Thiền Sư và Cô Lái Đò

  Thiền Sư và Cô Lái Đò.

Ngày kia, một Thiền sư phải qua sông. Vị Sư bước lên một chiếc đò của một cô lái đò xinh đẹp.

Sau khi thuyền cặp bến, cô lái đò thu tiền từng người như bình thường, chỉ trừ nhà sư bị cô lái đò đòi tiền “gấp đôi.”

Nhà Sư ngạc nhiên hỏi vì sao?

Cô lái đò mỉm cười:

“Thưa Thầy, vì Thầy đã nhìn em…”

Nhà sư lặng lẽ trả tiền và bước lên bờ.

Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền “gấp ba.”

Nhà sư ngạc nhiên lại hỏi vì sao?

Cô lái đò cười bảo:

“Thưa Thầy, Thầy đã nhìn em dưới nước.”

Nhà sư nín lặng trả tiền “gấp ba” giá bình thường, và bước lên bờ.

Một hôm nhà sư lại qua sông. Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền định.

Đò cập bến cô lái đò thu tiền “gấp năm” lần. Nhà sư ngạc nhiên, lại hỏi vì sao?

Cô lái đò cười, đáp:

“Thưa Thầy, Thầy không nhìn em, nhưng còn nghĩ đến em.”

Lặng lẽ, nhà sư trả tiền gấp năm lần giá bình thường.

Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò…

Đò cập bến, nhà sư cười hỏi:

“Lần nầy tôi phải trả bao nhiêu?”

Cô lái đò đáp:

“Em xin đưa Thầy qua sông, không thu tiền.”

Thiền sư hỏi:

“Vì sao?”

Cô lái đò cười và đáp:

“Thầy đã nhìn em mà không còn nghĩ gì tới hình ảnh em nữa… Do vậy em xin đưa Thầy qua sông mà thôi không lấy tiền…”

(Chú ý: Chưa hết!  Xin xem thêm lời bàn và các lời kết bên dưới)

_______

Lời bàn

Sau đây là 3 lời bàn (“comments”) trên mạng mà tôi thấy cũng   hay:

1- Tiếp cảnh sinh tư tình, rồi hành ý lãng tránh đều đã có dính mắc chấp giữ. Nhìn thẳng thấy rõ đúng như thực, bất khởi vọng niệm…

2- Đó thấy không?! Dzậy mà mấy bà cứ chửi mấy ông là “cứ thấy gái đẹp là tươm tướp, tươm tướp…”  nhưng thật ra đám lão nông chúng tôi là những người đã đắc đạo từ lâu rồi (?!): Chỉ nhìn mà không nghĩ gì cả (vì có nghĩ cũng chẳng được chi mà lại càng thêm tức… vì đã hết xí quách hết dzồi còn gì!!!)

3- Nói một cách khác, mọi sự từ TÂM mà ra, sống ở đời chỉ có chữ TÂM là đáng quý!

Theo thiển ý của bỉ nhân, cô lái đò là hóa thân của một vị giác ngộ muốn dạy cho chúng ta một bài Pháp. Nhà sư gặp cô lái đò 4 lần:

– Lần 1 bị trả tiền gấp 2 vì nhìn cô gái với tâm phàm (ham muốn).

– Lần 2 bị trả tiền gấp 3 vì không dám nhìn thẳng, mà liếc bóng cô gái dưới nước.

– Lần 3 bị trả tiền gấp 5 vì giả bộ nhắm mắt ngồi thiền nhưng vẫn tơ tưởng đến cô gái.

– Lần 4 không phải trả tiền vì mặc dù nhìn thẳng cô gái nhưng tâm không bị dính mắc bởi những ý nghĩ xấu: Nhìn mà như không nhìn vậy!

Trong Đạo Phật, có những câu nghe qua có vẻ nghịch lý nhưng rất thâm thúy như:

– Giúp mà như không giúp, thế mới thật là  giúp.

– Nhẫn mà như không nhẫn, thế mới thật là nhẫn.

– Thương mà như không thương, thế mới thật là thương…

________

Lời kết

(Hai đoạn kết ngắn được Bác Mao Tôn Cương… Ẩu viết thêm vào phần cuối của câu chuyện “Thiều Sư và Cô Lái Đò” ở trên để gọi là góp… gió độc):

Lời kết số 1 viết thêm như sau:

Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần này cô lái đò không những không lấy tiền mà còn xin được đi theo hầu.

Nhà sư hỏi: “Vì sao?”

Cô lái đò đáp:

“Thầy không những nhìn em, mà còn nhìn vào giữa hai chân em, một cách đường đường chính chính, không úp mở, không én lút. Đấy gọi là an nhiên trực diện với cái thực thể uyên nguyên, chứ không giả điếc không nghe, giả mù không thấy, giả ngu không hiểu. Tâm thức này chỉ thấy ở những bậc đại chân tu đã đạt đến cảnh giới thượng thừa. Nên em bội phần khâm phục, muốn được theo thầy học đạo.”

Nhà sư trầm tư một lúc rồi thong thả đáp:

“Quả là ta đã nhìn vào giữa hai chân cô. Ta cứ tưởng tâm mình đã hoàn toàn tĩnh lặng, không ngờ tâm ta lại ba đào nổi sóng. Thế mới biết còn lâu lắm ta mới có thể đạt đến cái cảnh giới thượng thừa mà cô mong đợi. Ta đã phụ lòng cô, thật đáng tiếc!”

Cô lái đò suy nghĩ một lúc rồi ngập ngừng:

“Nhưng em… vẫn muốn… theo thầy.

Nhà sư hỏi: “Vì sao?”

Cô lái đò đáp:

“Trước em tưởng thầy là bậc chân tu nên xin được theo để học đạo. Nay em biết thầy là kẻ chân tình nên xin được theo để nâng khăn sửa túi.”

Nhà sư chắp tay:

“Thiện tai! Thiện tai!”

*

Lời kết số 2 viết thêm như sau:

Một thời gian sau, những người thường qua đò không còn thấy cô lái đò nữa mà lại có người đàn ông lái đò…  nhìn kỹ ra thì chính là ông Thiền sư ngày nào!

Có người khách cắc cớ hỏi:

“Thế cô lái đò đâu rồi Thầy?”

Nhà Sư (?) trả lời:

“Cô ấy đi lấy chồng dzồi.”

“Mà cổ ấy lấy ai dzậy hà?”

“Thì cổ ấy lấy… tui… Chứ còn lấy ai!”

“Trời đất!”

Trần Văn Giang

From: TU PHUNG

 

XIN CHÚA THA THỨ CHO TÔI

XIN CHÚA THA THỨ CHO TÔI

Sau thời Cách Mạng Pháp, trước cửa một Nhà Thờ tại thủ đô Paris nước Pháp, người ta thường thấy một người hành khất với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn thấy trên vòng cổ của người ăn xin một cây Thánh Giá nhỏ bằng vàng.

Người khách quen thuộc nhất của người xấu số này là một vị Linh Mục trẻ. Vị Linh Mục đến dâng Thánh Lễ tại Nhà Thờ này. Mỗi lần ra khỏi Nhà Thờ, ông không quên hỏi han và giúp đỡ người hành khất.

Ngày nọ, vị Linh Mục trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa Nhà Thờ nữa. Lần mò hỏi thăm, vị Linh Mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị Linh Mục, ông ta đã kể lại cuộc đời của mình như sau:

“Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồng chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Quân Cách Mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy nhất là thoát khỏi”.

Nghe đến đây, vị Linh Mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu chuyện của người hành khất:

“Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát máu… Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp các ngả đường để quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây Thánh Giá tôi đang treo ở đầu giường là của người chồng, còn chiếc Thánh Giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của người vợ… Xin Chúa tha thứ cho tôi”.

Vừa nghe xong những dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị Linh Mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội, ông đã nói như sau: “Tôi chính là người con trai còn sống sót trong gia đình. Ðại diện cho gia đình và với tư cách là một Linh Mục, tôi tha thứ cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần…”

Tác giả KHUYẾT DANH

Image may contain: shoes and outdoor

 Người ăn mày may mắn

 Người ăn mày may mắn

Nguyễn Thiêm

Có cô gái bán hoa, một hôm sau khi bán hầu hết số hoa trên sạp hàng cô thấy đã quá muộn nên cô quyết định về nhà. Trên đường về, cô nhìn thấy một người ăn mày ngồi bên vệ đường thế là cô thuận tay tặng một bông hoa hồng còn lại cho người ăn mày, trong lòng cô tràn trề niềm vui.
Có lẽ các bạn cho rằng câu chuyện đến đây sẽ kết thúc, nhưng câu chuyện tôi kể bây giờ mới thực sự bắt đầu.

Đối với người ăn mày đây là chuyện không thể ngờ vì với anh ta được một cô gái xinh đẹp tặng hoa chẳng khác nào mặt trời mọc ở đằng tây.
Có lẽ chưa bao giờ người ăn mày yêu bản thân mình, cũng có lẽ chưa bao giờ anh ta nhận được tình yêu của người khác nên anh ta quyết định là hôm nay không ăn xin nữa mà trở về nhà.
Sau khi về nhà, anh ta tìm cái bình hoa rồi cắm bông hoa hồng vào và đặt nó trên bàn. Bông hoa quả là đẹp, người ăn mày ngồi lặng lẽ ngắm nhìn bông hoa.
Chợt anh ta nghĩ đến điều gì đó, anh ta vội đứng lên bỏ bông hoa ra rồi mang cái bình đi cọ rửa rất sạch sẽ. Hóa ra anh ta cho rằng bông hoa đẹp như thế này mà lại cắm vào cái bình bẩn thỉu thì không thể được, cái bình thật sạch sẽ mới xứng đáng để cắm bông hoa xinh đẹp này.
Xong việc, anh ta lại ngồi lặng lẽ ngắm nhìn vẻ đẹp của bông hoa hồng. Một lúc sau, anh ta lại chợt thấy rằng cái bình hoa đẹp thế này lại đặt trên cái mặt bàn đầy bụi thế là anh ta lại đứng lên lấy giẻ lau chùi cái bàn thật sạch sẽ, sau đó đặt cái bình hoa ngay ngắn ở trên bàn.
Xong việc người ăn mày lại ngồi lặng lẽ thưởng thức vẻ đẹp của bông hoa, bỗng nhiên anh ta thấy rằng cái bình hoa đẹp đẽ đặt được đặt trên cái bàn sạch sẽ lại ở trong một gian phòng vô cùng bừa bộn và đầy rác rưởi?
Nghĩ vậy, anh ta lại quyết định dọn dẹp lại căn phòng và xếp đặt lại mọi thứ gọn gàng, ngăn nắp… Căn phòng gọn gàng với cái bình hoa đẹp đẽ như ấm áp hẳn lên và hình như người ăn mày quên rằng mình đang ở đâu.
Khi người ăn mày đang chìm trong đắm say thì anh ta bỗng thấy ở trong gương một người đàn ông đầu tóc rối bù, ăn mặc lôi thôi… Anh ta không ngờ rằng mình lại là một người như thế này, một người có bộ dạng như thế có đủ tư cách ngồi trong căn phòng sạch sẽ với bình hoa đẹp như thế này không nhỉ?
Nghĩ vậy, anh ta đi tắm rửa và thay quần áo, mặc dù bộ quần áo hơi cũ nhưng nó rất sạch sẽ. Sau đó, anh ta lại đứng trước gương ngắm mình từ đầu đến chân, anh ta thấy rằng người trong gương cũng là một người có khuôn mặt rất điển trai.
Lúc này, anh ta lại nghĩ: Một người như thế này mà lại phải đi ăn xin à? Đây là lần đầu tiên anh ta tự hỏi mình như vậy. Tâm hồn anh ta bỗng thức tỉnh, kỳ thực mình cũng không đến nỗi nào? Anh ta nhìn căn phòng rồi lại nhìn bình hoa hồng ở trên bàn, cuối cùng anh ta đã đưa ra một quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời của mình.
Anh ta quyết định từ hôm nay anh ta sẽ không đi ăn xin nữa mà đi tìm một công việc để làm. Anh ta không sợ mệt, không sợ vất vả nên hôm sau anh ta dễ dàng tìm được một công việc thích hợp. Có lẽ bông hoa hồng nở rộ trong lòng đã truyền cảm hứng cho anh ta, với sự cố gắng không mệt mỏi dăm năm sau anh ta trở thành một ông chủ của một xí nghiệp nhỏ.
Một thời gian sau, anh ta cũng tìm được cô gái đã tặng hoa cho mình và anh ta đã tặng cho cô gái một nửa tài sản của mình để cảm ơn cô gái đã tặng anh ta đóa hoa hồng khi anh ta đang là kẻ ăn mày lang thang.
Đây không phải là một đóa hoa hồng mà là một niềm hy vọng đối với cuộc sống, một niềm hy vọng đối với một tương lai tốt đẹp. Đây là đóa hoa hồng tặng cho người đúng với câu ngạn ngữ kinh điển: Tặng hoa cho người hương thơm dư lại.
Mỗi một con người đều là duy nhất, mỗi một con người đều là đẹp nhất! Chúng ta phải tin ở mình để bất kể như thế nào cũng không nên bỏ cuộc. Không nên để mình rơi vào bờ vực của sự thất bại, chỉ cần mình có sự thay đổi nho nhỏ thì cuộc sống của chúng ta sẽ bắt đầu tốt đẹp lên. Khi ta thay đổi thì mọi thứ tất sẽ thay đổi.
Nguyễn Thiêm

From: Kristie Phan & KimBang Nguyen

NGƯỜI HẠ SĨ NHỨT

NGƯỜI HẠ SĨ NHỨT

Tác giả: Nguyễn Vô Danh

Mọi chuyện dường như là có sự sắp đặt. Trong cuộc đời tui, bao nhiêu lần vào sanh ra tử, cứ tưởng là sắp đi thăm ông bà ông vải, nhưng lại chưa. Bà xã, thỉnh thoảng vẫn chọc quê, “Nghèo mà ham; anh tưởng muốn đi là đi hả? Tui chưa cho anh đi thì hổng được đi đó. Nghe chưa?”. Chuyện tình duyên thì cũng rụp, rụp, rụp – ý tui muốn nói là suôn sẻ đó. Còn chuyện người anh kết nghĩa thì như trên trời rớt xuống. Đúng là người tính hổng bằng Trời tính mà. Tía hay nói như dzậy.

Nói xa nói gần hổng bằng nói thiệt tui là con một trong gia đình nông dân nghèo. Nghe Má kể lại thì lúc được 1 tuổi rưỡi, tui bị bịnh ban gì đó, mà hai thầy thuốc Nam trong miệt cồn Dừa (tỉnh Phong Dinh) này đều bó tay. Tía bằng lòng bán miếng ruộng duy nhất của gia đình để có tiền đưa tui lên Sài Gòn chữa bịnh, nhưng đường đi quá cực khổ, và có thể tui sẽ chết trên đường trước khi tới nhà thương, thành ra lại phải trở về khi đi chưa được một phần năm đường. Hổng lẽ ngồi khoanh tay nhìn con mình chết, Tía nghe người ta mách hái mấy lá gì đó trộn với xả nấu cho tôi uống. Uống xong, nghe Má kể lại, tôi giựt giựt mấy cái rồi nằm xụi lơ, rồi ngủ luôn 2 ngày. Khi tui thức dậy, Má khóc quá trời vì quá mừng. Qua được cơn bịnh này thì tui hơi chậm lớn và cũng hơi chậm nói – nghe Má nói như dậy. Giờ ngồi nghĩ lại thấy thương ổng bả quá trời.

Khi được 5 hay 6 tuổi tui hay theo Tía ra đồng coi dùm Tía mấy cái cần câu trong lúc ổng làm ruộng. Ngồi hổng có gì làm, tui thường lượm gạch hay sỏi để chọi chim, rắn hay chuột đồng. Nhiều hôm tui chọi trúng được vài con chuột hay chim đem về cho Má nướng. Còn cá trê Tía câu Má kho tiêu ngon lắm. Thỉnh thoảng Tía uống rượu đế với mồi cá kho tiêu, và khi uống rượu Tía nói nhiều hơn mọi ngày. Phải nói là cuộc sống khá êm đềm.

Tới 8 tuổi tui mới đi học, nhưng tui học dở lắm, chắc là tại quá ham chơi. Khi rảnh tui làm ná bắn chim (thay vì chọi đá như hồi nhỏ). Tui cũng hay chơi bắn bi với tụi nhỏ hàng xóm. Phải nói là tui dùng ná rất giỏi vì ngày nào tui cũng đem chim, vịt trời hay chuột về cho Má làm đồ ăn. Khi bắn bi cũng vậy, tụi bạn thua tui dài dài, thành ra có tiền mua bánh tráng, xôi với cà lem ăn. Chỉ có học là tui dở thôi. Học đó rồi quên đó. Phải học lớp Năm đến 2 hay 3 lần mới được lên lớp Tư.

Có lần tan học, trên đường về, tui theo bạn bè vào vườn mía đỏ bỏ hoang (thân mía màu ưng đỏ hồng, mềm và ngọt khỏi chê luôn). Muốn được mía lớn tui phải đi tuốt vô trong sâu. Đang kéo chiến lợi phẩm ra, thì tui thấy đau điếng dưới chưn. Nhìn xuống thì trời ơi, một con trăn bự đang cắn chặt vô cái bắp chuối. Tui cố kéo chưn ra nhưng hổng xong vì con trăn mạnh quá. Thân nó trườn tới và quấn luôn chưn kia. Biết là hổng xong nếu tiếp tục cá đà này, tui la cầu cứu nhưng vì ở tuốt trong sâu, hổng ai nghe. Hai chưn bị trăn cột xiết rồi, tui ngã xóng xoài – chuyện đi thăm ông bà là cầm chắc trong tay. Hai chưn đã tê cứng. Chợt nghĩ tới Tía và Má, tui như bừng tỉnh và quơ đại cái cặp táp. Đang dùng cái cặp táp da đập vô đầu con trăn, cây viết văng ra. Tui dùng cây viết đâm túi bụi vào mắt con trăn. Đâm hết mắt này rồi đâm qua mắt kia. Chắc là bị tui đâm khá sâu vào mắt, con trăn tự nhiên nhả chưn ra, lăn lộn, hổng xiết nữa, và bò đi nơi khác. Hôm đó Má khóc nhiều lắm. Má cứ lẩm bẩm cám ơn ông bà che chở. Má nói là cái số tui chưa rụng. Tía tới vườn mía hoang và bắt được con trăn mù cổ bà chảng. Đem ra chợ bán thịt được gần hai chục đồng. Lúc đó 1 lượng vàng chỉ có 65 đồng. Tía nói sẽ dùng tiền này cho tui khi đi học xa, hay lúc cưới vợ. Tía cấm hổng được đi vô rừng mía đó nữa. Nói cho cùng, sau cái vụ trăn quấn thì có cho tiền tui cũng hổng dám vô.

Tui học ạch đụi tới năm 15 tuổi mới học xong lớp Nhứt. Thấy tôi học chậm, Tía cho tui ở nhà phụ làm rẫy. Mùa hè năm sau nhóm trẻ tụi tui đá banh thắng nhóm bên cồn Cát 3-2. Tui đá vô gôn luôn 2 trái trong vài phút chót vì tui chạy lẹ lắm. Được 80 đồng phần thưởng, tui dẫn “đội banh nhà” ra chợ ăn gỏi đu đủ và uống nước mía. Thắm, cô bán nước mía, nhận ra tui, nhưng tui hổng nhận ra cổ. Hỏi ra mới hay là tui học cùng lớp với Thắm 6 năm trước. Cổ khác hẳn con nhỏ ốm nhom, đen thui hồi đó. Thắm giờ có da có thịt, da bánh mật, nói chuyện có duyên, và biết buôn bán. Sau lần đó, tụi tui kết nhau. Đưa Thắm về nhà, Tía và Má mừng lắm. Má nói là Má luôn muốn tui có người anh để giúp đở bảo bọc vì tui chậm chạp và thật thà. Nay có người bạn đời giỏi như Thắm đến với tui, Má vui lắm. Tám tháng sau, tụi tui lập gia đình. Khoảng 1 năm sau khi cưới vợ thì tui phải nhập ngũ.

Chỉ sau vài tháng trong Quân Trường Quang Trung, vì được nhiều sự chú ý của các huấn luyện viên cao cấp bởi tui chạy đua rất mau (chắc vì muốn thắng đá banh để có tiền mua nước mía), và tui bắn súng hết xẩy (hay là vì chọi đá bắt chuột, dùng ná bắn chim, bắn bi kiếm tiền mua đồ ăn … hồi nhỏ), tui được huấn luyện đặc biêt để trở thành xạ thủ. Khi mãn khóa ở Quang Trung, tui được chuyển đi Kontum với cấp bực binh nhì trong đội Biệt Kích. Nhiệm vụ của tui là trốn trên những đồi cao có nhiều cây, quan sát, truyền tin và bắn tẻ khi được lịnh. Có khi tui đi chung nhóm 3 hay 5 người, và có khi chỉ có mình ên. Thường được thả trên rặng Trường Sơn vào những đêm sương mù dầy đặc. Những lúc đi xa, tui nhớ Thắm, nhớ Má và Tía lắm. Cái sướng của công việc này là tui dùng sở trường của mình (chạy mau và bắn giỏi) để phục vụ đất nước. Tui cũng khoái vụ trốn trên núi cao vì hồi nhỏ thích chơi Năm Mười. Xếp tui dặn là bất cứ ai hỏi thì tui phải nói tui là lính kiểng gác kho gạo trên Đà Lạt. Mà cũng hay, vì sau khi núp trên núi vài tháng nên da trắng và tóc dài, tui dòm cũng giống lính kiểng lắm chớ bộ. Sau mỗi lần đi công tác vài tháng tui được nghỉ phép cả tháng với rất nhiều tiền (hình như là tiền tử) khi về thăm gia đình. Tiền bạc dồi dào, tui mua đồ cho mọi người mút chỉ. Vì vậy bạn bè, hàng xóm thương, che chở và giúp đỡ tui.

Lần đó sau khi về thăm nhà chưa được 2 tuần lễ, tui bị gọi về gấp vì có chuyện lớn. Đi lẹ ra Ô Môn, vô sân bay Trà Nóc, bay thẳng về KonTum để nhận lịnh. Trước khi được điều động lên một địa điểm bí mật trên rặng Trường Sơn để thăm dò như các lần trước, tui được dặn là phải cố gắng nhiều vì 2 đồng nghiệp Biệt Kích (BK) đã mất tích trong vùng đó. Điều may mắn lần này là tui tìm được 2 người BK kia không xa nơi đáp xuống. Một người đang bị bịnh. Máy truyền tin bị hư, và đạn dược thiếu thốn tại một số lớn quân nhu bị rớt mất khi thả dù. Tụi tui núp trong 1 hang núi có nhiều cây rậm rạp. Điều không may mắn lần này là tụi Việt Cộng biết được sự có mặt của nhóm BK vì họ tìm ra số quân nhu và dụng cụ bị rớt. Họ lùng kiếm ráo riết. Để được an toàn, tụi tui im hơi lặng tiếng và chỉ bắn khi thiệt cần. Sau cùng cũng phải bắn trả vì tụi nó tới quá gần, nhưng tụi tui bắn thật ít vì thiếu thốn đạn dược. Tụi Việt Cộng dù đông hơn, nhiều đạn hơn, nhưng hổng dám mạnh dạn tiến lên vì họ ở vị trí dưới thấp, trong khi nhóm tụi tui phía trên cao bắn xuống phát nào trúng phát nấy. Cầm cự được hơn 6 tiếng đồng hồ, thì nhóm tui gần như hết đạn. Chỉ còn vài trái lựu đạn để tử thủ. Tui không nghĩ là mình qua được con trăng này. Nghĩ tới Thắm, Tía và Má, tui chạnh lòng. Trong cơn nguy hiểm như chỉ mành treo chuông, bỗng nhiên máy bay trực thăng tiếp cứu tới. Máy bay phải đánh đông phạt tây (điệu hổ ly sơn) và dùng hỏa mù để cứu nhóm tui. Trong phi vụ này, tui bị thương vì té gẫy tay và được đưa về Chẩn Y Viện Cộng Hòa điều trị. Sau thời gian dưỡng thương, tại tay hổng còn khỏe và chính xác như ngày trước, tui được chuyển về 1 quận lỵ nhỏ gần Suối Dây, tỉnh Tây Ninh với cấp bực Hạ Sĩ Nhứt và giã từ cuộc sống BK Đặc Biệt từ đó.

Khoảng 4 tháng sau thì Thiếu Úy Đức (TUĐ) người Bắc tới làm Phó quận trưởng. Tui được lựa làm gạc đờ co (bảo vệ) cho ông Phó. Vài lần đang lái xe jeep chở ông Phó đi quan sát ngoài biên giới quận thì tụi Việt Cộng bên kia rừng Tràm bắn lén. Vừa nghe tiếng nổ là tui phản xạ đẩy TUĐ nằm xuống, che cho ông, và cùng lúc tui nhả hàng loạt đạn về phía tiếng nổ. Sau vài lần như vậy, tui được tin cẩn hơn và trở thành cánh tay trái của ổng. Tui luôn khuyên ổng phải cẩn thận, vì đây là vùng xôi đậu không biết ai là địch, ai là thù. TUĐ là thượng cấp, nhưng ổng cũng xem tui như người nhà. Một lần đưa ổng đi xem nhà cửa của dân làng do nhóm lính sửa chữa, TUĐ gặp cô Hân (con gái bà chủ căn nhà ở cuối quận, kế bên con sông nhỏ ngăn cách khu rừng Tràm âm u bên kia). Theo như tui thấy thì hình như lúc gặp cô Hân, TUĐ bị tiếng sét ái tình hay sao đó vì ổng đứng như trời trồng và nói năng lắp bắp. Thấy kỳ quá, thêm nữa khu này nguy hiểm khi trời sâm sẩm tối, tui nói thay cho ổng:

– Trễ rồi, Thiếu Úy. Mình phải đi dzề. Chào cô.

Cô Hân đẹp, ăn nói khéo léo, … chắc là người bên kia, gài lại đây. Tía của cô vắng mặt. Hay là ông ta đã tập kết ra Bắc? Thêm nữa, tên Ba Thọt (ở đối diện nhà cô) – một người có tiểu sử và hành động rất khả nghi – thường qua lại nhà cô thăm viếng.
Mỗi sáng khi cô Hân đi làm ngang văn phòng quận, tui thấy cô cố tình đi chậm lại. Hay là cô đang nghe ngóng tin tức? hay là xem cá có cắn câu chưa? hay là đang dò sét tình hình trong văn phòng quận để tường trình cho phe bên kia?… Hàng trăm câu hỏi, nhưng hổng có câu trả lời. Thôi, tốt nhứt là đề phòng thì vẫn hơn.

Vài tháng sau, Kontum, Ban Mê Thuột và nhiều vùng cao nguyên thất thủ. Rồi Bảo Lộc-Madagui vào tay bọn qủy đỏ, … Một buổi chiều tháng tư, tụi Việt Cộng đem xe tăng, súng lớn tới tấn công quận. Đại Úy Long quận trưởng mất tích. TUĐ và các anh em quân đội tụi tui liều chết bắn chặn quân địch. Trước hỏa lực quá mạnh của địch, lực lượng tiểu đoàn phòng thủ quận tan rã. Kẻ chết, người bị thương, người chạy trốn. Tui và TUĐ đều bị thương nhẹ. Cùng đường, hai thầy trò chạy về phía cuối quận. Đinh ninh là Ba Thọt hay cô Hân sẽ chờ để bắt sống hay thanh toán tụi tui ở đó, tui cầm chắc khẩu tiểu liên sẳn sàng mạng đổi mạng. Khi chạy tới gần con sông cuối quận (gần nhà cô Hân), TUĐ ngã quỵ vì kiệt sức. Đang đỡ TUĐ lên, thì cô Hân chạy ra mở cửa rào ra dấu cho tụi tui vào nhà gấp. Khi vào trong, cô băng bó cánh tay của TUĐ. Cô đưa cho tụi tôi 2 nắm cơm và ít nước lạnh để ăn cầm hơi. Trong lúc tui và TUĐ ăn, cô lấy 2 ruột xe đạp, bơm lên, và đưa cho tụi tui. Cô ta chỉ tay vào con sông sau nhà:

– Hai anh thả nổi chừng 8 hay 9 cây số tới nhà thờ Suối Dây. Nhớ tìm người linh mục gốc Nam Định xin giúp đỡ. Chừng nào khỏe lại thì đi. Nếu tình hình lộn xộn quá, thi trốn qua Kampuchia. Hai anh đi cho lẹ trước khi họ tới đây.

Lúc đó tui mới biết là mình sai. Cô Hân là người ơn, chứ không phải là vẹm như tui nghĩ. Món nợ cứu mạng này lớn lắm.
Khi tụi tôi xuống sông thì trời đã tối. Nương theo dòng nước hai thầy trò tới nhà thờ Suối Dây khoảng 2 giờ sáng. Người Linh Mục dấu tụi tui ở đó gần 3 tuần lễ dưỡng thương. Khi gần như hồi phục hoàn toàn, TUĐ và tui chia tay. Hôm đó cả hai đều khóc. TUĐ nghẹn ngào:

– Hạ Sĩ Nhất Sơn. Tôi bao giờ cũng xem chú … như người nhà. Cám ơn chú … đã làm việc với tôi trong 2 năm qua, và … đã giúp đỡ tôi trong cơn hoạn nạn này. Nếu còn duyên thì anh em mình sẽ gặp lại.

Sau khi từ giã TUĐ và người Linh Mục, tui về Cần Thơ đoàn tụ với gia đình. Mất mấy ngày mới về tới Sài Gòn. Thành phố giờ có tên mới -cái tên của kẻ sát nhơn. Tui hổng quen dùng cái tên mới đó. Phải mất thêm cả tuần nữa mới quá giang về đến cồn Dừa vì xe cộ bị đình trệ sau ngày đổi đời – cái ngày mà hàng vạn người vui, nhưng hàng triệu người buồn. Khi bước vô nhà, Má bật khóc vì quá mừng. Thắm thấy tui tiều tụy quá cũng khóc. Tía thì nhờ người hàng xóm đi mua ít đồ ăn mừng ngày đoàn tụ.
Hai hôm sau, 3 người Công An tới nhà chỉa súng bắt tui đi lên xã. Xã trưởng là 1 tên Bắc Kỳ răng hô mã tấu với khuôn mặt khắc khổ nhăn nheo như cái mền rách. Hắn đập bàn đánh phủ đầu với giọng Bắc đặc sệt:

– Mày có biết tội phản động làm việc cho CIA cũa Mỹ Ngụy nặng như thế nào không? Tội ác của mày lớn lắm. Mày có nợ máu với nhân dân.
– Thưa đồng chí xã trưởng …
– Ai là đồng chí với bọn phản động như mày.
– Dạ thưa xã trưởng. Tui chỉ là lính kiểng gác kho ở Đà Lạt. Tui có bắn giết ai đâu?
– Tao có hồ sơ của mày. Đừng chối cãi nữa. Nhận tội đi. May ra được Đảng khoan hồng.
– Thưa Xã Trưởng, chắc là có người trùng tên, chứ tui đâu có làm gì như dậy.
– Giam thằng này lại. Đồ ngoan cố, mất dạy. Tuần tới đưa nó lên phòng Công An tỉnh để giải quyết.

Tui bị nhốt 8 ngày trước khi bị chuyển lên ty Công An tỉnh Cần Thơ. Khi vào gặp Trưởng phòng Công An, tui không dè đó là thằng Huân trong đội đá banh ngày nào. Nó ăn gỏi đu đủ bò khô và uống nước mía với tui sau các trận đá banh vài lần. Thêm nữa mỗi lần tui về thăm nhà, tui đều có mua đồ cho thằng Huân và cho dì Tám má nó. Tui cũng nói là làm lính kiểng trên Đà Lạt, khi nó hỏi.
Thằng Huân nhận ra tui ngay. Tui chỉ trả lời bằng những gì mà Xếp cũ của tui dặn nói. Tui đổ thừa là có người trùng tên. Nhờ thằng Huân dễ dãi, tui thoát nạn.

Tui đi cải tạo mấy ngày dành cho Hạ Sĩ Quan. Sau đó được “khoan hồng” về làm rẫy với gia đình ở Cồn Dừa.

Xã hội dưới tay đảng CSVN xuống dốc như xe hổng thắng. Ai cũng nghèo, đói, và khổ cực. Gia đình tui làm rẫy, cũng bữa đói, bữa no, nhưng đỡ hơn nhiều người. Tui lại bắn chim sẻ, vịt trời như hồi nhỏ. Tiếp tục bắt chuột đồng, bắt cá lóc hay cá trê dưới ruộng làm khô lén để dành cho những ngày mưa gió. Hai năm sau Thắm cho gia đình tui 1 tin vui là thằng con trai đầu tiên. Rồi năm sau nữa thì thằng thứ hai. Khi miếng ruộng duy nhất của gia đình bị sung công, Tía rầu rĩ sanh bệnh và ra đi năm sau đó. Mất đất trồng trọt, gia đình dọn về Ô Môn năm 1979. Vợ chồng tui làm công làm mướn bất cứ thứ gì ở chợ Ô Môn để kiếm tiền.

Đã 8 năm từ ngày rời Suối Dây, tui hổng có tin tức gì về Thiếu Úy Đức (TUĐ). Tình cờ năm 1983 khi đi mua bán đồ ở chợ Cái Răng, tui gặp Đại Úy Long (ĐUL) Quận Trưởng năm nào. ĐUL mới được thả về từ trại cải tạo trước đó 6 tháng, và còn đang bị quản chế. Đi đâu cũng phải xin phép và trình diện mỗi tuần. Thấy tình trạng ĐUL thảm quá, tui cho ổng 1 con khô mực và nửa ký gạo dấu trong sách tay. ĐUL nói là có gặp TUĐ trong tại cải tạo mùa thu năm 1977. Khoảng 2 năm sau, nghe nói là TUĐ vượt ngục rồi bị bắn chết ở gần biên giới Lào làm gương cho kẻ khác. ĐUL cũng cho biết là khi được thả, trên đường về ổng nghỉ 1 đêm tại quận lỵ ngày xưa vì không còn xe về Sài Gòn. Quận tiêu điều lắm. Tui hỏi về mấy người ở cuối quận kế bên con sông nhỏ. ĐUL nói là 2 căn nhà đó đã bỏ hoang, xiêu vẹo, không người ở. Nghe làng xóm nói là bà già (má cô Hân) đã chết và chôn trong ngôi mộ nhỏ sau nhà. Đứa con gái (cô Hân) thì biệt tăm. Hình như đã chết trôi vì người ta tìm thấy dép của cổ và cục xà bông ở bờ sông sau nhà. Tui nghe xong cảm thấy choáng váng như bị trúng gió. Hôm đó tui về nhà khóc. Vợ tui hỏi. Tui kể lại sự tình. Tội nghiệp vợ tui. Thắm làm 1 bàn thờ cho TUĐ trên nóc tủ kế bên bàn thờ của Tía và Má, và tối đó cúng 1 chén cháo trắng.

Làm ăn ở chợ Ô Môn khó khăn, gia đình tui mướn 1 miếng đất cách Ô Môn 20 cây số để trồng khoai mì và khoai lang. Tui dậy 2 đứa nhỏ làm bẫy bắt chuột đồng, làm ná bắn chim, … Vợ chồng tui thì quen cảnh nghèo rồi. Chỉ tội 2 đứa nhỏ thiếu ăn và tương lai mù mịt. Nhiều đêm nóng nực hổng ngủ được, tui cứ nhớ lại những ngày tui ở Suối Dây. Nhớ TUĐ và nhớ cả người đã cứu hai thầy trò. Chỉ biết chắc lưỡi thở dài cho người vắn số.

Sau nhiều kế hoạch kinh tế đảng CS đưa ra đều thất bại, chính quyền thả lỏng và có ý muốn đi theo kinh tế thị trường tự do. Cuộc sống dân nghèo trở nên dễ thở hơn một chút. Gia đình tui bắt đầu nuôi heo để thanh toán số khoai lang ung thúi khi bán hổng hết.
Làm sao tui quên được buồi chiều hôm ấy. Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1995, khi tui đang làm rẫy, ngăn nước không cho vào đất trồng trọt quá nhiều, thì Thắm ra rẫy gọi về nhà có khách. Khi về nhà thì thấy 2 người ăn mặc sang trọng có vẻ đàng hoàng. Tui không nhận ra người đàn bà, nhưng người đàn ông thì nhìn quen lắm. Sau vài giây ngỡ ngàng, người đàn ông nhìn tui và nói một cách ngậm ngùi trong nước mắt:

– Chú Sơn có nhận ra tôi không? … anh Đức đây?
– “Hả, … ôi trời, Thiếu Úy Đức, … ông Phó!…”; Tui trả lời khi nước mắt bắt đầu ứa ra vì quá mừng.
– Đừng gọi như vậy. Gọi là anh hay anh Đức vì chú là em của tôi mà.
– Dạ, dạ … ông Phó, à quên, … anh Đức. Tưởng là anh đã … Gia đình tui làm bàn thờ cho anh mười mấy năm nay.
– Thắm ơi, đây là anh Đức. Thằng Tân, thằng Hoàng, ra chào Bác Đức.
– Còn đây là bà xã của anh.
– “Dạ, chào chị. Dạ, chị tên gì?”; Tui hỏi.
– “Chú nhìn kỹ xem ai ? Cô Hân ở Suối Dây đó”; TUĐ trả lời.

Tui lặng cả người và đứng chết trân. Người ơn của tui bằng xương bằng thịt ngay trước mặt. Thời gian như dừng lại. Nước mắt bắt đầu chảy tràn trên mặt, và giọng nói lạc đi:
– Tui hổng có dè có ngày này… 20 năm rồi. Cám ơn anh chị … đã nhớ đến tui… Tui mừng quá. Sao … tới bây giờ anh chị mới tới ? Tui có nằm mơ hông ?
TUĐ lau nước mắt, rồi chậm rãi nói:
– Chuyện dài lắm. Sẽ kể sau. Bây giờ anh chị mời cả nhà đi ăn mừng. Tốn cả tuần đi kiếm cô chú đó.

* * *
Nghe anh kể lại chuyện trốn khỏi trại tù năm 1979, và bao nhiêu lần vượt biên hụt, tui nể quá. Chuyện chị giả chết trôi để trốn khỏi Suối Dây và những lần vượt biên bị bắt thì cũng ly kỳ quá trời. Rồi đến khúc hai người gặp lại nhau bên Mỹ, tui mừng như là chuyện của mình. Tui hãnh diện có được ông anh và bà chị dâu giỏi như vậy.

Mấy bữa sau, vợ chồng anh mướn xe đưa gia đình tui đi thăm Suối Dây. Trên đường về, có ghé Vũng Tàu tắm biển. Thấy thương bà xã và 2 đứa con tui quá. Lần đầu tiên vợ con tui được đi xe hơi, được đi ra khỏi Cần Thơ, được lên Sài Gòn, được đi Suối Dây, được ra tắm biển Vũng Tàu, được đi ăn nhà hàng, được uống nước ngọt cô ca cô la.

Trước khi về Mỹ, tui hổng dè vợ chồng anh lại giúp một số tiền lớn để mua một cửa hàng gần chợ Ô Môn buôn bán nông phẩm cho gia đình tui đỡ cực. Anh chị nói sẽ về thăm thường xuyên hơn.

Tối hôm đó tui thắp nhang cho Tía và Má. Tui thì thầm “Má ơi, Má luôn muốn là con có người anh để che chở cho con. Má ơi, điều Má muốn đã xẩy ra. Con cám ơn Tía và Má”

Như tui đã nói, cuôc đời tui như có sự an bài hay sắp xếp. Vào sanh ra tử bao lần, mà hổng sao. Duyên phận củng thẳng tắp. Khúc sau cuộc đời, cực thiệt, nhưng lại có thêm người anh nuôi và chị dâu hổ trợ. Bây giờ tui hổng có kỳ vọng nào hơn là sẽ có một ngày cái nhóm mắc dịch, khốn nạn, vô thần, vô đạo đức này tan rã cho tui nhờ và cho người dân bớt khổ.

Ngày đó chắc là phẻ re, há?

Nguyễn Vô Danh

CUỘC ĐIỆN THOẠI GỌI NHẦM SỐ

CUỘC ĐIỆN THOẠI GỌI NHẦM SỐ

Một ngày nọ, đang trên đường về nhà, chuông điện thoại di động reo lên, anh vừa bấm máy thì nghe giọng của một cô bé non nớt vang lên: 

– Ba ơi! Ba nhanh về nhà nhé, con rất nhớ ba!

Anh biết là ai đó đã gọi nhầm số, vì anh không có con gái mà chỉ có một cậu con trai mới 6 tuổi.

Chuyện này cũng không có gì làm lạ, anh lắc đầu: 

– Gọi nhầm số rồi nhé! 

Nói rồi, anh tắt máy.

Thế nhưng những ngày tiếp theo đó, số điện thoại kia vẫn tiếp tục gọi đến máy anh, anh bắt đầu thấy phiền phức, thế nên anh nhất quyết không nghe máy.

Hôm rồi, số điện thoại đó lại gọi đến hết lần này lượt khác, điều khiến anh ngạc nhiên đó là trong khi anh kiên quyết không nghe thì số điện thoại kia vẫn kiên quyết gọi cho bằng được.

Cuối cùng, anh nghe máy, vẫn là giọng của cô bé kia: 

– Ba ơi! Ba nhanh về nhé, con nhớ ba lắm. Mẹ nói con không gọi nhầm số đâu, chính là số điện thoại của ba đấy. Ba ơi con đau lắm! Mẹ nói ba rất bận nên chỉ có mình mẹ chăm sóc con, mẹ rất mệt. Ba ơi, con biết ba rất vất vả, nếu ba không về với con được thì ba hôn con qua điện thoại một lần được không ba ạ?

Yêu cầu ngây thơ của cô bé khiến anh không có cách nào từ chối…Anh hôn vào máy và thì thầm ” Ba yêu con “.

Sau đó, anh nghe thấy tiếng nói đứt quãng của cô bé qua điện thoại; 
– Con… cảm ơn… ba, con… vui… lắm, con…hạnh… phúc… lắm… ba ơi…!!!

Khi anh đang cảm thấy thú vị với cuộc gọi này thì chuông điện thoại anh lại reo lên, nhưng người gọi lần này không phải cô bé lần trước mà là giọng nói nặng trĩu của một người phụ nữ: 

– Xin lỗi anh! Mấy ngày hôm nay thật làm phiền anh nhiều, thực sự xin lỗi! Tôi tính đợi lo xong mọi chuyện cho cháu rồi mới gọi điện xin lỗi anh sau.

Con bé mà mấy lần trước gọi điện cho anh đó là con gái tôi, số nó khổ lắm, mới sinh ra đã mắc bệnh ung thư xương, không lâu sau đó ba nó lại qua đời trong một vụ tai nạn giao thông.

Tôi thực sự không dám cho nó biết bởi hàng ngày nó đều phải chịu sự dày vò đau đớn của đợt điều trị hóa chất. Mỗi lần không chịu đựng được sự đau đớn đó, miệng nó cứ gọi ba không ngừng bởi anh ấy luôn động viên nó phải mạnh mẽ vượt qua. Tôi thực sự không nỡ chứng kiến cảnh nó như thế nên liền tìm ra một số điện thoại để nói dối nó.

Nghe thế anh vội vàng hỏi người phụ nữ: 
– Vậy con bé bây giờ ra sao rồi?

Người phụ nữ nén xúc động: 
– Nó đi rồi anh à… Chắc lúc anh đã hôn nó qua điện thoại thì nó ra đi với nụ cười mãn nguyện,…Trước khi đi tay nó còn ôm chặt cái điện thoại vào lòng.

Nghe xong, anh sững người…Miệng đắng ngắt. Không biết nói gì nữa.

Cô bé giúp mọi người nhận ra tình thân vô cùng quan trọng, giúp mọi người cảm nhận được tình yêu, cảm nhận được sự ấm áp của gia đình. Thế giới vô cùng rộng lớn nhưng với cô bé chỉ là một tiếng nói yêu thương trong gia đình, Gia đình vô cùng nhỏ bé nhưng đối với cô bé, nó là cả một thế giới. 

Chỉ cần một nụ hôn của ba, cô bé đã ra đi cùng với nụ cười thanh thản, mãn nguyện.

(Sưu tầm)

From: Tu-Phung

  Tìm Vui Cuối Đời

  Tìm Vui Cuối Đời

      Mẩu đăng tìm bạn bốn phương trên báo làm bà Phượng cảm động và ngưỡng mộ : “ Người đàn ông cô đơn mỗi tuần mang hoa đến mộ phần của vợ, 70 tuổi, nhà cửa ổn định, tài chính vững vàng, tinh thần thảnh thơi, bao dung vị tha. Muốn tìm một phụ nữ 65 tuổi trở xuống để cùng nhau tìm niềm vui cuối đời.”.
      Người đàn ông tuổi xế chiều có nhà cửa và tài chính vững vàng đương nhiên là người khá gỉa lại thêm tấm lòng bao dung vị tha. Bà thú vị hào hứng nhất điều này.
      Ông chắc là người chồng tốt luôn thương yêu vợ. Bà ước gì sau này bà qua đời có một người đàn ông nào sẽ vì bà hàng tuần mang hoa đến viếng mộ vợ như thế. Vừa thắm thiết tình vừa lãng mạn biết bao.
      Bà Phượng đang cần tìm một người đàn ông có đủ hai điều kiện tình cảm và tiền bạc.
Bà hài lòng lời rao tìm bạn vì mình đúng tiêu chuẩn ông ta mong muốn và ngược lại ông ta cũng là mẫu người bà đang tìm kiếm.
      Hai người đã email qua lại và gọi phone để tìm hiểu về nhau. Ông Năng góa vợ hai năm nay, các con thì ở xa. Ông muốn tìm người phụ nữ khác để bù đắp cho bao lâu nay phải chăm sóc và chiều chuộng người vợ suốt mấy năm trời nằm liệt giường sống đời thực vật sau cơn stroke rồi mới chịu ra đi.
      Bà Phượng thì khác hoàn cảnh. Chồng bà mê bồ trẻ, bỏ bê bà. Hai vợ chồng li dị và không con cái..
      Bà muốn tìm người đàn ông tử tế, rộng lượng, cùng nhau vui hưởng hạnh phúc sau mấy năm trời cuộc sống gia đình sóng gió làm bà tiêu điều héo hon và có thêm người cùng bà trả cho hết gánh nợ nhà cửa bà đang cưu mang.
      Hai tâm hồn cô đơn khắc khoải bỗng gặp nhau cuối đường.
Sau những hình ảnh gởi trao họ hẹn ngày gặp mặt.
      Bà Phượng ở nam California , ông Năng ở tiểu bang khác sẽ bay đến Calif. và ở nhà đứa con trai. California của cộng đồng người Việt không xa lạ gì với ông.
      Địa điểm hẹn thơ mộng, là một bờ biển đẹp của thành phố Newport Beach .
      Bà Phượng đã chuẩn bị kỹ cho lần đầu hội ngộ, mái tóc nhuộm màu hung tươi trẻ, bộ váy aó gọn xinh, cái áo khóac buông lơi trên bờ vai, dĩ nhiên không thể thiếu mùi nước hoa thơm nhẹ nhàng quyến rũ. Không ai có thể tin người phụ nữ này đã 65 tuổi.
      Ông Năng đầu đội chiếc mũ kiểu Scotland cổ điển nhưng không bao giờ lỗi thời, cổ quàng khăn màu xám bên chiếc áo sơ mi màu mận chín, ông trẻ trung thanh lịch và tao nhã như một văn nhân đúng như bà Phượng đã hình dung và mơ ước.
      Nàng thơ và chàng văn cùng sánh vai đi bộ dọc theo bãi biển, gió biển lồng lộng, tiếng sóng vỗ vào ghềnh đá rì rào, mùi hương thơm từ hai phía trao nhau theo mỗi cơn gió càng làm hai trái tim thêm mơ màng say sóng dù sóng biển kia chỉ chạm nhẹ theo bước chân họ trên bãi cát mềm.
Chàng đã cầm tay nàng âu yếm hỏi:
–         Mình về với nhau nhé?
Nàng dịu dàng ngoan ngoãn như cô gái mới mười bảy tuổi:
–         Vâng ạ

***

      Ông Năng sẽ thu xếp nhà cửa để dọn về California ở chung với bà Phượng vì bà không muốn rời khỏi nơi đây. Thương yêu vợ cách mấy ông cũng đành để bà ở lại rồi thỉnh thoảng về thăm mộ phần chắc bà ấy cũng thông cảm cho.
      Bà Phượng muốn ông Năng về ở chung là có ý đồ riêng, hi vọng ông Năng sẽ giúp bà trả góp tiền nhà hàng tháng hay biết đâu ông hào hoa lịch sự móc tiền túi ra trả hết nợ cho bà thì bà sẽ hoàn toàn làm chủ căn nhà này.
      Bà Phượng nôn nao chờ đợi người mới, cuộc sống mới với bao hi vọng tràn trề. Mấy bà bạn thân của bà Phượng bàn tán:
–    Phượng muốn tìm lại hạnh phúc đánh mất từ người chồng phản bội trước kia đấy
Bà khác thì thực tế:
–     Nghe đâu ông này giàu có lắm, chắc Phượng vừa tìm người chồng, vừa tìm người phụ trả tiền nhà.
–      Ừ nhỉ, sau khi li dị Phượng lấy căn nhà, tiếp tục trả mortgage, một mình làm sao trả cho nổi.
Một bà khác lại thực tế hơn:
–     Tôi như Phượng cứ ở một mình, hoa mộng gì, tình yêu gì ở cái tuổi cuối mùa, ai cũng trở tính trở nết rồi thành “hoa cẩm chướng” của đời nhau.
      Ông Năng đã dọn đến ở với bà Phượng sau một buổi tiệc ra mắt họ hàng, con cái và bạn bè đôi bên.
      Chẳng biết nhà cửa tiền bạc ông đã tính toán và để nơi đâu, bà Phượng chưa tiện hỏi, ông đến với bà cùng chiếc xe hơi cũ mèm, ông giải thích:
–    Chiếc xe mua từ lúc mới tinh đến giờ, là kỷ niệm yêu qúy của vợ chồng anh nên dù cũ anh cũng chẳng nỡ rời.
Ông ăn ở thật có tình có nghĩa.
Bà Phượng cũng khéo léo “khoe” căn nhà tình nghĩa của mình:
– Căn nhà của em cũng thế, mua từ lúc hai vợ chồng hạnh phúc ấm êm, nay dù tình duyên gãy đổ nhưng em vẫn muốn giữ làm kỷ niệm trong đời dù hàng tháng trả mortgage cũng vất vả lắm.
Bà nhấn mạnh:
– Nay có anh về căn nhà càng có ý nghĩa đối với em.
      Khi về ở với nhau ông Năng không thể cả ngày đội chiếc mũ flat cap điệu đàng. Thì ra đầu ông bị hói nặng, từ phía trước tới đỉnh đầu không còn lấy một sợi tóc để gió có cớ thổi bay.
      Bà Phượng thất vọng nhưng nhìn ngày này qua ngày nọ thành quen và bà tự an ủi thì mái tóc mình cũng bạc và xác xơ dần. Vấn đề chính là ông Năng giàu có và bao dung kìa.
      Bà vẫn cố giữ gìn hình ảnh đẹp trước mắt ông, mỗi tháng nhuộm tóc một lần khi màu tóc bạc chớm hiện ra nơi chân tóc đường ngôi. Khi đã được chồng yêu thì nói gì chồng chẳng nghe theo.
      Họ xứng đôi vừa lứa, hai người cùng cảm thấy đủ yên vui hạnh phúc trong thời gian đầu cuộc tình còn mới mẻ .
      Chiếc xe cũ của ông Năng từ ngày về California nó thường xuyên dở chứng, nay hư cái này mai hỏng cái khác nằm ì một chỗ, lại thấy ông Năng mang ra tiệm sửa.
Bà Phượng thăm dò góp ý:
–      Anh bán xe cũ mua xe mới mà đi cho khỏe thân. Anh thấy xe của em từ ngày anh về đây có hư hỏng gì đâu. Đi gần hay đi xa em đều an tâm.
Ông trả lời cho xong:
–      Ừ.. ừ.. để anh tính .
      Nhưng ông vẫn cố xài cái xe cũ cho bằng được dù mấy lần công sửa chắc cũng bằng gía trị rẻ mạt của chiếc xe đã lỗi thời và cũ kỹ. Có khi ông Năng phải mượn xe bà Phượng.
      Bà tò mò và thắc mắc nghĩ thầm, tiền bạc của cải ông để dành làm gì mà không lấy ra xài cho những chuyện hợp lý như mua xe? con cái ông đều khá gỉa chúng đâu cần ông để của hồi môn. Hay là ông Năng chưa tin cậy bà nên vẫn giữ của phòng thân ?
      Sau một năm đời bỗng chẳng bình yên, tai họa ập đến, bà Phượng bị té ngã từ thang lầu xuống đất, vào nằm bệnh viện và về nhà với cái chân bó bột phải nằm trên giường dài hạn.

      Ông Năng chăm sóc từ miếng ăn giấc ngủ, từ thay quần áo đến giúp đỡ bà vệ sinh cá nhân.
      Trưa nay ông Năng vừa nấu xong nồi cháo thịt, đang lúi húi lục trong rổ bát tìm cái môi để múc ra một bát cháo cho nguội thì bà Phượng nũng nịu nhờ vả:
–     Anh ơi trong lúc chờ cháo nguội anh pha cho em ly trà chanh với lại thay cho em cái khăn lau tay khác đi và anh giặt nốt..…..
      Chắc lục đục trong bếp nãy giờ mới nấu xong nồi cháo, lại chưa tìm thấy cái môi nên ông Năng bực mình sỗ sàng  ngắt ngang:
–      Nấu xong nồi cháo đi tìm gia vị hành ngò tiêu ớt đã mệt cả người, chưa kịp xong  bà lại sai tiếp. Muốn có ly trà chanh thì bà phải nói hộp trà bà cất nơi nào, chanh bà để nơi đâu và đợi tôi nấu nước sôi pha trà. Bà hành tôi vừa vừa chứ.
Bà hờn mát đổi cách xưng hô:
–      Thế mà ông đã hứa sẽ yêu tôi, chiều chuộng tôi đến ngàn đời.  Ông Năng chưa hết bực, quát lên:
–     Phải, Nhưng nếu bà không nằm ăn vạ một đống như thế này..
Bà Phượng kinh ngạc và tức tưởi:
–       Ối giời ôi, ông ăn nói thô lỗ với tôi thế hả…
Nỗi lòng ông được dịp tuôn ra:
–       Tôi thế đấy. Nói thật với bà nhé, suốt năm qua chung sống với bà tôi cố giữ hình ảnh người đàn ông tao nhã, mỗi lần chúng ta sánh đôi ra ngoài đường tôi phải ăn mặc chỉnh tề, quàng khăn lên cổ, đội mũ lên đầu và ăn nói văn hoa cho bà vừa lòng, tôi ngao ngán đến tận cổ rồi.
Bà Phượng bẽ bàng:
–      Tôi đang định sau khi khỏi bệnh sẽ thưởng công ông chăm sóc tôi, mua tặng ông mấy cái khăn quàng nữa cho ông tha hồ chưng diện …
–        Thôi khỏi…người ta làm diễn viên lên sân khấu chốc lát là xong vai, còn tôi diễn cả năm trời oải lắm rồi.
–        Vậy mà tôi cứ tưởng ông mãi là người trong mộng của đời tôi.
–        Thực tế đi bà ơi, ban đầu tôi cũng nghĩ bà là nàng thơ mà tôi may mắn bắt gặp giữa đường đời. Nhìn kìa, bà nằm trên giường bệnh hơn tháng nay tóc tai xác xơ bạc thếch chưa nhuộm và khuôn mặt bơ phờ với những vết nhăn nơi khóe môi, khóe mắt…
      Bà Phượng giật mình nhớ ra mái tóc đã qúa hạn chưa nhuộm. Bà cố bào chữa:
–       Thì ai gìa mặt không có vết nhăn, đừng có thấy mấy bà tuổi từ 50, 60 trở đi mặt không có vết nhăn mà tưởng họ trẻ lâu, thẩm mỹ viện căng da cả đấy. Còn mái tóc này ư, mai mốt khỏi bệnh tôi sẽ nhuộm lại…
–       Thôi khỏi. Điều ấy không quan trọng với tôi nữa.
Bà Phượng mai mỉa :
–       Ông nhìn lại ông đi, những lần gặp gỡ đầu tiên ông đội mũ tôi nào biết ông cố tình che đi cái đầu hói. Tôi còn có tóc để chải để nhuộm đỡ hơn ông đấy.
Ông Năng thẳng thừng:
–        Ván bài lật ngửa rồi, tôi với bà bất phân thắng bại nghe.
Bà Phượng tủi thân ôm mặt khóc, ông Năng đe dọa:
–        Bà có thôi khóc đi không, đừng làm tôi điên máu thêm thì khỏi có trà chanh gì nữa, nước lạnh cũng không luôn…
–        Này… này…ông đừng có ….khoe thói vũ phu, chồng tôi khi xưa tuy có bồ bịch lăng nhăng nhưng chưa đối xử vô văn hoá với tôi đâu nhé..
–        Này..này..bà nói ai vô văn hoá, hả?hả? vợ tôi khi xưa tuy ốm đau nằm liệt giường nhưng chưa hành hạ tôi tàn khốc như bà nhé…
      Bà Phượng giảm tốc độ nức nở, không dám trách ông Năng, dù sao ông cũng đã chăm sóc bà cả tháng nay và còn tiếp tục sau mấy lần tái khám nữa. Bà vẫn cần ông, đang chiêu dụ ông một ngày nào đó sẽ cảm thông và giúp đỡ bà trả tiền nhà. Bà dịu giọng nói như an ủi ông:
–       Tôi bệnh rồi sẽ khỏi mà. Chỉ còn một tuần nữa là đủ hai tháng để tháo băng.
Ông Năng vẫn hậm hực:
–       Người gìa té ngã gãy xương chưa chết là may.Với lại ai dám bảo đảm là bà sẽ không xớn xác té ngã cầu thang hay trong phòng tắm lần nữa chứ? Tôi lại phải hầu…
–       Trời ơi, ông trù ẻo tôi đấy hả? Ông biết chiều chuộng vợ lắm mà, người đàn ông mỗi tuần mang hoa đến mộ phần vợ từng làm tôi cảm động đâu rồi?
Ông Năng cười khan:
–       Ai rảnh mà mỗi tuần đi thăm mộ vợ và tốn tiền mua hoa chứ, tiền mua bó hoa tôi  ăn tô phở cho sướng thân. Thoát được cảnh hầu hạ bà vợ nằm liệt giường, ai ngờ nay lại phải hầu hạ bà.. .
Bà Phượng được dịp vỡ òa những ấm ức bấy lâu:
–        Bây giờ tôi mới hiểu vì sao ông vẫn đi cái xe cà tàng cũ rích, chắc chắn không phải vì nhớ thương hình bóng người vợ cũ, mà vì ông hà tiện, tiền bạc để dành cho nó mục nát ra à, để về bên kia thế giới tiêu xài với ma à ?
Bà hăng máu gào thêm:
–      Về ở với tôi cái gì ông cũng xài chung xài ké. Hôm nọ mượn tiền tôi mấy trăm đồng sửa xe còn chưa trả đấy nhé
–      Nợ tôi sẽ trả, hàng tháng tôi đều đưa bà mấy trăm đồng chứ có ăn nhờ ở đậu nhà bà đâu
Bà Phượng cười khinh khỉnh:
–       Vài trăm đồng một tháng của ông chưa đủ tiền một đứa share phòng trong khi căn nhà này mỗi tháng tôi trả mortgage gần ba ngàn đồng bạc.Thế mà đăng lời rao tìm bạn vừa hoa mỹ vừa oai phong lẫm liệt nào ôm hoa đến mộ vợ, nào nhà cửa ổn định, tài chính vững vàng, tinh thần thảnh thơi, bao dung vị tha.…
Ông Năng giải thích:
–       Tôi đăng ôm hoa đến mộ vợ cho thơ mộng với cuộc đời, ý tôi  muốn nói vẫn thương người vợ cũ, những điều còn lại tôi dí dỏm cho vui chứ không có ý lừa dối ai cả. Tôi nghèo mạt rệp, nhà cửa ổn định là ở diện housing đấy, tài chính vững vàng là tiền gìa lãnh hàng tháng cho đến chết đấy, có bảo hiểm sức khỏe chẳng tốn đồng nào là tinh thần thảnh thơi vô lo đấy. Ở tuổi già không phải lệ thuộc nhờ vả con cái, với tôi thế là qúa sung sướng. Tôi chỉ nói lên sự thật tại bà qúa giàu tưởng tượng mà thôi..
–       Thế sao ông không nói huỵch toẹc ra cho tôi biết sớm.
–       Tôi tưởng sẽ gặp người tình tri kỷ, ở với nhau sẽ hiểu nhau, nhưng bà chỉ dòm ngó tìm hiểu “gia tài” của tôi làm tôi càng ngại ngùng khó nói. Thôi thì tôi với bà chắp nối không có gì ràng buộc, bây giờ không hợp nhau thì chia tay.
Bà Phượng lại gào lên:
–       À, thì ra thế, đằng nào cũng rút lui nên ông không cần che đậy sự giả dối thêm nữa. Ông thách thức tôi đấy hả? Mời ông ra khỏi nhà tôi. Mời ông ra khỏi cuộc đời tôi.
–       Bà khỏi phải đuổi tôi cũng chạy bà luôn, tôi tưởng bà là một phụ nữ đã nếm mùi khổ đau sẽ cùng tôi tìm niềm vui cuối đời, nhưng tôi đã lầm và tiếc lắm. Bà biết tôi tiếc gì không?…
–       Cuối cùng ông cũng phải tiếc tôi thôi…..
–       Tôi tiếc….. đã từ bỏ diện housing ổn định để dọn về đây ở với bà, trở về thành phố cũ tôi phải làm giấy tờ xin lại từ đầu mất nhiều công sức lắm. Bà rõ chưa…

***

     

Ông Năng trở về thành phố cũ của ông. Vài tháng sau bà Phượng đọc thấy lời rao tìm bạn bốn phương của ông lại xuất hiện trên báo, lần này ông kinh nghiệm đăng rất thực tế rõ ràng : “Người đàn ông nghèo và cô đơn luôn mơ ước có tiền để mua hoa mỗi tuần đến thăm mộ vợ, 70 tuổi, nhà ở housing, tiền gìa, medicaid đầy đủ. Muốn tìm một phụ nữ để tri kỷ, để yêu thương nhau suốt quãng đời còn lại” .
      Thôi thì bà cũng cầu mong ông Năng tìm được một người tình tri kỷ, nếu không thì cũng vớ được một bà gìa handicap hay bà nhà quê chán con chán cháu đang ăn welfare muốn tìm chồng ra ở riêng, may ra sẽ ở với nhau lâu dài.
      Còn bà, bà sẽ cho share phòng để có thêm lợi tức trả tiền nhà và yên phận sống một mình. Tìm được một tình yêu đã khó bà không mong gì tìm một lúc được cả tình lẫn tiền ở cái tuổi gìa này nữa.

Nguyễn Thị Thanh Dương. 

From: TU PHUNG  

CHUYỆN NHỎ NGÀY 4/7

CHUYỆN NHỎ NGÀY 4/7

Trong cuộc diễn hành mừng lễ Độc Lập 4/7 tại Arlington, Texas, có một cảnh sát trong đội cầm cờ danh dự bị tuột dây giày. Việc này khiến cho cả đội bối rối, vì họ không thể phá vỡ đội hình để cho một thành viên cúi xuống cột lại giày của mình, hơn nữa, người cảnh sát này lại đang cầm quốc kỳ, mà theo luật nhà binh, quốc kỳ không được phép hạ ngang xương hoặc để cho chạm đất. May sao, ngay lúc đó có một cậu bé tên là Josh chạy vụt ra và ngồi thụp xuống, cột lại dây giày cho viên cảnh sát.

Có một người trong đám khán giả chụp được tấm hình này và đăng lên mạng xã hội với lời bình như sau: ” Chúng ta cần những cậu bé như thế này trên toàn thế giới”.

Còn ông cảnh sát trưởng sở cảnh sát Arlington thì viết: ” Cám ơn Josh. Tất cả chúng ta là những người tốt. Tôi sẽ thưởng cho cậu một đồng tiền xu danh dự của cảnh sát trưởng”.

Vị cảnh sát trưởng còn nói thêm với phóng viên Yahoo Lifestyle:” Kỳ diễu hành năm tới, chúng tôi sẽ kiểm soát lại dây giày, không phải 2 lần, mà là 3 lần, để điều này sẽ không bao giờ xảy ra nữa…./. 

(Theo trang mạng Yahoo Lifestyle)

From: lucie1937 & NguyenNThu

HCD: Thưa các bạn tuy ghi là chuyện nhỏ, nhưng có lẽ chúng ta cần có nhiều chuyện nhỏ như vậy. Xưa kia tôi thường nghe nói là người Mỹ không dạy con cái ăn ngay ở thật, không có môn luân lý học trong trường, và trẻ con Mỹ thì hư đốn.

Nhưng khi sống ở Mỹ tôi mới biết là trẻ con được dạy từ li từ tí từ khi còn rất nhỏ. 

Tôi không tin rằng ở bên Tàu, ở Việt Nam, ở bên Miên…người ta dạy trẻ con tiết kiệm nước, khi thấy vòi nước rửa mặt chảy khơi khơi thì khoá lại, hay người ta dạy lấy giấy lau tay vừa đủ dùng mà thôi.

Thấy nhiều hình chụp người Hoa đi du lịch cho trẻ em ngồi “tè” ngay giữa lối đi trên phi cơ. Sau khi nhóm du khách người Hoa xuống phi cơ xong, có người chụp lại thấy rác nằm ngập lối đi trên phi cơ.

Cháu tôi chỉ lớp mẫu giáo thôi mà khi đi bỏ một miếng rác nó biết phân biệt là rác nào recycler và rác nào bỏ luôn. Nhớ một lần cho thằng cháu tôi viên kẹo khi đi chơi trong Mall, nó mở ra ăn, đi vòng vòng một lúc, bỗng nó chạy cái ào lại thùng rác. Té ra nó cầm miếng giấy bọc kẹo trong tay chờ gặp thùng rác để bỏ vào. Mấy chuyện vặt nầy tôi đâu có dạy nó học trên TV hay tablet hay do cô giáo dạy.

Các bạn có thể cho là chuyện chú bé buộc giày bên trên là phóng đại hay tưởng tượng, nó được đăng nơi đây (CBS News)
https://www.cbsnews.com/news/11-year-old-helps-officer-tie-his-shoelaces-during-fourth-of-july-parade/

Và video phỏng vấn nơi đây:
https://youtu.be/HQ-sbd7f108======

Chắc cũng có người trong nước cho tôi “đề cao” quá đáng chăng, thưa trẻ con Mỹ hư hỏng cũng có như những quốc gia khác, nhưng trẻ con ngoan nhiều hơn nhiều. Thấy rõ nhất là từ 30 năm trước chúng ta được cho biết là hư hỏng hết, thế thì tại sao nước Mỹ vẫn còn là cường quốc mọi mặt như hiện giờ.

Nhân kể thêm các bạn nghe một chuyện nhỏ nữa. Có lần tôi ngồi ăn trong một restaurant, chú dọn bàn bưng một mâm mấy chén dĩa dơ từ một bàn ăn vào bổng trợt chân làm chén dĩa rơi rổn rảng trên sàn nhà. Một chú bé khoảng 8 tuổi, còn nhỏ lắm, đang ngồi với cha mẹ vội vả chạy lại lượm chén dĩa rơi phụ với người dọn bàn. Thấy chú bé tự động giúp tôi ngạc nhiên, trong khi đó cha mẹ nó vẫn ngồi bình thản chẳng nói chi hết.

Phép màu giá bao nhiêu?

NHÌN BỨC HÌNH đấu tố thời cải cách ruộng đất ở miền Bắc giết chết gần 200 ngàn người, đã không hề có phép màu nào xảy ra với họ… và ĐỌC CÂU CHUYỆN DƯỚI ĐÂY.. 

Bạn có xót thương và căm giận ???

Bạn có bao giờ tự hỏi dân tộc VN phải chăng vì mông muội, man rợ chưa đủ lòng trắc ẩn, chưa đủ nhân ái, không có lòng tin, lòng biết ơn … nên họ không thể có phép lạ để hưởng phúc lành sống trên mảnh đất xinh đẹp đầy tiềm năng ven bờ đại dương … 
____________

Phép màu giá bao nhiêu?

Một cô bé tám tuổi nghe cha mẹ mình nói chuyện về đứa em trai nhỏ. Cô bé chỉ hiểu rằng em mình đang bị bệnh rất nặng và gia đình cô không còn tiền. Chỉ có một cuộc phẫu thuật rất tốn kém mới cứu sống được em trai cô bé, và cha mẹ em không tìm ra ai để vay tiền. Do đó, gia đình em sẽ phải dọn đến một căn nhà nhỏ hơn vì họ không đủ khả năng tiếp tục ở căn nhà hiện tại sau khi trả tiền bác sĩ.
Cô bé nghe bố nói với mẹ bằng giọng thì thầm tuyệt vọng: “Chỉ có phép màu mới cứu sống được Andrew”. Thế là cô bé vào phòng mình, kéo ra một con heo đất được giấu kỹ trong tủ. Em dốc hết đống tiền lẻ và đếm cẩn thận.
Rồi cô bé lẻn ra ngoài bằng cửa sau để đến tiệm thuốc gần đó. Em đặt toàn bộ số tiền mình có lên quầy.
Người bán thuốc hỏi: “Cháu cần gì?”
Cô bé trả lời: “Em trai của cháu bệnh rất nặng và cháu muốn mua phép màu.”
– Cháu bảo sao? – Người bán thuốc hỏi lại.
– Em cháu tên Andrew. Nó bị một căn bệnh gì đó trong đầu mà ba cháu nói chỉ có phép màu mới cứu được nó. Phép màu giá bao nhiêu ạ?
– Ở đây không bán phép màu, cháu à. Chú rất tiếc – Người bán thuốc nở nụ cười buồn và tỏ vẻ cảm thông với cô bé.
– Cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ, cháu sẽ cố tìm thêm. Chỉ cần cho cháu biết giá bao nhiêu?
Trong cửa hàng còn có một vị khách ăn mặc thanh lịch. Sau khi nghe câu chuyện, ông cúi xuống hỏi cô bé: “Em cháu cần loại phép màu gì?”
– Cháu cũng không biết nữa – Cô bé trả lời, rơm rớm nước mắt. “Nhưng em cháu rất cần phép màu đó. Nó bị bệnh nặng lắm, mẹ cháu nói rằng nó cần được phẫu thuật, và hình như phải có thêm loại phép màu gì đó nữa mới cứu được em cháu. Cháu đã lấy ra toàn bộ số tiền để dành của mình để đi tìm mua phép màu đó.”
– Cháu có bao nhiêu? – Vị khách hỏi. Cô bé trả lời vừa đủ nghe: “Một đô la mười một xu.”
Người đàn ông mỉm cười: “Ồ! Vừa đủ cho cái giá của phép màu”.
Một tay ông cầm tiền của cô bé, tay kia ông nắm tay em và nói: “Dẫn bác về nhà cháu nhé. Bác muốn gặp em trai và cha mẹ cháu. Để xem bác có loại phép màu mà em cháu cần không.”
Người đàn ông thanh lịch đó là Bác sĩ Carlton Armstrong, một phẫu thuật gia thần kinh tài năng. Ca mổ được hoàn thành mà không mất tiền, và không lâu sau Andrew đã có thể về nhà, khỏe mạnh.
Mẹ cô bé thì thầm: “Mọi chuyện diễn ra kỳ lạ như có một phép màu. Thật không thể tưởng tượng nổi. Thật là vô giá!”. Cô bé mỉm cười. Em biết chính xác phép màu giá bao nhiêu. Một đô la mười một xu, cộng với niềm tin chân thành của một đứa trẻ, và lòng tốt của người bác sĩ.
Vâng! Niềm tin, sự chân thành và lòng trắc ẩn của con người có thể khiến phép màu xảy ra!
(Sưu tầm)

Image may contain: 1 person, outdoor

LÁ THƯ TÌNH TRONG CẶP

LÁ THƯ TÌNH TRONG CẶP

   Nguyễn Thị Thanh Dương.

 

Tuấn hồi hộp đợi chờ giờ ra chơi, cuối cùng thì tiếng chuông cũng reng lên inh ỏi, thày giáo gấp sổ rời khỏi bàn cùng lúc với các học sinh nam nữ lục tục nhanh chóng chạy ra ngoài cửa lớp  Không ai muốn lãng phí phút giây nào trong giờ ra chơi cả

Trong chớp nhoáng lớp học sĩ số 40 người vắng hoe không còn ai ở lại. Tuấn chơi luẩn quẩn bên ngoài nhưng mắt luôn dáo dác ngó những người xung quanh rồi thừa cơ không ai để ý Tuấn quay trở vào lớp của mình.

Đi giữa hai dãy bàn, một bên là nam sinh một bên nữ sinh, tới bàn của Ngọc Thơ thì Tuấn giả vờ cúi xuống như đang nhặt cái gì đó, anh chàng nhanh chóng rút từ túi áo tờ giấy đã được gấp gọn gàng làm tư và nhét vội vào một chiếc cặp trong hộc bàn ngay chỗ của Ngọc Thơ.

Không ai trông thấy hành động của Tuấn, nhất là lũ con gái còn đang mải mê nhiều chuyện ngoài kia. Thế là Tuấn  khoan khoái làm bộ thản nhiên bước ra khỏi lớp.

Anh chàng đút tay vào túi quần đi bộ dưới gốc cây hoa Phương trong sân trường,  gốc cây này từng chứng kiến Tuấn đi tha thẩn giờ ra chơi và nghĩ ra mấy câu thơ được nắn nót trong lá thư tỏ tình vừa lén lút bỏ vào chiếc cặp kia

Thẩn thơ dưới gốc Phượng già,

Anh yêu em lắm nhưng mà tình câm,

Hỏi em có yêu anh không?

Trả lời anh gấp. Anh mong anh chờ.

Ký tên Tuấn  người si tình ngồi cùng dãy bàn với em và hàng ngày hóng về phía em..

Tuấn vốn nhút nhát, thấy nữ sinh nào đẹp đến gần là bối rối nói không nên lời, nên dù thầm yêu trộm nhớ Ngọc Thơ xinh đẹp suốt từ năm đệ tam đến năm nay đệ nhị mà Tuấn chưa bao giờ dám mở miệng mời Ngọc Thơ đi ăn chè chứ đừng nói tới chuyện đại sự là tỏ tình.

Hôm nay Tuấn đã chọn cách tỏ tình là bỏ bài thơ tương tư nàng vào trong ngăn cặp của nàng và ký tên, chắc nàng sẽ hiểu.

Không biết khi nhận và đọc lá thư này Ngọc Thơ sẽ phản ứng ra sao nhỉ? Tuấn căng thẳng lắm nhưng xen lẫn niềm vui hi vọng. Tuấn đẹp trai, học giỏi, mấy đứa con gái trong lớp luôn nhìn Tuấn bằng ánh mắt ngưỡng mộ lẽ nào Ngọc Thơ lại hững hờ?

Suốt giờ học còn lại Tuấn ngồi dãy bàn bên này mà luôn hướng mắt về dãy bàn nữ bên kia xem thái độ Ngọc Thơ ra sao, nàng đã thấy lá thư chưa?

Tuấn thấy Ngọc Thơ vẫn chăm chỉ nghe thày giảng bài hay thỉnh thoảng nói chuyện với Thu Diệu bên cạnh. Hai đứa này chơi thân nhau, chưa biết chừng mai mốt Ngọc Thơ sẽ kể cho Thu Diệu chuyện lá thư tình và cả lớp cùng biết thì mắc cở lắm nên Tuấn luôn để ý thái độ cả hai đứa nó

Mọi chuyện vẫn bình yên như thường ngày. Vậy là lá thư chưa được phát hiện, càng may, lát nữa về nhà Ngọc Thơ sẽ thấy lá thư  để con nhỏ nhiều chuyện Thu Diệu kia đừng xía vô.

Sáng hôm sau Tuấn đến trường với tâm trạng hồi hộp lo lắng, anh chàng thấy Ngọc Thơ nhìn chàng cười cười, nhưng lại thấy con nhỏ Thu Diệu nhìn chàng với ánh mắt…sầu thương. Ngọc Thơ cười cười vui vẻ thế kia là đắc ý với lá thư tình của Tuấn rồi, còn Thu Diệu mắc mớ gì mà mặt nó buồn sưng xỉa thế?

Thật khó hiểu? Tuấn vốn giỏi toán, giỏi suy tính mà ca toán khó này Tuấn đành chịu thua.

Thỉnh thoảng Tuấn …lén nhìn sang dãy bàn Ngọc Thơ và Thu Diệu, lại bắt gặp đứa nhìn Tuấn mỉm cười và đứa  rưng rưng buồn. Hai đứa hai tâm trạng ngược xuôi mới lạ.

Thôi , Tuấn đành chờ đợi một lá thư hồi âm .

Quả nhiên giờ ra chơi Ngọc Thơ chủ động đến bên Tuấn và rủ trưa nay tan học hai đứa ghé hàng chè đá đậu…nói chuyện.

Tuấn mừng rỡ trong lòng. Không ngờ Tuấn nhút nhát bao nhiêu Ngọc Thơ lại dạn dĩ bấy nhiêu, nó hẹn hò Tuấn ra quán chè chắc là để trả lời lá thư tình của Tuấn.

Tan học, Tuấn đúng hẹn ra hàng chè đá đậu trước sân trường, giấc này quán chè vắng tanh vì lớp sáng ra về, lớp chiều chưa tới.

Tuấn chọn một ghế ngồi chờ Ngọc Thơ., một lát sau Ngọc Thơ ra tới. May quá nó không dẫn con nhỏ Thu Diệu theo cản mũi kỳ đà, dù hai đứa này đi đâu luôn có đôi.

Tuấn thầm cám ơn người yêu của lòng đã tế nhị thật dễ thương. Ngọc Thơ gọi hai ly chè và vào chuyện:

–         Tuấn ơi, Thu Diệu không thể đến được…

Tuấn gạt phăng:

–         Khỏi cần, cứ để Thu Diệu thảnh thơi, mình nói chuyện đủ rồi.

Ngọc Thơ  quậy ly chè đậu xanh bánh lọt nước dừa cho đều và lựa lời nói:

–         Thật tình nói ra Ngọc Thơ cũng…ngại ngùng lắm, lá thư tình của Tuấn bỏ trong ngăn cặp…

Tuấn chen vào giọng run run cảm xúc:

–         Ừ, lá thư tình của Tuấn đó, mấy câu thơ của Tuấn làm đó…

–         Nhưng muộn rồi Tuấn ơi, nhỏ Thu Diệu đã thương một anh bên lớp đệ Nhất rồi…

–         Thu Diệu?

–         Chứ còn gì nữa, Tuấn đã nhét lá thư tỏ tình trong ngăn cặp của Thu Diệu, nó đưa cho Ngọc Thơ đọc rồi. Đây nè…

Ngọc Thơ mở cặp táp lôi ra tờ thư gấp làm tư của Tuấn, chìa ra trước mặt Tuấn:

–         Phải lá thư này không? Nằm trong ngăn cặp Thu Diệu đó.

Trời ơi, bây giờ thì Tuấn đã hiểu nụ cười của hai đứa, Ngọc Thơ cười cười là trêu chọc Tuấn vì biết bí mật một chuyện tình. Còn Thu Diệu buồn buồn vì nó  thương hại Tuấn, không thể đáp lại một tình yêu.

Thấy vẻ mặt thất thần của Tuấn, Ngọc Thơ ái ngại an ủi:

–         Tuấn đừng buồn, đừng thất vọng mà ảnh hưởng đến chuyện học hành nha. Phải nói lời từ chối Tuấn nhỏ Thu Diệu cũng khổ tâm lắm.

Tuấn nói nhỏ mà như gào lên:

–         Không…không…Tuấn không yêu Thu Diệu..

 Ngọc Thơ càng cuống quýt ngắt lời Tuấn và an ủi tiếp:

–         Ngọc Thơ biết mối tình si bị từ chối người ta dễ bị cú “sốc” lắm. Tuấn hãy bình tâm đừng giận hờn nói lẫy  hay oán trách Thu Diệu nữa…

Tuấn hạ giọng rên rỉ:

–         Tuần không yêu Thu Diệu, Người Tuấn yêu là…là…

Máu nhát gan lại hiện về, Tuấn ấp úng mãi mới nói được:

–         Là Ngọc Thơ đó. Tuấn yêu Ngọc Thơ…

Vừa nghe xong Ngọc Thơ đứng phắt dậy, tự ái đùng đùng:

–         Tuấn đừng có cho Ngọc Thơ…ăn đồ thừa, đồ ế nha, bị Thu Diệu từ chối rồi quay ra nói yêu Ngọc Thơ để gỡ gạc đỡ quê hả? hả? Còn lâu…

Cô nàng xách cặp ngoe nguẩy bước đi. Tuấn vụng về gọi theo:

–         Ngọc Thơ ơi còn ly chè ….

–         Biết rồi, tôi chưa trả tiền chứ gì. Tuấn trả tiền hai ly chè giùm đi, mai mốt tôi trả lại. Bữa nay tôi mời.

–         Ý Tuấn là còn ly chè đầy, Ngọc Thơ ngồi ăn chè với Tuấn và nghe Tuấn nói chuyện. Lá thư tình Tuấn đã bỏ lộn cặp Thu Diệu thay vì bỏ vào cặp Ngọc Thơ.

Lời phân bày của Tuấn lạc vào gió bay, Ngọc Thơ đã đi khỏi, nó có nghe thấy gì đâu

Tuấn nhớ lại hôm qua lúc lén bỏ lá thư tình vào cặp, vì hai cặp của Ngọc Thơ và Thu Diệu nẳm cạnh nhau trong hộc bàn và vì Tuấn hành sự vội vàng nên đã bỏ lộn.

Tuấn thấy từ xa con nhỏ Thu Diệu hiện ra đón Ngọc Thơ, chắc nãy giờ nó núp đâu đó để chờ đợi Ngọc Thơ làm sứ giả đi gặp Tuấn. Hai đứa nó chở nhau về trên chiếc xe đạp, không biết Ngọc Thơ sẽ kể lại những gì.

                 *****************

Dòng đời trôi chảy, 40 năm sau Tuấn và Ngọc Thơ tình cờ gặp lại nhau trong buổi họp mặt trường xưa tại Mỹ. Cả hai nhận ra nhau mừng vui chuyện trò hỏi thăm nhau về thày cô bè bạn .

Thu Diệu thuở đó yêu anh chàng lớp đệ nhất nhưng nàng đã nên duyên với người khác và hiện định cư ở Úc.

Vợ chồng Ngọc Thơ mới sang Mỹ định cư  vài năm nay do con cái bảo lãnh.

Tuấn thoáng  trầm ngâm:

–         Ai cũng có thời học trò để yêu thương và mộng mơ nhưng cuối cùng lấy người mình không mong mà gặp, không chờ mà đến…

Rồi Tuấn nhắc  chuyện lá thư tình ngày xưa:

–         Bây giờ tôi với Ngọc Thơ ai có phận nấy, con cháu cả rồi,  mối tình si của tôi ngày xưa đã tan vào thời gian từ lâu, nhưng tôi vẫn muốn hỏi lại, Ngọc Thơ đã tin là tôi bỏ lộn lá thư tình và người tôi yêu chính là Ngọc Thơ không?

Ngọc Thơ gật đầu:

–         Sao ngày ấy chúng mình trẻ con thế nhỉ?  lúc ở quán chè tôi quyết không tin và chảnh chọe thiếu điều muốn…táng cho Tuấn một bạt tai . Nhưng vài năm sau khi lớn khôn thêm, suy nghĩ lại thì tôi tin và đã…để mất một tình yêu.

–         Chắc là mình không duyên nợ yêu nhau

Ngọc Thơ mỉm cười:

–         Nhưng chúng ta vẫn còn duyên nợ bạn bè, gặp nhau đây thế là vui rồi, và ở phương trời kia Thu Diệu chưa bao giờ biết rằng ngày ấy Tuấn đã bỏ lộn lá thư tình vào cặp nàng. Lá thư vẫn là một hình ảnh đẹp, một kỷ niệm lãng mạn nên thơ thời học sinh của Thu Diệu.

Nguyễn Thị Thanh Dương

( July, 15, 2019)

From: Ngoc Tran & Tu-Phung

60 năm nhìn lại cuộc di cư 1954 – vĩnh biệt Hải phòng

60 năm nhìn lại cuộc di cư 1954 – vĩnh biệt Hải phòng

Trùng Dương

Kính dâng hương hồn Cậu Mợ, với lòng tri ân sâu xa.

Khi cuộc Di Cư 1954 diễn ra, tôi vừa lên 10 tuổi, đang sống với gia đình ở Hải Phòng, cái thành phố hải cảng đã trở thành chặng cuối cùng đối với hàng trăm ngàn người Việt miền Bắc muốn di cư vào Nam thay vì ở lại sống dưới sự cai trị hà khắc phi nhân bản của Việt Minh, tên gọi của những người cộng sản hồi ấy.

Cũng cái thành phố hải cảng này đã là nơi Bác sĩ Trung úy Hải quân Mỹ, Thomas A. Dooley, và vài quân nhân Mỹ đã làm việc trong suốt 11 tháng, từ giữa tháng 8 năm 1954 tới giữa tháng 5 năm 1955, để giúp dân tị nạn ổn định sức khỏe trước khi gửi họ lên tầu Mỹ di cư vào Nam. Kết quả của thời gian hoạt động này đã được Bác sĩ Dooley ghi lại trong cuốn hồi ký “Deliver Us From Evil” (“Xin cứu chúng tôi khỏi mọi sự dữ”, trích từ một câu trong Kinh Lạy Cha của tín đồ Thiên Chúa giáo) xuất bản vào năm 1956.(*) Cuốn sách, mô tả, với sự quan tâm chân thực, xót xa của một vị lương y mới ra trường, những giao tiếp của ông với dân di cư từ các vùng quê đổ về, phần lớn là những giáo dân thuộc đạo Thiên Chúa, đói rách và bệnh hoạn, và nghe kể về những cảnh huống tàn bạo ngoài sức tưởng tượng mà những người dân quê phải gánh chịu do những người cộng sản cuồng tín gây ra.

Cha mẹ tôi không có ý định di cư vào Nam. Cha mẹ tôi nguyên là con nhà nông thuộc giới điền chủ. Ông bà cùng sinh ra vào khoảng năm 1910, và lớn lên ở làng Trình Xá, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Cha tôi là con trai duy nhất trong một gia đình gồm năm chị em. Ông học lực chỉ xong được bằng tiểu học, và với tí vốn liếng học thức đó, ông được bầu làm lý trưởng, hay xã trưởng, thời vua chúa xưa là hương mục, có trách nhiệm trông coi tài sản công và tư của làng. Hồi còn nhỏ tôi nghe mẹ tôi kể chuyện là, vì ông có máu mê cờ bạc, nên có cái triện để đóng dấu trên những giấy tờ sang nhượng ruộng đất bà nội tôi nắm giữ luôn, còn cẩn thận cuốn trong ruột tượng quấn quanh bụng suốt ngày đêm cho chắc ăn, để ông không tự do bán ruộng đất của gia đình. Do đấy, mỗi lần có ai tới xin ông lý trưởng đóng nhận một sang nhượng bất động sản nào đó, ông lại phải nói với mẹ cho mượn cái triện. Có lẽ cái say mê nhất của ông là xe hơi và máy móc mà những lần ra tỉnh chơi ông đã thấy, và có để ý theo giõi việc làm ăn của một ông chú của tôi, chủ một hãng xe đò ở Hà Nội.

Tôi không nhớ ông bà quyết định dọn ra tỉnh vào năm nào, vì chỉ có ở tỉnh ông mới được thoả mãn lòng say mê máy móc xe hơi, song căn cứ vào năm và nơi sinh, là tỉnh Sơn Tây, của các anh chị kế tôi, thì có lẽ vào khoảng năm 1940 hay trước đó đôi năm. Tóm lại trong đám anh chị em 11 đứa tụi tôi thì ba người đầu sinh ở quê, năm người, trong đó có tôi là thứ bẩy, ra đời ở Sơn Tây, và ba đứa em cuối cùng sinh ở Hải Phòng. Thoạt đầu cha tôi làm công cho người ta. Dần dà ông tậu được một cái xe chở hành khách, dậy anh Cả và vài người cháu trai đồng lứa học lái, sửa xe và đi theo làm lơ xe. Có lần, mẹ tôi kể, chiếc xe đò của ông bị quân đội Pháp trưng dụng đi sang tận bên Miên, Lào mà mẹ tôi không được tin tức gì tới hai tuần, cuối cùng ông vể kể chuyện bà mới hay. Ông làm ăn vất vả nuôi một bầy con lúc nhúc. Cũng nhờ sự chịu khó cần cù của ông mà hồi xẩy ra nạn đói năm 1945 giết chết cả triệu người miền Bắc, gia đình tôi lớn bé không có ai bị thiếu ăn cả.

Trí nhớ của tôi bắt đầu ghi nhận được là lúc gia đình tôi đã dọn xuống Hải Phòng, có lẽ vào cuối thập niên 1940. Nhỏ nên không biết gì về tình hình chiến sự sôi động hồi ấy, nhưng tôi nhớ có lần anh lơ xe hớt hải chạy về giữa ban ngay, nói không ra hơi, báo với cha tôi, vỏn vẹn, “Ông ơi, xe bị mìn lật rồi!” Cha tôi lặng người chết đứng, mẹ tôi ngưng mọi việc đang làm thất thần nhìn cha tôi, trong khi lũ nhỏ chúng tôi biết đã tới lúc đi chỗ khác chơi.

Cha tôi, như nhiều người Việt khác, là người có khả năng sinh tồn mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại và bất hạnh của đời sống để lo cho gia đình. Vào các năm trước cái gọi là Chiến thắng Điện Biên Phủ, rồi tiếp theo là việc ký kết Hiệp định Genève vào mùa hè năm 1954 giữa Pháp, chính phủ Bắc Việt của Hồ Chí Minh, Lào, Trung Cộng, Liên Xô và Anh (Hoa Kỳ từ chối không ký, còn chính phủ Nam Việt Nam không nằm trong những phe ký nên không chấp nhận Hiệp định đình chiến này) được ký kết, cha tôi đã làm chủ một hãng xe chở hành khách gồm cả xe đò và xe nhỏ, hình như hiệu Citroen, không rõ tại sao gọi là xe lô-ca-xông, tôi đoán từ chữ “location”, ngược xuôi các tuyến đường Hà Nội – Hải Dương – Kiến An – Hải Phòng và Hải Phòng – Đồ Sơn, tôi nhớ đại khái thế. Hãng xe của cha tôi tên là Đông Bình, nên người ta hay gọi cha mẹ tôi là Ông Bà Đông Bình, chúng tôi là con Ông Bà Đông Bình. Tôi không bao giờ có dịp hỏi tại sao ông chọn tên đó, nhưng nghĩ có lẽ đó là do khao khát được nhìn thấy hoà bình trên giải đất dọc theo bờ biển Thái Bình Dương lâu nay chiến tranh triền miên này. Hai người anh họ con mấy bà bác ruột của tôi cũng mỗi người được cha tôi nâng đỡ tậu được một hay hai xe chở hành khách, tự đặt tên là Bắc Bình và Nam Bình. Tôi không rõ vì sao cha tôi không nghĩ tới việc mua bất động sản, mà suốt thời gian sống ở Hải Phòng ông thuê nhà chứ không mua. Tôi còn nhớ ngôi nhà chúng tôi ở trước khi di cư vào Nam là ở số 3 Ngõ Nghĩa Lợi, một đầu ngõ gặp đường Cát Dài, và đầu bên kia đụng một đường rầy xe lửa nằm bên cạnh một hồ sen mà hình ảnh vẫn còn in trong trí nhớ tôi, mà loài sen là hoa tôi rất thích. Không mua nhà đất có lẽ vì cha tôi thấy không cần thiết vì ông chắc chắn sẽ thừa hưởng nhiều ruộng đất để lại của bà Nội tôi khi bà qua đời.

Vào những ngày trước khi kết thúc cuộc chiến mà sách vở gọi là Cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) và nhiều người trong chúng ta cho là không cần thiết vì sau Đệ nhị Thế chiến đa số các nước thuộc địa đều lần lượt trước sau lấy lại được độc lập mà không cần đổ máu, tin dữ từ nhà quê ra: Bà Nội tôi bị chết sau khi bị trúng một mảnh mọc chê vào đầu trong khi đang trốn dưới một cái phản gỗ vào một đêm nọ. Bà tôi chết khi được 84 tuổi, tuy già nua nhưng cụ còn khá minh mẫn. Mỗi lần nhớ đến Bà Nội thì tôi không thể không nhớ tới một lần về quê ăn Tết, tôi ở miết bên nhà ông cậu ruột vì ở đó có các người em họ cỡ tuổi tôi hay lớn hơn. Đến giờ đi ngủ, bà tôi lụm cụm tay xách cây đèn dầu tay chống gậy sang đón về nhưng tôi không chịu về. Tôi sợ những nét già nua nhăn nheo của bà một phần, nhưng sợ nhất là cái quan tài bằng gỗ sơn đỏ bà sắm sẵn để trong cái gian đầu nhà chuyên để chứa thóc gạo và các đồ lỉnh kỉnh khác.

Hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, chia cắt Việt Nam làm hai, miền Bắc do Việt Minh cai trị, miền Nam sau đó trở thành một quốc gia mới. Người dân hai miền có 300 ngày để chọn nơi mình muốn sinh sống. Quê tôi là một trong những vùng được Việt Minh tiếp thu sớm nhất vào cuối năm 1954. Cha tôi quyết định gửi vợ chồng anh Cả và đứa con gái đầu lòng mới được mấy tháng về nhà quê sống. Cùng đi với anh chị Cả là anh Sáu, tôi và thằng em Chín. Như nhiều chủ gia đình Việt xưa, cha tôi ít khi giải thích lý do ông có một quyết định nào đó, hoặc có thì ông cũng chỉ bàn với anh Cả, vì khi viết bài này tôi hỏi Chị Năm, người chị kế tôi, chị cũng nói không rõ tại sao cha tôi quyết định gửi một số con về quê ngay sau khi đình chiến. Tôi suy đoán là thứ nhất, anh Cả hồi ấy bị động viên, đã mặc đồ lính (tôi còn nhớ, mặc dù hồi ấy chỉ mới 9, 10 tuổi, đã trố mắt trước vẻ đẹp trai khác thường của ông anh trong bộ quân phục mầu rêu khít khao với thân hình và cái nón chào mào cùng mầu), có lẽ là bỏ ngũ về quê sống, có thể là do ý muốn của cha mẹ tôi vì lo cho cậu con cả. Ngoài ra, có thể cha tôi, cũng như đa số người Việt ở thành thị hồi ấy chưa biết gì về hậu quả của các cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu đã và đang diễn ra ở các làng quê nhưng chưa về tới làng tôi, nên ông gửi một số con về quê để tiện thể trông nom ruộng đất chăng.

Chúng tôi về quê sống được vài tháng vào cuối hè và đầu thu, thì một bữa chị Năm, hồi ấy mới 14 tuổi song tính nhanh nhẹn nên được cha tôi tin cậy giao phó việc đi đi về về đem tiền bạc và thông tin, được cha tôi gửi về bảo thu xếp về Hải Phòng để đi Nam. Để tránh nghi ngờ là có ý định đi Nam và có thể bị bao vây giữ lại, khi ra tới Hà Nội, lúc ấy cũng đã được tiếp thu, chúng tôi phải giả bộ như sẽ sinh sống ở đó, bằng cách thuê một căn phòng nguyên là lớp học ở trong một nữ tu viện và trường học mà hầu hết nhân sự đã di cư, nằm trên đường Hai Bà Trưng, để ở ít tuần. Anh Sáu và thằng Chín thì đã theo chị Năm về Hải Phòng trước, còn tôi ở lại với gia đình anh chị Cả để giúp trông con cho chị. Để cho màn trình diễn có vẻ thực hơn, tôi còn được ghi danh đi học lớp ba hay tư ở một trường công tại đây. Tất nhiên vì là con nít nên tôi không được cho biết các mưu tính đó của các người lớn.

Khi chúng tôi chuẩn bị đi Hải Phòng thì tôi được người lớn dặn dò là nếu có ai hỏi đi Hải Phòng làm gì thì nói là đi thăm người nhà sắp đi Nam để khuyên họ ở lại, đừng đi Nam nữa vì nước nhà đã độc lập tự do. Ngoài ra, riêng tôi còn được giao thêm một việc nữa, đó là khi các cán bộ Việt Minh sắp khám đến chị Cả đang bế cháu bé thì tôi phải tìm cách… cấu vào đùi con bé thật mạnh để nó phải khóc ré lên và chị Cả sẽ đưa nó cho tôi bảo bế ra ngoài. Thế nhưng chính việc đó lại làm cho người nữ cán bộ khám chị Cả càng sinh nghi, túm tôi lại và lột lấy hai chiếc giầy trên chân con cháu, lôi ra và tịch thu hai cọc giấy bạc tiền Đông Dương còn mới tinh. Tuy thế, chúng tôi sau đó cũng được phép lên xe đi Hải Phòng, chỉ có mớ tiền ở lại. Của đi thay người, chị tôi ứa nước mắt suýt xoa tiếc của song tự an ủi. Lúc ấy chúng tôi hoàn toàn không biết tới những cảnh tìm đường vượt thoát vô cùng thương tâm của bao nhiêu ngàn con người muốn tìm đường tới Hải Phòng, một thành phố đang hấp hối song vẫn còn là nơi còn cho họ cái hy vọng tới được Đường tới Tự Do – Passage to Freedom – như tên Chiến dịch Đường Tới Tự Do do Hải Quân Hoa Kỳ đảm trách, bên cạnh Pháp và Anh lo phần chuyên chở người vào Nam bằng máy bay.(**)

Nếu trong cuộc Di cư 1975 và sau đó, câu hỏi của hầu hết người Việt ở Miền Nam, trong một cái xã hội vô vọng mà “đến cả cái cột đèn nếu biết đi thì cũng tìm cách đi”, là làm sao để đi; thì ở thời điểm 1954 tình thế phức tạp hơn, và câu hỏi lớn nhất của họ là nên đi hay ở. Trước hết, một trong những điều khoản của Hiệp định Genève là hai năm nữa, vào năm 1956, sẽ có một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước và người dân hai miền Nam Bắc tự định đoạt lấy thể chế chính trị thích hợp. Đây chính là điều đã, theo tôi, khiến nhiều người dân miền Bắc quyết định ở lại để chờ cái ngày không bao giờ đến đó, một phần cũng vì quá mệt mỏi với chiến tranh và muốn thấy hoà bình bằng mọi giá, và cũng vì tiếc của, bên cạnh ảnh hưởng bởi một chiến dịch tuyên truyền ráo riết của Việt Minh. Tuyên truyền và cả dọa nạt, nhất là đối với dân quê, rằng tầu “há mồm” của Mỹ sẽ đưa họ ra biển rồi mở cái cổng mồm đó và trút họ xuống biển, hoặc thủy thủ Mỹ sẽ nướng con nít ăn thịt nếu đến với họ, vv. Và thứ hai là dạo ấy chỉ có một số ít nghe biết, chứng nhân thì lại càng ít hơn, được những cuộc tàn sát giết hại và đầy đọa những người không cùng chính kiến của người cộng sản.

Cha tôi, tôi nghĩ, thuộc loại người đã quá mệt mỏi với chiến tranh, muốn tin vào cái viễn ảnh tổng tuyển cử năm 1956, và nhất là tiếc của, của do ông đã tốn bao mồ hôi nước mắt tạo dựng nên và đất đai mà ông tưởng là sẽ được thừa hưởng của bà tôi. Tuy vậy, ông cũng còn bán tín bán nghi, chưa quyết sẽ có di cư hay không. Và có lẽ để cho dễ dàng quyết định vào phút chót, cha tôi bảo anh Cả đem gia đình anh và một số các em vào Nam, trong đó có chị Ba, chị Năm, anh Sáu và tôi.

Nghe biết sẽ phải đi Nam với chúng tôi, chị Ba khóc lóc thú nhận đang yêu anh Tuấn và muốn được cha tôi chấp thuận cho lấy anh, mà gia đình anh Tuấn thì đã nhất định ở lại. Chị Ba là người đẹp nhất trong đám sáu chị em gái chúng tôi, và khá tân tiến: chị là người đầu tiên trong gia đình tôi đi uốn tóc, và chị còn học chơi đàn guitar nữa. Tôi hay ngồi xem chị gẩy đàn và hát bài “Dư âm”, có lẽ là bài chị chọn để học đánh đàn, nên tôi rất nhớ bài đó vì nghe tới nghe lui. Cha tôi tất nhiên là rất tức giận vì bị đẩy vào một trường hợp khó xử: trước khi chấp thuận cho chị Ba lấy anh Tuấn, ông lại còn phải xin từ hôn với gia đình anh Nhân, là người đã làm đám hỏi với chị Ba, chỉ chờ ngày cưới. Việc chị Ba từ hôn vậy mà cũng thành một tin trên một tờ báo địa phương, tôi còn nhớ đã đọc được. Dù vậy, chị Ba cuối cùng cũng được toại nguyện: lấy chồng trong một đám cưới chạy tang rất đơn sơ, vì bên gia đình chồng đang có tang. Nghe nói chị bị mẹ chồng đối xử không tốt. Nhiều năm tháng sau đó, tôi được đọc mấy cái bưu thiếp chị gửi vào xin một chiếc xe đạp. Tôi không nhớ lời yêu cầu của chị có được đáp ứng. Chị đã qua đời vì bệnh tiểu đường cách đây gần hai thập niên.

Khác với đa số người di cư 1954 đáp tầu Mỹ, chúng tôi được di tản bằng máy bay do Pháp cung cấp. Đó là vào một ngày tháng 3 năm 1955, và đấy là lần đầu tiên tôi được đi máy bay, nên bụng dạ làm reo, ói lên ói xuống, ngồi trên xe GMC chở từ phi trường Tân Sơn Nhất đến nhà ông chú ở đường Phan Đình Phùng để tá túc tạm, tôi vẫn còn ói. Chúng tôi vừa mới ổn định chỗ ở tại một căn nhà gỗ, không có cầu tiêu riêng, thuê được ở bên Khánh Hội chưa được bao lâu thì có thư của cha tôi nói ông đã quyết định ở lại, bảo mấy anh em ở trong Nam tự lo liệu lấy. Tôi khóc xưng cả mắt, nghĩ từ đây sẽ không còn gặp lại cha mẹ và các em, nhất là Tám, cô em thua tôi hai tuổi song hai đứa rất gần nhau từ hồi nhỏ. Chị Năm mới 15 tuổi, phải khai gian lên hai tuổi để xin đi làm sau khi học lấy được cái bằng đánh máy, rồi sau đó vừa đi làm vừa đi học thêm tiếng Anh. Anh Cả thì mướn xe taxi chở khách, trong khi chị Cả đi buôn quần áo từ trong Chợ Lớn rồi thuê sạp ở chợ bán lại. Anh Sáu và tôi còn nhỏ, 12 và 10 tuổi, nên được đi học.

Tôi làm quen với đời sống của vùng đất mới có tên là Sài Gòn, thấy cái gì cũng lạ. Một vài chi tiết mà tôi thấy ngộ nghĩnh, nói lên đặc tính dễ dãi và sởi lởi của người Miền Nam: Đi mua đồ giá năm cắc, tức 50 xu, đưa tờ giấy một đồng, người bán hàng thản nhiên xé tờ giấy bạc làm đôi cái rẹt, đưa trả lại mình một nửa. Tôi thích lối làm bánh mì của miền Nam, đầy tính sáng tạo: ngoài thịt nguội hay ba tê còn có đồ chua, ngò và dưa leo, mà ở bên Mỹ bây giờ chúng ta gọi là Vietnamese sandwich.

Nhưng cái tôi thích nhất của Miền Nam là vô số truyện bằng tranh, một loại sách không thấy ở miền Bắc, và những nhà cho thuê truyện, thay thế cho những thư viện công cộng không hiện hữu ở Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung. Miền Nam, từ đấy, mở ra không biết bao nhiêu là cơ hội, so với Miền Bắc sau ngày bức màn tre buông xuống. Kể từ ngày bắt đầu cầm bút sáng tác, đặc biệt sau khi đọc cuốn sách “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc” của Hoàng Văn Chí (***), tôi thường cố thử hình dung mình sẽ ra thể nào nếu lớn lên ở Miền Bắc. Có lẽ, giống như một nhà phê bình Miền Bắc nói vài năm trở lại đây, rằng nếu họ được sống ở Miền Nam thì họ cũng sáng tác nên những tác phẩm đâu thua của văn nghệ sĩ của Miền Nam, và ngược lại.

Thế rồi đùng một cái, lại có thư của cha tôi nói quyết định đi Nam. Lúc bấy giờ đã gần tới ngày Việt Minh tiếp thu Hải Phòng. Nhà của cha mẹ tôi cũng là nơi các người thân trong họ từ làng quê, mượn lý do “đi Hải Phòng khuyên người thân ở lại vì nước nhà đã độc lập tự do” để xin giấy thông hành di chuyển, tới ở tạm trong khi chờ ngày lên tầu đi Nam. Cha mẹ tôi chắc đã nghe không thiếu các thảm cảnh cải cách ruộng đất và địa chủ bị đấu tố và xử tử ở các vùng quê, bên cạnh các chuyện cấm đạo, giáo dân bị buộc đi học tập chính trị vào đúng lúc có Thánh Lễ, các giáo sĩ bị tra tấn, hành hung. Một trong những chuyện kinh hoàng nhất là việc một ông linh mục bị Việt Minh đóng bẩy cây đinh xung quanh đầu giả làm mão gai, được vài giáo dân chở tới trại tạm trú ở Hải Phòng dưới sự điều động của Bác sĩ Dooley để nhờ ông cứu chữa.(****)

Thấy không thể ở lại được nữa, cha mẹ tôi bán tống bán tháo tài sản để đi Nam, bằng lòng nhận vàng thay vì tiền mặt, hồi ấy là tiền Đông Dương có in hình ông Bảo Đại. Những gì không bán được hay muốn giữ lại thì giao cho chị Tý, đã ở với gia đình tôi được vài năm để nuôi em gái út của tôi, đi theo tầu Mỹ chở vào Nam, cùng với anh Tư và Út, cận ngày Hải Phòng đóng cửa. Tóm lại, gia đình tôi tổng cộng gần hai chục người thì chia nhau đi Nam thành bốn đợt, kể cả đợt chị Hai theo chồng lúc ấy có quốc tịch Pháp di cư vào Đà Nẵng trước mọi người trong gia đình.

Khi cha mẹ tôi đem vàng đi bán, định để mua một căn nhà để gia đình an cư và lo chuyện xây dựng lại cuộc đời thì khám phá ra là toàn vàng giả. Tôi có thể hình dung ra nỗi đau đớn của ông bà khi ở tuổi ngoài 40, chợt thấy hai bàn tay trắng, với một lũ con mà phần lớn còn nhỏ, tại một vùng đất lạ hoắc.

Dù vậy, tôi không hề nghe ông bà than phiền hay nuối tiếc đã bỏ mọi thứ để đem anh chị em tôi đi Nam. Tôi sẽ mãi mãi ghi ơn ông bà đã chọn lựa Miền Nam làm nơi cho anh chị em tôi lớn lên, trong một không khí tự do dù là tương đối. Chỉ tiếc là 20 năm sau, chúng tôi lại phải đối đầu với thêm một lần bỏ cửa bỏ nhà ra đi tới những nơi còn xa hơn từ Bắc vào Nam, tuốt tận bên kia đại dương nghìn trùng. Và không đứa nào trong vài anh chị em chúng tôi đi thoát được khỏi Việt Nam vào những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975 đã đem theo được cha mẹ già. Cha tôi không muốn đi, nói đã lớn tuổi, rằng ông không dính dáng gì tới chính quyền Cộng Hoà hay Mỹ, nên chẳng lo, và có lẽ cũng không muốn nhờ và con cái. Mẹ tôi thì rất muốn đi khỏi Việt Nam, nhưng thấy cha tôi không muốn đi nên cũng lặng lẽ gạt nước mắt nhìn chúng tôi lần lượt biến mất khỏi cuộc đời bà.

Mẹ tôi mất khoảng một năm sau ngày Sàigòn thất thủ, có lẽ vì bị tim. Cha tôi nể lời con cái bằng lòng đi Mỹ đoàn tụ vào đầu năm 1983, nhưng cũng chỉ sống được tám tháng thì qua đời, vì bệnh một phần, song có lẽ vì cảm thấy quá cô quạnh. [TD, 2014/07]

Chú thích:

(*) Thomas A. Dooley, M.D., Deliver Us From Evil – The Story of Viet Nam’s Flight to Freedom, New York: Farrar, Straus and Cudahy, 1956, có thể tải xuống toàn bộ cuốn sách tại https://archive.org/details/deliverusfromevi006715mbp. Cuốn sách đã được chính phủ Mỹ hồi ấy dùng vào chiến dịch tuyên truyền chống Cộng của thập niên 1950 và 1960. Cũng do đấy mà có nhiều người Mỹ, kể cả giới học giả, thuộc phong trào chống cuộc chiến tại Việt Nam vào thập niêm 1960, đã kết luận, hoặc để biện minh cho khuynh hướng chính trị hay hành động chống đối nào đó của mình, rằng ông Dooley đã thiện lệch vì làm việc cho cơ quan tình báo Mỹ CIA dạo ấy. Có lời phê bình còn độc địa hơn cho rằng những chuyện trong sách hoàn toàn bịa đặt cho chủ đích tuyên truyền của chính quyền Mỹ.

(**) Xem “60 Năm Cuộc Di Cư Lịch sử 1954, đọc ‘Chiến dịch Đường Tới Tự Do’,”http://www.diendantheky.net/2014/07/trung-duong-60-nam-sau-cuoc-di-cu-lich.html

(***) Hoàng Văn Chí, Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9495&rb=08

(****) Deliver Us From Evil, trang 198; và “Viet Nam: The Lesson of Seven Nails,” Time, 21 tháng 2, 1955, http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,892973,00.html

Hình ảnh:

 

Bản đồ về hành trình của mỗi chuyến tầu do Hải Quân Hoa Kỳ đảm trách chở người di cư từ Hải Phòng vào Sàigòn trong cuộc di cư năm 1954-55. (Hình National Geographic, số tháng 6-1955) 

 

Các người di cư đang được giúp lên chiếc máy bay của Không Quân Pháp để di cư vào Nam. Cô bé ở góc phải có lẽ cỡ tuổi tôi khi tôi cùng một số người trong gia đình di cư vào Nam cũng bằng một chuyến bay tương tự. (Ảnh National Geographic, số tháng 6-5-1955)

Các thủy thủ trên chiếc tầu Hoa Kỳ USS Bayfield cầm biểu ngữ chào mừng đoàn người di cư

 

Hàng ngàn người được tầu đổ bộ của Pháp đón vớt từ các nơi dọc theo bờ biển Băc Việt Nam đang chờ lên tầu Mỹ USS Montague để di cư vào Nam

 

Xuống bến Sàigòn để bắt đầu một cuộc đời mới và tự do. (Ảnh U.S. Navy) Theo Ronald B. Frankum, Jr., tác giả “Operation Passage to Freedom – The United States Navy in Vietnam, 1954-1955” (Texas Tech University Press, Lubbock, Texas, 2007), cuộc di cư vĩ đại này có sự tham dự của 115 chiến hạm và các loại tầu lớn, nhỏ khác của Mỹ, và đã chuyên chở trên 310,000 người trong số 800,786 tổng số người di cư cho tới tháng 5 năm 1955, kể cả dân lẫn quân sự, từ Bắc vào Nam. Số còn lại do các cơ quan của chính phủ Việt, Pháp và Anh đảm trách, bằng phương tiện vừa tầu thủy vừa máy bay. Ngoài ra, có khoảng trên 40,000 người tự túc bằng các phương tiện riêng. Số người bị Việt Minh ngăn cản bằng mọi cách, kể cả đe dọa và hành hung, không cho tới được Hải Phòng để đáp tầu vào Nam ước tính lên tới nhiều chục ngàn người.

BÀ CỐ

BÀ CỐ

Ở cái chợ cá này ai mà chẳng biết bà có thằng con trai đi tu. Mà hình như nó làm thầy rồi. Bữa trước thấy bà mặc áo dài thật đẹp đi lễ khấn nó thì phải? Ai mà chẳng gọi bà bằng giọng điệu kính nể: “Bà Cố!”. Lúc đầu bà cũng ngài ngại. “Cố gì, cứ gọi bà Hai được rồi. Bà Hai bán cá!” Lâu dần bà cũng quen. Gọi: “Bà Cố” nghe cũng hay hay.

***

Kể từ sau ngày đi lễ khấn con về, bà vui hẳn. Bà hãnh diện nơi chốn đông người. Ngẩng cao đầu trong mỗi Thánh lễ. “Dù gì con ta cũng là tu sĩ tu sọt chứ bộ” – Bà nghĩ thầm vậy. Nhưng dù cho có một chút hãnh diện về thằng con trai, bà vẫn cứ lo sợ. 

Người đời nói đi tu khó lắm chứ đâu phải dễ. Làm bà cố lại càng khó. Bà sợ lòng người nham hiểm. Bữa trước kìa, mới đây thôi, nhà ông Năm xóm trên chứ đâu xa. Chỉ vì cái hàng rào nhà bên xây lấn qua sân, ông qua phân bua phải trái với họ. Chưa nói được câu nào đã bị chửi sang sảng vào mặt: “Tưởng làm ông cố mà tui nể hả. Ông thuộc về cái dạng quá cố thì có. Mang tiếng có con làm cha mà sống không biết điều.” Nghe đến đó, ông Năm lầm lũi về nhà, mặt buồn rười rượi. Người nhà nói ông bệnh liệt giường cả tuần.

***

Hằng ngày bà vẫn phải dậy từ hai ba giờ sáng đi lấy cá ở chợ đầu mối về bán. Công việc cũng mấy chục năm rồi. Từ cái hồi bà còn con gái. Lấy chồng, chồng chết, để lại cho bà hai đứa con, một trai, một gái. Đứa con gái lầm lỡ chửa hoang, trốn biệt tăm mấy năm rồi cũng về lại ở chung với bà, đem về thêm một thằng nhóc. Bà nói: “Kệ, người ta nói gì cũng được, về đây má nuôi hai mẹ con.”  Mọi sự bà trông mong vào cậu con trai. Hi vọng nó sẽ làm chỗ dựa cho bà khi tuổi già xế bóng.

Bà kể hồi đó có mấy cha về làm Tuần Đại Phúc ở nhà thờ, ghé thăm vì nhà bà thuộc những hộ nghèo. Không biết các cha nói gì mà thằng nhỏ bỏ bà cái rụp. 

– Má, con đi tu nha! Con đi tu, mai mốt má được làm bà cố. Bà cố bán cá!

Bà gật đầu. Hai mẹ con cùng cười. Có cái gì đó vui lắm trong lòng bà không tả được.

 ***

Bẵng đi mấy năm, cậu con trai về. 

– Má, tuần sau con khấn rồi, má với chị hai đi lễ của con. 

Ngoài chợ biết chuyện, nhiều người đến chia vui, nói đùa: “Con chào Bà Cố ạ!” Bà đỏ mặt, không giấu được niềm hạnh phúc dâng tràn qua ánh mắt.

Từ sau ngày khấn của con bà thay đổi hẳn. Bà siêng đi lễ hơn. Vì sợ miệng đời nói bà cố gì mà chẳng đạo đức tí nào. Bà bán cá không dám lời nhiều. Vì sợ miệng đời nói bà cố gì mà bán cắt cổ. Bà không dám to tiếng với ai. Vì sợ miệng đời nói bà cố phải nhỏ nhẹ chứ… “Bà Cố” nghe thấy cũng thích nhưng mang được nó sao nặng nề quá. Cũng vì con, bà chấp nhận tất cả. Đứa con gái thấy mẹ mệt mỏi, bực mình nói: “Thằng út đi tu chứ má có đi tu đâu mà chịu khổ dữ vậy!” Bà nghĩ, con đi tu thì mình cũng tu theo con chứ còn gì. Đời bà giờ chỉ trông mong vào thằng con. Bà không cầu xin Chúa điều gì ngoài cầu xin cho con bà có ơn bền đỗ trong ơn gọi

***

Đang bán hàng, bà nghe tiếng đứa con gái oang oang: “Thằng út nó về thăm má ở nhà kìa, má về đi. Để đó con bán cho.” Bà chạy về thật nhanh như vớ được phải vàng. Mà cũng lâu lắm nó mới về thăm bà chứ có phải thường xuyên đâu.

Bước vào nhà, bỏ cái nón lá xuống đất, vừa nhìn thấy con trai, linh tính của một người mẹ nhắc bảo có chuyện chẳng lành. 

– Nhà Dòng cho con về rồi má – cậu con trai lên tiếng.

Chẳng kịp để bà phản ứng, cậu nói tiếp: “Má có tin con không?”

Bà gật đầu. Má tin.

***

Rồi cậu lại đi.

– Con đi đâu?

– Con đi để không phụ lòng tin của má.

***

Ở cái chợ này là thế. Việc tốt chẳng thấy nói tới nhưng hễ nhà nào có chuyện chẳng lành là lan còn nhanh hơn cả in-tơ-nét. Mà cái chuyện của nhà bà, chuyện thằng con trai của bà có phải chuyện nhỏ nhoi gì đâu. “Đi tu mà còn mê gái! Phải chi nó mê con nhỏ nào đẹp đẹp. Bữa tao thấy rồi, con nhỏ đó xấu quắc hà! Nghe đâu ổng làm cho con nhỏ có bầu. Giờ nhà Dòng đuổi rồi. Thiệt nhục hết sức.”

Bà chẳng còn vui vẻ bán cá như thường lệ kể từ ngày ấy. Bà cũng không thể yên tĩnh được giây phút nào khi ở nhà. Đâu đâu người ta cũng bàn ra bàn vào, nói tới nói lui, nói bóng nói gió. Mà cũng có khi nói thẳng vào mặt: “Bà Hai, thằng con bà tu được tui cắm đầu xuống đất!”

Mới ngày nào người ta còn gọi bà bằng cái danh hiệu rất cao cả “Bà Cố!” Ấy vậy mà mọi việc đến quá nhanh. Bà dường như không hiểu chuyện gì đã xảy ra cho thằng con của bà và cho cả bà. 

Lầm lũi. Ít nói. Hiếm lắm người ta mới thấy bà cười với thằng cháu ngoại.

***

Mười lăm năm kể từ ngày đứa con trai về thăm bà, cũng là mười lăm năm bà chờ đợi. Mười lăm năm chưa phải là quá dài nhưng cũng đủ khiến cho tóc bà bạc trắng, lưng còng, mắt mờ và nhất là bà không thể đi bởi căn bệnh thấp khớp hành hạ. Mười lăm năm người ta vẫn nói tới nói lui như chuyện vừa hôm qua: “Thằng đó còn mặt mũi nào nữa mà về đây. Hại con người ta có bầu giờ phải chịu trách nhiệm chứ sao.”

Đứa con gái thay bà bán cá ngoài chợ. Bà ở nhà, ngồi xe lăn. Khi nào thằng cháu ngoại rảnh rang việc học thì đẩy bà đi vài vòng cho đổi không khí. Còn không thì suốt ngày bà chỉ quanh quẩn trong căn phòng kín như bưng, hôi hám. Lâu rồi người ta không gọi bà là “Bà Cố” nữa, mà gọi “Bà Hai Xe Lăn”. Mà hình như bà cũng quên cái danh hiệu đó rồi thì phải.

***

Rồi cậu con trai cũng về.

Nhìn thấy mẹ, cậu tựa đầu vào ngực mẹ mà khóc: “Má giận con lắm hả?” Bà cũng khóc theo con. 

– Tháng sau con được làm linh mục rồi.

Cậu nhìn thẳng vào mắt mẹ mà nói. Bà ôm đầu con. Hai mắt ráo hoảnh.

 ***

Rồi cái ngày con bà bước lên Bàn Thánh cũng đến. Người ta đẩy bà trên xe lăn lên gian cung thánh để trao áo lễ cho Tân Linh Mục. Đâu đó ở phía sau thì thầm: “Nhìn bà cố tội quá!”

Mọi người quy tụ quanh bà, quanh Tân Linh Mục reo hò, chúc mừng. Mấy bà bán cá trong chợ cũng bao quanh: “Chúc mừng bà cố!”

Bà trả lời nhỏ nhẹ như khẽ, như gió thoảng: “Không dám, tôi chỉ là bà Hai bán cá, hoặc gọi tôi Bà Hai Xe Lăn cũng được, tôi quen rồi!”

Lm. Mar – Aug Bùi Văn Hồng Phúc, SSS

 From: luong bui & Kim Bang Nguyen

THẰNG KHÙNG 

Dũng Mai is with Dũng Mai and 2 others.

THẰNG KHÙNG 

Tác giả: Phùng Quán 

Thằng Khùng trong truyện ngắn này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.

“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.

Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.

Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.

Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:

– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:

– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…

Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:

– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?

– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.

– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:

– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

Mình trả lời anh ta:

– Tôi thích nhất là Candide.

– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:

– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.

– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.

Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:

– Anh là ai vậy?

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:

– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.

Rồi anh ta tiếp:

– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.

Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

Giám thị hỏi:

– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?

Mình nói:

– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.

Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:

– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…

Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

Giám thị hỏi:

– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

Mình nói:

– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…

Phùng Quán

Ảnh Nhà thờ Lớn Hà nội sáng nay 22/7

Image may contain: one or more people, tree, plant and outdoor