30 Tháng Tư

 
 
Phan Thị Hồng

Tác giả: Nguyễn Tài Ngọc

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ kèm theo hình ảnh tại chỗ do chính ông chụp. Nhiều bài và hình ảnh của ông hiện được phổ biến trên mạng internet, một số đã thành sách “Xin Em Tấm Hình” và tập truyện mới, “Bắc Kỳ”. Sau đây là bài mới ghi chép sơ lược ngày 30 tháng Tư năm xưa.

Hình ảnh một thời rất quí mà tác giả còn giữ: Căn cước VNCH, áo sơ mi mặc ngày ra đi, mảnh tin báo Mỹ tháng Năm 1975.

***

30-4 là một ngày không một người Việt nào có thể quên. Phe thắng, chính quyền Bắc Việt, chọn 30-4 là ngày lễ ăn mừng. Phe thua, Việt Nam Cộng Hòa, với một số đông người Việt chạy tỵ nạn Cộng Sản sang định cư ở khắp các nước tự do trên thế giới, ghi thêm trên giấy những kỷ niệm hãi hùng của ngày 30-4.

Tôi rời SàiGòn trong khi đang học lớp 11. Tôi vẫn còn giữ chiếc áo mặc ngày ra đi, (hình trên, bên trái)

Tôi cũng vẫn còn giữ nhiều giấy tờ, hình ảnh, tiền bạc mà tôi đã mang theo.

Bây giờ đọc lại thẻ căn cước làm ngày 20-2-1973, tôi mới biết lúc 15 tuổi tôi cao 1.57 mét (5.1 inch), nặng 34 kg (75 lbs). Nhờ cái thẻ căn cước đó tôi mới biết bây giờ tôi quá phì lũ. 182 lbs (83 kg)! Tôi mập hơn xưa gấp hai lần rưỡi. Trời đất quỷ thần thiên địa ơi!

Cùng với chiếc áo, tôi giữ lại những bản tin về Việt Nam sau tháng 4 1975. Thời đó, tôi cắt những bản tin này trong báo rồi dán vào một tập vở, giữ cho đến bây giờ. Tôi dịch lại vài bản tin đó để nhớ lại một quãng thời gian không thể nào quên:

*

Tựa đề bản tin 12-05-1975:

NAM VIỆT NAM LÊN ÁN HOA KỲ VỀ VIỆC DI TẢN

12-May-1975:

Chính phủ (Lâm thời) Nam Việt Nam lên án chính quyền Ford đã bắt buộc dân chúng Việt Nam di tản và bắt cóc trẻ con đem ra nước ngoài. Ủy ban Điều tra Tội phạm Chiến tranh Đế quốc Mỹ ngụy Gây ra mới tuyên bố lên án chính quyền Ford đã phạm tội với dân chúng Nam Việt Nam:

“Việc bắt cóc con nít và bắt buộc người lớn di tản từ nhà của họ vừa được giải phóng là vô nhân loại, bất hợp pháp, và phạm tội ác.”

“Hành động quá táo bạo này vi phạm luật pháp quốc tế căn cứ theo Hiệp Định Geneva năm 1949 là phải bảo vệ dân sự trong thời chiến, cấm đoán việc bắt buộc di tản, …..”

“Chính quyền Hoa Kỳ đã phạm tội với dân chúng Nam Việt Nam, xâm phạm quy định của Tòa Án Quốc Tế tại Nuremberg, nhúng tay vào tội ác diệt chủng Hiệp Định Geneva ngày 9-12-1948 cấm cản”.

– Ghi chú: “Bắt buộc dân chúng Việt Nam di tản?” “Bắt cóc trẻ con?” “Mỹ Ngụy phạm tội ác?”…. Đọc những lời lẽ này làm tôi nhớ lại ngày xưa sống ở Việt Nam tối ngày cứ nghe những lời nói quá láo khoét của người Cộng Sản.

*

Tựa đề bản tin:

ĐỜI SỐNG DỄ THỞ Ở SÀIGÒN ĐÃ CHẤM DỨT

Hãng thông tấn AP,

25-May-1975:

… Hôm qua, thanh niên nam nữ xuống đường ở đường Tự Do lên án nhạc và văn hóa đồi trụy miền Nam, ảnh hưởng của Đế quốc Mỹ. Cuộc sống dễ thở của 3.5 triệu người SàiGòn trong thời Mỹ viện trợ chấm dứt nhanh chóng khi Cộng Sản bắt đầu xiết gông cùm kiểm soát.

… Một việc xẩy ra ngoài đường hôm Thứ Ba phản ảnh chính trị vẫn âm ỷ cháy: Tại quảng trường trước Quốc Hội cũ với bức tượng lính của VNCH xây cất đã bị giật sập đổ, một người vất vào đống rác ở đó một lá cờ Bắc Việt, một lá cờ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, rồi châm lửa tự thiêu.

Bộ đội Cộng Sản đến tịch thu một xấp lá thư người tự thiêu để lại, không cho đám đông biết nội dung là gì.

… Phim ảnh Tây Phương bị cấm chiếu. Nhà cửa người tỵ nạn bỏ chạy để lại bị tịch thu cùng với tất cả vật dụng. Lính bộ đội vào chiếm đóng khách sạn cùng nhà cửa của dân lành.

*

Tựa đề bản tin UPI:

VIỆT NAM CẤM, RA LỆNH ĐỐT SÁCH

Hãng Thông Tấn UPI, 1975:

Cả trăm sinh viên xuống đường ủng hộ chiến dịch hủy diệt sách báo và băng thu thanh của chính quyền mới SàiGòn.

Các nhật báo tiếng Việt và tiếng Hoa in chữ in lớn “Cấm bán và tàng trữ sách báo, băng thu thanh để thực hành việc hủy diệt vết tích của Đế quốc Mỹ và tay sai ngụy để lại.”

Những nhật báo này nói rằng các sinh viên sẽ thi hành chiến dịch hủy diệt tất cả sách báo của chế độ cũ để bắt đầu một nền tảng mới của cách mạng văn hóa.

Tất cả tiệm bán sách báo đã được lệnh đóng cửa, cấm bán sách báo chính quyền ngụy. Cả trăm nghìn người ở SàiGòn đốt sách ở nhà để khỏi bị bắt về tội gìn giữ sách ngụy.

Phim ảnh Tây Phương bị cấm triệt để. Rạp ciné ở SàiGòn chỉ chiếu phim Bắc Việt, hầu hết về chiến tranh.

Truyền đơn sinh viên phân phát in: “Chúng ta phải hăng say tham gia tiêu diệt văn hóa phản cách mạnh, nô lệ, và tồi bại của Mỹ Ngụy. Phim ảnh, sách báo đồi trụy, nhạc ủy mị của chế độ cũ là thuốc độc giết hại thế hệ thanh thiếu niên.”

Ghi chú: Nhạc “đồi trụy” của quân Ngụy cần phải hủy diệt năm 1975 bây giờ được dân chúng ưa chuộng số 1 từ Móng Cái đến Cà Mau, được ca sĩ gốc Bắc lẫn gốc Nam trình diễn khắp nơi từ Hà Nội đến SàiGòn.

*

Tựa đề bản tin UPI:

1546 NGƯỜI TRỞ VỀ VIỆT NAM

Hãng Thông Tấn UPI, 28-Oct-1975:

Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng loan báo một con tầu chở 1546 người Việt tỵ nạn khởi hành từ Guam đã cặp bến ở Nam Việt Nam vào ngày 27-Oct, mặc dù chưa được phép hồi hương của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời.

Con tày này tên là Việt Nam Thương Tín, rời Guam vào ngày 16-Oct. Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng đã gửi bác sĩ đến bến để chăm sóc cho những người cần y tế.

Một hành khách chết trên đường đi đã được thủy táng.

Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng lên án chính quyền Tổng Thống Ford ngoan cố không nghe lời cảnh cáo của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời nên đã có những hành động vô trách nhiệm với những người bệnh tật, già yếu, thai nghén trên tầu Việt Nam Thương Tín.

Phát ngôn viên Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời tuyên bố chấp nhận thuyền trở về Việt Nam vì lý do nhân đạo. Còn những người tỵ nạn khác được Mỹ di tản nhưng muốn trở về Việt Nam thì phải nộp đơn xin phép. Mỗi trường hợp sẽ được xét xử riêng biệt.

Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng nói rằng hai phần ba người trên tầu trở về quê hương là “binh lính tay sai và công chức của chính quyền Ngụy.”

Ghi chú: Tháng Sáu 1975 gia đình tôi ở trại tỵ nạn ở Guam. Một ngày tôi có dịp chứng kiến một đám đông sau hàng kẽm gai la hét ầm ĩ, đốt lửa vài vật dụng. Lính Mỹ đến khống chế họ. Tôi hỏi thì mới biết những người này di tản đến Mỹ nhưng bây giờ muốn đòi trở về Việt Nam. Có một chiếc tầu to -Việt Nam Thương Tín- có thể dùng để họ lái về nước nhưng người Mỹ phải sửa soạn lương thực và xem xét tầu an toàn ra biển. Sự sửa soạn này làm việc đi về bị trì hoãn nên họ biểu tình phản đối Mỹ đình trệ.

Ai cũng biết hậu quả xấu số của những người ngu dại này khi trở về Việt Nam. (Tất cả đều bị lột truồng, kiểm soát tịch thu mọi vật dụng, sau đó tống vào trại tù cải tạo). Đã đến thiên đường Mỹ mà còn không biết!

*

Tựa đề bản tin:

SAIGON SỤP ĐỔ NHANH CHÓNG LÀM CỘNG SẢN NGẠC NHIÊN

New York Times, 1976

Tầng lớp lãnh đạo Cộng Sản không dự định là cuộc tấn công tối hậu vào VNCH năm ngoái sẽ đoạt lấy chiến thắng vĩnh viễn, rất ngạc nhiên là SaiGon sụp đổ quá nhanh chóng, căn cứ theo Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Cộng Sản.

Tướng Văn Tiến Dũng nói khi nghe tin cả chục nghìn binh lính VNCH và dân sự bỏ chạy trong hoảng sợ từ miền Trung Pleiku, bắt đầu một cuộc rút lui vô trật tự, ông ta không tin là chuyện ấy lại có thể xẩy ra: “Tại sao lại bỏ chạy?” “Ai đã ra lệnh tháo quân?”

Văn Tiến Dũng tiết lộ thêm những điểm sau đây:

– Sau khi bàn thảo chiến thuật từ 18-Dec-1974 đến 8-Jan-1975, Hà nội quyết định đánh Ban Mê Thuột trước.

– Lý do Ban Mê Thuột và các tỉnh vùng cao nguyên được chọn là khởi điểm bị tấn công vì tình báo CS cho biết Nguyễn Văn Thiệu nghĩ là CS sẽ đánh vào Tây Ninh, do đó Thiệu tập trung quân ở Tây Ninh, chỉ để binh lính rời rạc giữ vùng cao nguyên.

– CS biết Tướng VNCH Phạm Văn Phú đoán lầm là CS sẽ tấn công vào Kontum và Pleiku, nên Phú chỉ giữ một Trung đoàn ở Ban Mê Thuột.

– Văn Tiến Dũng đồng ý với lời phàn nàn của Nguyễn Văn Thiệu và người Mỹ ở VN là quyết định cắt giảm viện trợ làm VNCH không đủ sức đánh nhau. Dũng đoán sự cắt giảm này giảm súng ống đạn dược của VNCH đến 60%.

– Vào mùa thu 1974, trong khi bàn thảo quyết định tổng tấn công VNCH, các nhân vật lãnh đạo CS bàn cãi sôi nổi không biết Mỹ có nhẩy vào vòng chiến nếu VNCH bị tấn công. Cuối cùng, Hà Nội quyết định cứ đánh vì nghĩ rằng Mỹ sẽ không tham gia vì vụ Watergate và kinh tế Mỹ đang đi xuống.

Ghi chú : Theo Frank Snepp, làm cho CIA với chức vụ Giám Đốc phân tích chiến lược Cộng Sản Bắc Việt, trong quyển Decent Interval (Khoảng Cách Vừa Đủ) thì khi Cộng Sản tấn công vào vùng Cao Nguyên, Thiệu quyết định bỏ miền Trung, rút quân vào SàiGòn. Lý do không những để bảo vệ Thiệu chống quân Cộng Sản, mà Thiệu nghi ngờ phe Nguyễn Cao Kỳ nhân cơ hội đảo chánh nên Thiệu cần quân đội thân cận bảo vệ mình.

*

Tựa đề bản tin:

ĐIỂM THI CỦA HỌC SINH MỸ THUA HỌC SINH TỴ NẠN

Oceanside (San Diego), 1976:

Một giáo viên tiết lộ là chương trình giáo dục của Mỹ thất bại thảm hại sau khi khám phá điểm thi của học sinh tỵ nạn Việt Nam cao hơn học sinh Mỹ rất nhiều.

J. Paul Adkins, giáo viên dạy lớp Bốn ở Tiểu học San Luis Rey School nói: “Theo ý tôi, chương trình giáo dục của chúng ta (Hoa Kỳ) đang xuống dốc. Chúng ta có trách nhiệm nặng nề đã không đào tạo một nền giáo dục xuất sắc cho con em chúng ta.”

Adkins nói là ông tổ chức một kỳ thi cho 33 học sinh tỵ nạn Việt Nam và 100 học sinh Mỹ. Về môn Toán, nhóm học sinh Việt Nam làm 93% đúng, trong khi nhóm học sinh Mỹ làm đúng chỉ có 29%.

….Adkins nói là sau khi nói chuyện với tất cả các giáo viên trong trường, ông ta mới biết là học sinh tỵ nạn Việt Nam dẫn đầu học sinh Mỹ trong tất cả các môn, ngoại trừ mỗi một môn về tiếng Anh.

Ghi chú: Tôi sang Mỹ học lớp 12 ở Trung Học Hoover High, San Diego. Ở cấp Trung học, lối dạy của Mỹ khác với Việt Nam và các quốc gia Á Châu. Ở Việt Nam học sinh không có quyền chọn lựa môn học. Chương trình đã định sẵn, tất cả phải theo. Trong khi ở Mỹ học sinh có quyền chọn lựa. Bộ Giáo Dục ấn định số lượng “units” phải học xong nếu muốn tốt nghiệp Trung học.

Tôi nói thí dụ: Thí dụ Trung học ở VN khi học hết lớp 12 thì mọi học sinh đều phải học xong 30 units Hình Học, 30 units Lý Hóa… chẳng hạn. Nhưng ở Mỹ thì chỉ cần học xong tối thiểu 10 units Hình Học, 8 units Lý Hóa… Thành ra học sinh nào không thích môn Toán, Lý Hóa thì chỉ cần học units tối thiểu thôi (học sinh giỏi vẫn tiếp tục học hơn units đòi hỏi, 20, 30 units…).

Chính vì sự không bắt buộc này mà tôi nghĩ trình độ Toán, Lý Hóa, ngoại ngữ… của một học sinh lớp 12 của Mỹ có lẽ chỉ bằng trình độ của một học sinh lớp 10 của Việt Nam. Đây là lý do khi học sinh Việt tỵ nạn vào học Tiểu học, Trung học ở Mỹ thời bấy giờ, báo chí Mỹ thường đăng tải là học sinh tỵ nạn quá giỏi! Ngoại trừ lớp sinh ngữ tiếng Anh, dĩ nhiên!

*

Những ngày tháng đầu tiên định cư ở Mỹ là thời gian “rầu thúi ruột”, nhớ bạn học, nhớ láng giềng, nhớ trường lớp, nhớ xóm Bàn Cờ, nhớ bồ, và nhớ nhà. Để kết luận, tôi copy lại bài thơ “Nhớ Nhà” tôi làm ở những năm đầu tiên trên nước Mỹ (thơ trước tuổi đôi mươi):

NHỚ NHÀ

ta ngồi đây bên ánh đèn mờ ảo,
trong đêm không, trong bóng tối chập chùng.
bao năm qua xa dấu chốn quê hương,
lòng lặng chết như màn đêm áo não.

ngày ra đi tấm lòng vang rộn rã,
rời quê hương, nơi bốc ngút chiến tranh,
nơi đau thương tràn ngập khắp thị thành,
nơi cửa nát nhà tan đầy khắp lối.

nơi con thơ khóc gào niềm mất bố,
nơi vợ hiền cay đắng ngắm xác chồng,
nơi mẹ già điên dại bên xác con,
nơi cháu nhỏ thững thờ bên xác cố.

để đến đây bên phương trời Mỹ quốc,
nơi tự do tràn ngập khắp mọi người,
nơi an lành ngự trị khắp muôn nơi,
nơi tương lai rực ngời như ánh đuốc.

tuy sung sướng tinh thần lẫn vật chất,
thế nhưng ta đã mất thật nhiều điều:
mất ngôi trường cũ rích nhưng đáng yêu,
mất những con đường cây dài, bóng mát.

mất tiếng rao bán hàng tang tảng sáng,
mất giọng cười trong trẻo chị bánh cam.
mất tiếng xe nổ giòn bác xe lam,
mất giọng nô đùa trẻ con trai gái.

ôi quê hương, biết bao giờ trở lại?
ta ra đi không hẹn một ngày về.
sống ở đây như ngủ trong giấc mê,
khi tỉnh giấc, nhớ nhà, lòng tê tái.

Nguyễn Tài Ngọc
April 2018. Sài Gòn Ocean – Home

Image may contain: people standing
Image may contain: 1 person
No automatic alt text available.

NỢ CỨT

 
 
No automatic alt text available.
Bằng Kim Lạc

Nhân cái vụ đánh thuế nhà ở có giá trị trên 700 triệu, làm tôi nhớ đến bài viết Nợ Cứt của Phạm Thế Việt. Nát lắm, nếu điều dự thảo đó thật sự xảy ra! Bởi tài sản đó là từ tích cóp của mỗi cá nhân bằng tiền lương, tiền công lao động mới có được; trong quá trình lao động trước đó, người lao động đã được thực hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ về thuế.
————————————————————————–
NỢ CỨT

Ngày đó hợp tác xã ra một chiến dịch thu gom phân bắc (cứt người), mỗi gia đình một tháng phải đóng đủ mười cân, nếu không đóng đủ thì bị cắt gạo. Thật là một chiến dịch có một không hai trong xã hội loài người. Vậy nên, khi chiến dịch ra đời, cái cầu tiêu trở nên vô cùng quan trọng và cấp thiết. Người người, nhà nhà mua xi măng mua gạch về xây cầu tiêu.

Cầu tiêu phải làm bằng xi măng thì cứt mới không bị phân huỷ, chứ ỉa xuống đất vài ngày là bọ hung ăn hết, lấy gì mà đóng cho nhà nước. Vậy nên, cái cầu tiêu quan trọng hơn cái nhà. Chuyện ỉa đái lúc này cũng cực kỳ quan trọng, dù ai đó có bị tào tháo rượt ở đâu thì cũng phải nhanh nhanh ba chân bốn cẳng chạy thẳng về cầu tiêu nhà mình mà giải quyết chứ để mất đi một cục là mất đi lon gạo chứ chẳng chơi. Nhiều người đi làm ngoài đồng, ngày trước, khi mắc ỉa thì chạy vô bờ, vô bụi làm đại cho xong, nhưng bây giờ, làm như vậy có mà đói chết.

Vậy nên, phải tìm cách, có người làm đại vào bao ni lông, có người cuộn trong lá chuối, có người cẩn thận hơn đi vào trong cái càmèn đựng cơm để mang về cho an toàn mà đổ xuống cầu. Có nhiều chuyện dở khóc dở cười trong chiến dịch này lắm, ai sống thời đó chắc biết.

Khi chiến dịch ra đời thì cũng là lúc không biết bao nhiêu con chó phải chết. Chó chết vì đói, cơm khoai đã không có ăn, đến cục cứt cũng bị nhà nước dành mất thì lấy gì mà sống. Nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, cố gắng lắm không để thất thoát cục nào, vậy mà đến tháng vẫn không đủ cân nộp, má tôi sai anh em chúng tôi đi tìm đá sỏi bỏ vào cho đủ. Khi mang lên cân người ta kiểm tra và phát hiện nhà tôi gian lận nên lập biên bản và làm kiểm điểm. Họ còn ghi rõ ràng trong biên bản gian lận như thế nào, có bao nhiêu cục cứt và bao nhiêu cục đá sỏi.

Quả đúng không sai, cái đời người nông dân u tối làm sao mà lừa được mấy ông nhà nước, mấy ông tinh vi vô cùng. Kết quả là nhà tôi bị cấm không cho nhận gạo một tháng. Trong một buổi họp người ta đưa tên má tôi ra kiểm điểm trước dân về việc gian lận lấy đá sỏi trộn với cứt để nộp cho nhà nước. Họ không cho má tôi phân bua gì hết.

Nhưng không đành lòng nhìn cảnh con đói, bà đứng dậy thẳng thừng, dứt khoát. Bà nói: Việc tôi làm gian lận tôi chịu trách nhiệm trước toàn thể mọi người, nhưng các người nhìn đi thì cũng phải nhìn lại, nhìn ngược thì cũng phải nhìn xuôi, các người có nhìn vào nhà tôi không, nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, tôi thì suốt ngày đi làm ngoài hợp tác xã, có cục nào tôi đã ỉa ngoài hợp tác xã hết rồi, còn con tôi ở nhà, nó là con nít nó ăn bao nhiêu, ỉa bao nhiêu, nó ỉa ra cục nào chó lủm cục đó thì lấy đâu đủ cứt để mà nộp cho mấy ông.

Vậy mà bây giờ mấy ông kiểm điểm tôi, cắt gạo thì lấy gì tôi nuôi con, lấy gì ăn để mà ỉa mà đem cứt nộp cho mấy ông. Nói gì thì nói, la gì thì la, nhà tôi vẫn bị cắt gạo tháng đó. Không còn gì khốn nạn hơn thế. Nói thiệt, đến bây giờ trong hồ sơ giấy tờ ở kho lưu trữ quốc gia thì nhà tôi vẫn còn một món nợ lớn với nhà nước mà không thể nào trả nổi, đó là nợ cứt.

( Phạm Thế Việt )

Lái xe đâm người sợ bồi thường, đợi chết mới báo động, khi biết thân phận nạn nhân, anh chợt ngất xỉu

 

Lái xe đâm người sợ bồi thường, đợi chết mới báo động, khi biết thân phận nạn nhân, anh chợt ngất xỉu

“Chết tiệt!”, anh Vương lẩm bẩm một câu. Do cả hai đều đi với tốc độ cao, không kịp né tránh, chỉ nghe thấy xe máy phát ra âm thanh chói tai. Anh Vương sợ hãi đạp phanh một cách vô thức, hai mắt nhắm lại, để xe tùy ý lao về phía trước.

Một tiếng nổ mạnh, cửa kính ô tô vỡ kèm theo một tiếng thét thê lương, nghe có vẻ quen thuộc

Ảnh minh họa

Ngay lập tức, tâm trí anh Vương trống rỗng, cũng may anh chỉ bị thương một chút do mảnh vụn kính vỡ bắn vào mặt, ngoài ra không có tổn thương gì. Lấy lại bình tĩnh, anh mở cửa xe chạy đến xem người đi xe máy bị đâm trước mặt.

Bên ngoài trời tối như mực khiến anh không nhìn rõ, anh liền rút điện thoại ra. Thông qua ánh sáng mập mờ của điện thoại anh nhìn thấy một người đang nằm sấp trên đường, trên mặt dính đầy máu và mảnh vỡ thủy tinh, một vài vết thương lớn không ngừng chảy máu, trông rất đáng sợ, đã không còn nhìn thấy khuôn mặt vốn có của nạn nhân.

Đôi mắt vô thần của người đi xe máy nhìn anh Vương, cố gắng duỗi tay ra, dường như miệng lẩm bẩm: “Cứu tôi”. Anh Vương rùng mình một cái, thở hổn hển một hơi: “Không xong, đại họa đến rồi”. Không ngờ gần về đến nhà rồi còn gặp chuyện không may, anh Vương nghiến răng tức giận. Người bị đâm rất thê thảm, phải xử lý sao đây? Cứu sống được không? Có thể tàn phế hay không? Phải mất bao nhiêu tiền? Phải chịu bao nhiêu trách nhiệm? Những suy nghĩ đó liên tục xuất hiện trong đầu anh Vương. Xe chạy quá nhanh, người bị đâm lại bị thương hết sức nghiêm trọng, với tư cách là một người lái xe anh tự biết mình sẽ phải chịu trách nhiệm gì. “Chết tiệt, đâm chết có khi lại tốt hơn, xong hết mọi chuyện”, đột nhiên trong đầu anh có suy nghĩ như vậy. Đâm chết người tối đa cũng chỉ bồi thường một khoản tiền lớn nhưng nếu tàn phế thì giống như hố không đáy, chi phí y tế, tiền bồi thường, tiền phục hồi chức năng, v.v…, cộng lại là một con số thiên văn. “Lại đâm hắn một lần nữa?” Suy nghĩ khủng khiếp này thoáng hiện trong đầu nhưng anh không dám. Đâm một lần là tai nạn giao thông, đâm lần nữa là cố ý mưu sát, lợi hại trong đó anh cũng biết.

Phải làm thế nào? Báo động? Anh Vương rút điện thoại ra, định gọi báo động. “Nhưng khi gọi xong, cảnh sát và bác sĩ sẽ đến, mình không thể tránh khỏi bị khống chế, tiền bồi thường rất lớn, có lẽ bán chiếc xe này đi cũng không đủ”. Vừa nghĩ tới cuộc sống vất vả sau này và chi phí chữa bệnh dây dưa không ngừng, anh Vương liền sởn gai ốc.

Có nên gọi điện thoại báo động hay không? Anh Vương lâm vào tình thế khó xử, cảm thấy mình mang điện thoại thật là phiền phức, không có nó chẳng phải tốt hơn sao? Ở đây không có người, không có cửa hàng, chạy đến bốt điện thoại trong làng báo động xong thì hắn có lẽ đã chết vì mất quá nhiều máu, như thế sau này mình không phải lo lắng gì nữa đúng không?

Nghĩ đến đây, trong đầu anh Vương lóe lên ý nghĩ: “Điện thoại hết pin chẳng phải cũng giống như không có điện thoại sao? Thật là ngu ngốc!”. Anh Vương run rẩy mở nhạc trên điện thoại, tiếng nhạc lúc thì êm tai, lúc thì cao vút, trầm bổng, cộng với tiếng rên rỉ của nạn nhân. Trong bóng đêm tấu lên một khúc nhạc ai oán chết chóc. Khi bật đến bài hát thứ hai, nhờ ánh sáng của điện thoại, anh Vương nhìn thấy nạn nhân rủ người xuống, không còn giãy dụa nữa. Anh đưa tay lên mũi nạn nhân thấy hắn đã ngừng thở. Lúc này, pin điện thoại cũng hết, chung quang bổng trở nên đen kịt, anh Vương hoảng sợ lập tức thu tay về thét lên: “Mẹ ơi! Khiếp sợ quá”. Người đã chết, điện thoại không còn pin, anh Vương hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh rồi chạy vào trong thôn. Sau khoảng nửa giờ, anh đã chạy đến cửa thôn, gọi xong điện thoại báo động, lại nhanh chóng chạy vài bước nữa đến nhà mình. Vợ anh đang đứng ở cửa nhìn ra ngoài, vẻ mặt lo lắng.

Nhìn thấy chồng hấp tấp chạy về nhà, vợ anh Vương mắng: “Anh đi đâu bây giờ mới về? Sắp sang năm mới rồi còn không mau về nhà, cơm canh đều đã nguội lạnh hết rồi.”.Anh Vương lo lắng xua tay nói: “Đi đi, đã xảy ra chuyện rồi, tôi lo lắng lắm, hai mẹ con ăn cơm trước đi, tôi phải đi ngay, xong việc mới trở về.”

“Đã xảy ra chuyện gì? Con tôi đâu?” Vợ anh nóng nảy: “Sao chỉ có một mình anh trở về? Con đâu rồi?”

“Con ư? Con đi đâu rồi hả?” Trong đầu anh Vương bỗng thấy có điềm chẳng lành, nắm lấy quần áo của vợ.

“Con thấy anh muộn như thế chưa về, sợ anh gặp chuyện không may nên tìm bạn mượn xe máy để đi đón anh, trên đường anh không gặp nó sao?”

“Aaaa…”, anh Vương kêu to một tiếng, dậm chân nói: “Ôi! Con tôi”, mặt tối sầm lại, đột nhiên ngã xuống đất.

Người ta thường nói: “Cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp”. Nếu như khi xảy ra tai nạn, anh Vương nhanh chóng tìm cách cứu sống nạn nhân thì sự việc không diễn ra bi thương như vậy. Nhưng hiện nay, nhiều người sống chỉ vì lợi ích bản thân mà không có suy nghĩ cho người khác, thậm chí sẵn sàng làm việc ác. Đất trời có quy luật nhân quả, người hành ác sớm muộn có báo ứng, không đến với bạn thì sẽ là người trong gia đình, thế hệ sau… Giúp người chính là giúp mình, làm việc thiện ắt được phúc báo. Ai ai cũng có suy nghĩ như vậy, chẳng phải xã hội sẽ tốt đẹp hơn sao?

Huy Hoàng – Theo DKN

Ngộ Nhận

 Ngộ Nhận

 Đoàn Thị

Định cư hơn hai mươi năm, nàng chọn đúng xóm Little Sàigòn, thủ phủ tỵ nạn có đồng hương đông vui mà sinh sống.

Thuở trước nàng có đến mấy cuộc tình đẹp, vài đời chồng qua bạn bè mát tay giới thiệu, mấy mối “giữa đường gãy gánh” đồng cảnh ngộ, chàng nàng hăng hái mơ chuyến này thần tình ái đón chào hai đứa mình.

Sau vài năm chung sống cá tính của hai người không còn thích hợp, mỗi người tự động cất gánh ra đi không kèn trống khác hẳn “ngày hợp hôn” bạn bè đông đủ chúc mừng trăm năm hạnh phúc.

Để chấm dứt cảnh lanh thang đi tìm mái ấm nương nấu cuối đời, nàng quyết quay trở lại tình trường tuy nhiều chông gai, nhưng ai biết được giờ cuối nàng trúng lô độc đắc.

Chuyến này nàng khôn ngoan chọn bô lão trên bẩy bó cho chắn ăn, bà mai quen thuộc cũng là bạn của nàng nên việc tuyển chọn “phò mã” không khó, đây rồi một bác bảnh bao từ vóc dáng cho đến hầu bao rủng rỉnh đô la.

Ngày ra mắt chàng quần tây áo sơ mi thẳng nếp, nàng thong thả trong chiếc áo đầm đơn sơ tại quán cà phê, điểm hẹn quen thuộc của nhóm các bà cô đơn mà bà mai là chị cả đầu têu.

Tuy lớn hơn nàng mười mấy tuổi nhưng chàng còn phong độ chán, dân chơi tennis cao ráo, mình dây, tiền hưu vài ngàn đô một tháng, con cái có gia đình đã ra riêng, rứa là vài năm nay chàng neo đơn dữ dội.

Bà mai bảo mối này bảnh, Good deal, nàng cũng thấy vậy, tuy nhiên tính nết của hai người mới là yếu tố quyết định, ít nhiều họ cũng phải “nhìn về một hướng” mới tính chuyện dài lâu được.

Lần đầu mời nàng đến nhà dùng cơm trưa, chàng cố tình để trên bàn salon mớ tạp chí ”Salut les Copains”, truyện tranh Tintin…, chàng tự xưng cựu học sinh Taberd Sàigòn thập niên năm mươi.

Nàng cũng dân trường Tây nên học sinh Taberd chưa phải là thứ gộc như JJ Rousseau trường Nam Trung Học của Pháp, tuy nhiên chi tiết này cũng là điểm cộng trên bảng thành tích của chàng.

Trên bẩy mươi chàng không có bệnh nan y, chủ một căn nhà trên nửa triệu đô, tiền hưu cao hơn cả lương tháng của nàng, trình độ học vấn không cao hơn nàng, một lợi thế để nàng “làm giá”.

Xe Lexus, quần tây, sơ mi, áo khoát, cà vạt, nước hoa…chàng xài hàng Pháp, thức ăn chàng chuộng cơm phở, đặc biệt món thịt kho trứng một nồi lớn ăn cả tuần mới hết, ngon, rẻ, bổ cho túi tiền.

Tính “từ đầu đến chân” thì chàng được xếp vào hàng cao thủ tuy chưa đạt tới điểm “đụng trần” nhưng bảnh hơn khối bô lão sau khi ly dị vách ba lô đi thuê phòng trọ.

Tiêu chuẩn của chàng dư sức tìm một em “Sàigòn Mới” từ VN sang, trẻ, xinh có cả rổ “tiền tươi” chứ nị, muốn “nàm ăn” kiểu gì chả được, mấy mợ sồn sồn cán cộng, vợ cũ của cán cuốc, tư sản đỏ vốn liếng vài triệu “đô na” nà chuyện cò con.

Chàng không ưa vixi, ngại cảnh đồng sàn dị mộng, đêm khuya mợ cán đỏ lên cơn mộng du cùng bác đảng xách dao đòi phanh thây bọn Mỹ ngụy thì tàn đời “gia già” của chàng mất.

Ta về ta tắm ao Ta cho chắc ăn, mà nàng trông cũng được, tính hơi khù khờ, cả tin như ri chàng tha hồ, chồng xướng vợ tùy, “trên bảo dưới vâng lời” hiểu theo nghĩa nào cũng đúng.

Trước đám cưới chàng hứa hẹn sẽ cho nàng đứng tên chung căn nhà, lỡ một mai chàng quy tiên nàng có nơi nương nấu tuổi già, tình nghĩa nặng cả trăm ngàn đô la bảo sao nàng không nhắm mắt gật đầu nhận lời cầu hôn của chàng.

Sau hai tháng lui tới, chàng ký giấy hôn thú đúng mùa Noël, Giáng Sinh năm nay chúng mình hết cô đơn, con của chàng mừng húm có người nâng khăn chùi mũi lúc chàng sụt sùi ấm đầu cảm mạo.

Sẳn đà đầu năm họ tổ chức đám cưới cho xôm tụ, thiên hạ ăn “New Year”, ai đứa mình ăn “New Love”, hằng năm cả thế giới cùng hai đứa mình mừng kỷ niệm ngày cưới, tuyệt chiêu.

Tội nghiệp chị Hai của nàng từ tiểu bang lạnh khăn gói đi ăn cưới lần thứ ba cô em út, chị hy vọng nhất quá tam, nàng sẽ neo bến này đến cuối đời.

Lần đầu giáp mặt em rể lớn hơn mình chục tuổi, miệng lưỡi ngọt như mía lùi, ngọt mật khiến con ruồi mù lòa em chị sẽ chết chắc chuyến này, chết ngộp trong hạnh phúc hay sẽ chết lần mòn trong bất hạnh. Chị chợt rùng mình, mơ hồ thấy viễn cảnh không mấy sáng lạng sắp tới nhưng nói năng chi bi chừ cũng thừa, ván đã đóng thuyền mất rồi

Một mái nhà House sạch bóng làm hai quả tim bắt đầu va chạm, chàng có “bệnh ở sạch”, nhất cử nhất động chàng lau chùi liền tay, sáng ra vừa đánh răng xong chàng lau sạch, lau khô ngay cái lavabo.

Ly tách ăn sáng vừa úp lên sóng chén chàng chùi cái sink bóng mộng, cầu tiêu nhà tắm đều đúng quy trình như rứa khiến nàng ngại vào WC trước khi đi làm đành “nín” vào sở tính tiếp, cái nín chịu đầu tiên của nàng dưới mái nhà lý tưởng khiến nàng bắt đầu “suy tư”.

Cơm canh của chàng thật đơn giản, thịt ba rọi, trứng gà làm một nồi kho tổ chảng ăn cả tuần, rau rợ ra vườn hái ăn, hết thịt kho ăn cơm trứng chiên, mì gói …tiền chợ mỗi tuần trên dưới mười đô.

Hôm nào chán cơm, nàng mua phở bò, bún bò Huế, hủ tíu mì… tô xe lửa mang về nhà hai đứa húp, nước lèo dư hôm sau chàng trụng thêm bánh phở khô, hủ tíu khô ăn tiếp.

Theo đúng cách sống Mỹ, hai đứa chung nhà sẽ mở một Account chung để lương em, tiền hưu của anh hằng tháng rót hết vào đây, chung gạo thổi cơm, công chồng của vợ ấy mà.

Sau vài tháng “góp gạo”, chàng đề nghị nàng rút vài chục ngàn trong Account riêng của nàng và lấy thêm vài chục nữa bên 41k của nàng bỏ vào Account riêng của chàng, tích tiểu thành đại để chành trả bớt nợ nhà, sau đó chàng sẽ đưa tên nàng vào danh sách thừa kế căn nhà.

Nàng gom gần hết gia sản rót vào căn nhà tương lai nàng ngỡ có phần đóng góp của mình, chàng cũng rút vài chục ngàn trong 41K riêng của mình cho đủ trăm ngàn trả bớt nợ nhà.

Thủ tục rút tiền, trả nợ ngân hàng đợt đầu hoàn thành nhanh chóng nhưng việc ghi tên nàng vào tờ chủ quyền căn nhà chàng lắc đầu bảo chưa đúng lúc, nàng mơ hồ nhận ra chân tướng của chàng, lòng nàng bất an.

Để ăn mừng phi vụ đầu tiên thành công như dự tính, trả bớt nợ nhà nhưng chỉ riêng chàng sở hữu căn nhà, chàng mời bạn bè đến nhà ăn cơm, một kiểu Potluck quen thuộc của dân mình, chàng mua gà vịt quay bánh mì, khỏi nấu dơ cái sink.

Bạn bè mừng cho nàng tuổi già có nơi nương tựa, không phải đi ở thuê như dạo trước, chàng có khuất bóng nàng cũng có nhà ở, có tiền sống tới chết.

Thúy bạn thân của nàng khen :

– Mi tốt số thật, hậu vận có chồng bảnh bao, nhà cửa đàng hoàng, ở xóm Bolsa đầy cám dỗ này mà hắn không xiêu lòng trước đám phụ nữ độc thân láng mướt, hắn thuộc loại khôn ngoan đấy.

Nàng cười không trả lời, chua chát cho mớ tài sản nàng vừa chung đủ cho chàng trả bớt nợ nhà mà vẫn hoang mang cho thân phận ăn nhờ ở đậu của mình nhưng đành im lặng cho yên nhà ấm cửa.

Nàng ăn sang như Tây dù nàng không ăn diện đồ Pháp như chàng, kem, chocolat, phô mai nàng quen mua ở Trader Joe, bánh gâteau mua ở tiệm bánh Đại Hàn.

Chàng “ăn mắm hút dòi”, mua bánh Tây ở tiệm bánh Ta, gâteau, bánh kem, kem tráng miệng…giá không quá năm đô, mua bánh mì thịt lựa tiệm bán hai tặng một, ba ổ bánh mì ăn cả ngày thế cơm, đói ăn thêm mì gói.

Nàng đi làm, chàng đi chợ mua đủ thứ rẻ tiền cho hai đứa ăn, nàng ăn không vô cũng ráng nuốt mấy tháng liền, hột cơm chính tới nhưng vẫn sượng ngang cổ họng nàng.

Một hôm nàng bỗng giựt mình tự hỏi, ô hay mình lấy chồng hay lấy “ông nội” phải vâng phục cho hết kiếp, câu hỏi một lần nữa làm nàng “suy tư” dữ dội.

Sau này cuối tuần nàng giành đi chợ mua thức ăn đắt tiền nhưng ngon nên hai người ăn hết sạch, đầu tuần hai đứa ăn tiếp đồ ăn cũ chàng nấu tuần trước.

Nuốt không trôi cơm thịt kho rệu rạo của chàng, tan sở thỉnh thoảng nàng ghé tiệm mì, phở, bún Bò, bún riêu làm một tô, về nhà ăn qua loa cho qua ngày đoạn tháng.

Từ ngày lấy chồng, nàng tiếp tục cuộc sống như Mỹ, sắm áo quần, bóp ví, giầy cao gót, cuối tuần đi ăn nhà hàng, mùa hè nàng đòi đi du lịch, mùa đông ra đảo Hawaï tắm nắng.

Nàng nghĩ có làm có hưởng khiến chàng chóng mặt, ăn để sống chàng còn không dám liều ăn uống đàng hoàng, nói gì đến chuyện ăn mặc, du sơn du thủy như ri chàng chịu sao thấu.

Chàng nghĩ sống kiểu này lương tháng nàng mang về sẽ bị thâm thủng, tiền lương thặng dư sẽ “teo dần”, nói gì cũng là tiền của nàng, cấm cản cũng không được, để “thu hồi” khoảng chi tiêu xa hoa của nàng, chàng đã thao thức bao đêm mới nghĩ ra kế sách .

Một sáng chủ nhật chàng thức sớm chạy ra tiệm bánh của ông Tây gốc Việt phố Bolsa, mua bánh sừng trâu (croissant) đãi nàng.

Bên bàn cà phê, chàng đẩy dĩa sừng trâu trước mặt nàng mời mọc :

– Bánh nóng hổi anh mua ở tiệm ông Tây Mít, em ăn đi.

Nàng hơi ngạc nhiên trước vẻ “galant” đã lặng sâu sau ngày cưới, sáng nay tính hào sản bỗng nổi lên lều bều như bèo, rứa là có chuyện vui hay buồn hãy đợi đấy.

Giọng chàng cắt đứt suy nghĩ của nàng :

– Anh thấy em thích mua sắm cũng đúng, phụ nữ phải ăn diện là chuyện thường, tuy nhiên để tiền lương của em không bị hao hụt mỗi tháng em nên làm thêm (over time) bù vào khoảng chi tiêu kia.

Chàng dứt lời nàng chóng mặt vì không ngờ chàng bắt nàng “hoàn lại” số tiền nàng lỡ chi tiêu, dù đó là tiền lương của nàng.

Thở thật sâu, nàng nhỏ nhẹ :

– Anh à, em nghĩ em có mua sắm ăn tiêu gì cũng chưa xài hết số tiền em mang về mỗi tháng và chắc chắn không lẹm vào lương hưu của anh, anh lo chi chuyện “con bò trắng răng”.

Buổi ăn sáng kết thúc với chiếc bánh sừng trâu nàng cắn được một nửa, nàng chợt hiểu, nàng là con bò để chàng vắt sữa, nàng trở thành con bò hồi mô mà phải đợi chàng lên tiếng nàng mới giật mình nhận ra mình “ngu như bò”. 

Từ đó nàng ít mua sắm để chàng bớt lo âu nhưng nàng lại thấy phiền lòng, nàng lại suy tư, suy diễn ở tuổi này nàng phải chịu sự kiểm soát, sự chỉ bảo của thằng “ông nội”, “chồng là tình nhân, là cha, là ông cố nội” câu này nghe quen quen.   

“Lady first” của xứ Mẽo hạ đo ván đàn ông, chàng là dân “mít đặc” làm răng chấp nhận kiểu văn minh quá trớn của Mỹ, đàn ông không gia trưởng đâu phải là đấng trượng phu, “Đông Tây” choảng  nhau ở điểm này.

Cú sốt “tiền em là tiền của anh” em không nên tiêu dùng cho riêng em chưa nguôi, mấy tháng sau nàng phát giác tiền dư của hai đứa trong Account chung từ dạo chúng mình góp gạo thổi cơm bị thổi bay mất tiêu.

Làm con tính rợ, tiền lương của nàng trừ chi phí mỗi tháng dư trên một ngàn đô, mười mấy tháng chung sống số tiền thặng dư của nàng không cánh mà bay một cái vèo, dĩ nhiên vài chục ngàn tiền hưu của chàng cũng được di dời về nơi mô nàng phải hỏi cho ra lẽ.

Tưởng chàng e ngại khi nàng hạch sách, nghe này giọng chàng chắc nịch :

– Anh rút tiền dư trong Account chung đưa qua Account riêng của anh coi như tiền tiết kiệm, nếu để chung với tiền chi tiêu mỗi tháng khó tính.

Nàng thất kinh hồn vía vừa nhận ra chân tướng …cướp, nàng nín thở hỏi một câu ngớ ngẩn :

– Nếu em muốn rút một ít tiền trong đó thì sao ?

Chàng trả lời như đùa :

– Dễ ợt, anh sẽ rút tiền đưa lại cho em, hiện nay tiền lương mỗi tháng của em còn dư trong Account chung, em cần gì đến số tiền thặng dư kia, đã bảo là tiết kiệm thì chớ có đụng vào.

Thôi rồi nàng gặp phải một “gangster” thứ thiệt, tiền đã vào tay chàng làm gì có đường ra, tiền mất tình chưa đủ mạnh để nàng vượt qua con sóng lớn, nàng dại dột chui vào hang cọp, không bị xơi tái mới lạ.

Mang tiếng là vợ chủ nhà nhưng nàng chả có chủ quyền dù phải nộp gần hết gia sản cho chàng, lương tháng cũng bị chặt đẹp, cơm canh ăn để sống qua ngày chứ không phải ăn ngon mặc đẹp, “chơi bời” du lịch du liếc quên đi em.

Đời nàng lọt thỏm vào ngõ hẹp, hẹp đến khó thở, giời ạ vợ chồng son mới cưới vừa qua “thôi nôi” vài tháng, mối tình mong manh vừa chập chững biết đi đã ngả quỵ, nàng rơi vào cơn trầm cảm sâu thâm thẩm.

Bạn bè cố vấn nàng phải đòi lại số tiền bị tịch thu, nàng suy đi nghĩ lại, không đòi thì nàng mất ăn mất ngủ, mà đòi chàng trả tiền thì khác gì tuyên chiến với chàng, đụng phải du đãng thứ thiệt núp bóng “Gentleman” liệu nàng có sức cầm cự nổi những ngày sau sắp tới.

Sau bao đêm trăn trở nàng gom hết can đảm đem nỗi lòng rối rắm giãi bày với chàng như ri :

– Anh à, anh có thể giải thích cho em hiểu tại sao anh tự tiện chuyển tiền dư từ Account chung đưa vào Account riêng của anh ?

Thắc mắc này chàng nghi ngại có ngày nàng sẽ đưa ra, không ngờ nó đến sớm hơn dự đoán của chàng. Không sao chàng từng cuỗm gọn tiền của hai bà vợ cũ một cách tài tình, nàng là con nai tơ cũng sẽ cùng số phận như họ thôi, chàng là dân cao thủ dư sức xỏ mũi con bò ngu ngơ này.

Chàng thở dài, chậm rãi :

–  Em khéo lo, anh lấy số tiền đó đưa vào Account riêng của anh để sau này tiện trả tiếp nợ nhà.

Nàng thở ngắn, hỏi ngay :

– Anh đã lấy tiền tiết kiệm của em trả bớt nợ nhà, bây giờ anh lấy thêm tiền lương của em tích lũy trả dứt nợ trong khi em vẫn chưa được đứng tên chủ quyền nhà, như vậy là anh không công bằng.

Chàng tỏ vẻ khó chịu :

– Em khéo lo, anh chỉ trả dần nợ chứ đã dứt nợ đâu, khi sạch nợ anh sẽ làm giấy thừa kế cho em ngay.

Thế là nàng tàn đời, tiền của nàng trao vào tay chàng rồi nhưng cháo chưa chính chưa nhừ làm răng múc cho nàng một tô húp đỡ dạ đây, kiểu này nàng sẽ loét bao tử dài dài.

Nhưng dạ dày không loét mà nàng bị rối loạn tâm thần, tự dằn vặt đến tuổi này còn nhìn nhầm người, nhầm lẫn tình không mua bán với kẻ bán linh hồn cho thần tiền từ lâu rồi. 
Tiền của nàng đang có bỗng chui tọt vào túi chàng mang cho chàng niềm vui vô tận, nàng vật vờ như đứa vô hồn vì tiền mất mà tình cũng bay xa.

Ai biểu nàng ngộ nhận nghĩ mình học thức hơn chàng, trẻ hơn chàng một con giáp mà không nhận diện chàng chả giống con giáp nào cả.

Chàng sinh dưới ngôi sao đôla, tiền là Tiên là Phật, dù nàng có trẻ, có giỏi cách mấy mà không đẻ ra thật nhiều tiền làm răng hớp hồn chàng được.

Đoạn cuối cuộc tình bèo nhèo là buổi hẹn ngoài tòa ly dị, sau hai mươi ba tháng chung sống, ông tòa gõ búa một cái cụp trả tự do cho hai kẻ nhìn nhau với ánh mắt hình viên đạn.

Hú hồn nàng vừa thu lại mấy chục ngàn bị giam trong Account của anh chồng cũ, nàng thề chuyến này không thèm lấy chồng, chỉ tìm bạn tâm giao uống cà phê, du lịch …cho vui Tuổi Hạc.

Ngộ thật, làm gì có bô lão chịu kết bạn tâm giao như ri, họ cần một tấm lòng, một bàn tay chăm sóc những ngày trở trời đau yếu, nàng chưa bao giờ là vợ hiền, vợ đảm đang, bảo sao nàng không ngộ nhận dài dài.

Jan 2018

From : Tu-Phung gởi

Thằng Ngụy Con

 Anka Pham‘s post.

 

Image may contain: one or more people and outdoor

Anka Pham to Miền Nam Việt Nam

Thằng Ngụy Con

Khi bị chuyển về khám đường Bà Rịa, tôi bị nhốt vào một căn phòng rất nhỏ. Trong phòng ấy đã có sẵn một người: ông Đoàn. Cửa phòng là một bửng sắt khá dày, bị sét rỉ toàn bộ, chứng tỏ nó đã khá lâu đời. Sét rĩ đã xoi tấm cửa này
thủng nhiều lỗ cỡ đầu ngón tay. Đặc biệt có một lỗ dưới cùng rộng có thể thò lọt cả bàn tay. Những lỗ đó đã cho chúng tôi chút ánh sáng trong căn phòng ít khi được mở này. Một hôm tôi đang rầu rĩ bỗng nghe nhiều giọng nữ xôn xao bên ngoài. Tôi chạy lại cửa dán mắt vào mấy lỗ thủng. Thì ra phòng tù nữ ở gần phòng tôi được cho ra tắm giặt. Thật là một cảnh sinh hoạt rộn ràng. Tiếng gàu thau chạm nhau rổn rảng, tiếng người thúc giục nhau, chen lấn cãi cọ nhau ỏm tỏi. Họ giặt đồ, tắm rửa, chải tóc, phơi quần áo….trông ai cũng làm việc với vẻ gấp rút. Người quá đông mà chỉ có hai cái giếng, thì giờ cho phép lại giới hạn, nên họ sợ hết phần….

Tôi bỗng giật mình khi thấy một thằng nhỏ từ trong hiên nhảy ra. Nó chạy vụt lại phía hai con vịt xiêm đang rỉa lông cho nhau trước cửa phòng tôi làm chúng hoảng hốt bay xa một đoạn. Một người đàn bà gọi với:”Không được nghịch, mẹ đánh đấy!”Thằng nhỏ đứng lại.. Qua giây phút hoảng hốt, đôi vịt lại tiếp tục rỉa lông cho nhau. Thăng nhỏ khoảng chừng hai, ba tuổi, trắng trẻo, khaú khỉnh làm sao! Tại sao nó lại lọt vào chốn tù ngục này? Nó làm sao chịu được cảnh thiếu ăn, thiếu bạn bè, thèm khát đủ thứ, ngaỳ ngày ru rú trong một căn phòng chật hẹp với không khí ngột ngạt, hôi hám ấy? Tâm tính nó sẽ ra sao về sau?Thằng nhỏ có vẻ khoái đôi vịt xiêm lắm. Nó đang say sưa ngắm chúng thì mẹ nó gọi trở về phòng. Nó vưà đi vừa ngoái cổ nhìn lui, mẹ nó phải giục mấy lần.

Tôi quay lại hỏi ông Đoàn:-Bên phòng nữ có một thằng nhỏ dễ thương quá! Vì sao nó phải vô trong này ông biết không?Ông Đoàn nói:
-Nghe đâu cha nó là một viên thiếu tá đã đi Mỹ còn mẹ nó là một nhân viên Thiên Nga. Khi tôi vô đây đã thấy có nó rồi! Lúc đó nó mới biết đi lẫm đẫm. 
Tôi tức cười:
-Sau này có thể nó phải ghi vào lý lịch: Mới một tuổi tôi đã phải sống trong khám đường….

Mấy hôm nay tôi chỉ được phát mỗi ngày hai vắt nhỏ bột sắn xay chia làm hai bữa với một ít canh cải bẹ xanh mặn chát.
Không hiểu thằng nhỏ có được phát tiêu chuẩn khẩu phần không hay phải ăn vào phần của mẹ nó? 
Tôi nói:
-Thằng nhỏ mặc sức mà thèm đường thèm sữa!
Ông Đoàn cười:
-Ông khỏi lo! Mấy ngày thăm nuôi nó được cán bộ thả đi lung tung, người ta cho nhiều quà lắm. Ngay taị phòng nó lại có rất nhiều người đã từng làm mẹ, làm chị, chẳng ai nỡ để một đứa nhỏ dễ thương như thế đói đâu! Tôi đã từng thấy một con chó mẹ nằm cho mấy con mèo con bị mất mẹ bú.

Thiên tính thương trẻ của các bà làm mẹ hẳn còn cao hơn nhiều!
Tôi cảm thán:
-Vậy sao? Hoá ra nó lại sướng hơn lũ con tôi! 
Tôi có ba thằng con, thằng út có lẽ cũng cỡ tuổi nó. Khi tôi đi tù nó mới vừa đúng một tuổi, chưa biết đứng. Trước kia mình đâu biết dành dụm lo xa, khi vào tù tôi chẳng có chút gì để lại cho vợ con cả.. Nghĩ đến cảnh một người đàn bà chân yếu tay mền phải chạy vạy để nuôi sống ba đứa con giữa lúc này tôi đau ruột lắm. Nhưng ăn năn cũng muộn mất rồi!

Mấy hôm sau phòng tù nữ lại được mở cho ra tắm giặt. Thằng nhỏ sau khi tắm rửa xong lại chạy sang trước phòng tôi. Không thấy đôi vịt, nó ngồi vào bậc thềm lưng dựa vào cửa phòng. Tôi nhẹ thò ngón tay ra lỗ thủng chọt vào lưng nó một cái. Nó giật mình nhỏm dậy quay lại:
-Hết hồn!
Tôi lấy làm thú vị khi nghe một thằng tí hon lại dùng cái tiếng “hết hồn” có vẻ người lớn đó. Biết tôi đùa, thằng nhỏ lại ngồi xuống chỗ cũ.
Tôi hỏi:
-Chaú tên gỉ?
-“Nguỵ con”!
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
-Chú hỏi cháu tên là gì?
-“Nguỵ con”!
-Ai đặt tên ấy cho chaú?
-Mấy chú cán bộ!
-Thế mẹ cháu không đặt tên cho cháu à?
-Có, mẹ chaú đặt tên “con”, mấy chú cán bộ thì kêu “nguỵ con” rồi các cô dì trong phòng cũng kêu cháu là ” nguỵ con”!
Trời đất ơi! Cái tên này có thể tạo một ấn tượng khó đoán khi thằng nhỏ khôn lớn! Tôi định hỏi vài câu nữa nhưng nó đã bị gọi về phòng .

Rồi ngày thăm nuôi đến-ngày đó coi như ngày Tết của khám đường. Các phòng giam đông người đều được mở cửa suốt thời gian cho thăm để người ta tiện đưa đồ thăm cũng như dẫn dắt những người được gặp người thân ra vào. Những người được ra gặp người thân phải mặc đồ lành sạch. Ai không có phải đi mượn đồ của người khác. Vì vậy, ngày thăm nuôi tù vẫn ăn mặc sáng sủa khác hẳn ngày thường. Các cán bộ cũng dẹp bớt cái vẻ nghiêm khắc hàng ngày để hồ hởi thưởng thức những hơi khói thơm….

Những người không được thăm cũng vui hơn vì ít nhất cửa phòng mở họ cũng hưởng được chút ánh sáng và không khí dễ thở. Họ cũng có thể ké được chút quà tươi hoặc sớt được phần ăn tiêu chuẩn của người được thăm không dùng tới. Những phòng ít người phần nhiều bị kỷ luật, ít được thăm, cưả đóng im ỉm, nhưng ít nhất ngaỳ đó họ cũng yên trí không bị cán bộ quấy rầy. Nói chung, trong ngày thăm nuôi, bất cứ ai đang sống tại khám đường cũng chia được ít nhiều niềm vui, dù chỉ là niềm vui tạm bợ giữa một hoàn cảnh bất hạnh. Kẻ hưởng được hạnh phúc thật sự hoạ chăng chỉ có một người: “thằng nguỵ con”!

Trong lúc cán bộ và tù trật tự bận rộn mang đồ thăm hoặc dẫn tù đi gặp người thân thì thằng nhỏ tung tăng chạy hết phòng này đến phòng khác. Nó rất khôn, cứ gặp cán bộ lại cất giọng lảnh lót “chào cán bộ” thật dễ thương. Vì thế không ai la rầy, cản trở nó cả. Tôi nghĩ chính thằng nhỏ là một nhân tố làm giảm bớt vẻ ngăn cách giữa cán bộ và tù. Đến đâu nó cũng được tiếp đón nồng hậu, quà cứ nườm nượp vào tay nó. Bao nhiêu lần nó sung sướng ôm đầy quà trên tay: bánh tráng, cốm bắp, kẹo….về giao cho mẹ nó.

Trông nét mặt hớn hở của nó vào những lúc ấy ai mà chẳng vui lây! Rồi một tháng trôi qua, lại đến kỳ thăm nuôi.. Hôm ấy trời mưa lâm râm và có gió hiu hắt. Tôi lại dán mắt trước cửa hưởng ké niềm vui của mọi người. Thằng nhỏ lại thả sức tung tăng đi nhận quà. Thấy trời hơi lạnh, lại sợ con bị ướt nên mẹ nó đã cẩn thận bận thêm cho nó một cái aó mưa bằng nylon khá gọn. Lần ấy, có lẽ vì quà tặng hơi nhiều, thằng nhỏ lại không biết sợ lạnh, nó cởi cái aó mưa làm đồ đựng. Khi nó đang ôm bọc quà hí hửng chạy về phòng thì gặp Sơn, một cán bộ nghiêm khắt nhất khám đường. Gã tươi cười đón nó lại:
-“Nguỵ con” có nhiều quà quá, chia cho chú vơí nào!
Thằng nhỏ lính quýnh giẫm vào chỗ đất trơn, té oạch một cái làm quà văng lung tung. Sơn cúi xuống lượm giùm. Xong,
gã vờ bốc lấy một goí giấy, bảo:
-Gói này cho chú xin nghe!
Thằng nhỏ tưởng thật hoảng hốt:
-Không được đâu! Gói này không được đưa cho cán bộ coi!
Nghe thằng nhỏ nói hơi lạ tai, Sơn nghi ngờ mở cái gói ra xem. Gã bỗng trừng mắt đạp vào ngực thằng nhỏ một cái ngã ngửa. Thằng nhỏ nằm lặng một hồi mới khóc ra tiếng. Ai nấy chới với chưa hiểu chuyện gì thì nghe tiếng Sơn nạt:
– Đ.M. đồ cái giống nguỵ ra khác, chưa ráo máu đầu đã học phản động!
Quay lại phiá anh tù trật tự, Sơn hét:
-Bắt nó quỳ dưới cột lưới bóng rổ!
Lập tức thằng nhỏ bị lôi dậy, kéo đi. Liền đó Sơn dẫn một anh tù trật tự khác đến phòng B5. Gã đứng trước cửa hoạnh hoẹ hỏi chuyện. Lát sau một anh tù vưà mới được thăm nuôi hồi sáng bước ra khỏi phòng. Sơn bắt anh tù đứng nghiêm rồi tha hồ đấm đá. Anh tù nhiều lần bị ngã nhưng Sơn lại bắt đứng lên để đấm đá tiếp. Trong chốc lát anh tù đã xác xơ, rục rã. Nhưng Sơn vẫn chưa tha, gã còng cắp cánh tay anh ta lại rồi sai người đưa vào phòng kỷ luật .

Trời vẫn mưa lâm râm, gió vẫn hiu hắt. Thằng nhỏ vẫn quỳ dước chân cột lươí bóng rổ. Sơn vẫn tiếp tục ra vào kiểm soát việc thăm nuôi. Quá nóng ruột, người mẹ phải liều vói mặt ra khỏi phòng van xin chéo véo. Nhưng Sơn cứ phớt lờ, cả giờ sau gã mới chịu cho thằng nhỏ về phòng. Người nó lạnh như cục nước đá, run lập cập, nói không thành tiếng… Buổi tối, khi đưa cơm vào phòng tôi, Sơn cảnh cáo:
-Các anh coi chừng, chớ lợi dụng “thằng nguỵ con” để thông tin tức với nhau! Dù là chỉ hỏi thăm sức khoẻ tôi cũng trị trắng máu ra!

Tôi hiểu ngay anh tù đã phạm nội quy của khám đường. Về sau tôi được biết rỏ hơn là anh tù đã gởi quà với mấy lời nhắn cho một người quen ở phòng tù nữ. Vụ trừng phạt ấy cứ lởn vởn ở trong đầu tôi suốt đêm. Tội nghiệp thằng nhỏ đã bị đòn lại phải chiụ ướt lạnh suốt mấy giờ.

Hôm sau, khoảng nửa đêm tôi phải thức giấc bởi tiếng kêu cứu từ phòng tù nữ:
-Báo cáo cán bộ, phòng A5 có người bệnh nặng!
Tôi giật mình: biết đâu lại là thằng nhỏ? Tiếng từ phòng trực hỏi lại:
-Nặng bao nhiêu ký?
Tiếng kêu cứu từ phòng nữ có vẻ khẩn thiết hơn:
-Báo cáo cán bộ, phòng A5 có người sắp chết!
-Nghe rồi, đợi đó giải quyết!

Chừng nửa giờ sau tôi nghe có người nói chuyện ồn ào trước sân. Có lẽ cán bộ y tế đã đến. Rồi cả khám đường yên ắng trở lại.Gần sáng tôi lại bị ông Đoàn đánh thức:
-Ông nghe gì không?Trời ơi, rõ là tiếng kêu khóc thảm thiết của một người đàn bà:
-Con ơi con, sao nỡ bỏ mẹ mà đi như thế con ơi! Con tôi chưa đầy ba tuổi đã biết gì đâu mà phản động, đau đớn lắm trời ơi!……
Tôi giật mình thở dài: Trời ơi! thằng nguỵ con! Liền đó tôi nghe tiếng nạt nộ:
-Con bị sưng phổi không chiụ lo báo cáo sớm, bây giờ không để người ta chôn cất còn khóc gào đổ thừa cho ai? Tiếp đó tôi lại nghe tiếp nhiều tiếng nấc nghẹn ngào….

Ngô Viết Trọng    

ÔNG THÔNG GIA – VŨ THƯ HIÊN

  ÔNG THÔNG GIA –  VŨ THƯ HIÊN
1-Tôi sung sướng đằm mình trong nước mát. Trên đầu tôi, quanh tôi, nắng chói loà. Tôi bập bềnh trôi. Có tiếng sáo diều văng vẳng. Đang say sưa ngụp lặn, bỗng có một cái gì va vào tôi làm tôi vùng vẫy, sặc̣ sụa.

– Cậu ngủ say quá thể! – nghe tiếng người, tôi nhận ra tiếng cô Lương – Dậy đi, cậu.

Cô Lương lột tấm chăn tôi trùm kín đầu. Tôi giằng lại, nhưng không được. Thế là tỉnh hẳn.

– Có việc gì mà cô đến sớm thế? – tôi tung chăn ngồi dạy, càu nhàu.

Tôi tiếc giấc mơ. Tiếc lắm. Không dễ gì gặp được một giấc mơ như thế. Với tôi, dòng sông quê hương mà tôi vừa được thoải mái trầm mình trong đó giờ đây xa lơ xa lắc. Tưởng chừng nó đã mất hẳn trong trí nhớ. Giấc mơ như một món quà bất ngờ. Món quà tan biến chỉ vì cái nhà cô Lương thổ tả kia.

Tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp đi về phía bếp, tiếng nước đổ vào ấm, tiếng bật công tắc.

– Sớm gì mà sớm. – tiếng cô Lương nói – Trưa rồi.

Tôi vẫn còn chưa hết bực mình. Mở mắt thấy kim đồng hồ trên bàn chập nhau ở con số 12. Trưa thật rồi.

Cô Lương chậm rãi pha trà. Giữa chúng tôi, hơi trà ngào ngạt và ấm áp bốc trên miệng chén. Ở khoảng cách gần, tôi thấy cô già sọm – hai mắt lõm sâu, má hóp, da mặt đã có màu bao xi măng. Mấy chiếc răng cửa hơi đưa ra, vốn là cái duyên của cô, giờ xuống màu, với những khe rộng hơn trước. Giọng cô không còn trong, không còn cao, nó mệt mỏi, khàn khàn. Từ nốt ruồi ở hàm bên phải chui ra một sợi râu bạc.

– Cửa cũng không thèm đóng. – cô chép miệng – Em chỉ việc đẩy vào. Có ngày trộm vét sạch. Thật đấy. Cậu biết hôm nay ngày gì không?

– Ngày gì?

– Ngày Ông Táo lên chầu giời rồi đấy.

– Ờ…

Lại một năm trôi qua. Cô Lương là cuốn lịch sống của tôi. Không có cô nhắc, tôi sẽ không biết mình đang ở đâu trong dòng chảy vô hình ấy. Đã nhiều năm, mỗi khi phải lấy áo ấm ra mặc, thấy tuyết rơi, tôi biết là mùa đông đến; phải lôi cái quạt máy trong đống đồ xếp xó ra cho nó chạy, tôi biết đã vào hè.

– Em mang ít đồ cúng sang cho cậu.

Nhìn lên nóc tủ tôi thấy có mâm ngũ quả, xôi lạc, gà luộc. Và nén nhang mới bén.

– Cảm ơn cô.

Cô cười không tươi.

– Đàng nào em chả cúng. Cậu thì cái gì cũng phiên phiến, phiên phiến. Tết nhất phải có chút gì gọi là hương khói để nhớ đến tổ tiên, ông bà. Tết này cậu sang em, ăn Tết bên em nhá?

– Ờ…

– Hôm nay em sang đây – cô nói, giọng ngập ngừng – là có việc phiền cậu

Tôi đặt chén trà xuống, nhìn cô, chờ đợi. Ở đây, chỉ tôi là người thường nhờ vả cô. Chứ cô chẳng bao giờ nhờ vả tôi.

– Việc gì vậy?

Cô ngần ngừ.

– Em muốn phiền cậu đi Berlin với em một chuyến.

Tôi ngạc nhiên. Từ khi dọn về đây ở gần cô, tôi chưa thấy cô đi đâu.

– Đi Berlin? Làm gì chứ?

Cô nhoẻn cười, ngượng ngập:

– Hỏi vợ cho cháu Hiếu

2- Tôi và cô Lương có một tình bạn dài nửa thế kỷ.

Tình bạn của chúng tôi bắt đầu bằng một món ăn. Cô Lương không phải người bình thường. Ở đất thủ đô, cô là người nổi tiếng. Cô nổi tiếng không phải vì cái gì to tát, mà nhờ một món ăn – món bún mọc. Tôi sẽ không tả bún mọc của cô ngon như thế nào. Không ai có thể tả được cái sự ngon. Chuyện ấy là của riêng cái lưỡi. Cứ phải ăn mới biết. Chỉ có thể nói gọn một câu: bún mọc là món độc quyền của cô Lương trong toàn thành phố. Về món này không ai tranh hơn được với cô. Quanh gánh bún cô Lương, khách ngồi chật vỉa hè đợi đến lượt. Đông thế mà cô tài nhớ lắm: ai đến trước, ai đến sau, cô không bao giờ lẫn. Cô tươi nở múc cho từng người suất bún nóng hổi, thơm phức, nước dùng ngọt lịm, húp bỏng miệng. Những viên mọc của cô, được chế tạo cách nào không biết, nêm nếm thế nào không biết, mềm và đàn hồi, cắn ngập chân răng, như thể chúng không phải được nặn bằng thịt lợn tầm thường của trần thế.

Đến đây tôi phải nói ngay rằng giữa hai chúng tôi không hề có chuyện ong bướm. Đơn giản vì cô Lương không phải là một cô. Cô không phải đàn bà.

Trở thành khách quen của gánh bún mọc, tôi gọi anh chàng Lương này bằng cô, như cách mọi người gọi. Có người còn gọi là cô đồng Lương. Gọi thế không đúng – Lương không phải cô đồng. Không hầu đồng, không am miếu, không hương khói, đàn địch, không con công (con nhang?) đệ tử, sao gọi thế được. Các nhà khoa học viết khá nhiều về hiện tượng ái nam ái nữ, tôi có đọc, nhưng không hài lòng. Thế giới “ái” rất đa dạng, rất phức tạp, theo tôi quan sát. Nó không dễ giải thích. Đơn giản hoá nó, sơ lược hoá nó, trong cái nhìn bất biến, đinh ninh, miêu tả qua lăng kính duy vật cho ra vẻ khoa học là không được. Lấy cô Lương làm ví dụ. Đực rựa, có vợ có con hẳn hoi. Chị vợ, tôi đã gặp, xinh gái, đàn bà trăm phần trăm, mẹ của hai đứa con giống bố như đúc. Một gia đình như mọi gia đình. Cái khác là trong gia đình này anh chồng từ tấm bé đã thích trang điểm theo cách nữ – ở nhà không biết thế nào, chứ ra đường là phải thoa một chút phấn hồng lên má, quệt một đường son nhẹ lên môi. Lại còn đeo nịt vú nữa chứ (nó hiện rõ qua lần áo phin nõn), ai cũng thấy. Nói ỏn ẻn, đi nhún nhẩy, hai tay phẩy phẩy bên hông, không khác đàn bà. Thế mới thành cô Lương. Nhưng “cô” không có một nhân tình đàn ông nào, tuyệt không. Chưa ai bắt gặp “cô” cặp kè với một người phái nam. Vì thế, nói rằng trong con người cô Lương có thứ tình dục đồng giới, bệnh hoạn, theo cách nhìn của thế hệ tôi, là nói bậy.

Tôi là người không háo lên án ai, lên án cái gì. Tôi chỉ háo ăn ngon. Qua một lần nếm thử đã đủ để tôi trở thành khách quen của gánh bún mọc cô Lương. Thấy tôi, khi nào cô cũng đon đả:

– Kìa, anh giai! – múc bát mọc cho tôi xong, cô vui vẻ hỏi – Anh giai thêm hành trần nhá? Ớt tươi chứ? Em biết tính ông anh mà, sành lắm, ăn mọc chẳng chịu tra tương ớt đâu. Ngần này đủ chưa ạ?

Rồi lại sợ mất lòng một ông khách nào đó nghiện tương ớt, cô bả lả:

– Nói vậy chứ bách nhân bách tính, có người thiếu tương ớt là nhạt mồm nhạt miệng, ăn mất ngon, có phải không các bác?

Hoặc:

– Anh giai nom có vẻ mệt, em nhúng hai trứng nhá? Anh giai bổ dưỡng đi cho chị em vui.

Tôi đỏ mặt vì những lời chớt nhả ấy. Khách tủm tỉm nhận xét: múc cho tôi, trong muôi của cô bao giờ cũng có nhiều mọc hơn cho người khác, một chút thôi, nhưng hơn. Họ đùa cợt bảo: là do tôi đẹp trai. Tôi soi gương chẳng thấy mình đẹp trai tẹo nào, có lẽ tại hai chúng tôi có duyên tiền kiếp.

Đùng một cái, không thấy cô Lương dọn hàng. Không ai biết cô biến đi đâu.

Khách hàng nghiện bún mọc buổi sáng nhìn cái vỉa hè quen thuộc từ lâu đông nghịt giờ đây trống trơn, chưng hửng dắt xe đi. Hỏi người chủ ngôi nhà trước gánh bún mọc của cô Lương, một ông già cao lêu đêu, ông ta lắc đầu: không biết. Cô Lương đến xin đặt nhờ gánh bún thì ông cho, ông không khoảnh. Ông cho cô ngồi nhờ ở hàng hiên nhà ông vô điều kiện. Để cảm ơn ông, sáng nào cô cũng làm một bát mọc tú hụ bưng vào cho ông. Khi khách quá đông, ngồi chật cả lối ra vào, ông chưa kịp trách thì cô Lương đã bẽn lẽn xin gửi ông ít tiền hàng tháng, coi như thuê chỗ.

– Cô ấy cứ giúi vào tay, bắt tôi phải nhận. Chứ tôi không đòi. – ông nói như phân bua – Thời buổi này giúp nhau được chút gì thì giúp, là cái nghĩa đồng bào. Vỉa hè nào phải của tôi. Nhưng cô ấy là người biết điều. Thấy làm phiền người nhà đi ra đi vào, cô ấy ngại. Tôi không biết cô ấy dọn đi đâu, thật vậy.

Hoá ra trong những ngày ấy cô Lương ở tù. Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau thấy ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại nào nhỉ?

3- Tôi gặp lại cô Lương ở một nơi mà cả hai đều không ngờ: trại tị nạn Hồng Kong.

– Giời ạ, cậu?! – trông thấy tôi, cô Lương túm lấy, mừng quýnh. Rồi trợn mắt lên, thì thào – Cậu, sao lại ở đây?

– Thì có gì lạ?

– Cậu là cán bộ kia mà.

Cô Lương thay đổi đến khó nhận ra: son phấn không, áo quần luộm thuộm, nhếch nhác, trên mép là một hàng ria nham nhở. Bây giờ tôi không còn là khách hàng nữa, cô gọi tôi bằng “cậu”. Tiếng “cậu” của ta có nhiều nghĩa, là cách bạn bè thân mật gọi nhau, cách con gọi cha, vợ gọi chồng, cháu gọi em ruột của mẹ. Còn khi dùng với người ngoài không gần gụi, nó lại là cách xưng hô tỏ sự tôn trọng đối với người có vai vế hơn mình.

– Cán bộ thì đã sao? – tôi ôm chầm lấy cô – Đến đây lâu chưa?

– Hai năm rồi. Còn cậu?

– Mới.

– Em tưởng chỉ có dân chúng em khổ quá mới phải đi thôi – cô Lương cụp mắt nhìn xuống bàn chân đầy bụi di di trên mặt đất – Ai tự dưng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ quê hương bản quán? Báu lắm đấy, cái đồng đất xứ người… Mà tại sao cậu cũng đi?

– Chuyện dài – tôi đáp – Lúc nào rảnh, tôi kể. Còn cô, đang đắt khách sao lại dẹp hàng, rồi ở đây?

– Cũng là chuyện dài, cậu ơi.

Chuyện dài ấy là thế này:

Trước, hai mẹ con cô Lương là xã viên hợp tác xã thu mua đồ phế thải, nôm na là hợp tác xã đồng nát. Dân ta vốn thích oai, gọi vống lên cho sướng, chứ xã viên của cái hợp tác xã này vẫn là những bà đồng nát ngày trước. Đòn gánh trên vai, hai đầu hai thúng, họ lang thang khắp phố phường mua đủ thứ đồ vứt đi: sắt vụn, nồi thủng, mâm bẹp, giấy lộn, tóc rối…, đem bán lại cho các vựa. Để được phép làm việc ấy, tháng tháng họ phải đóng một khoản tiền cho hợp tác xã, coi như mua sự hợp pháp. Mẹ cô Lương là con gái Ước Lễ. Làng này nổi danh cả nước về nghề giò chả. Chồng chết sớm, bà mở hàng ăn kiếm sống, nuôi con. Có nghiệp tổ, miễn chăm làm thì không giàu được cũng đủ sống. Mở hàng mới được ít lâu thì đùng một cái, nhà nước ra lệnh cấm tiệt mọi nghề dính dáng tới lương thực, tức là tuốt tuột mọi thứ – gạo, ngô, khoai, sắn và bất cứ thứ gì có chứa tinh bột. Vốn liếng thế là tong. Cũng có vài hàng phở, hàng cháo lòng đánh liều, bán chui trong nhà. Bà không có cái gan ấy. Để được bán chui phải chạy vạy, phải đi đêm với đủ loại quan nha, chức sắc: cán bộ phòng thuế, cán bộ quản lý thị trường, công an khu vực… mới yên. Suy đi tính lại, chỉ có cái nghề mạt hạng, bị khinh khi, là nghề đồng nát, người ta mới không nhòm đến.

Cuộc sống vất vả làm sức khoẻ bà suy sụp, rồi mất. Cô Lương còn lại một mình. Cô bỏ gánh giấy vụn, đi làm thuê cho một quán phở chui. Cho đến khi ông nhà nước thấy cuộc sống sa sút quá, kinh tế xuống dốc quá, thành phố tiêu điều quá, mới rộng lượng ngoảnh mặt đi cho những người buôn thúng bán bưng muốn làm gì thì làm, cô Lương nhớ nghề tổ mới dám nghĩ tới việc vay mượn họ hàng sắm sanh gánh bún mọc cho mình. Rồi lấy vợ, đẻ con.

Ai ngờ một gánh bún mà làm nên cơ đồ.

Cô Lương trở nên giàu có. Nói giàu là nói trong khái niệm tương đối. Giàu ở đây là có nhiều tiền hơn người quanh mình thôi, chứ chẳng phải thiên ức vạn tải gì. Có đồng ra đồng vào, cô cũng chẳng sung sướng. Thời bấy giờ, giàu cũng là cái tội cái nợ. Sắm sửa thì hàng xóm biết, gửi tiết kiệm nhiều tiền thì nhà nước biết. Phải tìm mọi cách giấu cho kín cái giàu, không được hở cho bất cứ ai. Đã trở thành thói tục: người này theo dõi người kia, nhà này nhòm ngó nhà khác, không trừ cả thân thuộc. Thành thử cô Lương phải hết sức giấu giếm cái sự giàu của cô. Nhưng chẳng lẽ cứ tích tiền để đấy trong lúc nó mất giá hàng ngày?

Nhờ ông anh họ mách nước, cô trở thành người “chơi” đồ cổ. Ông này rất sành sỏi trong lĩnh vực gốm sứ, nghe nói vậy. Đến Viện bảo tàng Lịch sử cũng phải mời ông ấy cố vấn mỗi khi phải xác định niên đại một hiện vật mà nhận định của các chuyên gia không thống nhất. Người như thế lẽ ra phải ở trong biên chế, nhưng ông không thể có cái đó vì lý lịch – cha ông có thời làm thông phán trong phủ Toàn quyền. 

Ông khuyên cô:

– Chú cứ nghe tôi: để tiền vào đồ cổ là an toàn nhất hạng. Nó là thứ không thiu không thối, càng để lâu càng có giá. Chú quen nghề đồng nát, biết nhiều nhà, cứ lân la dò hỏi, biết đâu đấy, có khi vớ được của quý cũng nên. Gặp đồ cổ chú cứ gọi tôi, tôi biết cái gì quý, cái gì không quý, trả bao nhiêu là vừa. Nhà nước mua lại đồ cổ của dân bằng giá rẻ mạt, chẳng ai muốn bán. Dân đào được đồ cổ cũng bị thu mua, chỉ được tí tiền gọi là bồi dưỡng. Mình trả cao hơn nhà nước là người ta bán liền. Quen rồi, người nọ mách người kia, mình sẽ mua được khối thứ quý. Mua rồi cứ để đấy.

Cô hỏi ông anh:

– Mua để đấy phỏng có ích gì?

– Xì, chú không biết nhìn xa.

– Là thế nào ạ?

Ông nói chắc nịch:

– Thể nào rồi cũng có một ngày khác bây giờ. Cứ thế này mãi có mà chết. Lúc ấy chú cứ gọi là ngồi trên đống của.

Cô Lương nghe lời ông anh. Cô làm quen với giới buôn đồ cổ “chui”. Cô dò hỏi, cô lùng sục, gặp đồ nào ông anh bảo là đồ quý, cô mua. Dần dà, cái việc không quen trở thành quen, thành đam mê. Nhờ sự dạy dỗ của ông anh, riết rồi cô cũng trở thành một chuyên gia đáng nể. Cầm cái bát, cái đĩa hay lọ độc bình lên, ước lượng nặng nhẹ để biết xương, xem men, xem dáng, cô có thể nói ngay niên đại của món đồ, thuộc đời nào Tống, Đường, Minh, Thanh hay Lý, Trần. Lê mạt. Còn hơn chuyên gia, cô sở hữu một số đồ độc nhất vô nhị.

Các cụ nói: cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, đồ cổ thì thứ nào cũng lớn hơn cái kim hết. Thế rồi một ngày kia có người chào cô mấy cái đĩa men ngọc đời Lý, lại là men rạn, cực hiếm. Cô mua ngay. Cuộc mua bán vừa xong tay là công an ập vào. Họ nói được báo có những hiện vật bảo tàng vừa bị mất trộm, chính là mấy cái đĩa ấy. Để “làm rõ” lý lịch những đồ cổ khác, người ta thu tất tần tật các thứ cô Lương tích cóp được. Cô Lương bị tống giam vì tội “tiêu thụ của gian”. Cô ở tù gần một năm, không xét xử, gọi là giam cứu.

– Rồi họ xác minh cô vô tội?

– Làm gì có chuyện ấy?! – cô cười gằn – Họ bảo em nhận tội đi rồi họ tha, không nhận thì cứ ở đấy.

– Rồi cô nhận?

– Chứ sao.

Ra tù, cô trắng tay. Với tấm giấy tạm tha trong túi. Cô vợ xinh gái đi theo một tay cán bộ phòng thuế. Có thể gây dựng lại cuộc đời bằng gánh bún mọc, như trước kia, nhưng cô không còn sức, nói cho đúng, sau khi ở tù ra cô chán mọi sự đời, không còn ý chí, không còn ham muốn. Nghe người ta mách, cô dắt hai con xuống Hải Phòng tìm đường đi xứ khác. Cũng lại do ông anh họ chuyên gia đồ cổ:

– Chú đi đi, chú đã bị bỏ tù một lần, coi như có tì vết, không tiền án cũng tiền sự, ở đây khó sống lắm. Giờ người ta đi ầm ầm. Tôi xin lỗi chú. – ông quệt nước mắt, sụt sùi – Cũng là tại cái thằng tôi, chú mới sa vòng tù tội…

Chuyện vượt biên xưa như trái đất, khỏi kể. Sóng gió, đói khát, cạn nhiên liệu, chìm tàu… vân vân. Tất cả những cái đó xảy ra với bất kỳ ai.

4- Tôi bằng lòng đi Berlin với cô Lương. Cô nói không có tôi đi cùng, cô sẽ lúng túng, không biết ứng xử thế nào với nhà gái cho phải phép.

Ở nhà cô, một chàng trai cao, to, để ria mép, trân trân nhìn tôi.

– Cháu Hiếu đấy – cô Lương nói, vẻ tự hào pha ngượng nghịu.

– Chào cháu – tôi chào nó, biết rằng nó sẽ không chào tôi trước – Bác không nhận ra cháu đấy.
– Nhìn tôi, nó nói – Bác khoẻ.

Cô Lương liếc tôi, cái nhìn biết lỗi.

– Khi chúng mình gặp lại nhau, cháu mới bằng ngần này. – tôi cười xoà với cô Lượng, rồi giơ bàn tay úp sấp làm hiệu chỉ chiều cao của nó hồi ấy – Từng ấy năm, cháu làm sao nhớ được tôi là ai. 

Nghe cô kể thì thằng Hiếu sáng dạ, học trung cấp cơ khí, bây giờ đã là trưởng ca hay trưởng kíp gì đó trong một nhà máy, công việc tốt, lương cao. 

– Ba, con ra tiệm Một lát – nó bước ra cửa – Con đi Máy của con vừa bị đao -Ba với bác chuẩn bị sẵn sàng nhé!

Tôi nhớ lúc còn nhỏ, hai đứa con cô Lương không gọi cô bằng “ba”. “Ba” hiện đại hơn, sang hơn “bố”.

Đi ngang tôi, thằng Hiếu vẫy tay

Thì ra cái Audi đen bóng đậu ngoài phố, lối vào nhà, là của nó.

– Bọn trẻ giờ thế cả. Không biết lễ phép là gì – cô Lương thở dài – Sang đây chúng nó thành Tây hết. Nó vừa nói cái gì vậy, cậu?

Tôi giải thích. Cô Lương không biết computer là cái gì.

– Cậu đừng chấp – cô Lương bảo tôi – Thế là toi cái Tết. Mình lên đấy rồi về chắc gì kịp ăn Tết. Em mời cậu Tết này ăn Tết với em, mời thật tình, mà hoá ra mời rơi. Cậu vào đây mà xem: em đã lo sẵn hết cả: măng lưỡi lợn nhá, chân giò nhá, lá giong gói bánh nhá, thịt xay làm mọc nhá… tất tần tật. Em nghĩ lại rồi, em đi một mình cũng được, bắt tội cậu đi với em những ngày này, em ái ngại quá.

– Vẽ, đi là đi. Tôi nói rồi, với tôi ngày Tết chẳng có gì quan trọng. Cô đừng nghĩ ngợi.

– Thằng Hiếu lấy Tây hay ta đấy?

– Ta, cậu ạ. May thế!

Cô chị thằng Hiếu lấy Tây. Bố vợ với con rể chỉ gút tần tác, gút tần nác[6] với chuýt là hết chuyện. Cô Lương rầu lắm. Cô còn rầu hơn nữa là đến bẹo má thằng cháu ngoại một cái cũng không được, sờ cái giống của nó cũng bị cấm – Tây nó không thích. Nó sợ cô làm bẩn con nó.

Cô phân trần:

– Nhà gái đòi phải có chạm ngõ, ăn hỏi, rồi mới cho cưới. Lôi thôi quá, cậu ơi. Lần trước gọi điện về, thằng Hiếu đã giục. Em bảo: để thư thư, Tết ra đi cũng được. Đùng một cái, ông bố vợ nó bị đâm xe.

– Nặng không?

– Nặng, mới khổ. Bà mẹ vợ bảo thằng Hiếu phải tức tốc về đón em lên để chính thức có nhời với người ta. Nếu chẳng may ông ấy có mệnh hệ nào họ còn cho cưới chạy tang.

– Hiểu rồi. Cô biết nhà gái chứ?

– Thằng Hiếu có nói gì trước với em đâu.

Mặt cô Lương chảy dài. Khi cô buồn, hay là có điều suy nghĩ, cô bước những bước chậm chạp, cái lưng gù xuống.

5- Làng, nơi chúng tôi ở, thuộc miền Nam Đức. Nhỏ nhưng sạch sẽ, ngăn nắp, an bình. Nói chung, làng quê ở vùng này đều thế: gọn gàng, tiện lợi, bé tí, mà cái gì cũng có – bưu điện, cửa hàng dược phẩm, bệnh viện, trạm xăng, siêu thị. Thằng Hiếu vui vì tôi nhận lời đi cùng bố nó, nhà trai như thế là đủ hoành tráng. Nhưng nó chê ỏng chê eo nơi ở của chúng tôi:

– Cháu đã bảo ba cháu dọn lên Berlin, ông ấy không chịu, kêu ở thành phố lớn ồn. Ra đến nước ngoài mà còn chui rúc xó xỉnh. Ở cái chốn nhà quê thế này, bác tính, vui thú nỗi gì cơ chứ? – nó nói với tôi trên con đường làng hẹp – Sorry[7] bác, mấy ông khốt[8] giống nhau như đúc, sợ thay đổi như sợ cọp…

Cô Lương im lặng. Tôi ậm ừ. Tôi cảm thấy mếch lòng. Cứ như thể bố nó không chịu đi là do tôi, ông ấy thích ở đây là vì ở đây có tôi.

– Được cái ông bố vợ cháu khá. – thằng Hiếu hồn nhiên tiếp tục – Khác hẳn bố cháu. Nhanh nhẹn lắm, cứ như thanh niên í. Hồi mới sang, ông í đứng đường bán thuốc lá lậu, rồi cầm đầu hẳn một băng, kiếm khẳm. Tậu được nhà. Nhà hẳn hoi, chứ không phải căn hộ. Thay xe như thay áo. Mẹ vợ cháu cũng đảm, làm chủ một resto[9] trên năm chục bàn. Ba cháu mà như người ta thì đâu đến nỗi như bây giờ. Mèng ra cũng có một cái  imbiss[10]. – Tội nghiệp, không biết liệu ông bố vợ cháu có tai qua nạn khỏi không? 

Không giống nhiều thanh niên khác, Hiếu vẫn nói thạo tiếng mẹ đẻ, chỉ thỉnh thoảng nó mới chêm vào vài tiếng Đức quen miệng, vài tiếng Anh thời thượng. Trên xe, nó nói với tôi nhiều hơn nói với bố. 

– Này, anh Hiếu, thế ông ấy đã làm… hừm, gọi là cái gì nhỉ, à, cái di chúc chưa đấy? – giữa câu chuyện, cô Lương đang lim dim ở ghế sau, nhổm lên nói. 

– Ông ấy khoẻ như vâm, – thằng Hiếu nhún vai – nghĩ gì đến di chúc.

– Vạn nhất ông ấy không qua khỏi mà không có di chúc để lại thì, hì hì…, vợ chồng anh dễ bị thiệt lắm.

Trong câu nói của cô Lương có âm sắc mai mỉa. Nhưng con trai cô không nhận thấy.

– Ông ấy có gì để lại? Khôn như rận, ba ơi, cái gì cũng tên vợ hết. Ông ấy sợ. Bọn Đức khiếp lắm, trốn thuế cả chục năm rồi chúng vẫn moi ra đấy.

Chúng tôi đến Berlin vào buổi tối.

Bà thông gia phốp pháp, son phấn tưng bừng ngay cả khi đang điều khiển nhà hàng. Nhác trông cũng thấy được sự không môn đăng hộ đối giữa nhà trai với nhà gái. 

– Chúng em không oẻ hoẹ tương tàu đâu, thưa hai bác – bà nói, giọng ngọt lịm – Nhưng mà, thưa hai bác, gì thì gì mình vẫn cứ phải giữ lề thói cha ông. Con nhà gia giáo chữ lễ phải coi trọng, phải là nhất, có đúng thế không ạ? Em dễ tính, cứ phiên phiến, thế nào cũng xong, chứ ông nhà em cổ lắm, nhất nhất phải theo phép xưa mới chịu. Phật tử đấy ạ, chăm đi chùa lắm. Mà chùa thì xa, có gần đâu. Tối nào cũng ngồi thiền, tụng kinh niệm Phật.

– Ông bà nghĩ thế là chí phải. – cô Lương chắp tay lễ phép – Chúng tôi nhất nhất xin theo. Ngặt vì mình nay ở xứ người, có nhiều cái không thể được như ở nhà, chúng tôi có điều gì thất thố, xin ông bà bỏ quá cho.

Cô Lương nói kiểu lịch sự trơn tru, làm tôi ngạc nhiên. Thường ngày không khi nào cô có cái giọng ấy, có khác một chút cũng chất phác, mộc mạc. 

– Con Thuỷ đâu rồi? – bà cao giọng gọi vào trong bếp – Ra đây.

Một cô gái trẻ, vận quần áo đúng mốt, có hở một chút rốn, nhanh nhẹn chạy ra. Mắt thằng Hiếu sáng lên. Hai đứa nhìn nhau lúng liếng. Con bé này rồi cũng đảm chẳng kém mẹ, tôi nhận xét.

– Con chào hai bác đi. Bây giờ thế đấy, hai đứa chúng nó quen nhau từ lúc nào em đâu biết, chúng nó đâu có báo cáo báo cầy gì với bố mẹ. Thôi thì không bằng lòng cũng phải bằng lòng, bác không kén dâu, chúng em cũng chẳng kén rể…

– Dạ.

– Mà có kén cũng chẳng được, thưa hai bác, thời bây giờ chúng nó tự kén nhau, chẳng nhòm nhõi gì đến ta, chẳng cần lề thói, phép tắc như xưa, có phải không ạ? Thôi thì cũng là cái duyên cái số. Nhà trai đến, có nhời với chúng em là chúng em vui rồi. – bà rơm rớm nước mắt – Vui đến, buồn cũng đến, năm nay nhà em gặp hạn. Ông nhà em lái xe cẩn thận lắm, thế mà vẫn bị. Tổ cha cái thằng Đức lợn, nó phóng bạt mạng, mới ra nông nỗi. Thổi bong bóng thằng ấy thấy có hơi rượu, nhưng cảnh sát bảo còn dưới mức cho phép. Chúng nó bênh nhau ấy mà, ai chả biết. May, nhà em đã mua bảo hiểm toàn phần…

Cô Lương đến lúc ấy mới dám lí nhí hỏi câu cô muốn hỏi.

– Thưa, bệnh tình ông nhà… thế nào rồi?

Bà thông gia vui vẻ:

– May, tưởng nặng, hoá không phải. Không mổ xẻ gì hết, chỉ mấy mũi khâu, băng bó xong nằm tĩnh dưỡng ít hôm là về. Nhà em hiếu khách lắm, ông ấy mà gặp hai bác thì chuyện dứt không ra. Mấy hôm nữa, khoẻ lại rồi, nhà em sẽ đưa hai bác đi thăm danh lam thắng cảnh ở đây. Còn bây giờ thì em xin mời hai bác dùng bữa rồi về nghỉ ở nhà em. Nhà không đến nỗi chật, em đã chuẩn bị, hai bác mỗi người mỗi phòng ạ.

– Cảm ơn bà, bà chu đáo quá. Bác cháu đây (cô Lương chỉ tôi) trước cũng ở Berlin, bác cháu đã gọi điện đặt phòng ở một khách sạn quen rồi – cô nói dối ráo hoảnh, làm tôi một lần nữa ngạc nhiên – Chúng tôi nhận phòng xong rồi mới lại yết kiến bác đấy ạ…

6- Đến bệnh viện, chúng tôi không khó khăn tìm được phòng của bố vợ thằng Hiếu. Nhác thấy người bệnh qua cánh cửa khép hờ, cô Lương như bị điện giật, nắm chặt tay tôi.

– Ông sao vậy? – tôi ghé sát vào tai cô Lương, thì thào.

Cô Lương xua xua tay, nói khẽ:

– Không, không sao.

Mắt không rời khe cửa, mặt cô Lương đờ ra, xám ngoét. Rồi lôi tôi khỏi chỗ ấy.

– Thằng Hiếu đâu rồi?

– Tôi không biết. Nó vừa đây mà.

Thì ra thằng Hiếu dừng lại ở ngoài cổng hút thuốc. Cô Lương lật đật chạy đến, túm lấy nó, tôi hối hả theo sau.

Đứng trước mặt con, cô dằn giọng:

– Hiếu, bố vợ mày tên là gì?

Nó trố mắt:

– Sao, có chuyện gì mà ba hỏi thế? Sao mặt ba tái đi thế?

– Tao hỏi: bố vợ mày tên gì?

Thằng Hiếu ngớ ra.

– Ông ấy tên là Khởi, ông Khởi. Có chuyện gì thế, ba?

– Đúng, đúng là nó.

Cô Lương lẩm bẩm rồi cúi gập xuống như một thân cây bị đốn. Tôi vội đỡ cô. Thằng Hiếu lại càng hốt hoảng:

– Ba, ba sao vậy? Bác có biết ba cháu bị sao không?

Tôi lắc đầu. Cô Lương phẩy phẩy tay:

– Đi về. Đi về.

– Sao đến đây rồi lại đi về, ba?

– Đi về là đi về.

Tôi đoán là có chuyện nghiêm trọng, liên quan tới người bệnh đang nằm trong kia.

Tôi kéo cô vào quán nước gần nhất. Dọc đường cô như người mất hồn, mặc tôi muốn đưa cô đi đâu thì đi.

Đặt cô ngồi xuống ghế, tôi gọi mấy ly bia. Cô run run cầm cái ly lên, lẳng lặng uống cạn. Đợi cô uống xong, rồi ghé sát vào tai cô thì thào:

– Ông biết ông ta?

Cô Lương nhìn chằm chằm vào khoảng không, môi mím chặt:

– Chính là nó. Chính là nó đấy, ông ạ. Khi có người thứ ba, chúng tôi không xưng hô với nhau như thường ngày nữa, mà “ông, tôi”. Cái đó đã trở thành quy ước, nó gắn chặt thêm tình thân giữa chúng tôi, như giữa hai kẻ đồng mưu.

– Mà nó là ai kia chứ? – tôi gặng.

Cô hít vào một hơi rồi thở ra hộc ra, như muốn trút hết không khí khỏi lồng ngực:

– Là thằng làm đời tôi tan nát ấy. Nó. Chính là nó. Có đến chết tôi cũng không quên mặt nó, cái thẳng khốn nạn ấy. Chính là cái thằng giả dạng đem bán cho tôi mấy cái đĩa cổ, rồi làm hiệu cho đồng bọn ùa vào khám nhà để tống tôi vào tù đấy.

Một giọt nước mắt xúc động lăn trên gò má, cô lấy mu bàn tay quệt đi. Rồi ngẩng lên, nhìn vào mặt con:

– Thằng Hiếu nghe đây!

Thằng Hiếu ngẩn ngơ trước thái độ không bình thường của bố. Bình thường bố gọi nó bằng anh, một điều anh Hiếu, hai điều anh Hiếu, với giọng trịnh trọng của ông bố đã có tuổi nói với đứa con đã thành nhân, không bao giờ bố gọi nó bằng thằng. Trước mặt nó giờ đây không phải là ông bố hiền lành, ông bố đụt, mà nó đã quen thấy, mà nó hằng coi thường. Trước mặt nó là một người đàn ông dữ dằn đang nổi cơn điên. 

Nó bất giác khoanh hai tay lại, cử chỉ từ lâu nó không làm.

– Dạ.

– Nghe tao nói đây: mày sẽ không lấy cái con nhà ấy, hiểu không? – cô nhìn thẳng vào mắt nó, dằn từng tiếng, như bắt nó phải khắc trong trí – Con ấy có là tiên cũng không lấy nữa, không được. Thằng Khởi là kẻ thù của gia đình ta. Chính nó đã làm cho gia đình ta điêu đứng. Hôm nay có súng trong tay thì tao đã bắn chết nó…

Thằng Hiếu im lặng ngồi phịch xuống ghế. Hai tay ôm đầu, nó ảo não nhìn bố.

Vẫn giọng chắc nịch, cô Lương không nói, mà tuyên bố:

– Thà chết, chứ tao không thông gia với cái giống ấy.

Tôi ôm lấy vai cô:

– Việc gì thì cũng phải bình tĩnh, từ từ suy nghĩ, trước hết là phải bình tĩnh, không nên nóng nảy. Giờ ta về khách sạn. Rồi tính tiếp .

7- Ngày hôm đó kẻ vất vả nhất, khốn khổ nhất, là thằng Hiếu. Nó lái xe chạy cuồng giữa ba đỉnh của một hình tam giác – khách sạn, nhà thương, nhà hàng. Nghe lời tôi, nó nói dối bố mẹ vợ rằng lễ vấn danh theo kế hoạch như thế là phải hoãn – bố nó bất thình lình trúng gió, nằm liệt, không đi lại được. Ông bố không nói gì, nhưng bà mẹ và cô con gái cuống lên, nằng nặc đòi đến thăm. Nó phải ra sức cản, viện lẽ chừng nào bố nó chưa được định bệnh thì không thể và không nên đến, biết đâu đấy, chưa chừng bố nó nhiễm chứng cúm châu Á ngay trước khi lên đường đi Berlin cũng nên, bệnh ấy vừa xuất hiện, người bệnh cần được cách ly. Lời nói dối có hiệu quả – ở Đức người ta sợ cúm châu Á còn hơn sợ dịch tả. Người Việt ở Đức cũng sợ lây.

Tôi không nói với cô Lương đó là kế hoãn binh của tôi. Tôi nói ra, cô sẽ nổi khùng. Cả ngày, cô chẳng nói chẳng rằng, chỉ nằm ngửa nhìn lên trần. 

Đêm đến, thấy cô có vẻ đã nguôi ngoai, tôi mới lựa lời khuyên nhủ:

– Cô nóng quá. Sự đời rắc rối, nó đã xoay ra thế rồi, sức mình không cải được, thì đành chịu vậy thôi, chứ biết làm sao?

Cô Lương trợn mắt:

– Cậu nói thế là ý thế nào? Là em phải quên đi, phải chịu làm thông gia với thằng khốn kiếp ấy? Cậu muốn em muối mặt đến gặp nó để xin con bé cho thằng Hiếu? – cô Lương tung chăn ngồi phắt dậy – Không, cậu ơi, không, em không thể nhìn mặt nó. Em không thể làm thông gia với nó. Không là không.

– Thì tôi có bảo cô phải đến gặp nó đâu. Tôi chỉ muốn nói là hai trẻ đã trót yêu nhau rồi, thì mình phải nghĩ cách sao cho vẹn mọi đường…

– Cách gì?

– Thì phải nghĩ đã chứ, tôi nói rồi mà. Sao cho chúng nó không đau khổ.

– Chúng nó đau khổ thì mặc chúng nó.

Cô Lương quay đi, chấm dứt câu chuyện.

Tôi vắt óc chẳng nghĩ ra cách nào hay ho. Khuyên được nạn nhân hoà giải với kẻ thù là chuyện vá trời.

Gần sáng, tỉnh dậy, thấy cô Lương vẫn thức, tôi pha trà, rồi bảo:

– Thế này: tôi đưa cô ra ga đi tàu về trước, tôi ở lại. Mình sẽ nói rằng cô đã được chuyển về bệnh viện địa phương tiếp tục điều trị.

Cô lắc đầu:

– Việc gì phải nói dối? Như thế cầm bằng em sợ nó, em không dám giáp mặt nó. Em không sợ nó. Em căm thù nó.

Tôi thở dài:

– Từ từ đã nào. Tôi đâu có nói cô sợ nó. Tôi hỏi cô: có phải cô nhờ tôi đi cùng để chu tất việc hỏi vợ cho thằng Hiếu không nào? Thế thì tôi phải lo mọi việc cùng cô. Trông thằng Hiếu mà thương. Nó sợ cô đến nỗi không dám vào đây, mỗi lần tôi mở cửa lại thấy nó lấp ló ở đấy.

Cô Lương ngước mắt lên, hỏi:

– Cậu nghĩ sao? Nó sợ hay nó ghét mặt bố nó?

Tôi quả quyết:

– Nó sợ đấy. Lúc cô thiếp đi, tôi ra ngoài thì gặp nó. Tôi đã kể cho nó nghe hết sự tình, tức là tất cả mọi chuyện mà tôi biết. Nó khóc. Nó thương bố lắm.

Mặt cô Lương dãn ra ra khi nghe tôi nói thế. Mà tôi nói điều này là thật, gặp nó tôi tưởng ngữ này coi bố như rác, hoá ra thấy bố phát khùng thì nó run. 

– Nhưng mà em dù sao thì cũng không thể thông gia với cái giống chó má ấy được, cậu ơi. – cô lại ôm đầu – Không đời nào.

– Tôi nghĩ rồi. Cô không đứng ra là phải. Thì tôi đứng ra. Cứ không phải cô là được. Cô tưởng tôi chịu được khi thấy cô phải muối mặt gặp thằng ấy à? Coi như tôi là bố nuôi thằng Hiếu, cô không đến thì tôi thay mặt nhà trai đến chạm ngõ. Còn sau này ra sao, hạ hồi phân giải.

Nghe đến đấy cô Lương quay mặt vào tường, im lặng.

8- Nằm trên giường bệnh là một người khoẻ mạnh. Nụ cười hồ hởi nở trên gương mặt phương phi, ông ta đưa tay cho tôi bắt. Nước da ngăm ngăm đen làm tôi hình dung ra ông trong bộ cảnh phục và câu nói cửa miệng của dân Hà Nội chỉ đám công an: “chân chì, da thiết bì, mũ bình thiên”.

Thằng Hiếu cho biết: khi tai nạn xảy ra, ông bố vợ nó có bị thương, có chảy nhiều máu thật, nhưng hoàn toàn tỉnh táo. Mới lấy máu bôi lem nhem khắp mặt mũi, rồi giả bộ ngất. Tưởng thế là đủ để cảnh sát làm một biên bản thuận lợi cho sự bắt đền, nào ngờ thấy máu me bê bết, họ vội gọi xe cấp cứu chở phắt đi bệnh viện. Mà ở bệnh viện thì tình trạng thương tật của ông thế nào người ta biết ngay. Sở dĩ ông còn được nằm nán lại mấy ngày là vì ông vờ bị choáng, thỉnh thoảng lại ngất đi, tính kiếm thêm ít điểm cho sự bồi thường được đậm thêm.

Nó dẫn tôi đến, rồi đứng ngoài, để hai người lớn nói chuyện.

– Tôi trông ông quen quen. – ông ta vui vẻ nói.

– Tôi cũng vậy. Tôi cũng có cảm giác chúng ta từng gặp nhau, nhưng ở đâu thì không nhớ ra. – tôi vỗ trán, làm ra vẻ cố nhớ.

– Già rồi là hay quên lắm, tôi cũng thế, không nhớ ra.

Mào đầu thế là đủ, tôi lấy giọng trịnh trọng:

– Chắc cháu Hiếu đã thưa với ông: tôi là cha nuôi của cháu. Bố cháu ngã bệnh thời khí nhất thời không đến được, nên tôi mạn phép được thay mặt nhà trai, trước hết để vấn an ông, sau là có lời xin ông bà cho cháu Thuỷ làm dâu…

Ông bố vợ tương lai cười hì hì:

– Biết rồi, biết rồi. Lại bà nhà tôi đây, bà ấy chúa hay vẽ chuyện. Cũng là phú quý sinh lễ nghĩa thôi. – rồi hạ giọng, thân mật – Chứ hồi tôi với bà ấy lấy nhau ấy mà, lễ nghĩa quái gì đâu, chẳng chạm mặt, cũng chẳng ăn hỏi. A lê hấp, cưới. Mà cưới tập thể cơ đấy, ông ạ. Nhoáng nhoàng, nhoáng nhoàng, buồn cười lắm: chủ toạ buổi lễ chưa nói dứt câu thì cả đám cô dâu chú rể đã xông vào xơi kẹo bánh ào ào như tằm ăn rỗi, rồi ào ào kéo nhau đi tuốt…

Giọng nói của ông ta gợi nhớ đến một cái gì quen quen. Cả gương mặt nữa. Tôi đã thấy nó ở đâu nhỉ?

– Tôi là người hiện đại. – ông ta tiếp tục câu chuyện vui vẻ – Lễ nghĩa là cái quái gì cơ chứ? Che mắt thế gian thôi. Cưới là cái tục thôi. Là để lên giường có giấy phép, hì hì, có sự thừa nhận chính thức của nhà nước, để không bị ghép vào tội hủ hoá, có đúng thế không nào? Ông trạc tuổi tôi, ông còn nhớ người ta trị cái tội ấy nghiêm khắc thế nào. Kinh lắm. Lũ trẻ bây giờ chúng nó măng phú hết, chúng nó đếch cần lễ nghĩa gì ráo…

– Quả có thế.

– Ở bên Tây này khỏi nói, dưng mà ở trong nước cũng thế, mới lạ. Gọi là sống thử, chưa cưới cũng ở chung, vui ra phết…

– Dù sao thì…

– Ông muốn nói: cứ phải theo thủ tục của ông bà để lại mới tốt chứ gì? Ờ, thì cũng tốt, cũng tốt thôi, tôi không chống. Thừa còn hơn thiếu, ít nhất thì để cho bà nhà tôi sướng, làm như thế, tức là đủ thủ tục thì bà ấy sướng lắm đấy…

– Dạ.

– Ông thấy cần làm gì cứ làm, tôi không phản đối. Mà này…

– Ông bảo sao?

Ông ta suồng sã nháy mắt với tôi:

– Có cái hủ tục ấy anh em mình mới có dịp gặp lại nhau chứ.

Thế là thế nào?

Trong một thoáng tôi sực nhớ: phải rồi, trước mặt tôi, người đang nằm trên giường kia chính là tên công an đã hành tôi nhiều đêm trong một cuộc hỏi cung kéo dài bất tận. 

Chuyện là thế này. Tôi có bà cô ruột ở Sài Gòn. Qua họ hàng vào thăm bà biết tôi từng bị bắt đi cải tạo, bà thương tôi, khi sửa soạn vượt biên bà muốn đưa tôi cùng. Trước đó tôi còn không biết mặt bà. Cô cháu tôi không gặp may. Tên chủ tàu phản thùng. Nó thu vàng rồi báo công an. Cả tàu bị bắt. Tên Khởi này không phải là người hỏi cung chính, hồi ấy hắn mới là phụ tá.

– Tôi nhớ ra rồi. Ông là… Điều tôi không ngờ là chúng ta lại gặp nhau ở đây. – tôi cười chua chát – Ông nhận ra tôi?

– Chứ sao! – hắn cười to – Trái đất tròn mà. Trí nhớ công an mà. Chúng tôi không quên cái gì. Chúng tôi được huấn luyện để không quên.

– Tài thật. Bằng ấy năm rồi mà ông vẫn nhận ra ngay.

– Còn hơn thế nữa kia. Tôi còn biết tại sao lại là ông, chứ không phải bố thằng Hiếu, đến gặp tôi.

– ???

Hắn nói chậm, rõ từng tiếng:

– Ông đến là vì cô đồng Lương không muốn giáp mặt tôi.

Tôi ngạc nhiên. Phải nói là sửng sốt mới đúng. Chúng tôi chỉ thập thò ở cửa phòng bệnh của hắn chưa đến một phút.

– Quỷ quái, ông đã nhìn thấy? Ông nhận ra ông ấy?

Vẻ đắc thắng, hắn hơi nhổm người lên, cười vào mặt tôi:

– Sao không? Chỉ thoáng thấy ông ấy ở ngoài cửa là tôi nhận ra liền. Tôi biết: ông ấy còn căm tôi lắm. Ông khác, ông quên rồi.

Tôi lắc đầu, cố giữ vẻ bình thản:

– Không, tôi không quên.

– Ông quên. Bằng chứng là ông không nhận ra tôi khi bước vào đây. Ngay cả khi ngồi trước mặt tôi, ông cũng không nhận ra. Ông chỉ nhận ra khi tôi nhắc.

– Tôi vốn không có tài nhớ mặt người. – tôi lạnh lùng – Nhưng sự việc thì nhớ. Có nhiều sự việc con người không thể quên.

– Thế là tốt. Nhớ nhiều quá chẳng hay gì.

Khởi cười khẩy, cái cười khẩy đểu cáng, làm tôi nhớ thêm một chi tiết trong cuộc hỏi cung. Đêm ấy hắn cũng cười như thế khi hỏi tôi: “Bà cô cậu bảo nếu tớ thả hai cô cháu cậu ra, bà ấy xin chết bốn cây. Liệu hai cô cháu cậu có định cho tớ leo cây không đấy?”

Tôi nhìn vào mặt hắn:

– Tôi có điều không hiểu: tại sao ông lại ở đây?

– Dớ dẩn. Ông đặt một câu hỏi thừa, một câu hỏi không nên đặt ra tí nào. Câu trả lời rất đơn giản: cũng như các ông thôi.

– Chúng tôi khác, ông khác. Ông ở trong đám người có quyền đè đầu cưỡi cổ kẻ khác. Ông đi làm gì?

Khởi vẫn không mất vẻ tươi cười:

– Tội nghiệp, ông âm lịch quá. Con người ta sinh ra đã biết lựa chọn rồi, đã biết so sánh rồi, so sánh là để lựa chọn cho đúng. Cái tốt hơn đặt bên cái tốt kém, thì cái tốt kém là cái xấu. Tôi chọn cái tốt hơn. Nếu không thể chọn cái tốt nhất. Ở trong nước cũng thế, ở đây cũng thế.

Tôi khen hắn, thật lòng:

– Ông thật tinh quái.

– Chúng tôi được dạy dỗ để trở thành tinh quái mà. – hắn cười, vừa độ lượng, vừa thoả mãn – Ông cứ xem các nhà lãnh đạo quốc gia của chúng ta bây giờ xem – có ông nào không giàu đâu. Tôi không làm được như họ, bởi vì tôi không có cái thế của họ. Hoặc tôi không tốt số như họ. Thì tôi phải đi tìm chỗ khác. Có thế thôi. Người như tôi nhiều. Người như ông với cô Lương hiếm. Ông không nên tự hào về sự hiếm ấy. Với tôi, đó là sự lạc hậu. 

Tôi mím môi, thở dài qua mũi.

Hắn nắm tay tôi:

– Quên, tôi chưa hỏi ông: cô Lương, à ông Lương, sang đây không làm ăn gì à? Không mở cái quán nào?

– Không. Ông ấy đi làm nhà máy. Rồi về hưu.

Hắn cũng thở dài:

– Dại. Dại quá. Có tài nấu nướng như ông ấy, mở một cái imbiss[11] cũng khẳm tiền. Có tiền là có điều kiện cho con ăn học đến nơi đến chốn. 

– Hai cháu cũng được học hành tử tế đấy chứ, cũng nên người đấy chứ. Tôi không thấy có gì đáng phàn nàn.

Hắn đặt bàn tay béo tốt, gần như mũm mĩm, lên tay tôi, một lần nữa:

– Thế này nhé! Chuyện thằng Hiếu với con Thuỷ coi như xong. Ông Lương không đến cũng được. Kể cả ông nữa. Cứ coi ông là người đại diện nhà giai đi. Không sao. Không phải chúng ta là người quyết định. Làm gì còn có sự gả bán nữa. Thời này không phải thời của chúng ta nữa rồi.

– Dù sao thì chúng tôi cũng phải có lời xin cháu về làm dâu đàng chúng tôi. Mình cứ là phải giữ cho đủ lễ.

Hắn nhếch mép cười buồn. Rồi bảo:

– Con người ta tham lắm, ông ạ. Nói thật với ông, không muốn có một thằng rể chỉ tốt nghiệp trung cấp. Tôi muốn một thằng rể bét ra cũng phải kỹ sư, tiến sĩ. Hoặc một ông chủ công ty lớn. Hai đứa chúng nó đặt tôi vào thế kẹt. Biết làm thế nào? Thôi thì đành chịu vậy.

Khi tôi kiếu từ, hắn còn nói theo:

– Ông yên trí, tôi sẽ nhào nặn lại thằng Hiếu. Nó chịu khó, chăm làm, cũng có chút chí tiến thủ, không như bố nó. Cái nó thiếu mà tôi không thể cho nó được là nó không có cao vọng. 

9- Câu chuyện này đến đấy là kết thúc. Nó là chuyện tầm phào, không đáng để kể ra. Nhưng, cũng như mọi chuyện tầm phào khác, nếu ta nhìn bằng cái nhìn chăm chú thì thể nào ta cũng tìm thấy trong đó một cái gì đáng để suy ngẫm, cho dù sau đó chẳng đi đến một kết luận rõ ràng.

Tôi không tường thuật cho cô Lương nghe cuộc đối thoại giữa tôi với thằng Khởi. Nó không chỉ là kẻ thù của riêng cô Lương. Nó còn là kẻ thù của tôi nữa. Điều này tôi giấu, không nói ra. Nếu tôi nói, có thể cô Lương sẽ cảm thấy lòng căm thù của cô được san sẻ. Nhưng, khốn nạn thay, không phải vì được san sẻ mà hận thù nơi cô nhẹ đi. Có khi nó còn nặng thêm, vì cô thấy nó có lý hơn.

Chỉ có thời gian mới có khả năng xoá đi hận thù. Mà thời gian đủ để xoá là bao lâu thì không ai biết, không ai có thể chỉ ra.

Ba năm liền, hai ông thông gia không giáp mặt nhau, không gửi cho nhau một lời hỏi thăm.

Năm thứ tư, tôi bắt gặp hai kẻ thù một thời đi cùng nhau ở quảng trường Brandenburg. Họ đi bên nhau, mỗi người nhìn về một phía, mặt lạnh tanh. Giữa hai người là đứa cháu mới chập chững biết đi. 

Nó cười toe toét, tin cậy giao hai bàn tay bé tí cho hai ông nó dắt.

VŨ THƯ HIÊN 

 
[6] Chào, buổi tối (tiếng Đức)
[7] Xin lỗi (tiếng Anh)
[8] Ông già dở hơi (tiếng lóng, lấy từ phim Liên Xô “Ông già Khốt Ta Bít”)
[9] Nhà hàng
[10] Quán ăn nhanh
[11] Quán ăn nhanh (tiếng Đức).

MẸ VÀ VỢ, CHỌN AI?

Image may contain: one or more people, people sitting, people eating and indoor

Thông Điệp Cuộc Sống.

MẸ VÀ VỢ, CHỌN AI?

Đọc và cùng suy ngẫm.

Con dâu nói : “Nấu nhạt tý bà lại chê nhạt nhẻo, giờ nấu mặn chút bà lại bảo nuốt không vô, rốt cuộc bà muốn sao đây?”

Mẹ nhìn thấy con trai vừa về đến nhà, một câu không rằng bèn gắp thức ăn bỏ vào miệng nhai. Cô ta hằn hộc nhìn chồng. Anh gắp thử một miếng ăn, nhả ra ngay tức thì.

Con trai nói : “Anh không phải đã dặn em rồi sao, mẹ bị bệnh không thể ăn quá mặn !”

“OK ! Mẹ là của anh, sau này do anh nấu nhé !” Con dâu giận dỗi đi thẳng vào phòng. Con trai chỉ còn cách thở dài, và quay sang nói với mẹ : “Mẹ, đừng ăn nữa, con đi nấu mì cho mẹ ăn.”

Mẹ nói : “Không phải con có chuyện muốn nói với mẹ sao, có thì giờ hẵn nói, đừng để trong lòng !”

Con trai nói : “Mẹ à, tháng sau con được thăng chức, con sẽ rất là bận … còn phần vợ con, cô ta nói muốn ra ngoài kiếm việc làm, cho nên ……”

Ngay lập tức mẹ hiểu ý con trai muốn nói gì : “Con trai ơi, đừng gửi mẹ vào viện dưỡng lão nhé con !” Giọng nói nức nghẹn như khẩn cầu van xin .

Con trai trầm tư nghĩ ngợi một hồi lâu, trong đầu anh ta như đang cố tìm một lý do tốt hơn để thuyết phục mẹ :

“Mẹ à, thật ra viện dưỡng lão không phải là một nơi không tốt, mẹ biết rồi đấy, khi vợ con kiếm được công việc, nhất định sẽ không còn thời gian chăm sóc mẹ chu đáo nữa đâu. Trong viện dưỡng lão vừa có cái ăn, vừa có chỗ ở, lại có người chăm sóc, không phải tốt hơn nhiều so với ở nhà hay sao ?”

Tắm xong, ăn tạm một tô mì gói, con trai bèn đi vào phòng sách. Anh thờ người đứng trước cửa sổ, có vẻ do dự. Ngày ấy mẹ còn trẻ đã ở góa, ngặm đắng nuốt cay nuôi anh khôn lớn nên người, và còn gửi anh ra nước ngoài du học.

Nhưng, bà chưa bao giờ dùng tuổi thanh xuân của mình đã một đời hy sinh vì anh đem ra uy hiếp mặc cả về sự hiếu thảo của anh, ngược lại là vợ đã đem hôn nhân ra uy hiếp anh ! Không lẻ phải cho mẹ vào viện dưỡng lão thật sao ? Anh tự hỏi bản thân, anh ta có chút không nhẫn tâm.

“Có thể cùng cậu đi hết cuộc đời là vợ cậu, không nhẽ là mẹ cậu sao ?” Con trai của bác Tài thường hay nhắc khẽ anh như thế.

“Mẹ cậu đã lớn tuổi như thế, tốt số thì có thể sống thêm vài năm, Tại sao không tranh thủ thời gian đó sống thật hiếu thảo với bà cơ chứ ? Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn phụng dưỡng mà người còn đâu!” Bà con họ hàng thường hay khuyên nhủ anh như thế.

Con trai không muốn suy nghĩ thêm nữa, sợ mình sẽ vì thế mà thay đổi quyết định. Ánh mặt trời tắt dần những tia nắng chói chang và khuất dần sau ngọn đồi, trả lại bầu trời một màn đêm u tịch. Một ngôi nhà quý tộc dành cho người già được xây dựng ở vùng ngoại ô trên đồi núi.

Đúng thật, tiền càng chi ra nhiều, con trai càng cảm thấy an lòng. Khi con trai dắt mẹ bước vào đại sảnh, một chiếc ti vi 42 inch mới tinh đang chiếu một bộ phim hài, nhưng người xem nơi ấy không hề nở một nụ cười.

Những người già mặc cùng một kiểu áo, tóc tai đều na ná nhau đang ngồi cô quạnh trên chiếc ghế sofa, thần sắc đờ đẫn đến u buồn. Có người thì đang ngồi lẩm bẩm một mình, có người thì đang chầm chậm cúi người xuống muốn nhặt lấy một mẫu bánh vụn đang nằm trên sàn nhà.

Con trai biết mẹ thích nơi tươi sáng, vì thế đã chọn cho bà một căn phòng đầy đủ ánh sáng. Từ cửa sổ nhìn ra ngoài, dưới bóng râm là một vườn cỏ thơm ngát. Mấy cô y tá đang đẩy những người già ngồi trên xe lăn, cùng họ tản bộ dưới ánh hoàng hôn, bốn bề tĩnh lặng khiến cho người cảm thấy xót lòng. Dù hoàng hôn có đẹp bao nhiêu, ánh chiều tà rồi cũng dần buông xuống, anh ngậm ngùi tiếc nuối.

“Mẹ ơi, con … con phải đi rồi !” Mẹ chỉ biết gật đầu.

Khi anh đi khỏi, đôi tay gầy guộc của mẹ giơ lên vẫy chào anh, miệng không còn một chiếc răng, đôi môi khô tái nhợt muốn lên tiếng gọi với anh, nhưng gọi không thành tiếng, lộ ra một ánh mắt ngập ngừng đậm vẻ u sầu.

Lúc này con trai chợt nhận ra mái tóc của mẹ đã bạc dần, đôi mắt sâu thẩm và khuôn mặt xuất hiện nhiều vết chân chim. Mẹ quả thật đã già đi rồi !

Anh chợt hồi tưởng lại một số chuyện ngày xưa. Năm đó anh mới 6 tuổi, mẹ có công chuyện phải về quê, không tiện dắt anh theo, nên đành phải gửi tạm nhà bác Tài vài hôm. Lúc mẹ sắp rời khỏi, anh sợ hãi ôm chặt lấy chân mẹ không chịu buông, khóc thật thê lương và kêu gào trong nước mắt : “Mẹ, mẹ ơi, đừng bỏ con mà đi ! Mẹ đừng có đi mẹ ơi !” Cuối cùng mẹ cũng không bỏ lại anh một mình ……

Anh vội rời khỏi phòng, tiện tay đóng cửa phòng lại, không dám ngoáy đầu nhìn lại, anh sợ, sợ cái ký ức ấy hiện về như bóng ma cứ lờn vờn bám lấy anh.

Anh về đến nhà, nhìn thấy vợ và mẹ vợ đang hăng tiết vứt bỏ tất cả những vật dụng trong phòng của mẹ với khuôn mặt khoái chí vui mừng.

Một chiếc huy chương —– đó là chiến lợi phẩm đoạt giải nhất trong cuộc thi viết văn hồi tiểu học của anh với chủ đề “MẸ CỦA TÔI” ; Một quyển từ điển Anh – Việt —– đó là món quà đầu tiên mẹ đã dành dụm tiền chi tiêu cả tháng trời để mua tặng anh ! Và còn nữa, chai dầu gió mẹ phải xoa trước khi đi ngủ, không có anh xoa dầu cho bà, gửi bà đến viện dưỡng lão thì còn ý nghĩa gì nữa kia chứ ?

“Đủ rồi, đừng vứt nữa !” Con trai tức giận.

“Rác nhiều như thế, không đem vứt đi, thì sao có thể chứa được đồ của tôi.” Mẹ vợ thở hổn hển nói.

“Thì đúng rồi đấy ! Anh mau mau đem cái giường cũ nát của mẹ anh khiên ra ngoài đi, ngày mai tôi sẽ mua cho mẹ tôi một chiếc giường mới !”  

Một đống ảnh lúc ấu thơ chợt hiện ra trong mắt anh, đó là những tấm ảnh mẹ đã dẫn anh đi sở thú chụp lưu niệm.

“Tất cả đều là tài sản của mẹ tôi, một thứ cũng không được bỏ !”

“Anh tỏ thái độ gì vậy hả ? Dám lớn tiếng với mẹ tôi ư, tôi bắt anh phải xin lỗi mẹ tôi ngay lập tức !”

“Tôi cưới cô là có nghĩa vụ yêu thương mẹ cô, tại sao ? Cô lấy tôi thì không thể yêu thương mẹ tôi được sao ?”

Cơn mưa sau đêm tối mang một chút hơi lạnh lẽo, đường phố vắng lặng đìu hiu, xe cộ và người đi trên đường thưa thớt dần. Một chiếc xe hơi đang chạy vượt đèn đỏ và phóng qua những biển cấm nguy hiểm, không ngừng tăng tốc phóng nhanh trên đường.

Chiếc xe hơi ấy chạy thẳng đến viện dưỡng lão được nằm trên lưng chừng đồi núi, anh ngừng xe và phóng nhanh lên lầu, mở cửa phòng ngủ của mẹ. Anh đứng nhìn bất động, mẹ đang lấy tay xoa đôi chân phong thấp của mình âm thầm khóc trong đêm.

Bà nhìn thấy con trai đang cầm trên tay chai dầu gió, cảm thấy an ủi và nói : “Mẹ quên lấy đi, cũng may con mang đến cho mẹ !”

Anh bước vội đến bên mẹ và quỳ xuống.

“Tối rồi, tự mình mẹ có thể xoa được mà, ngày mai con còn phải đi làm, hãy về nhà đi !”

Anh ngập ngừng một hồi lâu, nhưng cuối cùng không nhịn được khóc và nói : “Mẹ ơi, con xin lỗi, xin………. lỗi……..”

P/S : Cảm ơn bạn đã đọc bài, nếu thấy hay và ý nghĩa thì đừng quên chia sẻ cho mọi người cùng đọc,và chia sẻ để nhận chia sẻ nhiều hơn bạn nhé…

Sưu tầm.

Tâm tình với chồng Mỹ vợ Việt David và Tuyết Brown

 

Tâm tình với chồng Mỹ vợ Việt David và Tuyết Brown

Trở về sau chuyến trở về Việt Nam mới đây, ông David Brown, cựu nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tại VN và vợ là bà Tuyết Lê nói thấy ‘xã hội còn bề bộn’ nhưng ‘khá tốt so với 15 năm trước’ trong dịp thăm văn phòng BBC.

“Một số người bạn ngoại quốc của tôi đến Việt Nam thăm thì họ hỏi “Đâu, chỗ nào cộng sản đâu?”, họ nghĩ nước này cũng khá tốt”, bà Tuyết Lê (tên thật là Bạch Tuyết) nói.

“Nếu nói về cuộc sống có tiến bộ không thì người Việt Nam lúc nào cũng cởi mở, muốn hiểu biết về bên ngoài, muốn tìm cơ hội làm việc. Tôi thấy có tiến bộ.”

“Khi tôi nói chuyện với người dân, cái họ lo sợ nhất là hình như đất nước đang ngừng lại một chút trong sự tiến bộ. Khi tôi hỏi họ làm thế nào để tốt hơn, dân Việt Nam đỡ khổ hơn thì họ nói phải có đa đảng. Cái đó tôi hơi ngạc nhiên.”

Ông Brown lại băn khoăn nhiều hơn về vấn đề tham nhũng.

Ông nói ‘Việt Nam đang gặp thách thức’ và ‘sẽ bị hạn chế’ nếu ‘không giải quyết được tham nhũng.’

“Có người hy vọng Tổng Bí thư sẽ có kết quả tốt với chính sách chống tham nhũng của ông”, ông Brown nhận định.

Câu chuyện đến đây chuyển qua chuyện riêng của hai người.

Khi bà Tuyết Lê Brown kể chuyện, ông David Brown thi thoảng nhắc các thông tin còn thiếu bằng tiếng Việt giọng Nam trôi chảy và ngược lại.

Vợ chồng bà thay phiên nhau kể về mối tình dài gần 50 năm của mình và trải nghiệm mới mỗi lần về Việt Nam thời gian gần đây.

Chi tiết nào người này không nhớ, quay qua hỏi thì người kia bổ sung chi tiết.

Trong suốt buổi nói chuyện, cựu nhân viên ngoại giao Mỹ luôn nhìn vợ bằng ánh mắt trìu mến.

Ở tuổi ngoài 60, bà Tuyết Lê dường như vẫn giữ được nguồn năng lượng dồi dào.

Kết hôn năm 17 tuổi rồi qua Hoa Kỳ định cư gần 50, năm nào bà Tuyết Lê Brown cũng về Việt Nam dạy học.

Để trở thành giảng viên môn Tâm bệnh như hôm nay, bà Tuyết Lê đã vượt qua nhiều định kiến của xã hội Mỹ đối với người Việt di tản để vừa nuôi con, vừa làm đủ nghề, rồi học lên cao học.

“Hai năm vừa rồi khi trở về dạy ở Đại học Nhân văn tôi được khen là nói tiếng Việt rất khá rồi, mừng quá”, bà Tuyết Lê nói. Giọng bà sôi nổi, như không có bóng dáng của tuổi tác đi qua.

Còn ông Brown thì nói: “Toàn quốc hết sức vui vẻ vì bóng đá Việt Nam đã được vào chung kết (U23 châu Á). Lúc đó không có tuyết thì sẽ thắng. Ở Việt Nam mọi người đang chuẩn bị ăn Tết, không khí rất vui.”

Ông Brown về hưu đã 20 năm nhưng vẫn làm việc cho một tổ chức phi chính phủ của Viện Hàn lâm Hoa Kỳ.

Ông bà còn tham gia một dự án dạy các em học sinh trung học địa phương các vấn đề môi trường.

Mỗi năm vào mùa đông, ông Brown và bà Tuyết Lê đều trở về Việt Nam gặp bạn bè và ‘tìm hiểu thêm những vấn đề đang xảy ra ở Việt Nam hiện thời’.

“Chúng tôi vẫn nhớ Việt Nam”, ông Brown nói.

Cặp đôi Tuyết Lê-Brown và David Brown là hai khuôn mặt quen thuộc của cộng đồng mạng, cả ở Mỹ và Việt Nam.

Hai ông bà được biết đến với câu chuyện tình lãng mạn thời chiến tranh Việt Nam.

Đó là khi chàng thanh niên David Brown, 22 tuổi, nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, được cử đến Việt Nam năm 1965 khi chiến tranh bắt đầu leo thang.

Tại đây, ông gặp bà Tuyết Lê, người phụ nữ của đời mình, khi đó mới 17 tuổi, tại Biên Hòa.

“Hồi ấy còn nhỏ lắm, nhưng tôi đã để ý đến David vì đôi mắt xanh, dáng người cao lớn, và vì lối phát âm tiếng Việt rất chuẩn”, bà nhớ lại.

Một lần sau giờ làm, chàng thanh niên David Brown đánh bạo ngỏ ý muốn chở cô Bạch Tuyết về nhà. Cô gái trẻ gật đầu bằng lòng sau vài giây suy nghĩ.

Buổi chiều cô Bạch Tuyết ngồi sau xe gắn máy chàng trai người Mỹ cao lớn đã gắn chặt cuộc đời hai người với nhau.

Nhưng ban đầu không dễ để ‘cưa đổ’ thân phụ cô Bạch Tuyết.

David cuối tuần nào cũng tới nhà Tuyết hầu chuyện thân phụ cô vài tiếng hồng hồ, chủ yếu nói về chính trị. Ông Brown cho biết lúc đó chỉ mong được thấy bóng Tuyết mang trà ra mời.

“Gia đình tôi rất cổ hủ”, bà Tuyết Lê nhớ lại.

“Bố mẹ không cho phép có bạn trai, nhất là bạn trai ngoại quốc. Người ta nghĩ người ngoại quốc chỉ có tinh dục chứ không có tình nghĩa như người Việt Nam. Nếu một cô gái Việt Nam đi với một người ngoại quốc thì sẽ nghĩ cô ấy làm ở bar hay cái gì đấy.”

“Có một số người bạn ba mẹ nói nếu không có tiền thì chúng tôi cho, chứ đừng cho con trong tay người ngoại quốc. Lúc đó có một gia đinh Việt Nam khá có tiền hỏi cưới tôi cho con trai họ.”

“Về sau ba tôi đưa ra ba điều kiện cho David: Phải có gia đình bên Mỹ qua hỏi cưới theo đúng phong tục Việt Nam. Thứ hai David phải theo đạo thiên chúa. Thứ ba nếu có con phải cho con theo đạo thiên chúa.”

“Lúc đó không có email , David gọi điện thoại về Mỹ để xin phép. Lúc đó bố David mới mất một năm trước. Mẹ David đồng ý qua dù với người Mỹ tình trạng lúc đó ở Việt Nam rất kinh khủng.”

“David cũng đồng ý đi học đạo thiên chúa.”

Hôn lễ của hai người được cử hành vào tháng 6/1969, một thời gian ngắn trước khi David Brown được chuyển về lại Hoa Kỳ.

‘Bí quyết hôn nhân’

Trong khi bà Tuyết Lê thường được nhìn nhận là ‘rất Mỹ’ từ phong thái, phục sức đến phát âm tiếng Anh thì ông David lại ‘rất Việt Nam’. Ông nói giọng Sài Gòn không chê vào đâu được.

Ngày Tết, ông thường thích có món thịt kho, dưa muối và bánh Tét.

Bà Tuyết Lê nói có những khác biệt về văn hóa trong đời sống hôn nhân. Chẳng hạn như việc bà phải gửi tiền về giúp gia đình nhưng ông Brown không hiểu điều này.

Cả hai cãi cọ nhiều vì bà Tuyết Lê xem đó là điều hiển nhiên trong văn hóa Việt Nam trong khi ông Brown thấy ‘không hợp lý tý nào’.

Cuối cùng, bà Tuyết Lê chọn cách thuyết phục chồng bằng tự lập.

Bà bán hàng ở một tiệm quần áo đàn ông, rồi sau đó làm ở một tiệm bán vải. Mới vài tuần đã được khen thưởng là nhân viên tốt.

Bà còn vừa chăm con, vừa học thêm để lấy cho xong bằng cao học trong ngành y tế tâm thần.

“Tuyết khiến tôi xấu hổ và đồng ý giúp đỡ gia đình cô ấy”, ông Brown thừa nhận.

“Tuyết có lẽ là người đàn bà Việt Nam tuyệt vời nhất mà tôi gặp, thông minh, tràn đầy sức sống, bướng bỉnh, không cho phép cuộc đời đánh bại mình.”

Ông bà David Brown nay định cư ở thành phố Fresno, California. Ông bà có hai con gái, một người tốt nghiệp Ðại Học Harvard, người kia tốt nghiệp Brown University.

Bà Tuyết Lê-Brown hiện là một Tham Vấn Tâm Lý Lâm Sàng.

Ông David Brown hiện là chuyên gia viết những bài phân tích về chính trị cho các tờ Asia Times, Asia Sentinel, East Asia Forum.

Lúc rảnh, ông vợ nấu ăn, làm vườn, đi chợ.

Trả lời câu hỏi về bí quyết hôn nhân, bà Tuyết Lê nói ‘tình dục phải tốt’, ‘độc lập về tài chính’ và ‘phải nhường nhịn nhau’.

“Tôi thường nhường nhà tôi 60%”, bà Tuyết Lê không quên nhấn mạnh.

 
About this article

 
Ông bà David, Tuyết Lê-Brown nói về một Việt Nam ‘còn bề bộn nhưng tiến bộ hơn’ sau chuyến trở về mới đây.
 
BBC.COM
 

Một Bức Thư Tình – A Love Letter

Van Pham added 2 new photos.

Chuyện hay. Cảm động. Mời đọc.

Phụng 

Nhân ngày Lễ Tình Nhân hôm nay. Xin Gửi tặng ACE một câu chuyện Happy Ending, với kết thúc có hậu cho một chuyện tình…
***********

Một Bức Thư Tình – A Love Letter
Arnold Fine

Tôi nhặt được một chiếc ví ở hè phố. Khi tôi mở ví với hy vọng tìm được manh mối nào đó về người làm rơi thì chỉ thấy 3 đôla và một bức thư nhàu nát. Phong bì đựng thư đã rách và thứ duy nhất còn đọc được là địa chỉ người gửi. Lá thư được viết năm 1944, tức là đã 60 năm về trước.

Bức thư được viết bằng nét chữ con gái, bắt đầu bằng:”Anh Michael thân yêu”. Đọc thư tôi biết cô gái rất đau khổ vì mẹ cô không cho cô gặp Michael nữa, nhưng cô vẫn rất yêu anh. Cô gái ký tên là Hannah.

Tôi gọi tổng đài thử tìm số điện thoại của địa chỉ trên bì thư. Cô tổng đài bảo tôi đọc địa chỉ, rồi nói:
– Có một số điện thoại ở địa chỉ đó, tôi sẽ gọi giúp anh xem họ có muốn liên lạc với anh không.
Tôi hồi hộp chờ cô nối máy. Một người phụ nữ trả lời máy. Tôi hỏi bà có biết ai tên Hannah không.
– Ôi – người phụ nữ ngạc nhiên – Chúng tôi mua lại ngôi nhà này của một gia đình, họ có con gái tên là Hannah… Nhưng đã 30 năm rồi…
– Chị có biết họ chuyển đi đâu không? – Tôi vội hỏi.
– Tôi chỉ nhớ là sau đó vài năm, cô Hannah phải đưa mẹ vào viện dưỡng lão…

Và người phụ nữ cho tôi tên viện dưỡng lão. Khi tôi gọi điện, một cô y tá nói rằng bà cụ đã mất, nhưng cô lại cho tôi số điện thoại của con gái bà cụ – Hannah. Một lần nữa, tôi gọi điện. Nghe điện là một phụ nữ, cô ấy nói rằng bà Hannah đã vào viện dưỡng lão rồi.

“Thật ngớ ngẩn” – Tôi nghĩ – “Tại sao mình lại phải mất thời gian tìm chủ nhân cho một cái ví chỉ có 3 đôla và lá thư viết cách đây 60 năm cơ chứ?” Nhưng cuối cùng tôi vẫn gọi điện đến viện dưỡng lão, và đàn ông nghe điện nói: “Đúng là ở đây có một bà cụ tên Hannah”.

Lúc đó là 7h tối. Tôi hỏi liệu tôi có thể đến gặp bà cụ được không.
– Cũng được. Có lẽ bà cụ đang ngồi ở phòng xem TV.

Tôi lập tức lái xe đến viện dưỡng lão và bắt đầu thấy tò mò. Một y sỹ dẫn tôi lên tầng 3 gặp bà Hannah. Đó là một bà cụ tóc bạc trắng và nụ cười hiền hậu.

Tôi kể cho bà cụ nghe về chiếc ví và đưa bức thư ra. Ngay khi nhìn thấy bức thư, bà lặng đi, rồi thở dài:
– Con trai, lá thư này là lần cuối cùng tôi liên lạc với Michael.
Bà cụ cắn môi, đôi mắt đỏ lên:
– Chúng tôi đã rất yêu thương nhau. Nhưng lúc đó tôi còn quá trẻ và mẹ tôi cấm tuyệt đối. Michael Goldstein là một người tuyệt vời. Tôi vẫn thường nhớ tới ông ấy. Tôi đã không kết hôn. Vì không ai làm cho tôi quên được Michael…

Tôi tạm biệt bà Hannah. Khi tôi ra đến cổng, người bảo vệ hỏi:
– Đó có đúng là bà cụ mà cậu cần tìm không?
– Đúng, bây giờ tôi biết được cả họ tên của chủ nhân chiếc ví rồi! Tôi vừa nói vừa lấy cái ví cho người bảo vệ xem. Vừa nhìn thấy nó, người bảo vệ thốt lên:
– Ôi, ví của ông Goldstein! Chỉ mỗi ông ấy còn dùng cái ví cổ lỗ sĩ này thôi! Mà lúc nào cũng làm rơi! Tôi đã nhặt được hộ ông ấy đến 3 lần rồi đấy!
– Ông Goldstein là ai? – Tôi hỏi, tay bắt đầu run lên vì hồi hộp.
– Một ông cụ sống trên tầng 8. Tôi cam đoan ông ấy lại làm rơi ví khi đi dạo.

Tôi nhanh chóng quay lại và nhờ cô y tá đưa lên tầng 8.
Trong phòng đọc sách ở tầng 8, một ông cụ đang đọc sách. Cô y tá lại gần và hỏi có phải ông lại làm rơi ví không. Ông cụ sờ vào túi và thốt lên:
– Ôi, lại rơi mất thật rồi!
Tôi đưa cái ví cho ông Goldstein. Ông cụ thở phào:
– Đúng nó rồi! Tôi phải trả ơn cậu mới được!
– Không cần đâu ạ! Nhưng cháu xin lỗi là đã đọc bức thư trong đó… Cháu chỉ định tìm xem ai rơi ví thôi.

Nụ cười của ông lập tức biến mất:
– Cậu đọc thư của tôi?
– Nhưng nhờ thế mà cháu tìm được bà Hannah – Tôi vội “lấy công chuộc tội”.
Ông cụ mở to mắt:
– Hannah? Cậu gặp bà ở đâu? – Ông Goldstein nắm tay tôi – Tôi rất muốn gặp bà ấy. Kể từ khi không được gặp bà ấy nữa, cuộc sống của tôi như đã kết thúc vậy. Tôi thậm chí đã không kết hôn…

Tôi đưa ông Goldstein xuống tầng 3 – nơi bà Hannah ở.

Phòng xem TV chỉ còn một cái đèn nhỏ. Bà Hannah đang ngồi một mình.
– Bà Hannah – Cô y tá nhẹ nhàng – Bà có biết ông ấy không?
Bà Hannah chỉnh lại kính, nhìn ông trong vài giây, im lặng.
– Hannah, – Ông Michael thì thầm – Michael đây mà!
Cả hai người như lặng đi. Và họ nắm tay nhau.

3 tuần sau, tôi nhận được thiệp mời dự đám cưới của ông Michael và bà Hannah.

Đó là một lễ cưới rất đẹp. Viện dưỡng lão dành cho họ một căn phòng riêng. Và nếu bạn muốn thấy một cô dâu 75 tuổi, một chú rể 79 tuổi mà vẫn yêu thương và chăm sóc nhau như “teenagers”, thì bạn rất nên gặp họ .

No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, sitting
 

BÁN LƯỢC CHO SƯ!

 BÁN LƯỢC CHO SƯ!

Ở một công ty nọ, để thử việc nhân viên, họ đưa ra tiêu chí: mỗi nhân viên thử việc đều phải bán được 1000 chiếc lược cho một nhóm khách hàng được chỉ định – là các nhà sư – trong vòng một tuần.

Thử thách kỳ quái này khiến cho hầu hết người xin việc đều nghi ngờ: Bán lược cho nhà sư ư? Sao có thể làm được?

Đa số đều từ bỏ, chỉ có ba người dám chấp nhận thử thách. Một tuần thử thách kết thúc, người thứ nhất bán được một chiếc, người thứ hai bán được 10 chiếc còn người thứ ba đã bán hết sạch.

1000 chiếc, cùng một hoàn cảnh, song kết quả lại khác xa, công ty bèn mời ba người thuật lại quá trình bán hàng của mình.

Người thứ nhất kể, anh ta đến một ngôi chùa, phải chịu các nhà sư mắng mỏ mà vẫn nhẫn nại, cuối cùng, một hoà thượng động lòng, mua cho anh ta một chiếc lược.

Người thứ hai kể, anh ta lên một ngôi chùa trên núi, do gió núi mạnh, khiến cho tóc của thiện nam, tín nữ lên chùa rối tung hết cả. Anh ta liền tìm đến sư trụ trì chùa và nói “Người dâng hương tóc tai bù xù, trông không được thành kính với Đức Phật lắm, Trước mỗi toà hương, nhà chùa nên đặt một chiếc lược cho thiện nam tín nữ chải tóc”. Thấy có lý, sư trụ trì liền mua lược giúp anh ta, vì chùa có 10 toà hương nên anh ta đã bán được 10 chiếc lược.

Còn người thứ ba tìm đến một ngôi chùa có tiếng, hương khói quanh năm không dứt. Anh ta nói với phương trượng: “Phàm những người dâng hương ai cũng có lòng thành, chùa ta nên có vật phẩm tặng lại để khuyến khích người đời làm việc thiện. Tôi có một số lược, ngài có thể dùng thư pháp hơn đời của mình, khắc lên đó ba chữ “Lược Tích Thiện” làm tặng phẩm”. Phương trượng nghe có lý liền mua cho anh ta 1000 chiếc.

Công ty nọ đánh giá ba người đến thử việc tiêu biểu cho ba mẫu người điển hình:

* Người thứ nhất thuộc mẫu bán hàng cổ điển, có ưu điểm chân thành, nhẫn nại.

* Người thứ hai có năng lực quan sát, suy đoán sự vật, dám nghĩ, dám làm.

* Còn người thứ ba, anh ta nghiên cứu, phân tích nhu cầu của đám đông, có ý tưởng táo bạo, có kế hoạch khả thi nên đã mở ra một nhu cầu mới của thị trường. Điều kỳ diệu là sau khi “Lược Tích Thiện” của anh ta ra đời, một đồn mười, mười đồn trăm, người đến chùa dâng hương ngày càng nhiều, hương khói trong chùa ngày càng thịnh. Phương trượng bèn ký hợp đồng dài hạn với anh ta. Về phía công ty, thu hoạch lớn nhất không phải là có được hợp đồng lớn mà có được người tài năng. Nhờ có trí tuệ hơn người đó mà anh ta đã được công ty quyết định tuyển dụng và quyết định bổ nhiệm làm giám đốc marketing.

Như vậy, hiểu được nhu cầu của khách hàng, phân tích tính quy luật của sự hình thành và tác động chuyển hoá nhu cầu tiềm tàng thành sức mua chính là chìa khoá để mang lại thành công.

 TU-PHUNG gởi

Thời thơ ấu (phần 2)

Thời thơ ấu (phần 2)

Tác giả: Phùng Văn  Phụng

Hiệp định Geneve ấn định ngày đình chiến là ngày 20 tháng 07 năm 1954. Tất cả học sinh đều nghỉ học. Không có ai đi lại vì sợ lộn xộn. Riêng tôi và em chú bác là Phùng V. Th. vì còn nhỏ chưa hiểu cũng như chưa đoán được cái gì sẽ xảy ra. Vì chưa hiểu biết nhiều, nên trong ngày đó cùng nhau lấy hai chiếc xe đạp, đi qua Long Phụng, qua đò Thủ bộ, đến trường tư thục Tấn Thành ở Chợ Trạm.

            Đêm hôm trước ngày đình chiến, Việt Minh (Cộng sản) đã tổ chức các nhà có cảm tình với Việt Minh đánh thùng thiếc để uy hiếp tinh thần của những người quốc gia. Do đó sáng hôm sau là ngày 20 tháng 7, các trường học đều tự động đóng cửa, dân chúng cũng ít đi ra đường vì sợ rủi ro.           

Hôm đó tôi và em chú bác Phùng V. Th. đến trường Tấn Thành thì trường đóng cửa, thay vì đi về nhà bằng ngả chợ Trạm, tôi lại đi lên Quận Cần Giuộc, rồi mới đi qua ngả Tân Thanh mà về nhà. Trên đường đi từ Chợ Trạm lên quận lỵ Cần Giuộc, tôi không thấy có xe cộ nào đi qua. Đi được giữa đường, tôi thấy cờ đỏ sao vàng ở dưới ruộng hoặc cạnh đường đi, tôi đã lấy cờ đỏ sao vàng bỏ vào cặp của mình. Tôi chưa biết gì về lá cờ này. Nhưng khi đi về tới gần quận lỵ Cần Giuộc, Thành, con chú Út bảo tôi bỏ hết mấy lá cờ đó ra ngoài cặp đi. Tôi không dám giữ nữa và quăng xuống ruộng.           

Quả nhiên khi vô quận lỵ, đi qua hàng rào kẻm gai mà chánh phủ quốc gia đã kéo ngang đường, chỉ chừa một khoảng nhỏ đủ cho một người đi qua, tôi bị chặn lại và bị xét cặp học sinh của tôi. Nếu không vất lá cờ đó đi, mà mang vào quận lỵ Cần Giuộc, tôi cũng không biết cái gì đã xảy ra cho tôi? Tôi sẽ bị tra hỏi có phải là người của Việt Minh không? Tại sao tôi có cờ Việt Minh trong cặp? Tôi sẽ bị bắt để điều tra?

                                                                       &   &    &

            Tôi đi học từ Chợ Núi lên Cần Giuộc bằng xe Lam ba bánh. Cho đến năm 1954, muốn đi từ Chợ Núi lên Cần Giuộc phải đi bằng xe ngựa. Nhưng từ năm 1955, xe Lam bắt đầu nhập vào nước ta, một vài người bắt đầu mua xe Lam để đưa hành khách thay thế xe ngựa. Xe ngựa có bánh bằng sắt nên dễ làm cho đường lộ đá đỏ bị hư, dễ tạo thành các vũng nước, vũng sình lún đường. Xe lam chạy bằng bánh cao su nên đường ít bị hư hơn. Từ khi đậu vào lớp đệ thất (lớp sáu), trường Trung Học Cần Giuộc, mỗi ngày tôi đều thức sớm ăn cơm với đậu phọng rang rồi đón xe đi lên quận lỵ Cần giuộc học. Tôi phải qua đò Tân Thanh. Nhiều khi qua đò quá đông chen lấn nhau, chủ đò muốn chở nhiều để có lợi hơn, nên hành khách thường chen lấn nhau để qua đò, có lần tôi bị lấn, rớt xuống song, áo quần sách vở bị ướt hết.

            Khoảng năm 1959 buổi sáng sớm, trời còn tối, tôi đón xe lam lên Cần Giuộc để đi học, tôi ngồi ở phía trước của xe lam. Khi xe chạy đến “Rạch đập”, tài xế vừa pha đèn để thấy đường mà chạy xe, tôi thấy một cái đầu của một người để trên cái trụ bằng xi măng của đập. Tôi hết sức sợ. Không biết ai đã giết người này, sao lại để trên trụ cột như thế. Mọi người đều rất sợ. Bắt đầu có khủng bố ở nông thôn. Sau này tôi được biết người bị giết chỉ là trưởng ấp. Mặt Trận Giải phóng Miền Nam (Cộng sản), đã ám sát, khủng bố, giết chóc các viên chức xã ấp để gây hoang mang, gây nỗi sợ hãi trong dân chúng.

                  Về quê, làng Tân Tập ăn giỗ, tôi nhớ bà con dùng lưới để bắt cá đối. Giăng tấm lưới, hai người cầm hai đầu, kéo lưới căng ra giữa ruộng. Phía bên kia ruộng một người cầm cái chổi hay cành cây đập xuống nước từ từ đuổi cá đến cái lưới, vậy mà cá đối dính vào lưới khá nhiều. Bắt còng cũng là cái thú. Khi xuống ruộng, mang theo bên mình một cái giỏ bằng tre, phía trên miệng nhỏ hơn, rộng chừng nắm tay, có nắp đậy để khi bỏ còng vào, con còng không thể nào bò ngược lên được. Khi đi bắt còng, chân thụt (đạp) xuống đất, trước các lỗ nhỏ bằng đầu đủa ăn cơm, nếu có còng, nó sẽ chạy lên, dùng tay khéo léo cầm ngang hông nó rồi bắt bỏ vào giỏ.

            Khi tôi lên lớp đệ lục, đệ ngủ, tôi học Pháp văn, Việt văn với thầy Trần Văn Quới còn gọi là ông Đốc Quới. Thầy Trần Văn Quới cũng là Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Trung học Cần Giuộc.Trường thành lập năm 1955. Tôi thi đậu tiểu học năm 1954 vì chưa có trường Trung học công lập, nên phải qua Chợ Trạm học trường tư thục Tấn Thành do ông Nguyễn Tấn Thành sáng lập và cũng là Hiệu Trưởng. Sau này ông Nguyễn Tấn Thành là Dân biểu Đệ Nhất Cộng Hoà, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm.Trong thời gian học ở trường Tấn Thành tôi đi học chung với Phùng V. Th.  ở nhà gọi là hai Hưởng.Trước khi về hưu, hai Hưởng là Giám đốc nhà máy bao bì ở Hà Tiên.

            Khi hai Hưởng đậu bằng tiểu học, Chú Út tôi không có tiền để cho đi học tiếp lên trung học. Chú Út tôi dự định cho hai Hưởng về Tân Tập làm ruộng. Ba tôi thấy thế mới gọi hai Hưởng ra Chợ Núi, ở nhà ba má tôi để tiếp tục đi học. Hai Hưởng cùng với tôi đi học ở trường Tấn Thành bằng xe đạp. Sau một năm học ở trường Tấn Thành, tôi thi đậu vô trường trung học Cần Giuộc năm 1955. Hai Hưởng thi vào trường Cao Thắng, dạy nghề ở Sài gòn. Hai Hưởng đang học lớp 11 tại trường này, nhà nước cần học sinh đi du học ở Pháp về ngành xi măng để lập nhà máy xi măng ở Hà Tiên và Thủ Đức.Tìm người có Tú Tài hai, biết về máy móc không có, nên đành phải lấy trình độ lớp 11. Sau khi đi tu nghiệp gần hai năm hai Hưởng về làm ở nhà máy xi măng ở Thủ Đức hoặc nhà máy xi măng ở Hà Tiên tùy nhu cầu.

            Xin nói qua về địa danh chùa Linh Sơn, bài viết của ThầyTrần Văn Trí năm 1974.

            Sơ lược tiểu sử chùa “Linh sơn”

            Tục truyền gò núi đất trước kia do người Miên cư trú, họ vốn là một dân tộc sùng tín đạo Phật nên chỗ nào cũng có chùa và thường cất trên những chỗ đất cao. Do đó họ phải tạo nên một hòn núi nhỏ để cất chùa. Phong cảnh chùa rất nên thơ xinh đẹp với những cây cổ thụ hàng trăm năm, những góc me trái sai quằn nhánh, lá xanh tươi mát rười rượi. Dưới chân núi có con rạch chạy bao quanh như con rồng ôm theo vòng núi đất. Chân núi cây cối sầm uất, vườn tược sum xuê, thật là sơn thủy hữu tình. Đó là thắng cảnh và địa danh của quận Cần Giuộc.

            Nguyên khởi của ngôi chùa.

            Trước năm 1867 vùng đất này của người Miên thuộc Thủy Chơn Lạp, xưa kia ông bà chúng ta lấn và chiếm đất họ. Họ bèn bỏ chạy và ngôi chùa của họ cũng hư hại luôn.

            Đến năm 1867 (Đinh Mão) có Thầy Nguyên Quới tự lập am, cất một cái chùa sơ sài bằng cây vách lá để tu luyện. Thầy không ăn cơm mà chỉ ăn rau hoặc đậu nên gọi là Thầy rau.

            Nhị tổ kế truyền: Khi Thầy Quới viên tịch, ông sư Hiền về kế tiếp giữ chùa lo việc hương khói. Vì dân cư còn hiếm hoi, chùa chưa được mở mang gì nhiều.

             Tam tổ kế vị: (1870) Ông sư Hiền viên tịch, Tổ Minh nghĩa kế tự bắt đầu có phát triển hành dạo, chùa có người lui tới, làng xã đến chiêm bái và cúng dường chút ít. Tổ Minh Nghĩa hành trì ít lâu rồi thị tịch.

            Tứ tổ kế vị:(1873) Đến Tổ Như Đức (người Bình Định) thay Tổ Minh Nghĩa trụ trì công việc hoằng dương Phật sự lúc bấy giờ còn quá khiếm khuyết. Dân chúng mãi lo khẩn hoang, đạo pháp chưa có cơ duyên phát triển. Hành đạo một thời gian thì Tổ Như Đức tịch.

            Ngủ Tổ kế vị: (1876) Khi Tổ Như Đức viên tịch rồi thì chùa không ai coi, chỉ còn lại một đạo đồng sáu tuổi tên là Lê văn Đuổi, gọi là Trùng Huệ, Pháp Hiệu Quảng Trí giữ chùa. Đạo đồng Quảng Trí có lẽ có cơ duyên với đạo pháp nên ban ngày giữ chùa và vào xóm xin ăn, ban đêm không dám ngủ tại chùa phải tìm nhà đồng bào xin ngủ trọ. Khi được 8 tuổi, bổn đạo mới đem gởi đi học đạo tại chùa Như Đức (trước gọi là Trúc Lâm) nay thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đến năm 18 tuổi, Quảng Trí được hương chức và bổn đạo thỉnh về trụ trì. Ông mở mang đạo mạch?, làm ruộng, lập vườn, nuôi tăng chúng. Chùa bắt đầu phát triển đạo pháp, bổn đạo lui tới chùa rất đông và phát triển đến nay. 

            Lục Tổ kế vị: Sư Trùng Huệ trụ trì đến năm 1942 thì viên tịch nhập cõi niết bàn, chùa được giao cho đệ tử là Thích Trùng Lễ. Thích Trùng Lễ tục danh là Lê văn Thượng từ năm 1942 đến năm 1944 thì viên tịch.

            Thất tổ kế vị: Hoà Thượng Thích Thiện Lợi, tục danh Lê văn Giáp tiếp tục lo việc Phật sự từ năm 1944 đến nay.

            Lãnh trách nhiệm từ 30 tuổi vào thời kỳ khói lửa đao binh bùng cháy trên mảnh đất quê hương, Hoà Thượng chịu đựng nhiều gian khổ cho chùa. Ba mươi năm trụ trì là ba mươi năm chiến tranh bom dạn cày nát quê hương, làng mạc, nhân dân điêu đứng tản cư chạy giặc, luôn luôn sống trong hồi hộp lo âu. Tuy nhiên Hòa Thượng vẫn kiên gan ở lại giữ ngôi chùa. Thôn xóm quanh chùa đã bị đỗ nát vì bom đạn rơi rớt, thế nhưng nhờ oai linh chư Thiên, Phật Tổ chùa vẫn còn toàn vẹn không bị ảnh hưởng chi hết.

            Kết luận: Nói chung ngôi chùa còn đến hôm nay là nhờ hồn thiêng đất nước, nhờ oai linh của địa phương thành hoàng bổn cảnh phò trì bá tánh nhân dân xã đóng góp giữ gìn mới được viên thành như ngày hôm nay.                                                                   

                                                         Soạn năm 1974 

    Ông Trần văn Trí, Hiệu Trưởng THCĐ Rạch Núi kiêm UVVHGDTN xã Đông Thạnh.

     (bài này trích từ Bản tin đồng hương Cần Giuộc,   Xuân Bính Tý 1996).

&  &  &

            Tôi còn nhớ học thầy Nguyễn Tuấn Kiệt, Hiệu trưởng kiêm dạy lớp nhất trường tiểu học Rạch Núi. Thầy Kiệt thay thế ông Hiệu Trưởng Nguyễn Văn Chắc. Trong thời gian thầy Kiệt làm Hiệu Trưởng là năm tôì thi đậu bằng tiểu học 1954, hiệp định Genève ra đời, chia đôi đất nước Việt Nam. Tôi lúc đó còn quá nhỏ để hiểu biết về chính trị, nhưng tin tức dồn dập về đình chiến giữa Pháp và Việt Minh cũng ảnh hưởng phần nào đến tâm hồn còn non nớt của tôi. Tin tức đó cũng làm cho tôi quan tâm một chút về tình hình chính trị, về tình hình đất nước Việt Nam. Năm đó tôi thi vào trường Petrus Trương Vĩnh Ký bài luận văn nói về sự đoàn kết. Tựa đề bài thi “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” hay “Đoàn kết thì sống chia rẻ thì chết”. Tôi không hiểu sao lúc đó tôi có cảm tình với kháng chiến cho nên không thích ông Ngô Đình Diệm. Ông Ngô Đình Diệm vừa về nước chấp chính làm Thủ Tướng. Tôi làm bài luận văn viết nếu Hòa Hảo, Bình Xuyên, Cao Đài hợp lại đoàn kết thực sự đánh lại ông Diệm thì ông Diệm không thể nào chống đỡ nổi. Dĩ nhiên kỳ thi này tôi đã không đậu vào trường Trương Vĩnh Ký. Không biết có phải do bài làm này hay không?

            Năm 1955 là năm đầu tiên khai giảng lớp đệ thất, của trường Trung học Cần Giuộc. Năm 1955 cũng là năm tôi thi đậu vào trường này. Tôi học trường này từ năm 1955 đến năm 1959. Sau khi đậu trung học Đệ nhất cấp, tôi tiếp tục lên lớp đệ tam (lớp 10), chuyển lên Sài Gòn học ở trường Chu văn An nằm phía sau trường Trương Vĩnh Ký.

            Trong thời gian tôi học tại trường Trung Học Cần giuộc, giờ Việt văn của Thầy Trần văn Quới luôn luôn nói đến lòng yêu nước như khi dạy về Nguyễn Đình Chiểu thì Thầy nhắc đến “chùa ông Ngộ” và “Trận giặc mù u”.

            Theo lời của Thầy Trần văn Qưới kể lại “Trận giặc mù u” như sau:

            Nghĩa quân kháng Pháp thời đó dưới quyền chỉ huy của Ông Trương Công Định, đâu có súng ống, chỉ dùng dao mác mà thôi?  Từ quận lỵ Cần Giuộc lính Pháp đi tuần vào xã Mỹ Lộc. Nghĩa quân phục kích lính Pháp tại chùa ông Ngộ. Chùa này ở vị thế cao hơn đất bằng cho nên nghĩa quân dùng trái mù u là loại trái hình tròn như trái banh boong nhỏ, rải lên trên triền dốc. Nghĩa quân đi chân không. Trong khi lính Pháp đi giày. Nghĩa quân đứng trên cao. Quân Pháp phải trèo lên để đánh nghĩa quân, nhưng vì đi giày nên đạp trái mù u mà té, không chạy lên cao được. Nghĩa quân đi chân đất chạy xuống giết nhiều lính Pháp. Trong trận đánh này, nghĩa quân Việt Nam lần đầu tiên đã thắng Pháp. Sau năm 1862, khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, ký hoà ước với Pháp, cắt ba tỉnh miền Đông Nam phần cho Pháp, (nghĩa quân đã tự động nổi lên chống Pháp).

&   &   &                  

            Sau khi tôi thi đậu Trung Học Đệ nhất cấp, vì ở quận Cần Giuộc không có lớp đệ tam (lớp 10), nên Thầy Đinh văn Lô liên lạc với trường Chu văn An là trường của người Bắc từ Hà nội di cư vào Nam. Chúng tôi là dân Nam kỳ mà lại vào học trường Chu Văn An. Thầy Đinh văn Lô là người miền Bắc, xin các nơi khác không được vì không có chỗ, chỉ còn có trường Chu văn An nhận mà thôi. Không biết có phải nhờ thầy Đinh Văn Lô quen biết Hiệu Trưởng trường này không? nhờ đó chúng tôi được nhận. Hiệu Trưởng trường Chu văn An lúc bấy giờ là thầy Trần Văn Việt.Tổng Giám Thị là Nguyễn Hữu Lãng chúng tôi thường gọi là Tổng Lãng. Giám Học là Nguyễn Văn Kỹ Cương.

            Nhờ học được trường nổi tiếng này nên đa số chúng tôi đi thi Tú Tài hai đều đậu gần hết. Chỉ có một số ít học sinh thi rớt Tú Tài hai mà thôi. Lớp Đệ Tam và Đệ Nhị học ở phía sau trường Trương Vĩnh Ký. Lớp Đệ Nhứt chúng tôi học ở khu trường mới gần nhà thờ ngả sáu. Những giáo sư chúng tôi học đều dạy giỏi, rất nổi tiếng thời bấy giờ như Toán là Giáo sư Đào Văn Dương, Nguyễn Văn Kỹ Cương, Lý Hóa Trương Đình Ngữ, Lê Văn Lâm, Triết Nguyên Sa Trần Bích Lan, Trần Văn Hiến Minh, Sử Vũ Khắc Khoan….

            Giáo sư Trương Đình Ngữ đi dạy học bằng xe hơi có tài xế đội kết trắng lái. Khi tới trường, tài xế bước ra phía sau, mở cửa xe cho Thầy xuống. Hồi đó rất ít người có xe hơi. Đa số giáo sư đi xe gắn máy hay đi xe đạp. Giáo sư Vũ Khắc Khoan đi dạy bằng xe taxi.

            Tôi thuộc loại giỏi của trường Trung học Cần Giuộc vậy mà khi chuyển trường, vào học tại trường Chu Văn An không còn đứng nhất nhì của lớp học được nữa.  

            Tôi thi vào trường Đại học sư phạm ban Lý Hoá không đậu nổi. Thi vào Kỹ sư Phú Thọ, Quốc Gia Hành Chánh cũng không đậu. Muốn học Y khoa, ba tôi nói không đủ khả năng nuôi tôi học thêm nữa vì tôi có nhiều em (4 đứa) và còn các con dì sáu, bà vợ sau của ba tôi nữa, cũng bốn đứa em còn nhỏ.  Ba tôi bảo tôi nộp đơn vào học Cán sự y tế không phải thi vì có Tú Tài hai. Tôi có đến bịnh viện Chợ Rẩy lấy đơn vì trường Cán Sự Y Tế ở trong khuôn viên bịnh viện này. Nhưng tôi không có nộp vì tôi không thích ngành này hơn nữa nó chỉ là ngành trung cấp mà thôi. Túng quá, cần đi làm có tiền, tôi đã nộp đơn thi vào trường Sư Phạm hai năm. Thi vào trường Sư Phạm hai năm chỉ cần Tú Tài một. Tôi đã có Tú Tài hai rồi nhưng vẫn thi vì tôi cần đi làm để ba tôi không phải tốn tiền lo lắng cho tôi nữa. Tôi thi đậu vào trường Sư Phạm vào năm 1963. Năm 1965 tôi ra trường Sư Phạm đổi về dạy tại trường tiểu học Phước Hòa Long, quận Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa. Trường này do Ngô Văn Lương đang làm Hiệu Trưởng có 5 lớp nhưng học sinh rất thưa thớt, một lớp chừng mười mấy đứa học trò mà thôi.

               Chiến tranh đang lan rộng khắp nơi trong quận. Ban đêm tôi ngủ ở các phòng kế bên rạp hát Quốc Thống. Lính thường đến gác trên sân thượng của lầu này. Tối Cộng Sản về, ở dưới đất bắn lên. Nghĩa quân ở trên nóc lầu Quốc Thống bắn xuống. Chúng tôi ở giữa chịu trận. Trong xã Phước Hòa Long, lính quốc gia và cộng sản lúc nào cũng có thể đánh nhau, đụng độ với nhau. Họ đánh nhau bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Từ đường cái đi vô trường, tôi phải qua đồn nghĩa quân.

                 Một hôm buổi sáng sớm, tôi đi vào trường. Khi gần đến trường, trên đường đi, tôi nhìn thấy một sợi dây giăng ngang, hai đầu sợi dây cấm hai cây tre nhỏ có treo hai quả lựu đạn. Lỡ đi tới tôi phải nhấc xe đạp lên bước nhẹ nhàng, chậm rãi qua sợi dây đó mà đi vào trường. Hôm sau, tôi không dám đi con đường này nữa, tôi phải đi vòng qua xóm để vào trường.

NGƯỜI MÙ LÀM SAO BIẾT CHIA “TIỀN”

Phu Le
 

NGƯỜI MÙ LÀM SAO BIẾT CHIA “TIỀN”

Gần 12:00 giờ đêm, có hai người đàn ông ngồi cạnh nhau đếm tiền, một người ôm cây đàn, hốc mắt lõm xuống, một người tóc muối tiêu, mở tiền trong cái túi nhỏ bỏ vào nón và đếm.

Tiền 2.000, tiền 5.000, 10.000, 20.000 và thoảng có vài tờ 50.000 hay 100.000. Tôi đi bộ ngang nên cứ nghe và thấy được vài điều vài câu.

“Hôm nay người ta đi nhậu nhiều ông ạh”
“Uh, gần Tết nên Tất niên vui vẻ”
“Vui nên có mấy khách cũng cho sộp lắm”
“Uh, tôi cũng mong có kha khá mua mấy món Tết cho mấy đứa nhỏ”

Tò mò nên tôi ghé hỏi : 
“Hai chú là anh em ạh?”
“Không, hai chú là bạn, ông bạn chú tật nguyền từ nhỏ”

“Rồi chú chở chú này đi hát bao lâu rồi?”
“Chú làm việc ban ngày, ban đêm chở bạn mình đi hát, ai thương thì cho ít cho nhiều, ổng không chịu ngồi đường chờ bố thí, cũng không chịu để người nhà nuôi”

“Hai chú chở nhau đi như vầy bao lâu rồi”
Lúc này chú mù mới nói
“Cũng hai mươi mấy năm rồi con, ổng là đôi mắt, đôi chân đưa chú đến nơi chú có thể hát cho người nghe. Ngày xưa ổng chở chú bằng xe đạp, sau này ổng mua được xe máy thì chở chú bằng xe máy”

“Mỗi ngày hai chú làm xong rồi chia nhau thế nào?” Tôi cũng hơi tò mò
“Được nhiêu chia đôi, chú chịu tiền xăng” chú sáng mắt trả lời.

“Chúc hai chú nhiều sức khoẻ nhé, Tết thật ấm áp bên gia đình”
“Cám ơn cháu, cháu cũng vậy nhé”

Tôi lại đi, một vòng, hai vòng sau, theo thói quen lại nhìn 2 chú. Chợt thấy điều lạ lạ.

Chú sáng mắt dúi vào tay bạn mình một sấp tiền, đa số là tiền 100.000, 50.000 và 20.000
Còn trên tay chú là tiền 10.000 và một số 5.000, 2.000
“Đây phần của ông đây, tôi đã chia đôi rồi đó”
“Cám ơn ông, bao nhiêu năm ông đều giúp tôi đi và chia đều cho tôi”

Mắt tôi chợt cay cay, 😭 “Chia đôi” đâu đồng nghĩa là 2 phần bằng nhau. 😭😭
Người bạn mù thì tin bạn mình hoàn toàn
Người bạn sáng thì muốn cho bạn mình phần hơn.

Sống trên đời phải chăng có những người có rất nhiều tiền, và ở đây có 2 chú là những người THẬT SỰ GIÀU CÓ

Cuộc sống này còn quá nhiều điều tốt đẹp, Tết đang về, đôi mắt ướt mà con tim sao đập rộn rã tình yêu thương con người. ☺️

Tết sum vầy
Xuân hạnh phúc
Kỉ niệm đẹp rạng sáng ngày 08/02/2018.
#NguyenHaLam #Xuan2018 #Sharing #Happy

Image may contain: one or more people, motorcycle and outdoor