Kỷ vật cho người ở lại

Kỷ vật cho người ở lại

(Hình minh họa: Getty Images)

Diễm Vy

LGT: Trong cuộc sống có nhiều chuyện mình muốn nói với ai đó, nhưng lại không thể nói trực tiếp được. Không nói được với nhau thì hãy viết cho nhau. Âu đó cũng là cơ hội để giải tỏa những tâm tư, những nỗi niềm. Mục “Viết Cho Nhau” do phóng viên Ngọc Lan phụ trách. Thư từ xin gửi về: Người Việt (Viết Cho Nhau), 14771 Moran St., Westminster, CA 92683, hay email: [email protected].

Tối hôm đó, bệnh viện của tôi nhận một nhóm nạn nhân của một tai nạn xe hơi thảm khốc. Trên xe là bốn em học sinh đều ở lứa tuổi 17-18, cùng đi về với nhau sau sau bữa tiệc. Người lái xe 18 tuổi, say rượu và chạy xe quá tốc độ, lạc tay lái tông vào một chiếc xe tải đang đậu bên lề đường. Nhờ có thắt dây an toàn, người lái và em ngồi cạnh tuy bị thương nặng nhưng không nguy hiểm tính mạng. Riêng hai em ngồi sau, 1 nam 1 nữ bị thương rất nặng vì không thắt dây an toàn. Em trai bị chấn thương sọ não và chết ngay sau khi xe chở đến bệnh viện. Em gái hôn mê bất tỉnh phải mổ gấp, không biết có cứu được hay không?

Thật đáng buồn, em trai tử vong là một em Việt Nam, 17 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học và đang sắp rời nhà để vào một trường đại học danh tiếng. Các em còn lại đều người ngoại quốc.

Lúc đó tôi đang làm tại khu ICU (Intensive Care Unit). Bệnh nhân tôi được giao đêm đó là em gái 17 tuổi của tai nạn vừa kể trên. Một cô bé người ngoại quốc, đẹp hay không thì tôi không biết vì cả khuôn mặt lẫn cái đầu tóc vàng của em đều tím bầm, sưng to như trái dưa hấu vì những cú va chạm kinh khiếp. Em đang được mổ não khẩn cấp trong phòng mổ.

Tôi được (hay bị) kêu vào phòng họp gấp để nhận một nhiệm vụ quan trọng.

Sau khi được biết nhiệm vụ của mình là gì, tôi nhăn nhó phản đối, “Tại sao lại là tôi? Đây là nhiệm vụ của bác sĩ mà!”

“Tôi biết, nhưng người nhà của bệnh nhân không biết tiếng Mỹ rành lắm, cô đi theo thông dịch cho bác sĩ, và ráng van xin họ giúp chúng tôi,” bà y tá trưởng năn nỉ.

Sau một hồi bàn qua tính lại, tôi lê bước đi theo ông bác sĩ đến phòng chứa xác của em trai Việt Nam mới tử nạn, với nhiệm vụ là cùng bác sĩ, năn nỉ gia đình người chết hiến tặng những bộ phận còn tốt trong cơ thể của em cho bệnh viện.

Một em trai 17 tuổi đang khỏe mạnh nhưng chết vì tai nạn, là một ứng cử viên tuyệt vời để làm người hiến tặng, vì hầu hết các bộ phận trong cơ thể em còn rất khỏe, rất trẻ, rất thích hợp để cứu sống các bệnh nhân đang chờ đợi để được thay các bộ phận trong người. Đó là lý do bệnh viện hết sức cầu xin gia đình.

Thời gian đó, đối với người Việt mình, khái niệm hiến tặng bộ phận cơ thể còn rất mới mẻ. Nếu không là cho người thân trong gia đình, hầu như rất ít ai hiến tặng cho những người không quen biết. Huống hồ gì, chuyện cha mẹ đồng ý hiến tặng các bộ phận trong cơ thể của con thì hình như chưa hề xảy ra. Có cha mẹ nào mà nỡ lòng nào làm như thế? Mất con đã đau đớn lắm rồi…

Chúng tôi gặp cha mẹ nạn nhân trong phòng đợi, trong khi người con đang được chờ quyết định để rút tất cả ống support bên trong, tôi bắt đầu trình bày lý do. Quả như tôi lường trước, cho dù có van xin, nài nỉ, giải thích cách mấy, bác sĩ và tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu quầy quậy, ánh mắt oán ghét, và những lời xua đuổi.

Tôi lắp bắp xin lỗi rồi bước nhanh như chạy ra khỏi phòng.

Phòng ICU rất vắng lặng vì ở đây toàn những ca rất nặng. Những y tá cùng trực với tôi đêm đó ai cũng bận rộn với bệnh nhân của mình nên chỉ có một mình tôi ngồi tại nurse station. Thường thì ở ICU, mỗi y tá lãnh hai bệnh nhân trong một ca. Nhưng đêm nay tôi chỉ có một, vì một bệnh nhân mới chuyển sang phòng thường. Bệnh nhân còn lại là cô gái đang trong phòng mổ, nên tôi cũng khá rảnh rỗi, cho đến khi ca mổ xong.

Bỗng nhiên tôi thấy hơi nhức đầu nên cúi gục vào lòng bàn tay một chút cho đỡ mỏi mắt. Khi tôi ngẩng đầu lên thì vụt một cái, thoáng có một bóng người mặc áo trắng lướt thật nhanh qua mặt.

Tôi đảo mắt nhìn quanh.

Không có ai cả!

Tôi vẫn thường thấy lao đao như vậy lắm, có lẽ vì tôi bị chứng bịnh thiếu máu kinh niên. Tôi dụi mắt nhìn kỹ lại một lần nữa, lần này thì thật sự có một bóng áo trắng đang từ từ tiến lại gần tôi.

Tôi dợm đứng dậy để nhìn cho rõ thì thấy có một cậu thanh niên Á Châu rất trẻ, gương mặt xanh xao mệt mỏi đang đi lại phía tôi ngồi. Cậu đi nhẹ nhàng như lướt trên không vậy, xuất hiện trước mặt tôi mà không gây nên một tiếng động. Cậu nhìn tôi, đôi mắt nâu hiền và ngây thơ đến nao lòng. Có vẻ như cậu đang bị lạc đường. Chắc là cậu đi nuôi người nhà bệnh và lạc từ khoa khác sang.

Thấy cậu đứng yên lặng không nói gì, tôi hỏi bằng tiếng Mỹ, “Em cần gì, tôi có giúp được gì cho em không?”

Lạ thay, cậu trả lời bằng tiếng Việt, “Em đi kiếm đồ!”

Giọng của cậu nhỏ và thanh, nghe văng vẳng như từ một nơi xa xôi nào đó vọng về.

“Em bị mất cái gì à?”

“Em làm rớt cái ví trong xe. Trong đó có một món đồ rất quan trọng. Chị kiếm dùm em nghe chị. Nhớ nghe chị…”

Không đợi tôi trả lời, cậu quay lưng đi thật nhanh và khuất bóng sau góc quẹo.

Tự nhiên tôi cảm thấy lạnh buốt, cái lạnh từ trong xương lạnh ra. Tôi rùng mình. Lạ thật, Tháng Sáu Mùa Hè ở cái xứ sa mạc này nóng cả trăm độ. Cho dù máy lạnh có mở cũng chỉ vừa đủ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy lạnh cóng bằng cái lạnh của hiện tại.

Đầu óc tôi quay cuồng và tiếp tục nhức. Chắc mình sắp bịnh rồi, tôi tự nhủ. Sao tự nhiên lại cảm thấy lạnh và nhức đầu quá. Tôi đứng lên định đi theo cậu bé nhưng rồi lại choáng váng ngồi phịch xuống một chiếc ghế.

Vừa lúc đó, một cô bạn đồng nghiệp từ đâu đi tới. Nhìn thấy sắc mặt tôi, cô la lên, “Oh my God! Trời ơi sao cái mặt cô xanh lè xanh lét thấy ghê quá. Are you OK?”

“Tôi thấy lạnh quá, cô lấy dùm tôi một cái áo lạnh được không?”

Cô bạn nhanh chóng đi lấy cho tôi một cái áo labcoat mới được giặt ủi và hấp nóng. Tôi mặc áo vào, ngồi co ro mà thấy vẫn còn lạnh, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương.

Tôi uống thêm hai viên Tylenol. Một lúc sau, tôi thấy từ từ dễ chịu, và lại nghĩ đến cậu bé hồi nãy. Cậu ta là ai, làm sao biết cậu ở đâu, đi kiếm cái xe gì, và cái ví gì nữa chứ?

Cả khu ICU này có 6 phòng. Hiện giờ đang có năm bệnh nhân, mỗi người nằm một phòng. Tôi coi lại danh sách bệnh nhân viết trên bảng treo trên tường. Không có bệnh nhân nào người Việt. Vậy cậu từ khoa nào đi sang đây?

Tôi đi lòng vòng với hy vọng gặp lại cậu bé, nhưng hỏi thăm những nhân viên quanh đó xem có ai gặp một cậu bé người Á châu không, ai cũng lắc đầu không biết.

Thất vọng, tôi trở về khoa đúng lúc bệnh nhân của tôi đã được giải phẫu xong và chuyển về phòng ICU. Bác sĩ bảo em được cứu sống nhưng đôi mắt sẽ bị mù vĩnh viễn vì chấn thương quá nặng. Chỉ có một hy vọng duy nhất là được thay đôi mắt khác em mới có thể thấy lại ánh sáng.

Ba mẹ em ngồi bên giường trong khi em vẫn đang nằm thiêm thiếp. Ông bà yên lặng chắp tay cầu nguyện. Tôi không biết làm gì hơn là ngồi xuống bên cạnh và góp lời cầu nguyện trong lòng.

Người mẹ buồn rầu nói, “Tội nghiệp chúng quá. Rồi đây Jane sẽ ra sao khi tỉnh dậy và biết là người yêu của nó đã chết?”

“Người yêu của Jane là anh Việt Nam ngồi chung xe hả bà?” tôi hỏi.

“Đúng vậy, chúng nó yêu nhau lắm. High school sweethearts mà. Hai đứa đều học giỏi và có tương lai. Thế mà, chỉ qua một đêm, một đứa ra đi vĩnh viễn, một đứa trở nên mù lòa.” Bà sụt sịt khóc.

Tôi ngập ngừng, “Bác sĩ nói con bà còn có hy vọng thấy lại ánh sáng, nếu…”

“Vâng tôi biết! Nhưng ở đâu ra có cặp mắt để thay kia chứ? Nếu đó là cặp mắt của một người còn sống cho con tôi, tôi biết chắc chắn nó sẽ không chịu nhận. Nó là cô gái rất tốt, không bao giờ muốn làm khổ ai.”

“Nhưng nếu đó là cặp mắt của một người vừa mới mất thì hoàn toàn có thể dùng được, chỉ có điều…” tôi bỏ dở câu nói vì tôi biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Đừng bao giờ nên hỏi cha mẹ cậu bé Việt Nam thêm một lần nữa.

Như đọc được ý nghĩ của tôi, bà mẹ thở dài, “Cô y tá ạ, tôi biết nỗi đau của người mẹ mất con nó khủng khiếp như thế nào. Tôi không dám đòi hỏi gì thêm. Số phận con gái tôi bị mù thì tôi sẽ hết lòng chăm sóc cho nó. Con gái tôi có nghị lực lắm, tôi tin nó sẽ vượt qua…”

Xót xa nhưng cũng rất xúc động trước những lời nói của bà, tôi nhẹ nắm lấy tay bà. Vừa lúc đó, một ông cảnh sát đang rảo bước tới, trên tay cầm một bọc giấy. Ông hỏi tôi, “Người ta chỉ cho tôi là có một cô y tá người Việt ở đây. Cô nói được tiếng Việt chứ?”

“Dạ được. Ông cần gì không?”

“Tôi muốn nhờ cô đi với tôi đến gặp gia đình người tử nạn trong tai nạn xe chiều nay. Chiếc xe bị total lost. Trước khi xe tow kéo xe đi, chúng tôi kiểm tra trong xe và tìm thấy chiếc ví này rớt trong xe. Nó thuộc về người đã chết. Tôi muốn giao lại kỷ vật này cho thân nhân của cậu.”

Ví, xe, người tử nạn… những mảnh rời rạc của chiếc hình puzzle tự nhiên ráp nối lại với nhau một cách có trật tự. Tim tôi đập thình thịch và cổ họng tự dưng tắc nghẽn. Chân tôi bắt đầu run lập cập và tay thì nổi da gà. Sao giống y hệt những điều cậu bé kia vừa nói?

Không lẽ mình vừa gặp ma sao?

Tôi lắp bắp hỏi ông cảnh sát, “Ông có thể cho tôi xem qua chiếc ví được không?”

Ông ngần ngừ một chút rồi nói, “Cũng được, nhưng trong ví không có gì quý giá hết, chỉ có tấm bằng lái xe và một ít tiền mặt vậy thôi!”

Tôi tần ngần mở chiếc ví ra. Thật vậy, trong ví ngoài một ít tiền nhỏ chỉ có tấm bằng lái xe. Tôi tò mò nhìn vào tấm bằng lái và hoảng sợ làm rơi chiếc ví xuống đất. Trên tấm bằng là hình của cậu bé vừa đến gặp tôi ít phút trước đây. Với gương mặt gầy và cặp mắt nâu trong vắt thơ ngây như đang nhìn xoáy vào tôi, như muốn nói một điều gì.

Vậy ra cậu chính là người đã chết đó sao?

Một luồng khí lạnh chạy dọc theo sống lưng của tôi. Tôi thầm thì, nhắc lại lời của cậu bé khi nãy: “Trong ví này có một vật rất quan trọng…”

“Cô nói gì?”

Tôi lượm chiếc ví lên, mở ra xem lại và lật tới lật lui. Quả thật không có gì khác ngoài vài tờ giấy $10 và $5, cùng tấm bằng lái.

Tai tôi văng vẳng nghe tiếng của cậu bé, “chị nhớ giúp em nghe chị, nhớ nghe chị…”

Tấm bằng lái!

Tôi nhìn kỹ lại tấm bằng lái lần nữa. Đây rồi, vật quan trọng mà tôi cần tìm chính là tấm bằng lái này đây.

Trên bằng lái có tên, tuổi và hình chụp của cậu bé. Còn nữa, nằm ngay ngắn ở góc phải của tấm bằng là cái sticker nhỏ màu hồng, trên có dòng chữ “DONOR” màu đen in đậm nét.

Tim tôi đập thình thịch. Như vậy là, chính cậu đã run rủi cho sở cảnh sát tìm thấy chiếc ví rơi trong gầm xe trước khi xe bị kéo đi; chính cậu đã tìm đến tôi, và đưa đẩy cho ông cảnh sát gặp tôi để mọi người có thể biết được ý nguyện của cậu. Thì ra ngay từ khi mới có bằng lái, cậu đã quyết định là nếu có điều gì xảy ra cho mình, cậu sẽ sẵn sàng hiến tặng những bộ phận còn tốt trong người cho tất cả ai đang cần chúng nên đã tình nguyện ghi tên làm người DONOR. Có phải cậu đến tìm tôi vì biết tôi là người chăm sóc cho người bạn gái thương yêu của cậu đêm nay và muốn nhờ tôi tìm cách để trao tặng cho cô gái đôi mắt của cậu như một kỷ vật cuối cùng?

Tôi chỉ vào chữ “DONOR” và nhờ vị cảnh sát xác minh lại với DMV. Sau khi xác nhận là cậu bé Việt Nam chính thực đã ghi danh làm người “DONOR”, nhưng đồng thời vị cảnh sát cũng thông báo rằng theo luật pháp, vì cậu bé mất khi cậu chưa đủ 18 tuổi, nên quyết định cuối cùng, cho hay không, cũng vẫn là quyết định của cha mẹ.

Phái đoàn gồm các bác sĩ, cảnh sát cùng với tôi sau khi đưa chiếc ví lại cho cha mẹ cậu và thông báo về tất cả những sự việc trên cho họ. Trong khi chờ gia đình cậu bé bàn thảo với nhau, chúng tôi đều lui ra ngoài đứng chờ.

5 phút, 10 phút trôi qua. Một bầu không khí yên lặng đến nghẹt thở.

Rồi cha mẹ cậu bé cũng bước ra. Người mẹ ôm mặt khóc, trong khi người cha nghẹn ngào nói với chúng tôi: “Thôi thì con tôi nó đã muốn như vậy, chúng tôi xin nghe theo ý nguyện của cháu. Xin bệnh viện giúp cháu làm tròn tâm nguyện, hãy giúp đỡ tất cả những ai đang chờ được giúp.”

Tôi bật khóc vì quá xúc động. Tất cả những người có mặt lúc đó đều khóc và cảm ơn cha mẹ cậu bé đã làm quyết định đau đớn và khó khăn nhưng rất cao cả này. Cảm ơn ông bà, tôi thầm thì. Trên cao kia, tôi biết cậu bé đang nhìn xuống và mỉm cười.

Những ngày sau đó, có ít nhất là cả chục bệnh nhân đang chờ thay thận, gan, tim, v.v… đã được cứu sống nhờ được ghép những bộ phận trong cơ thể cậu bé. Cô bạn gái cũng đã nhận được cặp mắt của cậu. Trên gương mặt trắng bóc và mái tóc vàng hoe, đôi mắt nâu trong veo luôn tỏa những tia sáng ấm áp dịu dàng. Đôi mắt như biết nói những lời yêu thương đến mọi người. Cậu bé đã ra đi mãi mãi, nhưng tình yêu quảng đại của em vẫn tiếp tục tồn tại.

****

Ngay sau cái đêm “gặp ma” trong bệnh viện đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Tôi về bàn với chồng, và vợ chồng tôi đã cùng đi đến quyết định là ra DMV để ghi tên tình nguyện làm người “DONOR.”

Nếu một mai có người nào phải ra đi trước, chúng tôi không muốn người thân mình ở lại phải suy nghĩ để làm những quyết định đau lòng thế cho mình.

Cát bụi rồi sẽ trở về với cát bụi. Thế thì tiếc làm chi các xác thân tạm bợ này! Nếu sau khi mình ra đi mà vẫn còn có ích cho người khác thì đó chính là một niềm an ủi và hạnh phúc vô biên cho mọi người chúng ta rồi. (Diễm Vy)

LỜI NÓI DỐI NGỌT NGÀO 

LỜI NÓI DỐI NGỌT NGÀO 

Một ngày nọ, có một cậu bé nhặt được 1 đôla. Cậu liền đến một cửa hàng bên cạnh đường hỏi: “Xin hỏi, ở đây bác có Thượng đế bán không ạ?” Người chủ cửa hàng không nói gì, ngại cậu bé quấy rối nên đã mời cậu ra khỏi cửa hàng.

 

Trời đã sắp tối đen rồi, cậu bé lần lượt đi hết cửa hàng này đến cửa hàng sau. Không ngờ, đến cửa hàng thứ 29 thì cậu cũng được người chủ tiếp đón nhiệt tình.

 

Ông chủ cửa hàng thứ 29 mà cậu bé vào hỏi là một ông lão hơn 60 tuổi, đầu tóc bạc phơ, vẻ mặt hiền từ. Ông nhìn cậu bé rồi hỏi: “Này cháu! Hãy nói cho ông biết, cháu mua Thượng đế để làm gì vậy?”

 

Cậu bé chảy nước mắt rồi nói với ông lão rằng: “Cháu tên là Bonnie. Cha mẹ của cháu đã mất từ khi cháu còn rất bé. Chú Rupp của cháu đã nuôi dưỡng cháu từ nhỏ đến bây giờ. Chú của cháu là một công nhân xây dựng, nhưng mới đây chú đã bị ngã từ trên cao xuống đất nên bị hôn mê bất tỉnh. Bác sĩ nói rằng, chỉ có Thượng đế mới cứu được chú của cháu mà thôi. Cháu biết rằng Thượng đế chắc phải là một thứ vô cùng kỳ diệu nên cháu muốn mua về để cho chú của cháu ăn. Như thế chú mới nhanh khỏi bệnh được ạ!”

 

Ông lão đỏ hoe mắt hỏi: “Vậy cháu có bao nhiêu tiền nào?”

 

Cậu bé nhanh nhảu đáp: “Cháu có 1 đô la ạ!”

 

Ông lão vội nói: “Ôi thật may quá! Giá của Thượng đế đúng bằng 1 đô la đấy cháu ạ!”

 

Nói xong, ông đi vào ngăn kéo và lấy một chiếc chai đồ uống có nhãn hiệu “Nụ hôn của Thượng đế” và đưa cho Bonnie. Ông nói: “Cầm lấy đi cháu! Chú của cháu uống hết chai này là sẽ khỏi bệnh rồi!”

 

Bonnie vô cùng mừng rỡ, ôm chai nước vào trong ngực rồi lập tức trở về bệnh viện. Vừa bước vào phòng bệnh, cậu vui vẻ nói to: “Chú ơi! Cháu đã đem Thượng đế đến rồi đây! Chú sẽ nhanh chóng khỏe lại thôi!”

 

Mấy ngày hôm sau, một nhóm các chuyên gia y học có trình độ cao nhất đã đến bệnh viện tiến hành hội chẩn cho chú Rupp của cậu bé Bonnie.

 

Họ sử dụng kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới để chữa bệnh và cuối cùng điều kỳ diệu đã xảy ra, chú Rupp của cậu bé đã hoàn toàn hồi phục. Khi chú của Bonnie ra viện, nhìn số tiền viện phí quá lớn được ghi trên hóa đơn, anh đã suýt ngất xỉu.

 

Thế nhưng mà, phía bệnh viện đã nói với chú của Bonnie rằng: “Mấy hôm trước, có một ông lão đã đem tiền đến thanh toán hết tiền viện phí cho anh rồi. Ông lão ấy là một tỷ phú giàu có. Trước đây, ông ấy là chủ tịch của một tập đoàn đa quốc gia nhưng bây giờ đã về nghỉ ngơi mà ẩn cư bằng cách mở một cửa hàng tạp hóa bán qua ngày. Nhóm chuyên gia y học có trình độ cao kia cũng là do ông ấy đã bỏ ra một số tiền lớn để thuê đến đấy.”

 

Anh Rupp sau khi nghe xong đã cảm kích vô cùng, lập tức cùng cháu trai của mình đến tạ ơn ông lão kia. Khi họ đến nơi, mới biết được ông lão đã đóng cửa tiệm tạp hóa và đi du lịch nước ngoài.

 

Sau này, anh Rupp đã nhận được một lá thư do ông lão kia gửi đến. Trong thư ông viết: “Anh bạn trẻ! Anh có người cháu trai Bonnie, thực sự là quá may mắn đấy! Vì cứu anh, cậu bé đã cầm 1 đô la đi khắp nơi để mua Thượng đế. Hãy cảm tạ Thượng đế! Là Thượng đế đã cứu tính mạng của anh!”

 

Nhiều năm sau, cậu bé năm nào đã trưởng thành và còn thi đỗ vào trường Y. Nhớ lại câu chuyện cũ và về ân nhân năm xưa, cậu đã cố gắng hết mình cứu chữa được rất nhiều bệnh nhân và trở thành một bác sĩ tốt. Bonnie đã đền đáp lại tình nghĩa của ân nhân cũ theo một cách không thể tuyệt vời hơn. Nếu không có câu chuyện cầm 1 đô la đi mua Thượng đế năm xưa và cuộc hội ngộ đầy bất ngờ với ông lão tỷ phú nọ, không thể nói trước rằng cuộc đời Bonnie đã rẽ sang hướng nào.

 

Câu chuyện khép lại ở đúng thời điểm đẹp nhất nhưng nó chưa kết thúc. Lòng bao dung, tình yêu thương sẽ còn lan tỏa mãi không ngừng. Ông lão tỷ phú đã cứu mạng người chú của Bonnie nhưng không chỉ vậy, ông còn cứu vớt cả chính cậu bé. Ông gieo vào lòng cậu bé một đức tin về cái tốt, cái đẹp, đức tin vào Thượng đế. Đôi khi, một lời nói dối có thể mang đến hy vọng cho người khác; đặc biệt là khi lời nói dối ấy xuất phát từ lòng bao dung, thiện tâm. Và chúng ta cũng hãy tin rằng, phép lạ luôn luôn tồn tại ở trên đời này!

(St)

From: TU-PHUNG

HÔN NHÂN BUỒN CHÁN

Nếu mỗi người biết nghĩ cho người kia một chút, bao dung và nhường nhịn lẫn nhau một chút, gia đình sẽ êm ấm, hạnh phúc.

Còn đây là chuyên của anh Nam Kỳ lục tỉnh:

HÔN NHÂN BUỒN CHÁN

Những ngày này, tôi đang bất mãn về cuộc hôn nhân của mình, người chồng sáng sáng ra khỏi nhà từ lúc tôi chưa ngủ dậy, tối khuya mới trở về, nhưng thu nhập chẳng khá khẩm gì, tình cảm thì cứ nhạt dần, không còn khái niệm tặng quà, cũng chẳng còn niềm vui mỗi khi chồng đi làm về…

Khi nghe nỗi niềm tâm sự của tôi, mấy cô bạn gái thân nghiêm túc phân tích vấn về rồi kết luận: “Sống với nhau nhạt nhẽo như vậy thì nên giải thoát sớm đi”.

Chia tay hội chị em, trên đường về nhà, tôi bắt đầu suy nghĩ về việc ly hôn.

Bước vào nhà, nhìn căn phòng đơn giản mấy năm rồi không có gì thay đổi, tôi bỗng cảm thấy chán chường khó tả. Đón con về, nó đánh đổ cả sữa xuống sàn nhà, rồi nó bày bừa đồ chơi khắp nơi khiến căn nhà đã chật chội càng thêm bừa bộn. Tôi chỉ lo thu dọn cái bãi chiến trường ấy cũng đủ mệt bở hơi tai.

Đang vội vàng nấu cơm thì chuông điện thoại réo rắt, chồng báo tối nay về muộn, cả tuần nay anh ấy không về nhà ăn tối lấy một bữa. Tôi bực mình, thò tay nắm hai quai nồi định bắc xuống bếp thì bị rớt, tay tôi bị bỏng rộp cả lên. Miếng nhựa chống bỏng ở quai nồi đã rụng ra từ lâu, tôi đã nói với chồng năm lần bảy lượt, nhưng mãi vẫn chưa sửa.

Tôi tắt bếp, bước vào phòng, soi vào gương, đôi mắt trong trẻo ngày nào nay bỗng trở nên mờ nhạt và lấm tấm nếp nhăn. Cuộc sống gia đình thật đáng sợ, đã bao lâu rồi tôi không chăm sóc cho bản thân mình, mọi thứ chỉ xoay quanh căn hộ bé xíu và cậu con 3 tuổi. Tôi cần phải thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa này, nhanh chóng rời xa khỏi đây.

Hai tiếng sau chồng tôi về, không thấy có cơm trên bàn, chỉ thấy tôi ngồi một mình trong bóng tối.

– Sao chưa nấu cơm?

– Sao phải nấu cơm? Tôi nấu đủ rồi, từ nay trở đi sẽ không nấu nữa. Sống thế này tôi không chịu được. Chúng ta ly hôn thôi.

– Anh nghe nhầm phải không? Em nói lại xem nào!

Lúc này con trai tôi bỗng cất tiếng khóc, anh ta chạy vội vào trong phòng bế con và cho nó uống sữa, ngạc nhiên hỏi dồn: “Sao đang sống tử tế lại đòi ly hôn?”. Tôi cười khẩy.

Tối đó, tôi cố ý ngủ riêng. Theo kinh nghiệm của các cô bạn, ly hôn không đơn giản, nhiều thứ ràng buộc như tình cảm, tài sản, thói quen, vì thế nhất định phải có nghị lực mới làm được. Để có thể tiến hành thuận lợi, tôi cần thực hiện 3 điều:

Thứ nhất không nấu cơm nữa, tách sinh hoạt của hai người ra.

Thứ hai không ngủ chung, không cho cơ hội làm lành.

Thứ ba, kinh tế riêng rẽ.

Nằm trên ghế sofa mãi mà không sao ngủ được, tôi bật dậy viết đơn ly hôn. Tôi người Bắc, chồng người Nam, cùng nhau đến thành phố biển này, mua được căn nhà đứng tên tôi. Chồng tôi có một cửa hàng làm ăn có vẻ không khá lắm, nhưng dù sao đó cũng là tài sản của anh ta. Như vậy chia ra tôi sở hữu căn nhà, anh ấy lấy cửa hàng cũng là hợp lẽ. Con trai tôi nuôi, anh ta gửi tiền trợ cấp hàng tháng là ổn.

Hôm sau, khi đưa cho anh ta tờ đơn ly hôn:

– Tôi muốn tự do!

Anh ta ngây người ra, tôi sốt ruột giục:

– Anh ký đi! – nói xong tôi liền cảm thấy mình có phần hơi quá đáng, liền đổi giọng – Lẽ nào anh không thấy chúng ta là người của hai thế giới? Chia tay tốt cho cả anh lẫn tôi…

Một tuần sau, anh gọi điện cho tôi và nói:

– Anh ký rồi, chiều nay cùng ăn với nhau một bữa nhé. Vẫn chỗ cũ, anh sẽ đưa đơn cho em.

Hết giờ làm việc, tôi đi đến nhà hàng ven biển mà chúng tôi thường đến. Mấy hôm không gặp, trông anh gầy đi, ánh mắt ưu tư, râu đã được cạo nom sáng sủa hơn. Anh lặng lẽ đẩy cái phong bì đến trước mặt tôi, bỗng tôi thấy cay cay mắt, trong lòng có một cảm giác hoang mang khó tả.

– Đã đến rồi thì gọi chút gì ăn nhé, có thể đây sẽ bữa cơm cuối cùng của chúng ta.

          Anh quay ra gọi người phục vụ:

– Cho một suất cơm thịt bò xào ớt, một bát canh ngao.

Đây đều là những món tôi thích nhất. Tôi ngồi im, anh bỗng nói với tôi:

– Bữa cơm cuối cùng này em có thể gọi cho anh món anh thích ăn không?

Tôi bỗng bối rối, tôi chẳng biết anh thích ăn món gì. Trước giờ anh đều rất dễ tính, món nào cũng ăn được, món nào cũng thấy ăn ngon lành.

– Anh thích món gì? Chẳng phải anh luôn ăn giống em hay sao?

Anh lại mỉm cười, nói chậm rãi:

– Thực ra, ngần ấy năm, anh luôn ăn những món mình không thích. Em quên rồi sao, anh là người miền Nam, anh thích chế biến kiểu miền Nam, hơi ngọt chút. Anh cũng thích ăn cay nhưng em không thích nên đành thôi.

Nghe anh nói, mặt tôi nóng bừng. Đúng là tôi chưa từng nghĩ đến việc hỏi anh thích ăn món gì. Lần đầu tiên biết anh thích ăn ngọt lại là lúc ly hôn, thật nực cười. Tôi muốn ứa nước mắt nhưng cố kìm lại.

– Anh quyết định rồi, nhà, cửa hàng, mọi đồ đạc trong nhà đều thuộc về em, anh chỉ mang theo mấy quyển sách và vài bộ quần áo thôi.

– Anh định đi đâu?

Hình như tôi thực sự chưa từng suy nghĩ nghiêm túc rằng chúng tôi sẽ sống như thế nào sau khi ly hôn.

– Bố mẹ và bạn bè anh ở miền Nam luôn giục anh về quê làm ăn. Nhưng do em thích biển nên anh chiều theo em. Ở đây gió biển mang mùi tanh của cá, ăn đồ biển anh cũng không thích, công việc cũng chẳng sáng sủa gì, đã làm em thiệt thòi…

– Anh nói gì thế? Em không phải ly hôn vì những thứ đó.

Tôi không ngăn được nước mắt.

– Ly hôn xong anh sẽ về Nam. Sau này em sống một mình nuôi con sẽ vất vả. Anh để lại tất cả cho em. Cửa hàng dạo này kinh doanh cũng khá hơn trước, em lấy tiền đó tích lại, đừng tiêu linh tinh, để phòng khi cần có cái mà tiêu.

– Vậy anh thì làm thế nào?

– Đàn ông quăng đâu chả sống, không như đàn bà con gái, cả tin lương thiện, dễ bị tổn thương.

Tôi bỗng trào nước mắt.

“Đừng khóc!” – Anh đặt tay lên vai tôi, cử chỉ quen thuộc, vậy mà không hiểu sao lúc sống bên nhau tôi lại không hề nhận thấy tình cảm của anh.

– Anh phải đi rồi. Em biết không, mỗi lần gia đình bên em tụ họp đông vui anh đều cảm thấy trống trải. Anh cũng rất nhớ ba mẹ, họ cũng già cả rồi…

Tôi bỗng thấy mình quá vô tâm. Anh là người đàn ông tốt, vậy mà đến tận giây phút này tôi mới biết sống với tôi, anh đã phải che giấu những cảm xúc không vui, những điều không hợp, chỉ vì tôi.

– Sao anh không nói những điều này sớm hơn?

– Anh muốn em sống vui vẻ, không phải bận lòng vì những việc vặt ấy.

Tôi thẫn thờ, một lúc sau tôi nói:

– Anh… Anh có thể không đi không?

Chúng tôi bước ra khỏi nhà hàng, bên ngoài gió biển rất mát, tôi ngồi sau xe của anh đi về nhà. Tôi ôm chặt lấy anh, cảm thấy thật hạnh phúc.

Sự việc vừa rồi đã cho tôi một bài học. Sau khi kết hôn, những lo toan chuyện cơm áo gạo tiền khiến người ta ngày càng không có thời gian quan tâm tới nhau, nhưng đó thực ra không phải vì họ đã thay lòng đổi dạ, mà bởi cuộc sống cần phải vậy. Nếu mỗi người biết nghĩ cho người kia một chút, bao dung và nhường nhịn lẫn nhau một chút, gia đình sẽ êm ấm, hạnh phúc.

Xã hội ngày nay ly hôn càng ngày càng dễ, chính vì thế, chúng ta càng cần trân trọng, giữ gìn hôn nhân phải không các bạn?

Nguồn: Sưu Tầm

From: TU-PHUNG

CÂU CHUYỆN VỀ CẬU BÉ LƯƠNG THIỆN MỒ CÔI ĐI TÌM MẸ.

CÂU CHUYỆN VỀ CẬU BÉ LƯƠNG THIỆN MỒ CÔI ĐI TÌM MẸ.

Tháng 2/1994,khi tuyết trắng phủ dày đặc cả miền Bắc nước Đức,trại trẻ mồ côi Yite Luo nằm bên sông Rhine,tĩnh lặng trong gió tuyết.Sáng hôm ấy,nữ tu sĩ Terri ra ngoài làm việc và nghe thấy tiếng trẻ con khóc. Bà phát hiện một bé trai tóc vàng được đặt trong một bụi cây cạnh cổng trại. Nữ tu sĩ đã đưa cậu bé về trại trẻ nuôi dưỡng, đặt tên là Derby.

Bảy năm ở cô nhi viện, Derby lớn lên khỏe mạnh và ngoan ngoãn. Cậu bé có tấm lòng lương thiện, nhưng tính cách lại có chút u buồn.

Một lần, khi các nữ tu sĩ dắt lũ trẻ ra ngoài dạo chơi, có một người mẹ ở trong thị trấn chỉ vào những đứa trẻ và nói với con của bà rằng: “Những đứa trẻ này đều là bị cha mẹ bỏ rơi, nếu con mà không nghe lời, mẹ cũng sẽ đem bỏ con vào cô nhi viện đấy!”

Derby cảm thấy vô cùng đau lòng khi nghe thấy những lời này. Cậu bé liền hỏi nữ tu sĩ:

– Mẹ ơi! Tại sao cha mẹ con lại không cần con? Có phải là họ rất ghét con không?

Nữ tu sĩ hiểu cậu bé đã tổn thương như thế nào. Bà an ủi cậu:

– Mặc dù ta chưa từng gặp mặt mẹ của con, nhưng ta tin rằng nhất định bà ấy rất yêu thương con. Trên đời này không có người mẹ nào là không yêu thương con của mình cả. Năm đó mẹ của con để con lại, chắc chắn là vì một lý do bất đắc dĩ nào đó thôi.

Dervy nghe xong lặng im không nói lời nào, nhưng cậu bé thay đổi rất nhiều kể từ ngày ấy. Cậu thường xuyên đứng bên cửa sổ của cô nhi viện nhìn ra dòng sông Rhine, trong lòng khao khát một ngày nào đó có thể gặp lại mẹ.

Vào “ngày của mẹ” năm 2003, trên tuyền hình chiếu những hình ảnh cảm động về tình mẹ con. Derby thấy một cậu bé 6 tuổi, mồ hôi chảy đầm đìa đang giúp mẹ cắt cỏ. Mẹ của cậu bé nhìn con rơi nước mắt. Derby cũng muốn làm việc giúp mẹ, cậu bé chạy đến chỗ tu sĩ:

– Con cũng muốn được làm việc giúp mẹ! Mẹ ơi! Mẹ có biết cha mẹ ruột của con đang ở đâu không ạ?

Nữ tu sĩ không nói được lời nào. Suốt mấy năm qua bà không hề nhận được tin tức gì của cha mẹ cậu bé. Derby đau khổ và khóc trong đau đớn. Cậu thực sự chỉ muốn được giúp mẹ của mình.

Mấy tháng sau, khi Derby được 9 tuổi, cậu bé rời khỏi cô nhi viện để đến học tập ở một ngôi trường gần đó. Một lần, thầy giáo kể cho học sinh nghe một câu chuyện: “Thời xưa, có một vị hoàng đế rất yêu thích chơi cờ vây, vì vậy ông liền quyết định ban thưởng cho người phát minh ra trò chơi này. Kết quả, người phát minh này lại mong muốn ban thưởng cho anh ta mấy hạt gạo. Tại ô thứ nhất trên bàn cờ đặt một hạt gạo, ô thứ hai đặt hai hạt gạo, tại ô thứ 3 số hạt gạo gấp lên 4 lần…Theo đó suy ra, đến khi bỏ đầy bàn cờ thì số hạt gạo đã là 18 triệu tỷ hạt”.

Đôi mắt của Derby lập tức sáng lên. Cậu nghĩ nếu như cậu giúp một người, sau đó yêu cầu người đó giúp 10 người khác, 10 người khác sẽ giúp 10 người khác nữa… Cứ như vậy, biết đâu một ngày nào đó người được trợ giúp sẽ là mẹ cậu. Ý nghĩ này đã khiến Derby vui mừng khôn tả. Từ đó về sau, cậu bé rất chăm chỉ giúp đỡ mọi người xung quanh. Khi ai đó cảm ơn, cậu bé đều nói: “Xin cô (chú…) hãy giúp đỡ 10 người khác ạ! Đó là cách cảm ơn lớn nhất đối với cháu!”

Mọi người tuy không biết câu chuyện của Derby nhưng sau khi nghe xong đều vô cùng cảm kích trước tấm lòng lương thiện của cậu. Tất cả họ đều thực hiện, mỗi khi họ giúp ai đó, họ lại đề nghị người kia giúp đỡ 10 người khác. Cứ như vậy, mọi người đều âm thầm thực hiện lời hứa của mình.

Derby không thể ngờ mình lại có thể giúp đỡ ông Rick – người dẫn chương trình nổi tiếng của Đức.

Vào năm 2003, Rick mắc bệnh trầm cảm và không thể tiếp tục được công việc, ông đã xin đài truyền hình cho ông được nghỉ dưỡng một năm. Rick đã tới thành phố mà Derby đang sinh sống để tham quan và bị vẻ đẹp của dòng sông Rhine thu hút. Một lần, khi trời chạng vạng tối, ông đang đi dạo trên bờ sông và bệnh tim đột nhiên tái phát. Ông ngất xỉu trên mặt đất. Derby lúc ấy đang câu cá trên bờ sông phát hiện ra điều này và đã gọi điện cho xe cấp cứu đến đưa ông đến bệnh viện.

Nhờ được cấp cứu kịp thời, Rick đã qua khỏi, ông nắm lấy đôi tay của Derby và nói:

– Cháu bé, ông phải làm sao để cảm ơn cháu đây? Nếu như cháu cần tiền, ông có thể cho cháu rất nhiều tiền!”.

Derby nghe xong liền lắc đầu nói:

– Nếu như ông có thể giúp đỡ 10 người khác khi họ cần sự giúp đỡ, như vậy chính là ông đã cảm ơn cháu rồi ạ!

Rick liền bị cậu bé kỳ lạ này thu hút. Nhìn vào đôi mắt đang rực sáng của cậu bé, trong lòng ông cảm thấy ấm áp, ông nghiêm túc gật đầu và hứa với cậu bé sẽ làm đủ 10 điều tốt.

Từ đó về sau, Rick bắt đầu chăm chỉ giúp đỡ những người khác. Mỗi lần giúp đỡ được một người, nhận được lời cảm ơn của họ, trong lòng ông lại cảm thấy vô cùng hạnh phúc, cảm thấy bản thân mình có giá trị hơn rất nhiều. Rick nhanh chóng trở lại đài truyền hình làm việc. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên vì sự thay đổi chóng mặt của ông. Ông trở nên vui tươi, lạc quan và hòa đồng với mọi người hơn rất nhiều.

Ngày 01/12/2003 lần đầu tiên lên sóng sau kỳ nghỉ dài. Ông xúc động kể về sức mạnh của “10 việc tốt” mà ông đã học được từ một cậu bé 9 tuổi. Cuối cùng, ông nói:

– Có lẽ, không ai tin đây là câu chuyện thật, nhưng nó đã tiếp thêm rất nhiều động lực sống cho tôi. Xin các bạn cũng hãy giúp đỡ 10 người khác khi họ cần. Tôi tin rằng bạn cũng sẽ cảm nhận được loại cảm giác kỳ diệu này!

Chương trình của Rick được phát sóng trên khắp nước Đức. Mọi người đều rất xúc động về câu chuyện này. Nhiều người đã sẵn lòng làm “10 việc tốt” và yêu cầu được nghe Derby nói chuyện trên truyền hình bởi vì họ muốn gặp cậu bé lương thiện này.

Tháng 1/2004, Derby được mời đến đài truyền hình chia sẻ về câu chuyện của mình. Tại quay trường, có người đã hỏi cậu:

– Tại sao cháu lại có suy nghĩ như vậy?

Derby do dự, cậu đứng lặng một lúc, rồi bắt đầu kể câu chuyện của mình. Rất nhiều người đã bật khóc trước tình yêu vô bờ bến cậu bé dành cho mẹ. Rick ôm chặt lấy thân thể gầy yếu của Derby và nói:

– Mẹ của cháu nhất định yêu cháu vô cùng. Cháu nhất định sẽ tìm được mẹ!

Sau lần phỏng vấn ấy, gần như toàn bộ nước Đức đều biết về phong trào “10 việc tốt”. Mọi người bắt đầu quan tâm hơn đến những người xa lạ họ tình cờ gặp và sẵn sàng giúp đỡ khi cần. Derby đã trở nên nổi tiếng và đài truyền hình cũng giúp cậu tìm mẹ, nhưng mẹ của Derby mãi vẫn không thấy xuất hiện…

Tháng 2/2004, một sự việc bất hạnh và đau lòng đã xảy ra…

Sau khi Derby nổi tiếng, các tay xã hội đen trong thị trấn đã nghĩ rằng cậu bé có nhiều tiền.

Đêm ngày 16/02/2004, trên đường trở về trường học, Derby đã bị một nhóm lưu manh vây quanh. Bọn chúng không tìm thấy tiền nên đã đâm trọng thương cậu bé. Derby bị đâm thủng bụng và gan và nằm thoi thóp trên vũng máu. Hai tiếng đồng hồ sau, cảnh sát tuần tra mới phát hiện ra cậu bé và đưa vào bệnh viện cấp cứu. Trong lúc hôn mê, cậu bé vẫn một mực gọi “Mẹ! Mẹ! Mẹ!…” mãi không thôi.

Đài truyền hình tiếp sóng trực tiếp tình trạng của Derby. Mấy chục sinh viên đến quảng trường Alexanderplatz, nắm tay nhau thành một vòng tròn và gọi: “Mẹ! Mẹ!…” Những tiếng gọi này làm cảm động những người qua đường, họ liền gia nhập vào nhóm đứng xếp thành hình trái tim. Số người tham gia càng lúc càng đông lên, trái tim càng lúc càng lớn hơn…

Hàng trăm người mẹ đã gọi điện đến đài truyền hình xin được giả làm mẹ của Derby. Nhưng người mẹ thực sự của cậu thì vẫn không xuất hiện. Đài truyền hình đã thảo luận và chọn cô Judy làm mẹ của Derby. Bởi vì cô sống cùng thành phố và giọng nói của cô cũng giống với giọng của cậu.

Sáng ngày 17/02/2004, sau một thời gian dài hôn mê, Derby đã mở mắt. Cô Judy đã ôm một bó hoa loa kèn xuất hiện ở đầu giường. Cô nắm lấy bàn tay nhỏ bé của Derby và nói:

– Con trai Derby yêu quý! Mẹ chính là mẹ của con đây!

Đôi mắt Derby đột nhiên sáng rực lên:

– Mẹ thực sự là mẹ của con sao?

Cô Judy cố nuốt nước mắt vào trong và gật đầu. Tất cả mọi người có mặt ở đấy cũng mỉm cười gật đầu. Hai dòng nước mắt chảy ra từ đôi mắt của Derby, cậu bé thều thào nói:

– Mẹ ơi, con đã tìm mẹ từ lâu lắm rồi! Con xin mẹ đừng bỏ con nữa, được không mẹ?”

Cô Judy gật đầu và nghẹn ngào nói:

– Con trai yêu quý, con hãy yên tâm. Mẹ sẽ không bao giờ rời xa con nữa…!”.

Trên khuôn mặt tái nhợt của Derby nở một nụ cười. Cậu muốn nói nhiều hơn nữa nhưng đã không còn sức lực nữa rồi…

Đó là ngày cuối cùng của Derby ở trên cõi đời. Cậu bé nắm thật chặt bàn tay mẹ không buông. Cậu cũng không dám nhắm mắt lại vì muốn được nhìn thấy mẹ nhiều hơn… Tất cả mọi người đều òa khóc.

Hai giờ sáng ngày 18/02/2004, Derby nhắm mắt, vĩnh viên rời xa thế gian nhưng đôi bàn tay cậu bé vẫn còn nắm chặt bàn tay của mẹ…

Thiện Nam Sưu Tầm

STT *** Tại đây có nhiều câu chuyện thú vị! Hãy để lại biểu cảm để tôi biết bạn đã đọc. Bạn có thể Share, mời bạn fb nếu muốn!!!

Image may contain: 1 person, standing, hat, outdoor and nature
Image may contain: 1 person, outdoor
No photo description available.

Ông sư Nhà Quê

Ông sư Nhà Quê

     “Tưởng niệm cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG – một cựu Tù Nhân Chính Trị – nhân giỗ mãn phần 28 năm (29/11/1991 – 2019).”                                          

 BÀI CA KINH HÒA BÌNH        

 VŨ VĂN QUÝ

   Tôn giáo nào cũng có những vị chân tu – những đấng lành thánh – suốt đời hiến thân cho lý tưởng thiêng liêng cao cả của mình đã chọn. Nhiều vị đã cùng sống chết với tha nhân, chết cho đạo pháp và trở nên hiển thánh được đời đời sùng bái tôn thờ. Tấm lòng vị tha chan chứa tình người của họ tỏa ra vô biên không vị kỷ, không đóng khung hạn hẹp ở lằn ranh tôn giáo. Biết bao công đức của họ được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác được kể lại bằng những câu chuyện đầy cảm kích.

Cách nay gần 3 thập niên trên tờ  Đất Mẹ số 38 (Đất Mẹ là tờ báo nguyệt san Công Giáo) chúng tôi đã viết dưới đề tựa ” Nén Hương Cho Hòa Thượng THÍCH THANH LONG” ngay sau khi ngài viên tịch tại Sài Gòn. Từ sau ngày ấy đến nay, nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ cũng có những bài viết về ngài, điểm đáng chú ý là những tác giả này đa số là những tù nhân chính trị người Công Giáo trong đó có một số các vị linh mục đang có mặt tại Hoa Kỳ, những người đã một thời sống cùng với cố hòa thượng ở các trại tù từ Nam chí Bắc, tất cả đều tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ.

Tang lễ cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG ngày 29 tháng 11 năm 1991 được mô tả như một đám rước hết sức trọng thể. Đoàn người tham dự đã phủ kín con đường dài 5 cây số từ cổng Chùa Giác Ngạn đường Trương Minh Giảng Sài Gòn tới Nghĩa Trang Bà Quẹo không chỉ gồm các đoàn thể Phật tử, các thiện nam tín nữ mà có mặt đủ mọi thành phần tôn giáo cũng như rất đông đảo các cựu Tù nhân Chính trị.

Trước năm 1973, Hòa Thượng mang cấp bậc Trung Tá làm Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo cho đến khi thương tọa Thích Tâm Giác đi Nhật bản trị bệnh thì Hòa Thượng mới lên làm Giám Đốc và cũng được thăng cấp Đại Tá tuyên úy từ dạo đó.

Ngày 13/6/1975 bị việt cộng bắt đi cải tạo và đem ra Bắc. Đến ngày 12 /9/1987 được tha trở về lại Chùa Giác Ngạn Sài gòn và mãn phần tại đây.

Ngược dòng thời gian gần 3 thập niên, năm ấy cũng vào mùa thu (1982), trại cải tạo Hà Tây tiếp nhận thêm khoảng 80 tù nhân chính trị (TNCT) từ trại tù Thanh Phong chuyển đến. Đa số thành phần thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị gồm các ngành Tâm Lý Chiến, An Ninh Quân Đội và Tuyên Úy của Quân Lực VNCH.

Trại Hà Tây có tất cả 12 buồng giam. Số TNCT mới đến bị nhốt trong buồng số 7. Buồng này rất kín cổng cao tường, bao quanh chằng chịt kẽm gai vì trước đó được dùng để nhốt các tù hình sự có trọng án nên được canh gác cẩn mật. Việt cộng coi những TNCT này là những đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Khoảng một tháng sau khi thanh lọc kỹ càng  thì việt cộng mới mở cửa cho các linh mục tuyên úy ra ngoài lao động, tuy vậy buồng 7 vẫn chưa được ra sân lớn tập họp điểm số như các buồng khác. Đội Tuyên Úy lúc này do linh mục Nguyễn Quốc Túy (*) – cha Túy là cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân, một mẫu người trẻ năng nổ, ứng phó thần kỳ đã được các vị tu sĩ cử ra đứng mũi chịu sào để điều động đội này xử trí với những thủ đoạn thâm độc của việt cộng. Công việc chính của đội tuyên úy lúc đó là đào đất đắp đường và kéo xe thay thế trâu bò.

Lần đầu tiên tôi được cha Túy mời dự bữa cơm trưa thân mật tại sân buồng 7. Có khoảng chục người trong đó có linh mục Khổng Tiến Giám bào đệ của linh mục Khổng Tiến Giác tuyên úy Bộ Tổng Tham Mưu, linh mục Nguyễn Văn Thịnh cựu giám đốc nha tuyên úy Công giáo, các mục sư Xuân, Điểu Huynh và các đại đức Tâm, Khuê, Tùng và hòa thượng Long. Ngoài đội tuyên úy chỉ có tôi và Đại tá Trần Mộng Chu nha Quân Pháp. Hầu như không phân biệt tôn giáo và cấp bậc, tất cả các vị tuyên úy đều xem hòa thượng Thích Thanh Long như một người anh cả và xưng hô một cách chung chung là thầy Long. Mỗi khi nhắc đến thầy Long thì mọi người đều nói về thầy với niềm sủng ái trọng vọng.

Thoạt đầu khi chưa giới thiệu từng người trong bữa tiệc, tôi ghé vào tai cha Túy hỏi có phải người ngồi trước mặt cha là Thầy Long không thì cha lắc đầu. Cung cách bề ngoài và bộ quần áo mới màu đà còn tươi của vị này làm cho tôi lầm ông với hòa thượng Long. Rồi cha chỉ cho tôi người ngồi đối diện với tôi.

Vóc gầy gò, dong dỏng cao, da ngăm ngăm, hàm răng nhỏ và đen huyền, tóc cạo dúng tiêu chuẩn sư tăng nhà Phật, mặc bộ đồ cũ đơn sơ, khuôn mặt hiền hậu nhưng khắc khổ, toát ra vẻ chân tu như thánh Găng Đi nhất là cặp mắt sáng, sâu, đen láy, rất ít nói nhưng quan tâm lắng nghe mọi người xung quanh. Đó là người ngồi đối diện với tôi. Người đó chính là Thầy Long. Tôi nhìn ông khẽ cúi đầu và ông nhìn tôi với đôi mắt hiền từ trìu mến. Ông đã trao cho tôi một nụ cười thật kín đáo.

Tháng 3/1983, trại Hà Tây sắp giải thể và chuyển hết các TNCT về Nam Hà. Các vị Tin Lành và Phật Giáo được phân tán về các đội lao động. Riêng các tuyên úy Công Giáo chờ phương tiện chuyển ngược về Thanh Phong.

Năm 1985, tôi và thầy Long bị giam chung tại Nam Hà và chính thời gian này tôi được biết thầy nhiều hơn. Có những người đã biết và nói rằng trước ngày di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, thầy đã trụ trì tại một ngôi chùa ở một làng tại tỉnh Nam Định và được đông đảo tín hữu mến mộ. Nhiều đêm tâm sự với thầy trong buồng giam, tôi cố gợi chuyện để biết thêm nhưng thầy là người điềm đạm khiêm tốn chỉ kể với tôi là thầy xuất gia đầu Phật từ lúc 12 tuổi. Quyết tâm tu hành, không muốn vương vấn nợ trần, thầy đổi tên là Nguyễn Văn Long và hầu như hoàn toàn không ai biết được tên thật và quê quán của thầy. Thầy thuộc nhiều địa danh ở Nam Định, khi tôi kể chuyện liên quan đến những vùng Cổ Lễ, Cổ Ra, Văn Tràng, Trực Ninh, Nam Trực, Quần Phương, Lạc Quần v.v. thì bỗng nhiên đôi mắt thầy rực sáng lên và có vẻ thích thú. Tôi đoán có lẽ thầy đã trải qua thời thơ ấu tại một trong những địa danh này chăng?

Thầy nói năm 16 tuổi, thầy chỉ lén về nhà nhìn mặt thân phụ của mình từ trần rồi lại lặng lẽ ra đi. Lý tưởng của thầy là Phật pháp, tình yêu của thầy là tha nhân, thân bằng quyến thuộc của thầy là Phật tử. Thầy có một cuộc sống vô cùng mộc mạc, đơn sơ, đức độ, lúc đi tu cũng như lúc ở tù. Thầy thường nói với tôi : “Tù cũng là tu”. Thầy luôn tự nhận mình là một “Ông Sư Nhà Quê“.Vốn có một tâm hồn thanh tịnh như đóa sen nở trên mặt hồ không gợn sóng lúc nào cũng toát vẻ chân tu khiến người bàng quan thấy thầy là cõi phúc. Đúng như vậy!

Trong thời kỳ đói khát, tù nhân chưa được gia đình tiếp tế thăm nuôi đã có kẻ lấy chiếc lon ghi gô đựng nước uống của thầy nhét đầy thịt heo đánh cắp của trại, lúc bị phát giác không ai dám nhận. Cuối cùng để tránh phiền lụy cho một số người, thầy không ngần ngại đứng ra nhận chiếc lon đó là của thầy mặc dù ai cũng biết thầy ăn chay trường và ai là kẻ ăn trộm lúc bấy giờ. Khi nào trại cho tù nhân chút ít thịt để “bồi dưỡng”, thầy thường nhường cho các anh em đau ốm bệnh hoạn.

Đến khi được thăm nuôi tiếp tế, Phật tử khắp nơi đến thăm thầy hầu như hàng tuần. Những quà tiếp tế, thầy đem chia cho các bạn tù. Quần áo chỉ giữ 2 bộ. còn bao nhiêu cũng đem cho hết. Thầy thường xuống bệnh xá thăm viếng những người đau ốm và đem quà bánh thuốc men  xuống cho họ. Thầy rất quan tâm đến những “con bà phước” (*) bị bỏ quên trong trại. Một vài trường hợp điển hình:

– Anh Khương, Phó Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn Côn Sơn – một người Công Giáo – bị địch bắt ngay trong lúc còn đang mặc sắc phục và bị việt cộng đánh nhừ tử. Hậu quả của những trận đòn thù khiến anh Khương trở thành bại liệt toàn thân và á khẩu. Anh bị mất liên lạc với gia đình từ ngày bị bắt. Gần 13 năm, anh mới bập bẹ nói được một tiếng “dôi, dôi” như đứa trẻ mới học nói. Thầy Long đã đích thân chăm sóc đút cơm, tắm rửa cho anh như một người thân, đặc biệt là khi trại đọc lệnh tha có tên anh nhưng anh không biết về đâu và không thể đi được một mình. Chính thầy Long đã giúp anh một số tiền và nhờ đại đức Tâm được tha cùng một lượt với anh Khương về trước tìm kiếm thân nhân của anh ở tận miền Tây để ra đón anh.

– Anh Nguyễn viết Tân, Đại tá hải quân QLVNCH bị toàn thân bất toại và bệnh nặng trong lúc mọi người ai nấy đều lo cho bản thân mình và tình thương giữa con người đã trở nên mệt mỏi thì thầy Long cũng chính là người tình nguyện chăm sóc anh Tân cho đến khi anh được người nhà ra đón kịp  về rồi chết.

Một trường hợp khôi hài khác là ở trong trại có một anh tên Nguyễn Huệ, “vô tông tích” tự xưng là trung tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23B (?). Có một thời gian anh ta bị giam chung với các tướng lãnh QLVNCH nhưng sau việt cộng phát giác “tướng Nguyễn Huệ”  chỉ là một tên khùng  và bị đuổi ra. Thấy thầy thương người và dễ dãi, “tướng Nguyễn Huệ” thường hay chạy theo quấy quả xin xỏ cơm và thuốc lào. Hễ trông thấy anh ta là thầy tủm tỉm cười, thầy không hề tỏ vẻ khó chịu và còn đi kiếm thuốc lào cho anh ta, tuy thầy chẳng bao giờ hút thuốc.

Tù nhân được tha dần nhưng vẫn còn tồn đọng một số khá lớn trong đó có các đại đức Tâm, Khuê, Xuân, Tùng, Trí, Bình, Ngự, Học, Diệu v.v. Mỗi lần thầy Long được thông báo có thăm nuôi thì các vị này đã sắm sẵn bao bị và tận tình giúp đỡ thầy. Thầy thường nói : ” Hôm nay tôi lại có thánh Veronica đến thăm nuôi “. Đây cũng là dịp thầy tập họp các tu sĩ Phật giáo ở trong trại tù để phân công đi thăm viếng bệnh nhân hoặc cắt cử họ đến tụng kinh và cầu siêu mỗi khi có người tạ thế.

Vào các dịp lễ Noen hay Tết âm lịch, thầy cũng dành dụm chút gạo, đậu xanh, đường tán và khởi xướng việc nấu chè ăn chung cả buồng mang niềm vui nhỏ bé đến cho mọi người và còn dốc hết “hầu bao” giúp các anh em nghèo đói nhất trong trại.

Thầy rất thích nghe tôi đánh đàn và kể chuyện cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn (Francis 0f Assisi) nhất là những câu hát ý nghĩa thâm thúy trong Kinh Hòa Bình. Cứ vào mỗi sáng sớm Chủ Nhật được nghỉ lao động, trong khi tất cả mọi người còn nằm trong mùng thì thầy đã đánh thức tôi và khẽ nói : “Ông Quý ơi ! Dậy cho anh em nghe đàn đi !” Thế rồi âm thanh của chiếc đàn gỗ tự tạo ở trong tù của tôi nhè nhẹ vẳng ra tiếng thay lời trong âm giai cung Mi buồn ” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con…..” hầu như không làm cho ai khó chịu cả.

Tấm lòng cao quý của thầy sáng như ngọn đuốc trong trại tù tăm tối, không những đối với các bạn tù chính trị mà còn lan tỏa  đến cả những tù hình sự giam chung cùng trại.

Như một tấm huy chương vô giá mà trên cõi đời này không thể đem ra so sánh được, thầy đã đối diện với bọn cai tù khát máu, trước họng súng AKA mà không hề nao núng và không sợ chết. Thầy đã được các vị tuyên úy Công Giáo ca ngợi vì đức bác ái và lòng hỉ xả, quên mình và chấp nhận những gì bất hạnh xảy đến. Trong cuốn AKA và Thập Giá của linh mục Phan Phát Huồn, Dòng Chúa Cứu Thế trang 107-108 kể chuyện đám tang của Cha Nguyễn Văn Bản, Dòng Đa Minh, tuyên úy Tổng Y Viện Cộng Hòa chết tại trại giam Yên Bái. Sau khi chôn cất, việt cộng bắt các tù nhân cải tạo lên lớp hội thảo đển lên án và làm nhục người đã chết. Chúng vu cáo cho Cha Nguyễn Văn Bản là một tên ác ôn côn đồ, chạy theo Mỹ Ngụy giết hại đồng bào, một tên có nợ máu đối với nhân dân, một tên lường gạt vv.. Nghe tên Nha cán bộ việt cộng lải nhải nhục mạ một người đã khuất mà người đó vốn là một người đạo đức gương mẫu, không dằn nổi sự bất bình, thầy Long đã đứng lên bênh vực bằng một giọng ôn tồn nhưng cương quyết :

” Tôi được biết Linh Mục Bản ngoài xã hội cũng như ở trong trại cải tạo là một con người đạo đức, được mọi người kính nể…” Tên việt cộng hống hách nạt nộ:

” Anh im mồm ngay. Anh Bản đã bị nhà nước cách chức linh mục của anh ta từ ngày anh bước chân vào trại cải tạo, còn anh, anh đừng có hòng đem cái bọn cha cố vào đây mà hù dọa cách mạng…”  nhưng thầy Long đâu có chịu im cho. Đợi cho tên việt cộng vừa dứt lời thì thầy Long nói tiếp:

” Nếu linh mục đều như cán bộ nói thì làm sao dân chúng tin tưởng và kính mến họ. Mặc dù  cán bộ đã cấm các trại viên gọi các linh mục là Cha và tự xưng mình là con, trại viên nào không tuân thì sẽ phải xử lý, nhưng thưa cán bộ, có ai chấp hành lệnh đó không? Trái lại, đối với công chức nhà nước, trước mặt họ gọi là cán bộ nhưng sau lưng họ gọi bằng thằng việt cộng thì cán bộ nghĩ sao?

Như một con hổ bị trúng đạn, hai mắt hắn đỏ ngầu giận dữ, nhảy chồm tới nhìn trừng trừng vào thầy Long, quát thật lớn văng cả nước miếng vào mặt người đối diện và hắn ra lệnh:

À anh này hỗn thật, yêu cầu các đồng chí đem cùm tên này cho tôi, biên bản sẽ làm sau.

Thầy Long vẫn tiếp tục nói một cách hùng hồn cho đến lúc lính cảnh vệ việt cộng mang AK xông tới còng hai tay ông, ông không tự bênh vực cho mình, ông vẫn bình thản đưa hai tay cho chúng còng để chúng đem đi. Đây thật là hình ảnh một con chiên hiền lành đứng trước kẻ xắn lông mình mà không nói lời than trách như đã được diễn tả trong Kinh Thánh. (Cv.8.32-33).

Cuối năm 1987, thầy Long được tha về. Cởi bỏ chiếc áo chàm cải tạo, thầy lại khoác chiếc áo màu đà. Từ khi trở về Chùa Giác Ngạn, thầy không giữ chức trụ trì như trước, thầy sống trên căn gác xép tại góc vườn nhưng hàng ngày rất đông người đến thăm viếng và ngôi chùa được trùng tu lại trở nên đẹp đẽ khang trang hơn cũng nhờ uy tín và sự quan tâm của thầy. Hầu như ai cũng cảm mến gương hy sinh, lòng can đảm, tánh cương trực của thầy Long. Có những vị Linh Mục không đi cải tạo mà chỉ nghe tiếng thôi cũng muốn đến thăm thầy Long tại Chùa Giác Ngạn. Tôi hỏi Cha Vũ Ngọc Trân, Chánh Xứ Chu Hải tỉnh Phước Tuy, cha nghĩ thế nào khi đến thăm Hòa Thượng Thích Thanh Long tại Chùa Giác Ngạn? Cha đã trả lời một cách không dè dặt: ” Tôi nghĩ Chúa sẽ thưởng công cho bất cứ ai biết khao khát trọn lành, thương người và giúp đỡ bênh vực người. Chúa nói kẻ nào giúp đỡ người đều có công trước mặt Ta. Tôi nghe các cha tuyên úy đi cải tạo về có nói nhiều về ông. Tôi cũng mến mộ ông và việc tôi đến thăm cơ sở một tôn giáo khác đâu có gì làm suy giảm đi lòng kính mến Chúa nơi tôi đâu. Nếu nói đó là một hình thức trao đổi văn hóa thì cũng chẳng sao!” (Cha Đa Minh Vũ Ngọc Trân cũng đã qua đời tại Xứ Chu Hải Bà Rịa ngày 24/2/1992).

Trong thời gian chưa mắc bệnh ung thư nơi xương tọa, phương tiện chính của thầy trong thành phố là “xe đạp ôm”. Thầy thường ngồi trên “poọc ba ga” phía sau để cho một chú tiểu chở đi. Người ta thấy thầy xuất hiện ở nhiều nơi và tình thương của thầy dường như vẫn đặc biệt dành cho bạn tù cải tạo còn trong trại giam hoặc đã được tha về. Khi biết có ai đi xuống trại Z30D thì thầy cũng nhắn lời thăm hỏi, có đôi lúc  thầy gửi một cần xé chôm chôm hoặc vài thùng mì gói xuống phân phát cho anh em chưa may mắn được về xum họp với gia đình. Khi nghe tin có người vừa mất, bất luận ở đâu, không phân biệt tôn giáo, nơi cầu siêu hay chốn làm phép xác, tại chùa hay nhà thờ thánh thất, thầy cũng đều có mặt để phân ưu với gia đình người quá cố, thầy không ngần ngại đến vì “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tôi đã gặp thầy và cùng đứng chung với thầy dưới gốc cây xoài trước tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Nhà Thờ Ba Chuông để chờ tiễn đưa linh cữu của cố Trung Tá Nguyễn Thủy Chung và cố Trung Tá Nguyễn Anh Ly mất vào những năm 1989-1990.

Rất nhiều cựu TNCT nay đang có mặt tại Hoa Kỳ hoặc định cư rải rác trên khắp thế giới vẫn nhắc đến thầy Long. Ký giả Lô Răng tức cố Trung Tá Phan Lạc Phúc và Trung Tá nhà văn Hoàng Ngọc Liên, Ký giả Vũ Ánh… cũng có những bài viết rất sâu sắc về thầy.

 *

Tôi chẳng có tư cách gì và cũng chẳng dám đưa ra nhận xét nào để “phong thánh” cho một con người mà tôi quen biết trong một thời gian hạn hẹp. Dưới nhãn quan của một tín đồ Công Giáo, dù sao tôi cũng chỉ là một chứng nhân với biểu kiến riêng, tôi xem Hòa Thượng Thích Thanh Long là một tấm gương rất tốt lành, đáng kính và đáng tôn vinh mà thời đại ngày nay thắp đuốc giữa ban ngày đi tìm cũng khó kiếm. Một người đã hy sinh tất cả để trọn đời đi theo con đường giống như của thánh Phanxicô Khó Khăn tác giả bài ca KINH HÒA BÌNH đã đi.

Thầy Long luôn đề cập KINH LỤC HÒA trong Diệu Pháp Liên Hoa cho các đệ tử. Chính vì thế mà thầy rất thích KINH HÒA BÌNH của thánh Phanxicô lúc ở trong tù thì sau này tôi mới nghiệm ra vì nó ẩn chứa những điều uyên thâm sâu xa nói về đức bác ái và lòng từ bi cũng giống như KINH LỤC HÒA. Tôi không ngờ thầy Long lại là một người bạn tri âm của tôi và ngày nay mỗi khi dạo nhạc hát lên bài ca KINH HÒA BÌNH tôi lại nhớ đến thầy.

Từ cõi bên kia, tôi tin rằng thầy đang mỉm cười và chăm chú lắng nghe tôi hát:

Lạy Chúa từ nhân,  Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người,   Lạy Chúa xin hãy dạy con như khí cụ bình an của Chúa,  Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…

Tôi sẽ nhớ thầy mãi mãi cùng với bài ca KINH HÒA BÌNH trong tiếng tơ đồng của cung Mi buồn.

 VŨ VĂN QUÝ

(*) Cha Nguyễn Quốc Túy hiện nay làm cha xứ Tân Thái Sơn tại Sài Gòn.

(*) Con bà phước: tù nhân mồ côi, không người thăm viếng, thiếu thốn. 

From: Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh

CỤ PHAN KHÔI VIẾT VỀ HAI ÔNG: ÔNG BÌNH VÔI VÀ ÔNG NĂM CHUỘT 

CỤ PHAN KHÔI VIẾT VỀ HAI ÔNG: ÔNG BÌNH VÔI VÀ ÔNG NĂM CHUỘT 

Cụ Phan Khôi sinh năm 1887, khi viết về  Ông Bình Vôi (1956) và Ông Năm Chuột (1958), cụ đã ở tuổi 71 trước khi qua đời ở tuổi 72 (1959). Chúng tôi là kẻ hậu sinh viết bài này nhân kỷ niệm 60 năm giỗ cụ : Kỷ Hợi 1959—Kỷ Hợi 2019. 

Giả dụ một sinh viên Việt Nam sanh sau 1975 bất ngờ  đọc lại lịch sử dân tộc qua nhiều loại tài liệu từ những nguồn khác nhau, anh ta có thể ngỡ ngàng tự hỏi Phan Khôi là nhân vật lịch sử nào, một người có thực hay chỉ là một huyền thoại như Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân  Âu Cơ ? Anh ta lại càng không thể tin rằng cụ là linh hồn phong trào của một số văn nghệ sĩ, trí thức can trường phê phán đảng Công Sản Việt Nam trong một thời gian ngắn ngủi 1956-1958 tại miền Bắc Việt Nam. 

           Đó là phong trào Nhân Văn Giai Phẩm ( viết tắt NVGP).

Hầu như vết tích về phong trào này bị xóa sạch trong các tài liệu chính thống lưu hành trong nước trong suốt ba mươi năm từ sau khi phong trào bị đập tan năm 1958. 

“Ngày 4 tháng 6 năm 1958, Đai Hội Văn Nghệ III ở Hà Nội kết thúc “Trận Chiến Đấu 

Chống Bọn Phá Hoại Nhân Văn Giai Phẩm” với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ lên án  “Bọn NVGP” , và các Hội Văn Nghệ thi hành các biện pháp kỷ luật” ( xem sách “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc—Thụy Khuê—trang 38).

Phong trào chính thức ra mắt công chúng bằng tờ báo Giai Phẩm Mùa Xuân vào tháng 1 -1956 do các thi sĩ Lê Đạt (1929-2008) và Hoàng Cầm (1922-2010) chủ biên. Như vậy từ lúc khai sinh đến khi chết, phong trào sống được hai năm sáu tháng.

Phong trào được tạo ra bởi những văn nghệ sĩ, học giả, giáo sư đại học vừa có tài học vừa có đạo đức nhân bản và tâm hồn dân tộc,  nhưng họ đã bị chế độ gọi là “Bọn phá hoại”.

Trong tiếng Việt, chữ “Bọn” bao hàm nghĩa khinh bỉ, thù địch. Thí dụ trong chế độ quân chủ ngày xưa, triều đình gọi những phong trào nông dân nổi loạn là bọn giặc cỏ, bọn phỉ, bọn lục lâm, bọn hảo hán giang hồ…Ngược lại phía nông dân nổi loạn gọi triều đình là bọn hôn quân bạo chúa, bọn quan  lại thối nát, bọn cường hào ác bá…Cùng phát xuất từ nguồn triết học của Karl Marx, nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam gọi những nhà cách mạng theo khuynh hướng của Leon Trotsky như Tạ Thu Thâu ( 1906-1945 ), Phan văn Hùm ( 1902-1946) là ….bọn tờ-rốt-kít phản động. 

           Trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1954 đến 1975, chính thể Cộng Hòa gọi chính thể Cộng Sản  là bọn cộng nô, bọn tay sai Nga Tàu ; ngược lại chính thể Cộng Sản gọi chính thể Cộng Hòa là bọn liếm gót giày đế quốc tư bản. Tuy nhiên từ 1975 đến nay chính thể Cộng Sản Việt Nam lại tự khoác lên mình danh xưng đó. Đây là diễn trình theo biện chứng pháp duy vật hay duy tâm ? 

Tài liệu chính thức được chế độ phát ra là tập sách dày 370 trang nhan đề “Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước Tòa Án Dư Luận” in năm 1959, cũng do những văn nghệ sĩ trí thức theo lệnh chế độ viết nhằm hạ nhục, bôi bẩn những vị trong phong trào. 

“Phần cuối sách, có một chương nhỏ trích “  lời thú tội” của các thành viên NVGP, còn toàn thể dành cho phía công tố  “phát hiện tội”, với lời lẽ vô cùng khiếm nhã khó thể mường tượng từ miệng hoặc từ ngòi bút của giới gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP “ ( sđd…trang 27 ). 

Tác phẩm của tác giả Thụy Khuê là một công trình nghiên cứu công phu suốt từ 1984 đến 2012 mới xuất bản thành sách dày 969 trang do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương, Virginia, USA.

Tác giả đã dựa trên một số tài liệu hiếm hoi và nhất là trên những buổi phỏng vấn trực tiếp, sống động với môt vài vị chủ chốt của phong trào còn sống sót : nhà tư tưởng Nguyễn Hữu Đang 

(1913-2007), thi sĩ Lê Đạt ( 1929-2008 ), thi sĩ Hoàng Cầm ( 1922-2008 ), họa sĩ Trần Duy

 (1920-2014). 

Những tài liệu hiếm hoi có thể kể ra: Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc ( Hoàng Văn Chí-1913-1988 )—Cent Fleurs Ecloses Dans La Nuit Du Viet Nam ( Georges Boudarel- 1926-2003)

—Năm Mươi Năm Sau :Trăm Hoa Đua Nở Ở Việt Nam ( Heinz Schutte—1923-2007 )—Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận (nhà xuất bản Sự Thật—Hà Nội-1959 )—Kẻ Bị Khai Trừ-Un Excommunie (Nguyễn Mạnh Tường- 1909-1997)—Tiếng Vọng Trong Đêm –Une Voix Dans La Nuit (Nguyễn Mạnh Tường )—Phê Bình Nắng Chiều của Phan Khôi ( tác giả Đoàn Giỏi)—Vụ Nhân Văn Giai Phẩm Từ Góc Nhìn Một Trào Lưu Tư Tưởng Dân Chủ, Một Cuộc Cách Mạng Không Thành (Lê Hoài Nguyên==nguyentrongtao.org–2010 )

Cụ Phan Khôi (1887-1959) cùng những thành viên khác của phong trào NVGP đều bị hạ nhục, bôi bẩn về mặt tinh thần. Vì cụ qua đời trước khi có những biện pháp trừng phạt nên cụ không phải trải qua những thảm cảnh của kẻ bị khai trừ trong 30 năm sa mạc như nhà tư tưởng Nguyễn Hữu Đang,  luật sư Nguyễn Mạnh Tường, triết gia Trần Đức Thảo (1917-1993), thi sĩ Lê Đạt, Hữu Loan ( 1916-2010), Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Cung (1928-1998), Phùng Quán, (1932-1995 ) , họa sĩ Trần Duy ( 1920-2014 ).

Tác giả Hoàng Văn Chí đã kể ra 5 bài viết của cụ Phan Khôi khiến cụ bị liệt vào hàng đầu não chống chế độ  : Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ–  Tìm Ưu Điểm—Ông Bình Vôi—Ông Năm Chuột— Nắng Chiều  ( Sđd Phần II—Phái cựu học—Phan Khôi ).

Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi chỉ xin mạn phép bàn về hai tiểu phẩm Ông Bình Vôi và Ông Năm Chuột.

I/ ÔNG BÌNH VÔI

Thế hệ trẻ sinh từ 1975 , thậm chí 1970 không thể nào hình dung ra cái bình vôi là vật dụng gì. Giữa thế giới kỹ thuật hiện đại, cái bình vôi đúng là một cổ tích, nhưng trong cả ngàn năm nó gắn liền với đời sống của người dân Việt từ nhà nghèo đến nhà giầu. Nó dùng để đựng vôi ăn kèm với trầu cau. Nó hợp với cái bình bằng đồng đựng lá trầu, quả cau gọi là cái cơi trầu, và cái ống nhổ thành một bộ đồ trầu  . Người ta thường nói người Việt có tục ăn trầu cau với vôi vừa để ngừa sâu răng vừa để trị giun sán. Ngày xưa làm gì có kem đánh răng. 

Cụ Phan Khôi mở đầu bài viết như sau “ Khắp nước Việt Nam có tục ăn trầu, cho nên ở đâu cũng có bình vôi”. Bài viết chỉ dài có gần ba trang sách , và cụ gọi là một bài khảo cứu nhỏ, đăng trong Giai Phẩm Mùa Thu tập II xuất bản ngày 30 tháng 9 năm 1956. 

Theo tác giả, bình vôi làm bằng đất nung, có hai loại, một cho nhà hạng sang, một cho nhà hạng trung. Loại trung có cổ eo và miệng loa , không có quai. Nhà cụ Phan Khôi là nhà quan nên thuộc hạng sang, dùng loại bình có quai và thân bình được tô màu lục hay hồng. Cả hai đều có một cái chìa vôi dùng để lấy vôi từ trong bình ra quệt vào lá trầu. Loại trung dùng chìa bằng tre, loại sang dùng chìa bằng sắt. 

Thái độ của người ăn trầu đối với bình vôi như thế nào? Sau mỗi lần quệt vôi vào lá trầu xong, người ăn trầu quệt chìa vào miệng bình cho sạch. Lâu năm , miệng bình càng ngày càng dầy lên cho đến khi kín mít thì bỏ bình mua cái khác. Bà nội của tác giả gọi việc quệt ấy là “ cho Ông Bình ăn”. Ban đêm, bà rút cái chìa vôi ra khỏi miệng bình vì bà nghĩ rằng  “Ông Bình linh lắm, đêm hôm có kẻ trộm kẻ đạo, Ông sẽ mách cho mình, mà nếu để cái chìa lấp  cái miệng thì không mách được”.

Ai ăn trầu cũng đều có thái độ kính ngưỡng như vậy đối với cái bình vôi. Khi miệng bình bị kín mít rồi,coi như vô dụng , người ta không vứt bỏ vào thùng rác mà coi như một vật thiêng liêng để thờ . Hoặc người ta thờ trong sân nhà chung trên một bàn thờ với các thần Đất ( Thổ công ), thần Bếp ( Táo công), thần Phúc Đức gọi là Tam Vị. Hoặc người ta đem ra thờ trên những bức tường thành của đình hay chùa. Năm này qua năm khác, trên những bức tường thành này có một dãy cả chục, cả trăm những bình vôi vô dụng như thế được tôn thờ như những linh vật.

Tại sao dân gian từ giầu tới nghèo lại có cái tín ngưỡng kỳ lạ như vậy ? Kính ngưỡng với thần Đất, thần Bếp, thần Phúc Đức, còn có thể hiểu được vì liên quan đến cái ăn, cái ở, cái họa cái phúc trong đời sống cụ thể. Đối với giới trẻ trong thời đại mới, tín ngưỡng đó đúng là lòng mê tín, hoàn toàn thiếu tinh thần khoa học. 

Cụ Phan đã thử phân tích tâm lý thứ tín ngưỡng đó. Thứ nhất là tâm lý sợ hãi trước những vật gì có thể làm tổn hại đến đời sống ; thứ hai là tâm lý nể trọng, sùng bái  những vật gì sống lâu năm. 

Tâm lý sợ hãi đưa đến việc con hổ được tôn xưng là Ông Cọp ; con chuột là Ông Tý ; con khỉ là Ông Trưởng. 

Tâm lý nể trọng, sùng bái  đưa đến việc ba cái đầu rau nấu bếp được gọi là Ông Núc ; cái bình vôi được gọi là Ông Bình Vôi….

Cụ Phan nhớ lại năm 18 tuổi  ( 1905 ), cụ không tin như mọi dân làng nữa về sự linh thiêng của những Ông Bình Vôi. Vào một đêm tối trời,  chàng trai trẻ Phan Khôi và một nhóm thiếu niên tinh nghịch đi dọc theo những bức tường thành của đình chùa gạt hết những bình vôi vô dụng cho đổ xuống đất. Nhưng sáng hôm sau như có bàn tay vô hình chúng được xếp lên trở lại.

Câu hỏi quan trọng : Động lực nào trong tâm khiến lũ thiếu niên làm như thế?. “Chúng tôi cứ làm như thế, không có lý luận”.

Đoạn văn kế tiếp làm cho người đọc khó hiểu : “Tuy vậy, đó không phải cái tội riêng một mình tôi. Bấy giờ bọn thiếu niên chúng tôi hầu như đứa nào cũng làm như thế được cả. Nếu ngày nay tôi phải tự kiểm thảo, thì lũ thiếu niên ấy, bạc đầu rồi, cũng phải tự kiểm thảo như tôi”.

Tại sao hất đổ những bình vôi vô dụng lại mang tội ? Mang tội với ai ? Ai có quyền kết tội ? Mà kiểm thảo là cái gì ? Kiểm thảo trước mặt ai? Lũ  thiếu niên cùng thời với cụ hồi 1905 tới nay—1956– đều đã già rồi cũng phải bị kiểm thảo, họ là những ai ?

Để trả lời những câu hỏi này, chúng tôi xin đề cập ba vấn đề :

1/ Ý nghĩa của từ ngữ   “kiểm thảo”, “tự kiểm thảo”

2/ Nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng trong văn chương

3/ Thế hệ của cụ Phan Khôi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 gồm những nhân vật lịch sử nào ?

    **********

1/ Kiểm thảo và tự kiểm thảo:  

Ý thức đạo đức trong một con người bình thường được biểu hiện qua hai trạng thái tâm lý : tàm ‘ ( shame )và quý ( dread ). Tàm là sự hổ thẹn từ nội tâm về một hành vi bất thiện mà mình đã làm, đó là sự ăn năn ray rứt –quý là sự sợ hãi hậu quả mà mình phải gánh lấy như sự khinh chê, trừng phạt của người khác. Loài vật không có tàm quý; những hạng người gọi là nhẫn tâm cũng không có tàm quý. 

Còn sự theo đuổi một lý tưởng tâm linh, văn nghệ, chính trị, xã hội ở mỗi cá nhân một khác. Sự khác biệt đó không phải là tội , trái lại là yếu tố tích cực cho sự tiến bộ văn minh của nhân loại. 

Tự kiểm thảo và kiểm thảo là sự tự phê bình và để người khác phê bình những khuyết điểm của mình trong hành động và lời nói không  phù hợp với một lý tưởng, một quan điểm nào đó. Không phù hợp không có nghĩa là phản nhân tính, vô đạo đức.

Hai từ ngữ này là đặc trưng trong chế độ cộng sản. Những người quen sống trong một xã hội có tự do tư tưởng, tự do ngôn luận sẽ không thể nào hiểu được ý nghĩa của chúng.

Kẻ hậu sinh xin dẫn tài liệu của một vị cha chú có thẩm quyền nói về vấn đề này. Đó là tác phẩm KHU RỪNG LAU của nhà văn Doãn Quốc Sỹ  (sinh 1923—). Khu Rừng Lau là một bộ trường thiên tiểu thuyết gồm bốn truyện dài :

-Ba sinh Hương Lửa   ( Khu Rừng Lau I—xb năm 1962-Sài Gòn )

-Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến ( Khu Rừng Lau II—xb năm 1964—Sài Gòn)

-Tình Yêu Thánh Hóa ( Khu Rừng Lau III—xb năm 1965—Sài Gòn )

-Đàm Thoại Độc Thoại ( Khu Rừng Lau IV—xb năm 1966—Sài Gòn )

( Xem www.doanquocsy.com)

Truyện dài  “Ba Sinh Hương Lửa” có ba phần : Phần I : Câu Chuyện Khởi Đầu—Phần II: Màu Tím Hoa Lau—Phần III : Giã Từ 

Trong Phần III, xin đọc Chương 3 : Phong Trào Tam Phản Khóa Bảy.

Nhân vật Hiến trong truyện sinh năm 1922. Trong bối cành lịch sử Việt Nam, đất nước còn trong sự cai trị của thực dân Pháp khởi đầu từ tháng 9 năm 1858 khi người Pháp dùng quân sự đánh chiếm Đà Nẵng. Từ đó cho tới ngày 9 tháng 3 năm 1945, thực dân Pháp mới bị lật đổ bởi phát xít Nhật. Trong thời gian gần một thế kỷ đó, thực dân Pháp đã phạm rất nhiều tội ác với dân tộc Việt Nam, giết, bỏ tù, lưu đầy biệt xứ bao nhiêu anh hùng dân tộc từ Trương Công Định ( 1820-1864), Nguyễn Trung Trực ( 1838-1868 ), Phan Đình Phùng ( 1847-1895 ), Hoàng Hoa Thám ( 1858-1913 ), Phan Bội Châu ( 1867-1940 ), Phan Châu Trinh ( 1872-1926 ), Nguyễn An Ninh  ( 1900-1943 ) , Nguyễn Thái Học ( 1902-1930 )……

Tư tưởng, tâm hồn và nhân cách của các vị ấy đã là tấm gương sáng cho tuổi trẻ Việt Nam như được tác giả Doãn Quốc Sỹ mô tả trong tác phẩm Khu Rừng Lau qua những nhân vật chính sanh ở lứa tuổi 1920 đến 1926 : Hãng 1921; Hiến 1922; Tân 1923; Kha 1924; Miên 1926. 

Các nhân vật này đang độ tuổi thanh niên đầy lòng yêu nước khi Nhật thất trận đầu hàng Đồng Minh vào tháng 8 -1945, tưởng là dân tộc đã thoát ách thực dân phát xít. Ai ngờ, những thế lực tư bản và cộng sản quốc tế đã thỏa thuận  với nhau đưa thực dân Pháp trở lại cai trị dân Việt. Ngày 19 tháng 12 năm 1946 là ngày toàn dân từ Nam ra Bắc đứng lên kháng chiến chống Pháp.

Nhân vật Hiến mới đậu Tú Tài ban toán năm 22 tuổi ( 1944 ), nhân vật  Kha đậu Tú Tài ban triết học văn chương năm 21 tuổi ( 1945 ). Họ được coi là thành  phần trí thức thành thị đã bỏ thành đô ra chiến khu kháng chiến. Nhưng những người lãnh đạo kháng chiến lại là những người theo ý hệ cộng sản kiểu Stalin  ( 1878-1953) và Mao Trạch Đông ( 1893-1976 ), không những chống khuynh hướng quốc gia dân tộc mà còn chống cả khuynh hướng cộng sản kiểu Trotsky ( 1879-1940).  Leon Trotsky bị Stalin ám sát tại Mexico năm 1940. Tất cả những người theo tư tưởng Trotsky đều là kẻ thù của những đảng cộng sản Stalinit-Maoit. 

Khi Hiến và Kha gia nhập hàng ngũ kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo kể từ 1947 thì chỉ ít lâu sau họ nhận thức ngay họ không thể hòa nhập được với ý hệ cộng sản. Nhất là sau khi Mao Trạch Đông thống nhất Trung Hoa vào năm 1949 thì đảng cộng sản Việt Nam coi như lệ thuộc vào đảng cộng sản Trung Hoa với những cố vấn Tàu có mặt trong mọi  cơ cấu chính quyền. Như trong đơn vị y khoa mà Miên phục vụ như một nữ y tá có viên cố vấn thủ thuật là một đại tá quân y Tầu ( xem Chương 3 –Phần II- Khu Rừng Lau) . Trong đơn vị quân đội của Kha, Hiến có viên  sư đoàn trưởng cố vấn ( Chương 3—Phần III—Khu Rừng Lau ). 

“Đầu năm 1953, Việt Bắc chính thức phát động phong trào đấu tố, khởi đầu là bà 

Cát  Thanh Long”  ( Chương 5—Phần II—Khu Rừng Lau ). Bà Cát Thanh Long là địa chủ ở Thái Nguyên trong những ngày đầu kháng chiến đã giúp rất nhiều cho chiến sĩ nhưng lại bị Đảng Cộng Sản bội ơn đem ra đấu tố đến chết.  Mục đích của đấu tố là moi ra những thành phần không thuộc tầng lớp nông dân, đó là những địa chủ, trí thức thành thị đang ở trong hàng ngũ kháng chiến. 

Năm 1953, trường lục quân Trần Quốc Tuấn Việt Nam phải dời sang Trung Hoa, đóng tại Phụng Minh Thôn thuộc huyện Côn Minh ( Vân Nam ). Hiến được biên chế vào học khóa 8.

Anh tính đúng ba ngày sau khi đến đơn vị là ngày giỗ cha mẹ. Anh bày hương hoa ở đầu giường và rì rầm khấn vái. Bỗng một đám cán bộ lãnh đạo của trường ào vô phòng, dường như có kẻ báo cáo . 

Một anh cán bộ trông dáng vẻ xuất thân từ tầng lớp bần cố nông hách dịch hỏi Hiến

“Đồng chí còn nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu thế đấy “

………………Chúng tôi chẳng biết đồng chí cúng ai và tưởng niệm cái gì ở khoảng trống này”

Hiến nghiến răng trừng mắt : “Anh câm mồm, bàn thờ cha mẹ,bàn thờ các liệt vị anh hùng chính là bàn thờ giá trị dân tộc, giá trị chính mình ! Chỉ có những kẻ vô giá trị mới nhìn lên bàn thờ mà thấy là khoảng không”

………Anh cán bộ bần cố nông chỉ vào mặt Hiến nói giọng lên án cảnh cáo : “Đồng chí còn nặng đầu óc cá nhân tiểu tư sản thoái hóa, tối nay giờ sinh hoạt, đồng chí sẽ tự kiểm thảo trước toàn thể anh em”  ( Chương 3, Phần III—Khu Rừng Lau ).

Tự kiểm thảo và bị kiểm thảo tức là tự thú những sai lầm của mình không phù hợp với quan điểm của cách mạng vô sản . Suốt buổi tối cho đến hai giờ khuya Hiến bị “quần” bởi “anh  em” với những câu hỏi cố ý dồn cho nạn nhân phải gục ngã chấp nhận việc mình cúng bái cha mẹ là sai trái, là bệnh tiểu tư sản thoái hóa . Hiến và các bạn cùng hoàn cảnh vẫn nhìn những nhà cách mạng Phan Bội Châu ,Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thái Học …là những nhà cách mạng dân tộc nhân bản chân chính mà thế hệ thanh niên phải tiếp nối sự nghiệp. Cách mạng mác-xít không phải là đường lối duy nhất đúng cho hướng đi của dân tộc. 

May sao, Hiến đã gặp được một người bạn đồng hội đồng thuyền. Đó là một cán bộ đang phụ trách tờ nội san cuả hiệu bộ tức là ban giám đốc trường lục quân. Anh ta tên Kha kém Hiến hai tuổi, từng đỗ tú tài ban triết học văn chương năm 1945 tại Hà Nội trước khi ra khu kháng chiến. Kha đã học qua khóa bảy và kể lại thảm kịch kiểm thảo theo khuôn mẫu của đảng cộng sản Trung Hoa, gọi là Phong Trào Tam Phản.

Đó chính là một cuộc đấu tố tư tưởng diễn ra qua ba bước:

“1-Thoạt tiên đương sự tự bộc lộ mình đã nghĩ điều gì, làm điều gì qua từng biến cố.

  2-Các đồng chí trong tổ tâm giao trong tiểu đội, trung đội sẽ căn cứ vào những lời đương sự tự tố cáo đó mà nêu nghi vấn, rồi chất vấn để soi tỏ đường đi mà tìm ra căn bệnh. Có mấy căn bệnh chính là : cầu an, hưởng lạc, giao động, hủ hóa .

 3-Cấp lãnh đạo sẽ căn cứ vào kết quả trên , dùng ‘ánh sáng lý luận Mác-Lê” mà quyết định thành phần đương sự” ( Sđd)

Kết quả là những nạn nhân bị dồn đến đường cùng : tự sát. Theo Kha cho biết, khóa bảy có nhiều người tự sát nhất trong trung đoàn pháo binh  Lê K.. Mỉa mai thay, Lê K.lại là con trai của bà Cát Thanh Long, làm phó chính ủy lãnh đạo học tập . “Đã có kẻ dùng dây thừng tự tử; đã có kẻ bẻ vụn những lưỡi dao cạo râu mỏng hòa với nước uống rồi ra sân chơi bóng rổ, được nửa cuộc thì gục xuống chết” ( Sđd ).

Cụ Phan Khôi bị Việt Minh bắt ra khu kháng chiến sau ngày toàn quốc đứng lên chống Pháp, ngày 19 tháng 12 năm 1946. Như vậy cụ đã sống trong chế độ cộng sản mười năm , thời gian  đủ để cụ hiểu thế nào là cái giá sinh tử của tam phản , tự kiểm thảo và kiểm thảo .

2/ Nghệ thuật ẩn dụ và tượng trưng trong văn chương

Xin nêu một thí dụ đơn giản về ẩn dụ trong ca dao Việt Nam :

Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non

Nàng về nuôi cái cùng con

Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng

Nói cái cò, con cò nhưng để chỉ người phụ nữ vất vả nuôi chồng nuôi con. Khi nói hay viết về Ông Bình Vôi, cũng thế, nhà thơ Lê Đạt và nhà văn Phan Khôi ám chỉ một loại người nào đó.  “Tóm lại, cái bình vôi, vì nó sống lâu ngày, lòng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cú rũ trên trang hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng Ông.

Tôi viết cái bài khảo cứu  nhỏ này cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt :

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái bình vôi

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại

(Xem Hoàng Văn Chí—sđd )

Những câu thơ này được trích từ một bài thơ đăng trong Giai Phẩm Mùa Xuân tháng 1-1956 : Ông Bình Vôi

Tôi mới hai muoi lăm tuổi

Chung quanh tôi bao cuộc đời mệt mỏi

Thất bại cúi đầu

Công thức xỏ dây vào mũi

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái bình vôi

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại

Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm bại

Khôn ngoan không dám làm người

Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi

(Xem Thụy Khuê—sđd—trang 70 )

Ông Bình Vôi chỉ hai hạng người :

-Thứ nhất là những văn thi sĩ tiền chiến vốn đầy cảm xúc sáng tạo bây giờ đã xơ cứng tình cảm nhân bản (lòng nó đã đặc), ngậm miệng làm quan văn nghệ viết khẩu hiệu ( miệng nó bít lại, ngồi cú rũ trên tường thành như những pho tượng ..). Họ đã trở thành những “Con Ngựa Già của Chúa Trịnh” như nhà văn Phùng Cung mô tả  trong truyện ngắn đăng trong Nhân Văn số 4 ( ra ngày mùng 5 tháng 11 năm 1956). 

Như thi sĩ của tình yêu lãng mạn ngày xưa, Xuân Diệu ( 1916-1985 ) đã trờ thành một tên phường tuồng hò hét cổ vũ cho thảm kịch Cải Cách Ruộng Đất :

………..

Thắp đuốc cho sáng khắp đường

Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay

Lôi cổ bọn nó ra đây

Bắt quỳ gục xuống, đọa đầy chết thôi

( xem Hoàng Văn Chí—sđd )

Thi nhân trở thành sát nhân như Tố Hữu:

Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít ta lin.. bất diệt

(xem Hoàng Văn Chí—sđd )

Thi sĩ không còn là hoàng tử của chữ nghĩa quê hương dân tộc mà trở thành kẻ cuồng tín mù lòa thờ những bạo chúa ngoại tộc. 

-Thứ hai là những lãnh tụ gọi là cách mạng. Họ đã trở thành những bù nhìn nhận chỉ thị từ những thế lực ngoại bang. Khuôn mẫu xô viết, phong trào tam phản, cải cách ruộng đất từ đâu mà có ?

Trong bối cảnh xã hội như vậy , nhà thơ Lê Đạt đã phải chấp nhận thái độ sống “Khôn ngoan không dám làm người”. 

3/ Những nhân vật đương thời với cụ Phan Khôi

Năm 1905, cụ Phan 18 tuổi; năm 1906 đỗ tú tài Hán học. Nhưng từ đó trở đi chàng trai trẻ Phan Khôi từ bỏ Hán học mà quay sang học Quốc ngữ và Pháp ngữ. Có thể từ hồi đó chàng đã thấy cái học khoa cử từ chương của Hán học là vô dụng trước tình hình đất nước. Có thể chàng đã coi những cậu tú, cậu cử, những ông nghè ông cống, những ông quan trong triều đình nhà Nguyễn là những Ông Bình Vôi. Dân trí thì thấp , sùng bái họ . Đúng là chàng trai Phan  Khôi và bằng hữu tỉnh thức đương thời muốn đập bỏ những bình vôi đó, tức là theo tư tưởng dẹp bỏ nền quân chủ, muốn mở mang dân trí về hướng dân chủ phương Tây. Vì thế chàng Phan mới bỏ quan trường mà lao vào nghiệp làm báo. Trong những năm từ 1904 đến 1909, Phong trào Đông Du do nhà cách mạng Phan Bội Châu đề xướng khắp nước, cũng như Phong trào Duy Tân do nhà cách mạng Phan Châu Trinh phát động ở Trung kỳ đã tác động rất mạnh đến tâm hồn những chàng trai thế hệ Phan Khôi . Đập bỏ những bình vôi vô dụng có ý nghĩa tượng trưng là thanh niên Việt Nam phải mạnh dạn bỏ cái học từ chương để tiếp nhận khoa học kỹ thuật tân tiến mà nước Nhật là gương sáng. Việc chọn hướng đi cho mình với lý tưởng đưa đất nước thoát vòng phong kiến thực dân đâu có phải là một tội mà phải xưng tội , phải tự kiểm thảo ? Lòng yêu nước thương nòi vốn là hồn dân tộc nằm sâu trong mọi tầng lớp dân gian, không cần ai phải giảng dậy mới có. Cái gọi là chủ nghĩa yêu nước chỉ là một lý thuyết đến sau.

                  Thời thanh niên, chàng trai trẻ Phan Khôi đập bỏ những bình vôi hủ nho; thời lão niên, cụ Phan đập những bình vôi hủ mác-xít.  

                    ********************************************

II/ ÔNG NĂM CHUỘT

Truyện ngắn “Ông Năm Chuột” đăng trên báo Văn số 36 ngày 10 tháng 1 năm 1958 tại Hà Nội. Theo tác giả Hoàng Văn Chí, “Chính vì bài này mà tờ báo Văn bị đóng cửa ngay tức khắc” ( HVC—sđd ). Đó là câu chuyện kể về những khám phá bất ngờ của Phan Khôi về một con người mà bề ngoài chỉ là một thứ dân hèn mọn nhưng ẩn chứa bên trong một nhân cách sâu sắc đáng kính trọng. Hành trình khám phá kéo dài mấy chục năm.

Năm 1901, cậu bé Phan Khôi mới 14 tuổi vốn sinh ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, đi học ở nơi xa, thỉnh thoảng về làng thăm nhà. Mỗi lần về cậu lại nghe nói về Năm Chuột đang sống lang thang trong làng, không nhà cửa, không vợ con, sinh nhai bằng nghề thợ bạc là chính, nghề phụ là sửa đồng hồ, bút máy, xe đạp, khóa tây. Nghe nói anh ta vốn người làng Kỳ Lam nằm phía tây bắc của Bảo An. Anh ta nổi tiếng là thợ khéo nhất trong chốn đô hội,

Huế, Đà Nẵng, Hội An . Nhưng có tiếng đồn anh ta hay ăn cắp vàng bạc khi nhận làm, mà ăn cắp tinh vi không ai bắt được bao giờ. Người ta còn xì xào một cách bí mật là anh ta dám đúc súng,  làm bạc giả mưu đồ làm “giặc”. Tệ hơn nữa, người ta còn khinh miệt anh ta là kẻ nói láo, nói phét thuộc cái hạng “mười voi không được bát nước xáo”. Đến độ người ta chỉ nói chuột quá tức là láo quá. 

Cậu thiếu niên Phan Khôi nghe qua rồi cũng chẳng để tâm. Cậu đang lo học chữ Nho nhằm đỗ thủ khoa kỳ thi hương vài năm nữa. Hơn nữa , cậu là con trưởng của quan tri phủ Phan Trân, có tiếng học giỏi, thuộc giai cấp thượng lưu , hơi đâu để ý dến một anh thợ bạc hèn mọn. 

Năm 1906, sau khi đậu tú tài nhưng không được thủ khoa, cậu về Bảo An rồi đi Xuân Đài thăm bà ngoại và ông cậu vốn là tri phủ đã về hưu  ( mẹ Phan Khôi là con gái của Tổng Đốc Hoàng Diệu, người đã tuẫn tiết khi Hà Thành thất thủ vào tay quân Pháp năm 1887, đúng năm sinh của cụ). Chính tại nhà bà ngoại, cậu Phan đã gặp Năm Chuột. Bây giờ  Phan đã thành chàng thanh niên 20 tuổi. Chàng miêu tả Năm Chuột “…đầu trọc, quấn cái khăn vải đen, áo cộc cúc giữa, quần đến đầu gối, chân mang dép da sống. Người ấy lúc vào đến cửa, hai tay cắp cái nón lá ngang ngực cúi  chào cậu tôi…….

Cậu tôi chào như không phải chào :

-Anh Năm phải?

-Dạ, lâu lắm, có thể quan lớn quên tôi

Chàng Phan về trước, không biết Năm Chuột đến nhà ông cậu có việc gì.

Nhưng trên đường đi được một đoạn bỗng thấy đàng sau có tiếng gọi, chàng thấy Năm Chuột đang tiến gần mình. Anh ta tự giới thiệu:

“-Tôi là Năm Chuột đây…Rồi đột ngột hỏi tôi: -Nghe nói cậu đậu tú tài mà cậu khóc, có phải không ? Giả sử cậu được đậu thủ khoa thì cậu làm nên cái trò trống gì?

Một gáo nước lạnh xối vào xương sống. Tôi bẽn lẽn, ấp úng cười hì hì không trả lời được”

Đấy là lần đầu tiên chàng Phan lãnh một câu nói xúc phạm từ một dân hèn đối với giai cấp thống trị. 

Năm Chuột nói tiếp ông cậu từng là tri phủ mà keo kiệt trả cái dọc tẩu hút thuốc phiện khảm xà cừ nạm vàng có năm đồng bạc. Chàng Phan mới biết anh ta đến nhà ông cậu để cầm đồ. Phan tìm cách bào chữa cho cậu, nói cậu về hưu làm gì có tiền . Năm Chuột nói :

“Quan lớn hồi xưa ( chỉ Tổng Dốc Hoàng Diệu, ông ngoại ) làm đến Tổng Đốc vừa chi, mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đã tróc ngói; còn ông phủ ( chỉ cậu tôi)mới làm tri phủ có  ba năm về “chung dưỡng” mua được những mười mẫu ruộng, tôi biết là hạng đất tốt nhất, thế sao nói không có nhiều tiền ?”

Đòn thứ hai giáng xuống khiến chàng Phan chưa kịp phản ứng thì đã lãnh đòn thứ ba :

“-Ai có đời, cha đánh Tây mà con trở đi làm quan với Tây”. 

Anh ta còn nói chính ông cậu tri phủ đã giúp Tây đàn áp nghĩa quân chống Pháp. Lại còn chuyện ông cậu hút thuốc phiện, làm trái với gia ước mà cụ Hoàng Diệu đã làm với anh  em trong nhà cấm hút thuốc phiện.

Trước khi chia tay, anh ta xin lỗi chàng Phan vì lần đầu gặp gỡ mà nói toàn chuyện mếch lòng, nhưng ngỏ ý muốn gặp lại chàng một lần khác.

“Tôi vừa đi về nhà vừa nghĩ :’À ra Năm Chuột là con người như thế đấy.Là một anh thợ bạc, sao lại nói được những điều như thế, tôi lấy làm lạ”

Về nhà chàng kể chuyện Năm Chuột cho cha nghe. Cụ Phan Trân nói : “Cái thằng láo đến thế là cùng”.

Đúng là giai cấp bị trị, tức là nhân dân, dám moi móc phê phán giai cấp thống trị, tức là giai cấp quan lại. Chữ láo vừa có nghĩa nói phét, vừa có nghĩa hỗn xược. 

Mười năm sau, khoảng 1920, chàng Phan đã 33 tuổi từ Hà Nội về làng, mới biết Năm Chuột đã lấy vợ, xin làng được một vạt đất nhỏ trên Cồn Mũi Gươm gọi là đất Chó Ỉa, dựng một túp lều tranh, phía trước đặt đồ nghề là một cái bễ thổi lửa để làm nghề rèn.

Chàng Phan đến thăm, anh ta tỏ ra vui mừng nhưng lần này gọi chàng là Ông. Chàng nói vẫn muốn được nghe những chuyện đại loại như mười năm trước. Anh ta nói :

“-Thôi thôi, đã lâu nay tôi không còn nói những chuyện như thế nữa. Nói không có người nghe mà còn có hại. Giá tôi còn cứ nói cái lối đó thì không thể nào lấy vợ và lập gia cư ở làng ông được”

-Đã thế thì đến phiên tôi. Trước kia ông không sợ mếch lòng tôi, thì bây giờ tôi cũng không sợ mếch lòng ông mà hỏi ông một vài điều”.

Năm Chuột sẵn sàng chịu sự phản pháo của chàng. Chàng hỏi anh ta rằng người ta đồn đại anh ta hay ăn cắp vàng khi nhận làm đồ, có thật thế không.

“Anh ta lại cười một cách xỏ lá : Thứ ăn cắp mà kể gì? Có những kẻ ăn cướp thì không ai nói đến. Tôi có ăn cắp vàng thật đấy, nhưng cũng tùy chỗ, tùy người, ở làng Bảo An đây thì tôi không thèm”

Anh ta bèn kể một thành tích đánh tráo vòng vàng của một cô hầu non của quan Tổng Đốc tỉnh Quảng Nam Nguyện Hữu Thắng vào năm Thành Thái thứ Mười Hai, và nhiều vụ khác nữa ;  “Kể ra cũng không ít.Nhưng tôi đều ăn cắp ở bọn ăn cướp như Tổng đốc, Bố chánh, Án sát, Phủ, Huyện……….Những việc như thế tôi cũng chẳng giấu, cứ hay đem nói với người ta, cũng như nói với ông đây, cho nên mang tiếng, chứ thuở nay đã có ai bắt được tôi ăn cắp đâu”

Anh ta biểu diễn tài cân đồ vàng chỉ bằng cách nhấc nhấc bàn tay, không cần dùng cân tiểu ly. Kiến thức của anh ta về các loài kim, công thức hợp kim thế nào như hợp đồng với kẽm sẽ ra hợp chất gì làm cho chàng kinh ngạc. Chàng buột miệng hỏi anh ta học từ thầy chuyên môn nào, anh ta cười đắc ý, vỗ vào đùi chàng:

“Xưa nay mới có người hỏi tôi câu ấy là ông. Tôi chẳng học với thầy nào hết; tôi chỉ đọc có một cuốn sách là cuốn Kim Thạch Chí Biệt”

“Tôi sửng sốt nghĩ bụng : té ra anh này còn biếtt chữ nữa kia. Cái tên sách ấy tôi chưa hề nghe, cũng không dám ngờ là anh ta bịa đặt.”

Chàng không muốn bày ra cái dốt của mình nên không hỏi gì thêm, về nhà hỏi cha cũng không biết . Lâu sau bất ngờ đọc Lỗ Tấn Toàn Tập mới thấy tên cuốn sách đó. ( Lỗ Tấn : 1881-1936 nhà văn Trung Hoa ).

“Tôi nghĩ mà lấy làm thẹn, sao mình đã không biết mà lúc bấy giờ không hỏi ngay anh ta

Chỉ vì nghĩ mình là người học thức, viết báo viết biếc mà tỏ cái dốt trước một anh thợ bạc thì ê quá”.

Sau cuộc khám phá bất ngờ ấy, chàng Phan càng tò mò về con người này khiến chàng trở lại nhiều lần những năm sau đó. Hình như gặp được tri kỷ, anh ta bộc lộ hết trí tuệ của anh ta. 

Có lần anh ta chê ông Tú già dốt, nói trong làng chỉ phục có hai người, là ông Tám Thứ và ông Biện Chín.

Chàng Phan không biết nhiều về ông Tám Thứ. Nhưng ông Biện Chín thì rõ ràng, vì đó là ông Phan Định , chú ruột của chàng, là cha của Phan Bôi và Phan Thanh. 

“Chú tôi là dân tráng, nghèo,cố gắng làm mới cho con đi học được nhưng đúng là người cần kiệm liêm chính lại khảng khái nữa, chính tôi cũng phục chú tôi mà sợ thầy tôi”.

Chàng thầm khen Năm Chuột có mắt tinh đời, phê bình đúng. Nhưng không thấy anh ta nhắc đến cha mình là quan tri phủ Phan Trân, thì trong lòng hơi nghi ngại. Hay là cha của chàng có làm điều gì trái đạo lý chăng ? 

Mãi lâu sau có lần anh ta bỗng hỏi về cha chàng. Tại sao mới 38 tuổi mà cụ đã cáo lão về hưu ? Chàng trả lời vì cụ cãi nhau với viên công sứ người Pháp. Anh ta vặn hỏi lại nếu đã không hợp tác với Tây thì ngay từ đầu đừng đi làm quan, đâu cần chờ đến khi cãi nhau với nó. Chàng Phan bí lối không trả lời được. 

Anh ta bèn giải thích lý do sâu trầm tại sao cụ tự ý rút khỏi quan trường. Từ xa xưa rồi, làng Bảo An không phải là đất phát quan lớn như làng Đông Mỹ và Xuân Đài từng có Tổng đốc.

Nhiều người làng Bảo An học giỏi nhưng chỉ làm đến tri huyện, tri phủ thì thị cách. Ông cụ của chàng biết thế nên kiếm cớ tự rút lui không để bị cách.

Chàng Phan chỉ đành chịu chuyện mà phục cái lý luận chắc chắn của anh ta. Nhưng một sự kiện cuối cùng làm chàng sửng sốt nhất. Có lần chàng bỗng nhìn thấy lẫn lộn trong thùng đồ nghề của anh ta một cuốn sách chữ Hán đã cũ, nhem nhuốc, nhiều trang đã bị xé mất. Chàng tò mò rút ra, thấy nhan đề Thương Sơn Thi Tập. 

Chàng biết thi tập  này có 10 cuốn, mới hỏi anh ta sao chỉ có một cuốn . Anh ta nói giấy sách tốt nên quấn thuốc lá hút lá ngon lắm.

“Ông có xem không?

-Thơ của ông Hoàng, mình xem thế nào được.Tôi chỉ xem được có một bài Mại Trúc Diêu.

Tôi phát lạnh người”

Chàng có đọc sơ qua thi tập này nhưng không biết bài này thế nào, không dám hỏi vì sợ lòi cái dốt của mình.

Khi về nhà, chàng  lục tìm trong bộ Thương Sơn mới thấy bài này, chàng bèn dịch ra Việt ngữ, đăng vào báo Phụ Nữ Tân Văn rồi sau nữa in chung trong tập Chương Dân Thi Thoại.

“Lục ra đây để bạn đọc thưởng thức cái mức thưởng thức văn học của anh thợ bạc:

Bài hát bán tre

Ngày đốn hai cây trúc

Bán đi để dằn bụng

Trong cửa tre đầy kho

Ngoài cửa tiền chẳng cho

Không nói thì cũng khổ

Nói thì roi dài sẽ quật chú

Rày về sau đừng đốn tre nữa

Đói nằm trong tre chết cũng đủ

Từ khi biết Năm Chuột có chữ nghĩa ẩn tàng, ông Phan Khôi thường đến chơi bàn luận thơ phú. Năm Chuột chỉ nghe, hỏi mà không góp ý kiến gì. Ông có vẻ trách điều này thì Năm Chuột nói :

“Người ta, cái gì biết ít thì chỉ nên nghe chứ không nên nói ; tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy nghề thợ bạc cho tôi”

Năm 1944, cụ Phan Khôi đã 57 tuổi, thân  phụ qua đời, cụ về nhà cư tang mấy tháng.

 Rồi nhớ Năm Chuột, cụ ra  Cồn Mũi Gươm thì chỉ thấy đất trống, túp lều tranh của vợ chồng Năm Chuột không còn nữa. Người ta nói anh ta đã dọn đi đâu từ lâu. 

“Từ đó tôi mất Năm Chuột của tôi”.  

Cụ nói  “Năm Chuột của tôi”  y như nói về một vật gì thân thương đã rời xa vĩnh viễn.

Có lần một người dân làng gọi Năm Chuột bằng ông. Ông Tú Già gọi lại mắng :”Mày gọi thằng Năm Chuột bằng ông, thì gọi tao bằng gì?”

Cụ Phan Khôi biết việc , bèn viết truyện ngắn này với đầu đề Ông Năm Chuột.

**************************

Làng Bảo An là biểu tượng thu nhỏ của một xã hội rộng lớn trong đó có một giai cấp thống trị, một giai cấp bị trị và một tầng lớp trung gian. Trong trường hợp làng Bảo An, quan tri phủ, tri huyện về hưu thuộc giai cấp thống trị ; Năm Chuột thuộc giai cấp bị trị ; ông tú già, ông Biện Chín thuộc tầng lớp trung gian. Ngôn ngữ Việt dùng hai từ ông và thằng để phân biệt giai cấp. Quan tri phủ nói  “cái thằng láo quá”, ngay cả ông Biện Chín cũng khinh miệt Năm Chuột.

“Tôi có hỏi chú tôi và thuật lại lời Năm Chuột khen phục chú, thì chú tôi trách tôi sao lại đi nghe chuyện của Năm Chuột. Thì ra chú tôi cũng có thành kiến đối với Năm Chuột như thầy tôi, như người làng”. Ông tú già, không làm quan mà cũng mắng người dân “Mày gọi thằng Năm Chuột

bằng ông, thì gọi tao bằng gì?”

Ngược lại, giai cấp bị trị đâu có dám gọi người thuộc giai cấp thống trị bằng tiếng thằng mặc dù ai cũng biết nhân cách vô đạo đức của “ông quan đó” . Năm Chuột biết rõ ông cậu tri phủ của  cụ Phan Khôi là theo Tây đàn áp nghĩa quân, là tham nhũng gộc trong ba năm mà mua được mười mẫu ruộng hạng tốt, là hút thuốc phiện, phản lại gia ước của huynh trưởng , thế mà khi gặp vẫn ngả nón ngang ngực bẩm quan lớn. Trong khi thực sự nhân cách và trí tuệ của Năm Chuột đáng được gọi bằng ông.       

Có lẽ mặc cảm tự ty đã ăn sâu vào tâm não người bị trị; còn mặc cảm tự tôn cũng ăn sâu vào tâm não người thống trị. Nếu vào năm 1906, cậu tú Phan Khôi không tình cờ nói chuyện với Năm Chuột thì “việc gì phải để ý đến chuyện một anh thợ bạc” vì là cậu cả con quan tri phủ mà. 

Đó là thái độ kiêu ngạo giai cấp thống trị mục hạ vô nhân  đối với người dưới, tự cho là ở tầng cao trí tuệ. Chỉ sau khi nhận vài độc chiêu từ Năm Chuột, cậu tú mới tỉnh ngộ.

Qua câu chuyện Năm Chuột, cụ Phan Khôi đưa ra mấy luận điểm :

a/ Giai cấp lãnh đạo che giấu sự thối nát tưởng là nhân dân không biết.

b/ Giai cấp lãnh đạo không thể dạy văn chương nghệ thuật cho văn nghệ sĩ trí thức được

( cũng như cụ Phan không thể dạy nghề thợ bạc cho Năm Chuột được)

c/ Trí tuệ nhân dân còn cao hơn giai cấp lãnh đạo.

d/ Lòng yêu nước của nhân dân sâu đậm hơn vì giai cấp lãnh đạo dễ bị ngoại bang lũng đoạn.

e/ Giai cấp lãnh đạo ăn bám vào nhân dân

  Có lẽ đảng cộng sản Việt Nam nhận ra thâm ý này của tác giả nên đóng cửa ngay tờ báo Văn số 36.

Hành động dó phải chăng xuất phát từ bệnh tự tôn, kiêu ngạo cộng sản? Không hẳn như vậy , vì từ triết học của Karl Marx ( 1818-1883) tỏa ra nhiều khuynh hướng chủ nghĩa cộng sản. Theo triết gia Merleau Ponty ( 1907-1961), có thể chia ra ba khuynh hướng chính,  xét tương quan giữa ba thế lực : Giai cấp vô sản—Lịch sử nhân loại—Đảng cộng sản.

*Khuynh hướng của Lenin  ( 1870-1924 ): Giai cấp vô sản chỉ có thể làm sứ mệnh lịch sử là tiêu diệt giai cấp tư bản thông qua sự lãnh đạo của Đảng cộng sản gồm những người cách mạng chuyên nghiệp. Sau này triết gia Jean Paul Sartre ( 1905-1980) nói một cách triết lý hơn : giai cấp vô sản chỉ hiện hữu được bằng cách tự đồng hóa với Đảng cộng sản.

*Khuynh hướng của triết gia George Lukacs (1885-1971). Theo triết gia người Hungary này, giai cấp vô sản và Đảng cộng sản là hai thế lực riêng biệt nhưng tương tác với nhau để hướng đạo cho lịch sử nhân loại. Như vậy Lukacs không coi Đảng là độc tôn.

*Khuynh hướng của Leon Trotsky ( 1879-1940) : Động lực chính đưa lịch sử đến thời sụp đổ của chủ nghĩa tư bản là giai cấp vô sản ; Đảng cộng sản chỉ là yếu tố phụ.

(Merleau Ponty—Les Aventures De La Dialectique—Gallimard—Paris 1955—Bản dịch Anh ngữ của Joseph Bien : Adventures of The Dialectic—Northwestern University Press—USA-1973)

Sau khi Lenin chết, Stalin ( 1878-1953) tuyệt đối theo khuynh hướng Lenin và triệt hạ hai khuynh hướng kia. Từ 1924 đến 1940 Stalin thanh trừng tất cả những đối thủ còn sót lại trong đảng cộng sản Liên xô và trở thành một thứ Nga Hoàng mới. Đảng cộng sản Liên xô và những đảng cộng sản chư hầu ở những nước khác trở thành những đảng chuyên chế toàn trị. Trong nhân loại , ngoài hai giai cấp lớn vô sản và tư bản, xuất hiện một giai cấp mới mà người Nga gọi là giai cấp Nomenklatura gồm những đảng viên cao cấp hưởng những đặc quyền đặc lợi vô giới hạn. 

             Theo triết gia Merleau Ponty, đảng cộng sản của Stalin từ 1924 đến 1953 không còn tính cách mạng của thời trước và trong năm 1917 nữa. Nó biến thành một guồng máy thư lại.

Nói theo ngôn ngữ bóng bẩy của Lê Đạt, Phan Khôi , đó là guồng máy của những Ông Bình Vôi, vì   “lòng nó đã đặc, miệng nó bít lạị”. 

Những người cộng sản theo khuynh hướng Lenin dễ mắc bệnh tự tôn giống như những ông quan triều đình luôn luôn nhìn giai cấp Năm Chuột là những thằng ngu si hèn mọn. Họ coi “bọn tờ-rốt-kít đệ tứ” là thụ động vì  không chủ động dẫn đạo lịch sử. 

Cụ Phan Khôi viết về hai ông, ông bình vôi thuộc giai cấp thống trị, ông Năm Chuột thuộc giai cấp bị trị. Một đàng, vì sợ mà gọi bằng ông ; một đàng vì phục mà gọi bằng ông. Hai ông đó có nằm trong tiến trình biện chứng chính đề-phản đề đấu tranh nhau để đi đến một tổng đề nào không? Người ta thường gọi đó là biện chứng chủ nô. Là nhà văn, cụ Phan Khôi chỉ mô tả cái hiện tượng mâu thuẫn chủ nô mà thôi.

Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Cụ Phan Khôi qua đời, kẻ hậu sinh chúng tôi vì tò mò nhìn lại một chặng đường lịch sử dân tộc, mạo muội viết vài hàng tưởng niệm Cụ. Chắc chắn có những điều kẻ hậu sinh hiểu không đúng, một phần vì kiến thức ít ỏi, một phần vì lịch sử mù mờ quá , kính mong hương hồn Cụ bao dung tha thứ .

Đào Ngọc Phong

 California ngày 8 tháng 11 năm 2019

Tài Liệu Tham Khảo

*Hoàng Văn Chí—Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc—Mặt Trận Bảo Vệ tự Do Văn Hóa—In lần thứ nhất, Sài  Gón 1959—in lần thứ hai USA 1990 ).

*Thụy Khuê —Nhân Văn Giai Phẩm Và Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc—nxb Tiếng Quê Hương-Virginia—USA -2012

*Merleau Ponty—Les Aventures De La Dialectique—Gallimard –Paris 1955—Bản Dịch Anh Ngữ của Joseph Bien- Adventures of the Dialectic—Northwestern University—USA 1973—Những Bước Phiêu Lưu của Phép Biện Chứng )

*Lê Mạnh Hùng –Nhìn Lại Sử Việt—Thời Cận Hiện Đại—1945-1975—Tổ Hợp Xuất Bản Miền

Đông Hoa Kỳ –2015.

*Nguyễn Minh Cần –Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế–Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ-2016

*Lê Hoài Nguyên—Vụ Nhân Văn Giai Phẩm Từ Góc Nhìn Một Trào Lưu Tư Tưởng Dân chủ, Một Cuộc Cách Mạng Không Thành—Blog Nguyễn Trọng Tạo.Org.

*Doãn Quốc Sỹ –Khu Rừng Lau—www.doanquocsy.com

*Heinz Schutte –Năm Mươi Năm Sau: Trăm Hoa Đua Nở Ở Việt Nam 1954-1960 –Talawas,com

(Nguyên tác Đức ngữ : Funfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Viet Nam 1954-1960)

 From: Bác sĩ: Phùng Văn Hạnh

XIN NGÀI HÃY NẮM LẤY TAY TÔI

XIN NGÀI HÃY NẮM LẤY TAY TÔI

Trong suốt thời gian xảy ra nội chiến, Tổng thống Abraham Lincoln vẫn thường đến các bệnh viện để thăm hỏi và trò chuyện với những thương binh đang điều trị ở đó. Một lần, các bác sĩ dẫn Lincoln đến bên giường một người lính trẻ đang gần kề cái chết.

“Tôi có thể làm cho anh được điều gì ngay bây giờ không?” Tổng thống hỏi.

Người lính trẻ rõ ràng không nhận ra Lincoln. Anh cố thều thào: “Xin ông hãy giúp tôi viết một lá thư cho mẹ!”
Bút và giấy được mang tới, và vị Tổng thống bắt đầu nắn nót viết từng chữ mà người lính trẻ có thể đọc được bằng hơi sức yếu ớt còn lại của mình:

“Mẹ yêu quý! Con bị thương rất nặng trong khi đang thi hành nhiệm vụ. Con e rằng con không thể qua khỏi được. Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng quá đau buồn vì con nhé. Xin hãy hôn em Mary và John giúp con. Xin ơn trên phù hộ cho bố mẹ.”

Người lính đã quá yếu sức và không thể tiếp tục được nữa, nên vị Tổng thống ký tên giùm anh vào cuối bức thư và thêm vào dòng chữ: “Viết thay cho con trai bà – Abraham Lincoln.”

Người lính nhìn vào bức thư, và dường như hồi sức lại khi đọc thấy tên người đã giúp anh thực hiện nguyện vọng cuối cùng của mình.

“Ngài chính là Tổng thống ư?” anh hỏi.

“Vâng, tôi đây!” Lincoln trả lời một cách bình thản, và lại tiếp tục hỏi rằng ông có thể làm thêm được gì cho anh.

“Xin ngài hãy nắm lấy tay tôi!” anh nói. “Điều đó sẽ giúp tôi rất nhiều khi phải đối mặt với cái chết!”

Và trong căn phòng tĩnh lặng, vị Tổng thống cao gầy nắm chặt tay anh lính trẻ trong bàn tay mình, nhẹ nhàng nói những lời an ủi, động viên cho đến khi anh ra đi trong thanh thản.

KINH CUNG CHI ĐIỂU

KINH CUNG CHI ĐIỂU

          Lỗ trí Thâm

Mẹ tôi qua đời đã được hơn ba năm, cụ mất ở tuổi thọ 93. Năm 1946 bà mới ở tuổi 28 đã là góa phụ! Bố tôi bị Việt-Minh giết bằng cái vồ đập đất đánh vào gáy rồi đạp thẳng xuống hố, lấp đất. Ông là đảng viên Việt-Nam Quốc-Dân Đảng. Vì thấm nhuần đạo lý Khổng Mạnh “tam tòng, tứ đức” nên mẹ tôi ở góa thờ chồng, nuôi con cho đến khi tay xuôi mắt nhắm. Tôi năm nay đã qua cái tuổi “thất thập cổ lai hy”, cũng đang chờ để đi gặp mẹ mình; chứ không như “bác” Hồ ở tuổi già ước mơ được đi gặp cụ Mác cụ Lê!

Người ở lại thương nhớ người ra đi. Nhớ bóng, nhớ dáng, nhớ lời, nhớ tiếng, nhớ tập tục, nhớ thói quen v..v.. Phần tôi, tất nhiên cũng không tránh khỏi tâm trạng đó. Những kỷ niệm, những lời mẹ dạy thì không sao kể xiết.. tất nhiên có cái nhớ cái quên! Thế nhưng đặc biệt câu nói mà mẹ tôi lẩm bẩm suốt quảng đời bà: “tôi như con chim chết hụt” mỗi khi có ai nhắc tới Việt-Minh, Việt-Cộng; thì anh em, vợ chồng, con cái, cháu chắt chúng tôi không bao giờ quên được!

Tội nghiệp mẹ tôi, tại sao bà lại mang nặng cái tâm trạng “kinh cung chi điểu” kia suốt đời bà? Chẳng lẽ cái “đồng bào” Việt-Minh, Việt-Cộng kia là cái hoảng sợ đeo đẳng nặng nhọc cho tới ngày bà nhắm mắt? Chồng bà yêu Nước, chống “Tây”, bị “đồng bào” Việt-Minh lấy vồ đập đất đánh vào gáy chôn sống; Con bà thì được “đồng bào”Việt-Cộng “thống nhất đất nước” và cái “không có gì quý hơn độc lập tự do” cho đi “học tập cải tạo” mút mùa nơi rừng thiêng nước độc miền Bắc! Thế là mẹ tôi thân già còm cõi lại phải gánh gồng vượt ngàn dặm tiếp tế nuôi con! 

Bà có người anh ruột, ly khai gia đình theo Việt-Minh từ khi mới 15 tuổi thơ. Năm 1954, khi tiếp thu Hà-Nội, ông vội vàng tìm em. Tay mới vừa bắt, mặt mới vừa mừng thì lời nói đầu tiên đầy sợ sệt hoảng hốt: “cô hãy tìm đường vào nam ngay!..”. Và rồi, sau 30/4/1975 ,lại một lần nữa, ông vội vào Nam tìm gặp em mình. Dù đã hơn 20 năm sau, vẫn tâm trạng sợ sệt hoảng hốt như xưa, ông nghẹn ngào: “sao không đi Mỹ?Khổ rồi!!”

Gần trọn cuộc đời cống hiến cho “cách mạng”, tới lúc gần đất xa trời, ông được “Bác” và “Đảng” chiếu cố, cấp cho cái gốc cây đa ở đầu làng: Căng cái bạt, đóng cái kệ, kê cái ghế… làm nghề “lao động là vinh quang”: Hớt tóc! Miệng ông luôn lẩm bẩm: “bị lừa.. bị lừa!!”. Và nỗi uất ức “bị lừa” này khiến ông vẫn cứ lẩm bẩm câu ấy tới tận giây phút nhắm mắt lìa trần.

Trong suốt những năm dài “học tập cải tạo”, tôi được người của “đỉnh cao trí tuệ” “giáo dục” rằng “khỉ là tổ tiên của loài người”; Và tiến trình văn hóa bắt đầu từ “đồ đá.. đồ đồng.. qua tới đồ “Độc”, đồ “Đểu”; Sau cùng, tiến lên “Tư-Bản Xã-Hội Chủ-Nghĩa!”.

Vậy thế nào là đồ “Độc”? 

Tôi có người bác họ, trước ngày 30-4-1975 ông nhất định ở lại, không theo vợ con di tản. Ngày đó ông đã ngoài sáu mươi, người hom hem như cây sậy, ông nghĩ ở lại chắc Việt Cộng chẳng tính tới ông, vì suốt cuộc đời ông chỉ là một anh thư ký quèn! Cái nghề cạo giấy, trói gà không chặt, lính Việt-Nam-Cộng-Hòa chê!

Thế nhưng ngày “đại thắng mùa xuân”, lính “cụ Hồ” vào Sài-Gòn chia nhau đóng quân rải rác trong nhà dân. Nhà ông bác tôi cũng bị “chiếu cố”. Mười tên cán ngố “cơm niêu, nước lọ” ở nơi rừng rú đã quen, nay vào thành phố văn minh, không biết sử dụng những tiện nghi “hiện đại”! Ăn ở bừa bãi, bê bết, bẩn thỉu, bụi bậm v..v.. Bác tôi không chịu được, ôn tồn đề nghị họ luân phiên ở các nhà khác. Chúng không chịu.. ở lì! Bác tôi khóa nước, tắt điện. Ông bắc võng nằm trước nhà nhìn chúng sinh hoạt. Cuối cùng chúng chịu thua, dọn sang nhà hàng xóm. Khi ra khỏi cổng nhà, tên đội trưởng quay lại nói: “Rồi mày sẽ biết tay ông!”. 

Vậy thì “tay ông” ra sao? 

Chị người làm sau ngày “giải phóng” đã xin nghỉ, đột nhiên trở lại thăm ông. Sau những câu hỏi thăm tình nghĩa, chị góp ý: “Bà và các cô cậu ra đi để lại ông một mình, nay ông phải tự lo mà sống, con đề nghị ông mang cái bàn nhỏ và cái máy đánh chữ ra để ở đầu ngõ, đánh máy thuê, may kiếm được đồng vào đồng ra cho qua ngày”. Sau khi chị người làm giã từ, ông suy nghĩ thấy có lý. Ngay hôm sau, người qua lại đã thấy ở đầu ngõ xuất hiện một ông già đánh máy thuê.

Ngày qua ngày, tạm đủ sống. Ông nghĩ tới chị người làm trung thành tốt ý mà mang ơn! Thế nhưng, chợt một hômchị người làm lại xuất hiện. Lần này chị mang đến cho ông một tin mừng, chị đưa ra một xấp giấy đề cập tới những người làm sở Mỹ trước kia sẽ được Mỹ can thiệp cho đi, đặc biệt với ông vì có bà nhà đã làm sở Mỹ. Chị yêu cầu ông gấp rút đánh máy ra nhiều bản để chị bán cho những người làm sở Mỹ còn kẹt lại, và hẹn hôm sau chị trở lại. 

Ông thức gần trắng đêm để đánh vội ra nhiều bản, và chờ! Tội nghiệp, Thay vì chị người làm “trung thành” thì là những tên công an áo vàng ập đến! Khám xét, hò hét.. Rồi cái gì xảy đến? Ông bị bắt vì tội “âm mưu phát tán tài liệu phản động”. Còng tay, bỏ tù, giam ở nhà tù Phan-đăng-Lưu. Sau đó đưa đi đâu không ai hay biết, vì không có thân nhân! Cuối cùng, không bao giờ ông trở lại mái nhà xưa! Căn nhà của ông ít lâu sau người ta thấy có người ở, lớn bé, nói tiếng Bắc giọng léo lắt, lượn lẹo.. khó nghe.

Hơn ba mươi năm qua, các con ông mòn mỏi tìm xác cha mình nhưng vẫn biệt vô âm tín. Tóc họ đã hoa râm, nhưng hàng năm vẫn thay phiên nhau về quê cũ, đứng trước cửa nhà xưa, tay cầm nén nhang tưởng nhớ cha mình, hồi tưởng một thời thơ ấu trong căn nhà êm ấm hạnh phúc của một thuở đất nước thanh bình thịnh vượng! Phần tôi, trong âm thầm tận cùng ở đáy lòng, tôi ước mơ ở tuổi già, tôi và họ quên được những hận thù để nhẹ nhàng ra đi. Nhưng dễ gì! tâm tư nào hóa giải được nỗi đau tình phụ tử, lòng hiếu đễ?

Ngày giỗ mẹ tôi, đứa cháu lớn hỏi tôi rằng: “Cụ nội bị ‘kinh cung chi điểu’, thế còn ông nội thì sao?”. Tôi không trả lời, vì ở tuổi chúng chưa biết gì về hận thù! Thế nhưng câu hỏi đó đã đánh thức trong tôi niềm đau ngủ yên của những năm tháng tù đày. Những cái “Độc”, cái “Đểu” của người Bắc Việt-Cộng ở những ngày xa xưa nơi rừng thiêng nước độc mà tôi và các chiến hữu của tôi đã nhiều lần chết hụt lạnh người, lại từ ký ức lũ lượt trở về.

Vậy thế nào là đồ “Đểu”?

Ngày 29-6-1976 trên bến Hạ-Lý, Hải-Phòng, miền Bắc, trước mặt chúng tôi (những tù bại binh biệt xứ), một tên bộ đội sau khi dựng chiếc Vespa màu xanh dương (cướp được từ miền Nam), hắn chậm rãi mở cốp xe lấy ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ rồi từ từ hắn lau xe, hắn lau khắp “thân thể” cái xe. Cuối cùng khi lau tới cái yên xe, hắn quay mặt nhìn chúng tôi.. cười đểu. Ngày đó tôi ghi nhận được nỗi đau đớn uất hận hằn lên khuôn mặt những đồng đội tôi! Những ánh mắt đổ lửa của thân phận tù đày ở ngày xa xưa đó, còn đeo đẳng tôi tới hôm nay!

Cũng chính ngày đó, trước khi chích ngừa tù binh, tên bác sĩ Việt-Cộng qua loa phóng thanh, hắn cao giọng nói: “Đây là miền Bắc Xã-Hội-Chủ-Nghĩa lành mạnh, các anh sẽ được tiêm phòng để ngừa những bệnh truyền nhiễm của miền Nam ở trong người các anh”. Thế nhưng mỉa mai thay, chỉ ít tháng sau, Sài-Gòn bị dịch ghẻ ngứa chưa từng có, tràn lan khắp nơi. Người dân nhỏ to: “bộ đội và bọn thổ phỉ miền Bắc mang vào!”

Một tên cai tù trả lời “anh vào hỏi nợn” sau khi một chiến hữu của tôi hỏi xin hắn cho nhặt những mẩu đầu gân khoai mì mà lợn chê, nằm dưới hố rác đã nhiều ngày. Tôi không sao quên được nét mặt thèm khát và thất vọng của người chiến hữu ấy! Thật là đểu cáng và tàn nhẫn. Làm sao có thể tìm được trên trái đất này một tên cai ngục đểu độc như tên cai tù Việt Cộng kia?

“Ngụy quân, ngụy quyền”. Trong một lần khác, một tên cai tù nhẹ nhàng kể với tôi: “Thời thơ ấu, hắn và các bạn thường nghịch ngợm phá phách hàng xóm. Mỗi lần hư hỏng như vậy, mẹ hắn thường chửi hắn “thằng ranh con nghịch như ngụy”.” Sau đó hắn nhìn tôi cười đểu. Những cái đểu như đã có sẵn bàn bạc khắp trong người dân thường cho đến kẻ lãnh đạo ở miền Bắc!

Hồ-chí-Minh khi còn sống, đánh chiếm miền Nam, ông xúi bọn Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam rằng: “Miền Nam đi trước, về sau”. Bọn Nguyễn-hữu-Thọ, Nguyễn-thị-Bình, Trịnh-đình-Thảo, Trần-văn-Trà v.v.. tưởng bở, cắm đầu đánh chí mạng! Sau 30-4-1975, Mặt-Trận bị giải tán; Lính nón tai bèo cùng những thủ lãnh lũ lượt lơ láo bị cho về vườn. Bọn Bắc Việt Cộng-Sản chính hiệu tràn vào. Cướp của, lấy nhà, chia nhau chức trọng quyền cao; Tham ô, hủ hóa, ăn cắp, ăn trộm v.v.. Mà “mức độ lẫn cường độ” tăng lên mãi tới ngày hôm nay! Kết quả, dân chúng Nhật-Bản phải phong cho Đảng và Nhà-Nước Việt-Cộng cái tên là “Tập đoàn lãnh đạo ròi bọ!”

Trong cuộc cầu nguyện lặng lẽ cho hòa bình của giáo dân ấp Thái-Hà, đòi lại đất đai của giáo xứ bị cướp cạn từ nhiều năm qua, đã bị con cháu “bác Hồ”, người “đầy tớ nhân dân”, chơi đểu bằng trộn lẫn nước tiểu và phân người, rải rắc vung vãi khắp nơi quanh nhà thờ. Cuối cùng, cả đức Tổng-Giám-Mục Hà-Nội lẫn giáo dân “chào thua”! Phần đất đó được bọn người “đểu” biến vội thành công viên.

Thiền sư Thích nhất Hạnh sau bao năm lưu vong, được chúng cho phép về quê hương yêu dấu! Hí hửng dẫn theo cả đoàn tăng ni Việt có, Tây có, rầm rộ cờ xúy diễn hành từ Nam ra Bắc.. Cầu siêu.. Cầu hồn.. Được chủ tịch nhà nước Việt cộng Nguyễn minh Triết khen: “Thiền sư Thích nhất Hạnh và đoàn tăng thân Làng Mai đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động tôn giáo ở Việt Nam..”Được lời như cởi tấm lòng, thiền sư vội vàng bỏ ra cả triệu đô la Mỹ, lập dựng tu viện Bát-Nhã ở Bảo Lộc, tập trung được 400 tăng sĩ nam nữ. Mới chưa được bao lâu thì nhà nước xem ra thấy không ổn, bèn cho bọn côn đồ lưu manh tới phá phách, dùng bạo lực đánh đuổi tăng sĩ ra khỏi chùa! Dư luận đàm tiếu thì Nhà Nước giải thích đó là hành động tự phát của nhân dân!

Những đòn “đểu, độc” không những chỉ ra chiêu với đối tượng không phải Cộng Sản, mà ngay trong đảng viên CS chính hiệu cũng chơi nhau sát ván! Đơn cử như ông Hoàng minh Chính, viện trưởng viện triết học Mác và Lenin của Hà-Nội được Nhà nước cho qua Mỹ chữa bệnh. Ngày 28-9-2005, ông “Triết gia” Triết phát biểu tại trường đại học Harvard về tính chất không thật của chủ nghĩa Marx và Engels, đồng thời đề nghị dân chủ cho Việt-Nam. Khi trở lại Sài-Gòn, liền bị một nhóm côn đồ dến trước cổng vứt phân người vào nhà ông. Ông đưa đơn khiếu nại thì chính quyền giải thích đó là hành động tự phát của nhân dân!

Gần đây nhất là vụ cướp đất trắng trợn và tàn bạo. Khổ chủ là Đoàn văn Vươn, một cựu bộ đội ở huyện Tiên-Lãng Hải Phòng, bị nhà nước phá nhà, cướp đất công khai bằng bạo lực. Bị đẩy vào đường cùng, Đoàn văn Vươn đã dùng súng và lựu đạn để chống lại sự ức hiếp tàn bạo đó. Sự kiện chính những người “cùng là Việt-Cộng” chơi đểu lẫn nhau đã không thể che dấu được dư luận trong nước và thế giới. Cuối cùng Đoàn văn Vươn bị bỏ tù, nhà cửa bị giật sập, san bằng. Chủ tịch huyện tuyên bố: “nhân dân bức xúc vì hành động sai trái của Đoàn văn Vươn nên kéo nhau tới san bằng nhà của anh!!..”

Bây giờ, tháng này, ba mươi bảy năm về trước, ngày 30-4-1975; ngày mà miền Nam thân yêu rơi vào tay bọn Bắc Việt-Cộng. Chúng cướp bóc, bỏ tù, trả thù, chém giết, đày đọa… Đất nước gặp khổ nạn! Cả miền Nam tràn ngập máu lửa, hừng hực hận thù. Kinh hoàng, hoảng hốt, người dân lành vô tội ùa nhau băng rừng vượt biển chạy trốn! Người chết nổi, kẻ chết chìm, xác người bồng bềnh phủ kín biển Đông! Người dân miền Nam gọi tháng đó là “Tháng Tư Đen”!

Bản thân tôi giờ đây có được những tháng năm cuối đời sống bình an, hạnh phúc, no ấm, an nhàn ở đất nước tự do này là nhờ tấm lòng nhân ái của người chủ nhà, một dân tộc hiếu khách, hiền hòa, thẳng thắn và.. ngây ngô trước những cái “độc”, cái “đểu” của kẻ khác! Cho nên, những năm tháng còn lại ở cuối đời, tôi thường tự nhủ: “ơn hãy đền, nhưng thôi.. oán đừng trả!” Ơn cha ơn mẹ, ơn bạn bè thân thích; ơn đồng bào miền Nam yêu thương, hiền hòa; ơn tổ quốc miền Nam tự do no ấm; ơn dân tộc Mỹ cưu mang dung chứa… Tôi sẽ đền ơn họ bằng sự kiên định lập trường ở biên giới Quốc-Cộng: Không chao đảo, bấp bênh, bội bạc! Còn đối với đất nước của người nhà chủ này, tôi nghiêm khắc với con cháu mình trong học hành, phát huy, tận tụy, nỗ lực, tận tình đóng góp cho xứ sở mà chính mình đang dung thân! 

“Oán không trả”! Những vết thương tuy đã đóng vẩy liền da qua nhiều năm tháng.. Thế nhưng gặp phải những ngày trở mưa trở gió, tránh sao không khỏi nhức nhối? Nhiều bạn trẻ trách tôi rằng: “sao cứ thấy hình ông Hồ-chí-Minh thì phát dị ứng khó chịu?” Tôi thừa nhận điều đó. Vì chính ông ta là “cây cung” đã làm hoảng sợ mẹ tôi, bác tôi, bản thân tôi và những người tôi thân thiết.

Từ biệt quê hương yêu dấu đã lâu năm, lòng hoài cảm, tình hoài hương luôn chập chờn thôi thúc… nhưng chưa một lần thực hiện được. Cũng chỉ tại cái “cây cung Hồ-chí-Minh” kia in trên đồng tiền ở Việt-Nam đang luân lưu trên tay người dân mua bán, tiêu xài. Về thăm quê hương yêu dấu mà phải để cả triệu đồng tiền giấy có hình ông Hồ trong túi quần túi áo của mình qua ngày qua đêm thì… kinh hoàng quá! Thôi thì quê hương yêu dấu dù có như chùm khế ngọt cũng đành nén lòng nhớ nhung…

 Chờ đợi vậy!

         Lỗ Trí Thâm                                                                  

From: Lucie 1937

THIÊN ĐÀNG CỘNG SẢN Ở ĐÂU?

THIÊN ĐÀNG CỘNG SẢN Ở ĐÂU?

Ông X thuở nhỏ mồ côi cha mẹ đi chăn trâu, cuộc sống ngoài Bắc lầm than vất vả, khiến cho ông phải ma lanh để sống còn. Lớn lên vào quân đội cũng nhờ vào sự ma lanh, ông đã trèo lên được chức cao trong hàng ngũ cộng sản VN. Ông ta rất tự hào về mình, khôn lanh.

Vào quân đội cs thì phải ma lanh, cướp công, cướp của, cướp quyền, thì mới nhanh thăng quan tiến chức. Còn hiền lành thật thà, thì chỉ làm lính quèn ra chiến trường làm vịt nướng, vịt quay cho đảng nhậu xơi.

Ông rất nhậy bén trong vấn đề chuyển biến tình hình chính trị, luôn nắm bắt kịp thời thế. Nên ông đã thoát chết bao phen hú hồn.

Lần này trong nước có biến động, đảng phái tranh giành quyền lực thanh trừng nhau, ông đã nhanh chân đưa cả gia đình sang Mỹ định cư ở một vùng hẻo lánh xa người Việt Nam, mong là có một cuộc sống bình yên.

Qua Mỹ ông mua một căn nhà khá to, cả gia đình sống chung, vợ chồng ông và ba người con, hai trai một gái.

Lúc đầu gia đình ông hơi bỡ ngỡ, dần rồi cũng quen, vợ chồng ông ít giao tiếp với ai, vì không giỏi tiếng Anh nên rất sợ khi tiếp xúc với người nước ngoài, thường ở trong nhà, chuyện gì bắt buộc lắm vợ chồng ông mới phải đi ra ngoài.

Đời sống ở Mỹ hầu như người nào cũng phải có xe hơi để đi làm hay đi học, con ông học thì ít đổi xe và đụng xe thì nhiều, một thằng ăn chơi còn vướng vào xì ke.

Ông không được ăn học, nên ông cứ nghĩ rằng khi con ông qua Mỹ chúng sẽ giỏi. Con ông đã quen thói ăn chơi lêu lổng từ VN, học hành không có nền tảng vững chắc, không hứng thú học hành, dù ở nước nào đi nữa mà chúng không muốn học, thì nhà trường có giỏi cũng đành bó tay, mà ông còn cố ép chúng nó cũng vô ích.

Con nhà quan ăn sung mặc sướng quen rồi nên lười biếng, tiền bạc không làm ra mà chi tiêu đủ thứ nên cũng cạn dần.

Trước khi rời VN ông cũng tính toán rất kỹ càng. Nếu ông mang tiền sang đây hết, lỡ chẳng may bị Mỹ tịch thu thì ông trắng tay, nên ông đã cho một số đàn em đầu gấu giữ làm ăn, khi nào ông cần, chúng sẽ gửi qua cho ông.

Một hai năm đầu chúng vẫn gửi đều đặn cho ông. Nhưng sau này không thấy chúng gửi hay nói gì nữa.

Những tên đầu gấu giữ tiền làm ăn, có thằng tham ăn lớn, buôn xì ke bị bắt, thằng thì biết ông không còn đường trở về nước nên chúng quỵt luôn.

Ông tức điên người nghiến răng nói:- Tao mà bắt được chúng mày. Ông giết thẳng tay hết.

Ông nói cho bớt tức thôi, chứ ông đã già, sức đã kiệt, quyền lực thì không còn, ông đã gây thù chuốc oán với nhiều đồng chí làm sao dám về VN.

Thế là gia đình của ông dần dần rơi vào cảnh bế tắc, nên ông thường gay gắt với vợ con, ông tưởng rằng ông vẫn còn quyền la mắng vợ con trên xứ Mỹ tự do này.

Hai đứa con của ông một trai một gái bỏ về VN, chúng chẳng sung sướng gì khi sống trên đất Mỹ, vì chúng không hội nhập được, chúng quen lối sống ngang tàng chuyên ức hiếp người khác, sang đây không còn quyền hành gì nên buồn chán, ít bạn bè đi chơi, mà đi chơi chỗ nào cũng là người Mỹ nên không vui, về VN làm anh chị mới vui.

Gia đình ông bây giờ trống vắng, căn nhà to giờ chỉ còn lại hai ông bà, ông thì tối ngày đay nghiến bà. 

Khi trước ở VN nhà bà có người giúp việc, sang đây bà phải làm hết, cực nhọc mà còn phải nghe ông chửi. Một ngày phụ nữ vùng lên, bà cãi lại và quyết định về VN. Đó cũng là cái cớ cho bà về VN, bà sang đây như người ở tù, nhớ họ hàng, nhớ quê hương và nhớ hai đứa con, nên sẳn dịp này bà nhất định rời bỏ Nước Mỹ…. Chán phèo.

Trong cuộc đời của ông, bây giờ ông mới biết sợ, khi bà nhất quyết về VN, đồng minh cuối cùng cũng lià bỏ ông. Ông cảm thấy hối hận vì mình đã quá nóng giận chửi vợ mình, và hối hận vì mình đã đưa gia đình sang Mỹ… Cái xứ lạnh lẽo giá băng chết tiệt này.

Mùa hè thì thời tiết làm cho con người ta phấn khởi vui tươi. Còn mùa đông thì u ám lạnh lẽo buồn, trong nhà nhìn ra ngoài tuyết rơi thì buồn không thể nào tả cho xiết.

Cũng may còn internet (mạng) ông thường vào FB xem tin tức thời sự quê nhà, ngày nào ông cũng thấy người dân lên án chửi rủa cộng sản độc ác … Bây giờ ông sống còn khổ hơn chết, sống nhục cô đơn nơi vắng vẻ mà vẫn nghe biết người dân nguyền rủa mỗi ngày. Ông thầm nghĩ: – Ngày xưa anh hùng bao nhiêu thì ngày nay lại hèn bấy nhiêu.

Một ngày ông biết tin đứa con trai ông vào tù do người ta gài bẫy hại, ông rất đau lòng nhưng không biết làm gì hơn, ông biết là ai gài bẫy con ông, mục đích để làm gì. Kẻ mà ông hại nó khi xưa, bây giờ nó dùng con trai ông làm mồi nhử ông về nước để nó trị tội ông. Bao nhiêu năm đi theo đảng hại người, ông không biết đau và không biết xót thương ai, vậy mà bây giờ ông lại muốn người ta xót thương ông và con trai của ông.

Ông không còn gì, ông biết có về nước cũng chẳng cứu được con, ông quá hiểu cs, nên ông không về mặc dù ông rất thương con. Nhiều nỗi buồn vây quanh ông không có lối thoát nhiều lúc ông chỉ muốn tự tử cho xong.

Một hôm thằng xì ke đi về nơi nó ngủ, thấy một ông già nằm ngủ chỗ của nó, nó liền đá cho ông ta mấy phát… Cút đi chỗ khác. Sao ông dám giành chỗ của tôi. Ông già lầm lũi bỏ đi tìm chỗ khác, thằng xì ke không nhận ra ông là bố nó, và ông cũng không còn nhận ra nó nữa… Mà nhận ra để làm gì.

Trong vùng nơi ông ở có một nhà hàng thỉnh thoảng nấu thức ăn cho người vô gia cư ăn miễn phí, ông biết cũng lần mò đến đây ăn, trước khi đi ăn, ông làm mặt mày lem luốc để không ai nhận ra ông.

Đến khi người chủ quán già bưng tô phở ra là hai đôi mắt chạm nhau, nhưng ông chủ nhà hàng vẫn điềm nhiên như không có gì xảy ra, còn ông X thì gục đầu xuống, ông chủ đi vô trong gói thêm thức ăn còn bỏ vào một ít tiền, và bảo vợ ông mang ra cho người đó.

Trên mặt ông X có một vết thẹo bên mắt trái, dù ông có bôi bẩn gương mặt của ông như thế nào, thì người tù cải tạo năm xưa vẫn nhận ra được. Là một người lính VNCH chân chính nhân bản yêu thương, nên ông cố làm như không quen biết để tránh mọi người biết chuyện cũ của ông X năm xưa.

Ông X thì ngậm ngùi cầm gói quà, suy nghĩ ngày xưa mình đối xử tàn nhẫn với họ, vậy mà bây giờ họ vẫn đối xử tốt với mình, ăn xong ông X ra về tay cầm gói quà lững thững bước đi. Ông cố nén xúc động, mà mắt ông cứ cay và mờ đi, nước mắt cứ trào ra ông không thể kìm chế được… Từ ngày vào đảng, có lẽ đây là lần đầu tiên ông biết khóc trong đời.

Ông ta thầm nghĩ: Thiên Đàng cs ở đâu?

Lê Danh Dương

 From: TU-PHUNG

Câu Chuyện Dì Sáu

Câu Chuyện Dì Sáu

Nguyễn Vạn An

Dì Sáu là một người đàn bà rất đáng phục. Sinh trưởng ở miền nam Việt Nam, lúc nhỏ chắc học hành cũng chẳng bao nhiêu, sau 1975 di tản sang tây, không biết một tí tiếng Pháp nào, vậy mà lại một thân một mình sống được yên hàn từ mấy chục năm nay tại xóm La Tinh, ở ngay trung tâm thành phố Ba Lê hoa lệ. 

  1. Gặp Dì Sáu. Chúng tôi gặp Dì lần đầu trước đây đã mấy chục năm. Khi đó vùng Ba Lê còn ít người Việt, và họ phần lớn sống ở ngoại ô. Trong xóm La Tinh có môt tiệm bán thức ăn Việt Nam rất nổi tiếng. Tôi ở ngoại ô, mỗi cuối tuần là lái xe chở vợ và hai con nhỏ vào xóm La Tinh mua thức ăn Việt. Một ngày nọ, mua hàng xong, tôi vừa mở cửa xe cho hai cháu lên, thì bỗng có một bà người Việt, tuổi cỡ trên năm mươi, quần áo đen, xách một cái thúng lớn xô hai đứa con tôi, chen vào ghế sau, ngồi trốn trong xe. Nhìn phía xa sau xe, tôi thấy có hai người cảnh sát đang rảo bước tới. Tôi không khỏi lo sợ, vì nghĩ bà đã làm điều gì bất chính, bị cảnh sát rượt. Nào ngờ khi hai người cảnh sát đến nơi, thì họ chỉ ghé đầu vào xe, trừng mắt nhìn bà một cách nghiêm khắc, rồi quay nhìn nhau tủm tỉm cười, rồi bỏ đi. Bà lụm cụm chui ra, cảm ơn chúng tôi, rồi xách thúng ngồi ở một cái ghế dài bên lề đường… chờ khách. Thì ra là bà làm món ăn Việt Nam, rồi mang tới bán lậu ở trước cửa hàng kia. 

Sau đó ít lâu, chúng tôi dọn vào ở xóm La Tinh, tình cờ gần nhà bà, thành ra chúng tôi thành hàng xóm và tình bạn với bà kéo dài mấy mươi năm, tới khi bà tự nhiên đi đâu mất tích, nhưng đó là chuyện về sau. 

  1. Một thân một mình từ Rạch Giá đến Ba Lê.Dì Sáu sinh trưởng ở Rạch Giá, con thứ năm một gia đình chuyên làm nước mắm. Vì là con thứ năm, nên chúng tôi gọi bà là dì Sáu. Dì Sáu hồi nhỏ cũng chỉ học cho tới biết đọc biết viết, rồi lớn lên làm lụng quanh nhà, chờ ngày lấy chồng sinh con đẻ cái, như nhiều con gái trong làng thời bấy giờ. Nhưng khi đó, chiến tranh đã tới lúc khốc liệt, con trai trong làng đi lính hết, quân Mỹ càn quét, dân tình người dân, nhất là ở vùng quê, hết sức khổ sở. Sau năm 75, gia đình bà ở lại. Trong cảnh sống cùng cực, bà được chứng kiến nhiều vụ người ta vượt biển, vì nhà bà ở ngay bờ biển. Trước nhà là đường cái, sau vườn là ra cửa biển. Có nhiều người lạ không biết là ai, vào nhà bà, chạy chui ra sau, lên thuyền đã đỗ sẵn, rồi rông tuốt. Một ngày kia, bà thấy nhiều người chạy qua nhà mình ào ào lên thuyền phía sau nhà. Hình như có công an rình rập, bà hốt hoảng chạy theo người ta lên thuyền. Không ai dám phản đối. Rồi người ta đưa bà đi ra tới một cái đảo bà cũng không biết ở đâu. Thời cuộc xô đẩy, bám theo hết nhóm này rồi đến nhóm kia mấy năm trời, không hiểu thế nào sang đến đất Pháp, được vào một trại tị nạn ở gần Ba Lê. Rồi một ban từ thiện tìm cho bà được một căn nhà nhỏ, ngay tại xóm La Tinh. Bà được người ta cho thuê với giá cực rẻ. 
  2. Lẻ loi trong Xóm La Tinh.Hồi con gái Dì Sáu có học nghề gì đâu, chỉ được mẹ dạy cho nấu cơm nấu nước chút đỉnh trong gia đình. Qua tây, có người chỉ cho bà làm món ăn Việt Nam, rồi đem bán cho hàng xóm hay ra đường bán rong một cách kín đáo cho người qua lại. Từ khi biết bà, mỗi khi vào Ba Lê, chúng tôi hay tò mò đứng xa nhìn, thì quả nhiên thấy thỉnh thoảng có mấy bà đầm tới mua hàng của bà. Tôi đã thấy ngay là bà không biết tiếng Pháp, vì người khách nào khi mua cũng tự tay cầm cái túi tiền của bà, nhét tiền vào rồi lấy tiền thối lại một cách rất tự nhiên, không nói một lời nào với bà cả. Hai bên có vẻ đã quen nhau từ trước, họ chỉ cười với nhau một cái, rồi người khách bỏ đi. Chắc bà bán tại đây từ lâu rồi. Bán như thế là không có giấy má, không trả thuế, và cạnh tranh với cửa hàng chung quanh. Dĩ nhiên là nhà hàng Việt Nam biết. Họ thấy bà đâu có bán được bao nhiêu, thành cũng bỏ qua. Còn cảnh sát thì quá biết, nhưng bà hiền lành không gây rối trật tự công cộng gì, nên cảnh sát cũng làm ngơ. 

Dì Sáu người lùn tịt, lúc nào cũng mặc quần áo đen. Tóc đã hoa râm, mặt đầy vết nhăn nheo vì đã quá nhiều gian khổ. Nét mặt đều đặn, mũi cao miệng nhỏ, hồi còn con gái chắc cũng xinh xắn. Da mặt bà bóng loáng vì bao năm làm bếp đầy dầu mỡ. Chân tay gầy guộc nhưng cứng cát vì sáng tối làm việc. Đêm phải làm món ăn, ngày còn phải vác thúng đi bán, như đã nói ở trên. Trời nóng ran hay rét cóng cũng vậy. Nhiều người sống chung quanh đã biết ngày giờ sinh hoạt của bà. Họ tới mua, còn tới đặt hàng, thành bà không những sống thoải mái, còn có chút tiền để dành nữa.

5.Căn nhà kín đáo.Quen nhau ít lâu, chúng tôi đến tận nhà đặt bà làm những món ăn riêng. Nhà Dì ở tầng hai, trong một chung cư đồ sộ, mặt ngoài tường cao cửa lớn đầy chạm trổ. Ngày xưa chắc chắn là nhà rất đẹp, nhưng vì xây từ đầu thế kỷ, nay đã nhiều mục nát, rỉ sét. Vừa vào cửa, theo hành lang, chưa đi lên lầu, đã biết là có bà con ta ở, vì mùi xào nấu nước mắm phảng phất. Hơn nữa lại nghe âm thanh tiếng ca cải lương rề rề cùng tiếng tụng kinh gõ mõ nhè nhẹ. Sau này tôi biết nhiều người ở chung cư ta thán. Người ta cắt nghĩa cho bà thì bà không hiểu, hoặc có hiểu nhưng làm bộ như không. Nhà bà có hai căn buồng. Một căn để ngủ, có giường và hai cái nệm trải trên sàn nhà. Căn kia là bếp, để đầy nồi niêu xoong chảo, một máy ướp lạnh đồ sộ, thức ăn chật cứng. Cửa nhà ngày đêm không bao giờ khoá. Đẩy cửa vào là thấy bà, tay mặt đầy dầu mỡ mồ hôi, hối hả ra chào đón.

  1. Một tấm lòng vàng.Dì Sáu nghèo nàn, nhưng lại có một tấm lòng vàng. Chúng tôi thường nói : “Người này ít chữ nghĩa, nhưng giầu lòng Phật”. Ra đường hễ thấy người Á Châu trông dáng nghèo đói đi lang thang là bà tới hỏi thăm và cho thức ăn. Nếu người đó là đàn bà, thì đem về cho ở nhờ. Vì thế gần như lúc nào trong nhà Dì cũng có người tá túc. Bà nói: “Có người ở dăm ba ngày, có người ở cả tháng. Tôi nuôi cho ăn, rồi còn cho chút đỉnh tiền xài. Có người cũng làm bếp giùm tôi, có người cả ngày chỉ nằm ngủ”. Điều rất mầu nhiệm là những người ở nhờ toàn là dân nghèo khổ, thế nào cũng có kẻ bất lương, nhà bà thì đồ đạc hở hang, vậy mà chưa một ai lừa đảo trộm cắp của bà một thứ gì. Tấm lòng Phật của bà đã cảm hoá được những người nghèo khổ, dù họ rất dễ bị lôi cuốn vào con đường gian giảo.
  2. Người con của Phật.                                                                                               Dì Sáu ngoài tiếng Việt còn nói được tiếng Miên và tiếng Tầu. Hình như bà gốc gác là người Trung Hoa. Bà ít chử nghĩa nhưng lại thuộc kinh làu làu. Nhất là kinh tiếng Phạn, như Chú Đại Bi, Bát Nhã Tâm Kinh. Có hiểu gì đâu, vậy mà bài nào bà cũng thuộc lòng. Nhiều lần chúng tôi đến thăm đứng lại hành lang nghe bà tụng kinh Phổ Môn, tiếng chuông mõ rất nhịp nhàng. Vấn đề là bà để băng nhạc cải lương suốt ngày không ngừng. Ngay lúc tụng kinh bà cũng để băng cải lương. Bà nói : “Cải lương tôi đã thuộc lòng, có nghe gì nữa đâu, nhưng để nhạc cho đỡ lẻ loi”. Trong buồng bà có một cái lò sưởi đã xây sẵn đục vào tường, bà dùng làm bàn thờ. Có lọ hoa, lư hương, chuông mõ, một đĩa nhỏ trái cây, nhiều tranh và tượng Phật. Bà rất hãnh diện có một bức hình Phật Bà Quan Âm hiện ra trên trời ở Sài Gòn trong năm Pháp nạn 1963, nghe nói do một phi công bay lên chụp được. Bức hình này rất nổi tiếng ở Sài Gòn vào dạo đó. 

Dì Sáu biết rất nhiều sự tích về đức Phật nói chuyện là kể lể đủ thứ về đời đức Phật. Không bao giờ thấy Dì than phiền về đời sống vất vả. Lúc nào cũng thấy bà tươi cười. Nếu gặp trắc trở thì coi là kiếp trước làm tội nay phải trả. Luôn luôn lo làm phước, nói là để phúc cho đời sau. Dì tin là ai cũng tốt. Dì trả tiền thuê nhà rất sòng phẳng. Đi chợ, Dì cứ đưa túi tiền ra, người ta móc lấy đúng tiền mua. Tôi biết là dân bán hàng ở đây nhiều lúc lạm dụng du khách, nhưng tôi chắc là chưa ai lừa đảo Dì Sáu một lần nào. Thì ra lòng thành thật của Dì đã vun xới lòng thành thật của mọi người chung quanh. 

  1. Dì Sáu đi đâu?                                                                                                                           Một ngày nọ, chúng tôi đến thăm, thấy đầy thợ đang tu sửa lại hai căn buồng của bà. Dì Sáu đã đi đâu mất. Những người thợ nói là bà đã dọn đi. Họ cho tôi địa chỉ mới của bà, nhưng tới đó, chỉ thấy một căn nhà cũ kỹ, kín cửa cao tường, không một bóng người. Vì lý do gì bà bỏ đi thì có ai biết đâu! 

Từ đó tôi mất tin Dì Sáu luôn. Người đàn bà từ đồng quê nước mặn xứ nghèo, theo xô đẩy của thời cuộc, đã đến tận kinh đô ánh sáng Ba-Lê, sống một thân một mình, rồi biến mất, không biết lưu lạc nơi nào. Dì sống như một nhà tu hành nhỏ phận, dấn thân ngoài đời, tự lập cánh sinh. Dì đã cảm hóa được những người chung quanh trong một khung cảnh thanh đạm, hiền hoà, từ thiện. Gặp người Pháp không nói được gì với nhau thì có khác chi hai bên cùng tịnh khẩu như trong một phép tu hành. Cũng như các nhà tu tịnh khẩu, họ dùng nụ cười chân thật thân tình làm giao thiệp. 

Mới đây, tôi trở về địa chỉ mới của bà xem có tin tức gì không. Ôi, thời cuộc đổi thay, căn nhà đó đã hoàn toàn được sửa lại. Tôi đi vòng quanh cả giờ, không thấy Dì đâu. Có thể Dì đã ra đi. Dì ở hiền gặp lành, được Phật độ. Nếu Dì đã ra đi thì thế nào cũng đã được các Bồ tát đưa về nơi đất Phật.

From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Ngàn con hạc giấy

Ngàn con hạc giấy

Có những món quà thật đơn giản nhưng chứa đựng biết bao chân tình. Tôi biết 1 chàng trai đã gấp 1.000 con hạc giấy tặng người anh yêu. Mặc dù lúc đó anh chỉ là 1 nhân viên quèn trong công ty, tương lai chẳng có vẻ gì xán lạn nhưng họ vẫn luôn hạnh phúc bên nhau. Rồi cho đến 1 hôm người yêu của anh nói rằng nàng sẽ đi Paris, sẽ không bao giờ còn có dịp gặp lại anh nữa. Nàng rất lấy làm tiếc nhưng rồi nỗi đau của chàng sẽ trở thành dĩ vãng. Hãy để cho nó ngủ yên trong ký ức của mỗi người.

Chàng trai đồng ý nhưng trái tim tan nát. Anh lao vào làm việc quên cả ngày đêm, cuối cùng anh đã thành lập được công ty của riêng mình. Nó không chỉ giúp anh vươn đến những điều mà trước đây vì thiếu nó mà người yêu đã rời bỏ anh, nó còn giúp anh xua đuổi khỏi tâm trí mình 1 điều gì đó của những tháng ngày xưa cũ.

Một ngày mưa tầm tã, trong lúc lái xe, chàng trai tình cờ trông thấy một đôi vợ chồng già cùng che chung 1 chiếc ô đi trên hè phố. Chiếc ô không đủ sức che cho họ giữa trời mưa gió. Chàng trai nhận ngay ra đó là cha mẹ của cô gái ngày xưa. Tình cảm trước đây anh dành cho họ dường như sống lại. Anh chạy xe cạnh đôi vợ chồng già với mong muốn họ nhận ra anh. Anh muốn họ thấy rằng anh bây giờ không còn như xưa, rằng anh bây giờ đã có thể tự mình tạo dựng 1 công ty riêng, đã có thể ngồi trong 1 chiếc xe hơi sang trọng. Vâng, chính anh, chính người mà trước đây con gái họ chối từ đã làm được điều đó.

Đôi vợ chồng già cứ lầm lũi bước chậm rãi về phía nghĩa trang. Vội vàng, anh bước ra khỏi xe và đuổi theo họ. Và anh đã gặp lại người yêu xưa của mình, vẫn với nụ cười dịu dàng, đằm thắm nàng từng đem đến cho anh, như thể thời gian không bao giờ làm đổi thay nụ cười ấy, đang dịu dàng nhìn anh từ bức chân dung trên bia mộ. Cạnh cô là món quà của anh, những con hạc giấy ngày nào.

Đến lúc nầy anh mới biết 1 sự thật: nàng đã không hề đi Paris. Nàng đã mắc phải căn bệnh ung thư và không thể qua khỏi. Nàng đã luôn tin rằng 1 ngày nào đó anh sẽ làm được nhiều việc, anh sẽ còn tiến rất xa trên bước đường công danh. Và nàng không muốn là vật cản bước chân anh đến tương lai của mình. Vì vậy, nàng quyết định xa anh.

Nàng mong ước cha mẹ sẽ đặt những con hạc giấy lên mộ nàng, để 1 ngày nào đó khi số phận đưa anh đến gặp nàng 1 lần nữa, anh có thể đem chúng về bầu bạn.

Sưu tầm

MÓN NỢ ÂN TÌNH…

8 SÀI GÒN

MÓN NỢ ÂN TÌNH…

Tôi sang Mỹ cùng với Ba Dượng theo diện H.O – nhờ tờ khai sinh giả tôi có được qua những đồng tiền đút lót mà tôi trở thành con ruột của Ba. Cha mẹ tôi và một đứa em trai còn ở lại Việt Nam. Nhiều người rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao mỗi khi nhắc đến gia đình ruột thịt tôi có phần lạnh nhạt trong khi tôi lại rất thương yêu và chăm sóc Ba Dượng. Thật sự, tôi thương Ba Dượng hơn cha ruột của tôi rất nhiều. Tôi không biết điều đó đúng hay sai nhưng tình cảm luôn xuất phát từ trái tim, không thể gượng ép và cũng không thể theo một khuôn mẫu đã định sẵn. Duy nhất một điều tôi có thể hiểu được là cha tôi chưa một ngày bồng ẵm tôi nhưng Ba Dượng đã nuôi nấng tôi từ thuở ấu thơ.

Khi mẹ mang thai tôi được sáu tháng thì cha đã bỏ mẹ con tôi để vào rừng, theo “Quân giải phóng”. Mẹ ở lại, một mình một thân yếu đuối với cuộc sống vất vả nghèo nàn, vừa nuôi mẹ chồng, vừa nuôi con dại. Ngay lúc ấy, Ba Dượng tôi xuất hiện. Ông là một Sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ Thành phố ông thuyên chuyển về nơi gia đình tôi đang sinh sống. Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra, chỉ biết rằng đến khi bốn tuổi tôi mới có được một người mà tôi gọi bằng Ba. Ba là một người hiền lành, chân thật và rất vui tính, cởi mở. Ba chăm sóc bà nội như mẹ ruột, vì thế bà nội cũng rất thương Ba. Ngược lại, mẹ tôi không yêu Ba. Mẹ tiếp nhận Ba – một cuộc hôn nhân không giá thú – chỉ để tìm nơi nương tựa. Ba biết điều đó nhưng vẫn chấp nhận.

Năm bảy mươi lăm cha tôi bất ngờ trở về, còn Ba thì lại khăn gói vào “trại cải tạo”. Mẹ vui mừng vì sự trở về của cha bao nhiêu thì tôi lại đau lòng vì sự tù tội của Ba bấy nhiêu. Tôi không hiểu được tình cảm của mẹ. Tại sao với một người chồng hết lòng thương yêu mẹ mà trái tim bà vẫn dửng dưng? Tại sao chỉ một năm ngắn ngủi sống với cha mà tình yêu bà vẫn bền vững suốt cả chục năm hơn? Tại sao mẹ có thể chấp nhận việc cha đã có vợ khác và người vợ “đồng chí” của cha đã nghiễm nhiên trở thành vợ chính thức, còn mẹ, chỉ là một người vợ danh không chính, ngôn không thuận, để mỗi lần đến thăm, cha phải nhìn trước, ngó sau như một kẻ đang phạm tội ngoại tình. Chưa kể có lần vợ của cha còn đến nhà, mắng chửi mẹ là “dâm phụ” và cũng không cần biết bà nội tôi là ai, bà chống nạnh xỉa xói:

– Cả nhà chúng mày phải tránh xa chồng bà, không thì bà cho chết cả lũ về cái tội cấu kết với cái thằng lính ngụy đang ở tù rục xương.

Cha tôi nắm tay kéo bà vợ đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò của hàng xóm. Mặt bà nội xanh như chàm, bàn tay cầm cây gậy run lên bần bật vì tức giận. Mẹ ngồi bệt xuống sàn nhà với những giọt nước mắt không ngừng tuôn chảy trên khuôn mặt lơ lơ, láo láo như người mất hồn. Tôi cũng không nhớ rõ cảm giác của mình lúc ấy ra sao nhưng hình như có một nỗi vui nào đó hiện đến rất nhanh khi tôi chợt nghĩ, đây cũng là một điều hay để giúp mẹ tôi sáng mắt ra mà nhận biết ai là người thật sự yêu thương mình. Nhưng không, mẹ tôi vẫn tối tăm quay cuồng trong mớ tình cảm hỗn độn đó dù bà nội khuyên mẹ hãy quên cha tôi đi để lo thăm nuôi Ba đang chịu tù tội, đói khát.

Phần tôi, tôi rất bất mãn trước thái độ của mẹ khi bà không có một chút quan tâm, lo lắng nào dù thật nhỏ cho cuộc sống của Ba trong cảnh khốn cùng. Mỗi lần theo cô Tư đi thăm Ba, tôi phải nói dối đủ điều về lý do tại sao mẹ vắng mặt. Dĩ nhiên, cô Tư cũng không muốn anh mình phải đau khổ – nếu biết được người vợ đầu ấp tay gối đã nhẫn tâm phủi tay, rũ bỏ tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm – nên cô dặn dò tôi phải nói dối với Ba rằng mẹ đi buôn xa không về kịp, hoặc bà nội bệnh bất ngờ mẹ phải ở nhà chăm sóc.

Có lần, sau khi thăm Ba trở về, tôi hỏi mẹ bằng thái độ khó chịu:

– Ba ở tù bốn năm rồi mà sao mẹ không đi thăm Ba một lần?

Mẹ trả lời một cách thản nhiên:

– Vì mẹ không thể phản bội cha con!

Tôi tức giận:

– Mẹ không thể, nhưng mẹ đã phản bội cha rồi.

Mẹ cho rằng tôi bất hiếu vì không phân biệt ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Tôi cười chua xót:

– Con không cần biết ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Con chỉ biết Ba là người đã cực khổ nuôi nấng con từ lúc còn bé. Con chỉ biết Ba là người đã bất kể hiểm nguy, giữa đêm khuya bế con đến Bệnh viện cứu cấp khi con đau nặng. Mẹ không nói cho con biết nhưng bà nội vẫn nhắc hoài chuyện ấy.

Mẹ quay đi sau khi ném cho tôi ánh mắt giận dữ. Tôi biết mẹ không thể bỏ cha ruột của tôi, dù ông đối xử với bà tình không trọn mà nghĩa cũng chẳng tròn, nhưng ít ra bà cũng không nên rũ sạch ơn nghĩa cưu mang của Ba hơn chục năm trời.

– Mẹ hãy dẹp tình cảm qua một bên để tỉnh táo suy nghĩ xem cha đối với mẹ như thế nào. Ông đi bao nhiêu năm trời không một tin tức. Chắc trong lòng ông không hề vấn vương, thương nhớ mẹ hay nghĩ đến đứa con chưa kịp chào đời. Bằng chứng là đứa con riêng của cha nhỏ hơn con một tuổi, có nghĩa là xa mẹ chưa đầy một năm cha đã có người đàn bà khác. Rồi khi trở về đây gặp lại mẹ, đáng lẽ cha phải giải thích cho bà vợ của cha hiểu ai là người đến trước, ai là người đến sau, chứ lẽ nào cha đứng đó để chứng kiến bà ta làm hùm làm hổ với mẹ, cứ y như mẹ cướp chồng của bà ta…

Nhìn bà nội ngồi ở góc bàn sụt sùi lau nước mắt, tôi cảm thấy ân hận nên quỳ xuống cạnh bà:

– Nội à! con không muốn nói những lời làm đau lòng nội. Nhưng thật tình con không thể nào chấp nhận thái độ bạc bẽo của mẹ con. Nội thử nghĩ, nếu như ngày xưa không có Ba thì cuộc sống của gia đình mình sẽ ra sao? Nội bệnh hoạn cũng một tay Ba lo thuốc men mà không hề phân biệt rằng, đây là mẹ chồng chứ đâu phải mẹ ruột của vợ tôi. Ba nuôi nấng con từ nhỏ đến lớn không rầy la một tiếng dù con có phạm lỗi lầm. Ba thương yêu con như một đứa con ruột thịt…

– Rồi sao nữa? Cái thằng Sĩ quan ngụy đó cũng giỏi thiệt… nó dụ dỗ được mày đứng về phe nó để chống lại cha mẹ.

Cha tôi bước vào nhà, quăng cặp táp lên chiếc phản gỗ, tay đập bàn rầm rầm:

– Anh đã nói với em rồi, con bé này đã bị thằng ngụy đó đầu độc mười mấy năm không thể nào tẩy não được mà.

Tôi lùi lại, đứng sau lưng bà nội. Dù trong lòng cũng có chút nao núng, nhưng khi nghe cha xúc phạm đến Ba, tôi tức giận đến độ không còn biết sợ là gì:

– Thưa cha, cha có biết cái “thằng ngụy” xấu xa đó đã dạy con điều gì không?

Tôi cười chua chát tiếp lời:

Ông ấy đã dạy con, dù đi đâu xa cũng phải nhớ ngày giỗ của cha mà về nhà đốt nén nhang cho bà nội và mẹ vui lòng. Hồi mẹ được tin cha chết, mẹ khóc lóc, đau khổ nhưng không dám lập bàn thờ, thì chính cái “thằng ngụy” mà cha luôn miệng chửi rủa đó đã mang ảnh ba ra tiệm hình để rọi lớn, rồi đem về trịnh trọng đặt lên đầu tủ với lư hương, với chân đèn để làm bàn thờ cho cha. Nếu đêm nào mẹ lỡ quên vì bận bịu thì cũng chính “thằng ngụy” đó dù đã lên giường cũng vội vàng leo xuống để đốt nhang cho cha. Chưa bao giờ con nghe “thằng ngụy” đó nói một lời thất lễ với cha, nhưng cha thì lúc nào cũng chửi bới người ta, trong khi đáng lẽ cha phải cám ơn người đã thay cha gánh vác việc gia đình. “Thằng ngụy’ đó đã cho con thấy hình ảnh một người chồng, người cha cao thượng, nhưng cha thì sao?… cha hãy suy nghĩ lại để từ nay đừng bao giờ xúc phạm đến Ba của con.

Hình như tình thương đối với Ba đã cho tôi thêm sức mạnh và sự bình tĩnh để dõng dạc nói lên suy nghĩ của mình không chút sợ hãi. Điều đó khiến mẹ tôi lo quắn quíu:

– Con này… ma nhập nó rồi hay sao mà ăn nói bậy bạ, hỗn láo!

Mặt cha tôi như xám lại, ánh mắt ông long lên sòng sọc, đôi môi mím chặt khiến khuôn mặt ông đanh lại, hung hãn không thua gì các diễn viên đang vào vai một nhân vật phản diện độc ác. Cha đưa chân đạp chiếc ghế văng vào bàn. Ông quay lại hét vào mặt mẹ tôi:

– Em dạy dỗ con cái như thế này đây hả? Nó nói chuyện với cha nó như một phường mất dạy. Anh nói rồi… ngày nào nó còn ở trong nhà này anh sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa.

Tôi nghênh mặt khiêu khích:

– Cha không cần đuổi con cũng sẽ ra khỏi nhà ngay hôm nay. Con xin nói thật… con không muốn gặp mặt người cha vô trách nhiệm, bỏ vợ, bỏ con mấy mươi năm rồi bây giờ trở lại trách vợ mình không dạy dỗ con. Cha có biết trách nhiệm dạy dỗ con thuộc về ai không?

Cái tách trà bay về phía tôi, chạm vào thành ghế bà nội đang ngồi vỡ toang. Tôi không biết nếu cái tách trúng ngay đầu bà nội thì việc gì sẽ xảy ra? Có lẽ tôi lại hứng thêm một cái tội “Tại cái con mất dạy này mới ra cớ sự!”

*****

Sau cuộc cãi vã đó tôi thu dọn quần áo ra đi. Bà nội chạy theo níu tay tôi mếu máo dặn dò:

– Con xuống nhà cô Tư ở, đừng đi đâu bậy bạ nghe con.

Tôi cười trong nước mắt:

– Con có tư cách đến nhà cô Tư sao bà nội? Cô Tư đâu phải ruột thịt gì của con!

Mẹ đứng ngang ngạch cửa mai mỉa:

– Biết vậy là khôn đó con. Cứ đến ở thử vài ngày để xem người ta đối xử ra sao cho biết thân.

Không hiểu sao câu nói nào của mẹ cũng châm chích, cay nghiệt. Không lẽ mẹ đã quên hết những ngày cô Tư chạy đôn chạy đáo đem hàng về cho mẹ bán kiếm lời. Chẳng những thế, cô còn nhường cả khách hàng của cô cho mẹ. Ngay từ lúc Ba đến với mẹ, đâu phải cô Tư không biết tôi là con riêng của mẹ, nhưng lúc nào cô cũng đối xử với tôi ngọt ngào, thân thương như đứa cháu ruột. Mẹ không nhớ hay cố tình chối bỏ? Tôi thất vọng não nề vì cách cư xử của mẹ nên cay đắng trả lời:

– Cô Tư đối xử với con ra sao thì cả chục năm nay con đã biết rồi không cần phải thử đâu mẹ. Con nghĩ người mà con cần thử là cha đó, cả mẹ bây giờ nữa… Mẹ à! mẹ thay đổi quá nhiều… đến độ con không còn nhận ra mẹ là người con vẫn hằng yêu quý. Trời cao, đất rộng không tha thứ cho mẹ cái tội bạc đãi Ba đâu.

Tôi quay lưng đi mà không chút luyến lưu, nuối tiếc. Tội nghiệp bà nội. Bà vừa khóc vừa gọi tên tôi rồi lúc thúc chạy theo, dúi vào tay tôi một nắm tiền:

– Cầm tiền theo mà tiêu xài đi con. Ở đâu nhớ cho nội biết để nội an tâm. Có đi thăm Ba thì lấy tiền này mua một chút đồ ăn đem theo, nói nội gửi cho Ba và xin lỗi Ba dùm… nội già yếu rồi không thăm Ba con được.

Tôi ôm chặt lấy bà nội, nước mắt chan hoà.

****

Sau sáu năm học tập Ba được thả về. Hộ khẩu của Ba là căn nhà ngày xưa gia đình tôi đã chung sống, nhưng nay mẹ không đồng ý cho Ba vào nhà. Bà nội khóc hết nước mắt cũng không lay chuyển được quyết định của mẹ – đúng hơn là mẹ đã làm theo lệnh của cha tôi. Ông Năm hàng xóm thương Ba sa cơ thất thế, giận mẹ tôi là “Phường vong ân bội nghĩa” – cụm từ này đã thay vào tên mẹ tôi mỗi khi ông nhắc đến – ông cho Ba cất cái chái nhỏ phía sân sau của ông, sát cạnh nhà mẹ trong thời gian chưa ổn định vì hàng ngày Ba phải ra Công an phường trình diện.

Ba hoàn toàn không nói một lời trách móc mẹ. Tất cả nỗi đau Ba giấu kín trong lòng. Có lần bà nội sang thăm Ba, bà ân cần nắm tay Ba nói trong nước mắt:

– Má xin lỗi con. Má không biết phải làm sao cho đúng!

Ba cười hiền từ:

– Cũng là số phận của con thôi. Má đừng buồn!

Phải hơn nửa năm sau cô Tư mới đút lót được Công an để chuyển hộ khẩu của Ba về nhà cô. Và tôi đã có những ngày tháng vui vẻ sống bên cạnh Ba và cô Tư. Một mái gia đình đâu phải thật sự là của tôi nhưng sao tình cảm tôi nhận về quá thiết tha, sâu đậm. Cha “bắn tiếng” hăm dọa sẽ từ bỏ, không nhận tôi là con nữa. Ba khuyên tôi nên trở về xin lỗi cha mẹ, tôi nhăn mặt trách Ba:

– Con đang ở thiên đàng sao Ba lại nỡ lòng đẩy con xuống hỏa ngục. Ba hết thương con rồi phải không? Ai muốn từ con thì cứ từ… con không sợ. Con chỉ sợ Ba từ con thôi.

Đôi mắt long lanh, đỏ hoe của Ba cho tôi biết rằng Ba đang rất hạnh phúc khi biết rằng, trong lòng tôi, Ba mới thật sự là người cha tôi yêu kính.

Ngày bà nội mất Ba không đến nhưng trong căn phòng hẹp của Ba, Ba đã lập một bàn thờ nhỏ và lặng lẽ quấn vành khăn tang. Nếu mẹ đã làm tôi thất vọng vì sự bạc tình, bạc nghĩa đối với Ba thì tình cảm của Ba và bà nội làm tôi cảm động rơi nước mắt. Ba nói “Ba mồ côi từ bé, bà nội lại đối xử với Ba rất tốt, nên Ba thương bà nội như chính mẹ của mình”.

****

Những năm gần đây Ba mang một chứng bệnh nan y. Có lẽ, Ba sợ khi mất đi tôi sẽ bơ vơ vì không có ai là người thân thích ruột rà nơi đất khách quê người nên cứ nhắc nhở tôi trở về Việt Nam thăm “gia đình” nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó. Sự oán giận và ray rứt trong lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai dù thỉnh thoảng tôi vẫn gửi tiền về cho mẹ theo lời khuyên nhủ, nhắc nhở của Ba. Tôi muốn được ở cạnh Ba cho đến ngày cuối cùng để đền bù món nợ ân tình quá lớn mà mẹ tôi đã nợ của Ba.

NGÂN BÌNH