Cho đi là nhận lại.

 Cho đi là nhận lại.

Để thấy cuộc sống trên trần gian này tràn đầy ý nghĩa cao đẹp tình người, mỗi khi bạn có cơ hội được phục vụ tha nhân vô vụ lợi, bạn sẽ nhận lại nhiều được hơn những gì bạn đã cho đi. 

Câu chuyện bắt đầu từ một người nông dân nghèo tên Fleming ở Scotland. Một ngày nọ ông đang làm việc để nuôi gia đình thì bỗng nghe tiếng kêu cứu từ cái đầm lầy gần đó. Ông vội chạy đến nơi thì nhìn thấy một cậu bé bị sa lầy trong ao, sình ngập đến đầu. Cậu bé đang giãy giụa gào khóc. Người nông dân liền lập tức cứu cậu bé lên bờ.

Hôm sau, một cỗ xe sang trọng đi tới căn lều của Fleming. Một người đàn ông ăn mặc sang trọng bước ra, tự giới thiệu mình là Randolph Henry Spencer Churchill, cha của cậu bé được ông cứu sống ngày hôm qua.

Ông ta nói: “Tôi đến để cảm ơn và hậu tạ anh đã cứu mạng con trai tôi!”

Ông Fleming đáp: “Không có chi. Đây là chuyện nên làm và ông không cần phải hậu tạ, thưởng công. Tôi quyết không nhận đâu.”

Ngay lúc đó, cậu con trai khoảng 10 tuổi của Fleming bước vào lều. 

Ông nhà giàu hỏi: “Đây là con trai anh phải không?”.  “Vâng.”  Ông Fleming trả lời đầy vẻ tự hào.

Nhà quý tộc ân cần hỏi cậu bé: “Khi lớn lên, cháu muốn làm gì?” Cậu bé nhỏ nhẹ thưa: “Thưa ông, chắc cháu sẽ tiếp tục nghề làm ruộng của cha cháu.” Nhà quý tộc lại gặng hỏi: “Thế cháu không còn ước mơ nào lớn hơn nữa sao?”

Cậu bé im lặng cúi đầu một lúc rồi mới trả lời: “Dạ thưa ông, nhà cháu nghèo thế này thì cháu còn biết ước mơ điều gì nữa đây?”

Lại tiếp tục một câu hỏi chân tình: “Nhưng bác muốn biết, nếu cháu được phép mơ ước thì cháu sẽ ước mơ điều gì”

Và lần này cũng lại là một câu trả lời thật thà:  “Thưa ông, cháu muốn được đi học, cháu muốn trở thành một bác sĩ!”

Vậy thì cho phép tôi đề nghị như thế này anh Fleming: “Hãy để tôi chu cấp việc học cho con trai anh hệt như tôi đã lo cho con trai mình. Nếu con trai anh mà giống tính cha nó thì tôi tin rằng ngày sau này cậu ấy sẽ trở thành một người mà cả hai chúng ta đều hãnh diện.”

Ông Fleming nhà nghèo nghe vậy thì đồng ý.

Thế là từ đó cậu con trai của Fleming được theo học tại những trường danh tiếng và tốt nghiệp đại học Y khoa Stainte-Marie ở London. Nhờ có hoài bão lớn lao, không ngừng phấn đấu, cuối cùng tài năng của cậu cũng được cả thế giới công nhận. 

Cậu chính là bác sĩ lừng danh Alexander Fleming. 

Vào năm 1927, bác sĩ Alexander Fleming sáng chế ra thuốc kháng sinh Penicillin cứu mạng được không biết bao nhiêu người trên thế giới. Năm 1945, ông được trao giải Nobel về y học.

Vài năm sau, người con trai của ông được cứu sống khỏi đầm lầy ngày xưa bị bệnh viêm phổi. May nhờ  thuốc Pénicillin này đã cứu cậu thoát chết. Tên cậu là Winston Churchill. Sau này cậu trở thành một vĩ nhân, là người mà cả nước Anh đều tự hào và hãnh diện. Đó chính là Thủ tướng trứ danh của nước Anh — Thủ Tướng Winston Churchill.

Điều thú vị là Ngài Winston Churchill và bác sĩ tài danh Alexander Fleming là đôi bạn rất thân của nhau trong suốt cuộc đời. 

Bác sĩ Alexander Fleming mất năm 1955 tại London ở tuổi 74 và Thủ tướng Winston Churchill mất năm 1965 ở tuổi 91 tại London. Cả hai ông đều yên nghỉ trong cùng một nghĩa trang.

Điều này chứng minh rằng hành thiện nhất định sẽ gặp thiện báo. Tất cả những gì ta cho ra đều sẽ được nhận lại; những gì bạn đã cho, tặng cho người khác bằng cả trái tim thì nhất định sẽ không mất. 

S.T. 

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

TÌNH MUỘN

Kimtrong Lam
TÌNH MUỘN

Tôi biết anh từ sau 1975 chừng vài tháng, khi mà mấy ông Thầy bị sàng lọc và đuổi ra khỏi trường mà không cần biết lý do, để đưa những tên cán bộ chính trị của Đại học Pắc Pó từ miền Bắc vào giảng dạy. Cộng Sản là thảm họa của cả miền Nam kể từ dạo ấy và đối với riêng anh việc bị đuổi ra khỏi trường Văn Khoa là một biến cố đau buồn nhất trong đời, nó thường xuyên ám ảnh đến cả giấc mơ đầy ác mộng của anh sau này. Anh là bạn thân của ông Thầy dạy tôi thời Trung học, hai người bạn thất nghiệp đi lang thang và ghé vào căn phòng trọ của cô học trò nhỏ, cả Thầy trò đều xác xơ đến tội nghiệp, tôi loay hoay nấu cơm bằng cái nồi nhỏ xíu với chút rau luộc và cái trứng vịt dầm nước mắm, buổi cơm đạm bạc nhưng chân tình. Tôi ấm ức kể cho Thầy nghe những bực bội trong cuộc sống mới mà tôi phải chịu đựng, những bất mãn hậm hực trong chế độ XHCN nói một đàng làm một nẻo này, tức mà không biết nói với ai..Tôi viết nhật ký và in roneo cả xấp, không biết để làm gì nữa nhưng chắc cũng đở buồn đôi chút. Thời buổi này biết tin ai bây giờ ngoài Thầy, tôi không có dịp học với anh dù nửa chữ, nhưng tôi kính anh như thầy mình. Tôi đưa bản nháp cuốn nhật ký cho hai ông, coi như có người để chia sẻ tâm sự..Năm 1978 Cuốn nhật ký được một người thân lén chuyển qua Mỹ, và được in làm nhiều kỳ trong bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và đầu năm 1979 tôi vào tù, tôi nghĩ chuyện tới đó là chấm hết.
Thời gian như cuồng phong phẩn nộ cuốn phăng mọi thứ, mất hút trong mưa giông là những dề lục bình tuổi thơ mơ mộng của bạn bè tôi, dật dờ rác rưởi trong chế độ mà “đôi dép râu làm sầu tuổi trẻ, nón tai bèo dẫm nát mộng đời trai”, gió đưa gió đẩy không về rẫy Kinh Tế Mới thì cũng ra khơi vượt biển tìm Tự Do. Thời điểm sôi bỏng lúc đó ai cũng muốn đi, dù biết chắc rủi ro phía trước.
Cuộc sống bức bách trong thời gian đầu khiến anh không thể chịu đựng nổi, Anh dẫn vợ con ra khơi trên chiếc ghe chông chênh túm húm phó thác tánh mạng cho Trời. Tôi chọn sự ở lại để cùng chồng mưu toan “bẻ gậy chống trời”, mọi việc không thành, cả nhà bị bắt, chồng tôi bị tuyên án Tử Hình, tôi chôn tuổi trẻ của mình hơn 10 trong lao tù Cộng Sản, thằng con trai mới hơn một tuổi cũng bị vạ lây vướng vòng lao lý đến độ tật nguyền. Câu chuyện đau thương và trãi dài biết bao khốn khổ bất hạnh trong suốt những năm tháng buồn hiu đó. Cuối cùng thì tôi cũng ra tù, con trai tôi được một tổ chức nhân đạo bên Thụy Sĩ mang ra khỏi trại giam trước đó vài năm, sự giải thoát chậm trể đã khiến nó tàn tật suốt đời, chính điều này đã làm tôi đau đớn ân hận mãi không nguôi.
Phần anh sau chuyến vượt biển thành công, chiếc ghe mong manh tấp vô một đảo nào đó bên Indo chờ ngày qua Mỹ định cư, giống như định mệnh được báo trước, những ngày trong trại tỵ nạn, tạp chí VNHN tình cờ lọt vào tay anh và những đoạn nhật ký rời rạc trong đó khiến anh thảng thốt vì anh đã biết tác giả là ai, anh đã từng đọc nó bằng bản roneo nhòe mực, và anh đã đốt nó trước khi xuống tàu ra đi, anh chọn sự bỏ cuộc và cô học trò chọn sự ở lại để đối đầu với cả một chế độ. Tuổi trẻ của cô ta thật dũng cảm, anh đã không làm được điều đó. Có cái gì như ân hận ray rức khiến anh bồn chồn trong bụng.
Vài năm sau, khi cuộc sống tạm ổn định anh gọi về Sài gòn gặp người bạn cũ để hỏi thăm tin tức về con nhỏ năm xưa, Thầy tôi cũng nghe loáng thoáng trong đám học trò “..hình như nó bị bắt và chết trong tù..” Anh thực sự đau buồn thương tiếc một người con gái trẻ sớm lìa đời…
Những bầm dập trong tù đã không làm tôi gục ngã, tôi sống sót để trở về với bao tang thương mất mát không cách gì bù đắp nổi
Ra trại, trở lại cuộc sống bình thường nhưng không yên ổn, cơm áo mưu sinh vất vả, thường xuyên đối mặt với những kỳ thị hoạnh họe của chính quyền địa phương, với cái lý lịch tăm tối tù tội trong quá khứ khiến tôi thật sự mệt mỏi. Trong một lần đi họp trường xưa bạn cũ, tôi đến chào Thầy, ông ngỡ ngàng nhận ra “con nhỏ học trò”thuở nào và buột miệng “ em còn sống hả Ánh? Em còn nhớ Thầy S không? nó cũng hay về thăm tôi, có lần nó hỏi thăm em, tôi nói em chết rồi , nó buồn xo..” Mấy chục năm qua rồi, gặp anh một lần như thoáng gió, có yêu thương hò hẹn gì đâu mà nhung nhớ, tôi lúc đó hừng hực lửa hai mươi, còn anh có vợ 4 con bộn bề trăm nỗi. Cái buồn xo nếu có chắc cũng chỉ là tội nghiệp đứa học trò lận đận mà thôi!.
Trong mùa hè nào đó, tôi nhận được cú phone lạ “ Thầy S đây, con có nhớ thầy không?” Phản ứng rất tự nhiên tôi “dạ – không” gọn lỏn, bên kia đầu dây ngập ngừng một chút “ Ờ hôm nào Thầy trò mình gặp nhau nhe”.
Cũng không có gì bất ngờ luống cuống, hai ông thầy lại đến thăm cô học trò đã già hơn xưa sau hai mươi mấy năm không liên lạc, lại có bữa cơm thân tình nhưng tươm tất hơn trước, lại những câu chuyện kể đứt khúc như cuốn phim buồn, thật tình tôi muốn quên đi quá khứ đau thương. Ra về anh ghi vội cho tôi email để Thầy trò liên lạc nhau, và tôi vẫn kính cẩn “Thưa Thầy” mặc dù tới bấy giờ Thầy vẫn chưa dạy tôi cách dùng email để viết ..thư tình.
Thời đó có Computer trong nhà là một mơ ước của tôi, anh đâu biết mỗi lần trả lời email tôi phải chạy hàng mấy cây số mới tới chỗ dịch vụ Internet, loay hoay tự học mổ cò từng chữ.

Rồi thư qua thư lại, lúc đầu chỉ là những chia sẻ trong cuộc sống ở hai bờ đại dương xa lắc, anh còn đi dạy, lũ học trò tiểu học dễ thương, các con đã lớn có cuộc sống riêng, vợ anh ly dị đã lâu, anh ở một mình trong căn nhà rộng vắng vào ra cô đơn lặng lẽ, cơm nước tự nấu bữa sống bữa chín.
Còn tôi làm công nhân trong một xưởng gỗ tư nhân, mỗi ngày đạp xe hì hục trên xa lộ nắng cháy mà không biết tai nạn chết chóc xảy ra lúc nào, không có bằng Đại Học thì chỉ làm công nhân suốt đời, tôi nghĩ vậy mà cố gắng ghi tên học lại, rồi mấy năm đèn sách vất vả cũng qua đi.Khi anh gặp tôi thì mọi việc có vẽ như ổn định, tôi tự đứng dậy được trên đôi chân của mình. Email qua lại cả hai năm trời, anh gọi phone cho tôi thường xuyên hơn, thân thiết hơn và không biết từ chữ “Thầy” chuyển qua chữ “Anh” lúc nào mà tự nhiên chúng tôi không còn thấy khoảng cách hàng mươi ngàn cây số giữa Mỹ và Sàigòn xa xôi mút chỉ nữa, những lá thư tình chất đầy ngăn kéo đã kết nối đôi bờ.

Mùa hè 2004 Anh quyết định bay về nói chuyện kết hôn, Má tôi im lặng một hồi mới nói “ Già rồi ở vậy cho rảnh” nhưng nói là nói vậy thôi, Má sợ tôi bước thêm bước nữa rồi khổ. Nhưng Má ơi, tử vi nói con hết cơn bỉ cực rồi Tôi chợt nhìn xuống chân”ông rể” tương lai của Má, ai đời buổi ra mắt nhà vợ đầu tiên mà anh mang vớ chiếc xanh chiếc xám bê bối thấy mà thương, mới biết anh chàng đã làm mềm lòng trái tim tưởng đã hóa thạch của tôi từ những điều nhỏ nhặt.

Vậy đó, tôi làm cô dâu ở tuổi 50, trong chiếc áo dài đơn sơ giản dị, bạn bè hai bên chừng vài bàn, buổi tiệc nhỏ đầy ấm cúng, ai cũng chúc mừng cho hạnh phúc muộn màng nhưng rạng rở của tôi, lối xóm bàn tán “cô ta hên ghê có chồng Việt kiều về cưới”. Anh nắm tay tôi ấm áp dỗ dành, tôi nghĩ mình thật hạnh phúc và bình yên khi có anh bên cạnh.
Sau ngày cưới, thấy không thể nấn ná trong cái xã hội đầy rẫy sự bất an ngang ngược từng ngày này, anh quyết định mang tôi đi xa hơn về miền đất hứa…
Ngày tôi lên máy bay rời Sài gòn cũng vào mùa hè, tháng 5 và những chùm phượng đỏ rưng rưng ướt đẫm trong cơn mưa đầu mùa, tôi biết mình đã mất Quê Hương từ cái ngày 30/4/1975 đáng nguyền rủa ấy, nhưng lần ra đi này mới thật sự thấy thấm nỗi chia ly, biết bao người đã bỏ nước ra đi và chết tức tưởi trên biển cả, còn tôi đã may mắn hơn triệu triệu người khi vượt biển trên chuyến bay American Airlines, để đến một nơi mà mình biết chắc là có Tự Do Hạnh Phúc thật sự chứ không phải thứ Tự do được rêu rao bịp bợm gian trá trong cái gọi là CNXH.
Qua rồi những bão tố gian nan, những cay nghiệt khốn khổ trong cuộc sống tù đày của ba mươi năm trước, tôi khép lại quá khứ nhọc nhằn, lau khô những giọt nước mắt bi thãm để nắm tay anh đứng dậy. Cuộc sống vốn ngắn ngủi cho những ai bi quan, tôi nghĩ mình đang hướng về phía mặt trời. Như cuốn tiểu thuyết có hậu ở trang cuối, tôi cám ơn anh đã viết Tình Yêu bằng chữ hoa trân trọng cho những năm tháng còn lại của chúng tôi. Hạnh Phúc thật sự chỉ có trong trái tim rộng lượng, chân tình.

Cám ơn anh, cám ơn nước Mỹ đã dung chứa thêm một người tị nạn khốn khổ như tôi. Chào một ngày mới bắt đầu trên quê hương mà bao người mơ ước được đặt chân tới. “America Dream”
Ngọc Ánh
(Tháng 8/2018)

Image may contain: 1 person

“Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm.”

Image may contain: 1 person, sitting and standing

Nicolas Đặng to Salut Saigon & Salut Les Copains

“Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm.”

Lần đầu gặp anh, chị mới 16 tuổi, nhỏ xíu, tóc bó đuôi gà, đôi môi mỏng lém lỉnh. Hôm ấy, Ba chị đưa về một thanh niên trẻ người Mỹ, giới thiệu người phụ tá của mình với gia đình, anh đã nhìn chị không chớp mắt. Đến khi chị vênh mặt hỏi “Tôi có chỗ nào không ổn”, anh mới ngượng ngùng sực tỉnh, lí nhí… nói câu xin lỗi!

Không biết sao anh bị chị thu hút, đến mất hồn mất vía, còn chị thì tỉnh rụi, chẳng để ý gì đến anh chàng người Mỹ đồng nghiệp của ba mình. Sau đó anh hỏi Ba chị thuê hẳn một tầng lầu trên cùng để ở, thì chị và anh gặp nhau mỗi ngày.

Sống chung nhà, nhưng đường ai nấy đi, đối với chị, anh là bạn của Ba, người lớn rồi, nên chị không coi anh như bạn bè của mình, nhưng rồi chị cũng biết anh mới 24 tuổi, đến từ Washington DC, nhiệm sở ở VN này là công việc đầu tiên của anh sau khi tốt nghiệp đại học. Tuy còn bỡ ngỡ với xã hội VN, nhưng lạ một điều là anh nói tiếng Việt giọng Bắc rất chuẩn và lưu loát như được đào tạo qua trường lớp đàng hoàng.

Anh ít nói nghiêm nghị, nhưng mỗi lần gặp chị, anh lúng túng, mặt mày đỏ gay, làm chị nổi tính nghịch ngợm, muốn trêu anh.

Có lần trong bữa ăn, chị đưa cho anh quả ớt tròn đỏ, rất đẹp, chị bỏ nguyên trái vô miệng, nói ngon lắm, và đưa cho anh một trái, bảo ăn thử. Anh tưởng thật, bắt chước chị, bỏ vô miệng nguyên trái, nhai rốt rột, rồi anh sặc, anh ho, anh khóc, còn chị nhả trái ớt ra, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Anh cay quá, có ý giận, cầm cốc nước bỏ lên lầu một mạch.

Đến tối không thấy anh xuống, thấy cũng tội nghiệp, chị sai thằng em bưng lên cho anh ly nước đậu nành tạ tội, nhưng thằng em xuống nói anh ấy không có ở trên lầu, đi đâu rồi?

Chị có ý đợi, muốn thử coi sau khi ăn trái ớt, mặt mũi anh ra sao? Nhưng mấy ngày liền anh không về, nghe Ba nói với mẹ anh đi công tác.
Cả tuần không gặp, chị thấy thiếu thiếu, chị nghĩ có lẽ tại mình chơi ác với người ta nên mình thấy có lỗi, áy náy đó thôi.

Tuần sau anh về, bước vô nhà thấy chị, còn tức nên vờ như không thấy, anh xách vali đi thẳng lên lầu, từ đó anh luôn giữ vẻ mặt lạnh lùng làm chị thấy… tự ái ghê gớm luôn.

Một hôm chị đang học thi tú tài, ban đêm ở trường thầy Hai Ngô về, từ đường Nguyễn Huệ đạp xe về tới nhà chị cũng khá xa, vừa tới góc ngã ba hơi tối, xe chị tự nhiên trở chứng, phải dắt bộ về, đường tối chị thấy sợ ma. Vừa đi vừa run, vậy mà xui khiến sao gặp anh, đang lái xe đi ngang mặt, tài thật anh nhận ra chị ngay, và “de” xe ngược lại. Dù đang giận, nhưng chị cũng để anh giúp, đem xe về nhà. Trên đường về anh không nói, chị cũng không…(đang hờn mát mà).

Gần tới nhà, anh quay qua nhẹ giọng hỏi chị: “Sao em ghét tôi quá thế?”
Bị hỏi thình lình, chị ấm ớ: “Tôi có ghét anh đâu?”.
Anh nhìn vào mắt chị (trời ạ, tối thui, sao mắt anh ấy sáng thế, xanh biếc như hai vì sao…). 
“Thế sao em vẫn muốn tôi khóc, để em cười?”
Tự nhiên chị thấy lúng túng. May quá tới nhà, chị cảm ơn, rồi vội vã xuống xe vào nhà, để anh ngẩn ngơ nhìn theo…

Đêm ấy lạ ghê, không ngủ được, chị cứ thấy đôi mắt như hai ánh sao của anh chập chờn trước mặt, lần đầu tiên chị mất ngủ vì một chàng trai.
Sáng ra, trước khi đi học chị có ý chờ xem có gặp anh không, nhưng không gặp, đến giờ, chị phải đi học thôi. Chiều về chị cũng không gặp. Ba chị nói, anh về nước có chuyện gấp.

Mấy ngày anh không có ở nhà, chị như người mất hồn, cứ ra vô, ăn ngủ không yên. Lạ nhỉ, sao tâm trạng mình bất ổn như vậy?

Đến khi anh về, vừa thấy anh bước vô từ cửa, chị mừng như bắt được vàng, ánh mắt long lanh, chị cười nói huyên thuyên. Anh bỏ vali xuống, rạng rỡ nhìn chị, âu yếm lắng nghe và cuối cùng hỏi chị một câu:

“Em nhớ tôi lắm hả???”

Câu hỏi bất ngờ làm chị khựng lại mấy giây, đỏ mặt… như ăn trộm bị bắt quả tang. Xấu hổ quá, (sao anh ta có thể đọc được ý nghĩ của mình thế nhỉ?), chị vờ có việc, kiếm cớ bỏ đi.

Sinh nhật 17 tuổi của chị, chị mời bạn bè tới nhà chơi, một đám choai choai con nít, nói cười ầm ĩ. Tới tối tiệc tan, lúc về phòng ở lầu hai, chị thấy anh đứng đó, trong bóng tối, chìa ra cho chị một bó hoa hồng rồi anh bỏ đi.

Ôm bó hoa, chị hồi hộp… Về phòng, cả đêm chị cứ ngắm bó hoa, từng cánh nhung mềm mại, đẹp ơi là đẹp, mở ra, trong cánh thiệp mỏng có bức thư ngắn kèm theo:

“Em của tôi.
Lần đầu gặp, em đẹp như một bức tranh.
Lần thứ hai gặp, em tinh quái như một con mèo.
Lần thứ ba gặp, con mèo đánh cắp trái tim tôi…
Bây giờ, tôi bắt đền … em để trái tim tôi ở đâu?
Tôi muốn xin em trả lại…!”

Trời đất! Phải làm sao đây? Đọc xong bức thư, chị tái mặt… lại cả đêm trằn trọc, sáng ra chị không dám ra khỏi phòng, lỡ gặp anh chàng thì biết ăn nói làm sao???
.

Mối tình của chị bắt đầu như vậy, dễ thương, nhẹ nhàng.

Năm ấy, chị thi tú tài IBM lần đầu ở Qui Nhơn. Tràn đầy tự tin, chị xúc tiến thủ tục đi du học…

Nhưng một sáng mùa hè, năm 75, anh đi SG họp khẩn cấp và không trở về. Toàn bộ nhân viên Ngoại giao được lệnh rút khỏi VN. Anh gọi điện thoại cho Ba chị, xin ông đưa cả gia đình đi, anh sẽ sắp xếp chuyến bay, nhưng ba chị không chịu.

Anh lại xin Ba chị cho cưới chị để đưa chị theo, nhưng ba chị cũng không chịu, đời nào ông để con gái ông lấy Mỹ?

Những chi tiết này chị không hề hay biết, thấp thỏm chờ, và lòng chị có ý trách, sao anh nỡ bỏ đi không một lời từ giã…

Biến cố 75 ập tới. Ba chị đi tù (là nhân viên ngoại giao cao cấp), nhà cửa toàn bộ bị tịch biên hết, giấc mộng du học của chị vỡ tan. 
Cả gia đình chị tan tác như chiếc lá rơi rụng cuối mùa, chị buồn đau một thời gian dài…

Rồi chị cũng gượng dậy giúp mẹ bôn ba, buôn bán nuôi đàn em dại. Và chị lấy chồng, hai vợ chồng tương đối hạnh phúc, nhưng lại gặp phải mẹ chồng khắc nghiệt nên làm chị kiệt quệ tinh thần lẫn thể xác. Chị thất vọng về chồng mình, vì thấy anh rất sợ mẹ, không giúp gì được cho chị, dù bụng mang dạ chửa, chị cũng phải quần quật không khác gì con ở, nên với chồng chị có phần oán trách, và tình cảm chị dành cho chồng, do đó phai nhạt ít nhiều.

Đứa con gái ra đời, cũng không cứu vãn được vấn đề. Mẹ chồng lúc nào cũng chì chiết, hà khắc, chị cô đơn trong gia đình chồng, đến nỗi có lần chị xin chồng ly dị, vì thấy mình khổ quá không chịu nổi. Nhưng rồi… chị phát giác mình mang thai đứa con thứ hai.

Đành vậy, có những lúc buồn, chị ôm con mà nhớ quay quắt về anh, với những thương yêu cũ. Sau này chị đã biết rõ câu chuyện do ba chị trước khi đi tù, đã kể lại với giọng ân hận: “Biết vậy Ba gả con cho nó”.

Khi chị biết anh đã tìm đủ mọi cách có thể để đưa chị đi nhưng tình trạng hỗn loạn lúc đó, anh không làm sao hơn được, chị tin chắc anh cũng đau lòng như chị, khi phải đành phải xa nhau. Và chị chấp nhận số phận, không còn oán trách anh nữa.

Sau đó không lâu, có một người lạ mặt tới đưa cho má chị ít tiền và địa chỉ và số điện thoại của anh bên Mỹ. Chị cầm đọc, mà hai hàng nước mắt chảy dài, chẳng biết để làm gì, nhưng chị vẫn cất kỹ số điện thoại và địa chỉ của anh, để thỉnh thoảng lấy ra nhìn, mà buồn vời vợi…

Mang thai lần này chị yếu hẳn, thai 7 tháng mà bụng chị nhỏ xíu, chị gầy, khô như que củi, nhìn vô gương chị không nhận ra mình, đứa con gái xinh đẹp, nhí nhảnh, năng động năm xưa đâu rồi nhỉ?

Thình lình, một tối chồng chị về, mẹ con rầm rì to nhỏ, có chuyến đi vượt biên. Mẹ chồng muốn mẹ con chị ở lại, để chồng chị đi một mình. Nhưng anh không chịu, đi thì phải đi cùng. Lần đầu tiên chị thấy anh cương quyết, cuối cùng mẹ chồng nhượng bộ. Vậy là vợ chồng, con cái chị, dắt díu nhau ra khơi.

Tàu gặp bão, giông tố tưởng đã nhấn chìm con tàu mấy lượt, vậy mà trời thương, may sao chiếc tàu rách nát vẫn còn tiếp tục chạy. Nhưng mấy hôm sau nữa thì máy hư, hết nước, hết thức ăn, lênh đênh vô định trên biển…

Môi nứt nẻ, rướm máu, sức tàn lực kiệt. Mấy lần chị hôn mê tưởng chừng không bao giờ tỉnh lại. Trong cơn mộng mị, chị thấy mình về lại ngày mới lớn, vui tươi, nhí nhảnh bên anh, những ngày lãng mạn, tươi đẹp, nhuộm xanh cả bầu trời.

Hình như giấc mơ đã giúp cho chị thêm chút sức lực, và trời thương, đã có lúc chị thấy mình mở mắt, để thấy đứa con gái bé bỏng ngủ vùi trong lòng mình và đứa con trong bụng có lúc quẫy đạp.

Có lẽ nhờ đó, mà ý chí phải sống trong chị trỗi dậy mạnh mẽ, nhưng tới lúc gặp được tàu cứu thì chị một lần nữa chìm sâu vào hôn mê.

Không biết bao lâu, khi chị tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trong bệnh xá xa lạ, tâm trí hoang mang, mơ hồ. Chị hỏi đây là đâu. Qua người y tá bản xứ, chị biết đây là một đảo thuộc Mã Lai.

Biết mình đã tới bến tự do, nhưng quá yếu, chị lại hôn mê. Trước khi ngất, không hiểu sao trong tiềm thức, như một lời trăn trối, chị rút cái địa chỉ giấu trong lai áo, đưa cho cô y tá, nhờ đánh giùm điện tín cho người này, nói chị đang ở đây.

Qua hôm sau, trong cơn thập tử nhất sinh, cái thai có triệu chứng sinh non, mà chị lại quá yếu, Bác sĩ đang lo lắng, không biết có cứu nổi cả mẹ lẫn con không? 
Trong cơn mê, chị nghe tiếng khóc của chồng, và cảm giác hơi ấm bàn tay nhỏ nhắn của đứa con gái bé bỏng vuốt ve trên mặt, chị như được được hồi sinh lần nữa. Bác sĩ quyết định mổ.

Như cơn gió lốc… 
Anh của những ngày tháng cũ, vẫn cao gầy, dáng thư sinh, tuy khuôn mặt bơ phờ, mái tóc nâu rối bời, và cặp mắt xanh lơ, giờ đã không còn sáng như hai vì sao nữa, bởi từ lúc nhận được điện tín, liên lạc được với Liên Hiệp Quốc để xác minh, anh đã không hề chợp mắt.

Chuyến bay tốc hành đã đưa anh tới đảo nhỏ này, và giờ đây, đứng nhìn chị bé bỏng, hôn mê trên giường bệnh.

Trước khi đi qua đây, trong đầu anh không hề nghĩ tới chị đã có chồng, con, và một đứa nữa sắp chào đời.

Đứng đó nhìn chị, anh đau đớn, xót xa, đầu óc anh tràn đầy xúc động. Anh véo tay mình mấy lần, để biết chắc đây không phải là một giấc mơ.

Khoảnh khắc, đau đớn, ngỡ ngàng rồi cũng qua đi, Anh thảo luận với bác sĩ, nói chuyện với chồng chị, giới thiệu sơ về mình, và anh khẩn cấp liên lạc bệnh viện lớn nhờ giúp đỡ.
.

Ngay ngày hôm đó chị được trực thăng chuyển về bệnh viện lớn ở thủ đô Kuala Lumpur, với sự chăm sóc đầy đủ nhất. Chị được cứu sống, cả mẹ lẫn con.

Biết chị đã vượt qua cơn nguy hiểm, lòng anh rộn rã. Đứng bên ngoài phòng, nhìn đứa bé gái sinh non, lớn hơn con mèo một chút, ngo ngoe trong lồng kính, cảm giác tràn ngập thương yêu như chính con mình. Anh ngỏ lời với chồng chị, xin làm cha đỡ đầu của đứa bé.

Trước hôm về lại Mỹ, anh và chị lần đầu nói chuyện trực tiếp với nhau ở bệnh viện, khi chị đã tỉnh táo. Bên giường bệnh, nhìn chị, ốm xanh như chiếc lá. Ánh mắt yêu thương, như ngàn lời muốn nói, nhưng anh biết, có rất nhiều điều cần phải giữ lại cho riêng mình.

Chị nhìn anh cảm kích, biết ơn. Những thứ này có nghĩa gì với những điều chị đang chất chứa trong lòng. Nhưng cũng như anh, chị biết mình không thể nói hay biểu lộ ra những gì mình đang nghĩ, tự nhủ lòng… phải quên thôi!

Ánh mắt nhìn nhau thăm thẳm như biển sâu, chị chỉ nói được một câu: “Em xin lỗi”.

Có những niềm riêng một đời giấu kín 
Như rong rêu chìm đắm trong biển khơi
Có những niềm riêng một đời câm nín
Nên khi xuôi tay còn chút ngậm ngùi…

Trước lúc chia tay, anh trao riêng cho chồng chị một phong bì, bên trong có một xấp tiền mặt. Chồng chị tự ái, không nhận, nhưng anh cứ bắt chồng chị phải nhận, anh nói:

“Cứ coi như tôi cho mượn, sau này anh có thì trả lại tôi…”

Bốn tháng sau, giữa năm 80 gia đình chị chính thức định cư ở San Jose, Ca…

Thời gian qua nhanh, hai năm sau đó chị có thêm một thằng cu Tí ra đời. Nhìn ba đứa con ngày mỗi lớn, chị giờ đã bình thản hơn, sóng gió trong lòng đã dịu đi nhiều. Mỗi năm đến ngày lễ lớn hay sinh nhật của từng đứa con chị, anh đều gửi thiệp, gửi quà. Nhưng hai bên không ai nói chuyện trực tiếp, chị thấy vậy cũng tốt, thôi thì cố coi như “… chỉ là giấc mơ qua”!

Hai vợ chồng chị đều đi học lại, có nghề nghiệp ổn định và đời sống kinh tế vững vàng. Món tiền 7 ngàn dollars năm xưa, chồng chị gởi trả lại cho anh sau 3 năm tới Mỹ.

Nợ tiền đã trả được… nhưng nợ tình thì sao?

Có một điều làm chị bứt rứt là anh không lấy vợ, 40 tuổi anh vẫn sống độc thân. Công việc của anh đi nhiều, và anh lấy công việc bận rộn làm vui…

Mẹ anh thỉnh thoảng nói chuyện với chị qua điện thoại. Bà thương chị như con dù chưa bao giờ gặp, tuy nhiên bà biết mặt chị qua tấm ảnh trong phòng anh.

Những gì bà ấy nói thường làm chị buốt nhói trái tim, làm chị cảm động đến khóc được, và qua bà, chị biết được toàn bộ cuộc sống của anh. Hai người đàn bà, cùng nắm giữ trái tim một người đàn ông. Chị gọi bà bằng Mẹ, các con chị gọi bà là bà ngoại.

Một chiều mùa thu, bà gọi cho chị biết anh đang ốm nặng.
Chị muốn đi thăm lắm nhưng vì công việc làm không thể nghỉ, hơn nữa có những lý do tế nhị chị không đi được. Chị chỉ có thể gởi một bình hoa thật đẹp vào bệnh viện cho anh.
Hôm biết anh xuất viện, chị gọi điện thăm nhưng anh còn yếu, chưa nói chuyện được.

Mẹ anh vừa khóc vừa nói vớí chị: “Con biết không? Họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp gửi hoa tới bệnh viện rất nhiều nhưng đến lúc xuất viện, ngồi trên xe lăn, còn rất yếu mà nó chỉ ôm khư khư bình hoa của con, đem về nhà, để bên đầu giường”.

Chị khóc !

Hai năm sau đang giờ làm việc, mẹ anh gọi báo tin anh hấp hối, cuộc giải phẫu tim không thành công.

Chị bỏ hết công việc lên thăm anh lần cuối, đi cùng chị có con bé giữa, đứa bé năm nào nhờ anh mà được sống sót…

Nhìn anh thoi thóp trên giường bệnh, chị khóc như chưa bao giờ được khóc, lần đầu cũng là lần cuối, chị khóc thương cho tình yêu của anh và của chị. Khóc thương cho người đàn ông đã yêu chị bằng một tình yêu bền bỉ, không bao giờ ngưng nghỉ, chưa hề đòi hỏi ở chị một điều gì.

Trong một lúc hiếm hoi, tỉnh táo, anh bình thản nhìn chị với ánh mắt tràn ngập thương yêu… Anh cười, bảo chị đừng buồn, đời sống có sinh, có tử. Anh cảm ơn thượng đế, đã cho anh gặp và yêu chị. Chị đau đớn nghẹn lời, cũng chỉ nói được một câu: “Em xin lỗi”.

Ánh mắt xanh lơ, cái nhìn đằm thắm, anh thu hết tàn lực nói với chị rằng:

“Nếu có kiếp sau, em đừng nói câu xin lỗi”.

Đám tang anh vào một ngày đầu mùa đông… buồn. Anh ra đi ở tuổi 46.

Chị trở về cuộc sống thường ngày, thế gian này từ nay thiếu vắng anh nhưng trong lòng chị, anh vẫn có một chỗ đặc biệt dành riêng.

Ba tháng sau đám tang anh, chị nhận được thư mời của luật sư, sẵn dịp chị bay lên thăm mẹ anh, bà đã già đi nhiều sau cái chết của con trai.

Hôm mở di chúc của anh, chị mới biết cả ba đứa con chị đều có phần trong tài sản của anh để lại. Số tiền không nhiều nhưng dư đủ cho cả ba đứa vào học những trường đại học danh tiếng nhất.

Chiều tàn, bên ngôi mộ anh, chị lặng lẽ thầm thì những lời thương yêu mà lúc anh còn sống chị đã không thể nói.

Theo gió chị gửi tới anh, những lời của một tình yêu, mà chị biết kiếp này và… cho tới kiếp sau chị vẫn ao ước được có, cũng như được gặp lại.

Văng vẳng bên tai chị nghe có tiếng anh thì thầm, “Nếu có kiếp sau xin em đừng nói câu xin lỗi”…

(Người viết: Khuyết Danh)

Ảnh minh họa: Tấm ảnh cũ – Kỷ vật quý giá của cựu binh Jim Reischl trong hành trình tìm kiếm bạn gái xa cách 45 năm.

Người Việt Gốc Mỹ

Người Việt Gốc Mỹ

Nguyễn Thế Thăng 

Tác giả Nguyễn Thế Thăng tốt nghiệp khóa K2DH/DH/CTCT, định cư tại Mỹ 1992, diện HO 13, hiện là cư dân tiểu bang Oregon. Công việc: Sỹ quan điều hành tổ thông dịch viên của Lực Lựơng Phòng Vệ thuộc Vệ Binh Quốc Gia, Oregon, cấp bậc Thiếu Tá. (Oregon Army National Guard/State Defense Force/Interpreters Team/X.O) (ORANG/SDF/Interp. Team/XO)..

Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện về một người bạn cựu chiến binh Mỹ tự xưng là “người Việt gốc Mỹ”. 

Tôi biết Mike khoảng hai năm sau ngày đặt chân lên đất Hoa Kỳ. Dù hành trang sẵn có chút ít tiếng Anh từ trước 1975, tôi vẫn phải vất vả hội nhập vào xã hội mới bằng những bước chân chập chững, e dè trong độ tuổi “bất hoặc”. 

Thật may mắn, tôi tình cờ được gặp và quen biết Mike. Anh đã cho tôi một cái nhìn khá bao quát nước Mỹ từ phong tục tập quán đến văn hóa xã hội lẫn chính trị. Mike đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ cả vật chất tinh thần để tôi có được một nghị lực, niềm tự tin, sự phấn khởi tràn trề khi bắt đầu nửa cuộc đời còn lại nơi tha phương, đất khách.

Trong buổi họp mặt cựu Chiến Binh nhân dịp Memorial Day của State Guards Association of U.S (SGAUS), bàn của tụi tôi rất ồn ào với đủ mọi vấn đề trên trời dưới đất, vui nhất là những chuyện tiếu lâm xoay quanh đời sống thường nhật của người Mỹ, đặc biệt lớp tuổi về hưu phải đương đầu với nhà dưỡng lão, bệnh tật, nhất là bệnh lãng trí Alzheimer…

Hôm ấy, tôi kể chuyện một đôi vợ chồng già, Bác Sĩ nói với người vợ: tôi thấy sức khỏe ông nhà ngày càng khá hơn khi ông tìm được niềm vui nơi Thượng Đế, tin tưởng nhiều hơn vào Chúa Quan Phòng, đến nỗi, ông nghĩ Chúa đang theo giúp đỡ ông trong mọi việc, trong từng bước chân đi. Ông nói với tôi, đêm qua, khi ông vừa mở cửa nhà vệ sinh để đi tiểu thì Chúa bật đèn lên cho ông liền…

Bà vợ la lên, ngắt lời Bác Sĩ:

– Ôi lạy Chúa tôi, ổng lại đái vào tủ lạnh của tôi rồi!!!

Cả bọn cười bò lê bò càng. Cười lớn nhất là một chàng cao lớn, tóc vàng tên là Mike.

Anh vỗ vai tôi:

– Ê, bạn người gốc nước nào?

– Việt Nam.

Mike bật đứng dậy, bàn tay như hộ pháp chụp lên đầu tôi, nói thật lớn, nguyên văn bằng tiếng Việt đặc sệt giọng miền nam:

– Đ.M. nãy giờ sao hổng nói?

– Ủa, anh biết tiếng Việt hả?

Mike vênh mặt lên, tay phải vỗ bồm bộp vào cái ngực đang ưỡn, vẫn dùng tiếng Việt:

– Hai lần công tác Việt Nam, đem về Mỹ một cô giáo dạy tiếng Việt tại gia từ 1972, học và nói tiếng Việt từ hồi đó đến giờ, bộ ngu lắm sao mà không biết, biết rành quá đi chứ!!

Không ngờ trong bàn lại có một số cựu chiến binh Việt Nam khác, đua nhau xổ ra những câu tiếng Việt họ còn nhớ lõm bõm:

– Chòi đắt ui (trời đất ơi)

– chào cắc Ong, mành giỏi? (chào các Ông, mạnh giỏi)

– Con gái Viết Nàmdde.p lám (con gái VN đẹp lắm)

– Ngùi Viết Nàmtót lám, đi đi mao, đin – kí đàu (người VN tốt lắm, đi đi mau, điên cái đầu !)…

Riêng Mike nói tiếng Việt rất lưu loát, không hề sai một âm nào (giống như ca sĩ Delena hát tiếng Việt vậy), kể cả cách dùng chữ rất trí thức, đôi khi dí dỏm, có lúc thật tiếu lâm.

Tôi đã gặp một nhân viên Bộ Ngoại Giao rành tiếng Việt đến nỗi khi tôi đùa hỏi “Anh người gì mà nói tiếng Việt ngon lành vậy” Anh trả lời tỉnh bơ “Tôi người Bắc !”.

Tôi cũng đã gặp một số người Mỹ chính gốc, thuộc giáo phái Mormon, họ thảo luận Kinh Thánh, đi truyền đạo Tin Lành bằng tiếng Việt thật trôi chảy, nhưng đó là nghề của họ.

Còn Mike, anh nói tiếng Việt bằng cả tấm lòng: tên Mỹ của tôi là Micheal, tên Việt của tôi là Mai, theo giọng Việt Nam có nghĩa là hên, là may mắn, còn giọng Việt Bắc (?) hay Việt Trung (?) có nghĩa là hoa mai, một loài hoa rực rỡ mùa xuân!

Vợ tôi vẫn thích kêu tôi là Mai Cồ, hay Anh Cồ, hoặc Cồ ơi chỉ vì tôi bự con! Con rể của nước Đại Cồ Việt mà! Một ông thày bói VN nói số tôi phải cưới vợ họ Trần vì cả đời tôi không thích mặc áo..vv và vv … tôi há hốc miệng ngồi nghe một chàng mắt xanh, mũi lõ, tóc vàng 100% Anglo-Saxon đang chơi chữ bằng chính ngôn ngữ của tôi !!!

Một đêm hội ngộ tuyệt vời, vui như chưa từng thấy từ ngày sống kiếp lưu vong.

Một tuần sau, Mike điện thoại mời tôi đến nhà..

Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: gia đình Mike gồm vợ chồng và 2 con hoàn toàn sinh hoạt theo truyền thống Việt Nam và tự nhận là người VN. Mike nói: đúng ra tôi là người Việt gốc Mỹ! Người bản xứ khi nghe tôi giới thiệu là người VN, nói tiếng VN thì họ vui lắm, vài người lúc đầu cứ tưởng nước VN ở đâu đó bên Đông Âu nên mới tóc vàng, mắt xanh!

Người gốc VN lại tưởng tôi là Mỹ lai, càng vui hơn, gần gũi hơn vì có 50% máu Việt Nam trong người mà, ai cũng vui. Mike dùng chữ “vui cả làng”!

Cả gia đình dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ chính.

Sống trên đất Mỹ, Mike tâm sự, nói tiếng Anh là việc đương nhiên, thế mà nhiều gia đình VN từ vợ chồng con cái đều ra vẻ hãnh diện với mớ tiếng Mỹ đôi khi trật giọng, sai văn phạm….hoặc nói đệm, câu nào cũng chêm thêm chữ Mỹ vào, trong khi cố tình lơ lớ tiếng mẹ đẻ của mình, dễ mất gốc quá, tủi hổ ông bà tổ tiên quá, uổng phí quá.

Lại có cả vài người viết văn, nhiều chữ thông thường không biết, hay giả vờ không biết, lại phải dùng tiếng Anh mới thấy dổm làm sao.

Tôi rất khâm phục những gia đình còn giữ vững truyền thống tốt đẹp VN. Tôi thấy những em bé VN thật dễ thương với tiếng Việt líu lo như chim hót nhưng tôi nhìn các em với cặp mắt bình thường nếu các em nói tiếng Anh, thật bình thường vì đây là nước Mỹ, sau này khi lớn lên phải học thêm một ngoại ngữ ngoài tiếng Anh, họ sẽ hối hận. Tiếc quá, Mike chặt lưỡi, lập đi lập lại, tiếc quá !!

Anh có biết “bà lang kẹt” là ai không? Thế mà một ông VN đã tuyên bố tự nhiên như người Sàigòn, vào mỗi mùa Đông, trên giường của ông phải có ít nhất hai bà lang kẹt ngủ mới đã, mới đủ ấm !?!?

Mai Liên, vợ anh, một sinh viên Đại Học Cần Thơ sinh quán Sóc Trăng.

Hai người quen nhau khi Mai Liên đi học thêm Anh ngữ trong một lớp do chính Mike phụ trách phần đàm thoại và luyện giọng. Thế rồi hai người yêu nhau nhưng không thể tiến đến hôn nhân vì gia đình hai bên đều không tán thành.

Mike phải xin trở lại Việt Nam lần thứ hai, kiên trì thuyết phục cha mẹ Mai Liên bằng chính tiếng Việt anh đã học được từ người tình. Cuối cùng không những cha mẹ, anh chị em của Mai Liên mà cả bà con xóm giềng cũng hài lòng với “thằng Cồ” vui tánh dễ thương lúc nào, nơi nào cũng pha trò được.

Riêng gia đình Mike lúc đầu vẫn chưa mấy thiện cảm với người dâu dị tộc. Hai vợ chồng son cố gắng sống hòa hợp với mọi người, không tỏ ra khó chịu mà còn thấy vui vui với cái tên Liên vài người cố tình đọc trại thành Alien (=người lạ).

Chẳng bao lâu sau tình thế hoàn toàn đảo ngược. Khi cha mẹ Mike dọn vô nhà dưỡng lão chỉ có vợ chồng Mike thăm viếng thường xuyên.

Ông bà rất cảm động, thỉnh thoảng lại công khai ngỏ lời xin lỗi Mai Liên và giới thiệu với mọi người Liên là đứa con gái yêu quý nhất.

Bốn gia đình anh chị của Mike tan vỡ hết ba, sự kiện phổ thông với trên 60% gia đình Mỹ bị rắc rối trong hôn nhân. Cứ một lần li dị lại một lần chia gia tài, riết giống như chuyện thường tình. Tuy nhiên, có điều lạ là sau khi chia tay, họ vẫn liên lạc qua lại với nhau, coi nhau như bạn, không ai ghen tuông gì hết.

“Tạ ơn trời đất (Mike không dùng chữ Chúa) tôi có được một bà vợ tuyệt vời. Liên lo lắng chăm sóc tôi kỹ lắm từ mọi sinh hoạt đến từng miếng ăn hàng ngày. Tôi đã quen và rất thích thức ăn Việt Nam. Rất hợp lý nếu ta không biết kiêng cữ, cứ ăn tầm bậy là đưa đủ thứ bệnh tật vào thân thể mình thôi. Anh ăn cái gì anh sẽ như thứ ấy.

Ăn nhiều rau, đậu, trái cây tươi, da thịt anh sẽ tươi. Anh ăn mỡ, cơ thể anh sẽ phải đeo mỡ.

Tốt nhứt nên ăn chay. Gia đình tôi ăn chay mỗi tuần một lần, nhiều nhất là các loại rau. Đồ chay Liên làm ngon lắm. Món nào cũng ngon, cũng tốt cho sức khỏe vì Liên chỉ dùng dầu olive thay cho mỡ động vật, không mặn lắm, không ngọt quá như đồ ăn Mỹ, nhất là hoàn toàn không dùng bột ngọt. Đặc biệt nước mắm ăn riết rồi mê luôn nhưng điều cần thiết nước mắm mua ở chợ về phải đem nấu cho sôi lên rồi đổ lại vô chai xài vì trong nước mắm có thể có nhiều siêu vi trùng, nhất là siêu vi bệnh gan, các loại mắm cũng vậy..

Chế độ ăn uống như thế làm sao bị phát phì như ba phần tư dân Mỹ hiện nay. Đến như con nít trên 6 tuổi thì phân nửa đã vượt quá trọng lượng được coi là mập rồi. Còn về thẩm mỹ, Anh thấy không, thông thường da người Mỹ trắng lại quá trắng, trắng nhễ nhại (?!)trắng như Bạch Tuyết nên trông có vẻ yếu đuối, bệnh tật, vì vậy họ phải đi phơi nắng ngoài biển hay vô các phòng nhuộm da trong các tanning clubs để cho da họ có màu đồng nâu hay màu bánh mật, nhìn rất khỏe mạnh, thể thao hơn, mốt thời thượng mà! Bà xã tôi được Trời Đất thương cho cái màu tự nhiên đó từ bé nên Ông Bà Ngoại sắp nhỏ mới đặt cho cái tên Mai Liên, anh đọc lái lại coi?!”

Nghe đến đây chính tôi đã phải kêu lên: chu choa mệ tổ ơi, mần răng mà cái chi mô anh cũng biết hết rứa chừ hết biết luôn.

Mike hiện nguyên hình một “chú Sam” há hốc miệng “Wh…what? What d’you say?”

Ngay sau khi dành thắng lợi đem được Mai Liên về Mỹ, Mike giải ngũ. Liên đi làm 2 nghề khác nhau cho phép Mike trở lại Đại Học lấy xong bằng Kỹ Sư Điện Tử.

Mike rất vui mỗi lần nhắc lại giai đoạn này:

tôi sướng như Ông Trời con, ngày ngày đi học, còn Liên cực lắm, hy sinh vừa đi làm vừa lo cho tôi còn hơn Ba Má tôi ngày xưa, dĩ nhiên tôi yên tâm học xong rất nhanh.

Bên Mỹ này anh muốn học là phải được, muốn học gì cũng được, muốn lấy bằng gì cũng có, chỉ cần anh có ý thích và có ý chí. Anh có thể học toàn thời gian, bán thời gian, học hàm thụ hay học ngay cả trên online. Không có tiền thì Chánh Phủ hoặc một cơ sở, một công ty hay một tổ chức nào đó ứng tiền cho mượn nếu đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên khi nộp đơn xin việc làm, người chủ chỉ căn cứ một phần trên bằng cấp, còn phần lớn dựa trên kinh nghiệm việc làm đã qua và sự giới thiệu, phê bình của các chủ cũ.

Tôi là cựu chiến binh, gần lấy xong bằng Kỹ Sư thì hãng Điện Tử Intel đã nhận trước rồi.

Năm đầu tiên tôi đi làm Liên chỉ còn làm một nghề, đến năm thứ hai Liên nghỉ việc hoàn toàn để đi học ngành Y tá. Đó là lý do chúng tôi chậm có con và chỉ có hai đứa.

Bên Mỹ này nghe nhà nào có 3,4 con là thiên hạ lắc đầu, le lưỡi liền. Có bầu, sanh con thật dễ dàng nhưng khó nhất, đau đầu nhất là vấn đề giáo dục, không dạy dỗ con được thì lại đổ thừa “cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh”, chưa chắc vậy đâu !

Có rất nhiều gia đình nuôi con đến 18 tuổi là bắt nó phải tự lập, nghĩa là đẩy nó ra ngoài xã hội, xét cho cùng điều này cũng có phần tốt..

Vì vậy, cũng rất công bằng khi bố mẹ già yếu, đến phiên chúng nó sẽ đẩy bố mẹ vô nhà hưu dưỡng thôi!

– Mai Lan ơi, ra chào chú đi con, Mike gọi.

Một cô gái Mỹ đẹp như tài tử điện ảnh Hollywood tươi cười bước ra, hai tay khoanh trước ngực, đầu cúi xuống, nói bằng tiếng Việt rất chuẩn:

– Cháu tên Mai Lan, cháu chào chú.

Tôi đứng dậy, Mai Lan bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay:

– Chú tên là Long, Chú rất hân hạnh được biết cháu, được quen biết gia đình cháu, một gia đình tuyệt vời, cháu là một cô gái tuyệt vời.. Cháu có về VN lần nào chưa?

– Dạ, cám ơn lời khen của Chú. Cháu đã về VN hai lần. Năm rồi cháu đi VN miễn phí.

– Sao vậy?

– Cháu có hai người bạn, hai chị em, bố mẹ họ là người Việt, hai bạn cháu không rành tiếng Việt nên bao cháu đi chung về VN để làm thông ngôn. Vui quá chừng. Bà con chòm xóm dưới quê cứ nhìn cháu chằm chằm: sao kỳ quá hè, Mỹ nói tiếng Việt còn Việt đặc thì bù trất, kỳ hén!

Lại nữa, Mỹ thì tên Việt còn Việt lại lấy tên Mỹ, ngộ ghê!

Cháu dịch lại cho hai đứa bạn nghe, tụi nó mắc cỡ quá, về đến Mỹ bắt đầu học tiếng Việt ngay.

Ba má tụi nó kèm riết, cháu cũng dạy thêm, bây giờ nói được hơi nhiều rồi. Hè năm nay tụi cháu lại về VN nhưng lần này cháu phải trả tiền vé máy bay vì bạn cháu không cần thông ngôn nữa, thông ngôn thất nghiệp rồi !

Ông bà ngoại cùng gia đình mấy Cậu, mấy Dì thương cháu lắm. Cũng có thể sẽ có anh Liêm đi cùng.

– Liêm là ai?

– Anh Hai cháu. Ảnh tên là Uy Liêm.

– Có phải đó là phiên âm tiếng Việt của chữ William không?

– Dạ đúng

– Thế anh cháu thích tên nào?

– Cả nhà cháu thích tên Uy Liêm hơn vì đa số tên riêng của Mỹ không có ý nghĩa gì hết, thường được bắt chước từ trong Kinh Thánh. Còn tên VN có lồng nghĩa trong đó, có khi mang cả ước vọng của cha mẹ đặt ở người con.

– Vậy Uy Liêm nghĩa là sao? Tôi giả vờ hỏi..

– Uy là uy phong, uy nghi, uy quyền, uy lực… còn Liêm là liêm chính, liêm sỉ, thanh liêm.

Người có quyền uy thì phải liêm chính. Người ta khi có chút quyền chức thường hay sanh tật xấu, rồi tham nhũng, rồi phách lối..

Ba má cháu muốn anh Hai khi nào có địa vị lớn thì phải sống thanh liêm..

– Anh hai cháu đã có địa vị lớn chưa?
– Dạ ảnh chỉ mới là Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến đang chiến đấu ở Iraq. Còn 4 tháng nữa ảnh sẽ xong nghĩa vụ, khi trở lại Mỹ, được nghỉ phép, anh Hai sẽ theo tụi cháu về thăm Ngoại.
– Anh Hai có biết tiếng Việt không?
– Hết sẩy Chú ơi, dù dở nhứt nhà nhưng cũng gần ngang tầm với Ba cháu …

Mike ngồi nghe tôi khảo hạch cô con gái, miệng cứ tủm tỉm cười.

Tôi thật sự cảm động, nếu không nói là choáng váng, cứ ngây người ra. Giả sử có ai đó kể tôi nghe về một gia đình như thế này, về một cô gái Mỹ thế này, về một Đại Úy Đại Đội Trưởng TQLC Mỹ như vậy… chắc chắn tôi không thể tin vì tôi đã phải chứng kiến nhiều hoàn cảnh trái ngược.

Có lần, vừa bước vô nhà một người bạn VN, ngay tại phòng khách treo một tấm bảng bằng carton với chữ: “No Vietnamese!” tôi ngập ngừng, hơi tái mặt, rồi lẳng lặng, chẳng nói chẳng rằng bước ra ngoài. Chủ nhà chạy theo đon đả.

Tôi nuốt nước miếng cho dằn cái gì đó nghèn nghẹn trong cổ họng rồi chậm rãi: có phải ông không muốn tiếp khách người VN hay ông không cho phép ai ngồi trong phòng đó nói tiếng Việt?

Anh ta phân bua: tôi chỉ muốn bà Xã và các cháu luyện tiếng Anh cho thật nhuyễn để mau thành dân Mỹ thôi !?!?

Vậy nếu ông vào một nhà hàng, một công viên, lên máy bay, xe lửa, xe buýt hay vô nhà một người Mỹ nào đó, ông thấy hàng chữ này, ông hiểu nó thế nào?!?!

Cách đây vài chục năm, khi tình trạng kỳ thị chủng tộc còn tồn tại trên đất nước Mỹ, người ta thường thấy trên xe buýt hay công viên có đeo bảng: No dogs and negroes (cấm chó và người da đen). Đến thập niên 60 mới chấm dứt. Bây giờ ông treo “No Vietnamese” trong phòng khách nghĩa là làm sao?!?!

Ông ta gỡ bảng xuống liền..

Ông bà này nghe nói qua Mỹ có mấy năm đã về VN xum xue, bà con bên nhà ngạc nhiên thấy ông và gia đình lột xác nhanh quá, sức mạnh một đại cường quốc có khác. Bên này cả hai ông bà đi làm vệ sinh, quét dọn trường học, về VN khoe làm trong ngành giáo dục nên rất ít nói tiếng Việt.

Riêng dân Mỹ hay người VN tại Mỹ chỉ nghe âm Mít đặc, không cần nhìn, đều biết ngay ông chánh gốc là “dân địa phương” Alaska vì, mười câu hết chín, ông đều nhắc đến tên một thành phố lớn của Tiểu Bang này: Du nô.

Nhưng thôi, đây là đất nước tự do mà! Tự do dân chủ với lưỡng đảng đàng hoàng.

Mike thường nói đùa với tôi “coi dzậy chứ hổng phải dzậy mà còn quá cha dzậy nữa” khi đề cập đến hệ thống lưỡng đảng của Hoa Kỳ hiện nay.

Cứ nhìn vô gia đình Thống Đốc Tiểu Bang California: Ông chồng Schwarzenegger thuộc đảng Cộng Hòa trong khi bà vợ lại theo Dân Chủ.. Khi làm việc, hai đảng kiểm soát lẫn nhau như vợ theo dõi chồng, như chồng để ý coi chừng bà vợ.

Nhưng khi có những sự kiện trọng đại liên quan đến an ninh đất nước, đến sự tồn vong của quốc gia, đến sự sống còn của dân tộc Hoa Kỳ thì hai đảng chỉ là một như sau vụ 9/11 mấy năm trước đây. Hình như có một thứ siêu chính quyền đâu đó quyết định tất cả, tương tự ảnh hưởng nội ngoại trên hai vợ chồng giữ cho hạnh phúc lứa đôi bền vững, từ đó nuôi dạy con cái thành công, kinh tế gia đình thịnh vượng, cho nước Mỹ chỉ mới hơn 200 năm lập quốc đã tiến lên bá chủ hoàn cầu. Nước Mỹ đang đứng nhất trên toàn thế giới về mọi phương diện nhưng rất tiếc, nhất luôn về vô luân thường, vô đạo lý và nhất luôn về cả lãnh vực tội phạm!

Đấy, Mike hướng dẫn cho tôi nhiều, rất nhiều điều, nhiều chuyện.

Chúng tôi ngày càng thân hơn khi biết tôi ngày xưa cũng có một thời gian đi dạy học. Vợ chồng Mike và cháu Lan lại thích tìm hiểu sâu xa tiếng Việt hơn qua những từ ngữ Hán Nôm mà tôi đã được Ông Ngoại, một Cử Nhân Hán Văn, khoa thi cuối cùng, dạy dỗ.

Nhờ vợ chồng Mike, tôi thực sự hội nhập vào xã hội Mỹ lúc nào không hay. Từ sự nhiệt tình giới thiệu của Mike, tôi được một chân Technician trong hãng Merix ở Forest Grove. Một năm sau, Mike khuyến khích và hướng dẫn vợ chồng tôi mua một cơ sở kinh doanh riêng ngay trung tâm thành phố Tigard đến nay đã tròn 12 năm.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi nhanh như những áng mây ngoài khung trời rộng. Thênh thang như giấc mơ Hoa Kỳ của gia đình tôi liên tiếp nở hoa.

Cho đến một ngày… Tin như sét đánh ngang tai. Hai vợ chồng Mike vừa qua đời trong một tai nạn xe! Cháu Lan gọi báo cho tôi bằng tiếng được tiếng mất, tức tưởi, nghẹn ngào.

Một anh Mễ nhập cư bất hợp pháp say rượu lái xe vào đường cấm ngược chiều. Xe Toyota Camry của vợ chồng Mike nằm bẹp dí dưới gầm chiếc xe tải F350 chở đầy đồ nghề làm vườn cắt cỏ.

Toán cấp cứu phải cưa xe mới đem được hai người ra nhưng cả hai đều đã tắt thở vì sức va chạm quá mạnh và vì vết thương quá nặng…

Lại thêm một nhức nhối của người Mỹ trước làn sóng nhập cư bất hợp pháp… lại thêm một vết đen tệ nạn say rượu, say xì ke lái xe DUI ngày càng nhiều…

Tang lễ thật đơn giản gồm đa số người quen gia đình, bạn bè làm chung Intel với Mike và đồng nghiệp trong bệnh viện của Mai Liên.

Cháu Uy Liêm được thông báo từ Iraq về để vừa kịp nhìn cha mẹ lần cuối trước khi đóng nắp quan tài..

Trời Oregon chiều nay mưa buồn day dứt. Nghĩa trang Finley Sunset Hills với những dốc thoai thoải quay về hướng Tây, về hướng Thái Bình Dương mà tận cùng bên kia bờ có một vùng đất mang tên VN, quê hương yêu dấu của Mike và Mai Liên suốt cả đời người. Gió buốt miên man như xoáy sâu vào tận xương tủy. Như chưa bao giờ.

Vài tia sáng yếu ớt long lanh trên những ngọn cỏ đầm đìa. Mắt tôi nhạt nhòa trong cái lạnh tái tê. Cũng xong một kiếp trong vô lượng luân hồi. Một chút gì đó có lẽ hai người đang hài lòng là vẫn còn được đi chung với nhau, vẫn còn được tay trong tay, cùng qua một thế giới khác, hy vọng sẽ tốt đẹp hơn.

Ít nhất về vật chất bây giờ xác hai người vẫn còn được nằm bên nhau, hai ngôi mộ song song, cùng nhìn về quê hương VN tít mù xa thẳm cuối chân trời.

Riêng tôi lòng trĩu nặng mối ân tình chưa thanh thỏa.

Trong suốt cuộc đời còn lại, dù còn sống trên đất Mỹ này, hay giang hồ đó đây, hình ảnh tươi vui khỏe mạnh, tràn đầy sinh lực, gương mặt dễ thương, cử chỉ ân cần, lời nói nhã nhặn nhiệt tình và đặc biệt ân nghĩa của vợ chồng Mike đã dành cho gia đình tôi chắc chắn sẽ khó phai mờ.

Cám ơn Michael Erickson. Cám ơn Mai Liên Trần. Xin tạm biệt. 

Nguyễn Thế Thăng

From Lucie 1937

Cảm ngộ

Cảm ngộ

 Câu chuyện thứ 1:

Nelson Mandela từng bị giam giữ và xúc phạm trong suốt 27 năm. Đến khi ông trở thành Tổng thống Nam Phi, ông đã mời 3 người cai ngục từng canh giữ ông trong thời gian chốn lao tù đến gặp mặt. Khi Mandela đứng dậy cung kính chào 3 vị này thì mọi người có mặt và trên toàn thế giới đều phải tĩnh lặng.
Ông nói: “Khi tôi bước ra khỏi phòng giam của mình, đi qua cánh cổng nhà tù để được tự do, tôi đã hiểu rõ ràng rằng, nếu không thể để nỗi đau của riêng mình và oán giận ở lại đằng sau, thì tôi vẫn là còn ở trong tù”.

Cảm ngộ:

Tha thứ cho người khác, nhưng thực ra là giải thoát chính mình.

Câu chuyện thứ 2:

Có một người hỏi vị nông phu: “Trồng loại lúa mì nhé?”. Nông phu đáp: “Mỗi ngày đều phải chăm sóc nó thật tốt! Không, tôi sợ rằng trời sẽ không mưa”. Người kia lại hỏi: “Vậy ông trồng bông không?”, nông phu nói: “Không, tôi lo lắng sâu sẽ ăn bông”. Người kia hỏi tiếp: “Vậy ông sẽ trồng loại cây gì?”. Nông phu nói rằng: “Cây gì cũng không được, tôi muốn đảm bảo chắc chắn an toàn”.

Cảm ngộ:
Mọi điều đều không muốn nỗ lực, đều không muốn mạo hiểm, luôn sợ rủi ro, những người vô tích sự như vậy đương nhiên sẽ không làm nên việc gì.

Câu chuyện thứ 3:

Có một con quạ đang bay trên đường thì đụng phải một ngôi nhà chim bồ câu. Bồ câu hỏi:“Bạn muốn bay đi đâu?”. Quạ nói: “Thực ra là tôi không muốn đi, nhưng vì mọi người đều

lo ngại rằng tiếng kêu của tôi không tốt lành, cho nên tôi phải rời đi”. Bồ câu nói với quạ: “Vậy thì tốt nhất là bạn đừng phí công vô sức! Nếu bạn không thực sự thay đổi tiếng kêu của mình thì cho dù bạn đi đến chỗ nào cũng sẽ đều không được chào đón”.

Cảm ngộ:

Nếu bạn mong muốn hết thảy mọi thứ xung quanh mình trở nên tốt đẹp, thì trước tiên hãy thay đổi chính mình.

Câu chuyện thứ 4:

Một gia đình có 3 người con trai, lũ trẻ từ nhỏ đã phải lớn lên trong tiếng cãi vã giữa cha mẹ, mẹ của chúng thường xuyên bị đánh tới mức thương tích khắp người. Người anh cả nghĩ:“Mẹ của mình thật đáng thương! Ta sau này nhất định sẽ đối xử tốt với vợ của mình”. Người anh thứ 2 nói: “Hôn nhân thật vô nghĩa, ta khi trưởng thành nhất định sẽ không kết hôn”.Người em út nói:“Hóa ra, làm chồng là có thể đánh đập vợ mình như vậy!”

Cảm ngộ:
Với cùng một hoàn cảnh nhưng sẽ có những lối suy nghĩ khác nhau, cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sau này. Vì vậy, là cha mẹ ngoài việc giáo dục con cái bằng những hành động gương mẫu của mình, thì lời nói cũng vô cùng quan trọng.

Câu chuyện thứ 5:

Có một vị tiểu hòa thượng phụ trách quét dọn lá rụng trong chùa, mỗi ngày phải cần rất nhiều thời gian mới có thể quét xong. Một người nói với anh ta: “Ngươi hãy rung cái cây thật mạnh cho lá rụng xuống rồi hãy quét, như vậy ngày mai sẽ không phải quét nữa!”. Tiểu hòa thường nghe vậy thấy cũng có lý, liền cao hứng làm theo, nhưng ngày hôm sau lá lại vẫn rụng khắp sân chùa như cũ. Mặc cho người này hôm nay ra sức rung mạnh cây, ngày mai lá vẫn lại rụng xuống như vậy.

Cảm ngộ:

Mọi việc đều không thể nóng lòng làm cho xong, làm tốt việc của ngày hôm nay, chính là có trách nhiệm với cuộc sống của mình vậy.

 From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen

Bỏ qua oán hờn

Bỏ qua oán hờn

Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ, có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi công việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất.

Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.

Người em hỏi người anh: – Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không?
Người anh đáp:
-Không.

Tuy thế người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi:
– Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó !Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào.

Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ.

Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng:
-Anh đã ở đây bao lâu rồi?

Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp:
-Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi.
Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.

Anh ta đề nghị:
-Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không?
Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa. phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau.

Điều này không dễ dàng nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến.

Sưu Tầm

 From: Cam Tuyet & KimBang Nguyen

Mối Tình Thiên Thu

Image may contain: one or more people, sky and nature
Image may contain: text
Van H Pham

Chúng ta thường nói với nhau: “sẽ yêu thương nhau suốt cuộc đời. Nhưng liệu chúng ta đủ can đảm để cùng nắm tay ra đi về bên kia thế giới???”.
**************

Mối Tình Thiên Thu…

Verona, New York: (Theo New York Daily News): Vào hôm Chúa nhật 27 tháng 4 năm 2014, ông Earl Myatt và bà vợ Mary, cả hai cùng ở lứa tuổi 59, đã hiên ngang đứng trên đường rầy ở nhà ga Verona , New York, khi một đoàn tàu tốc hành đang chạy tới.

Cả hai đã chết ngay tại chỗ.

Các nhân viên điều tra, sau đó, đã tìm thấy lá thư tuyệt mệnh của ông Earl, trong chiếc xe hơi đậu gần đó.

Vài phút trước khi ông và bà vợ ra đứng trước đoàn tàu chạy đến, ông Earl đã điện thoại cho một người con trai, nói là ông ta thương yêu con và xin lỗi con về chuyện mà ông sắp sửa làm.

Ông Earl quen bà vợ Mary từ khi hai người còn học ở trung học và mới có 17 tuổi. Cả hai đã sống với nhau hạnh phúc trong 42 năm, có hai đứa con trai và bốn đứa cháu nội.

Vào đầu năm nay, bà Mary bị chứng phù não (brain aneurysm) đã làm cho bà này không thể tự tự săn sóc , và khó khăn trong việc phát âm.

Ông Earl làm việc cho một tiệm sách trong trường cao đẳng cộng đồng Mohawks Valley và đã phải đi làm từ lúc 3.30 sáng mỗi ngày, để có thì giờ còn lại trong ngày, săn sóc cho bà vợ.

Ông Earl đã suy thoái tâm thần khi nhìn thấy sự suy sụp về sức khỏe của bà vợ. Và họ đã quyết định cùng chết cho Mối tình đầu cũng là mối tình cuối.

Lạy Chúa, xin tha phần phạt cho hai linh hồn này. Amen.

Tự hứa và quyết tâm làm hòa

Tự hứa và quyết tâm làm hòa

 Câu chuyện có thật rất cảm động

 Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó, trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5, 23-24)

Những buổi chiều tối mùa đông ở thành phố Dalat thật lạnh, càng về đêm cái lạnh càng se sắt cắt da, sương mù giăng dầy đặc… Phố xá đã lên đèn từ bao giờ, tia sáng vàng vọt của những ngọn đèn đường tỏa chiếu lung linh trên mặt đường, xuyên qua màn sương thật đẹp, thật dịu dàng… trong khi nhà mình thì vẫn tối tăm kể từ ngày đổi đời (1975).

Tôi dắt bốn đứa con nhỏ đến nhà thờ chánh tòa để tham dự Thánh Lễ đêm. Đêm nay khắp thế giới đang tưng bừng kỷ niệm mừng đón Chúa Giáng Sinh.

Hàng cây anh đào hai bên đường ủ rũ đứng lặng im trong sương đêm. Mẹ con tôi dắt díu nhau co ro đi trên phố vắng thật vắng, tự nhiên tôi rùng mình, cảm tưởng có một chút gì rờn rợn trong tâm tư thật tê tái như sợ sợ, như buồn buồn, như thảm thảm… khung cảnh sao mà buồn da diết,  tâm hồn tôi cũng da diết buồn và tủi thân tủi phận… „người buồn cảnh có vui đâu bao giờ“.

Nhìn bốn đứa con gầy guộc, hốc hác, ăn mặc không đủ ấm so với những ngày bình yên trước 1975, lòng tôi đau như cắt, nước mắt lúc nào cũng đoanh tròng chỉ chực rơi.

Mừng Chúa Giáng Sinh mà mẹ con cũng chả được một bữa ăn cho no, nói chi đến đầy đủ calorie, nói chi đến gà nướng, bánh Noel và những gói quà dưới gốc cây thông như đã từng, và v.v…

Miền Nam đổi chủ, Dalat thơ mộng của chúng tôi cùng cả miền Nam Việt Nam đón tiếp những hoảng hốt, những nghi ngờ, những hoang mang, đầy sự sợ hãi. Nhìn vẻ mặt thất thần của những em bé thơ ngây, những học sinh mới lớn đến các cụ già đều hằn sâu nét nhẫn nhục, chịu đựng, sợ sệt.

Nhất là chị em chúng tôi, những người vợ lính cô đơn cô độc, bơ vơ giữa đời lạ, ngay nơi mình được sinh ra, sống và lớn lên… Người phối nhẫu của chúng tôi  bị nhà cầm quyền ghép là „những người có tội với nhân dân“ lùa vào trại cải tạo.

Chính sách đổi tiền của nhà nước cộng thêm sự càn quét của cải ở miền Nam đem ra miền Bắc khiến dân miền Nam rơi vào cảnh đói nghèo khốn khổ. Chúng tôi cũng không ngoại lệ,

Từ ngày chồng tôi được nhà nước kêu đi trình diện mang theo lương thực cho 10 ngày. Thế mà cho đến nay đã bốn năm rồi, mẹ con tôi chờ đợi mòn mỏi, trong thất vọng rồi trong tuyệt vọng (tôi nghĩ chắc là không bao giờ còn được gặp mặt nhau nữa). Cảnh sống bữa đói, bữa lưng lửng thường trực ngự trị hằng ngày giữa mẹ con tôi. Nỗi cô đơn, bơ vơ, lẻ loi, sợ sệt luôn bao trùm cuộc sống của chúng tôi trong từng bữa ăn, từng giấc ngủ… mấy mẹ con không có chút niềm vui hay hy vọng và bình an nào.

Trong tháng 3.1975 khi cả miền Nam sôi xục hốt hoảng chạy, mẹ con chúng tôi theo đoàn người di tản về Saigon vì hy vọng chồng tôi cũng từ đơn vị đóng ở Pleiku sẽ theo đoàn quân di tản về Saigon, nên „đồ tuế nhuyễn, của riêng tây“ trong nhà bị mất sạch. Tháng 5.1975 chúng tôi trở về Dalat thì may mắn còn căn nhà trống không, đôi đũa, cái chén cũng không còn. (may mắn vì nhà ở đường hẻm) cỏ trong vườn cao ngập đầu người.

Để tồn tại, tôi cố gắng tập tành buôn thúng bán bưng nuôi 4 đứa con vị thành niên. Tôi ra chợ Dalat tìm những người quen của ba mẹ tôi xưa kia bán hàng ngoài chợ xin họ cho tôi lấy trái cây đem đi bán lẻ để kiếm chút tiền lời đong gạo nuôi con mà cũng không nên thân. Đêm về thì luôn luôn hồi hộp lo sợ, không bao giờ được ngủ yên giấc vì bụng đói cồn cào, vì lo lắng không biết sống ra sao, vì sợ nhỡ công an đang đêm đập cửa, nói là khám xét nhà, rồi vô cớ bắt tôi đi tù cải tạo nữa thì các con tôi còn quá nhỏ sẽ ra làm sao đây (vì tôi là công chức của Việt Nam Cộng Hòa), cứ nghĩ đến đó là rùng mình, rởn tóc!

Thời gian này có cô hàng xóm sống bằng nghề buôn bán rau trái, trước kia sống gần bên cạnh nông trại của ba mẹ tôi ở ấp Đa Thiện, nhìn thấy tôi khổ sở quá nên động lòng thương, rủ tôi đi buôn chung với cô.

Tôi không có một đồng xu lận lưng thì làm sao buôn chung được. Cô tự nguyện bỏ tiền ra, mỗi buổi sáng sớm tôi và cô ta, hai chị em ra chợ găp nhau, rồi cùng đi vào các làng trồng rau quả xem có gì thì mua nấy và đem ra chợ bán kiếm lời. Những nhà vườn ở Dalat rất nhân đức, khi chúng tôi không có tiền trả thì họ cho đem hàng ra chợ bán xong hôm sau đem tiền về đưa cho họ cũng được. Đây là một truyền thống của tất cả những nhà vườn trồng rau và trái cây ở Dalạt, Ba mẹ tôi thời còn nông trại cũng sống như vậy.

Ngày nào lời được chút tiền thì hai chị em được ăn phần cơm trưa, cũng có chút tiền mua gạo cho con và vài cục đường hay gói bột bích chi để dành cuối tháng đi thăm chồng trong tù cải tạo.Tạ ơn Chúa, cho thiên thần là cô bạn quý này đến giúp mẹ con tôi trong lúc khốn khổ tột cùng, kéo dài cuộc sống.

Trong lúc mẹ con tôi sống cơ cực, túng quẫn và khốn khổ như thế, mà cô bạn thân bị người tình phụ bạc quất ngựa truy phong, bây giờ mang cái bào thai oái oăm đến xin tá túc, nhờ tôi nâng đỡ. Thương bạn nhiều mà thương mình nhiều hơn nên cứ dùng dằng trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Thời buổi này nhà nước họ kiểm soát gắt gao lắm. Cứ vài ngày ông tổ trưởng dân phố và chàng công an khu vực lại ghé thăm mà mắt thì láo liên dòm từng ngõ ngách, dù nhà đã trống trơn không bàn, không ghế, không tủ… làm sao tôi dám chứa cô bạn mình ở nhà đây!?

Phần thì cơm gạo đâu mà nuôi thêm hai miệng ăn nữa chứ, trong khi mẹ con tôi còn phải hàng ngày nhịn bớt để có chút đỉnh tiền mà đi thăm nuôi chồng trong tù cải tạo.

Ôi! Gánh tôi sao mà nặng thế này!!! Bạn mình không dám về nhà vì sợ ba mẹ, sợ thiên hạ xầm xì, phỉ nhổ, cười chê gia đình nên cứ liều ở lì nhà tôi. Tôi cũng liều cưu mang bạn mình. Tôi dấu bạn tôi ở trên gác, chỉ thỉnh thoảng vào lúc đêm tối mới dám đưa bạn ra ngoài đi dạo một chút.

Vài tháng sau tôi trở thành con nợ như chúa chổm. Tối nào cũng có người đến đòi nợ, cô bạn tôi có chút tiền dành dụm cũng tiêu tan hết. Chúng tôi chả còn biết trong cậy vào đâu?

Cô bạn tôi đánh liều sai tôi đi Saigon thú thật hết mọi việc cho hai cụ thân sinh của bạn để xin viện trợ.Thế là tôi chạy vạy, vay mượn đủ tiền mua một vé xe đò đi về Saigon gặp hai cụ để ca bài „con cá nó sống vì nước“.

Sau khi trình bày ngọn ngành tình trạng khó khăn của mẹ con tôi và tình trạng đau thương của cô bạn, cụ bà liền phán một câu: „Cho nó chết đi chứ sống làm gì mà làm nhục gia phong như thế à“. Tôi chỉ biết cúi đầu và ngậm câm. „Thôi được rồi, bây giờ bác đưa cho con ít tiền để con cưu mang nó trong lúc này, con cứ để nó ở trên Dalat và dấu kỹ nó dùm cho bác, chứ nó mà chường mặt ra cho dân Dalat trông thấy hay vác cái bầu ấy về đây thì bác độn thổ con ạ“.

Thế là từ đó thỉnh thoảng cạn tiền tôi lại được sai đi Saigon. Nhờ món tiền này của mẹ bạn, tôi thanh toán một số nợ nần khi tôi mua chịu thức ăn nuôi bảy  miệng ăn trong gia đình, và nuôi sống chúng tôi trong lúc khốn quẫn quá chừng quá đỗi.

Để lo tìm người quen và tin cẩn gởi đứa bé. Tôi phải mất nhiều thời gian dò hỏi và may mắn tìm được người hàng xóm trước kia của chúng tôi. Anh chị đều là nhân viên cảnh sát, đã nhanh chân chạy về Saigon khi di tản và đổi tên, đổi họ ở lại Saigon, anh chị sống bằng cách nhận đan áo len cho các tiệm bán quần áo và sinh sống ở Tân Định.

Gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa của bạn, tôi đưa bạn mình về Saigon và gởi ở nhà anh chị cho đến khi sanh nở. Bây giờ đến lượt anh chị săn sóc cho bạn tôi song tôi vẫn là người liên lạc với các cụ, để các cụ cứ nghĩ là tôi còn dấu con và cháu gái của cụ ở Dalat.

Khi bé gái được đầy tháng tôi về Saigon đưa bạn tôi về nhà xin lỗi hai cụ và xin hai cụ chu cấp hàng tháng cho hai mẹ con cách kín đáo. Hai cụ đồng ý chu cấp qua anh chị nuôi cháu bé, song vẫn còn giận con gái nên không cho con bước vào nhà và  không cho phép được bén mảng đến nhà. Tôi biết cụ còn giận con gái lắm chứ, nhưng thương thì vẫn thương nhiều lắm.

Nhân dịp này bà cụ đòi tôi phải đưa trả lại nửa số tiền cụ đưa cho tôi hàng tháng để lo cho con gái cụ. Trong người tôi không có một đồng xu dính túi lấy tiền đâu mà trả cho cụ. Đồng tiền như miếng chín, có thì tiêu, nhất là „tiền vào nhà khó như gió vô nhà trống“. Tôi buồn và giận lắm, không kềm chế được, tôi khóc và chào hai cụ rồi quay về Dalat ngay.

Hai cụ chỉ biết quý đồng tiền mà không hề nghĩ đến công khó cùng sự vất vả của tôi trong mấy tháng cưu mang bạn mình trong lúc hoạn nạn. Hai cụ cũng không biết thương hại mẹ con tôi trong hoàn cảnh khốn khó trong lúc đổi đời như thế này mà chồng tôi còn trong tù cải tạo.

Tôi buồn lắm, giận mình, giận bạn, giận đời và tủi cho thân phận, mà không biết tâm sự cùng ai…chỉ biết khóc… Vài tháng sau, tôi đi Saigon đem cuốn sổ ghi tất cả những chi phí cho bạn mình trong thời gian tôi giúp đỡ bạn cho đến nay, trao cho cụ. Tôi buồn giận hơn nữa là cô bạn thân từ ngày về Saigon cũng chẳng liên lạc gì với mình.

*    *     *

Đêm nay, trong ngôi Vương Cung Thánh Đường Dalat, với không khí thật trang trọng, thiêng liêng trong Thánh Lễ. Tôi lắng nghe đoạn Tin Mừng:

Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5,23-24).

Vị linh mục chủ tế giảng:

Đâu là bác ái của người Kitô hữu?

Anh chị em thể hiện tình bác ái thế nào với tha nhân?

Nếu mình có lỗi với anh em mà mình biết lỗi và đến xin lỗi thì chuyện rất bình thường. Nhưng Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, cả tôi và anh chị em, con cái của Ngài phải thể hiện tình bác ái bằng cách, khi người anh em có lỗi với mình, mình đến với họ, xin lỗi họ, làm hòa với họ“,

 như thế mình mới thể hiện lòng bác ái của Chúa Kitô. (cha chủ tế nay là Đức Hồng Y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Việt Nam)

Âm vang của đoạn Phúc Âm và lời giảng của cha đánh động tâm tư tôi rất mạnh. Nhìn lại mình tôi thấy mình thật có lỗi lớn trong chuyện này. Mình đã không tế nhị, không chút khiêm nhường, không kính trọng bậc trưởng thượng như cha mẹ mình.

Tôi có lỗi đã không chịu nhẹ nhàng và tế nhị giải thích cho hai cụ hiểu mà thương đến hoàn cảnh khó khăn của hai chúng tôi, cả tôi và bạn tôi đều có lỗi bất hiếu với hai cụ và thiếu tình thương với bạn mình.

Trong tim, tôi tự hứa với mình sẽ phải đến xin lỗi hai cụ. Nhưng thật khó khăn làm sao!

Chúa ơi, xin Ngài giúp con để con can đảm thực hành việc này. Tôi đắm chìm trong cầu nguyện, tha thiết xin Chúa giúp.

Cho đến lúc rước Thánh Thể Giêsu vào lòng,

tôi tự hứa với Chúa Giêsu :

tôi sẽ nhất quyết đến làm hòa với bạn mình

và xin lỗi hai cụ.

Tuần sau đó, vào một buổi tối ở Saigon, tôi đến nhà bạn. Người ra mở cửa là cô em bạn tôi. Vừa nhìn thấy tôi, cô ta quay vào nhà la thật lớn:

Chị V. ơi, chị T…. Rồi cầm tay tôi lôi vào nhà.

Bạn tôi từ trên lầu chạy  xuống ôm chầm lấy tôi, hai đứa không nói được lời nào. Chỉ có nước mắt đã nói thay tất cả. Hai chúng tôi khóc, cô em gái khóc và ông cụ đang đau ốm, nằm trên giường bệnh đã mấy năm nay cũng khóc.

Tôi được biết cụ bà đã qua đời cách đây vài tháng vì bệnh tim.Trong khi nằm bệnh viện và trước lúc qua đời cụ cứ nhắc đến tôi với lòng thương cảm và chút ân hận.

Tạ ơn Chúa đã thêm sức cho con, đã đồng hành với con để giúp con biết làm hòa với anh chị em con như Lời Chúa dạy. Phần thưởng Chúa ban cho chúng tôi là tình thân gia đình và tình bạn của chúng tôi lại thắm thiết hơn xưa.

Cụ ông cứ nắm tay tôi thật lâu không buông và nói đi nói lại hoài một câu:

Bác thương con lắm… thương con lắm.

Tôi sung sướng tràn ngập đón nhận tình thương của gia đình bạn và tình thương này đã nâng đỡ đời sống tôi rất nhiều. Tạ ơn Chúa và Ngợi Khen Ngài.

Elisabeth Nguyễn

From: Tramtubensuoi gởi

Bức thư đầu tiên của người vợ

Image may contain: one or more people
No automatic alt text available.

Van H Pham

Đọc câu chuyện này, một số bạn cho là hư cấu hoặc thời buổi này tìm đâu ra mẫu nguời như thế?!!! Nhưng nếu chúng ta là những người biết trân trọng qúa khứ thì sẽ hiểu vì sao?

************

TRUYỆN NGẮN….

Bức thư đầu tiên của người vợ

Vào một buổi tối, nhìn vào cơ thể thon thả, mảnh mai của người con gái đang nằm bên cạnh anh. Giây phút đó, anh thề rằng, anh nhất định sẽ mang lại hạnh phúc cho cô. Anh ta từ một kỹ sư xây dựng mới chân ướt chân ráo bước ra khỏi cánh cổng trường đại học,và sau đó xây dựng đội ngũ kỹ thuật của riêng mình.

Bây giờ, đã trở thành ông chủ một công ty xây dựng có tiếng tăm trong thành phố. Bên cạnh anh có quá nhiều cám dỗ. Trong khi đó, vợ anh ngày càng xấu đi, thân hình trở nên xồ xề, da dẻ cũng không hồng hào, mịn màng như trước. So với vô vàn kiều nữ bên cạnh anh, vợ anh thật quê mùa, ảm đạm. Sự hiện diện của vợ nhắc nhở quá khứ tầm thường, thấp kém của anh.

Anh nghĩ cuộc hôn nhân này nên chấm dứt ở đây. Anh gửi vào tài khoản của vợ 500 triệu, mua cho cô một ngôi nhà ở trung tâm thành phố nhộn nhịp. Anh không phải người đàn ông vô lương tâm. Vì vậy, nếu như không sắp xếp cuộc sống ổn thỏa cho vợ anh sau này, anh sẽ cảm thấy vô cùng tội lỗi…

Cuối cùng, anh chủ động đề nghị ly hôn. Vợ anh ngồi đối diện, trầm tư nghe anh giải thích lý do ly hôn. Đôi mắt ấy rất đỗi dịu dàng. Nhưng 20 năm làm vợ chồng, anh quá hiểu rõ về cô, đằng sau đôi mắt hiền dịu ấy, anh biết rằng trái tim cô đang rỉ máu. Anh chợt nhận ra mình thật tàn nhẫn.

Ngày vợ anh đồng ý rời khỏi nhà. Công ty phải giải quyết một vài vấn đề, anh bảo cô đợi ở nhà,trưa về anh sẽ giúp cô chuyển nhà,chuyển đến căn hộ chung cư anh mua cho. Đồng nghĩa với việc cuộc hôn nhân kéo dài 20 năm sẽ kết thúc tại đây.

Buổi sáng ngồi trong phòng làm việc ,anh bồn chồn,thấp thỏm . Đến trưa, anh vội vã về nhà. Căn nhà được dọn dẹp sạch sẽ, vợ anh đã đi mất rồi. Trên bàn đặt chiếc chìa khóa nhà anh mua cho cô , sổ tiết kiệm 500 triệu đồng và một bức thư cô viết cho anh.

Đây là bức thư đầu tiên mà cô viết cho anh: “ Em đi đây, em về nhà mẹ. Chăn em giặt phơi khô rồi đấy, cất ở ngăn cuối cùng bên trái tủ quần áo. Trời lạnh anh nhớ lấy ra đắp. Giày da tất cả em đều đánh xi rồi nhé, nếu anh không tự mình đánh được thì mang đến tiệm ông Tư đầu ngõ ấy. Sơ mi treo ở phía trên, vớ, thắt lưng ở trong ngăn kéo phía dưới tủ.Mua gạo nhớ mua gạo tám thơm của Thái Lan, anh nhớ vào siêu thị mua nhé, mua bên ngoài anh không thạo người ta bán hàng giả cho đấy. Dì Hai mỗi tuần đều đến dọn dẹp nhà cửa một lần, cuối tháng anh nhớ gửi tiền cho dì ấy. Còn nữa, đồ cũ cứ cho ông Tư đầu ngõ nhé, ông ấy gửi về quê cho bọn trẻ con,chắc chúng nó sẽ vui lắm. Dạ dày anh không tốt, em đi rồi anh nhớ uống thuốc đều đặn. Thuốc em nhờ người ta mua từ Quảng Bình, có lẽ cũng đủ dùng nửa năm. Anh ra ngoài thường quên mang theo chìa khóa nhà, em gửi một chùm ở chỗ bảo vệ , lần sau nếu quên thì đến đấy lấy nhé. Buổi sáng đi ra ngoài anh nhớ đóng cửa sổ, mưa tạt vào sẽ làm ướt nhà đấy. Canh cá lóc – món mà anh thích em để ở trong tủ lạnh. Anh về nhớ hâm lại rồi hãy ăn nhé. Gửi anh , người em yêu nhất”.

Những dòng chữ xiêu vẹo nhưng tại sao nó cứ như những viên đạn bắn vào trái tim anh, mỗi viên đều mang theo tấm chân tình xuyên thẳng vào ngực – đau nhói. Anh từ từ đi vào nhà bếp.Mỗi đồ vật ở đây đều lưu giữ dấu tay, hơi thở của cô. Anh chợt nhớ về 20 năm trước, anh làm ở công trường xây dựng dầm mưa dãi nắng. Những ngày tháng bần hàn của cuộc đời đều có cô bên cạnh. Nhớ lại bát canh cá lóc nóng hổi đã sưởi ấm trái tim anh trong những ngày mùa đông lạnh cắt da cắt thịt, nhớ lại giây phút anh đã từng hứa với lòng mình nhất định sẽ mang lại hạnh phúc suốt đời cho cô.

Anh quay người , nhanh chóng khởi động xe. Nửa tiếng sau, cuối cùng anh cũng tìm thấy cô đang đợi tàu trở về quê. Anh giận dữ nói: “ Em muốn đi đâu? Anh làm việc mệt mỏi cả ngày, về đến nhà ,đến cơm nóng cũng không có mà ăn. Em làm vợ như vậy à? Về nhà với anh ngay” Anh trông rất hung dữ và thô lỗ. Đôi mắt cô ướt nhòe, cô đứng lên, ngoan ngoãn theo sau anh đi về nhà . Giọt nước mắt xen lẫn niềm vui …… Cô không biết rằng, lúc này đi trước cô, anh đang dằn lòng cố kìm nén những giọt nước mắt…

Suốt quãng đường từ nhà đến đây, anh thực sự rất sợ, sợ không tìm thấy cô, sợ từ đây sẽ mất cô mãi mãi. Anh tự trách mình sao lại ngu ngốc đến vậy, hóa ra đánh mất cô ấy cũng giống như anh đánh gãy xương sườn của mình…Hai mươi năm đồng cam cộng khổ, hai người đã buộc chặt cuộc đời mình vào nhau, mãi mãi không thể tách rời.

Tại thời điểm sai lầm, địa điểm sai lầm, chỉ cần gặp được đúng người, tất thảy mọi thứ đều sẽ đúng!

Giàu có thực sự không phải số tiền trong thẻ ngân hàng, mà là nụ cười hạnh phúc trên khuôn mặt bạn. Tiền nhiều hay ít không quan trọng, quan trọng là tìm được một người toàn tâm toàn ý yêu thương bạn.

Trên thế giới này , hạnh phúc nhất là 3 từ “ta yêu nhau”. Hiểu được bản thân mình muốn gì, thế giới mới có thể hiểu được bạn

Tàu đắm, chồng bỏ mặc vợ.

Tàu đắm, chồng bỏ mặc vợ.

Tàu đắm, chồng bỏ mặc vợ tìm cách thoát thân, người vợ nói một câu ai nghe cũng kinh ngạc. Người vợ trong câu chuyện này đã cố nói gì với chồng, trước khi tàu chìm xuống biển?

Lựa chọn của người chồng.

Một câu chuyện đang được chia sẻ rộng rãi trên ứng dụng Wechat của Trung Quốc. Nội dung câu chuyện như sau:

Có một chiếc tàu lớn đang trên đường chở du khách ra biển tham quan thì gặp nạn. Trên tàu đó có một cặp vợ chồng, khó khăn lắm họ mới đến gần được chiếc thuyền cứu sinh.

Nhưng tiếc thay, trên thuyền cứu sinh khi đó chỉ còn duy nhất một chỗ ngồi. Và không do dự quá lâu, người chồng quyết định đẩy vợ lại phía sau, còn mình nhảy xuống thuyền cứu sinh trở về đất liền.

Người vự đứng trên chiếc tàu lớn đang chìm dần, cố hết sức hét lên một câu…

Nói đến đây, thầy giáo dừng lại hỏi học sinh: “Các em đoán xem, người phụ nữ đã hét lên câu gì với chồng của cô ấy?”

Các nhóm học sinh tỏ ra khá bực tức, nhiều em đồng thanh trả lời: “Tôi hận anh, tôi có mắt mà như mù!”

Khi đó, thầy giáo chú ý đến một học sinh nãy giờ ngồi im không nói gì. Thầy liền nhắc lại câu hỏi với chính em học sinh đó và nhận được câu trả lời: “Thưa thầy, em nghĩ rằng người phụ nữ đó đã hét lên rằng: “Hãy chăm sóc con của chúng ta thật tốt!”

Thầy giáo kinh ngạc hỏi: “Em nghe câu chuyện này rồi phải không?”

Em học sinh lắc đầu: “Không ạ. Nhưng trước khi mẹ em bệnh nặng qua đời, đã nói với bố em như vậy ạ!”

Thầy giáo cảm động nói: “Đáp án chính xác.”

Chiếc thuyền chìm dần phía sau lưng, người đàn ông đem theo nỗi đau tột cùng trở về nhà, nuôi các con khôn lớn trưởng thành.

Nhiều năm sau, người đàn ông lâm bệnh qua đời. Con gái ông trong lúc sắp xếp lại di vật của bố, đã phát hiện cuốn nhật ký của ông.

Thì ra, khi bố và mẹ cô đi thuyền ra biển chơi, là lúc mẹ cô đã bệnh nặng không thể cứu chữa. Vào thời khắc sinh tử, bố cô đã quyết định chọn cơ hội sống sót cho mình.

Trong nhật ký, ông viết: “Tôi đã rất muốn cùng mình, cùng chìm xuống đáy biển, nhưng tôi không thể. Vì con gái, tôi chỉ có thể để mình một mình an giấc dài dưới đáy biển sâu.”

Thầy giáo kể xong câu chuyện, cả lớp học trầm lắng không một tiếng động. Thầy giáo biết các em học sinh có lẽ đều đã hiểu ý nghĩa của câu chuyện này, rằng:

Sự thiện, ác trên đời có nhiều khi thật phức tạp, khó có thể phân biệt rạch ròi. Vì thế, với mọi hiện tượng, chúng ta không nên chỉ nhìn vẻ ngoài, mà khinh suất trong việc phán xét người khác.

Cùng ngẫm

Người thích chủ động thanh toán tiền, không phải bởi vì họ nhiều tiền, mà bởi họ coi trọng tình bằng hữu hơn tiền bạc.

Người chủ động làm nhiều hơn trong công việc, không phải họ ngốc nghếch, mà họ sống với tinh thần trách nhiệm cao.

Người xin lỗi trước sau khi cãi nhau, không phải vì họ nhận ra họ sai, mà bởi họ hiểu cách trân trọng những người xung quanh mình.

Người tình nguyện giúp đỡ bạn, không phải họ nợ bạn, mà họ coi bạn là bạn thực sự.

Người thường xuyên nhắn tin thăm hỏi bạn, không phải họ rảnh không có việc gì làm, mà bởi trong lòng họ có bạn.

From: Xuan Nguyen  

CHẾT TRONG ĐỒN

Đỗ Cao Cường was with Đỗ Cường.

(Tôi viết là để tưởng nhớ những thân phận được mời lên đồn công an làm việc và bị chết một cách mờ ám …)

Trời mưa tầm tã, mưa thối đất thối cát, cứ thế này thì làm sao mà mang hàng đi bán được, bơ thối phân nửa rồi, mà không bán thì chỉ có nước chết đói, cứ cái đà này rồi sẽ phải ngủ ngoài đường, cuối tháng lão chủ trọ sẽ tống cổ mẹ con lão ra khỏi đây.

Tay chắp sau đít, mân mê điếu thuốc sắp tàn, lão hết ra lại vào, trong căn phòng vỏn vẹn chưa đầy 10m2, tiếng nước rơi lả tả trên mái tôn như có thằng nào rắc lựu đạn xuống, lão lẩm bẩm chửi một mình, nhưng chả có ai nghe, chửi thì cứ chửi, mà mưa thì vẫn cứ mưa.

Sấm kèm theo sét, giật đùng đùng vang cả một góc trời, hễ nghe thấy tiếng sấm là con Mác nhà lão lại chạy cong đít, nó rúc đầu vào gầm giường, đuôi nó vẫy vẫy, miệng nó rên ư ử, một số con ve chó rơi ra nền đất, bò lổm ngà lổm ngổm.

Mặc kệ, hắn phải đi, phố xá lúc này ngập ngụa với đủ thứ rác thải, băng vệ

sinh, xác chuột chết nổi trương phình.
– Việt ơi, ngoài đường còn ngập, mới hôm nọ cống sập có đứa rơi xuống chết, con ở nhà đi, thằng Nam ỉa đùn ra quần rồi.
– Không đi thì cuối tháng tất cả ra đường ở, bu cứ để mặc tôi!

Bà cụ Uột rơm rớm nước mắt, mặt cụ méo xệch đi. Ngay lúc này, cụ chỉ muốn chết quách đi cho xong, sắp chết rồi mà còn phải chứng kiến cảnh con, cháu mình lay lắt cực nhọc, sống thế này thì khổ quá.

Mà thử hỏi, có ai khổ bằng cái nhà cụ Uột không, cứ tưởng người xưa nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” là đúng. Nhưng đến nay đã là đời thứ 5 rồi mà vẫn còn nghèo, nhà cũng toàn người chịu cày, chịu cuốc, chứ có quậy làng quậy xóm gì cho cam.

Ngoài kia, sét vẫn đánh tưng bừng, mưa vẫn còn nặng hạt, thi thoảng lại nổ lên một thứ âm thanh rùng rợn, ánh sáng chiếu thẳng vào phòng trọ, nước cống, nước rác tràn theo, ngồi trên tấm phản tựa vai vào tường, tay quyệt nước mắt rồi cụ Uột nhớ về những ngày trẻ, những ngày còn sống ở quê nhà có mồ mả tổ tiên, đang yên đang lành thì người ta tới bắt vợ chồng cụ đi xa làm kinh tế mới, từ khi cái khu rừng chết tiệt này còn là nơi trú ngụ của bọn hổ, rắn, cáo, chồn, hết năm này qua năm khác, nhờ công đốt rừng làm nương rẫy, bỏ biết bao công sức, mồ hôi, chết lên chết xuống mấy lần mới có được quả đồi cà phê tươm tất. Ấy vậy mà đùng một cái, chả biết giải phóng, giải pháp cái con mẹ gì mà chính quyền thu luôn cả ruộng vườn, nhà cửa của cụ.

Gào mồm đi kêu cứu khắp nơi chẳng được, ông chồng còn bị bắt về tội gây rối làm mất trật tự an ninh, uất quá, ông đứng trước cổng Ủy ban tỉnh tự thiêu rồi lăn đùng ra chết, bà vợ đến nơi thấy chồng mình toàn thân cháy xạm, tóc tai quăn tít, khét lẹt, nhưng mắt chồng cụ thì vẫn mở thao láo.

Cụ Uột có mỗi thằng con trai, lấy được cô vợ thì cuối cùng vợ bỏ, đến giờ vẫn không có tăm hơi gì, ả đi bỏ lại đứa con tật nguyền, tức thằng cháu đích tôn của cụ, nó cứ nằm một chỗ, nằm để chờ chết.
Cuối cùng, ba bà cháu bồng bế, dắt díu nhau lên cái thành phố đông đúc, ô nhiễm này để bấu víu, cụ đi rửa bát trong quán phở, lão con lết ra ngoài vỉa hè đánh giày, bán hủ tiếu, bánh canh rồi giờ chuyển sang bán bơ sáp, bơ do lão nhập từ Đắk Lắk về.

Sau bao nhiêu năm, tưởng sẽ dành dụm được ít tiền, nào ngờ tiền thuốc điều trị cho thằng cháu giờ còn chả có, lại còn nghe đâu chỗ bán thuốc cho nó, ông chủ hiệu thuốc mới bị bắt vì tội nhập thuốc tây giả, thảo nào bệnh thằng cháu cụ ngày càng nặng thêm. Năm nay cụ Uột cũng đã 80 tuổi, lưng còng, mắt mỏi, chân què, thôi thì cứ ngồi chờ chết chứ còn biết làm sao.
Lão cũng đã ngoài 50, ngày trước còn tươi cười hớn hở lắm, nhưng mấy năm nay lão cứ lầm lầm lì lì, ai hỏi cũng không nói, chủ yếu là lắc với gật. Ngày hai bận, lão lại lôi rượu ra tu, không mồi, không bạn, lão ngồi tu một mình.
 

*  *  *

Vậy là cuối cùng lão cũng lết ra được vỉa hè, chỗ mà ban ngày lão đứng, tối phải nhường chỗ cho mấy cô nàng bán thân. Hôm nay là một ngày tồi tệ đối với lão, gần đến nơi thì lão và và nhiều trái bơ của lão lăn đùng ra, không biết cái thằng bỏ bà nào phóng xe như điên khiến sóng đường như sóng biển, làm cho chiếc xe đạp Phượng Hoàng bị nghiêng sang một bên, khiến nhiều trái bơ bị dập.

Lão tới nơi lúc 9 giờ 21 phút sáng, đến 4 giờ chiều mới bán được 5 ký, che miếng nilon nham nhở nên người ướt như chuột lột, trời vừa mới tạnh nhưng đường vẫn đang còn ngập, lão tính đứng một lúc nữa rồi dắt xe về thì tự nhiên một chiếc xe tải đỗ ngay trước mặt lão, hai thanh niên to khỏe, một người mặc sắc phục công an, một người mặc áo đen, đeo kính râm chạy đến, trên xe có một thằng cũng mặc sắc phục bụng phệ, nó quát:
– Đứa nào không làm luật thì cứ thu hết đồ cho tao.

Nghe xong, thằng mặc sắc phục nháy mắt ra hiệu cho thằng kính đen, cả hai thằng lao vào nhấc, khiêng bổng chiếc xe đạp của lão lên, lão giằng lại, thằng mặc sắc phục giả vờ ngã, vừa lăn qua lăn lại nó vừa hét:
– Chống người thi hành công vụ, bắt nó lại!

Lập tức, hai thằng ngồi trên xe tải chạy đến tiếp ứng, chúng túm tóc, quật ngã lão bán bơ nghèo khổ, một thằng bẻ tay lão ra sau, nước dãi từ miệng lão chảy xuống, xong chúng còng tay, ấn đầu và lôi lão đi, đến nơi chúng quẳng cả người, xe lên thùng xe tải, chỉ có mấy trái bơ dập là chúng bỏ lại. Lúc đó, cũng có rất nhiều người tò mò vây quanh, nhưng không một ai dám lên tiếng.

Khi trời đã tối sầm, nước trên đường rút hết mà không thấy con trai về, bà cụ Uột nóng ruột chạy ra chỗ lão đứng bán bơ, hỏi mãi mới được một người đàn ông vá xe di động, vừa rải đinh trên đường ông này vừa cho biết con cụ đã bị công an phường giải đi từ chiều rồi. Bà cụ Uột lại chống gậy lọ mọ lên đồn. Khi đến nơi thì người ta thông báo con cụ vừa mới chết xong, nguyên nhân là do lão lấy dao lam cắt cổ, tự tử trong đồn.

Vừa nghe thấy vậy, bà cụ Uột hoảng quá, tay run lẩy bẩy, rồi cụ khụy dần xuống, cụ nằm lăn ra nền nhà ẩm thấp, toàn thân giật giật, sùi bọt mép một lúc rồi cụ tắt thở, ngoài kia màn đêm buông xuống, những đèn điện cao áp sáng rực lên, tiếng còi xe inh ỏi cho thấy có rất nhiều người đang di chuyển, trên bầu trời thi thoảng có tiếng chim lợn kêu, như đang báo hiệu một mùa chết chóc lại bắt đầu.

MỘT VIỆC NHỎ THÔI

MỘT VIỆC NHỎ THÔI

Một gia đình gồm hai vợ chồng và bốn đứa con nhỏ . Dịp hè họ cùng đi nghỉ mát ở một bãi biển . Bọn trẻ rất thích tắm biển và xây dựng những tòa lâu đài trên cát . Cha mẹ chúng thuê một cái lều ngồi uống nước trên bờ , dõi nhìn các con chơi đùa không quá xa ngoài kia phía trước mặt

Thế rồi họ trông thấy một bà cụ già nhỏ nhắn ăn mặc xuềnh xoàng , trên tay cầm một chiếc túi cũ đang tiến lại . Tóc bà đã bạc trắng , bị gió biển thổi tóc lên càng làm cho khuôn mặt nhăn nheo của bà thêm khó coi . Bà cụ đang lẩm bẩm một điều gì đó , dáo dác nhìn rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống nhặt những thứ gì đó trên bãi biển , bỏ vào cái túi

Hai vợ chồng không hẹn mà vội chạy ra gọi các con lại , căn dặn chúng phải tránh xa người đàn bà khả nghi kia . Dường như họ cố ý nói to cho bà ta nghe thấy để bà ta nên đi chỗ khác kiếm ăn

Cụ già không biết có nghe thấy gì không giữa tiếng sóng biển ì ầm , chỉ thấy bà cụ cứ từ từ tiến về phía họ . Thế rồi bà cụ dừng lại nhin mấy đứa trẻ dễ thương đang ngơ ngác nhìn mình . Bà mỉm cười với họ nhưng không ai đáp lại , chỉ gỉa vờ ngó lơ đi chỗ khác . Bà cụ lại lẳng lặng làm tiếp công việc khó hiểu của mình . Còn cả gia đình kia thì chẳng hứng thú tắm biển nữa , họ kéo nhau lên quán nước phía trên bờ biển

Trong lúc chuyện trò với người phục vụ bàn ăn cùng những khách hàng trong quán , hai vợ chồng quyết định hỏi thăm xem bà cụ khả nghi kia là ai và họ …. sững sờ . Bà cụ ấy là người dân ở đây , từng có một đứa cháu ngoại vì bán hàng rong trên bãi biển , vô tình đạp phải một mảnh chai rồi bị nhiễm trùng , sốt cao , đưa đi bệnh viện cấp cứu không kịp và đã chết không lâu vì bệnh uốn ván .

Từ dạo ấy , thương cháu đến ngẩn ngơ , bà cứ lặng lẽ đi dọc bãi biển , tìm nhặt những mảnh chai , mảnh sắt hoặc hòn đá có cạnh sắc. Mọi người hỏi lý do thì bà đáp mà đôi mắt ướt nhòe ( ồ tôi chỉ làm một việc nhỏ thôi ấy mà , để các cháu bé có thể vui chơi trên bãi biển mà không bao giờ bị chết như đứa cháu đáng thương của tôi )

Nghe xong câu chuyện , người chồng vội chạy ngay xuống bãi biển mong có thể nói một lời xin lỗi và một lời biết ơn chân thành , nhưng bà cụ đả đi rất xa rồi . Bóng bà chỉ còn là một chấm nhỏ trên bãi biển vắng người khi chiều đang xuống.

Đừng tưởng cứ nghèo là hèn 
Cứ sang là trọng , cứ tiền là xong

Đời người lúc thịnh , lúc suy ,
Lúc khỏe , lúc yếu , lúc đi , lúc dừng

Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay , muối mặn , xin đừng quên nhau

Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước , tình sâu , nghĩa bền

Đừng tưởng cứ đợi , là chờ
Cứ âm là nhạc , cứ thơ là vần

Khi vui đừng tưởng chỉ cười
Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than !!!.

AI ƠI NHỚ LẤY ĐỪNG QUÊN
( sưu tầm )