Quà tặng giữa mùa dịch

Image may contain: one or more people and people sitting
Image may contain: one or more people
Thanhly Hoang

Quà tặng giữa mùa dịch

Inline image

“Thật xui xẻo! Đúng là thứ Sáu 13.” Sue tặc lưỡi, liếc nhìn kính chiếu hậu. Viên cảnh sát bước xuống, đóng sập cửa xe, tiến về phía xe cô.

Dãy đèn xanh, đỏ trên mui xe tuần tra chớp sáng liên tục. Sue đặt hai tay lên tay lái, cố tỏ ra bình thản. Viên cảnh sát hiện ra, ra dấu cho cô hạ cửa kính xe xuống.

“Xin chào. Cô vui lòng cho xem bằng lái, giấy chủ quyền xe.”

Sue lúi húi mở túi xách tay trên ghế bên cạnh trong lúc viên cảnh sát chống hai tay bên hông, mắt không rời động tác lục lọi túi xách của cô.

“Thẻ ID này là của tiểu bang Massachusetts,” Sue nói trong lúc đưa giấy tờ xe cho anh ta.

Viên cảnh sát nói cám ơn, liếc sơ qua tấm thẻ lái xe.

“Có chuyện gì cần mà cô lái xe xuyên bang đến Minnesota trong lúc có lệnh hạn chế đi lại?”

“Tháng nào tôi cũng đi Minnesota cả,” Sue trả lời. “Tôi có một việc làm không chính thức trong một bệnh viện kiểm dịch ở Duluth.”

“Cô là bác sĩ?” viên cảnh sát nhướng mắt nhìn Sue. “Cô cũng điều trị cho người nhiễm coronavirus chứ?”

“Tôi làm việc ở khoa tim mạch,” Sue nói. “Khi có người nhiễm bệnh thì tôi cũng chăm sóc. Tháng này có rất nhiều người bệnh, bác sĩ, y tá làm đủ mọi việc.”

Viên cảnh sát gật gù.

“Cô chạy hơn 85 miles/giờ, vượt quá tốc độ quy định trên xa lộ này là 70 miles/giờ.”

“Oh…, vậy sao?” Sue làm ra vẻ ngạc nhiên. “Tôi thực tình không biết.”

“Cô ngồi yên đấy, đợi một lát.” Viên cảnh sát nói, quay đi, bước về chiếc xe tuần tra màu đỏ bordeaux vẫn đang chớp chớp đèn.

“Anh chàng trông cũng cao ráo, điển trai mà mặt mũi thì lại khó đăm đăm, không có nổi một nụ cười,”

Sue nghĩ bụng. Cô không lo lắm, anh ta sẽ thấy là trước giờ cô chưa hề bị cái ticket nào. Xa lộ I-35 vắng hẳn tiếng xe từ ngày dịch bệnh bộc phát, mọi khi thì xe cộ chạy vùn vụt mấy làn đường.

Một hàng chữ điện tử chạy nhấp nháy trên tấm biển lớn dọc xa lộ, “Limit Travel – Stay Home – Save Lives – Beat Covid 19”.

Đây là lần đầu tiên Sue lái xe xuyên bang từ Boston đi Minnesota, trước giờ cô chỉ đi máy bay nhưng vào mùa dịch này thì lái xe lại thoải mái hơn.

Viên cảnh sát quay trở lại, vẫn vẻ mặt lành lạnh.

“Cô chạy đi đâu mà nhanh thế?” anh ta hỏi.

“Tôi không biết mình đang chạy quá nhanh,” Sue lúng túng.

“Tôi chỉ muốn về nhà sớm để nghỉ ngơi và lấy lại sức sau những ngày làm việc khá căng thẳng ở bệnh viện.”

“Đấy là lối suy nghĩ vô trách nhiệm”, viên cảnh sát lắc lắc đầu, nhìn thẳng vào mắt Sue. “Cô muốn về sớm nhưng có sớm được đâu, cô đang phải ngồi đây.

Thế cũng là may cho cô đấy, cứ chạy xe với tốc độ ấy thì có khi cô chẳng về tới nhà được đâu mà còn gây tai nạn dọc đường, và xe cứu thương sẽ phải đưa cô trở vào bệnh viện.

Khi ấy người ta sẽ phải điều trị cho cô thay vì cô điều trị cho bệnh nhân, trong lúc nhiều bệnh viện và nhiều người bệnh đang cần bác sĩ hơn bao giờ hết. Nếu cô nghĩ cho người khác thì cô phải hết sức bảo trọng.”

Sue im lặng trong lúc anh ta tuôn ra một hơi dài. Cô từng nghe cách nói này, nhưng đây lại là một viên cảnh sát nói với cô.

Liệu anh ta có quyền “lên lớp” cô như vậy? Sue vừa cố nén bực bội vừa cảm thấy lạ lùng.

“Cô không phải nhận giấy phạt đâu,” anh ta nói tiếp. “Tôi chỉ muốn nhắc cô như thế.”

“Cám ơn anh,” Sue bối rối. “Tôi xin lỗi…, thường thì tôi không chạy nhanh như vậy.”

Inline image

Viên cảnh sát bước lại gần hơn, chìa ra vật gì đó, đưa qua cửa xe cho Sue.

“Cô giữ lấy cái này mà dùng.”

Sue đón lấy, cô nghĩ anh ta trả lại cô giấy tờ xe, nhưng không chỉ có vậy. Trong tay cô là một bọc gì cồm cộm.

“Không nên dùng lại những khẩu trang đã dùng rồi,” viên cảnh sát nói trong lúc Sue vẫn đang ngỡ ngàng.

Khi nhận ra trên tay mình là những chiếc khẩu trang y tế thì cô hiểu ra.

“Nhưng… đấy là của anh,” Sue ngập ngừng. “Anh cần nó mà.”

“Cô cần thứ này hơn tôi.”

Sue lặng người… Trong tay cô là 5 chiếc khẩu trang N95. Cô không biết nói gì, nước mắt cô muốn ứa ra.

Cô ngước nhìn viên cảnh sát. Trong làn gió se se lạnh thổi vào qua cửa kính xe, cô thấy dường như mắt anh cũng rưng rưng như mắt cô.

“Chúc cô một ngày bình an. Chạy xe cẩn thận nhé!” Viên cảnh sát quay lưng, bước vội đi.

Dãy đèn chớp chớp trên mui xe tuần tra phụt tắt, chiếc xe cảnh sát bò ra đường lane ngoài cùng rồi phóng vụt đi. Sue vẫn còn ngồi đó, gục đầu lên tay lái. Xa lộ vẫn trống vắng, mênh mông.

Bên dưới là những dòng Sue viết trong Facebook của cô :

Sau cùng thì tôi cũng biết tên anh ta, Bryan Swanson, một cái tên lạ hoắc. Tôi đã kể lại trong Facebook câu chuyện về “món quà” đặc biệt tôi nhận được ở anh.

Câu chuyện được nhiều người chia sẻ và rồi cũng phổ biến trong Facebook của Minnesota State Patrol (MSP), và tôi gặp lại Bryan trong đó. Trông anh chàng tươi tỉnh chứ không còn bộ mặt hình sự như hôm ấy.

Trong một video clip, khi được hỏi về 5 chiếc khẩu trang N95 đã cho đi, Bryan nói đấy là chuyện nhỏ mà ai khác cũng làm như anh thôi. Bryan kể lúc tôi mở túi xách để lấy giấy tờ xe, anh nhác thấy hai chiếc khẩu trang đã dùng rồi và anh nghĩ tôi cần có khẩu trang mới.

“Như thế tốt cho cô ấy hơn,” anh nói với các đồng nghiệp. “Cô ấy có một gia đình, có những người thân yêu luôn lo lắng mỗi khi cô ấy rời nhà đến làm việc ở bệnh viện.

Tôi cũng vậy, các bạn cũng vậy, chúng ta đều có những người thân lo lắng mỗi khi chúng ta rời nhà vì công vụ. Mọi người đều cần được chia sẻ.”

Một lần nữa, Bryan làm tôi muốn ứa nước mắt.

Bryan, tôi không hề quen biết anh chàng cảnh sát này. Anh ta cũng chẳng nợ nần gì tôi, và tôi cũng chẳng yêu cầu anh giúp đỡ chuyện gì.

Sao anh ta làm vậy? Anh ta đâu cần phải làm vậy. Bryan nói tôi cần những khẩu trang ấy hơn anh ta, điều này không đúng.

Trong lúc tôi làm việc trong điều kiện được bảo vệ, che chắn cẩn thận thì anh tiếp xúc với đủ mọi đối tượng với nhiều rủi ro, bất trắc. Anh phải cần những khẩu trang ấy hơn tôi chứ.

Bryan, tôi chắc mình chỉ gặp anh ta một lần duy nhất trên con đường đời. Có những người ta chỉ gặp có một lần đâu đó trong đời này, nói dăm ba câu chuyện rồi đường ai nấy đi và chẳng bao giờ còn gặp lại lần thứ hai. Như cơn gió thoảng qua vậy.

Dịch bệnh vẫn chưa có dấu hiệu nào là suy giảm. Mỗi ngày mỗi thêm những tin xấu. Con virus ấy đã lấy đi mạng sống của không ít đồng nghiệp tôi, những người tôi quen và không quen, những bác sĩ, y tá và nhân viên y tế bị lây nhiễm trong lúc điều trị, chăm sóc người bệnh.

Tôi có sợ không? Sợ chứ. Ai mà chẳng sợ, nhưng không ai bỏ cuộc cả, trong lúc các thiết bị và dụng cụ bảo hộ y tế như khẩu trang thì vẫn thiếu thốn, vẫn phải dùng đi dùng lại.

Mọi người vẫn nói là chúng tôi đang ở những tuyến đầu. Chúng tôi có chọn “tuyến đầu” này đâu. Nói cho cùng, chúng tôi đâu có sự lựa chọn nào.

Nếu có, chỉ là chúng tôi đã tự chọn lấy nghề nghiệp, tự chọn lấy công việc mình yêu thích ngay từ những buổi đầu, và chúng tôi sẽ còn ở lại mãi với công việc của mình. Chỉ đơn giản là vậy.

Những chiếc khẩu trang N95 mà tôi cầm trên tay hôm ấy là của Bryan, của sở cảnh sát cấp phát cho anh để anh tự bảo vệ. Anh cầm lấy chúng, và anh đưa cho tôi, nói rằng tôi cần chúng hơn anh. Những khẩu trang ấy là quý như vàng trong lúc này đây. Ai cũng cần cả, Bryan à. Con virus ấy đâu có chừa anh ra.

Mùa dịch này rồi sẽ đi qua. Nhiều người sẽ không bao giờ quên, là những người phải chịu đựng những tổn thất vì nó, chịu đựng những mất mát, khổ đau mà nó mang đến cho gia đình mình, cho những người thân yêu.

Những người sống sót qua mùa dịch này cho là mình may mắn. Có bao giờ họ nghĩ rằng trong những may mắn của họ có một phần đến từ những người sẵn sàng hứng chịu cái phần rủi ro.

Loài virus quỷ quyệt ấy vẫn không lấy đi được những tình cảm gắn bó và tương trợ giữa những con người đang phải vật lộn, chống trả với chúng.

Hơn lúc nào hết, tôi cảm thấy bình thản khi đương đầu với những thử thách của cuộc sống.

Liệu có phải những chiếc khẩu trang tôi nhận được nơi Bryan đã làm dịu bớt những căng thẳng và âu lo, tôi không biết chắc, nhưng tôi tin rằng đi bên tôi vẫn không thiếu những người bạn đồng hành.

Vẫn không thiếu những anh chàng Bryan như thế trong cuộc sống quanh ta.

L. H.

(Viết phỏng theo bản tin NBC News, March 31, 2020)

TÌNH YÊU CỦA MẸ

TÌNH YÊU CỦA MẸ

Bà vừa bưng chén cơm lên, gắp một miếng thịt gà bỏ vào chén. Con dâu liền trường người tới lấy tay đè đôi đũa của mẹ chồng, rồi ngọt ngào nói

– Ấy. . . Ấy mẹ già rồi không có làm gì nặng nhọc, đừng nên ăn những thứ này khó tiêu lắm. Ăn chừng nửa chén cơm với ít nước tương là đủ rồi mẹ ạ

Bà tiu nghỉu buông miếng thịt gà ra, cay đắng và vội những hột cơm vào miệng mà tưởng chừng như đang nhai đá, cố nút giọt nước mắt muốn trào ra ngoài, bà buông tiếng thở dài. Con dâu vừa gắp miếng thịt bỏ vào chén cho thằng Tý, con trai nàng vừa nói với mẹ chồng bằng một chất giọng dịu dàng êm ái

– Con cũng chỉ lo cho sức khỏe mẹ mà thôi.

Thằng Tý liền chen vào

– Mẹ nói nội ăn nhiều, ăn thịt không tốt cho sức khoẻ, sao mẹ lại ép con ăn nhiều vào là sao

Nàng trừng mắt lên quát

– Đồ con nít ranh. Mày biết gì mà nói. Có ăn không thì bảo

Có tiếng chuông cửa. Con dâu đứng dậy mở cửa. Thằng Tý ngước nhìn nội, thấy mắt nội ướt ướt, nó biết nội muốn khóc, liền thỏ thẻ với nội

– Nội đừng có buồn, để con dấu miếng thịt gà này lát mẹ con đi làm rồi con lấy cho nội ăn ha

Nói xong, thằng Tý bỏ miếng thịt gà vào chén rồi chạy ù xuống bếp dấu miếng thịt gà vào một góc bếp. Bà nhìn theo mắt rưng rưng. Lấy vạt áo lau vội giọt nước mắt. Con trai vừa bước vào thấy vậy vội hỏi

– Mắt mẹ sao vậy?

Bà gượng cười

– Ờ. . . Ờ hạt bụi nó bay vào mắt thôi mà

Con dâu cắt ngang

– Em đã bảo anh về sớm để còn đi công việc, giờ mới vát xác về. Nhà bao việc mà anh lúc nào cũng thông thả. Thôi ngồi vào ăn nhanh mà đi kẻo người ta đợi

Hắn vội trả lời

– Em làm như anh ở không à. Ở cơ quan cũng bao việc chứ rảnh rỗi gì đâu

*******

Đang làm việc với đối tác thì vợ hắn gọi

– Alo. Chiều anh ghé trường đón con rồi chở con đi ăn luôn nhé. Cơ quan em có đoàn thanh tra đến nên em phải tiếp khách về hơi trễ

Thằng Tý vui mừng vì Hôm nay được ba đón, nó líu lo. Hắn soa đầu thằng con trai cưng của mình

– Hôm nay con trai cưng của ba ăn gì để ba mua về ba con mình ăn với nội cho vui

Thằng Tý ngước nhìn ba hỏi

– Ủa. . . Mẹ đâu hả ba?

Hắn hôn chụt vào má con trai trả lời

– Hôm nay mẹ bận công việc cơ quan về hơi trễ, cha con mình tự ăn

Tý mừng rỡ thốt lên

– Ồ de. Hôm nay không có mẹ ở nhà ba phải mua thật nhiều đồ ăn về cho nội ăn nhé. Ba đừng cho mẹ biết nha. Con thương nội lắm

Hắn ngạc nhiên

– Tại sao phải dấu mẹ?

Tý hồn nhiên trả lời

– Bởi vì mẹ nói nội già rồi ăn nhiều thức ăn không tốt. Mỗi bữa ăn nên ăn nửa chén cơm là đủ rồi

Hắn nghe như sét đánh ngang tai. Ruột gan như có ai đang xát muối, Da thịt như có ngàn con kiến chích. Hắn chở vội con trai đi mua thức ăn rồi hối hả chạy về nhà mong gặp mẹ. Bao nhiêu hình ảnh tuổi thơ của hắn và mẹ như cuốn phim quay chậm hiện về trong tâm trí hắn. Hắn tức giận chen lẫn xót xa, hắn hối hận vì thời gian qua hắn lao vào công việc mà không quan tâm đến mẹ. Lúc này đây, hắn mong muốn có đôi cánh để bay thật nhanh về bên mẹ, để chui vào lòng mẹ như thuở ấu thơ, để xin mẹ tha thứ cho sự thờ ơ của đứa con mà mẹ khổ cực nâng niu nuôi dạy hắn trưởng thành như Hôm nay. Mắt hắn cay xè

Mở cửa lao vội vào nhà. Hắn đứng chết lặng nhìn thấy mẹ vịn quanh thành bếp lò mò bước từng những bước chậm chạp, hắn lao đến ôm hai bờ vai của mẹ lo lắng hỏi

– Mẹ. . .Mẹ sao vậy?

Bà giật mình cười cười nói

-À. . .À đôi mắt của mẹ mấy hôm nay nó lờ mờ không nhìn rõ cho lắm. Chắc tuổi già nó vậy nên con đừng có mà lo lắng. . .

Nó nghẹn ngào

-Sao mẹ không nói con chở đi khám

Bà cười hiền nói

-Ta thấy bay lu bu công việc, nói ra sợ bay lo lắng mà ảnh hưởng đến công việc

Hắn nghẹn đắng nơi cổ họng, nước mắt trào ra, hắn nức nở

-Con xin lỗi mẹ. . .Mẹ tha thứ tội bất hiếu cho con. . .Con cõng mẹ đi bệnh viện mẹ nhé. . .

Hắn bồng Mẹ lên chạy bay ra sân

*********

Bác sĩ nói

– Đôi mắt mẹ anh bị đục thủy tinh thể. Tại sao phải để lâu như vậy. Ngày mai anh chở cụ đến làm thủ tục nhập viện để chúng tôi tiến hành thay thủy tinh thể gấp cho cụ may ra còn cứu kịp. Nhưng độ sáng không được trăm phần trăm. Chỉ sáu mươi là may mắn lắm rồi

Nhìn mẹ mò mẫn bước từng bước, nét mặt bà ngẩn ngơ mà hắn chết lặng, hắn hối hận đau đớn. Dìu mẹ từng bước mà lòng đau như cắt. Hắn khóc như một đứa trẻ, thằng Tý cũng khóc to

**********

Hắn thức cả đêm chỉ để viết một lá thư. Xong, hắn ôm cây đàn lên sân thượng ngồi đến sáng

Vợ hắn thức dậy nhìn quanh không thấy chồng đâu càm ràm

– Mới sáng sớm mà đi đâu không biết. Có công chuyện cũng phải nói cho người ta biết chừng chứ

Vợ hắn đi đến bàn trang điểm thì thấy một lá thư và một cái USB. Nàng tò mò cầm lá thư lên và mở xem thì thấy nét chữ của chồng. Nàng cười khẩy

– Gớm. Thời buổi bây giờ còn thư với từ, cần gì thì nhắn tin là xong, cần phải mất thời gian như thế này không. Hay là muốn hâm nóng tình cảm chăng?

Nhưng với bản tính tò mò của người phụ nữ. Nàng mở ra đọc

” Vợ yêu
Từ ngày mình yêu nhau rồi nên duyên chồng vợ. Anh rất mãn nguyện, anh rất tự tin khoe với bạn bè và đồng nghiệp về vợ yêu của mình, anh vui lắm, anh hạnh phúc lắm. Hạnh phúc hơn nữa là em sinh cho anh một đứa con trai kháu khỉnh thông minh. Anh thầm cảm ơn ông trời đã bang tặng em cho anh. Cảm ơn em đã đem đến cho anh niềm hạnh phúc mà nhiều người mơ ước. . .”

Đọc đến đây vợ hắn cười mỉm đầy sung sướng ” ai nói chồng tôi không biết nịnh đầm này” nàng cười thành tiếng và đọc tiếp

“. . . Vì thế. Anh nguyện với lòng sẽ không để cho em và con cực khổ thiếu thốn như tuổi thơ của anh và mẹ anh. Nên anh không quản khó nhọc ngày đêm lao đầu vào công việc. Đến nay thì nhìn lên vợ chồng mình không bằng ai, nhưng nhìn xuống thì nhiều người mơ ước

Để anh kể cho vợ yêu nghe. Thời thơ ấu của anh rất cơ cực. Anh sinh ra thì đã không thấy
mặt bố.
Mẹ anh tầng tảo nuôi anh, mẹ không ngại nắng mưa, mồ hôi nước mắt chang với cơm. Nhưng mẹ luôn mỉm cười khi nhìn thấy anh khôn lớn mỗi ngày. Anh còn nhớ như in không thể nào quên, năm đó anh lên 8 mẹ đi làm thuê cho người ta tối mịt mới về, vừa bước vào nhà , mẹ liền móc trong túi áo ra đưa cho anh miếng thịt gà gói trong miếng lá chuối, mẹ nói anh ăn đi cho khỏe, anh nói mẹ cùng ăn với anh. Mẹ xoa bụng nói ” Mẹ no quá, đi làm thuê cho người ta, họ cho mẹ ăn nhiều lắm rồi, đây là phần của con, con ăn đi”. Thế là anh ăn ngấu nghiến còn lại xương không là xương. Một lác sau anh ra sau hè nhìn thấy mẹ gặm từng miếng xương mà anh vừa bỏ ra lúc nãy. Anh đứng chết lặng nhìn mẹ. Mẹ thấy anh cười giả lả ” Ơ. . .Mẹ thấy còn tí thịt nên ăn chứ bỏ uổng quá, chứ mẹ no lắm rồi. Không tin đến rờ bụng mẹ mà coi” nói xong mẹ đứng lên xoa bụng cười cười nói ” ôi no quá”
Mẹ anh dại quá phải không em, giá như lúc đó mẹ vứt anh qua một bên mà đi thêm bước nữa thì mẹ đâu phải chịu khổ chịu cực như vậy. Hay trời sinh ra người mẹ là thế đấy hả em?””

Đọc tới đây, mắt vợ hắn nhòe đi, nước mắt của vợ hắn rơi xuống làm ướt một góc của lá thư. Nàng đọc tiếp

“. . .Mẹ anh hy sinh cho anh nhiều lắm. Kể không hết đâu. Nếu kể ra hết thì cả một trăm cuốn vở hai trăm trang họa may mới đủ. Anh chỉ kể cho em chuyện này nữa thôi nhé. Lúc anh lên mười, anh bị một cơn bạo bệnh tưởng đâu không qua khỏi. Mẹ anh thì không có một đồng dính túi, bà chạy từ đầu làng đến cuối thôn vay mượn, nhưng không ai cho mượn. Họ không cho mượn là phải. Bởi vì nhà anh quá nghèo, cho mượn lấy gì mà trả. Mẹ anh vừa cõng anh vừa khóc chạy vào bệnh viện. Chân không mang dép bị gai đâm chảy máu mà mẹ không thấy đau. Đến bệnh viện mẹ anh liền chạy tìm chổ bán máu rồi nộp viện phí chữa chạy cho anh. Khi anh khỏe lại, nhìn thấy mẹ xanh xao vì thiếu máu, quần áo thì xọc sệch, chân thì rách tùm lum vì gai đâm, nhưng mẹ vẫn cười tươi khi nhìn thấy anh khỏe lại. Bà mừng quá khóc to. Rồi anh khôn lớn trưởng thành trong vòng tay mẹ, để đến khi chúng mình gặp nhau rồi cưới nhau. . . Anh cứ ngỡ cuộc đời anh đã bước sang một trang mới khi gặp em. Mà thật, anh đã bước sang một trang mới. Nhưng mẹ anh thì không, bà vẫn sống trong sự thiếu thốn, không được ăn no, ăn những món mà bà thích. Anh đúng là đứa con bất hiếu, anh là một thằng đàn ông không ra gì. Thằng Tý con chúng mình tuy còn nhỏ, nhưng nó biết và thấy hết, nên anh từ nay về sau, phải chăm sóc mẹ chu đáo, nếu không nó sẽ học tính anh đấy em ạ
Hôm qua đón thằng Tý về, anh phát hiện ra mẹ bị mắt mờ và chở mẹ đi khám, bác sỹ nói mẹ bị đục thủy tinh thể mà để quá lâu, nên sáng nay anh chở mẹ vào viện để nhập viện thay cườm mà không kịp báo cho em biết.cầu Trời Phật cho mọi đều tốt đẹp đến với mẹ. Đừng để mẹ của anh khổ nữa
Ah. Khi Hôm buồn quá, nên anh cầm cây đàn lên sân thường ngồi hát bài về mẹ để tặng mẹ khi xuất viện anh có quay và copy vào USB em nghe thử có Ok không nhé”

Vợ nó khóc ngất, khóc cho sự hối hận của mình.tiện tay nàng đút cái USB vào máy tính. Giọng hắn vang lên. Phải công nhận, trời phú cho nó một giọng ca quá tuyệt vời. Hắn vừa hát vừa rưng rưng đầy xúc cảm

Cho con gánh mẹ một lần
Cả đời mẹ đã tảo tần gánh con
Cho con gánh mẹ đầu non
Cả lòng mẹ đã gánh con biển trời
Ngày xưa mẹ gánh à ơi
Con xin gánh lại những lời mẹ ru
Đường đời sương gió mịt mù
Vì con hạnh phúc chẳng từ gian lao
Để con gánh mẹ đừng can
Sợ khi mẹ mất muộn màng gánh ai
Cho con gánh cả tháng dài
Gánh qua năm ròng những ngày đắng cay

Cho con gánh cả đôi vai
Thân cò lặn lội sớm mai vai gầy
Mẹ già lá sắp xa cây
Lỡ đâu lá rụng tội này gánh sao
Mẹ ơi sóng biển dạt dào
Con sao gánh hết công lao một đời
Bông hồng cài áo đúng nơi
Đâu bằng bông hiếu giữa trời bao la
Cho con gánh lại mẹ già
Để sau người gánh chính là con. con

Mặt không trang điểm, mặc nguyên bộ đồ ngủ. Nàng dắt thằng Tý chạy ào ra đường đón tắc xi đi thẳng đến bệnh viện. Vào tới bệnh viện. Nhìn thấy chồng đi tới đi lui trước phòng mổ với khun mặt lo lắng. Nàng chạy ào đến bên chồng nức nở

– Em xin lỗi anh, xin lỗi mẹ, em hối hận lắm rồi. Từ rày về sau em sẽ cùng anh gánh mẹ anh nhé

Hắn ôm ghì vợ vào lòng nở nụ cười và âu yếm nói

-Như thế mới là vợ yêu của anh chứ. . .

Thằng Tý chen vào

– Vậy từ rày về sau nội có được ăn gà không hả mẹ?

Nàng cúi mặt thẹn thùng pha lẫn xấu hổ

******

Cửa phòng mổ mở toang. Cô hộ lý đẩy bà cụ ngồi trên chiếc xe lăn ra. Cô hộ lý liền cất tiếng

– Chúc mừng gia đình. Ca mổ đã thành công ngoài mong đợi. Đôi mắt của cụ được trăm phần trăm độ sáng

Con dâu chạy ào đến ôm mẹ chồng lo lắng. Con dâu rưng rưng

– Con xin lỗi mẹ những hành động vừa qua của con đã làm cho mẹ buồn. Mong mẹ tha thứ cho con

Thoáng chút ngỡ ngàng. Nhưng bà kịp lấy lại trạng thái và đã hiểu ra vấn đề. Bà liếc nhìn thằng con trai rồi nở một nụ cười rất tươi và rất mãn nguyện. Điều lo sợ của bà đã tiêu tan. Bà lo sợ một điều, nếu con trai mình biết chuyện, vì bà, nó sẽ cãi vã với vợ nó, rồi dần dần vợ chồng nó sẽ mất hạnh phúc, rồi sẽ dẫn nhau ra toà ly dị thì cháu bà sẽ như thế nào đây, nó sẽ thiếu cha hoặc thiếu mẹ,cháu nội bà không ai dậy bảo, sẽ trở nên hư hỏng hay đau buồn vì chuyện ly dị của cha mẹ. Còn con trai bà lấy người khác có được hạnh phúc hay không, hay hết cưới người này rồi tới người khác, hay chán đời mà bê tha. Bà mừng lắm. Không phải mừng vì được sáng mắt, mà bà mừng vì con bà đủ trí thông minh để xử lý tình huống. Chứ việc gì không hài lòng thì đưa nhau ra toà ly dị là sẽ tan nát cả một gia đình. Biết chịu khó ngồi lại gỡ rối thì mới là vẹn toàn. Bà vuốt tóc con dâu âu yếm nói

– Mẹ tha thứ và bỏ qua cho con từ lúc con về làm dâu mẹ rồi mà

Cả nhà đều nở nụ cười tươi. Hắn kề vai vào cõng mẹ ra giường bệnh. Miệng nghêu ngao

– Cho con gánh lại mẹ già
Để sau người gánh chính là con con

Thằng tý vố tay

– Ba hát hay quá. . .

Thằng Tý chạy lại kéo tay mẹ của nó

– Mẹ ơi. Ba cõng nội kìa. . . Ba rất là năm bờ quoanh. . . Sau này này ba mẹ già già bằng nội, con sẽ cõng cõng ba mẹ giống như ba cõng nội. . . Ha ha. Con vui quá mẹ ơi. Con vui quá nội ơi

Câu nói ngây thơ của cu Tý đã chạm sâu vào trái tim nàng. Nét mặt con dâu tái đi, thoáng chút giựt mình và run sợ. Nàng lí nhí trong cổ họng ” Nam Mô A Di Đà Phật. Cảm ơn Người đã đưa đường chỉ lối để con kịp tĩnh ngộ mà sám hối. . .”

ST.

 From: Lucie 1937

MỘT SĨ QUAN QUẬN TRƯỞNG

 MỘT SĨ QUAN QUẬN TRƯỞNG

Hồi ký của Nguyễn Kim Dần  (bài 1)
 

 Phần 1Giới Thiệu Sơ Lược

Đây là một chuyện có thật 100%, ghi lại trung thực thời gian tôi làm việc với một vị Sĩ quan Quận trưởng, cách đây 32 năm. Tuy bài được viết năm 1996, nhưng câu chuyện cũng không mất thời gian tính.Tôi rất phân vân vì trong những năm trước đây, nếu tôi viết ra mà vị Sĩ quan Quận trưởng này còn ở lại Việt Nam, có thể Ông sẽ bị phiền phức . Nhưng cách đây 6 tháng, tôi đã liên lạc, nói chuyện và biết  Ông đang định cư ở Nam Cali.

Đầu năm 1963, vừa tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh (QGHC), vào trình diện Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chúng tôi nhận được chỉ thị của vị Nguyên Thủ Quốc Gia là “Trong thời chiến tranh, Hành chánh chưa đủ, cần phải học lớp quân sự“. Thế là chúng tôi phải vào “Lò Luyện Thép” của Trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang để theo học lớp Sĩ Quan đặc biệt. Theo Tổng Thống DIỆM, trường quân sự này đào tạo có kết qủa tốt Trong các khóa QGHC chỉ có khóa 6,7 và khóa 8 (khóa tôi) là phải học trường Quân sự này, các khóa khác học ở Đàlat hay Thủ Đức. Quả đúng trường Đồng Đế Nha Trang là Lò Luyện Thép và chúng tôi đã trải qua 7 tháng huấn luyện vất vả vô cùng…Rồi thời gian cũng trôi qua, cuối năm 1963 chúng tôi tốt nghiệp Chuẩn Úy và được chỉ định  đi làm Phó Quận trưởng, đeo lon Trung Úy Hành Chánh.

Đầu năm 1964, tôi về Tây Ninh nhận việc và giữ chức vụ Phó Quận trưởng quận Khiêm Hanh, lúc đó còn là một Quận lưu động, chưa có Văn Phòng, phương tiện di chuyển duy nhất là trực thăng, thỉnh thoảng mới đi đường bộ được nếu có mở đường. Tôi đợi 5 ngày mới có trực thăng đi Quận. Người đón tôi tại bãi trực thăng là Đại Úy Quận trưởng tên Nguyễn Văn Mách, nhân vật chính trong câu chuyện tôi sắp kể.

Đại Úy Mách độ 43 tuổi (năm 1964). Ông nguyên là Trung Tá trong quân đội của Giáo Phái Cao Đài. Khi Tổng Thống Diệm chấp chánh, thống nhất quân đội, ông Mách phải đi học một khóa Quân sự để xác định lại cấp bậc…Khóa học này học ở Đàlat, nghe nói cũng rất cực khổ nên đa số các Sĩ quan Cao Đài đều bỏ cuộc. Ông Mách tốt nghiệp hạng nhì, được đồng hóa là Trung Úy trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó cho Đại Úy Lê Nguyên Vỹ (Đại úy Vỹ sau này lên Chuẩn Tướng Tư lệnh Sư Đoàn 5, ông tự tử chết ngày 30/4/1975). Trung Úy Mách mấy tháng sau được lên Đại Úy và được bổ nhiệm làm Quận trưởng quận Khiêm Hanh trước khi tôi nhận việc độ 3 tháng.

Mới ra đời, tôi như một “con nai tơ ” trong môi truờng mới. Dù chúng tôi được trang bị kiến thức về hành chánh  và quân sự khá đầy đủ, nhưng chỉ là lý thuyết, chưa có kinh nghiệm thực tế. Tới nhiêm sở, người đầu tiên tôi tìm hiểu là ông Quận trưởng, sau đó tìm hiểu địa phương…
Trong guồng máy hành chánh và quân sự thường xẩy ra đụng chạm giữa cấp Trưởng và cấp Phó do 2 nguyên nhân chính: quyền hành và quyền lợi (tiền bạc), nhưng đối với Ông Quận trưởng tôi không sợ bị đụng chạm vì cách xử thế của mình: Về quyền hành, tôi không tranh quyền với cấp Trưởng. Tất cả giấy tờ tôi đều dồn cho Ông quyết định và ký tên, khi nào ông không ký nổi thì sẽ  giao lại cho tôi . Về quyền lợi vật chất, bất cứ vấn đề gì có liên hệ đến lợi lộc, tiền bạc, tôi đều để cho ông Quận trưởng quyết định. Với cách xử thế của tôi từ lúc ra trường , áp dụng 2 nguyên tắc trên, trong suốt thời gian làm việc và gặp rất nhiều cấp chỉ huy Quận, Tỉnh, bao giờ tôi cũng giữ được mối giao hảo tốt đẹp và được họ kính nể.

Sau mấy tháng làm việc, tôi  nhận thấy Đại Úy Nguyễn Văn Mách là một người thanh liêm, khiêm nhường (trong lý lịch ông khai sức học bậc Tiểu học). Ở quận Khiêm Hanh, 95% dân chúng theo đạo Cao Đài, Ông Quận trưởng là người rất có uy tín và được lòng dân, vì thế ông thu lượm được những tin tức tình báo rất chính xác do người dân cung cấp. Tuy có gia đình, nhưng Đại Úy Mách sống một mình ở Quận, thỉnh thoảng vợ con mới lên thăm vài ngày…

Về tình hình địa phương, Quận còn ở trong tình trạng lưu động, chưa có văn phòng, Chi Khu cũng chưa thành lập và cũng chưa có cố vấn Mỹ. Ông Quận và tôi phải chỉ huy cả hành chánh lẫn quân sự, cũng may là tôi đã tốt nghiệp khóa Chuẩn Úy. Dân chúng thì rất nghèo, 90%  mù chữ, cả Quận không có một ngôi trường nào, chỉ có vài lớp học tư nhân, dậy đến lớp Ba ở xã Thuận Lợi. Bệnh ho lao, kiết lỵ, sốt rét rất phổ biến…

Tuy gọi là Văn Phòng Quận, nhưng thực ra đó  là một cái đồn lính. Các đơn vị cố hữu của Quận như Nghĩa quân, Điạ phương quân cũng chưa có, chỉ có 2 Đại đội của Trung đoàn 9, thuộc Sư đoàn 5 có nhiệm vụ bảo vệ Quận. Tối đến, tôi và ông Quận hay ngồi nói chuyện dưới ngọn đèn dầu, vì Quận chưa có điện. Nhờ nói chuyện hàng ngày và hàng đêm nên chúng tôi rất thông cảm nhau. Chúng tôi lại cùng ăn cơm chung do một nghĩa quân đi chợ, nấu cơm. Tất nhiên là ngưởi lớn tuổi và có kinh nghiệm trường đời hơn tôi, ông đã biết rõ con người của tôi…

 Phần 2.  Ly Gián

Vào một buổi tối nói chuyện, ông Quận nói :

–         Ông Phó à! Thằng Bẩy Ốm phá Quận quá tôi sẽ làm cho nó, một là bị thuyên chuyển, hai là bị giết trong vài tháng nữa.

Tôi nghe vậy và mỉm cười vì Bẩy Ốm là tên Huyện ủy Việt cộng, hoạt động phá hoại rất nguy hiểm. Quả thực lúc đó, tôi nghi ngờ khả năng của ông Quận, nghĩ là ông nói dóc vì một tên đang hoạt động rất đắc lực sao lại bị thuyên chuyển hay bị giết ?. Tuy không tin, nhưng tôi cũng chỉ im lặng mà không có ý kiến gì …Khoảng 2 tháng sau, cũng vào một buổi tối, dưới ánh đèn dầu, Ông Quận trưởng nói với tôi:

  – Ông Phó à! Thằng Bẩy Ốm đã bị thuyên chuyển khỏi Quận.

Tôi ngạc nhiên, tỏ vẻ nghi ngờ về chuyện khó tin này. Biết tôi chưa tin, Ông Quận trưởng giải thích: Ông  cho người theo dõi mấy cái quán nước trên đường đi ra Gò Dầu Hạ hay lên Tỉnh, xem tụi du kích hay ngồi ở quán nào?. Sau khi được tin tức chính xác cái quán mà du kích vẫn thường lui tới, Ông sai  ngừơi viết một lá thư có nội dung như sau:”Anh Bẩy Ốm, Đại úy Quận trưởng nói anh đừng về vội, anh có thiếu tiền ổng sẽ gởi tiếp cho anh. Khi nào về nhớ đem cả súng về để lãnh tiền thưởng.” ( VNCH có chính sách Chiêu Hồi, cán binh Cộng sản nếu mang vũ khí về sẽ được thưởng tiền). Lá thư này được để trong một cái bóp cũ và mấy thứ giấy tờ lặt vặt, được “cố ý” đánh rớt ở cái quán mà du kích thường lui tới. Khi tên du kích nhặt được cái bóp có lá thư này, để lập công sẽ mang lá thư trình thẳng lên cấp Tỉnh. Tỉnh sẽ nghi Huyện ủy Bẩy Ốm sắp sửa về hồi chánh và có biện pháp thuyên chuyển Bẩy Ốm đi gấp, để tránh hậu hoạ.
Đó là bài học ly gián dầu tiên mà tôi học được nơi ông Quận Trưởng. Như trên đã nói, ông Quận chỉ có sức học tiểu học, nhưng đã đi lính Cao Đài từ  năm 19 tuổi. Là người có tiếng trong đạo Cao Đài, rất được lòng dân nên Ông có những tin tình báo chính xác, Ông lại biết khai thác đúng tâm lý của các cấp chỉ huy Cộng Sản (Khi nghi ngờ là phải có biện pháp), và kết quả Huyện ủy Bẩy Ốm bị thuyên chuyển ra khỏi Quận!! Ông Quận trưởng đã triệt hạ được một tên Huyện Ủy rất lợi hại.

Phần 3.  Kinh Nghiệm Du Kích

An ninh tại nông thôn vào đầu năm 1964 rất kém, nhất là sau khi Tổng Thống Diệm bị lật đổ, tiếp theo là những cuộc đảo chính liên miên. Vì thế ông Quận trưởng rất chú trọng đến vấn đề an ninh. Sau khi đã loại được tên Huyện ủy, Ông tiếp tục đánh vào hàng ngũ Cộng Sản trong Quận. Ông cho điều tra và biết có tên Ba Mập chỉ huy đám du kích, tên này từng đi lính Cộng Hòa, sau đó bất mãn, đào ngũ bỏ sang hoạt động cho CS. Ông còn biết tên này trước phục vụ tại Sư đoàn, Trung đoàn, Tiểu đoàn, Đại đội nào…Một buổi sáng có đám đông đồng bào đang đợi xin giấy tờ trước cửa Quận, Ông Quận Trưởng ra hỏi thăm mọi người và nói lớn: “Đồng bào đừng sợ Ba Mập vì nó trước là lính của tôi. Ba Mập biết tôi về đây làm Quận Trưởng thế nào nó cũng về hồi chánh, vì trước nó ở đơn vị…”(Ông ta kể rõ chi tiết…) Ông Quận thừa hiểu trong đám đông đồng bào trước cửa Quận, thế nào chẳng có 1,2 tên hoạt động cho CS. Chính các tên này  lấy tin tức ,về báo cáo lại…và ít lâu sau chúng  tôi được tin  Ba Mập đã bị điều động đi quận khác. Lại một đòn ly gián thành công của Ông Quận. Quả thật tôi cũng không rõ Ông Quận có phải là cấp chỉ huy cũ của Ba Mập trong quân đội của VNCH hay không ? hay là ông cứ đặt chuyện để CS nghi ngờ và thuyên chuyển Ba Mập đi nơi khác.

Sau khi tình hình an ninh đã khá khả quan, Quận được bổ nhiệm thêm một Chuẩn Úy vừa tốt nghiệp Thủ Đức và tốt nghiệp trường Quân Báo tên Đoàn văn Yêm, người Huế, có trình độ Đại Học….Ông Quận Trưởng cũng bắt đầu cho xây cất Văn phòng Quận trên một miếng đất cao. Quận cũng được tăng phái một Đại đội Công Binh để cất trường học, làm đường sá. được cấp 2 xe pick up để di chuyển…Tôi mới ra trường, thấy xe là nhẩy lên học lái, có hôm tôi lái xe khỏi quận tới 4 cây số, khi trở lại Quận, ông có nóí với tôi “Đi như vậy rất nguy hiểm vì có thể sẽ bị CS phục kích. Tôi chết, có ông Quận trưởng khác thế, ông chết, có ông Phó khác thế, nhưng đài phát thanh Hànội và Mặt Trận Giải Phóng sẽ loan tin là vừa giết chết một tên Phó Quận Trưởng ác ôn, nên mình sẽ thua nó về mặt tuyên truyền…”.Tôi thấy ông Quận nói có lý nên từ đó thận trọng hơn. Ông còn nói tiếp”:Cả Quận này chưa chắc có ai lái xe giỏi bằng tôi”..Vì Chi khu chưa thành lập nên ông Quận  không có xe Jeep riêng và tôi cũng chưa bao giờ thấy Ông lái xe.

Một hôm có mở đường, nghĩa là có an ninh, chúng tôi  có thể lái xe ra Gò Dầu Hạ, rồi lên tỉnh lỵ Tây Ninh, hôm đó tôi nhường cho ông Quận trưởng lái xe và nói:”Mấy tháng trước Đại úy nói là trong quận chưa chắc ai lái xe giỏi bằng Đại úy, hôm nay tôi ngồi cạnh, để xem Đại  úy lái xe ra sao…”  Từ quận ra Gò Dầu Hạ độ 12 cây số đường đất, thỉnh thoảng có một xe Lambretta chở hành khách đi qua, ra tới Gò Dầu Hạ mới bắt được đường quốc lộ lên Tỉnh……Ngồi bên cạnh Ông Quận tôi thấy Ông lái xe kỳ quặc, không tôn trọng luật lệ đi đường, lúc lạng qua phải, lúc né qua trái, không nhất định gì cả. Đi được 3,4 cây số, tôi cười nói:”  Đại Úy lái xe gì mà kỳ cục vậy, lúc bên trái, lúc bên phải, thế mà Đại úy nói là trong Quận này chưa chắc gì có người lái xe giỏi bằng Đại úy”. Ông mỉm cười giải thích :  “Đây là đường làng, làm gì có xe di chuyển nhiều mà sợ đụng xe, hơn nữa mình lại phải quan sát trước mặt, xem nơi nào du kích có thể đặt mìn được, thí dụ trước mặt ở xa có một bụi cây bên trái, du kích núp bên trái  có thể đặt mìn, ta phải lái qua phải để tránh, trái lại nếu thấy bên phải có bụi cây, ta lại phải lái qua bên trái… Vì mìn của CS giật bằng giây điện và mấy cục “pin” nên có bụi cây bên nào là CS núp phía bên đó, ta phải lái sang phía đối diện . Mìn nổ ta chết vi sức ép của hơi, nếu cách 2,3 thước sức ép giảm nhiều, ta không bị chết, vì thế ở đây lái xe  đâu cần tôn trọng luật lệ đi đường ...Ra tới quốc lộ, từ Gò Dầu Hạ lên tỉnh lỵ Tây Ninh,  có nhiều xe cộ lưu thông, tôi thấy ông Quận trưởng lái xe rất đúng luật và rất giỏi. Từ đó, tôi càng khâm phục những kinh nghiệm ông và học được nhiều bài học quý giá nơi ông.

Phần 4.  Nghi Binh

 Vài tháng sau, khi văn phòng Quận được cất xong và các Sĩ quan được bổ nhiệm về giữ các chức vụ bên Chi khu, Quận bắt đầu tuyển lính cho những đơn vị cơ  hữu của Quận. Các Ấp Chiến Lược được đổi là Ấp Tân Sinh và bắt đầu được xây dựng lại : có cắm chông, rào kẽm gai, có cửa ra vào cố định để ngăn chặn CS xâm nhập.  Quận mới lập nên chưa đặt  mìn xung quanh vòng rào, chỉ có mấy lớp kẽm gai. Đồ viện trợ  Mỹ như xi măng, kẽm gai, tôn lợp nhà, đinh loại dài 10 cm rất nhiều, xin bao nhiêu cũng được cung cấp. 

Vì vị trí Quận ở nơí qúa nguy hiểm, sát chiến khu Dương Minh Châu và chiến khu Bời Lời của CS nên ông Quận rất lo ngại về vấn đề bảo vệ Quận….. Ông ra lệnh  trong lúc chưa có mìn rải chung quanh, tối đến các sĩ quan làm các “chông” bằng xi măng, có cắm đinh ngược chiều để rải chung quanh quận. Mỗi sáng, các lính phạm kỷ luật phải đi cắt cỏ chung quanh vòng rào, để dễ quan sát. Nhân một buổi sáng, khi có đông dân chúng chờ đợi đến giờ văn phòng mở cửa để xin giấy tờ, bất ngờ Ông Quận  trưởng đi ra, la hét mấy người lính đang cắt cỏ trước cửa Quận:”Coi chừng chông có tẩm thuốc độc, đụng vào chỉ có cưa chân”. Thực ra, các sĩ quan và tôi làm chông, làm gì có thuốc độc, nhưng Ông cố tình la lớn để những tên CS trà trộn trong đám đông, dò la tin tức, nghe. Vì thế nếu CS có muốn đánh Quận cũng phải e sợ. Tóm lại ông Quận trưởng có quá nhiều kinh nghiệm chiến đấu với CS và biết khai thác đúng tâm lý của chúng.

Thêm một bằng chứng về khả năng này của Ông, theo tin tình báo , Ông biết  tên chủ tiệm sửa xe đạp trước cửa Quận thường vào mật khu để đem tin tức cho CS, vì chưa có bằng chứng chính xác, nên Quận chưa bắt tên này. Một buổi sáng, Ông Quận vào một quán hủ tíu đang đông khách, tình cờ cũng có tên chủ tiệm sửa xe đạp ngồi ăn, Ông đến vỗ vai hắn và nói lớn cho mọi người đều nghe: ”Sao dạo này mày vào mật khu hoài mà ít tin tức thế?, trong khi tiền thì mày vẫn lãnh của Ban 2 đều đều” (Ban 2 của Chi khu coi về tình báo, dùng tiền để mua tin tức..). Mọi người đều đổ dồn mắt về phía ông Quận và chủ tiệm sửa xe đạp…Ai nghe cũng tin tên chủ tiệm là nhân viên tình báo của Quận. Trong số những người ngồi ăn hủ tíu chẳng thiếu những tên hoạt động cho CS, sẽ báo cáo lại với cấp trên….và từ đó tên  sửa xe đạp không còn được CS tin dùng. Mưu kế ly gián của ông Quận thật là thâm độc vì thực ra tên này đâu có liên hệ gì tới ban 2 của Chi Khu!!
Việt Nam Cộng Hòa thường có những thói quen mà CS dễ khai thác, thí dụ mỗi lần ông Quận Trưởng đi họp từ tỉnh về bằng trực thăng, thì y như hôm sau sẽ có cuộc hành quân cấp Trung đoàn hay Sư đoàn. Có một lần Quận nhận được tin tình báo là CS kéo về rất đông ở mấy xã, có lẽ sẽ đánh Quận nay mai, tình hình rất căng thẳng. Hôm Ông Quận trưởng  đi họp ở Tỉnh về, khi xuống trực thăng, Ông cho gọi tôi  cùng mấy Sĩ quan Chi khu ra bãi đáp trực thăng, trong khi có nhiều đồng bào đứng xa, sau lớp hàng rào kẽm gai để bảo vệ bãi đáp, Ông trải bản đồ ra và nói chuyện với chúng tôi như sắp có cuộc hành quân lớn. Đồng bào đứng xa chỉ nhìn mà không nghe được những gì Ông nói. Ông cố tình làm như vậy để những tên CS lấy tin tức cho rằng sẽ có cuộc hành quân lớn!!. Thực tế, tôi biết hôm đó Ông Quận đi họp trên tỉnh về vấn đề khác, không dính líu đến hành quân. Ông cố tình làm như vậy,  CS sợ là có hành quân liền  rút đi nơi khác và Quận giải tỏa được áp lực…..

Trong thời gian làm Phó Quận, tôi đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm rất thực tế, nhất là đòn ly gián của Ông Quận Trưởng, tuy vậy tôi vẫn chú trọng tới vấn đề Dân Trí , vì dân trí có cao đất nước mới khá được… Có Công binh giúp, tôi đã xây nhiều trường học. Tôn lợp mái trường, xi măng quá nhiều…nên chỉ trong vòng vài tháng, chúng tôi đã xây được khoảng 30 đến 40 lớp học,..Tại Sàigòn vào thời gian đó đảo chánh liên miên, chánh quyền thì tham nhũng từ trên xuống dưới, tôi nghĩ mình không thể làm gì được, chỉ có cách là xây cất thật nhiều trường học, đầu tư vào giáo dục. Dân trí cao thì nhiều vấn đề sẽ được giải quyết. Đành phải trông cậy vào tương lai vậy.

Phần 5. Tái Hồi Chánh               

Sau hơn một năm, Quận và Chi khu đã  thành  lập đươc đầy đủ , Cố Vấn Mỹ đã có. Tuy nhiên tình hình an ninh vẫn còn kém và tinh thần của lính Nghĩa quân vẫn chưa cao…
Rồi một chuyện không may đã xẩy ra: số là là  Quận có tiếp nhận một Hồi Chánh viên tên Phước. Tên này, cũng như các hồi chánh viên khác, được gởi lên Tỉnh học mấy tuần tại Ty  Chiêu Hồi Tỉnh rồi được trả lại Quận. Phước được giao cho Chuẩn úy Yêm ở ban 2, Yêm có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo, sai Phước đi các Ấp ở chung quanh Quận.  Được mấy tháng, Phước lại đào ngũ đi theo CS. Sự kiện này làm cho các Nghĩa quân hoang mang, giao động tinh thần. Ông Quận trưởng ra lệnh họp các Trung đội trưởng Nghĩa Quân. Ông nói:”Tôi biết mấy hôm nay  Anh Em giao động tinh thần vi tên Phước bỏ đi theo CS, hôm nay tôi chỉ họp với các cấp chỉ huy, buổi  họp này hoàn toàn bí mật. Tôi nói cho Anh Em rõ, tên Phước không phải đào ngũ, thực ra Chuẩn úy Yêm giao nhiệm vụ cho Phước giả vờ đào ngũ để vào  mật khu lấy tin tức cho Ban 2. Rồi các Anh Em sẽ thấy, tên Phước sẽ về một ngày gần đây, và còn đem theo cả vũ khi...”.. Ông Quận lại dùng đòn ly gián. Thực tế tên Phước đào ngũ thật. Tuy ông Quận nói là họp mật,  chỉ với khoảng một chục Trung đội trưởng Nghĩa quân, nhưng thế nào tin này cũng  bị tiết lộ ra ngoài ..

Quả thiệt sau mấy tháng, vào một buổi trưa, tôi đang nằm đọc báo chợt nghe thấy mấy tiếng súng ở phía sau Quận, tôi vội vàng ra quan sát, thấy 2 bóng người thấp thoáng, tiến lại gần tôi nhận ra Phước và một người  tên Mai, cán bộ Bình định của Quận bị CS bắt trên đường đi Gò Dầu Hạ. Hai người còn mang về khẩu CKC, loại súng trường CS hay dùng.
Họ thuật lại là đã gặp nhau trong tù CS, lúc đầu CS để Phước tự do, vì hắn trở về hàng ngũ  chúng, không hiểu sao mấy tuần sau  Phước bị bắt nhốt lại. Tôi đoán là lời ông Quận nói trong buổi họp với các Trung đội trưởng Nghĩa quân, cho biết Phước có nhiệm vụ vào mật khu lấy tin tức, đã đến tai  CS chúng liền bắt nhốt tên Phước. It lâu sau CS cho 2 tên đi đốn cây, có một tên CS đem súng đi canh chừng. Phước và Mai vì đã quen nhau trước, lúc làm việc ở Quận, bàn tính cướp súng về lại Quận.
Lời nói của ông Quận đã thành sự thật, tên Phước đem cả súng về và hàng ngũ Nghĩa quân càng tin tưởng nơi ông Quận, với những đòn ly gián rất lợi hại, chuyển bại thành thắng

Phần 6.  Đặc  Công Đánh Cận Chiến

 Như trên đã nói, quận Khiêm Hanh ở vào một vị trí gần 2 mật khu của CS: Dương Minh Châu và Bời Lời, nhưng nhờ tình báo rất chính xác và những đòn ly gián của ông Quận,  CS rất dè dặt khi muốn đánh Quận. Tương đối Quận lúc đó cũng có lực lượng quân sự khá đầy đủ, có vài Trung Đội Nghĩa Quân, đóng rải rác khắp nơi cùng với vài Đại Đội Điạ Phương Quân. Tại Văn phòng Quận có một Trung đội Nghĩa quân, 4 sĩ quan Chi Khu, một sĩ quan tiền sát Pháo Binh . Sĩ  quan này thuôc binh chủng Pháo binh, có nhiệm vụ gọi pháo yểm trợ Quận khi cần thiết. Vì tình hình còn  nguy hiểm nên Tư lệnh Sư Đoàn 5 quyết định không đem 2 khẩu pháo  105 ly vào Quận, sợ nếu CS đánh Quận sẽ mất 2 khẩu súng này.  Ông Quận trưởng có tâm sự với tôi “Mạng Anh Em mình không có giá bằng 2 khẩu pháo, thật là mỉa  mai”. Chúng tôi cũng nhờ có một Đại đội Công Binh đóng sát văn phòng Quận để làm đường, xây trường hoc.v.v… Công Binh được trang bị hỏa lực rất mạnh, nhiều súng 50 ly có tầm sát hại tới 1 km, cùng những xe ủi đất, nên vị trí đóng quân được phòng thủ rất kiên cố…..

Vào một buổi tối, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc quy tụ tất cả các Sĩ quan của Chi Khu, Pháo binh (tiền sát viên), Công binh . Tổng cộng độ 10 người, kể cả tôi và Ông Quận. Vào lúc độ 7 giờ tối, chúng tôi bắt đầu vào bàn tiệc tại dẫy nhà tôn trong phạm vi Quận, sau văn phòng làm việc, bất ngờ có mấy nhân viên xã ấp vào báo cho chúng tôi biết: Cộng sản đang kéo về rất đông, đầy ở trong xã ấp, có lẽ sắp đánh Quận. Chúng tôi lập tức giải tán, ai về đơn vị  đó,  để sẵn sàng chiến đấu. Ông Quận trưởng ra lệnh cho Sĩ quan tiền sát Pháo binh liên lạc với các đơn vị Pháo binh của Quận Gò Dầu Hạ, Bến Kéo, bắn chung quanh Quận, vào những địa điểm nghi ngờ…..

Sau nửa giờ được pháo binh các nơi bắn yểm trợ , chúng tôi biết là CS đã phải rút lui, vì yếu tố bất ngờ không còn và có lẽ một số đã bị thương vì đạn pháo. Lúc đó trời lại  lâm râm mưa…

Sáng hôm sau, Ông Quận dẫn chúng tôi đi quan sát chung quanh Quận, thấy vài nơi ngoài hàng rào kẽm gai, những ngọn cỏ bị cắt… Ông Quận trưởng cắt nghĩa: tối  hôm qua đặc công của CS đã vào sát hàng rào Quận, trong lúc đợi súng cối của chúng bắn vào Quận (theo chiến thuật Tiền Pháo, Hậu Xung), chúng dùng mã tấu chém những ngọn cỏ (do thói quen) nên cỏ mới đứt như vậy…. Tính ra chỗ đặc công của CS núp chỉ cách chỗ chúng tôi ngồi ăn tiệc độ 10 thước……may nhờ có viên chức xã ấp báo, chúng tôi giải tán kịp, CS chưa bắn súng cối vào Quận. . Thông thường sau đợt súng cối, đặc công sẽ vào Quận dùng mã tấu để đánh cận chiến…  Ông Quận còn nói thêm là nhờ tối hôm qua trời lâm râm cũng làm CS do dự không dám đánh Quận. Ông cắt nghĩa khi giao chiến, cán binh CS bị thương, nước mưa vào cơ thể làm máu loãng, dễ chết…….(vì thế thương binh VNCH không đươc cho uống nước, chỉ cho truyền nước biển, nếu nặng thì cho truyền máu….)
Sau lần đánh Quận bị thất bại….  CS rút kinh nghiệm, không đi vào xã ấp để khỏi bị phát giác. Lần này chúng đi thẳng từ mật khu vào để giữ bí mật. CS bố trí vào các vị trí chung quanh Quận mà chúng đã nghiên cứu trước . Khoảng 11 giờ đêm, chúng bắt đầu nổ súng…Vì đã được tập dượt và phân chia công tác nên chúng tôi đã chống trả rất hiệu quả. Lần này CS không dùng chiến thuật Tiền Pháo Hậu Xung mà đánh trực diện. Nhờ phòng thủ kỹ, nhất là có pháo binh yểm trợ, chúng tôi đã cầm cự để đợi máy bay thả hỏa châu chiếu sáng.  Sĩ quan của Chi khu liên lạc  để hướng dẫn phi cơ thả trái sáng, tinh thần binh sĩ đều phấn khởi. Từ trên cao ngoài tầm đạn của súng phòng không địch, phi công đề nghị chúng tôi là nên gọi máy bay khu trục  để oanh tạc vì hỏa lực của CS rất mạnh.  Chúng tôi cố gắng cầm cự, và nhờ pháo binh bắn rất chính xác,  khoảng hơn 1 giờ sau, CS  có lẽ bi thương nhiều nên đành rút lui…

Cũng nhờ tài chỉ huy của Ông Quận trưởng nên trong 2 năm làm việc ở Quận này, tôi chỉ chứng kiến 2 lần đánh Quận, lần đầu thì CS bị phát giác sớm nên chưa kịp đánh, lần thứ 2 nhờ pháo binh, công binh, và hỏa châu do phi cơ thả xuống nên không bị thiệt hại gì. Thật  may mắn cho tôi đã gặp một vị Quận trưởng quá giỏi về tình báo cũng như tác chiến với nhiều kinh nghiêm chiến trường.

Phần 7.  Phục Kích Trên Đường Hành Quân

 Một hôm ông Quận quyết định lên xã Cầu Khởi, cách Quận độ 14 cây số, bằng đường bộ, sáng sớm đi trưa về. Phái đoàn do Ông  hướng dẫn gồm có tôi (Phó Quận, lên để kiểm soát về Hành chánh), một số Sĩ quan Chi khu và 3 Cố vấn Mỹ. Vì lộ trình rất nguy hiểm, Ông Quận chỉ thị Sĩ quan Tiền sát Pháo binh (thường gọi la DELO) đi theo, để nếu có đụng trận thi gọi Pháo binh hay Không quân yểm trợ. Đêm hôm trước Ông  đã đánh công điện mật cho các đồn bót trên lộ trình để giữ an ninh tuyến đường, đồng thời có 2 Đại đội Địa phương quân đi 2 bên, còn phái đoàn chúng tôi đi ở giữa, có một Trung đội Nghĩa quân thiện chiến nhất đi để bảo vệ Bộ Chỉ Huy. Ông Quận trưởng ra lệnh:

1)  Bộ chỉ huy di chuyển phân tán mỏng, không co cụm vào một chỗ

2)  Di chuyển giữa đường chính hay đi xuống ruộng chứ không được đi ở lề đường, chỗ có cỏ mọc (vì dễ đạp mìn của CS). Sở dĩ Ông Quận Trưởng phải chỉ thị như vậy vì chúng tôi toàn là Sĩ quan mới ra trường chưa được bao lâu, thiếu kinh nghiệm tác chiến…

Chúng tôi di chuyển an toàn tới xã Cầu Khởi, lưu lại  độ 2 giờ để làm việc với xã và đồn lính ở đó…….

Quá trưa chúng tôi ra về. Đi được khỏi xã 2 cây số, giữa rừng cao su, chúng tôi bị CS phục kích, súng nổ vang trời. Lính CS chạy khơi khơi giữa rừng cao su, lần đầu tiên trong đời tôi thấy cảnh như vậy. Ông Quận chỉ huy tổng quát, la lớn để cho CS có thể nghe được: “Đừng đuổi theo nó (Thực tế là lính mình đang tìm địa thế phòng thủ…). Coi chừng Pháo binh sẽ bắn lộn, pháo binh sẽ bắt đầu bắn đó..”..Tôi quay lại hỏi ông Sĩ quan Tiền sát Pháo binh:” Đã liên lạc đươc với Pháo binh chưa ?”, Ông Sĩ Quan pháo binh buồn rầu lắc đầu.Tôi hiểu ngay là Ông Quận lại dùng đòn ly gián, ta chưa hề liên lạc được với pháo binh mà Ông la lớn là Pháo binh bắt đầu bắn. Súng vẫn nổ…chúng tôi không có ai bị trúng đạn vì đã nấp vào chỗ kín đáo…..Sau một hồi lâu cũng không có Pháo binh bắn yểm trợ (Tất nhiên vì đơn vị pháo binh cách chúng tôi trên 10 cây số, như Bén Kéo, nơi đặt bộ chỉ huy Trung đoàn hay Chi khu Quận Châu Thành mới có Pháo binh). Sau dó Ông Quận lại la lớn:” Đã liên lạc được với Không quân, oanh tạc cơ sẽ đến oanh tạc, đâu nằm đó để tránh nhầm lẫn, phi cơ sẽ tới….”…Tôi cũng hỏi có phi cơ không, Ông Sĩ quan Tiền sát cũng lắc đầu vì chưa liên lạc được với phi cơ……Nghe gọi Pháo binh và Phi cơ, CS bắn độ 20 phút rồi tự động rút lui, …Sau khi không còn tiếng súng, chúng tôi tiếp tục di chuyển trên đường về Quận….

Về tới Quận, các Sĩ quan Chi khu ai cũng thấm mệt, riêng tôi nhờ đã ở Lò Luyện Thép Đồng Đế Nha Trang, phải đi bộ  70, 80 cây số với hành trang độ 15 kg mà không thấy mệt, thì cuộc lên xã Cầu Khởi này đi về có 30 cây số, lại không có hành trang thì đối với tôi quá nhẹ nhàng. Tôi cám ơn trường Đồng Đế Nha Trang…và một lần nữa cám ơn Ông Quận Trưởng  với  quá nhiều kinh nghiệm về tác chiến!

Hôm đó cũng xui xẻo là phía Sĩ quan Cố vấn Mỹ cũng không liên lạc được với hệ thống của họ (Cố vấn Mỹ có hệ thống liên lạc riêng, thường họ gọi máy bay rất lẹ…) . Cũng may mà không phải là cuộc đụng trận nặng, nếu đơn vị CS lớn và cố tình đánh chúng tôi thì không biết sự tổn hại sẽ ra sao.?….Từ hôm đó Cố vấn Mỹ cũng học hỏi nơi ông Quận về kinh nghiệm đánh lừa CS…… Khi đụng trận mới thấy Cố vấn Mỹ rất tầm thường, mặt tên nào cũng tái xanh…trông tội nghiệp, nhất là khi không liên lạc được với các cố vấn Tiểu khu để xin máy bay yểm trợ…HẾT

Tù Binh

Tù Binh

Tù binh bị đồng đội căm hận và báo thù đến chết, 60 năm sau, phát hiện từ một gốc cây gây chấn động nước Anh!

Roddick là một tù nhân chiến tranh người Anh. Anh bị bắt trong một lần kém may mắn và giống như nhiều tù nhân khác, Roddick bị áp giải đến một trại tập trung ở Đức.

Trong trại tập trung có gần 1000 tù binh, toàn bộ đều là người Anh. Họ bị đối đãi thậm tệ đến mức khó có gì lột tả hết, không khác gì loài vật và phải làm những công việc vô cùng nặng nhọc.

May mắn là, Roddick là một binh sĩ huấn luyện kỹ năng lái xe tải trong quân đội Anh. Trong trại tập trung của Đức, vị trí này lại thiếu rất nhiều nên tại đây, anh được chiêu mộ làm lái xe.

Tất nhiên, trong số những tù binh Anh ở trại tập trung đó, không ít người có kỹ năng lái xe nhưng chẳng ai tình nguyện làm công việc đó, bởi nhiệm vụ của việc lái xe là chuyên vận chuyển những chiến hữu chết đói và bị sát hại mỗi ngày đến nơi chôn cất.

Tuy nhiên, Roddick lại tỏ ra rất nhiệt tình với công việc này. Anh nói mình sẽ vui vẻ làm tốt công việc được giao.

Và như vậy, Roddick cuối cùng đã là một lái xe của Đức quốc xã và cũng kể từ đó, anh trở nên thô bạo và tàn nhẫn với chính đồng bào mình.

 Không chỉ quát tháo, lớn tiếng với các tù nhân, anh còn dùng bạo lực, nắm đấm hướng về phía họ. Thậm chí, có tù nhân rõ ràng chưa chết, anh vẫn cố tình vứt lên xe.

Lẽ dĩ nhiên, tất cả những tù binh đều tỏ ra căm hận con người này, đồng thời dùng nhiều cách khác nhau để cảnh cáo Roddick. Nghe xong, anh vẫn bỏ ngoài tai, việc mình mình làm. Các tù binh không tiếc lời mắng nhiếc Roddick là tên cẩu tặc, kẻ bán nước, loài chó săn…

Nhưng cũng chính nhờ đó, quân Đức quốc xã càng lúc càng thích thú và tín nhiệm Roddick. Ban đầu, khi anh lái xe ra khỏi trại tập trung, binh sĩ Đức quốc xã đều chặn xe lại kiểm tra, giám sát từng cử động nhưng về sau, anh có thể ra vào thoải mái mà không hề bị kiểm soát. 

Chiến hữu của Roddick cũng ngầm công kích anh, không ít lần thiếu chút nữa thì bị họ đánh cho mất mạng.

Sau một lần bị đánh thừa chết thiếu sống, Roddick vĩnh viễn mất đi một cánh tay, đồng thời, anh cũng mất đi giá trị lợi dụng. Không còn có thể tiếp tục lái xe, Roddick như chiếc bị rách bị quân Đức quốc xã vứt ra bãi rác.

Không còn được quân Đức bảo hộ, Roddick nhanh chóng rơi vào trận địa báo thù vô tình của các tù nhân chiến tranh Anh. Một ngày mưa, trong một hoàn cảnh cô độc đến thê lương, anh chết cạnh một góc tường ẩm ướt trong trại tập trung của người Đức.

Ảnh minh họa.

Người cứu mạng tôi, trở thành người tôi hận nhất

60 năm đã trôi qua, người dân ở quê hương Roddick dường như sớm đã quên mất anh còn những người trong gia tộc cũng cố tình né tránh tất cả những việc làm liên quan đến con em mình.

Cứ như thế, Roddick bị chôn vùi trong cát bụi của thời gian.

Thế nhưng bỗng nhiên có một ngày, một tờ báo có lượng phát hành không nhỏ của nước Anh đã đăng tải một bài viết có tựa đề “Người cứu tôi, là người tôi hận nhất” ở ngay vị trí bắt mắt nhất trang nhất. 

Nội dung bài báo như sau:

Trong tại tập trung của Đức quốc xã có một tên phản đồ tên Roddick, cam tâm bán mạng cho tụi Nazi (ám chỉ Đức quốc xã). Ngày hôm đó, tôi ốm nhưng chưa chết, thế nhưng anh ta vẫn vất tôi lên xe tải và nói với bọn Đức là đem tôi đi chôn.

Tuy nhiên, điều khiến tôi không thể ngờ đến là, khi xe chạy được nửa đường, Roddick dừng xe, nhấc tôi đang thoi thóp ra khỏi xe và đặt tôi xuống dưới gốc một cây cổ thụ, để lại vài mẩu bánh mỳ đen và một bình nước, vội vã nói với tôi: Nếu như anh có thể sống, hãy đến thăm cái cây này rồi cấp tốc lái xe đi mất.

Sau khi câu chuyện ngắn ngủi này được đăng không lâu, tòa soạn báo liên tục nhận được điện thoại gọi đến và không một ai ngoại lệ, tất cả đều là cựu binh chiến tranh Thế giới thứ hai và đều là những chiến binh già không may từng bị bắt làm tù binh.

Một điều nữa càng khiến người ta không tưởng tượng được, là không một ai ngoại lệ, 12 cựu chiến binh gọi điện đến đều từng ở cùng nhau trong một trại tập trung của Đức – đó là trại tập trung mà Roddick đã ở.

Những câu chuyện do chính 12 cựu quân nhân kể ra, dường như đều là bản sao của câu chuyện đã được đăng tải trên mặt báo: Họ đều được Roddick đặt xuống dưới gốc cây và nhờ đó mà thoát chết.

Điều khiến người ta chú ý hơn là, mỗi lần Roddick lái xe ra khỏi trại tập trung, anh đều nói với các chiến hữu rằng: Nếu anh có thể sống, hãy quay lại thăm cái cây này.

Người biên tập và giới thiệu bản thảo của bài viết là một cựu biên tập từng tham gia chiến tranh. Dựa vào trực giác nghề nghiệp, ông phán đoán một cách nhạy cảm, rằng cái cây mà Roddick nhiều lần nhắc đến, nhất định phải chứa đựng nội dung gì đó.

Và ông lập tức tổ chức các cựu binh, hợp thành nhóm 13 người, men theo con đường năm xưa họ trốn chạy để tìm cái cây vốn không thể phán đoán liệu nó tồn tại hay không.

Khi đoàn người đến được điểm đến, rừng núi vẫn như xưa, cái cây cổ thụ vẫn ở đó. Một cựu binh không kiềm chế được cảm xúc, chạy về phía trước ôm thân cây, khóc lớn. Trong một cái hộc ở gốc cây, người này phát hiện một cái hộp sắt đã hoen gỉ từ bao giờ.

Ảnh minh họa.

Khi mọi người xúm lại lấy và mở chiếc hộp ra, họ phát hiện một cuốn nhật ký nhiều trang đã loang lổ và trong đó là một tấm ảnh đã mốc theo thời gian. Nhẹ nhàng lật giở cuốn nhật ký, cựu biên tập viên bắt đầu đọc:

Hôm nay mình lại cứu được một chiến hữu, đây đã là người thứ 28 rồi… cầu mong anh ta có thể sống được…

Hôm nay, 20 chiến hữu của mình đã chết…

Đêm qua, các chiến hữu lại một lần nữa mạnh tay với mình… Nhưng mình phải kiên quyết đến cùng, cho dù thế nào đi nữa mình cũng không được nói ra sự thật, như thế, mình mới có thể cứu được thêm nhiều người khác…

Các chiến hữu thân yêu, tôi chỉ có một hy vọng, nếu các bạn còn sống, xin hãy quay lại thăm cái cây này.

Giọng của vị cựu biên tập ứ nghẹn lại, những cựu binh khác đã rơi nước mắt tự khi nào không hay. Những mái đầu hoa râm đứng dưới tán cây cổ thụ, cho đến lúc đó mới hoàn toàn nhận thức thật rõ ràng, rằng Roddick đã cứu tất cả 36 tù binh của Anh Quốc.

Hôm nay, những người còn sống trên đời, có lẽ không chỉ có 13 người đi tìm lại gốc cây năm xưa.

Cuốn nhật ký và tấm ảnh liên quan đến trại tập trung được lưu lại ở hộc cây, đó là bằng chứng thép vạch trần tội ác của Đức quốc xã với thế giới, nó cũng là bằng chứng thép cho thấy Roddick không tồi tệ như các chiến hữu năm xưa đã đánh giá về anh. 

Roddick đã chấp nhận mọi đau khổ, thậm chí là chấp nhận cả cái chết dù anh biết mình đã bị hiểu lầm.

Chia tay với các cựu binh, vị cựu biên tập nhanh chóng cho đăng tất cả những câu chuyện đủ hay, đủ sức lay động hàng triệu triệu trái tim trên khắp thế giới trên trang bìa của tờ báo mình đang cộng tác.

Vì được báo chí đưa tin mà khung rừng già cùng gốc cây lưu lại dấu tích của Roddick kia bỗng trở nên náo nhiệt. Không ít người đã tự tìm đến đây, cúi đầu trước người chiến binh thực sự vĩ đại, thể hiện sự tôn kính của họ dành cho anh. 

Lẽ đương nhiên, Roddick trở thành anh hùng của nước Anh.

Một tác gia đến thăm khu rừng này, bó một bó họa rừng không rõ tên đặt trước bia kỷ niệm mộc mạc và ngồi lại dưới gốc cây thật lâu.

Về sau, ông ta lấy bút ra viết một đoạn cảm xúc ra cuốn sổ của mình. Ông cảm giác, mình có trách nhiệm phải nói với mọi người: 

Sự hoàn mỹ luôn cần có cái giá để đánh đổi, không có tinh thần trách nhiệm lớn lao, không có sự hy sinh bất khuất, không có một tinh thần thép, tuyệt đối không thể làm được!

Khát vọng hoàn mỹ là quyền của mỗi con người. Có những lúc, sự hoàn mỹ đó vì bị môi trường thúc ép mà hình thức biểu hiện của nó trở nên khác với nguyện vọng ban đầu, vì thế mà tạo nên sự hiểu lầm, dẫn đến những ánh mắt thù địch.

Điều này nhất định sẽ hình thành nên một loại áp lực xã hội vô cùng lớn. Thế nhưng người có thể vì sứ mệnh cao cả của sự hoàn mỹ, từ đầu đến cuối chấp nhận mọi oan ức, đau đớn, hiểu lầm… tên tuổi của anh ta sẽ trở thành một lá cờ luôn đương giương cao, cao mãi.

Roddick là một người như thế.

Và trên thế giới này, tôi kính phục nhất một kiểu người mà trong hoàn cảnh ác liệt và tồi tệ, họ thà chấp nhận gánh nặng trên vai và bước tiếp thay vì sống vô trách nhiệm, để mặc đời muốn trôi đến đâu thì đến! 

From: Do Tan Hung & KimBằng Nguyen

 Người Bảo Trợ Của Tôi ( từ FB Huy Nguyễn Đình)

 Người Bảo Trợ Của Tôi ( từ FB Huy Nguyễn Đình)

Đọc được bài này trong ngày Phụ nữ Quốc Tế (International Women’s Day), thật là có ý nghĩa. Xin được chia sẻ 

 Chồng chết tại một xứ sở xa lạ, bỏ người vợ trẻ  ở lại nhà, mà người đàn bà Mỹ này đã không bước đi bước nữa đã là chuyện lạ rồi. Mà còn cưu mang những người lạ chỉ vì họ đến từ nơi mà chồng bà đã bỏ mình, tình yêu người đàn bà này dành cho chồng thật là hiếm có. Thật là trớ trêu cho dân tộc VN, người cùng chủng tộc thì giết nhau chẳng nương tay dưới chiêu bài “Đánh cho Mỹ chết, Ngụy nhào để thống nhất đât nước, dành Độc Lập”, nhưng rút đi rút lại thì có nhiều người dân Mỹ đã thương yêu, đùm bọc cho dân Việt hơn chính người Việt đối với nhau. Người cộng sản VN đọc bài viết này nghĩ sao? Có biết nhục không?  

 Dân VN trong nước đọc bài này có nhìn ra được cái gì không? Độc lập được 45 năm rồi đó. Sao vẫn có quan thầy chỉ đạo từ phương Bắc.

DH

Người Bảo Trợ Của Tôi ( từ FB Huy Nguyễn Đình)

                          Với lý lịch 8 năm tù trong trại cải tạo CS, gia đình tôi sang Mỹ theo diện H.O. 15, đầu trọc: không thân nhân bảo trợ. Tôi đã trải qua. Ngày cùng vợ con lên phi trường ra đi, cũng là một ngày đầy nước mắt. Cha tôi đã chết đúng ngày tôi lên đường. Ngày đi không thể rời. Chỉ còn cách quỳ lạy xác cha. Tạ từ mẹ già và người thân, tôi lặng lẽ cúi đầu ra đi không 1 người đưa tiễn. Ngồi trên phi cơ mà tưởng chừng như tôi đang ngồi trên đống lửa. 

             Rồi đọan cuối của cuộc hành trình đã đến. Theo chân các hành khách , tôi dắt dìu vợ con ra khỏi máy bay. Ra đón gia đình chúng tôi có một số người Mỹ và VN, tôi còn đang ngỡ ngàng với người và cảnh quá lạ xa nầy thì môït bà đầm Mỹ đến ôm tôi và trao bó hoa, chụp hình lưu niệm. Sau vài sự giới thiệu (mà lúc đó đầu óc tôi trống rỗng) gia đình tôi đươc bà Mỹ bà bảo trợ tên là Helen dẫn ra xe và chở vê một apartment mà bà đã thuê sẵn. Vợ chồng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác khi thấy sự chuẩn bị quá ư đầy đủ của bà bảo trợ: từ cục xà bông, cái khăn tắm, cuộn giấy đi cầu đến cái móc áo… moi vật dụng cần thiết đêu có sẵn, tại phòng khách với chiếc TV hiệu SONY 20 inch mà cả cuộc đời tôi không bao giờ dám mơ ước tới thì nay đã hiện hữu và từ nay tôi không còn phải lội bộ thật xa đến xóm chợ đầu làng để xem những trận đá bóng với cái TV cà rịch cà tang… Còn 2 thằng con tôi thì hả hê với chiếc máy game. Vợ tôi cứ xuýt xoa mãi sao mà họ tử tế quá… tôi còn được biết (qua người VN dịch lại) là tiêøn nhà tháng đầu bà bảo trợ đã tặng cho tôi. Sau khi đã chỉ dẫn những cách xử dụng vài vật dụng cần thiết trong nhà cũng như những điêu không được làm như không mở cửa cho người lạ mặt .v…v… mọi người từ giã ra vềâ riêng bà bảo trợ thì dặn tôi chuẩn bị các thứ giấy tờ cần thiết để sáng mai bà đến đón gia đình tôi lúc 9 giờ. Bà còn nói đùa là nhớ mở cửa cho bà… Cả đêm đó tôi trằn trọc không sao ngủ được dù người tôi mệt mỏi rã rời sau chuyến hành trình dài. Sáng hôm sau và dài dài sau đó, bà bảo trợ đã đón đưa gia đình chúng tôi đi làm những thủ tục lúc đầu như làm thẻ An sinh xã hội, khám sức khỏe, nộp giấy tờ cho 2 con tõi đi học và hướng dẫn vợ con tôi chỉ bảo tôi từ đường đi nước bước cho đến khi tôi bắt đầu thi đậu lái xe thì bà nghĩ rằng tôi có thể tạm quen dần với cuộc sống nên thỉnh thoảng khi có việc cần bà mới đến, tuy nhiên những ngày Chủ Nhật bà thường đưa gia đình tôi đi sau đó về chơi và ăn uống ở nhà bà rồi bà dạy Anh Văn cho vợ chồng tôi.

             Căn nhà bà ởø một nơi thật yên tĩnh và có vườn hoa xinh xắn, qua tâm tình với bà tôi đươc hiểu rõ vê lý do tôi được bà bão lãnh, bà kể lại rằng sỡ dĩ bà chọn bảo trợ tôi vì khi đọc hồ sơ ờ Hội Từ Thiện USCC được biết đơn vị của tôi ngày xưa đóng ởø PLEIKU mà nơi đây chồng bà đã công tác rồi mất tích. Bởi địa danh Pleiku cứ ám ảnh tâm trí bà và trong những giấc mơ, Bà thấy chồng hiện về mặt mũi đầy máu và nói rằng ông đã được 1 người nông dân VN cứu nhưng vì vết thương quá nặng nên ông không sống được! Bà cũng đã cho tôi xem những bức hình chồng bà chụp những cảnh Pleiku như Biển Hồ, núi Hàm Rồng, hình người Thượng mang gùi dẫn nhau từng đàn trên đường ra chợ… tất cả đối với bà là những kỷniệm còn sót lại của chồng bà nhưng đối với tôi là cả 1 vùng trời kỷ niệm thân thương của cuộc đời quân ngũ. Chồng bà đã mãn nhiệm kỳ ờ VN nhưng tình nguyện ở lại công tác tiếp và bị mất tích, bà tự hỏi không hiểu cái gì ở VN đã hấp dẫn chồng bà. Bà còn kể cho tôi nghe vài món ăn VN mà chồng bà ưa thích và nay thì bà đang thực tế cùng ăn với gia đình tôi và tỏ ra thích thú lắm. Tình thân giữa gia đình tôi và bà bào trợ càng ngày càng thấm thiết. Vì không có con cái nên mọi tình thương bà dồn cho 2 đứa con tôi. Thời gian khi con tôi đau phải nằm bệnh viên, ngày nào bà cũng đến chăm nom săn sóc với nỗi lo hiện trên nét mặt như chính người thân yêu của bà.

 Tôi thỉnh thoảng vẫn đến dọn dẹp mảnh vườn nhỏ của bà, bà trả thù lao nhưng tôi từ chối thì bà tế nhị mua cho vợ hoặc con tôi những thứ khác. Bà cho biết bà đang làm việc tình nguyện ở một bệnh viện và thỉnh thoảng bà có cộng tác với Hội Chữ Thập Đỏ. Đôi khi tôi thấy bà đem quần áo về nhà giặt sạch sẽ, ủi cẩn thận và bỏ vào thùng mang đi. Bà âm thầm làm việc liên tục, ít khi thấy bà nghỉ ngơi và lúc nào bà cũng vui vẻ biểu hiện qua khuôn mặt đầy lòng nhân ái. Thỉnh thoảng bà cũng thường hay hỏi tôi về đời sống người dân ở VN. Bà rất quan tâm và thông cảm với những khốn khổ mà người VN đang gánh chịu. Khi biết có bão lụt ở VN, bà rất tích cực đóng góp vào công việc cứu trợ, nhất là bà thường gời tiền giúp cho trẻ em Cô Nhi Viện VN. Một hôm thật tình cờ tôi gặp bà cũng đến hiến máu ở Trung tâm Hiến Máu thành phố, tôi càng thấy thương và kính phục bà nhiềøu hơn. Gặp nhau tại đây, bà nhìn tôi với ánh mắt thông cảm và hài lòng khi thấy tôi cũng hiện diện, nhìn tấm thẻ ghi ngày hiến máu của bà đã gần hết chỗ ghi ngày tháng tôi đựợc biết thêm đây không phải là lần đầu tiên bà đến đây. Tại nơi nầy tôi cũng được dịp quan sát và thấy người Mỹ họ đi hiến máu thật đông mà giới trẻ đi hiến máu cũng không phải là ít, tôi ao ước trong cộng đồng VN chúng ta mọi người động viên nhau đến với Trung Tâm Hiến Máu thì thật là quý báu lắm thay. Sau nầy có lần bà hỏi tôi bên VN có đi hiến máu đông không, tôi thật tình kể với bà rằng tôi chỉ thấy chỉ có những người dân nghèo ở Sài gòn phải đi bán máu để kiếm sống, bà tỏ ra xót xa!

                 Càng gần gũi biết vêà bà tôi càng thương bà hơn. Tôi kính trọng bà như chị ruột của tôi, gặp những gì khó khăn tôi thường đến nhờ bà hướng dẫn và ngược lại bà cũng không giấu tôi những nỗi niềm riêng tư của bà. Bà đã bỏ đi cả quãng đời thanh xuân để sống âm thầm với kỷ niệm mặc dù có bao chàng trai đã đến cầu hôn bà khi bà là 1 thiếu nữ trẻ đẹp. Sự thủy chung của bà như viên ngọc quý giữa cái xã hội thay chồng đổi vợ như thay áo ở xứ Mỹ văn minh nầy. Theo bà công tác từ thiện đã giúp bà vượt qua mọi cám dỗ để đứng vững đến ngày hôm nay. Có lần tôi hỏi bà sao không nuôi chó hoặc mèo cho vui” Bà nói bà cũng thích và thương thú vật lắm nhưng bà phải dành thì giờ làm những công việc khác có ích hơn và tiền mua thức ăn cho súc vật để dành giúp cho người nghèo có được miếng sống thì quý hơn. Từ những suy nghĩ đơn sơ đầy tình người, những giúp đỡ thiết thực của bà đối với người dân nghèo VN và cá nhân gia đình tôi, tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói lên lòng biết Ba. Tôi chỉ cầu xin ơn trên cho bà luôn được mạnh khoẻ để đem tình thương đến cho mọi người. Một hôm bà nói với tôi rằng từ lâu bà ao ước được đi thăm VN một chuyến, nhất là đi đến cái xứ Pleiku đó, bà muốn tôi cùng đi và nói khi nào tôi sẵn sàng đi được thì báo cho bà biết. Qua Mỹ hơn 4 năm, tôi cũng nhớ Mẹ già và quê hương lắm, muốn vềø thăm nhưng ngặt nỗi nếu đi cả vợ chồng và 2 đứa con vào dịp Hè thì quá tốn kém. Như hiểu được khó khăn của tôi, Bà nói sẽ tặng vé máy bay cho cả gia đình tôi. Nói vậy chứ tôi đâu dám nhận vì vợ chồng tôi dã mang ơn bà nhiềøu qúa. Cuối cùng tôi đã báo cho bà là dịp Hè tới được nghỉ, tôi và thằng con trai lớn sẽ cùng bà đi VN, bà vui mừng ra mặt, tôi chưa thấy lần nào bà vui như lần nầy. Bà nói được đi VN là bà mãn nguyện lắm. Bà đưa ra những dự tính phải làm khi đến VN. Thời gian như ngắn lại, bà đếm từng ngày, chỉ còn ba tuần nữa thôi.

              Nhưng rồi tang thương lại một lần nữa ập xuống. Một buổi chiều thứ sáu như thường lệ trên đường từ Hội Chữ Thập Đỏ về nhà, xe bà đã bị 1 xe truck do một tài xế VN đụng phải và bà đã trút hơi thở cuối cùng nơi bệnh viện không một người thân. Nhận tin mà tôi tưởng chừng như xung quanh đất trời sụp đổ, tôi chết lặng hồi lâu. Cuộc đời sao quá oan nghiệt, ước nguyện thật nhỏ nhoi của bà đã không thành. Biết đâu Thượng Đế muốn dành cái chết như phần thưởng cho riêng bà. Biết đâu giờ này bà đã gặp lại chồng bà và 2 ông bà đang hạnh phúc bên nhau nơi miền miên viễn. Có lẽ Thượng Đế không muốn bà phải lặn lội đường xa tìm tin tức chồng trong vô vọng và Ngài cũng không muốn bà phải tận mắt chứng kiến cảnh khốn khổ của người dân VN đang sống duới chế độ phi nhân của CS. Gia đình tôi hoà lẫn giữa đám đông người Mỹ trong đám tang thật cảm đông để đưa tin bà lần cuối, viếng xác bà khi còn đặt ở nhà quàng, tôi thấy măt bà đã được trang điểm thật đẹp, trông bà thật thanh thản và mặt bà như có vẻ mãn nguyện… tôi muốn đuợc ôm từ biệt bà lần cuối và thét lên rằng: “Chị ơi sao đành bỏ em!” Vợ tôi đã ngất xỉu khi quan tài bà hạ huyệt. Sau cái chết của bà, gia đình tôi thấy thật trống vắng, 2 con tôi lúc nào cũng nhắc tới bà với nhiều nhớ thương. Vợ chồng tôi cũng dự định chuyển đi tiểu bang khác ấm áp hơn để hy vọng tìm 1 chút an bình. 

             Nay ngồi ngẫm lại những sự việc xảy ra: ngày bà chết cũng đúng vào ngày cha tôi mất (mùa lễ Phục Sinh). Rồi cả bà và chồng bà đều chết bởi người VN gây ra, tôi không hiểu tại sao có thể như vậy… Lòng tôi quặn thắt khi nghỉ đến bà, gia đình tôi mang ơn bà mà không bao giờ trả đươc. Nhớ thương bà tôi chỉ biết đặt ảnh bà cùng chung với bàn thờ cha tôi, cha mẹ tôi đã sinh ra tôi còn bà đã cho tôi lý tưởng sống. Bây giờ trên bàn thờ cha tôi có thêm bức hình của bà Helen. Chị ngồi đây với cha tôi và hàng năm ngày cúng giỗ cha tôi cũng là ngày tôi cúng giỗ chị. Mộ chị sẽ không quạnh hiu vì có chúng tôi đến với chị như khi chị còn sống trên cõi đời nầy. Sau đám tang bà Helen một thời gian, một hôm tôi sững sờ khi luật sư báo cho biết theo di chúc, bà Helen để lại tặng cho vợ chồng tôi căn nhà của bà và ngoài ra bà còn tặng 100 ngàn đôla cho Cô Nhi Viện ở VN. Khi gia đình tôi phải dọn về căn nhà của ba,ø tôi tự hỏi mình đã làm gì để được hưởng phần thưởng nầy. Suốt cuộc đời tôi phải sống trong ân tình ngút ngàn mà không bao giờ trả được. Trước mộ bà, tôi thầm khấn vái “chị Helen sống linh chết thiêng xin phù hộ gia đình tôi, dẫn đường soi lối cho tôi đi theo lý tưởng của chị: sống vì mọi người.

TAM NGUYỄN

From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

CHUYỆN ÔNG BÀ TÁM…

Image may contain: one or more people
No photo description available.
No photo description available.
Image may contain: 2 people, people sitting, child and outdoor
Stephen Nguyen is with Tu Ma Gan Nguyen and 16 others.

CHUYỆN ÔNG BÀ TÁM…

Ông Tám nặng nhọc xách từng bao giấy toilet, giấy tissue, mấy bao gạo Bông Hồng, vài thùng mì tôm, mấy lố xì líp, sú cheng…đủ thứ hầm bà lằng xắng cấu lôi ra từ cốp xe đem vào garage. Hơn 20 bao Kleenex tổng cộng, chật ních cái xe Kluger của ông. Mỗi bao Kleenex 36 cuộn, nặng cũng tầm vài ký. Ông lẩm bẩm :”mua gì mà dữ thần zậy trời, sợ zìa thiên đường hổng có sao ta, khùng!” Nghĩ bực dọc thế thôi, già rồi , gần 80, mới về hưu được chục năm nên ông cứ từ từ làm theo ý bả , cu ky như tầm ăn dâu, rồi cũng xong.

Bà Tám hôm nay trông hớn hở lắm. Dự trữ được từng này thứ bà xem như một thành tích. Bả “phe “ với chồng, phải ngó dọc liếc ngang, chân nhảy tưng tưng như sáo mới mua được như thế đó, đám trẻ chưa chắc bằng bà nhe.

Còn ông, vốn gốc con nhà nông, thường không ngại khó. Chỉ có điều, già nhân ngãi bao năm, nên ông hiểu tính nết bà Tám, bả bảo sao thì ông làm, miễn cãi, miễn hỏi, miễn bàn, phiền sóc óc lắm. Tiền hưu hai người thì bả thâu về một mối, một tay bả quán xuyến. Được cái bả hổng dám xài tầm bậy, chỉ xài…tầm bạ không hà:-)))

Nhớ cái thời còn ở Giồng Ông Tố, Thủ Thiêm, cầu tiêu thì nhà có nhà không, nhà không có thì đi nhờ nhà có. Đa số làm kế hông nhà, mé sông, nối miếng ván ngắn từ trong nhà ra, miếng ván dài từ ngoài đường vào, tiện cho chòm xóm nhà ai không có cầu tiêu mà muốn đi nhờ khỏi cảm thấy ngại ngùng. Cầu tiêu kiểu này mọi thứ thải thẳng ra sông biển, nuôi cá, nuôi tôm. Được cái thích thú là ngồi lúc gió nhẹ hiu hiu thì mát cái mông phải biết; còn gặp lúc gió mạnh thì lại tạo cảnh “đong đưa, lúc lắc” trữ tình, cảm giác thật thú vị râm ran.

Thời đó dân quê chỉ biết giấy quyến gói thuốc hút, giấy báo gói đồ chứ làm gì có giấy cuộn để chùi này chùi kia như thời nay. Lá mít, lá chuối, lá ổi … trong vườn là những mặt hàng chiến lược thiên nhiên có từ thời cha ông truyền lại. Xài hoài không hết. Mãi đến tận gần cuối thế kỷ 20 mới bày đặt ra nào là Kleenex , Sorbent, Quilton, Soft Touch…, mọi thứ từ Sài Gòn theo những chuyền phà Thủ Thiêm đổ về vùng này theo sự “lên đời” của cầu tiêu bồn hiện đại mới tuynh nơi mỗi hộ.

Đang miên man lội ngược giòng về quê cũ, bỗng tiếng bà Tám lanh lảnh từ trong nhà vọng ra: “Tía thằng Hai để đám sú cheng , xì líp của tui ở đâu zị?” Ông Tám uể oải đứng dậy từ cái ghế góc vườn, vào garage lôi đám “lôm côm” của vợ ra. Bỗng ổng dại miệng cắc cớ hỏi:” dịch viêm phổi cấp mà bà mua mấy thứ này chi mà dữ zị, zới lại toàn size C, D cupping con gái không hè, tui nhớ bà size E “full circle “ mà! Bà Tám giựt đám đồ từ tay ông rồi lườm ông một cái :”Ông già rồi mà còn rành size này size kia dữ heng. Nói để cho ông mở tai, mở đầu, mở óc ra nè. Nãy ông đi shop mà hổng để ý mấy cái kệ để khẩu trang sạch trơn rồi hả, đến một lúc ông phải xài những thứ này đó nhe, đừng có mà cắc cớ, không chụp giựt được đám này thì có ngày ông phải xài luôn miếng “ Care free” nhỏ xíu thay khẩu trang nha ông! “ Bà Tám vừa nói vừa dứ dứ cái đám “ khô mực” ấy vào mặt ông rồi bỏ đi.

Ông Tám bó tay chẳng nói gì thêm. Ông trở ra vườn, lại miên man suy nghĩ đến con Corona. Xem ra nó nguy hiểm thiệt. Ở Sydney chớ đâu phải nơi cái đất phèn Thủ Thiêm đâu mà như sắp tận thế đến nơi vậy cà? Chánh phủ ông Cót người ta phải bảo đảm mọi nhu cầu của dân chúng khi lâm cảnh nguy hiểm cần kíp chớ. Ai cũng như bả, kẻ dự trữ, kẻ đầu cơ kiểu này có ngày chưa bịnh thì đã ngủm vì giết nhau, giành giựt ba thứ không đâu rồi.

Nghĩ thế, ông lại dại miệng ca cẩm hò lơ:

“ Hò lơ…ơ…ơ…
Đèn Sài gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Sydney ngọn tỏ ngọn thì …quá lu
Bà zìa bà học chữ u….”

Chưa dứt câu bỗng giọng bả vọng ra:
“ Nè, ông đang càm ràm chì chiết ai zậy ông?”

“ A hèm, tui hát bâng quơ vu vơ vậy mà, có gì hông bà?”

Bà Tám không trả lời, im lặng.
Một sự im lặng đáng sợ:-)))

Mùa dịch 05/02/2020

Stephen Nguyễn

Chú Tư Mạnh

Chú Tư Mạnh

Những năm đầu của thập niên 80 , sau 5 năm lưu đày ở Củ Chi , Tôi được về thành phố dạy 1 trường Cấp 3 ở gần nhà . Mỗi tuần chỉ có 12 tiết dạy của 3 lớp cuối cấp, chuẩn bị thi tốt nghiệp phổ thông . Rảnh rỗi dù thời gian này, cả nước đang đói . Nhưng tôi vốn vô lo , đến đâu hay đến đó, quanh quẩn với đồng lương chết đói , sống tạm qua ngày . Chẳng biết làm chi cho hết giờ, lại bày đặt Chơi Chim . Chơi ở vườn Tao Đàn, sáng sáng xách lồng chim , đạp xe ra , tụ nhau lại đấu láo và nghe chim hót . Và cũng từ đó thành lập 1 nhóm cùng ngồi với nhau .

Người cao tuổi nhất nhóm là Chú Tư Mạnh , hồi đó cũng khoảng 50 . Chú cao to như Tây , ăn mặc chải chuốt và thanh lịch như công chức cao cấp thời trước . Giọng rặt Nam bộ và hành xử cũng khá hào phóng với mọi người . Gia đình Chú thuộc loại giàu có , hồi đó đa số đều đi xe đạp hoặc xe gắn máy cũ mèm , Chú chơi xe Honda đời mới do đám viễn dương đem về bán , chiếc nào cũng giá mấy lượng vàng . Đôi khi cuối tuần , Chú lại đến bằng xe hơi Peugeot có tài xế lái . Lúc đầu , ai cũng tưởng Chú là cán bộ có chức vụ về hưu , nhưng dần dần hỏi chuyện hoá ra không phải . Chú là dân buôn bán từ xưa đến giờ . Chuyên bán vàng . Lúc đó nhà nước cấm dữ lắm , nhưng nhu cẩu xã hội vẫn có , nên Chú vẫn tiếp tục nghề xưa , dù là mua chui bán lậu . Chú có đến 3 căn nhà , toàn mặt tiền đường lớn , mà cái nào cũng to . Tụi tui cứ thắc mắc không hiểu với tài sản như thế mà sao gia đình Chú lại thoát được mấy lần đánh tư sản khốc liệt vậy ? Hoá ra là Chú có người em ở rừng về , làm chức gì lớn lắm trong uỷ ban thành phố , nên tài sản Chú được an toàn mà nghe đâu lại càng nhiều hơn khi có sự trợ thủ đắc lực của Chú Em . Sáng nào cũng vậy , Chú đều chơi dĩa bò kho bánh mì có bốn miếng thịt lớn , Chú bảo Chú rất thích món này , ăn hoài không thấy ngán . Thường thường , Chú ăn 2 miếng , còn 2 miếng bà chủ đã biết ý , luôn gói lại đưa Chú mang về cho 2 con chó Fox bé tí tì ti . Thời đó đói ăn , cả tháng làm giáo viên như tôi mới mua tiêu chuẩn được nửa kí thịt heo bạc nhạc với mỡ , nên thấy Chú ăn sáng như vậy , tụi tôi thấy Chú quá sang trọng , nên dù ngồi với nhau , tiếng nói của Chú vẫn có giá trị hơn hẳn . Người giàu sang lúc nào cũng thế , giữa mọi người họ vẫn có vị thế cao hơn 1 bậc , bởi họ nhiều tiền hơn đương nhiên tiếng nói của họ được vị nể hơn . Chúng tôi càng nể Chú hơn nữa khi gặp 2 đứa con của Chú . Chú có 2 đứa con , trai lớn gần 30 , cô con gái nhỏ khoảng 25-26 tuổi . Cả 2 đều rất lễ phép và cũng vừa lập gia đình . Mỗi lần đi đâu xa hoặc cuối tuần về quê chồng quê vợ , con Chú đều ra tận nơi sân chim để chào và xin phép Chú về thăm Cha thăm Mẹ . Lần nào cũng cúi đầu , khoanh tay chào hết mọi người khi đền cũng như lúc đi . Chú hãnh diện về điều này , mà tụi tôi cũng đồng ý về sự hãnh diện đó của Chú . Cái thời buổi nhiễu nhương , ông thằng thay đổi tá lả thế này , nề nếp gia phong lộn tùng phèo mà còn được những đứa con như thế thì hãnh diện là quá đúng rồi !

Nhưng hoá ra là đóng kịch cả, là mưu mô cả . Lần hồi, các màn kịch cứ he hé và lần lượt diễn ra, tụi tôi nhiều khi không tin được , không ngờ cuộc đời lại có nhiều chuyện khốn nạn đến thế . Khi xã hội Việt Nam bắt đầu mở cửa là lúc màn kịch bắt đầu .

Đầu tiên là căn nhà ba tầng ở Bùi Thị Xuân , căn nhà lâu nay giao cho anh con trai lớn ở và bán buôn . Một ngày đẹp trời vợ chồng anh về thưa với vợ chồng Chú là anh ta muốn sửa sang lại để biến thành khách sạn , bởi bắt đầu sẽ có khách du lịch về , doanh nghiệp qua , đón đầu như vậy mới thắng lớn được . Nghe bùi tai quá , vợ chồng chúng nó từ xưa đến nay ngoan ngoãn , biết lo làm ăn , chưa hề làm mất lòng 2 vợ chồng Chú . Thế là sang tên cho chúng để chúng chúng mở doanh nghiệp , xin giấy phép xây cất . Lại còn cho chúng mượn 300 lượng vàng làm vốn . Hai vợ chồng an tâm phần thằng Hai . Chúng nó làm ăn thành công thì mình lo chi tuổi già , xem như chia gia tài trước cho chúng . Giải quyết nhẹ bâng .

Lại đến cô con gái , cũng 1 đêm mát trời , con gái nằm gãi lưng cho mẹ vừa thủ thỉ : Vợ chồng con cũng đã lớn rồi , ba má cho chúng con ra riêng đặng lo cho tương lai . Ba má giao cho tụi con cái nhà ở đường Nguyễn Đình Chiểu đang cho thuê , tụi con dọn về đó mở tiệm vàng , bây giờ nhà nước cho tư nhân mua bán vàng , làm ăn tốt lắm . Ba má vẫn ở nhà này , tuổi già cần yên tĩnh mà ở chung thế này nhiều khi các con của con quấy quá làm phiền ba má . Nói nghe lọt tai quá , nghĩ cũng hợp lí quá , sang tên nhà , đưa thêm 300 lượng làm hàng bán . Lúc đưa vàng , vợ chồng Chú bắt phải có mặt Con Rể , hai vợ chồng cùng ký giấy mượn của vợ chồng Chú 200 lượng , còn 100 lượng kia cho hai đứa bây làm vốn . Thế là xem như xong chuyện của hai đứa con , hai vợ chồng Chú vui vẻ để lại tiếp tục sống cuộc đời hạnh phúc .

Đùng 1 cái , anh con trai lớn không biết làm ăn hùn hạp với ai , phải cầm cố nhà cửa , khách sạn . Rồi 1 ngày cả nhà trốn mất . Vượt biên . Khách sạn bị tịch thu , cửa khoá to đùng với tờ giấy dán chéo ghi : Vượt biên , phản quốc với mấy dấu đóng đỏ lòm . Chú Tư Mạnh ốm mấy tháng , Vợ Chú lên cơn đau tim phải vào cấp cứu . Thôi ! Của đi thay người , chỉ mong gia đình nó đến nơi bình an . Nhưng rồi , tin đến chẳng bình an , anh con trai chỉ đi ra được đến bãi là bị gài bắn chết ngay tại chỗ để bọn dân quân , công an cướp vàng . Cô vợ và đứa cháu bay ra được tàu lớn , nhưng rồi bão đánh chìm đâu đó ngoài biển sâu . Vợ Chồng Chú suy sụp hẳn , Chú vật vờ như mộng du , thương con , thương cháu đến đứt cả ruột . Một năm sau , không chịu thấu nỗi đau , không dằn nổi những cơn đau tim , Vợ Chú qua đời . Đến thắp nhang cho Thím , nhìn thấy mái tóc mới qua mấy đêm đã bạc trắng của Chú , chúng tôi xót xa cho bi kịch dồn dập đổ xuống gia đình của Chú . Cô con gái và chàng rể quấn khăn tang lo hậu sự , nước mắt vẫn lả chã nhưng trong đầu cũng đang tính chuyện mốt mai . Thế rồi khi tro cốt của Vợ Chú an vị ở Chùa , ngày cúng thất đầu tiên , hai vợ chồng cô con gái vẫn còn mang áo tang đề nghị với Chú : Má mất rồi , Ba tuổi đã lớn , ở đây 1 mình chẳng có ai chăm sóc gần gũi , gia đình mình giờ chỉ còn Con với Ba , Ba bán căn nhà này đi , cho chúng con mượn thêm , làm ăn bây giờ hơn nhau ở chỗ vốn nhiều mới mong thắng lớn , về ở với vợ chồng con , để con được săn sóc ba tuổi về già , lúc đau ốm , đỡ buổn lo , quạnh quẽ . Nghe đúng quá mà . Bây giờ chỉ còn mình nó , không ở với nó thì ở với ai ? Một mình giữ tiền chi cho nhiều , đưa cho chúng làm ăn , có phải là sinh lợi hơn sao . Nỗi buồn chưa lắng xuống , nên Chú Tư giao việc bán mua cho vợ chồng cô con gái , dọn về ở cùng con . Thế là cuối cùng , Chú chỉ còn độc ngôi nhà này .

Lúc đầu , ông Con Rể sắp đặt cho Chú ở lầu 1 , lên xuống cho dễ . Phòng này trước đây cháu ngoại của Chú ở , bây giờ nó dọn lên phòng trên . Phòng tiện nghi , có cửa sổ , có máy lạnh , giường nệm êm , Chú tự nghĩ thế cũng tốt , cũng là nhà của mình mà . Chú lại ra Chơi Chim với nhóm , dù không thường xuyên lắm . Tóc Chú trắng xoá , khuôn mặt buồn không còn vui vẻ như trước , nhưng hàng ngày vẫn dĩa bò kho bốn miếng thịt , ăn hai miếng đem về hai miếng cho hai con chó Fox bé tí tì ti .

Nhưng cuộc sống vẫn chưa yên . Hai vợ chồng cô con gái bắt đầu kiếm chuyện . Đầu tiên là mấy con chim . Trước đây ông con rể khi ra chỗ Chơi Chim thường xách lồng ra xe cho Chú , lặt cào cào cho chim ăn , hàng ngày phụ trách vệ sinh mấy lồng chim cho Chú . Bây giờ ông Con Rể ngạo ngược bảo chim cò bẩn cả nhà , trưa nghỉ 1 tí cũng không yên bởi tiếng hót lanh lảnh của nó . Chú Tư tắm chim , phơi nắng cho chim , hắn đi ngang đá lồng lăn lông lốc và bảo : chật chội , vướng víu quá ! Bực cả mình ! Đôi mắt Chú ngày càng buồn , miệng Chú càng ngày càng ít nói . Rồi từ lầu 1 , chúng dời Chú lên phòng sân thượng , ông con rể bảo cho Chú lên đấy để Chú tiện gần gũi với chim , để chim phía dưới mất vệ sinh , thức ăn rơi ruồi bu , kiến đậu , lông chim bay ảnh hưởng sức khoẻ của mọi người . Chú bằng lòng với sự sắp xếp của nó , dù mỗi lần lên xuống cầu thang , Chú phải nghỉ thở mấy lần . Hồi còn ở dưới , đến bữa cô người làm hoặc cháu ngoại còn lên mời Chú xuống nhà ăn cơm . Từ hồi lên trên này , chúng chẳng kêu , chẳng báo . Khi nào đói , Chú lặng lẽ lần mò xuống ăn . Thức ăn lỏng chỏng như đồ thừa , nhiều lần ngồi ăn , Chú rớt nước mắt . Chú thèm được 1 bữa cơm gia đình sum họp , đầy tiếng nói cười với những ánh mắt thương yêu . Mất hết rồi ! Chẳng tìm đâu thấy nữa . Hàng ngày , Chú xách lồng chim ra ngồi với chúng tôi chốc lát , đó là niềm vui còn sót lại trong ngày của Chú , Chú xem chúng tôi như người nhà , nên những chuyện buồn , bất hạnh của Chú , Chú đều kể cho chúng tôi nghe . Chú vẫn còn ăn món bò kho , nhưng không gói thịt về cho chó nữa vì chúng cũng đã bị cậu con Rể đá chết rồi .

Nghe tin Chú bệnh , nhóm chúng tôi đến thăm Chú . Bước qua cửa , chúng tôi được đón bằng cái nguýt dài của cô Con Gái , cái ánh mắt bực bội của chàng Con Rể . Chúng chẳng chào 1 tiếng , chẳng hỏi 1 câu làm chúng tôi ngỡ ngàng , sao con người biến đổi 1 cách lạ kỳ như vậy ? Chú Tư đón chúng tôi nơi phòng khách , kế bên cửa sổ nhìn ra sân , Chú không dám nhìn thẳng mắt ai , ánh mắt như muốn xin lỗi , ngượng ngùng . Ngồi chưa nóng đít , anh con rể vừa nhả khói thuốc vừa nói vọng vào từ ngoài sân : Ba đưa mấy Chú lên lầu , lát nữa tui có khách . Chú Tư nhìn ra , ánh mắt 1 thoáng như toé lửa , rồi hạ nhiệt ngay , cụp xuống đầy uất hận . Thấy không tiện , tụi tôi rút , ra về cũng không có 1 lời chào . Ai cũng chép miệng : Tội nghiệp Chú Tư . .

Cuối năm 92 , nhóm chúng tôi tản hàng , anh Ba cộng hoà đi HO chuyến áp chót , anh Nam mắt kiếng đi diện đoàn tụ gia đình , tôi bỏ dạy sau 1 màn ác chiến với tay hiệu trưởng vừa nhậm chức , tôi rời bục giảng , mở công ty , chen chân làm doanh nghiệp . Công việc bận rộn , chẳng còn thời gian đâu mà chim với cò , nên cũng chẳng có dịp để gặp Chú Tư Mạnh . Đôi khi gặp đám Chơi Chim ở Tao Đàn , hỏi thăm tin tức về Chú , có người bảo gặp , có kẻ bảo không , định bụng bữa nào ghé thăm Chú 1 bữa . Tình cờ 1 hôm đi qua nhà Chú , thấy người ta đập xây cao ốc mới , hỏi thăm mới biết nhà đã thay chủ , không biết gia đình Chú dọn đi đâu , có người bảo đã đi hết ra nước ngoài . Tôi bặt tin Chú Tư từ đó , lòng vẫn mong chú khoẻ , hy vọng ở nước ngoài , có viện dưỡng lão , Chú được vào đó cũng đỡ khổ thân .

* * *

Tết Nguyên Đán năm 2005 , thay vì tổ chức thăm hỏi , tặng quà cho trẻ bị bệnh ở khoa Nhi bệnh viện Ung bướu như mọi lần , công ty chúng tôi đổi hướng đi đến thăm những người già ở nhà dưỡng lão Thị Nghè . Thấy các bé còn nhỏ đã mắc bệnh nan y , thương cho chúng chưa hưởng gì ở cuộc đời đã mang bệnh chờ chết , đau xót lắm . Nhưng dù sao các cháu khi bệnh , đứa nào cũng có mẹ , hoặc cha , hay ông hay bà thay phiên chăm sóc . Còn ở đây , trong thế giới người già , là nỗi cô đơn cùng cực . Hầu hết các cụ ở đây đều không có gia đình , người thân , hoặc bị con cháu bỏ rơi . Họ cô độc trong những ngày tháng cuối của cuộc đời , họ chờ đợi trong vô vọng những ánh mắt thương yêu của người thân , họ khát khao được nhìn mặt , cầm tay cháu con , nhưng không bao giờ toại nguyện . Họ chậm chạp trong sinh hoạt và chậm chạp đến lần với cõi chết . Những căn phòng ẩm ướt , những áo quần chẳng lành lặn , những gói , những bao không biết đựng gì để đầy trên giường , dưới chân họ . Họ mừng khi thấy chúng tôi đến , họ vui khi nhận được quà , nhưng ánh mắt vẫn nặng trĩu nỗi muộn phiền . Ở cuối phòng , có 1 cụ già cứ lấy tay che mặt khi chúng tôi trao quà , tránh ánh mắt của tôi .

Tôi xong việc của mình , định ra , bỗng Ông Cụ buông tay , vươn cánh tay vẫy vẫy . Ông Cụ gầy gò , da bọc xương , hai xương vai nhô lên như hai mảnh nhọn , bụng trương lên như trống . Tóc lơ thơ rụng gần hết , mắt đục lờ với khuôn mặt nhăn nhúm , vàng khè . Trên khuôn mặt đó , tôi tìm thấy 1 nét quen thuộc của ai đó mình đã từng gặp trong đời . Tôi chưa nhớ ra .

Ông Cụ vẫn vẫy , tôi đi ngược trở lại và ông nắm lấy bàn tay tôi , nói nhỏ : Anh Ngọc phải không ? Có còn nhớ tôi không ? Tôi Tư Mạnh đây . Tôi giật mình , gai ốc bỗng rờn rợn , trời ơi ! Chú Tư Mạnh đây sao . Cuộc đời sao vậy trời . Sao Chú lại ở đây , sao Chú ra nông nỗi này ?

Tôi ngồi xuống ôm chặt lấy Chú , Chú cũng ôm tôi và Chú khóc , nước mắt ướt đẫm vai Tôi và Tôi cũng khóc theo Chú . Hai người ôm nhau khóc 1 hồi , có Ông Cụ giường bên nhìn Tôi với ánh mắt chẳng có chút thân thiện : Con cháu , anh em gì mà bỏ rơi Ông Cụ mấy năm liền , giờ còn khóc lóc gì ? Chú Tư xua tay : Không phải , không phải đâu , người quen thôi mà .

Chúng tôi ra ngoài sân , ngồi trên ghế đá nói chuyện . Tôi hỏi Chú hay là mình qua bên đường uống cà phê . Chú gật , ánh mắt thoáng chút vui . Tôi xin phép cán bộ dẫn Chú ra ngoài . Hai chúng tôi băng qua đường , Chú đi khập khiễng , tôi phải dìu Chú đi . Tôi hỏi Chú muốn ăn gì không , Chú nhìn tôi , ngập ngừng : Tôi … thèm ăn dĩa bò kho … dĩa bò kho 4 miếng thịt và ổ bánh mì thật dòn . Tôi chảy nước mắt ngồi nhìn Chú ăn , Chú ăn ngon lành , miếng thịt trệu trạo trong cái miệng móm mém gần hết răng của Chú .

Và rồi Chú kể cho tôi nghe tại sao Chú có mặt ở đây mấy năm nay .
* * *
Anh biết không , con Hiếu , con gái khốn nạn của Tôi , anh còn nhớ nó chứ ? Tôi đặt nó tên Hiếu mà nó bất hiếu ác nhơn . Nó lấy hết tiền của tôi rồi lừa cho tôi vào đây . Hồi đấy , sau cái lần tôi bệnh mấy anh em vào thăm , thấy chúng nó tồi tệ quá mức rồi , tôi chịu hết nổi nên nói với vợ chồng nó trả vàng cho tôi để tôi đi kiếm chỗ khác ở , dứt tình Cha Con . Nhưng chúng lật lọng , bảo chẳng nợ gì tôi . Tức quá tôi thưa , tôi còn đủ giấy tờ mà . Toà xử chúng phải trả nợ cho tôi . Chúng lần lửa mãi , và có trả tôi 1 lần 10 cây vàng , hẹn cuối năm thanh toán hết . Rồi bỗng dưng 2 vợ chồng nó thân thiện , săn sóc Tôi dữ lắm . Mua đồ này thức nọ cho tôi ăn , sắm áo quần mới cho Tôi mặc , đối xử với tôi rất nhẹ nhàng . Tôi nghĩ , thôi thì con mình đã biết suy nghĩ lại , gia đình , thân thuộc tôi chẳng còn ai , có đứa em trai thì bệnh ung thư chết mấy năm rồi . Làm Cha Mẹ phải biết tha thứ cho con . Được mấy tháng thì 1 hôm nó nói mời cả nhà đi du lịch Nhật Bản , Tôi vui lắm , hăm hở sửa soạn đồ đạc để đi đến 10 ngày . Nhưng đến phút chót , lấy cớ có việc bất ngờ , cả nhà nó ở lại , đành bỏ vé , nên tôi đi 1 mình . Đi du lịch cùng đoàn nên có bạn có bè cũng vui . Hôm đầu điện thoại về , còn nghe nó trả lời , hôm sau cũng còn , nhưng đến hôm thứ 3 thì gọi mãi không được . Tôi sốt ruột nhưng cũng đành chờ cho đến ngày cuối , do vậy chuyến du lịch bỗng mất vui . Nào ngờ khi về đến nhà thì cửa đóng im ỉm , bấm chuông mãi thì có người thò đầu ra nắng , cái mặt lạ hoắc . Hỏi anh ta là ai ? Anh ta hỏi vặn lại Tôi là ai ? Tôi bảo tôi là chủ nhà , anh ta cười hô hố bảo tôi điên , rồi bảo anh ta đã mua căn nhà này rồi , đừng có kiếm chuyện . Tôi như từ cung trăng rớt xuống , mồ hôi ra lạnh cả người và nằm thẳng cẳng giữa lề đường . Hàng xóm thấy vậy chở Tôi đi nhà thương , đến khi tỉnh , được mọi người kể mới biết gia đình nó đi Mỹ định cư cả tuần lễ nay rồi , ai cũng tưởng tôi đã cùng đi với chúng nó . Thế ra Nó lừa Tôi , Nó giả vờ thương yêu Tôi để Tôi mất cảnh giác , nó lừa Tôi đi du lịch để nó giao nhà và ra đi . Nó cướp hết số vàng mà vợ chồng Tôi cho nó vay . Nó khốn nạn thế đấy , nó mưu mô hiểm ác vậy đấy . Thế là Tôi trở thành kẻ vô gia cư . Còn ít vàng tôi để ở nhà , chắc nó cũng lấy đi rồi , tôi chẳng có cách nào để sống nên khi hết bệnh ở nhà thương , nhà-cầm-quyền đưa tôi vào đây ở mấy năm nay .

Tôi nghe mà bàng hoàng , không tin nổi nếu như không gặp Chú Tư ở đây . Tôi không ngờ trên đời lại có những đứa con như vậy . Rồi cuộc đời nó có an lành để sống không ? Con cái chúng sẽ nghĩ gì khi biết được cha mẹ chúng đã đối xử với ông chúng như thế ? Tôi thật sự khiếp hãi khi nhìn thấy con người ta vì đồng tiền mà bán cả lương tri .

Tôi khuyên Chú đi bệnh viện vì thấy Chú yếu quá , nhưng Chú bảo Chú không muốn chữa bệnh , Chú chỉ mong được đi mau để khỏi phải đau khổ và dằn vặt . Chú xin tôi 1 điều là gắng đến thăm Chú và khi nào Chú mất , làm ơn đem tro cốt của Chú để vào chùa cùng nơi với Vợ Chú .

Đó lại là lần cuối cùng tôi gặp Chú , Chủ Nhật sau tôi ghé Chú thì Chú đã đi rồi , trên tay tôi vẫn còn mang cặp lồng món bò kho 4 miếng thịt mà Chú ưa thích . Tôi lặng lẽ mang hủ tro cốt của Chú vào Chùa , làm thủ tục để cạnh hủ tro của Vợ Chú , từ nay 2 vợ chồng sẽ mãi gần nhau và Chú đi được vậy cũng là điều giải thoát cho 1 kiếp người . Mong Chú đến nơi không còn khổ đau , gian dối và lừa lọc . Mong Chú yên nghỉ nghe Chú Tư Mạnh .

Sài Gòn – Tháng Bảy

Đỗ Duy Ngọc

Ông sư Nhà Quê   

Ông sư Nhà Quê   

 “Tưởng niệm cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG – một cựu Tù Nhân Chính Trị – nhân giỗ mãn phần 28 năm ( 29/11/1991 – 2019).”                                            

          BÀI CA KINH HÒA BÌNH 

 VŨ VĂN QUÝ   

Tôn giáo nào cũng có những vị chân tu – những đấng lành thánh – suốt đời hiến thân cho lý tưởng thiêng liêng cao cả của mình đã chọn. Nhiều vị đã cùng sống chết với tha nhân, chết cho đạo pháp và trở nên hiển thánh được đời đời sùng bái tôn thờ. Tấm lòng vị tha chan chứa tình người của họ tỏa ra vô biên không vị kỷ, không đóng khung hạn hẹp ở lằn ranh tôn giáo. Biết bao công đức của họ được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác được kể lại bằng những câu chuyện đầy cảm kích.

Cách nay gần 3 thập niên trên tờ  Đất Mẹ số 38 (Đất Mẹ là tờ báo nguyệt san Công Giáo) chúng tôi đã viết dưới đề tựa ” Nén Hương Cho Hòa Thượng THÍCH THANH LONG” ngay sau khi ngài viên tịch tại Sài Gòn. Từ sau ngày ấy đến nay, nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ cũng có những bài viết về ngài, điểm đáng chú ý là những tác giả này đa số là những tù nhân chính trị người Công Giáo trong đó có một số các vị linh mục đang có mặt tại Hoa Kỳ, những người đã một thời sống cùng với cố hòa thượng ở các trại tù từ Nam chí Bắc, tất cả đều tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ.

Tang lễ cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG ngày 29 tháng 11 năm 1991 được mô tả như một đám rước hết sức trọng thể. Đoàn người tham dự đã phủ kín con đường dài 5 cây số từ cổng Chùa Giác Ngạn đường Trương Minh Giảng Sài Gòn tới Nghĩa Trang Bà Quẹo không chỉ gồm các đoàn thể Phật tử, các thiện nam tín nữ mà có mặt đủ mọi thành phần tôn giáo cũng như rất đông đảo các cựu Tù nhân Chính trị.

Trước năm 1973, Hòa Thượng mang cấp bậc Trung Tá làm Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo cho đến khi thương tọa Thích Tâm Giác đi Nhật bản trị bệnh thì Hòa Thượng mới lên làm Giám Đốc và cũng được thăng cấp Đại Tá tuyên úy từ dạo đó.

Ngày 13/6/1975 bị việt cộng bắt đi cải tạo và đem ra Bắc. Đến ngày 12 /9/1987 được tha trở về lại Chùa Giác Ngạn Sài gòn và mãn phần tại đây.

Ngược dòng thời gian gần 3 thập niên, năm ấy cũng vào mùa thu (1982), trại cải tạo Hà Tây tiếp nhận thêm khoảng 80 tù nhân chính trị (TNCT) từ trại tù Thanh Phong chuyển đến. Đa số thành phần thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị gồm các ngành Tâm Lý Chiến, An Ninh Quân Đội và Tuyên Úy của Quân Lực VNCH.

Trại Hà Tây có tất cả 12 buồng giam. Số TNCT mới đến bị nhốt trong buồng số 7. Buồng này rất kín cổng cao tường, bao quanh chằng chịt kẽm gai vì trước đó được dùng để nhốt các tù hình sự có trọng án nên được canh gác cẩn mật. Việt cộng coi những TNCT này là những đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Khoảng một tháng sau khi thanh lọc kỹ càng  thì việt cộng mới mở cửa cho các linh mục tuyên úy ra ngoài lao động, tuy vậy buồng 7 vẫn chưa được ra sân lớn tập họp điểm số như các buồng khác. Đội Tuyên Úy lúc này do linh mục Nguyễn Quốc Túy (*) – cha Túy là cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân, một mẫu người trẻ năng nổ, ứng phó thần kỳ đã được các vị tu sĩ cử ra đứng mũi chịu sào để điều động đội này xử trí với những thủ đoạn thâm độc của việt cộng. Công việc chính của đội tuyên úy lúc đó là đào đất đắp đường và kéo xe thay thế trâu bò.

Lần đầu tiên tôi được cha Túy mời dự bữa cơm trưa thân mật tại sân buồng 7. Có khoảng chục người trong đó có linh mục Khổng Tiến Giám bào đệ của linh mục Khổng Tiến Giác tuyên úy Bộ Tổng Tham Mưu, linh mục Nguyễn Văn Thịnh cựu giám đốc nha tuyên úy Công giáo, các mục sư Xuân, Điểu Huynh và các đại đức Tâm, Khuê, Tùng và hòa thượng Long. Ngoài đội tuyên úy chỉ có tôi và Đại tá Trần Mộng Chu nha Quân Pháp. Hầu như không phân biệt tôn giáo và cấp bậc, tất cả các vị tuyên úy đều xem hòa thượng Thích Thanh Long như một người anh cả và xưng hô một cách chung chung là thầy Long. Mỗi khi nhắc đến thầy Long thì mọi người đều nói về thầy với niềm sủng ái trọng vọng.

Thoạt đầu khi chưa giới thiệu từng người trong bữa tiệc, tôi ghé vào tai cha Túy hỏi có phải người ngồi trước mặt cha là Thầy Long không thì cha lắc đầu. Cung cách bề ngoài và bộ quần áo mới màu đà còn tươi của vị này làm cho tôi lầm ông với hòa thượng Long. Rồi cha chỉ cho tôi người ngồi đối diện với tôi.

Vóc gầy gò, dong dỏng cao, da ngăm ngăm, hàm răng nhỏ và đen huyền, tóc cạo dúng tiêu chuẩn sư tăng nhà Phật, mặc bộ đồ cũ đơn sơ, khuôn mặt hiền hậu nhưng khắc khổ, toát ra vẻ chân tu như thánh Găng Đi nhất là cặp mắt sáng, sâu, đen láy, rất ít nói nhưng quan tâm lắng nghe mọi người xung quanh. Đó là người ngồi đối diện với tôi. Người đó chính là Thầy Long. Tôi nhìn ông khẽ cúi đầu và ông nhìn tôi với đôi mắt hiền từ trìu mến. Ông đã trao cho tôi một nụ cười thật kín đáo.

Tháng 3/1983, trại Hà Tây sắp giải thể và chuyển hết các TNCT về Nam Hà. Các vị Tin Lành và Phật Giáo được phân tán về các đội lao động. Riêng các tuyên úy Công Giáo chờ phương tiện chuyển ngược về Thanh Phong.

Năm 1985, tôi và thầy Long bị giam chung tại Nam Hà và chính thời gian này tôi được biết thầy nhiều hơn. Có những người đã biết và nói rằng trước ngày di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, thầy đã trụ trì tại một ngôi chùa ở một làng tại tỉnh Nam Định và được đông đảo tín hữu mến mộ. Nhiều đêm tâm sự với thầy trong buồng giam, tôi cố gợi chuyện để biết thêm nhưng thầy là người điềm đạm khiêm tốn chỉ kể với tôi là thầy xuất gia đầu Phật từ lúc 12 tuổi. Quyết tâm tu hành, không muốn vương vấn nợ trần, thầy đổi tên là Nguyễn Văn Long và hầu như hoàn toàn không ai biết được tên thật và quê quán của thầy. Thầy thuộc nhiều địa danh ở Nam Định, khi tôi kể chuyện liên quan đến những vùng Cổ Lễ, Cổ Ra, Văn Tràng, Trực Ninh, Nam Trực, Quần Phương, Lạc Quần v.v. thì bỗng nhiên đôi mắt thầy rực sáng lên và có vẻ thích thú. Tôi đoán có lẽ thầy đã trải qua thời thơ ấu tại một trong những địa danh này chăng?

Thầy nói năm 16 tuổi, thầy chỉ lén về nhà nhìn mặt thân phụ của mình từ trần rồi lại lặng lẽ ra đi. Lý tưởng của thầy là Phật pháp, tình yêu của thầy là tha nhân, thân bằng quyến thuộc của thầy là Phật tử. Thầy có một cuộc sống vô cùng mộc mạc, đơn sơ, đức độ, lúc đi tu cũng như lúc ở tù. Thầy thường nói với tôi : “Tù cũng là tu”. Thầy luôn tự nhận mình là một “Ông Sư Nhà Quê“.Vốn có một tâm hồn thanh tịnh như đóa sen nở trên mặt hồ không gợn sóng lúc nào cũng toát vẻ chân tu khiến người bàng quan thấy thầy là cõi phúc. Đúng như vậy!

Trong thời kỳ đói khát, tù nhân chưa được gia đình tiếp tế thăm nuôi đã có kẻ lấy chiếc lon ghi gô đựng nước uống của thầy nhét đầy thịt heo đánh cắp của trại, lúc bị phát giác không ai dám nhận. Cuối cùng để tránh phiền lụy cho một số người, thầy không ngần ngại đứng ra nhận chiếc lon đó là của thầy mặc dù ai cũng biết thầy ăn chay trường và ai là kẻ ăn trộm lúc bấy giờ. Khi nào trại cho tù nhân chút ít thịt để “bồi dưỡng”, thầy thường nhường cho các anh em đau ốm bệnh hoạn.

Đến khi được thăm nuôi tiếp tế, Phật tử khắp nơi đến thăm thầy hầu như hàng tuần. Những quà tiếp tế, thầy đem chia cho các bạn tù. Quần áo chỉ giữ 2 bộ. còn bao nhiêu cũng đem cho hết. Thầy thường xuống bệnh xá thăm viếng những người đau ốm và đem quà bánh thuốc men  xuống cho họ. Thầy rất quan tâm đến những “con bà phước” (*) bị bỏ quên trong trại. Một vài trường hợp điển hình:

– Anh Khương, Phó Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn Côn Sơn – một người Công Giáo – bị địch bắt ngay trong lúc còn đang mặc sắc phục và bị việt cộng đánh nhừ tử. Hậu quả của những trận đòn thù khiến anh Khương trở thành bại liệt toàn thân và á khẩu. Anh bị mất liên lạc với gia đình từ ngày bị bắt. Gần 13 năm, anh mới bập bẹ nói được một tiếng “dôi, dôi” như đứa trẻ mới học nói. Thầy Long đã đích thân chăm sóc đút cơm, tắm rửa cho anh như một người thân, đặc biệt là khi trại đọc lệnh tha có tên anh nhưng anh không biết về đâu và không thể đi được một mình. Chính thầy Long đã giúp anh một số tiền và nhờ đại đức Tâm được tha cùng một lượt với anh Khương về trước tìm kiếm thân nhân của anh ở tận miền Tây để ra đón anh.

– Anh Nguyễn viết Tân, Đại tá hải quân QLVNCH bị toàn thân bất toại và bệnh nặng trong lúc mọi người ai nấy đều lo cho bản thân mình và tình thương giữa con người đã trở nên mệt mỏi thì thầy Long cũng chính là người tình nguyện chăm sóc anh Tân cho đến khi anh được người nhà ra đón kịp  về rồi chết.

Một trường hợp khôi hài khác là ở trong trại có một anh tên Nguyễn Huệ, “vô tông tích” tự xưng là trung tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23B (?). Có một thời gian anh ta bị giam chung với các tướng lãnh QLVNCH nhưng sau việt cộng phát giác “tướng Nguyễn Huệ”  chỉ là một tên khùng  và bị đuổi ra. Thấy thầy thương người và dễ dãi, “tướng Nguyễn Huệ” thường hay chạy theo quấy quả xin xỏ cơm và thuốc lào. Hễ trông thấy anh ta là thầy tủm tỉm cười, thầy không hề tỏ vẻ khó chịu và còn đi kiếm thuốc lào cho anh ta, tuy thầy chẳng bao giờ hút thuốc.

Tù nhân được tha dần nhưng vẫn còn tồn đọng một số khá lớn trong đó có các đại đức Tâm, Khuê, Xuân, Tùng, Trí, Bình, Ngự, Học, Diệu v.v. Mỗi lần thầy Long được thông báo có thăm nuôi thì các vị này đã sắm sẵn bao bị và tận tình giúp đỡ thầy. Thầy thường nói : ” Hôm nay tôi lại có thánh Veronica đến thăm nuôi “. Đây cũng là dịp thầy tập họp các tu sĩ Phật giáo ở trong trại tù để phân công đi thăm viếng bệnh nhân hoặc cắt cử họ đến tụng kinh và cầu siêu mỗi khi có người tạ thế.

Vào các dịp lễ Noen hay Tết âm lịch, thầy cũng dành dụm chút gạo, đậu xanh, đường tán và khởi xướng việc nấu chè ăn chung cả buồng mang niềm vui nhỏ bé đến cho mọi người và còn dốc hết “hầu bao” giúp các anh em nghèo đói nhất trong trại.

Thầy rất thích nghe tôi đánh đàn và kể chuyện cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn (Francis 0f Assisi) nhất là những câu hát ý nghĩa thâm thúy trong Kinh Hòa Bình. Cứ vào mỗi sáng sớm Chủ Nhật được nghỉ lao động, trong khi tất cả mọi người còn nằm trong mùng thì thầy đã đánh thức tôi và khẽ nói : “Ông Quý ơi ! Dậy cho anh em nghe đàn đi !” Thế rồi âm thanh của chiếc đàn gỗ tự tạo ở trong tù của tôi nhè nhẹ vẳng ra tiếng thay lời trong âm giai cung Mi buồn ” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con…..” hầu như không làm cho ai khó chịu cả.

Tấm lòng cao quý của thầy sáng như ngọn đuốc trong trại tù tăm tối, không những đối với các bạn tù chính trị mà còn lan tỏa  đến cả những tù hình sự giam chung cùng trại.

Như một tấm huy chương vô giá mà trên cõi đời này không thể đem ra so sánh được, thầy đã đối diện với bọn cai tù khát máu, trước họng súng AKA mà không hề nao núng và không sợ chết. Thầy đã được các vị tuyên úy Công Giáo ca ngợi vì đức bác ái và lòng hỉ xả, quên mình và chấp nhận những gì bất hạnh xảy đến. Trong cuốn AKA và Thập Giá của linh mục Phan Phát Huồn, Dòng Chúa Cứu Thế trang 107-108 kể chuyện đám tang của Cha Nguyễn Văn Bản, Dòng Đa Minh, tuyên úy Tổng Y Viện Cộng Hòa chết tại trại giam Yên Bái. Sau khi chôn cất, việt cộng bắt các tù nhân cải tạo lên lớp hội thảo đển lên án và làm nhục người đã chết. Chúng vu cáo cho Cha Nguyễn Văn Bản là một tên ác ôn côn đồ, chạy theo Mỹ Ngụy giết hại đồng bào, một tên có nợ máu đối với nhân dân, một tên lường gạt vv.. Nghe tên Nha cán bộ việt cộng lải nhải nhục mạ một người đã khuất mà người đó vốn là một người đạo đức gương mẫu, không dằn nổi sự bất bình, thầy Long đã đứng lên bênh vực bằng một giọng ôn tồn nhưng cương quyết :

” Tôi được biết Linh Mục Bản ngoài xã hội cũng như ở trong trại cải tạo là một con người đạo đức, được mọi người kính nể…” Tên việt cộng hống hách nạt nộ:

” Anh im mồm ngay. Anh Bản đã bị nhà nước cách chức linh mục của anh ta từ ngày anh bước chân vào trại cải tạo, còn anh, anh đừng có hòng đem cái bọn cha cố vào đây mà hù dọa cách mạng…”  nhưng thầy Long đâu có chịu im cho. Đợi cho tên việt cộng vừa dứt lời thì thầy Long nói tiếp:

” Nếu linh mục đều như cán bộ nói thì làm sao dân chúng tin tưởng và kính mến họ. Mặc dù  cán bộ đã cấm các trại viên gọi các linh mục là Cha và tự xưng mình là con, trại viên nào không tuân thì sẽ phải xử lý, nhưng thưa cán bộ, có ai chấp hành lệnh đó không? Trái lại, đối với công chức nhà nước, trước mặt họ gọi là cán bộ nhưng sau lưng họ gọi bằng thằng việt cộng thì cán bộ nghĩ sao?

Như một con hổ bị trúng đạn, hai mắt hắn đỏ ngầu giận dữ, nhảy chồm tới nhìn trừng trừng vào thầy Long, quát thật lớn văng cả nước miếng vào mặt người đối diện và hắn ra lệnh:

À anh này hỗn thật, yêu cầu các đồng chí đem cùm tên này cho tôi, biên bản sẽ làm sau.

Thầy Long vẫn tiếp tục nói một cách hùng hồn cho đến lúc lính cảnh vệ việt cộng mang AK xông tới còng hai tay ông, ông không tự bênh vực cho mình, ông vẫn bình thản đưa hai tay cho chúng còng để chúng đem đi. Đây thật là hình ảnh một con chiên hiền lành đứng trước kẻ xắn lông mình mà không nói lời than trách như đã được diễn tả trong Kinh Thánh. (Cv.8.32-33).

Cuối năm 1987, thầy Long được tha về. Cởi bỏ chiếc áo chàm cải tạo, thầy lại khoác chiếc áo màu đà. Từ khi trở về Chùa Giác Ngạn, thầy không giữ chức trụ trì như trước, thầy sống trên căn gác xép tại góc vườn nhưng hàng ngày rất đông người đến thăm viếng và ngôi chùa được trùng tu lại trở nên đẹp đẽ khang trang hơn cũng nhờ uy tín và sự quan tâm của thầy. Hầu như ai cũng cảm mến gương hy sinh, lòng can đảm, tánh cương trực của thầy Long. Có những vị Linh Mục không đi cải tạo mà chỉ nghe tiếng thôi cũng muốn đến thăm thầy Long tại Chùa Giác Ngạn. Tôi hỏi Cha Vũ Ngọc Trân, Chánh Xứ Chu Hải tỉnh Phước Tuy, cha nghĩ thế nào khi đến thăm Hòa Thượng Thích Thanh Long tại Chùa Giác Ngạn? Cha đã trả lời một cách không dè dặt: ” Tôi nghĩ Chúa sẽ thưởng công cho bất cứ ai biết khao khát trọn lành, thương người và giúp đỡ bênh vực người. Chúa nói kẻ nào giúp đỡ người đều có công trước mặt Ta. Tôi nghe các cha tuyên úy đi cải tạo về có nói nhiều về ông. Tôi cũng mến mộ ông và việc tôi đến thăm cơ sở một tôn giáo khác đâu có gì làm suy giảm đi lòng kính mến Chúa nơi tôi đâu. Nếu nói đó là một hình thức trao đổi văn hóa thì cũng chẳng sao!” (Cha Đa Minh Vũ Ngọc Trân cũng đã qua đời tại Xứ Chu Hải Bà Rịa ngày 24/2/1992).

Trong thời gian chưa mắc bệnh ung thư nơi xương tọa, phương tiện chính của thầy trong thành phố là “xe đạp ôm”. Thầy thường ngồi trên “poọc ba ga” phía sau để cho một chú tiểu chở đi. Người ta thấy thầy xuất hiện ở nhiều nơi và tình thương của thầy dường như vẫn đặc biệt dành cho bạn tù cải tạo còn trong trại giam hoặc đã được tha về. Khi biết có ai đi xuống trại Z30D thì thầy cũng nhắn lời thăm hỏi, có đôi lúc  thầy gửi một cần xé chôm chôm hoặc vài thùng mì gói xuống phân phát cho anh em chưa may mắn được về xum họp với gia đình. Khi nghe tin có người vừa mất, bất luận ở đâu, không phân biệt tôn giáo, nơi cầu siêu hay chốn làm phép xác, tại chùa hay nhà thờ thánh thất, thầy cũng đều có mặt để phân ưu với gia đình người quá cố, thầy không ngần ngại đến vì “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tôi đã gặp thầy và cùng đứng chung với thầy dưới gốc cây xoài trước tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Nhà Thờ Ba Chuông để chờ tiễn đưa linh cữu của cố Trung Tá Nguyễn Thủy Chung và cố Trung Tá Nguyễn Anh Ly mất vào những năm 1989-1990.

Rất nhiều cựu TNCT nay đang có mặt tại Hoa Kỳ hoặc định cư rải rác trên khắp thế giới vẫn nhắc đến thầy Long. Ký giả Lô Răng tức cố Trung Tá Phan Lạc Phúc và Trung Tá nhà văn Hoàng Ngọc Liên, Ký giả Vũ Ánh… cũng có những bài viết rất sâu sắc về thầy.

                       * * *                                                                            

Tôi chẳng có tư cách gì và cũng chẳng dám đưa ra nhận xét nào để “phong thánh” cho một con người mà tôi quen biết trong một thời gian hạn hẹp. Dưới nhãn quan của một tín đồ Công Giáo, dù sao tôi cũng chỉ là một chứng nhân với biểu kiến riêng, tôi xem Hòa Thượng Thích Thanh Long là một tấm gương rất tốt lành, đáng kính và đáng tôn vinh mà thời đại ngày nay thắp đuốc giữa ban ngày đi tìm cũng khó kiếm. Một người đã hy sinh tất cả để trọn đời đi theo con đường giống như của thánh Phanxicô Khó Khăn tác giả bài ca KINH HÒA BÌNH đã đi.

Thầy Long luôn đề cập KINH LỤC HÒA trong Diệu Pháp Liên Hoa cho các đệ tử. Chính vì thế mà thầy rất thích KINH HÒA BÌNH của thánh Phanxicô lúc ở trong tù thì sau này tôi mới nghiệm ra vì nó ẩn chứa những điều uyên thâm sâu xa nói về đức bác ái và lòng từ bi cũng giống như KINH LỤC HÒA. Tôi không ngờ thầy Long lại là một người bạn tri âm của tôi và ngày nay mỗi khi dạo nhạc hát lên bài ca KINH HÒA BÌNH tôi lại nhớ đến thầy.

Từ cõi bên kia, tôi tin rằng thầy đang mỉm cười và chăm chú lắng nghe tôi hát:

Lạy Chúa từ nhân,  Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người,   Lạy Chúa xin hãy dạy con như khí cụ bình an của Chúa,  Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…

Tôi sẽ nhớ thầy mãi mãi cùng với bài ca KINH HÒA BÌNH trong tiếng tơ đồng của cung Mi buồn.

 VŨ VĂN QUÝ

From: TU-PHUNG

HÓA ĐƠN THANH TOÁN CHO TÌNH NGƯỜI…

     Nhìn ánh mắt, khuôn mặt chú bé ôm em không kìm được cảm giác xúc đ̣ông, thanks người post, ht

Tại một thành phố ở Ấn Độ… có vị thương gia nọ bận rộn cả ngày vì công việc.. mệt mỏi… ông vào một nhà hàng tự thưởng cho mình bữa tối thịnh soạn…

Khi những món ăn đã được dọn sẵn trên bàn… bất chợt ông nhìn thấy một cậu bé đang nhìn trộm ông qua cửa kính với ánh mắt thèm thuồng… hình ảnh ấy như có gì làm nhói tim ông..!

Ông đưa tay vẫy cậu bé.. cậu liền bước vội vào.. theo sau cậu là 1 bé gái nhỏ.. 2 đứa trẻ nhìn chăm chăm vào những đĩa thức ăn còn nóng hổi.. mà chẳng cần biết người vừa gọi chúng vào là ai..?

Vị thương gia bảo chúng cứ tự nhiên mà ăn thỏa thích…

Không nói.. không cười.. cả hai ngấu nghiến ăn hết các món ăn trên bàn một cách ngon lành…

Vị thương gia im lặng.. nhìn hai đứa trẻ ăn đắm đuối.. và khi chúng rời đi.. chúng đã không quên nói lời cám ơn với ông..!

Cơn đói trong lòng vị thương gia lúc ấy được xua tan một cách lạ kỳ.. kèm theo một cảm giác khó tả đang lâng lâng trong lòng…

Mãi một hồi sau.. vị thương gia gọi tiếp các món ăn lần nữa.. rồi từ từ thưởng thức.. đến khi gọi thanh toán.. nhìn tờ hóa đơn.. không ghi số tiền.. mà chỉ là một hàng chữ:

– “Thật đáng tiếc.. tiệm chúng tôi không in được HÓA ĐƠN THANH TOÁN CHO TÌNH NGƯỜI… xin chúc ngài mãi luôn hạnh phúc..!”

Một giọt nước mắt đã rơi từ vị thương gia.. ông quay nhìn người đàn ông đang đứng tại quầy thu ngân rồi gật đầu mỉm cười.. ông ta đáp lại bằng một nụ cười rạng rỡ…

Vị thương gia đã dùng “Đức” đối xử với người nghèo.

Chủ nhà hàng dùng “Nghĩa” đáp lại “Đức” không biết ai hơn ai.?

***** Người xưa có câu: *****

– Ngồi trên đống Cát.. ai cũng là hiền nhân.. quân tử.
– Ngồi trên đống Vàng.. mới biết rõ.. ai mới là quân tử.. hiền nhân.

Tình yêu thương luôn đem đến những sự kỳ diệu từ hai phía :

– “người cho và người nhận”.

Hạnh phúc của TÌNH NGƯỜI là cảm giác bình yên và thật sâu lắng.. xóa tan tất cả những đau khổ và bất hạnh.

Vạn vật tồn tại trên thế giới này đều không thể sống mãi với thời gian.. ngay cả con người cũng không thể đi ngược lại hay cưỡng cầu với quy luật ấy.

– Theo thời gian.. mọi thứ đều biến hóa và thay đổi..

– Tất cả có thể sinh ra hoặc mất đi.. có thể phát triển hay lụi tàn…

– Cái gì có đến chắc chắn sẽ rời đi… không bao giờ là tồn tại mãi mãi.

– Vật chất là ngoài thân.. TÌNH NGƯỜI là vĩnh cửu…

S.T.

From: TU-PHUNG

Để ta nhớ về nhau với niềm yêu thương chứ không phải bằng nỗi đau!

Để ta nhớ về nhau với niềm yêu thương chứ không phải bằng nỗi đau!

      Bà là một góa phụ lớn tuổi, chồng bà đã qua đời sau một tai nạn xe hơi. Kể từ đó, bà sống khép kín, không khóc than, không tâm sự với bất kỳ ai về cái chết của chồng. Hầu như ngày nào, bà cũng ngồi nhìn ra cửa sổ một cách vô định, không nấu ăn, không chăm sóc khu vườn và cả bản thân của mình nữa

Con gái bà đã tìm mọi cách giúp mẹ vượt qua tình trạng bế tắc này nhưng thật vô vọng. Nhiều bác sĩ đã chẩn đoán và điều trị chứng trầm cảm của bà nhưng vẫn hoài công, và đến một ngày người con gái dẫn bà tới gặp một bác sĩ tâm lý.

Lúc đầu, bà và bác sĩ chỉ ngồi quan sát nhau mà không trò chuyện. Trông bà khá trẻ so với cái tuổi bảy mươi, nhưng dường như trong bà không còn chút sức sống.

Người bác sĩ bắt đầu gợi chuyện, hỏi tại sao bà lại đến đây.

– Chồng tôi đã mất – Im lặng một lúc, bà nói tiếp – Các con tôi muốn tôi được khuây khỏa sau cái chết của cha chúng. Nhưng không ai có thể hiểu được cả.

– Tôi hiểu bà như mất đi một nửa cuộc sống của mình. Chỉ có chồng bà mới hiểu được nỗi mất mát ấy. Và cũng chỉ ông ấy mới biết được cuộc sống của hai người trước đây đã hạnh phúc đến nhường nào. – Bác sĩ nói.

Bà quay lại nhìn bác sĩ, đôi mắt màu nâu đen của bà không có một tia sáng nào cả.

– Nếu như lúc này ông ấy đang có mặt tại đây, bà sẽ nói gì?

Bà nhìn bác sĩ một lúc lâu rồi từ từ nhắm mắt lại. Bà bắt đầu nói – như thể đang nói với người chồng thân yêu của mình – về cuộc sống của bà từ khi không có ông. Bà kể cho ông nghe cảm giác của bà khi phải tự mình làm mọi việc mà trước đây hai người cùng làm. Bà cảm thấy thật sự khó khăn khi phải chấp nhận rằng ông thực sự không còn nữa. Bà thấy rằng còn nhiều điều bà chưa kịp làm và chia sẻ cùng ông… Và bà đã khóc, bà khóc rất nhiều như chưa bao giờ được khóc.

Đợi bà qua cơn xúc động, bác sĩ hỏi liệu có còn điều gì mà bà chưa nói với ông không. Bà bảo rằng bà rất giận ông vì ông đã để bà phải sống một mình khi về già, rằng ông đã không thực hiện lời hứa với bà.

– Ông ấy đã dạy cho tôi biết thế nào là tình yêu cuộc sống… 

– Bà tiếp tục kể. Vị bác sĩ vô cùng xúc động và ngạc nhiên khi nghe câu chuyện tình lãng mạn của hai người.

– Giả sử ông ấy đang ngồi đây, trước mặt bà, là tôi đây. Ông ấy sẽ hỏi bà điều gì về cuộc sống của bà trong suốt hai năm qua? – Bác sĩ hỏi.

– Anh ấy sẽ hỏi tôi “Tại sao em lại nhớ anh bằng một nỗi đau đớn vô bờ và hành hạ bản thân mình như vậy? Điều mong muốn lớn nhất trong cuộc đời của anh là mang đến cho em niềm vui mà”. Khi nói xong điều đó, một tia sáng hiếm thấy lấp lánh trong ánh mắt bà. Bà dường như được trở về với chính mình hai năm trước đó.

Qua lần trò chuyện đó, bà dần hiểu rằng không phải cứ đau buồn đắm chìm trong ký ức và giam mình trong một cuộc sống khép kín mới là tưởng nhớ đến nhau. Khoảng một năm sau, bà gửi cho bác sĩ tâm lý một tập gồm các bài viết trích từ tờ báo địa phương về tổ chức từ thiện mà bà đang tham gia – trong đó có những người như bà – cùng lời đề tặng: “Từ trong tuyệt vọng, tôi đã quyết định nhổ neo, căng buồm và lướt sóng ra khơi”.

Đứng trước mỗi một nỗi đau, mất mát nào đó, chúng ta dường như phải lựa chọn cuộc sống một lần nữa. Chúng ta không bắt buộc phải quên đi mọi thứ, nhưng thời gian sẽ chữa lành tất cả, để ta nhớ về nhau với niềm yêu thương chứ không phải bằng nỗi đau!

Helen Keller

Chuyện cô gái trẻ dùng võ đánh mãnh hổ ở chợ Bến Thành (P2)

Năm ông Hai Ất 40 tuổi thì sinh được cô con gái đặt tên là Võ Thị Vuông, và đem hết tài võ nghệ truyền lại cho con, đặc biệt là môn võ đánh hổ…

Lễ khai thị chợ Bến Thành

Năm 1912, chợ Bến Thành được hãng thầu của Pháp tên là Brossard et Maupin xây dựng, đến tháng 3 năm 1914 thì xây xong và tổ chức lễ khánh thành. Thời đấy lễ khánh thành chợ mới được gọi là lễ khai thị. Lễ hội vui chơi diễn ra suốt 3 ngày là 28, 29 và 30/3/1914 thu hút hơn 100.000 người Sài Gòn và các tỉnh lân cận đổ về.

Chuyện cô gái trẻ dùng võ đánh hổ ở chợ Bến Thành (P2)
Chợ Bến Thành lúc mới xây xong tháng 3/1914 chưa làm lễ khai thị. (Ảnh từ ilovesaigon.net)

Lúc này người Pháp ở Sài Gòn đã nghe danh tiếng đánh hổ của anh em ông Ất và ông Giáp, nhưng cũng bán tín bán nghi. Nhân dịp khai thị chợ Bến Thành, họ mời cả hai ông lên Sài Gòn đấu với hổ. Con hổ này được bẫy khi khai hoang đồn điền cao su ở miệt rừng rậm phía bắc Thủ Dầu Một.

Chuyện cô gái trẻ dùng võ đánh hổ ở chợ Bến Thành (P2)
Một con hổ bị bắt. (Ảnh từ anhxua.com)

Ông Ất lúc này đã 60 tuổi nhưng còn tráng kiện, ông không muốn đi mà quyết định để con gái mình là Võ Thị Vuông (còn gọi là Năm Vuông) mới ngoài 20 tuổi đi thay. Trước sự lo lắng của nhiều người, ông Ất chỉ cười và nói ông hiểu khả năng con gái mình, và nếu có gì bất trắc ông sẽ nhảy vào liền không để con mình bị hại.

Ngày khai thị, dân Sài Gòn và các tỉnh miền Tây, miền Đông Nam Kỳ nô nức đến chợ Bến Thành với nhiều lễ hội như múa lân, thao diễn võ thuật, âm nhạc; cùng nhiều hàng hóa như tơ lụa, thực phẩm, v.v.. Buổi tối lại có tổ chức xe hoa, bắn pháo hoa, cùng các loại đèn màu giăng khắp nơi. Người dân tập trung đông vui hơn tết. Nhiều hoạt động vui chơi như hát bội đều không có thu tiền.

Hồi hộp cuộc đấu giữa cô gái trẻ và mãnh thú

Đến buổi xem màn đấu với hổ, ai cũng hồi hộp chờ đợi. Thế nhưng mọi người chuyển từ trạng thái hồi hộp sang ngạc nhiên lo lắng, bởi người đấu với hổ chỉ là cô gái trẻ mới ngoài 20 tuổi, còn người phương Tây thì tròn mắt ngạc nhiên không thể tin được.

Chợ Bến Thành
Chợ Bến Thành năm 1914 (Ảnh từ ilovesaigon.net)

Võ Thị Vuông trong bộ quần áo nai nịt gọn gàng, mang theo ngọn lao có đầu bịt sắt nhọn tiến vào khu vực đấu với hổ dữ.

Hổ trông thấy mồi thì gầm lên rồi nhảy vào vồ cô gái, rất nhanh cô gải nhảy sang một bên tránh được, hổ vồ hụt mồi thì gầm lên xoay mình rất nhanh, đập đuôi rồi tấn công liên tiếp bằng móng vuốt, tát.

Mãnh thú nhanh nhẹn nhưng thủ pháp cô gái còn nhanh hơn, nhảy qua, nhảy lại, lúc tiến lúc lùi, thủ pháp biến hóa khôn lường. Các đòn của mãnh thủ đều không trúng, nó gầm lên khiến người xem sợ hãi.

Sài Gòn xưa: chuyện cô gái đánh cọp lừng danh tại chợ Bến Thành 1914
(Ảnh minh họa qua vietnamvanhien.org)

Biết sức mình không thể mạnh như hổ nên cô Năm Vuông dùng thủ pháp nhanh nhẹn tránh đòn nhằm tiêu hao sức hổ, khi thọc ngược ngọn lao để tránh hổ phủ, xoay sở liên tục tránh đòn của hổ, đồng thời mỗi khi hổ vồ hụt thì dùng cây lao đâm vào khiến hổ chảy máu và dần xuống sức.

Qua mấy giờ giao đấu, người và hổ đều nhuộm đỏ máu. Ở bên ngoài có người lo lắng hỏi ông Hai Ất rằng con ông có sao không, nhưng ông chỉ mỉm cười.

Con hổ dần dần cũng kiệt sức, biểu hiện chậm chạp hơn trước. Lúc này cô gái mới ra tay nhắm vào yết hầu con hổ mà ra đòn chính xác hạ được mãnh thú. Lúc đó cũng đã đến 12 giờ trưa.

Sài Gòn xưa: chuyện cô gái đánh cọp lừng danh tại chợ Bến Thành 1914
Trong cuốn “Những môn võ bí truyền trên thế giới” có ghi lại màn đánh hổ của Võ Thị Vuông.

Màn giao đấu này được xem là kinh điển trong cuộc đấu giữa người với hổ trong làng võ thuật, được ghi lại trong cuốn sách “Những môn võ bí truyền trên thế giới” nguyên tác tiếng Anh của tác giả John F. Gilbey.

Ngày nay ở cạnh làng võ Tân Khánh – Bà Trà có địa danh “Truông Bà Năm Vuông” (trước đây rừng rậm được gọi là Truông). Đây là nơi bà Năm Vuông đánh hổ ở chợ Bến Thành khi xưa từng đánh tan một toán cướp cạn bằng cây đòn gánh trên tay.

Trần Hưng

M.TRITHUCVN.NET
Đến buổi xem màn dùng võ đấu với hổ, ai cũng hồi hộp chờ đợi. Thế nhưng mọi người chuyển từ hồi hộp sang ngạc nhiên lo lắng, bởi người đấu với hổ…