau, nước dãi từ miệng lão chảy xuống, xong chúng còng tay, ấn đầu và lôi lão đi, đến nơi chúng quẳng cả người, xe lên thùng xe tải, chỉ có mấy trái bơ dập là chúng bỏ lại. Lúc đó, cũng có rất nhiều người tò mò vây quanh, nhưng không một ai dám lên tiếng.

Khi trời đã tối sầm, nước trên đường rút hết mà không thấy con trai về, bà cụ Uột nóng ruột chạy ra chỗ lão đứng bán bơ, hỏi mãi mới được một người đàn ông vá xe di động, vừa rải đinh trên đường ông này vừa cho biết con cụ đã bị công an phường giải đi từ chiều rồi. Bà cụ Uột lại chống gậy lọ mọ lên đồn. Khi đến nơi thì người ta thông báo con cụ vừa mới chết xong, nguyên nhân là do lão lấy dao lam cắt cổ, tự tử trong đồn.

Vừa nghe thấy vậy, bà cụ Uột hoảng quá, tay run lẩy bẩy, rồi cụ khụy dần xuống, cụ nằm lăn ra nền nhà ẩm thấp, toàn thân giật giật, sùi bọt mép một lúc rồi cụ tắt thở, ngoài kia màn đêm buông xuống, những đèn điện cao áp sáng rực lên, tiếng còi xe inh ỏi cho thấy có rất nhiều người đang di chuyển, trên bầu trời thi thoảng có tiếng chim lợn kêu, như đang báo hiệu một mùa chết chóc lại bắt đầu.

MỘT VIỆC NHỎ THÔI

MỘT VIỆC NHỎ THÔI

Một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn đứa con nhỏ . Dịp hè họ cùng đi nghỉ mát ở một bãi biển . Bọn trẻ rất thích tắm biển và xây dựng những tòa lâu đài trên cát . Cha mẹ chúng thuê một cái lều ngồi uống nước trên bờ , dõi nhìn các con chơi đùa không quá xa ngoài kia phía trước mặt

Thế rồi họ trông thấy một bà cụ già nhỏ nhắn ăn mặc xuềnh xoàng , trên tay cầm một chiếc túi cũ đang tiến lại . Tóc bà đã bạc trắng , bị gió biển thổi tóc lên càng làm cho khuôn mặt nhăn nheo của bà thêm khó coi . Bà cụ đang lẩm bẩm một điều gì đó , dáo dác nhìn rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt những thứ gì đó trên bãi biển , bỏ vào cái túi

Hai vợ chồng không hẹn mà vội chạy ra gọi các con lại , căn dặn chúng phải tránh xa người đàn bà khả nghi kia . Dường như họ cố ý nói to cho bà ta nghe thấy để bà ta nên đi chỗ khác kiếm ăn

Cụ già không biết có nghe thấy gì không giữa tiếng sóng biển ì ầm , chỉ thấy bà cụ cứ từ từ tiến về phía họ . Thế rồi bà cụ dừng lại nhin mấy đứa trẻ dễ thương đang ngơ ngác nhìn mình . Bà mỉm cười với họ nhưng không ai đáp lại , chỉ gỉa vờ ngó lơ đi chỗ khác . Bà cụ lại lẳng lặng làm tiếp công việc khó hiểu của mình . Còn cả gia đình kia thì chẳng hứng thú tắm biển nữa , họ kéo nhau lên quán nước phía trên bờ biển

Trong lúc chuyện trò với người phục vụ bàn ăn cùng những khách hàng trong quán , hai vợ chồng quyết định hỏi thăm xem bà cụ khả nghi kia là ai và họ …. sững sờ . Bà cụ ấy là người dân ở đây , từng có một đứa cháu ngoại vì bán hàng rong trên bãi biển , vô tình đạp phải một mảnh chai rồi bị nhiễm trùng , sốt cao , đưa đi bệnh viện cấp cứu không kịp và đã chết không lâu vì bệnh uốn ván .

Từ dạo ấy , thương cháu đến ngẩn ngơ , bà cứ lặng lẽ đi dọc bãi biển , tìm nhặt những mảnh chai , mảnh sắt hoặc hòn đá có cạnh sắc. Mọi người hỏi lý do thì bà đáp mà đôi mắt ướt nhòe ( ồ tôi chỉ làm một việc nhỏ thôi ấy mà , để các cháu bé có thể vui chơi trên bãi biển mà không bao giờ bị chết như đứa cháu đáng thương của tôi )

Nghe xong câu chuyện , người chồng vội chạy ngay xuống bãi biển mong có thể nói một lời xin lỗi và một lời biết ơn chân thành , nhưng bà cụ đả đi rất xa rồi . Bóng bà chỉ còn là một chấm nhỏ trên bãi biển vắng người khi chiều đang xuống.

Đừng tưởng cứ nghèo là hèn 
Cứ sang là trọng , cứ tiền là xong

Đời người lúc thịnh , lúc suy ,
Lúc khỏe , lúc yếu , lúc đi , lúc dừng

Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay , muối mặn , xin đừng quên nhau

Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước , tình sâu , nghĩa bền

Đừng tưởng cứ đợi , là chờ
Cứ âm là nhạc , cứ thơ là vần

Khi vui đừng tưởng chỉ cười
Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than !!!.

AI ƠI NHỚ LẤY ĐỪNG QUÊN
( sưu tầm )

THẦY LƯƠNG

  Một bài viết thật vui. Trong nước hiện nay đang ầm lên về vụ sửa điểm thi tốt nghiệp của con em “các quan” và 1 số học sinh học dốt nhưng bố mẹ giầu có , bỏ tiền ra mua điểm. Bài viết này vui và có tính cách thời sự nữa.

 

THẦY LƯƠNG

Tôi bắt đầu được học tiếng Anh từ khi vào lớp 10, và thầy Lương là thầy giáo dạy tiếng Anh đầu tiên của tôi. Thầy Lương tốt nghiệp sư phạm khoa tiếng Pháp, do có người quen trong ban giám hiệu nên thầy được nhận về trường tôi. Nhưng trường tôi khi đó không có môn tiếng Pháp, chỉ có Anh và Nga, mà Anh thì biên chế hết rồi, không chen vào được nữa, nên thầy đành học cấp tốc một khóa tiếng Nga rồi vào trường làm giáo viên dạy Nga. Thật may cho thầy Lương là vài năm sau, một bà giáo viên tiếng Anh của trường tôi bị đi tù, nên thừa ra một suất biên chế tiếng Anh, thế là thầy Lương lại học cấp tốc một khóa tiếng Anh để chuyển sang làm giáo viên Anh. Thành ra, thầy Lương nói tiếng Anh nghe rất giống tiếng Nga, còn nói tiếng Nga thì lại như là tiếng Pháp…

Có lẽ vì thế mà hôm đầu tiên học từ mới, thầy không đọc mà viết phiên âm lên bảng rồi chỉ từng từ, chúng tôi ngồi dưới ngoan ngoãn đọc theo: “Ai là tôi, tôi là ai, họ là dây, chúng ta là ớt, say là nói, nói là say, hiếp là giúp, giết là kêu, trẻ con là cứt…”. Tôi đọc theo rất hăng, nhưng trong lòng lại có đôi chút thất vọng, bởi trước đó, tôi vẫn nghĩ tiếng Anh nó phải văn minh, lịch sự lắm, ai ngờ lại toàn hiếp với giết, lại còn coi trẻ con như cứt”.

Thầy Lương cũng dạy cho chúng tôi một số phương pháp học từ mới rất hay. Chẳng hạn như từ Security: thầy phiên âm nó thành Sờ-cu-rờ-ti. Ai hay sờ cu rờ ti? Chính là mấy bác bảo vệ đứng canh ở chợ, khi nghi ngờ ai đó ăn cắp đồ, bác sẽ sờ cu rờ ti khắp người để kiểm tra. Bởi thế, Security nghĩa là “bảo vệ”. Với từ “ant” – tức là “kiến” – thì thầy dặn chúng tôi hãy liên tưởng tới tên một quận của Hải Phòng: quận Kiến Ant. Liquid thầy phiên âm thành Ly-cứt, và thầy bảo chúng tôi liên tưởng tới bạn Ly – lớp phó lao động của lớp tôi, Ly bị tiêu chảy kinh niên, cứt thường xuyên ở dạng lỏng, bởi vậy, Liquid nghĩa là “chất lỏng”. Với từ December – thầy phiên âm thành “Đi xem bơi” – thầy kể là làng thầy có hội thi bơi diễn ra vào đúng tháng mười hai, bởi vậy, “Đi xem bơi” là “tháng mười hai”…

Lần ấy tôi đi thi tin học, phần soạn thảo văn bản, hì hục làm cả tiếng đồng hồ, lúc gần xong thì cái máy tính nó hiện lên cái câu hỏi tiếng Anh gì đó tôi không dịch được, chỉ biết là nó bắt tôi chọn giữa “Yes” và “No”. Tôi đang băn khoăn không biết phải chọn cái gì thì may quá, nhìn ra cửa sổ, tôi thấy thầy Lương đang đi về phía nhà vệ sinh. Tôi liền gọi giật thầy lại và nhờ thầy giúp xem là tôi nên chọn click vào đâu. Thầy bảo: “No, No”, rồi ôm bụng chạy thẳng vào nhà vệ sinh. Tôi nghe lời thầy, chọn “No”: thế là xong, toàn bộ bài của tôi mất sạch. Hoá ra, câu đó là máy tính nó hỏi tôi có muốn lưu lại nội dung tôi vừa làm hay không. Bị trượt môn tin, tôi bực quá, trách thầy, thì thầy bảo là lúc đó thầy đang đau bụng buồn ỉa, thầy bảo “No, No” tức là thầy đang vội, không giúp được đâu, chứ có phải là thầy nhắc đâu.

Rồi cả cái lần lớp tôi có đoàn cán bộ trên phòng giáo dục về dự giờ. Thầy Lương đặt một câu hỏi tiếng Anh đại ý là sau này lớn lên bạn mơ ước làm nghề gì. Câu này với tôi quá dễ, vì từ lâu, tôi đã rất ngưỡng mộ chú Tuấn – người giàu nhất làng tôi. Tất cả các quán ghi lô đề ở làng tôi đều là chi nhánh tay chân của chú Tuấn. Đánh bao nhiêu điểm, thậm chí cắm cả nhà, cả xe để đánh thì chú Tuấn cũng sẵn sàng ôm hết. Nói chung, chú Tuấn là một chủ đề rất có uy và được dân chơi trong và ngoài làng kính nể, nên không chỉ tôi mà rất nhiều đứa trẻ trong làng tôi đều ước mơ sau này lớn lên sẽ trở thành một chủ đề giống như chú.

Tôi giơ tay xung phong rồi đứng lên dõng dạc trả lời: “I want to be a topic”. Trả lời xong thì tôi thấy thầy Lương cũng như mấy cán bộ của phòng giáo dục mặt cứ nghệt ra như ngỗng đực, chắc là không hiểu gì. Tôi lại phải giải thích cặn kẽ rằng “topic” là chủ đề – một nghề nhàn hạ, nhanh giàu, và rất được nể trọng. Thầy Lương cùng các cán bộ nghe xong thì vỗ tay rào rào, khen tôi đặt câu hay quá. Tôi được cho điểm 10, còn lớp tôi tiết ấy được cho giờ Tốt.

Hồi ấy tôi cũng biết là muốn nói tiếng Anh tốt thì phải chịu khó thực hành với Tây, nhưng quê tôi thóc lúa, lợn gà nhiều, chứ Tây thì bới đâu ra? Ấy thế mà hôm ấy, khi lớp tôi đang lao động dọn cỏ trước cổng trường thì tự nhiên có hai thằng Tây lạc đường tiến lại gần hỏi thăm gì đó. Nhìn thấy Tây, mắt tôi sáng lên như một thằng cuồng dâm bị nhốt trong cũi sắt lâu năm vừa được thả ra và thả đúng vào căn phòng có Ngọc Trinh đang tắm. Tôi lao đến đứng trước mặt hai thằng Tây, rồi phọt ra một tràng tiếng Anh với giọng đầy tự tin. Tôi nói xong, hai thằng Tây nhìn nhau lắc đầu hoang mang. Cũng may, lúc ấy thầy Lương xuất hiện, thầy bắt tay hai thằng Tây, rồi nói câu gì đó rất dài. Đúng là thầy nói có khác, hai thằng Tây không còn hoang mang nữa mà chúng nhăn mặt, cau mày lại, xong lắc đầu vẻ ngán ngẩm rồi bỏ đi. Trước khi đi, chúng còn lẩm bẩm câu gì đó tôi không hiểu, vì chỉ nghe được hai từ là “shit” với “fucking” gì đó…

Tôi hỏi thầy là sao mình nói mà bọn Tây nó không hiểu vậy, thì thầy ân cần giảng giải: “Tiếng Anh nó cũng giống tiếng Việt mình vậy: Tiếng Việt có giọng Bắc, giọng Nam, giọng Nghệ An, Quảng Bình, giọng của đồng bào dân tộc Khơ Me miền núi. Cùng là người Việt nhưng em nghe mấy bà con Khơ Me nói em có hiểu gì không? Thì mấy thằng Tây ấy cũng vậy: chúng nó nói tiếng Tây, nhưng là Tây thuộc dân tộc thiểu số miền núi, còn chúng ta nói tiếng Tây phổ thông, chúng nó không hiểu là đúng”.

Năm ấy thi tốt nghiệp, trường tôi có 114 bạn bị trượt – trong đó có tôi, và lý do trượt hầu hết là bị điểm liệt môn tiếng Anh của thầy Lương. Thầy Lương buồn lắm, ôm chúng tôi, bảo: “Thầy có một ước mơ cháy bỏng đó là có thể sửa điểm tốt nghiệp để cho 114 em đỗ sạch”. Sau năm ấy, thầy bị cho nghỉ việc. Từ đó, chúng tôi không biết thầy đi đâu, và cũng không nhận được tin tức gì về thầy nữa…

Cho đến hôm nay, khi đọc báo nghe tin có ông Lương nào đó đã sửa điểm tốt nghiệp cho 114 học sinh thì chúng tôi mới giật mình sững sờ. Thầy ơi, liệu có phải đó là thầy không? Thầy đã luồn lách và leo lên được chức vụ cao như vậy sao? Chúng em rất tự hào và xin chúc mừng vì thầy đã thực hiện được mơ ước cháy bỏng năm nào!

Võ Tòng Đánh Mèo
P/s: Bảng điểm sau khi chấm lại của các “nhân tài” Hà Giang: Cột bên phải là điểm công bố, cột bên trái là điểm sau khi thanh tra, rà soát lại.

No automatic alt text available.
Bản Tin An Ninh

ĐÂY: 
Điểm thực của 16 thí sinh đều là con nhà lãnh đạo, có tiền. Mục đích chạy vào các trường công an, quân đội.

Thông cảm, tha thứ ắt được phước báo

Thông cảm, tha thứ ắt được phước báo

Vào thời nhà Minh, có vị đại thần tên là Hạ Nguyên Cát. Hôm nọ, ông ta thấy một viên quan do bất cẩn làm mực bắn vào tờ thánh chỉ của vua. Hạ Nguyên Cát biết anh ta quá sợ tội nên có thể tự sát, liền vội an ủi: “Anh đừng quá sợ hãi, tôi sẽ nghĩ cách giúp anh.”

Hôm sau, Hạ Nguyên Cát vào triều tâu rằng: “Muôn tâu Thánh thượng, hạ thần sơ ý đã làm bẩn thánh chỉ, tội thần thật đáng chết.”

Hoàng thượng cười và nói: “Vậy ta phạt khanh chép lại một lần.”

Về sau, Hoàng thượng biết được sự tình, khen ông ta là người biết thông cảm, tha thứ cho thuộc hạ. Không bao lâu, Hạ Nguyên Cát lại được thăng làm Hữu thừa tướng. Thật là có lòng tốt cứu người ắt được phước báo.

Làm một người chủ, một người có quyền, nếu thường xuyên quan tâm giúp đỡ những kẻ thuộc hạ, biết dùng các phương tiện để khoan dung và tha thứ cho những lỗi lầm của họ thì vị ấy tất sẽ được mọi người kính mến, dầu có gặp việc xấu cũng sẽ được hoá giải trở nên an lành. Đó chính là nhờ phước đức mà họ đã tạo vậy.

LÀM THIỆN THÌ CON CHÁU ĐƯỢC HƯỞNG

Vào thời nhà Minh, tại huyện Duyên Bình tỉnh Phúc Kiến có một thương nhân họ Chúc lên Nhiễm, là người rất thành đạt trên đường kinh doanh và rất rộng lượng. Hễ người nào gặp phải khó khăn, cực khổ là ông la tận tuỵ giúp đỡ. 

Có những năm mất mùa, người dân rơi vào tình trạng cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thế là ông ta liền bỏ tiền của ra để cứu giúp mọi người. 

Một năm nọ, trong khi con trai ông ta lên kinh dự thi thì ở nhà những người hàng xóm đều nằm mộng thấy cậu ta đỗ trạng nguyên. Và quả đúng như điềm mộng của mọi người, về sau con trai ông ta đã đỗ trạng nguyên. Do vậy ai ai cũng đều cho rằng: Người có lòng tốt chắc chắn sẽ có phước báo.

Ông Chúc Nhiễm cả đời dùng đức để làm thiện, con ông lại được thi đỗ trạng nguyên. Thế mới biết, người làm thiện được hưởng phước báo chẳng phải là chuyện hoang đường vậy.

NGƯỜI NHẪN NHỤC SẼ ĐƯỢC TRƯỜNG THỌ.

Huyện Chuẩn An tỉnh Giang Tô có một người họ Cường tên Phú. Ông ta là một người hiền từ nhân hậu, đối đãi với mọi người rất ư độ lượng khoan dung.

Năm nọ, vào đêm giao thừa, bỗng ngoài cửa có một người lớn tiếng chửi mắng ông ta. Gia nhân thấy vậy rất tức giận toan mở cửa ra đánh nhưng ông ta ngăn lại và dạy rằng: “Do mừng năm mới, anh ta quá chén nên không tự chủ được bản thân. Vì vậy anh ta chưởi mắng người khác là chuyện bình thường, các ngươi không nên tranh cãi làm gì.”

Mặc dầu nghe theo lời dạy của chủ nhưng bọn gia nhân vẫn thấy tức giận và bất bình. 

Ngay đêm hôm đó, ông Cường Phú nằm mộng thấy một vị thần đến trước mặt mình khen rằng: “Giao thừa là đêm quan trọng mà ngươi nhẫn được việc người khác khó có thể nhẫn. Vì thế trên trời rất tán dương, đặc biệt ban thêm phước thọ cho ngươi.” 

Ông Cường Phú nhờ thường thực hành hạnh nhẫn nhục, biết khiêm nhường trong mọi việc, tuy trước mắt thấy bị thiệt thòi, song trên thực tế thì được lợi vô cùng. Về sau, ông ta hưởng tuổi thọ rất cao và con cháu cũng được giàu có. Đây thật là phước báo của người có hạnh nhẫn nhục vậy.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Một Câu Chuyện Rất Ngắn, Nhưng Lại Là Một Bài Học Giá Trị Cho Triệu Người

Một Câu Chuyện Rất Ngắn,

 Nhưng Lại Là Một Bài Học Giá Trị Cho Triệu Người

Trên thế gian này, chỉ có cha mẹ mới toàn tâm toàn ý yêu thương ta mà không đòi hỏi gì. Vì con, họ có thể làm tất cả mà không cần báo đáp. Nhưng liệu chúng ta mấy ai ý thức được điều đó, hay chỉ nhận ra khi mọi chuyện đã quá muộn màng.

Tôi lên giường ngủ lúc 11 giờ khuya, bên ngoài trời đang có tuyết rơi. Tôi co ro rúc vào trong chăn, cầm chiếc đồng hồ báo thức lên xem thì phát hiện nó đã ngừng hoạt động từ lúc nào, tôi đã quên không mua pin cho nó.

Bên ngoài trời lạnh như thế, tôi quả thực không muốn phải ngồi dậy, liền gọi điện thoại cho mẹ: “Mẹ ơi, đồng hồ báo thức của con hết pin rồi, ngày mai con có cuộc họp công ty, khoảng 6 giờ mẹ gọi điện đánh thức con dậy nhé!”.
Mẹ ở đầu dây bên kia giọng như đang ngái ngủ, nói: “Được rồi, mẹ biết rồi!”.

Sáng hôm sau, điện thoại báo thức vang lên trong lúc tôi còn đang mộng đẹp. Ở đầu dây bên kia, mẹ nói: “Con gái mau dậy đi, hôm nay con còn có cuộc họp đấy”.
Tôi mở mắt nhìn đồng hồ, mới có 5h40, liền cảm thấy khó chịu mà cằn nhằn mẹ: “Chẳng phải con nói 6 giờ mới gọi con dậy sao? Con còn muốn ngủ thêm một lát nữa, lại bị mẹ làm phiền rồi”.
Mẹ ở đầu dây bên kia lặng im không nói gì, tôi cũng cúp điện thoại…i
Tôi ngồi dậy rửa mặt, chải đầu rồi ra khỏi nhà. Thời tiết thật lạnh, khắp nơi toàn là tuyết, trời đất chỉ một màu.

Tại ga xe bus tôi không ngừng dậm chân cho đỡ lạnh, trời vẫn còn tối đen như mực, đứng bên cạnh tôi là hai ông bà lão tóc bạc trắng.
Tôi nghe ông lão nói với bà: “Bà xem xem, cả đêm ngủ không yên giấc, mới sáng sớm đã thúc tôi dậy rồi, nên giờ mới phải chờ lâu như thế”.

Năm phút sau, cuối cùng xe bus cũng đã tới. Tôi vội bước lên xe, tài xế là một người thanh niên còn rất trẻ, anh ta chờ tôi lên xe rồi vội vã lái xe đi.
Tôi nói: “Khoan đã! Anh tài xế, phía dưới còn có hai ông bà lão nữa, thời tiết lạnh như thế mà họ đã đợi từ rất lâu rồi, sao anh không chờ họ lên xe mà đã đi rồi?”.
Anh ta ngoảnh đầu lại, cười nói: “Không sao đâu, đó là cha mẹ của tôi đó. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi lái xe bus, nên họ đến xem tôi đấy”.
Tôi đột nhiên rơi lệ, nhìn lại dòng tin nhắn của cha tôi: “Con gái, mẹ của con cả đêm ngủ không được, mới sáng sớm đã tỉnh dậy, bà ấy lo con sẽ muộn giờ”…

-***-

Người Do Thái có một câu ngạn ngữ: “Lúc cha mẹ cho con thứ gì, con đều nở nụ cười; lúc con cái cho cha mẹ thứ gì, cha mẹ khóc”. Cả đời này, người có thể làm cho chúng ta mọi thứ mà không cầu báo đáp chỉ có cha mẹ, vậy nên, dù thế nào cũng đừng phàn nàn họ, hãy thông cảm cho họ, quan tâm tới họ.
Hãy trân trọng từng phút giây bên cha mẹ, bởi không ai biết được khi nào họ sẽ rời xa ta mãi mãi. Khi cha mẹ còn hãy luôn nở nụ cười, hãy luôn quan tâm chăm sóc tới họ, đừng để cha mẹ mỏi mắt ngóng trông mà không nhìn thấy hình bóng của bạn.

Khi bạn cất tiếng khóc chào đời, chỉ có cha mẹ là người hạnh phúc nâng niu bạn trong vòng tay, cũng chỉ có cha mẹ là người ngày đêm bỉm sữa, chăm sóc bạn từng miếng ăn giấc ngủ.

Khi bạn chập chững bước đi, chỉ có cha mẹ là người nắm lấy đôi bàn tay nhỏ bé, dìu dắt bạn đi những bước đầu đời.

Khi bạn đau ốm, chỉ có cha mẹ là người mất ăn mất ngủ, ngày đêm túc trực bên giường bệnh. Vì bạn, dẫu phải bán đi khối tài sản cuối cùng trong tay, họ vẫn sẵn sàng.

Khi bạn gặp khó khăn trắc trở, hay khi cả thế giới đều quay lưng với bạn, thì cha mẹ vẫn luôn ở bên che chở bạn, vỗ về bạn. Thời gian có thể làm lòng người thay đổi, nhưng vĩnh viễn không thể thay đổi tình yêu cha mẹ dành cho bạn.

Nhưng nếu một ngày cha mẹ buộc phải ra đi, họ sẽ không thể báo trước cho bạn một lời nào, không thể tiếp tục gọi tên bạn, cũng không thể cùng bạn ăn cơm và quan tâm tới bạn được nữa…

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn báo hiếu mà cha mẹ đâu còn? Giá như ta đã có thể bớt xem một bộ phim, bớt chơi một ván cờ, bớt đi dạo cùng bạn bè, để dành thời gian ở bên cha mẹ, ta sẽ cảm thấy bản thân đỡ ân hận phần nào!

Bởi vậy, nhân lúc cha mẹ còn đang khỏe mạnh, hãy an ủi tinh thần cho họ, hãy dành nhiều thời gian hơn để bên cạnh họ, cố gắng đáp ứng hết nguyện vọng của họ, đừng khiến cho bản thân sau này phải hối hận.

Hãy yêu thương cha mẹ như yêu thương chính bản thân mình, bởi vì họ cũng cần được yêu thương… Và nếu có một ngày thực sự họ rời đi, chúng ta sẽ không phải ngậm ngùi về những tháng ngày đã qua…
 

Tuệ Tâm biên dịch

From TU PHUNG

 Người mẹ độc ác và cô gái mất tích 25 năm.

CHUYỆN KINH HOÀNG THỜI QUÝ TỘC PHONG KIẾN TẠI ÂU CHÂU

 Người mẹ độc ác và cô gái mất tích 25 năm.

Mời đọc, she wants to marry the man that her mother hates!!! –  

Tiểu thư xinh đẹp mất tích bí ẩn suốt 25 năm, một bức thư nặc danh đã tố cáo sự thật khiến cả nước Pháp chấn động.

Khi bạn nghe đến câu chuyện bi kịch của nàng tiểu thư đài các của nước Pháp dưới đây, bạn có thể không tin nổi sự ngăn cản tình yêu mù quáng của phụ huynh có lúc lại khắc nghiệt và dã man đến mức như vậy.

Blanche Monnier là một nàng tiểu thư với vẻ ngoài xinh đẹp diễm lệ ở thế kỷ 19. Nàng cùng gia đình quyền quý của mình sống tại Poitiers, Pháp, chỉ cách Paris 4 giờ chạy xe.

Tưởng rằng cuộc sống của một cô tiểu thư danh giá giàu có sẽ ngập tràn trong nhung lụa, sung sướng hưởng phước cả đời nhưng ngờ đâu chỉ vì tình yêu, Blanche đã phải trả giá một cách kinh khủng trong địa ngục trần gian.

Vụ biến mất kỳ lạ của tiểu thư Blanche khiến nhiều người rất ngạc nhiên.

Ở độ tuổi 25, nàng Blanche đã phải lòng một chàng luật sư nghèo. Cặp tình nhân yêu nhau một cách say đắm nhưng rất nhanh chóng, mẹ Blanche, bà Louise Monnier đã phát hiện ra và phản đối kịch liệt mối tình này.

Cho rằng anh luật sư quá nghèo hèn chẳng “môn đăng hộ đối” kia làm sao xứng với thân phận cao sang của Blanche, bà Louise dùng hết mọi cách để ngăn cản họ gặp nhau.

Dĩ nhiên, mọi nỗ lực của người mẹ đều không thành công, Blanche vẫn luôn kiên định với tình yêu mình chọn lựa.

Đến năm 1876, Blanche đột nhiên mất tích không dấu vết. Ngay cả bạn bè thân thiết hay chàng luật sư cũng không một ai hay tin cô đã đi đâu.

Mẹ và anh trai Blanche rất đau khổ vật vã suốt một khoảng thời gian sau khi cô mất tích và rồi họ cũng phải tập làm quen dần với sự thật đó. Bẵng đi nhiều năm, người ta cũng không còn nhắc đến Blanche nữa.

Sự mất tích của cô tiểu thư nhà giàu đã trở thành một bí ẩn không lời giải đáp, cho đến năm 1901, Tổng chưởng lý tại Paris bỗng nhận được một bức thư viết tay kỳ lạ. Bức thư nặc danh đã tố cáo một sự thật kinh khủng.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bức thư nặc danh tố cáo sự việc gửi đến ngài Tổng chưởng lý.

“Gửi ngài Tổng chưởng lý, tôi xin thông báo đến ngài một sự việc khủng khiếp. Có một phụ nữ không chồng bị giam trong nhà của Madame Monnier. Suốt 25 năm qua, cô ta đã sống vật vờ như bóng ma, đói khát và bẩn thỉu trên đống rác rưởi và chất thải của chính mình”.

Bức thư tố cáo đã khiến cho lực lượng cảnh sát hoang mang, bởi không ai có thể tin được phu nhân quyền quý nhà Monnier lại có thể làm điều kinh khủng như vậy.

Từ xưa đến nay, bà Louise vẫn luôn là một người được nể trọng ở Paris, bà thuộc tầng lớp quý tộc và từng được trao rất nhiều giải thưởng vì sự đóng góp không mệt mỏi đối với cộng đồng.

Đội cảnh sát được cử đến kiểm tra nhà Monnier đã bị gia đình họ đuổi đi. Tuy nhiên các nhân viên cảnh sát rất quyết liệt, dùng sức đẩy cửa xông vào nhà. Họ lùng sục khắp ngôi nhà và phát hiện ra một căn phòng nhỏ xíu bốc mùi hôi khủng khiếp trên tầng 2.

Khi phá cửa mở ra, cảnh sát gần như phát nôn bởi mùi xú uế nồng nặc tỏa từ căn phòng ẩm thấp và tối đen như mực ấy.

Giữa đống rác thải ngổn ngang, họ kinh hoàng nhìn thấy một người phụ nữ gầy trơ xương lấm lem không một mảnh vải che thân nằm trên chiếc đệm mục nát. Không ai khác, đó chính là Blanche.

Không ai ngờ, Blanche bị giam giữ trong căn phòng tối ẩm thấp và bẩn thỉu suốt 25 năm.

“Xung quanh cô Blanche là bao bọc bởi chất thải, thức ăn đã thối mốc. Chúng tôi còn nhìn thấy những mảnh vỏ hàu, và sâu bọ bò lổm ngổm trên giường của cô ta.

Không khí đặc quyện không thở nổi và mùi hôi thối trong phòng kinh khủng đến mức chúng tôi không thể ở lâu hơn được nữa để điều tra”, một viên cảnh sát có mặt tại căn phòng thuật lại.

25 năm trời, Blanche chẳng hề mất tích đi đâu cả, mà bị giam giữ bởi mẹ và anh trai ngay trong chính ngôi nhà của mình.

Ở căn phòng tối ngộp bé xíu không có lấy một ô cửa sổ, Blanche không được tiếp xúc với ai ngoài mẹ, anh trai và người giúp việc thỉnh thoảng đến vứt cho cô ít đồ ăn thừa.

Blanche thậm chí còn không được mặc quần áo, không được tắm rửa. Họ giam giữ Blanche với yêu cầu cô phải từ bỏ tình yêu của mình thì mới được thả ra, thế nhưng cho đến năm 1885, người yêu của cô chết đi, Blanche vẫn tiếp tục bị giam cầm trong ngục tối.

Hơn hai thập kỷ, người con gái tội nghiệp ấy chỉ nằm một chỗ, ăn ngủ hay đi vệ sinh cũng là ở trên giường. Địa ngục trần gian tối tăm ấy chẳng cần có thêm chút bạo lực nào cũng đủ biến bông hoa xinh đẹp một thời trở nên suy kiệt cả về thể chất lẫn tinh thần.

Dần dà Blanche đã trở thành một người điên. Khi được giải cứu và đưa đến bệnh viện, Blanche chỉ nặng vỏn vẹn 24 ký, gần như không thể nói chuyện và rất sợ hãi ánh mặt trời – thứ mà cô đã không được nhìn thấy 25 năm qua.

Câu chuyện của Blanche phủ sóng khắp mặt báo cũng như trở thành đề tài cho nhiều cuốn sách, các bộ phim tài liệu.

Lời khai của bà Louise và con trai với cảnh sát nói rằng Blanche bị điên loạn, tâm thần không ổn định nên thường hay la hét giận dữ. Tuy vậy khi cảnh sát tiếp xúc với Blanche, họ lại thấy cô khá điềm tĩnh, thậm chí còn tỏ vẻ rất vui khi được đi tắm.

Bà Louise sau khi bị bắt thì 15 ngày sau đã lên cơn đau tim và qua đời. Có người nói bà chết là bởi vì cảm thấy quá tội lỗi và hối hận vì những điều kinh khủng mình gây ra cho con gái.

Trong cuốn sách The Sequestered Woman of Poitiers: An Unprecedented Affair viết về cuộc đời của Blanche có ghi rằng, mẹ của cô trước khi chết, đã thay đổi di chúc, để lại toàn bộ gia sản cho con gái thừa kế.

Về phần anh trai của Blanche sau khi đưa ra tòa xét xử phải nhận mức án 15 tháng tù giam. Sau đó hắn đã kháng án với lý do là mẹ hắn là người nắm quyền trong gia đình và hắn đã cố hết sức giúp đỡ em gái nhưng không thành, cũng không có bất cứ hành vi bạo lực nào với em gái.

Cuối cùng phiên tòa xử cho hắn vô tội. Đây là một quyết định làm cho công chúng phẫn nộ.

Blanche mãi mãi không thể chữa lành tổn thương về tinh thần.

Sau một thời gian điều trị trong bệnh viện, Blanche dần hồi phục lại sức khỏe, lấy lại một chút cân nặng và có thể nói được một vài từ. Tuy vậy những tổn thương về tinh thần trong nhiều năm trời khiến cho Blanche không bao giờ có thể trở thành người bình thường được nữa.

Cô được đưa đến sống tại viện điều dưỡng ở Bois và trải qua 12 năm yên bình trước khi từ giã cõi đời vào năm 1913.

theo Helino

Ông và cháu trên con đường ngược chiều

Ông và cháu trên con đường ngược chiều

Nguyễn Thị Thêm

Cuối tháng này là sinh nhật cháu tôi. Đứa cháu trai duy nhất trong gia đình. Đứa cháu nội mà tôi thương nhất. Chẳng phải tôi thiên vị vì nó là con trai hay là vì nó là cháu nội. Mà vì nó ở quá xa. Nó lớn lên từng ngày không có tôi bên cạnh. Nhiều khi nhớ quá muốn ôm nó vào lòng mà hai tay trống rỗng. Muốn đi thăm nó thì ông chồng già chẳng biết bỏ cho ai. Thằng con trai cứ năn nỉ, “Má ơi! Qua đây một chuyến. Con sẽ đem má đi khắp Âu Châu cho biết với người ta.” Tôi cười cầu tài nói cho con yên lòng. Nhìn ông chồng đau yếu mà thương. Thôi đành thúc thủ.

Tôi đã có viết một bài về “Hai Ông Cháu” khi cháu tôi mới vài tháng tuổi. Bây giờ còn một tuần nữa cháu tôi sinh nhật lần thứ hai.

Tôi nhìn chồng mình càng ngày càng yếu để thấy sự đào thải của thời gian và thân phận của kiếp con người.

Ngày xưa, lúc cháu được vài tháng tuổi, mỗi lần đi đâu con dâu đem một giỏ tã, sữa cho con, còn bà nội cũng lè kè một túi cho chồng. Mỗi khi cần vào phòng vệ sinh thay tã, bà nội lại nhờ con dâu xem chừng phòng nữ có vắng hay không rồi đem chồng vào làm vệ sinh. Xong xuôi cháu cũng sạch mà ông cũng sạch.

Bây giờ cháu đã bỏ tã, nó mặc quần lót đàng hoàng. Lần đầu tiên bỏ tã, trên webcam con trai bảo nó kéo quần xuống cho nội xem. Nó mừng rỡ chỉ cái quần lót hình Superman bí bô khoe. Bà nội chẳng hiểu cháu nói gì, chỉ cười cười. Thương quá đổi!

Còn ông nội, ngày xưa chỉ mang tã lúc đi đâu hay những lúc cần. Bây giờ ông phải mang tã cả ngày vì ông cũng không biết lúc nào mình cần giải quyết. Những ngày quan trọng cần thiết, bà nội mang khẩu trang, đeo găng tay làm y tá giải quyết những cục nợ đời hôi tanh mà ông không có sức rặn ra. Những ngày đó tã thay không biết bao nhiêu cái.

Bây giờ cháu đã biết đâu là phòng vệ sinh để vào, còn ông thì phòng vệ sinh ngay trước mặt cũng không biết mà vô, bà nội nắm tay ông lôi vào và làm từ A tới Z.

Cháu bây giờ đã biết bắt ghế đứng lên tự đánh răng. Còn ông nội thì bà nội phải đưa ly vào miệng cho ông từng ngụm nước. Bỏ kem vào bàn chải và giúp ông đánh răng. Xong lau mặt, lau tay đưa ông ra khỏi phòng.

Kết luận bây giờ, hai năm sau cháu đã vượt qua mặt ông cái vù về phương diện vệ sinh cá nhân.

Vấn đề ăn thì sao? Cháu bây giờ đã biết ngồi ăn chững chạc dù mẹ phải đút, bởi không đút là cháu ham chơi ăn không no. Cháu tự múc ăn khi nào đó là ăn chơi hay cháu thật đói. Còn ông thì bây giờ hoàn toàn không chủ động. Đút gì ông ăn đó, ăn xong thỉnh thoảng càm ràm bà nội, “Sao từ qua tới nay không cho tui ăn.”

Cháu bây giờ rất gọn gàng không cần khăn, còn ông nội thì phải một cái khăn lót ở dưới để hứng thức ăn rơi. Một cái khăn nhỏ ở trên để lau miệng.

Do đó về phương diện ăn uống cháu tiến bộ hơn ông.

Ngày xưa cháu đi tắm phải có cái thau riêng , cháu nằm trong đó cho mẹ kỳ cọ. Bây giờ cháu có thể đứng trong bathtub cho cha, mẹ thoa xà bông và xịt nước ấm. Còn ông nội giờ này cũng tệ như xưa. Càng tệ hơn sau khi xong xuôi, bà nội bảo giơ chân lên để mặc tã, ông cũng đứng im. Những giọt nước miếng cứ nhểu lòng thòng rơi trên đầu bà nội. Khi bà vỗ vỗ vào chân ông, nói, “Chân này nè ông, giơ chân lên!” thì ông mới giơ chân lên. Có hôm ông giật mình kéo mạnh chân tống vào càm bà nội bầm một cục.

Ờ mà còn cái vụ nhểu nữa chứ. Cháu bi giờ ngon lành hơn ông nhiều. Cháu hết nhểu, đẹp trai ra, biết nhận diện đâu là mắt, mũi, miệng. Còn ông nội thì càng ngày tốc độ nhểu càng trầm trọng. Không có thuốc men hay phương pháp gì chận lại. Bà nội dùng kim gút gài một cái khăn bên áo để bà nội chùi cho ông để khỏi chạy đi tìm. Ông không thích cái khăn lòng thòng nên giựt tét cả áo, đứt kim băng. Bà nội phải mặc ngoài một cái áo che lại. Khi cần bà lôi khăn ra lau, xong nhét lại. Thế nhưng nước miếng ông vẫn nhểu dài theo nền nhà theo mỗi bước chân đi. Bà nội lúc nào cũng chuẩn bị khăn lau nhà. Thỉnh thoảng bà lại đạp khăn dưới chân xóa đi dấu vết cho đỡ trơn trợt và cũng để mấy đứa cháu ngoại khỏi gớm.

Cháu nội hôm nay đã có bạn, biết các trò chơi và tung tăng như chim sáo. Còn ông thì càng ngày càng quên, càng lẩm cẩm. Mỗi khi đi đâu bà nội nắm tay ông tình tứ như một cặp tình nhân. Nhưng thực ra là giữ ông cho khỏi đi lạc. Ông rất thích tự do. Ờ mà tự do ai không thích. Nhưng tự do trong trật tự. Thế nhưng ông nội nào biết trật tự là gì. Buông tay ông ra là ông đi, không cần biết điểm đến và đi đâu. Bà nội lạc ông mấy lần nên sợ lắm. Bà giữ tay ông trong bàn tay già yếu nhăn nheo. Thế nhưng đôi khi ông gặp một người không quen , ông vẫn nhào tới nói không ra lời hay lôi bà nội chạy theo họ. Ông la, “Bạn tui, bạn tui.” Bà nội biết tẩy của ông nên ngọt ngào dụ dỗ, ”Biết rồi! Họ ra xe đợi mình đó. Đi chợ xong mình sẽ gặp,” có vậy ông mới chịu nghe lời và đi theo bà.

Cháu nội bây giờ đã biết nghe lời cha mẹ. Mỗi khi làm điều gì sai, mẹ cháu bắt xin lỗi, nhận được gì cháu biết cám ơn. Cháu đã bắt đầu học để nhận biết đúng, sai. Còn ông nội tháng ngày trôi qua ông nội càng mù mịt đúng sai. Cái gì ông muốn là ông làm, ông không muốn thì đừng hòng ép. Khi cần ông đứng lại thì ông đi. Khi muốn ông đi thì ông đứng yên một chỗ. Kéo ghì không nhúc nhích. Năn nỉ một hồi ông mới chịu cho kéo đi. Khi cần ông nói thì ông làm thinh hoặc tiếng không thoát ra ngoài , chỉ lầu bầu, lịch phịch theo nước miếng. Nhưng khi ông nói chuyện với những gì ông thích hay bạn bè ảo tưởng của ông thì ông nói ra tiếng, mạnh mẽ và đầy sức sống.

Cho nên hai ông cháu đã đi ngược chiều với nhau không còn giống nhau như xưa.

Mỗi khi vào Webcam nói chuyện, cháu chỉ trên màn ảnh “Bà nọi, bà nọi. My bà nọi.” Còn ông chỉ nhìn cháu như nhìn một cái gì lờ mờ không quen biết. Cặp mắt lơ đảng, ánh nhìn tỉnh khô, môi xệ xuống, nước miếng lòng thòng chảy ra.

Tuy nhiên hai ông cháu cũng có điểm na ná giống nhau là dỗi hờn.

Khi cháu dỗi cháu lăn xuống đất nằm đạp lòng còng. Cha, mẹ cháu kêu đứng dậy và bảo xin lỗi, nếu không sẽ phạt time out.

Còn ông nội, ông hay hờn mát. Mỗi khi như vậy ông bỏ đi nằm và bỏ ăn .

Cả nhà năn nỉ, dụ ngọt cả buổi trời ông mới ngồi dây ăn uống.

Chỉ hai năm thôi, hai năm trôi qua cho tôi thấy một lực hút cuốn mọi người xoay chóng mặt. Đứa cháu ngày nào mới biết lật giờ đã là một cậu bé dễ thương tinh nghịch, ngây thơ. Cháu đang học mọi thứ để tập sự những ngày bước vào trường mầm non.

Còn ông thì mòn hết mọi thứ để đi vào con số không của cuộc đời. Ông như một cây đã cạn hết nhựa. Sống trong một trạng thái mơ hồ và làm theo quán tính của mình.

Người lính của tôi giờ đây già thật rồi. Giả sử chàng không bệnh như hiện nay thì theo thời đại Internet, chàng của tui cũng quậy chẳng thua ai. Chàng sẽ có biết bao nhiêu bạn bè, đồng đội thật để mà hẹn nhau tán gẫu, bàn chuyện cà phê cà pháo, chuyện trên trời dưới đất, chuyện nước nhà, chuyện thế giới, chuyện chân dài, chân ngắn, chuyện cơm, chuyện phở. Lúc đó tôi chỉ là bóng mờ bên cuộc đời đầy màu sắc của chàng.

Ông trời đã cho chàng sống sót sau bao nhiêu năm tù tội gian lao. Đã cho chàng cùng tôi sang đây để xây lại một mái gia đình hạnh phúc. Và bây giờ đã cho chàng ở bên tôi hàng ngày, hàng giờ như tôi đã từng ước mơ, cầu nguyện.

Ông trời đã đùa với tôi. Ổng háy một bên mắt và cười, “Con ạ! Con xin gì ta đã cho con điều đó. Con ước nguyện có chồng một bên không rời xa dù cực khổ bao nhiêu con cũng chịu. Cảm thương con ta cho con toại nguyện. Ta cho nó bên con không rời xa nửa bước. Chúc con hạnh phúc.”

Và thế, tôi ôm lấy niềm hạnh phúc ơn trên ban cho tôi và giữ lấy nó bằng cả trái tim.

Trái tim của một người phụ nữ Việt Nam yêu chồng.

Nguyễn Thị Thêm

http://www.viendongdaily.com/ ong-va-chau-tre n-con-duong- nguoc-chieu-Yvm 0HYH3.html


From: Do Tan Hung& Nguyen KimBang

Tình Nghĩa vợ chồng 

Tình Nghĩa vợ chồng

Anh ta từ một kỹ sư xây dựng mới chân ướt chân ráo bước ra khỏi cánh cổng trường đại học và sau đó xây dựng đội ngũ kỹ thuật của riêng mình.
Bây giờ, đã trở thành ông chủ một công ty xây dựng có tiếng tăm trong thành phố.
Bên cạnh anh có quá nhiều cám dỗ.

Trong khi đó, vợ anh ngày càng xấu đi, thân hình trở nên xồ xề, da dẻ cũng không hồng hào, mịn màng như trước. So với vô vàn kiều nữ bên cạnh anh, vợ anh thật quê mùa, ảm đạm. Sự hiện diện của vợ nhắc nhở quá khứ tầm thường, thấp kém của anh.
Anh nghĩ cuộc hôn nhân này nên chấm dứt ở đây.

Anh gửi vào tài khoản của vợ 500 triệu, mua cho cô một ngôi nhà ở trung tâm thành phố nhộn nhịp. Anh không phải người đàn ông vô lương tâm. Vì vậy, nếu như không sắp xếp cuộc sống ổn thỏa cho vợ anh sau này, anh sẽ cảm thấy vô cùng tội lỗi…
Cuối cùng, anh chủ động đề nghị ly hôn.

Vợ anh ngồi đối diện, trầm tư nghe anh giải thích lý do ly hôn. Đôi mắt ấy rất đỗi dịu dàng. Nhưng 20 năm làm vợ chồng, anh quá hiểu rõ về cô, đằng sau đôi mắt hiền dịu ấy, anh biết rằng trái tim cô đang rỉ máu.
Anh chợt nhận ra mình thật tàn nhẫn.

Ngày vợ anh đồng ý rời khỏi nhà. Công ty phải giải quyết một vài vấn đề, anh bảo cô đợi ở nhà, trưa về anh sẽ giúp cô chuyển nhà, chuyển đến căn hộ chung cư anh mua cho. Đồng nghĩa với việc cuộc hôn nhân kéo dài 20 năm sẽ kết thúc tại đây.
Buổi sáng ngồi trong phòng làm việc, anh bồn chồn, thấp thỏm.

Đến trưa, anh vội vã về nhà.
Căn nhà được dọn dẹp sạch sẽ, vợ anh đã đi mất rồi. Trên bàn đặt chiếc chìa khóa nhà anh mua cho cô, sổ tiết kiệm 500 triệu đồng và một bức thư cô viết cho anh.
Đây là bức thư đầu tiên mà cô viết cho anh:

“Em đi đây, em về nhà mẹ. Chăn em giặt phơi khô rồi đấy, cất ở ngăn cuối cùng bên trái tủ quần áo. Trời lạnh anh nhớ lấy ra đắp. Giày da tất cả em đều đánh xi rồi nhé, nếu anh không tự mình đánh được thì mang đến tiệm ông Tư đầu ngõ ấy. Sơ mi treo ở phía trên, vớ, thắt lưng ở trong ngăn kéo phía dưới tủ. Mua gạo nhớ mua gạo tám thơm của Thái Lan, anh nhớ vào siêu thị mua nhé, mua bên ngoài anh không thạo người ta bán hàng giả cho đấy. Dì Hai mỗi tuần đều đến dọn dẹp nhà cửa một lần, cuối tháng anh nhớ gửi tiền cho dì ấy. Còn nữa, đồ cũ cứ cho ông Tư đầu ngõ nhé, ông ấy gửi về quê cho bọn trẻ con, chắc chúng nó sẽ vui lắm.

Dạ dày anh không tốt, em đi rồi anh nhớ uống thuốc đều đặn. Thuốc em nhờ người ta mùa từ Quảng Bình, có lẽ cũng đủ dùng nửa năm. Anh ra ngoài thường quên mang theo chìa khóa nhà, em gửi một chùm ở chỗ bảo vệ, lần sau nếu quên thì đến đấy lấy nhé. Buổi sáng đi ra ngoài anh nhớ đóng cửa sổ, mưa tạt vào sẽ làm ướt nhà đấy. Canh cá lóc – món mà anh thích em để ở trong tủ lạnh. Anh về nhớ hâm lại rồi hãy ăn nhé.
Gửi anh, người em yêu nhất ”

Những dòng chữ xiêu vẹo nhưng tại sao nó cứ như những viên đạn bắn vào trái tim anh, mỗi viên đều mang theo tấm chân tình xuyên thẳng vào ngực – đau nhói.
Anh từ từ đi vào nhà bếp.
Mỗi đồ vật ở đây đều lưu giữ dấu tay, hơi thở của cô.

Anh chợt nhớ về 20 năm trước, anh làm ở công trường xây dựng dầm mưa dãi nắng. Những ngày tháng bần hàn của cuộc đời đều có cô bên cạnh. Nhớ lại bát canh cá lóc nóng hổi đã sưởi ấm trái tim anh trong những ngày mùa đông lạnh cắt da cắt thịt, nhớ lại giây phút anh đã từng hứa với lòng mình nhất định sẽ mang lại hạnh phúc suốt đời cho cô.

Anh quay người, nhanh chóng khởi động xe.
Nửa tiếng sau, cuối cùng anh cũng tìm thấy cô đang đợi tàu trở về quê.
Anh giận dữ nói:
“Em muốn đi đâu? Anh làm việc mệt mỏi cả ngày, về đến nhà, đến cơm nóng cũng không có mà ăn. Em làm vợ như vậy à? Về nhà với anh ngay.
Anh trông rất hung dữ và thô lỗ!

Đôi mắt cô ướt nhòe, cô đứng lên, ngoan ngoãn theo sau anh đi về nhà. Giọt nước mắt xen lẫn niềm vui ……
Cô không biết rằng, lúc này đi trước cô, anh đang dằn lòng cố kìm nén những giọt nước mắt …
Suốt quãng đường từ nhà đến đây, anh thực sự rất sợ, sợ không tìm thấy cô, sợ từ đây sẽ mất cô mãi mãi.

Anh tự trách mình sao lại ngu ngốc đến vậy, hóa ra đánh mất cô ấy cũng giống như anh đánh gãy xương sườn của mình…
Hai mươi năm đồng cam cộng khổ, hai người đã buộc chặt cuộc đời mình vào nhau, mãi mãi không thể tách rời.
Tại thời điểm sai lầm, địa điểm sai lầm, chỉ cần gặp được đúng người, tất thảy mọi thứ đều sẽ đúng.

Giàu có thực sự không phải số tiền trong thẻ ngân hàng, mà là nụ cười hạnh phúc trên khuôn mặt bạn.
Tiền nhiều hay ít không quan trọng,quan trọng là tìm được một người toàn tâm toàn ý yêu thương bạn.
Trên thế giới này, hạnh phúc nhất là 3 từ “ ta yêu nhau”.
Hiểu được bản thân mình muốn gì, thế giới mới có thể hiểu được bạn.

ST

http://tanhbietn hiemmau. blogspot.nl/2015/07/tinh- nghia-vo-chong.html

 From: Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang

ÔNG ĐẠI TÁ SAY

No automatic alt text available.
Diep Nong is with Chi Văn.

Ông Đại tá Say

Cứ vào tháng 6 và tháng 7 của mỗi năm, DN thật bùi ngùi, nhớ lại người chú từ Cao Bằng vào “Giải phóng miền Nam” năm 1975. Chú đã cưu mang, cứu giúp bao nhiêu bà con và gia đình của DN thoát cảnh mất nhà, những ức hiếp, đày đọa của thời tranh tối tranh sáng ấy.
Để tưởng nhớ lại người chú Cộng Sản có một không hai này, DN xin mời các bạn đọc lại bài ÔNG ĐẠI TÁ SAY, hay “Ông Đại Tá ở Cao Bằng, chú tôi!” dưới bút hiệu Kim Chi
Như một nén hương, cháu DN đây kính cẩn cầu nguyện hương hồn của chú được an lạc ở một nơi không súng đạn, chém giết…, không tệ nạn, phỉnh lừa…, không duyệt xét lý lịch hay kiểm điểm…, Thế giới tự do đầy hạnh phúc ấy mới là cỏi vĩnh hằng, thiên đàng cho chú tôi yên giấc nghìn thu…

DN

ÔNG ĐẠI TÁ SAY (tức Ông Đại tá ở Cao Bằng, Chú tôi!)

Kim Chi

Ba tôi một mình lạc vào trong Nam làm việc từ năm 1948. Tất cả dòng họ bà con, đại tộc bên nội lúc ấy đều sống ở miền Bắc. Đến 1954, khi hiệp định Genève ký chia đôi đất nước, ba tôi mua vé tàu tất tả chạy ngược ra Bắc để níu kéo gia đình nhưng không kịp nữa vì dòng họ nội đều ở Cao Bằng, quá xa Hà Nội, không có đủ phương tiện để đi và về kịp… Ba đành phải đau khổ lên tàu quay về lại Sài Gòn…

Thế là bắt đầu từ đấy, ba tôi quay quắt nhớ cha mẹ, nhớ đàn em tám đứa hãy còn nheo nhóc, nhớ núi, đồi, làng xóm…

Khi vào Nam làm việc cho Pháp, cũng có vài bác cùng quê ở Cao Bằng, cùng học và ra trường với ba tôi chung Khoá Một Quốc Gia Hành Chánh, khoá đầu tiên của Pháp đào tạo, và cũng vào Nam làm việc như ba tôi. Ba và các bác chơi rất thân thiết với nhau. Khi gặp nhau, ba và các bác hay phì phèo điếu xì-gà, nói chuyện với nhau bằng tiếng Tày, là ngôn ngữ của sắc dân Tày ở Cao Bằng. Khi ấy, tôi loáng thoáng, mơ hồ đoán ba tôi có những nỗi niềm mà chỉ có các bác mới chia sẻ được với ba… Đến khi biến cố 1975 ập đến, chúng tôi mới biết chúng tôi còn có một… ông anh cùng cha khác mẹ sống bao nhiêu lâu nay ở Cao Bằng, thiếu hoàn toàn hơi ấm với những săn sóc, thương yêu của người cha mà chúng tôi ở SG đã được hưởng trọn vẹn…

Ba và cả má của tôi lúc ấy đang là công chức trong Tòa Hành Chánh ở Bình Dương. Tháng 6/75, như bao công chức khác, ba tôi được lệnh phải đi học tập MỘT tháng để biết “đường lối của nhà nước mới”. Chúng tôi, cũng như tất cả người miền Nam lúc ấy, đã ngây thơ soạn cho ba chỉ vỏn vẹn một ba lô gồm ít quần áo, vật dụng cá nhân, một cái chiếu với cái gối bằng gỗ bọc da màu đỏ đã đi theo ba tôi cả cuộc đời của ông.

(Má của tôi sau đó cũng bị đi học tập, nhưng chỉ học tại BD sáng đi chiều về trong ba tháng!)

Trước ngày ba đi học tập một ngày, trưa ấy chỉ có tôi và má tôi ở nhà để lo thức ăn cho ba ngày mai sáng lên đường. Bỗng có tiếng chuông reo. Ôi! Tiếng chuông như đã bị quên lãng sau cái ngày tang thương 30/04/75, chẳng ai dám thăm viếng ai cả, nhất là những gia đình Mỹ Nguỵ như gia đình của tôi, họ đều ngó lơ đi khi chạm mặt chúng tôi ngoài đường…

Tôi nhìn ra cổng, thấy anh bạn học cùng trường với chị Hai của tôi, có mái tóc quăn tít, đi với một người cán bộ Việt Cộng. Cả hai cùng mang dép râu, cùng kẹp nách đầy sổ sách giấy tờ…

Tôi và má tôi đoán rằng họ muốn bổ túc giấy tờ trước khi ba đi học tập, nên tôi đã ra mở cổng…

Nhưng không phải như chúng tôi đoán! Cái người bạn học của chị tôi là… điềm chỉ viên cho tên cán bộ, đến nhà chúng tôi để… kiểm kê và tịch biên nhà !

Họ ghi xuống tất cả những gì đang có trong nhà của chúng tôi. Từ chiếc ghế đẩu, đến cái… chuồng gà…; từ cái nồi cơm điện, bộ ấm trà, đến các… toilet bowls! Cuối cùng, trước khi ra về, họ đã bắt má tôi ký vào. Trong tờ kiểm kê dài cả chục trang giấy này, họ bảo rằng vì ba và má của tôi đã làm việc cho Mỹ Ngụy tức là thuộc thành phần phản động, vì chị Hai của tôi làm việc cho…C.I.A, một thành phần “cực kỳ nguy hiểm”! (Chị tôi đang du học môn… Kinh Doanh và Kế Toán tại Nhật mà cái tên bạn học của chị tôi đã cố tình chụp mũ gia đình tôi!), vì các cậu, các dì, và chánh yếu là vì ông anh rễ của má tôi là một Tổng Trưởng của guồng máy Tổng Thống Thiệu đến ngày 29/04/1975 nên chúng tôi có… quá nhiều tội với nhân dân, phải… trả nợ lại cho nhân dân! Và, cái câu quan trọng, khủng khiếp nhất trong văn bản này là: “Phải ra khỏi nhà trong vòng một tháng mà không được đem theo những thứ đã liệt kê!” Có nghĩa là phải để lại hết tất cả của cải vật chất đã oằn lưng dành dụm cả đời để cho bọn họ chia chát, rồi ra đi với hai bàn tay trắng!

Ba tôi đi “trình diện học tập” ngày hôm sau với cõi lòng tan nát. Không biết rồi gia đình sẽ dọn đi đâu? Không biết rồi vợ con mình sẽ làm sao mà sống? Nhìn ba tôi rưng rưng lệ, bước chân thiểu não mà tôi thật đau lòng. Phải chi họ đến kiểm kê trễ hơn một ngày, chỉ một ngày thôi, thì có lẽ ba tôi đi … “học” mà không đau khổ và lo lắng như vậy.

Các cậu, các dì, các bà con của má tôi cũng đi học tập khắp các trại cải tạo hẻo lánh, đều bị kiểm kê, đều bị lấy nhà, khổ không thua gì chúng tôi… Gia đình năm người của chị Hai Ng., (con của dì Ba tôi) vì lên tàu ra sông Sài Gòn ngày 30/4/75, đã bị đạn bắn theo. Chiếc tàu Hải Quân chở các sỹ quan viên chức cao cấp cùng gia đình đi chuyến di tản cuối cùng đã nổ và cháy tan tành, nhấn chìm những đứa con VN da vàng, những tương lai và tuổi trẻ xuống dòng nước oan khiêng, tanh tưởi mùi máu của gia đình chị Hai Ng. Các cháu của tôi, từ hai đến tám tuổi, chưa kịp lớn để hiểu chiến tranh là gì, miệng hãy còn ngậm nắm vú, tay hãy còn ôm con búp bê có đau không khi những mảnh đạn xé nát thân thể của các em? Đã thế, họ còn hăm hở đến tịch thu nhà và tiệm bán đồ dùng điện tử của chị Hai Ng. Một tên cán bộ có gò má hóp cao, mắt thâm quầng, tím đen như bị ai đấm, cầm cái máy cạo râu lên ngắm nghía, rồi áp vào tai nghe ngóng… Hắn ngờ nghệch hỏi chúng tôi:

– “Này, có phải đây là cái… đài không?”

Tôi cảm thấy thương hại cho sự khù khờ, quê mùa của hắn quá. Thời ấy, cái máy cạo râu hơi to và thô thiển, nhưng không thể nào nhầm với cái “đài” được.. Chúng tôi chỉ xin nhặt lại các quyển albums hình của gia đình chị Hai Ng. mà thôi. Đứng lật và xem sơ hình các cháu cùng anh chị Hai tươi cười rất hạnh phúc trong các albums, chúng tôi nghẹn ngào, không cầm được nước mắt. Nâng những quyển albums hình lên như chúng tôi đang nâng thân thể lạnh lẻo của các cháu bé bỏng thơ ngây lên. Một đám tang của gia đình năm người, không có lấy một quan tài, không kèn trống, không nhang khói, không bóng người đưa tiển….

Sáng hôm sau, tôi chở ba tôi đi xuống một trường trung học công lập để tập trung và điểm danh. Có đông người lắm… Tôi cố gắng tìm xem các bác làm việc trong Toà Hành Chánh tỉnh của ba má tôi ai còn ai mất. Tôi mừng thầm cho… sự vắng mặt của các người ấy. Họ thật là may mắn hơn chúng tôi… Sau vài giờ chờ đợi và điểm danh, họ chất những khuôn mặt ủ dột, buồn bả lẫn lo âu của những người chiến bại lên xe cam nhông, chở các quân nhân, công chức đi mà không cho biết là đi đâu cả! Thật tâm tôi lúc ấy chỉ muốn chạy cái xe Honda theo đoàn cam nhông kia, để biết họ sẽ đem ba tôi đi đâu…

Ba tôi đi được hơn mười ngày, má tôi chạy đôn chạy đáo lên xuống Sài Gòn, Cai Lậy, Biên Hòa, Bình Dương.. để năn nỉ bà con xa gần cho ở nhờ. Cho đến hôm ấy, vẫn chưa biết chúng tôi sẽ dọn đi đâu ở! Và má tôi cũng phải chạy đôn chạy đáo để bán nữ trang (để có tiền đi chợ!) mà má tôi nhanh tay dấu kịp…Thời ấy, vàng vòng bán không ai muốn mua cả… Nếu mua thì họ mua với giá rẻ mạt…

Hôm ấy, tôi và má tôi đang ở nhà tém dẹp đồ đạc. Ngoài cổng lại có tiếng chuông! Từ trong cửa sổ nhà nhìn ra, tôi thấy có một chiếc xe jeep đậu ngay trước cổng. Có hai người bộ đội đang đứng chờ mở cửa. Một người trẻ, một người trung niên, dáng dấp to lớn. Trên cổ áo của cả hai người loáng thoáng những sao vàng và huân chương đầy tràn trên ngực, lại còn dắt súng lục bên hông nữa! Tôi nấp vào trong nhà, người tôi run lên… Tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực…

Tôi đoán họ đến lấy nhà sớm hơn ngày ghi trên giấy tờ! Tôi khẽ bảo má tôi hãy trốn vào trong! Mặc cho họ bấm chuông liên tục, tôi và má tôi cuống quít trong nhà như những con gà đang tìm ổ, chạy vội lên lầu, rồi lại quýnh quáng chạy ngược xuống lầu… Má tôi rưng-rức khóc, không biết phải giấu cái gì vào người, phải làm sao với hai ông tướng tá bộ đội ngoài kia… Còn tôi thì sững sờ và chết điếng cả người khi nghĩ rằng phải giao nhà cho họ ngay bây giờ… Tôi rùng mình hình dung ngay cảnh tượng gia đình anh chị em tôi sẽ chui rúc dưới một gầm cầu nào đó để sống tối nay… Phản xạ, tôi vơ vội một bộ đồ rồi mặc chồng vào, để nếu ra khỏi nhà thì tôi cũng có thêm một bộ quần áo…

Có lẽ vì thấy thấp thoáng bóng chúng tôi ở trong, người bộ đội dáng dấp to lớn mới nói thật to vọng vào trong nhà bằng giọng Bắc Cao Bằng như của ba tôi:

– Chị ơi! Em là em họ của anh Ch. đây! Em ở Cao Bằng vào Nam tìm anh đây. Chị ơi, em là người nhà ngoài Bắc vào đây, chị mở cửa đi nào… Em là người nhà đây chị ạ…

Tôi và má tôi nhìn nhau… Nghe thật là… lạ lùng quá, lạ… tai quá! Chúng tôi chưa bao giờ biết đến bất cứ một người thân nào ở bên nội. Chưa nghe! Chưa thấy! Chưa biết bao giờ… Ôi! Ngạc nhiên quá, lạ quá….

Tôi đi từ từ lại cửa sổ để lén nhìn kỹ họ lần nữa. Trên cổ áo của họ có rất nhiều sao vàng lấp lánh, nhưng cả hai có vẻ rất thân thiện. Má tôi hỏi từ trong nhà ra vài câu rồi mới bảo tôi mở cửa cổng.

Người trẻ tuổi tên Thuỵ, có chức vụ quân đội là trung uý (hai sao). Còn người to lớn, đấy là em rể họ của ba tôi. Chú tên là Phan Ninh.

*

Chú Phan Ninh cao lớn, phải trên 1 mét 75, da dẻ trắng và hồng hào như người Dalat. Trên ngực áo của chú đeo dày đặc huân chương. Cổ áo của chú gắn hai gạch với ba ngôi sao. Lần đầu tiên sau ngày 30 tháng 4, tôi mới được thấy một người bộ đội đeo nhiều… sao như thế! Và cũng là lần đầu tiên, tôi được thấy một người bộ đội cao lớn, trắng trẻo, đẹp trai, phương phi, dáng dấp như Tây Phương chứ không… quê mùa, đen đủi, răng hô mã tấu như những bộ đội mang dép râu lúc ấy!

Thật là vô cùng thú vị khi nghe câu chuyện của chú kể nhờ đâu mà chú tìm được chúng tôi…

Sau khi tốt nghiệp đại học, chú đăng ký đi bộ đội để… giải phóng miền Nam! Chú rời Cao Bằng cả hơn sáu tháng nay để vào “Giải Phóng miền Nam”. Khi rời Cao Bằng, cả dòng họ đại tộc đã đặt hết tất cả hy vọng vào chú. Bằng đủ mọi cách, chú phải tìm cho ra người cháu, người anh Cả, người bác, người chồng và người cha đã mất tông tích mấy chục năm qua!

Chú kể, chú nằm dưới hầm hố ngay trong… tỉnh BD đã ba tháng trời trước ngày 30/4! Sau đó, chú lên chức Đại tá. Nhưng vì chưa tìm được tông tích của ba tôi nên chú không thể về Cao Bằng.

Mà làm cách nào để tìm ba tôi đây? Biết mặt mũi ba tôi thế nào! Biết ba tôi ở đâu mà tìm! Biết bắt đầu tìm từ đâu!

Chú cùng Thuỵ, người cận vệ của chú, hay đi ăn phở Pasteur ở Saigon. Một hôm, trong quán phở đông đúc, đa số là dân Sài Gòn, nên chú và Thuỵ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tày..

Chú băn khuăn tâm tình với Thuỵ:

– Công tác GPMN đã xong rồi. Nhưng còn công tác tìm anh Ch. thì chưa xong, nên ta không thể về quê bây giờ được. Cả cái miền Nam rộng lớn thế này, biết đi đâu mà tìm anh Ch. bây giờ?! Ngay cả nếu anh Ch. ở Sài Gòn này, cũng không biết làm cách nào mà tìm anh đây?! Chưa thể về Bắc được, khi chưa tìm được anh Ch….

Ngồi ở cái bàn sát bên chú Linh là bác Cược. Bác Cược là bạn thân nhất của ba tôi cũng là người Tày ở Cao Bằng. Bác cùng học Quốc Gia Hành Chánh, cùng rời Cao Bằng và cùng vào Nam chung với ba tôi. Nhưng bác lại làm việc cho Tòa Lảnh sự Pháp trực thuộc chính phủ Pháp nên bác không bị đi học tập. Tất cả bạn của ba đều cùng số phận như ba tôi, ngoại trừ có một mình bác Cược!

Bác Cược lắng nghe hai người bộ đội bàn kế bên nói chuyện với nhau bằng tiếng Tày. Và bác quyết định bắt chuyện ngay với hai người bộ đội cũng bằng tiếng Tày:

– Hai anh có phải đi tìm anh Ch. người quê Hà Quãng, Cao Bằng đấy không? Anh ấy có tám người em tất cả, có bố làm Chánh Tổng ở… mẹ tên là….., có cậu em Út tên là… Các em gái tên là….

Chú Ninh cùng Thuỵ và cả bác Cược đập bàn reo ầm lên, vô cùng mừng rỡ. Thế là nhờ vào cái tiệm phở, nhờ vào câu chuyện bằng tiếng Tày, nhờ bác Cược không đi học tập, và nhất định là phải có bàn tay của trời đất ơn trên sắp xếp cho gia đình tôi gặp được một đại ân nhân, chú Phan Ninh, người đã cứu và cưu mang chúng tôi rất nhiều…

Sau khi kể sơ chuyện gia đình ngoài Bắc, và hỏi thăm tình hình gia đình chúng tôi trong Nam. Chú Phan Ninh ngỏ ý muốn đi tìm thăm ba tôi ngay lập tức, để chú có thể giúp ba được gì chăng? Chú đã chở má tôi cùng Trị, (em trai Út của tôi), đi tìm ba tôi ngay trưa hôm đó. Chú đi hỏi hết tất cả các cơ quan công an đến các cơ quan hành chánh để biết ba tôi đang ở trại học tập nào. Họ đã dời ba tôi ra, vào nhiều trại. Và bấy giờ thì ba đang ở trại tù Long Khánh. Vì quá bất ngờ, nên má tôi chỉ kịp ngừng xe dọc đường mua cho ba tôi ít chôm chôm và hộp sữa Ông Thọ mà thôi!

Khi đến trại Long Khánh khoảng hai giờ trưa, chú Phan Ninh đã vào văn phòng của thủ trưởng trại cải tạo nói chuyện. Chỉ mươi phút sau, loa phóng thanh gọi tên ba tôi ra ngoài cổng, bảo rằng có người cần gặp. Tất cả các trại cải tạo thời điểm ấy, chưa có ai được gặp người nhà bên ngoài, mà thân nhân bên ngoài cũng chưa có ai được vào thăm nuôi người nhà đang học tập cả.. Cho nên, khi ba tôi được tên cán bộ dẫn ra, ba đã đứng khựng lại, sững sờ, gần như muốn ngất xỉu khi thấy má tôi và Trị bị hai tên… tướng tá bộ đội kè sát!

Ba tôi lúc ấy đã nghĩ bọn họ bắt luôn cả má và em trai Út tôi vào học tập chung! Từ xa, ba thiểu não bước về hướng cổng trại tù, những bước chân lê lết… Đôi mắt trũng sâu, đôi lông mày đen thật rậm ngày xưa của ba đổi thành màu bạc trắng, quần áo mặc rộng thùng thình như mặc đồ khính… Chỉ mới mười mấy ngày trong tù thôi mà ba tôi tiều tụy thấy rõ…

Chú Phan Ninh đoán được nỗi lo sợ của ba tôi. Chú dùng tiếng Tày nói trấn an ba tôi ngay:

– Em là em họ của anh đây. Em từ Cao Bằng vào tìm anh. Anh yên tâm, chị và gia đình không sao cả. Anh đừng sợ, có em vào Nam lo cho anh và các cháu…

Họ cho thăm ba tôi độ nửa tiếng. Chú Ninh cố gắng xen vào ít câu tiếng Tày để dạy ba cách khai lý lịch như thế nào, nên khai cái gì và không nên khai cái gì… Ba tôi kể cho chú biết rằng ba phải khai lý lịch… mỗi ngày! Phải kể hết tất cả tên tuổi những người bà con xa gần, họ làm gì, ở đâu… Nếu khai không rõ điều gì là họ bắt lên tra khảo mãi tới đêm khuya! Và cho đến hôm ấy, ba vẫn còn đang viết lý lịch vì họ… chưa vừa lòng!

Thế là chú điện báo tin ngay cho ngoài Bắc biết đã tìm được ba tôi rồi. Cả họ hàng ngoài Bắc vô cùng mừng rỡ, mọi người chuyền tin cho nhau, cả dòng họ lẫn xóm làng vui hơn cả ngày Tết.

Và việc cần kíp phải làm là làm sao giữ lại được căn nhà đang gần ngày phải dọn ra! Chú rất thông minh. Chú nói má tôi viết một tờ giấy bán nhà cho… chú! Cái ngày má tôi “bán” nhà là cái ngày trước ngày của hai tên cán bộ đến kiểm kê!

Sau đó, chú cùng Thuỵ, người cận vệ của chú, cả hai cùng nai nịt súng ống, đeo huân chương đầy tràn trên ngực, cầm tờ giấy “mua bán nhà “đi thẳng lên UBND tỉnh BD. Ông đại tá Phan Ninh để tờ giấy mua bán nhà trên bàn của tên cán bộ tỉnh ủy rồi gằn giọng:

– “Đây là nhà của tôi, tôi đã mua trước rồi. Ai muốn lấy nhà này cứ đến tìm tôi nói chuyện. Có ai thắc mắc gì không?!”

Không ai “thắc mắc” cả! Và chúng tôi ở yên ổn trong căn nhà luôn 15 năm trời, cho đến ngày đi ra khỏi VN. Chú cũng chở các dì của tôi đi các trại học tập để thăm nuôi chồng. Người thì bị học tập ở miền Trung, người thì miền Tây,… Phải đi ghe xuồng, băng rừng, phải ngủ tạm trên xe hơi ban đêm mới đến được những nơi khỉ ho gà gáy ấy. Nếu không có chú xông xáo vào từng ty Công An để hỏi cho ra tông tích của các dượng, các cậu, thì có lẽ các cậu các dượng đã bỏ xác trong trại rồi. Ban ngày, những kẻ chiến bại này phải khai phá rừng. Ban đêm thì làm kiểm điểm và nghe họ o ép hài tội Mỹ Ngụy! Họ nhục mạ những kẻ chiến bại trong trạng thái bần cùng khánh kiệt. Họ cũng không cần phải đánh đập gì cả, chỉ… bỏ đói thôi! Đói lắm, không có gì để ăn hết, phải ăn cả… giun dế ngoài đồng, phải ăn sống khoai mót khoai sùng… Rừng thiêng nước độc, rất nhiều người bị bệnh sốt rét rừng, kiết lỵ và chết vùi xác vì không có đến một viên thuốc, hay là chết vì đói, chết gục ngay trên luống khoai chính mình đã trồng.

Thời ấy, tranh tối tranh sáng, nhiều xã trưởng, ấp trưởng, chỉ là bọn vô lại mới lên… Chú dắt chúng tôi đi “chơi” khắp mọi nơi để họ không còn ức hiếp chúng tôi nữa. Mỗi lần từ Sài Gòn lên Bình Dương thăm chúng tôi, chú cứ đi rễu rễu ngoài đường, gặp ai chú cũng “vui vẻ” bắt chuyện không sót một người. Chú không quên tự giới thiệu là chú RUỘT của chúng tôi!

Gia đình tôi có một miếng đất trống khoảng nữa mẫu ở Gò Đậu, cách nhà chúng tôi chừng hai cây số. Chúng tôi phải xuống đó trồng khoai lang và đậu phộng để bán, sinh sống tạm thời như bao gia đình quân nhân công chức phải làm thời ấy, và cũng để hàng xóm nhìn vào thấy chúng tôi đã giống… nông dân lắm rồi! Anh em chúng tôi đã cật lực cuốc cỏ lột cả da tay, bật cả máu để hiểu thật sâu sắc… “lao động là vinh quang”! Chúng tôi trồng đậu phộng, khoai lang từ sáng sớm, đến chiều tối mịt mới về nhà. Ngôi nhà có vườn hoa đẹp nổi tiếng của khu phố ngày xưa đã gần như mất hẳn dấu tích, má tôi bảo tôi phải chặt bỏ hết các bụi hoa nở quanh năm, chỉ còn thấy chăng là cuốc, xẽng nằm la liệt chung với mớ khoai, đậu ngỗn ngang trên sân xi-măng, nhìn thảm thương không thua gì chủ nhân của nó…

Cái tên chăn trâu ở cạnh đấy biết gia đình tôi là người của chế độ cũ bị đi học tập, nên mỗi ngày sau khi chúng tôi về, nó nhổ ăn cắp từ từ những cái cọc hàng rào bằng sắt để… bán lấy tiền. Hắn nhổ đều đặn, nhổ mỗi ngày hầu như công khai mà má tôi chẳng biết kêu gào với ai đây?! Chẳng những thế, rào kẽm gai cũng mất từ từ…

Chú Phan Ninh đến nói chuyện bâng quơ với hắn:

– Này! Anh để ý hộ cháu và chị tôi nhá. Thấy đứa nào nhổ cọc với ăn trộm hàng rào thì báo cho tôi biết, tôi bắn bỏ mẹ cả nhà nó… nát óc, chết tươi ngay….

Từ đấy, tuyệt nhiên không bị mất cọc với hàng rào nữa…

Chú Phan Ninh là chỗ dựa của chúng tôi thời ấy. Chú vạch rõ đường đi cho chúng tôi. Chú chở tôi đi xin học, lăn xả đi tìm việc làm. Tôi nhớ, khi công ty Shell cần tuyển người, chú từ Sài Gòn chạy xe jeep về Bình Dương, và chở tôi vội vàng đi ngược về Saigon nộp lý lịch để xin việc. Hởi ôi, người đông như kiến, không có cách chi mà chen vào chỉ để nộp cái đơn thôi. Chú Ninh bèn vẹt mọi người ra, đẩy tôi đến ngay trước cái bàn nhận đơn. Rồi chú đứng cung tay ra, không cho ai xô đẩy, chen lấn tôi cả. Đợi mãi cả tiếng đồng hồ, họ gọi tên tôi lên để.. trả đơn lại! Tôi cũng đã đoán trước rồi! Tôi nào có tha thiết gì lúc ấy. Ai giở cái lý lịch của tôi ra cũng sẽ…choáng váng! Họ ghi chú thật thậm tệ bên trong, một loạt hàng chữ ngoệch ngoạc chụp mũ và cố dìm chết chúng tôi… Nào là “Thành phần xấu”, “Gia đình có người làm cho CIA..”, “Gia đình là tay sai của Thiệu và đế quốc Mỹ”, “Gia đình thuộc thành phần phản động”…Ai sẽ mướn tôi? Ai sẽ chứa tôi? Ai cho tôi ghi danh học Đai học, Cao Đẳng, hay bất cứ ngành nghề gì khi thấy cái lý lịch như thế này?

Chú Ninh giận lắm khi bị trả cái đơn lại. Chú to giọng lên hỏi:

“Sao lại không nhận cháu của tôi? BÁC và ĐẢNG ta đã có chủ trương rõ ràng là ai làm thì người ấy chịu cơ mà? Cháu tôi chỉ là một đứa học trò trung học thôi. Nó nào có tội tình gì? Các người sai bét nhè cả rồi…”

Khi đi ra cửa, chú rất giận dữ, vẫn cứ tiếp tục văng tục, chửi thề ỏm tỏi cả lên…

Tôi còn nhớ, chú đã mắng xối xả vào tên ấp trưởng của gia đình tôi khi họ bắt má tôi phải đi học tập, rồi họp ngày, họp đêm mãi… Chú bảo họ:

“Gia đình chị của tôi đã có anh tôi đi học tập rồi. Chị và các cháu cũng đã… học tập… tốt rồi. Gớm! Cả nhà 7, 8 miệng ăn mà suốt ngày cứ bảo người ta hội với họp, học với tập. Bộ nói họp là … xách cái quần đi họp được ngay à? Thế các anh nuôi các cháu tôi đi nhé để chị tôi mới rảnh rỗi mà đi họp!”

Chú cũng dẫn tôi đến “thăm” một tên thư ký của xã nơi gia đình cư ngụ. Tên này đã “mời ” tôi làm một tờ kiểm điểm vì tôi mặc một cái quần…Tây! Thời 75, quần Tây được cắt rất rộng rãi, ống xì gà. Hắn đã hăm dọa tôi mà còn mặc các loại quần áo Mỹ Ngụy như thế này nữa thì hắn sẽ… cắt ngay. Chú chỉ nói với hắn ta có một câu thôi:

– “Cháu của tôi nó dại khờ lắm nên mới bị người ta… ăn hiếp thôi. Chú xem cháu có gì cần dạy bảo cứ… mách thẳng tôi nhá”.

Chú cũng dạy cho chúng tôi biết thế nào là chế độ…Cộng Sản. Tôi nhớ mãi câu nói để đời của chú:

– “Cộng Sản là cái chế độ giống cái mặt bàn này đây. Ở trên đánh vẹc-ni bóng loáng, nhưng ở dưới nhám xịt, sờ vào sướt da đau đấy cháu ạ!….”
Bằng một giọng nói u uất, chú kể cho chúng tôi nghe, trước khi vào Nam để thực hiện công tác “giải phóng miền Nam” chú đã bị gạt rằng trong miền Nam rất đói khổ, bọn Mỹ Nguỵ hành hạ và ức hiếp dân đen thật ghê gớm… nên chú càng hăm hở làm nhiệm vụ GPMN với tất cả nhiệt huyết con tim… Đến khi chú vào tới miền Nam rồi, ngày thì chú trốn dưới hầm, đêm chú trốn ra, đi chơi bên ngoài lẫn lộn với dân chúng. Chú đã choáng váng, ngỡ ngàng khi biết chú và tất cả dân miền Bắc bị gạt…. Nỗi bàng hoàng kéo dài cả tháng trời vì chú thấy ra chủ nghĩa Cộng Sản là một trò lừa bịp, nhưng chú không còn đường thối lui nữa… Thật cay đắng, chú nói với chúng tôi, chú và thân nhân ngoài Bắc đã để dành khá nhiều tiền để vào Nam cho ba tôi (!) vì họ bảo dân miền Nam làm việc nhiều mà… lương rất ít, rất nghèo và rất đói khổ, không mua sắm được gì cả!

Anh Ba của tôi lúc ấy vừa học Luật vừa học Đại học Khoa học để lấy chứng chỉ SPCN chuẩn bị thi Y Khoa. Chú Phan Ninh đã giả lả, mon men, la cà với ban lãnh đạo trường. Cuối cùng, chú đã khuyên anh Ba rằng:

“Cháu không vào được các ngành ấy đâu. Ngay cả cháu có học giỏi cách mấy cũng vậy. Họ sẽ đánh rớt cháu đấy… Cháu nên đổi qua.. Nông Nghiệp thì hoạ may họ còn cho cháu đậu! Mà cháu phải đổi ngay trong năm nay, chứ sang năm sau sẽ không được đâu…. Cả dòng họ mình ngoài Bắc chỉ vì có một mình ba cháu vào Nam, mà các chú, thím, các em.. đều có lý lịch xấu ba đời không được học hành hay có chức tước gì cả đấy cháu ạ! “

Anh Ba của tôi thật buồn, mộng làm bác sĩ bay theo mây khói! Nhưng cũng nhờ chú hướng dẫn, nên anh đã đậu môn mục súc trong đại học Nông Nghiệp ở Thủ Đức để tốt nghiệp làm Bác Sĩ Thú Y. Anh đã học ngày học đêm vì rất sợ bị đi… nghĩa vụ quân sự như số đông các bạn bè của anh bị chết mất xác bên Campuchia…

Sau nầy, khi ba tôi bị dời về học tập ở Bình Phước, ba tôi “được ” phân công gánh… phân xanh để tưới rau! Ông không chịu làm, bị làm kiểm điểm, bị chửi bới, phạt kỷ luật! Chú Phan Ninh vào trại dàn xếp cho ba tôi. Cuối cùng ba tôi được làm anh… nuôi! Tức là người..nấu cơm.. (Từ bé, tôi chưa bao giờ thấy ba tôi vào bếp cả!).

Kế sát nhà tôi là nhà ông bà Trưởng Ty Điền Địa. Rồi đến nhà ông bà bác sỹ R. Ông bà Trưởng Ty lúc ấy phải trên dưới bảy mươi tuổi rồi. Bỗng dưng nhà ông bà để đèn suốt ngày đêm cả tuần lễ, rồi sau đó Hội Phụ Nữ đến.. đóng đô! Lúc ấy chúng tôi mới biết ông bà đã… đi vượt biên! Và rồi lại đến nhà ông bà bác sỹ R!

Chú Phan Ninh đi dò la tin tức, trầm tư suy nghĩ, rồi nghiêm giọng bảo chúng tôi:

– “Hai ông bà hàng xóm… già thế kia mà còn đóng tàu đi vượt biên được. Ông bà đã qua tới Mỹ rồi. Có khi các cháu phải đi vượt biên thôi chị ạ… Các cháu không thể nào chịu nổi chế độ Cộng Sản đâu… Chị cố gắng gói ghém lại và tìm cách cho các cháu đi càng sớm càng tốt chị ạ. Hay! Thật hay! Em mà còn trẻ và không vướng bận gia đình, chắc em cũng phải đi vượt biên thôi chị ạ. Nhất định là phải lo cho các cháu đi vượt biên nhé chị. Hay lắm! Thật là hay đấy chị!”

Chúng tôi đã nhận ra những lời chú nói đều đúng như thế. Trị, em trai Út của tôi thi vào Đại Học Nông Nghiệp. Em học giỏi, bài thi làm trôi chảy. Nhưng lại không có tên trên danh sách thí sinh đậu dán trên văn phòng Ty Giáo dục tỉnh BD. Đi hỏi các thầy chấm bài, thì các thầy đều nói bài của em phải đậu điểm cao. Chắc có sự nhầm lẫn?! Má tôi đạp xe lên Ty Giáo Dục tỉnh để hỏi. Khi về má tôi khóc nức nở… Họ đã mắng như tát nước vào mặt của má tôi rằng:

– “Bà đi về đi! Các con của bà đến ba đời cũng không học đại học được đâu. Bà đừng mơ tưởng….”

Chú Ninh giận dữ, đùng đùng lái xe jeep đi đến Ty Giáo Dục tỉnh, chú đứng chống nạnh và chửi họ không ngớt miệng:

– “Các anh chị làm công tác giáo dục mà các anh chị sao có thể nào lại ăn nói lỗ mãng thua cả thằng chăn trâu chăn bò thế kia?! Các anh các chị dốt nát nên sợ người khác khôn hơn mình à?! Nên đánh gạt hết những người tài giỏi, chỉ để lại toàn một lũ… dzòi bám đít các anh chị, thối tha, ngu xuẩn… Rồi tương lai nước ta sẽ có những lãnh đạo… thối…địt! Mẹ kiếp! Con “người ta ” chỉ muốn học có cày cấy thôi mà cũng gạt bỏ, không cho học… Chả trách có những thằng bác sĩ không biết… cầm tiêm, thằng kỹ sư thì không biết làm toán… chia! Và các anh chị làm ngành giáo dục mà chẳng biết trọng nhân tài. Hãy dẹp… mẹ cái biển Ty Giáo Dục xuống đi…”

Chú về Bắc rồi chú lại vào Nam thêm vài ba lần. Mổi lần vào trong Nam là chú dẫn theo các chú, các cô hay các cháu ở Cao Bằng vào Nam thăm ba tôi trong trại học tập. Chú ở lại trong Nam cho đến khi cả họ ngoại tôi đi thăm nuôi thân nhân đều đặn, chú giúp các dì lấy lại đất đai, nhà cửa đã bị mất. Chú đi săn tin từ trong… công an ra, và biết ba tôi hay các cậu sắp bị chuyển trại, là chú về báo cho chúng tôi hay ngay tức khắc. Rồi chú chở từng thùng xăng, từng bao gạo sấy mà trại lính Mỹ đã bỏ lại, để chúng tôi bán lấy tiền thăm nuôi ba tôi và sinh sống. Ngày chú phải trở về Bắc luôn, tôi rất buồn vì mất đi một người chú xốc vác, nương tựa. Chú dặn chúng tôi không được nói cho ai biết là chú về Bắc luôn vì sợ họ sẽ ăn hiếp gia đình chúng tôi nữa. Và chú nhắc nhở chúng tôi phải tìm đủ mọi cách để phải đi…. vượt biên! Quà mang về Bắc, chú chỉ xin chiếc máy ảnh Nikon cũ của ba tôi để kỷ niệm và cũng để về quê chụp hình, có thể kiếm thêm chút ít cho những ngày hưu trí.

Tôi đã nghe lời chú, tôi trầy vi tróc vảy đi vượt biên bốn, năm lần. Tôi bị công an rượt đuổi ở Phan Thiết, trốn chạy trong ruộng mía cả ngày y hệt như đóng phim trinh thám! Xã hội đảo điên, tôi cũng bị lường gạt sạch túi vài lần. Tôi đi vượt biên bị bắt và bị cả tù cùm chân… Sống dưới chế độ CS, tôi như con thú phải sống trong rừng sâu, không thể ra ngoài ánh sáng. Nhưng cuối cùng, trời đất ơn trên đã phù hộ cho tôi đến được xứ sở tự do.

Tôi ước ao được một lần về thăm quê nội, thăm hằng trăm người bà con của tôi vì có ba tôi vào Nam mà họ đã không ngóc đầu lên được cả mấy đời con cháu. Thăm lại ông anh một cha khác mẹ thật đáng thương của chúng tôi. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh của ba và anh trong trại cải tạo, anh đã khóc rưng rức khi thấy dáng Ba từ xa, rồi oà lên khóc tồ tồ, khóc như chưa bao giờ được khóc. Hầu như đây là lần đầu tiên trong cuộc đời của anh Cả được gọi tiếng BA, được biết cái bàn tay, cái gương mặt, cái tướng đi của mình giống Ba như thế nào khi tuổi của anh đã gần bốn mươi. Còn ba tôi, tóc bạc muối tiêu, tay run lẩy bẩy, vai nấc lên, mắt ràn rụa, ướt nhòe nhoẹt…

Bây giờ, tôi thật thấm câu chú Phan Ninh đã nói với tôi khi tôi chưa tròn mười tám tuổi:

– “Người dân ở miền Bắc tội nghiệp không thua gì dân ở miền Nam bây giờ. Họ cũng cùng số phận như người miền Nam, cùng bị chế độ độc tài Cộng Sản cai trị… Chỉ khác có một điều là người miền Bắc đã bị bọn Cộng Sản cai trị trước người miền Nam thôi!”

Chú Phan Ninh đã thấy quá rõ đời sống trước và sau ngày 30/4 /75 của người dân miền Nam và của gia đình tôi như thế nào, ngược hẳn với những gì mà chú bị tuyên truyền và nhồi sọ! Chú đã nhìn thấy sự đau khổ của chúng tôi khi.. đổi đời như thế nào! Chú sững sờ lặng ngắt người, đau đớn không thua gì gia đình chúng tôi khi nghe tin em trai út Trị của tôi đã mất tích trong lòng đại dương lạnh lẽo…

Chú về lại Cao Bằng, người ta thẳng tay cho chú về…hưu! Chanh đã vắt kiệt, họ vất ngay cái vỏ, mà là cái vỏ đầy… gai góc. Trước khi về hưu, họ đã bắt chú tường trình những gì chú đã làm cho chúng tôi, chú đã đi đâu, đã thấy những gì từ cái gia đình Mỹ Nguỵ kia… Họ trông đợi một tố giác của chú, mà chú đã không đáp ứng như ý họ… Chú PN nổi điên lên, càng chửi bới nhiều hơn. Chú uống rượu giải sầu, cũng là để mượn rượu mà chửi “thiên hạ”. Khi say, dân làng, hàng xóm được nghe người Đại tá say này kể rất nhiều chuyện “phản động” mà họ đã bị dấu bưng bít!

*

Chú ơi! Hôm nay cháu ngồi nhỏ nước mắt gỏ lộc cộc trên phím của computer, bồi hồi ôn lại chuyện chú cháu mình đúng tháng ngày này của 43 năm về trước. Cháu đang mang một kiếp lưu vong với những vinh nhục, vui buồn trên xứ lạ quê người. Ôm cái computer, mỗi ngày cháu mỗi thờ thẫn bàng hoàng vì những tin tức đen tối bên trời Nam… Cái án tử nặng ngàn cân sắp cứa vào cổ dân mình năm 2020 rồi chú ạ! Quê hương và dân tộc VN đang lâm vào cảnh khốn đốn, tồi tệ nhất trong lịch sử. Nếu chú còn ở dương gian này, chú sẽ chỉ bảo cháu làm gì để cứu lấy Bản Giốc, cứu những tôm cá nuôi cả triệu đồng bào VN, cứu quê hương chúng ta đây? Hay chú cũng chỉ làm người lưu vong tủi nhục như cháu, cái mầm lưu vong đã nhú lên ngay từ 43 năm về trước, để cây lưu vong mọc ngay trên dãi đất hình chữ S cong quẹo đau thương này, không biết khi nào mới ngẫng mặt đứng thẳng với thế giới và lịch sử mai sau…

Cháu không còn trẻ để vẫy vùng được như 20, 30 năm trước nữa. Ai cũng phải bước tới cái ngày nhắm mắt lìa đời… Nhưng chú ơi, cháu đau lòng lắm nếu ra đi mà không giúp ích gì được cho quê hương và dân tộc mình…

Có phải cũng cái đau này đã canh cánh, đeo đẳng chú về tận bên kia thế giới không, thưa chú Phan Ninh kính yêu…

Kim Chi