CON TÀU CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI

 

CON TÀU CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI

Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.

Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.

Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.

Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.

” Anh yêu quý,

Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.

Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.

Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.

Vợ anh

Lê Thị Hồng”

Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.

Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.

Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v… anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.

Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.

Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.

“Hồng em,

Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.

Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.

Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.

Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.

Chồng em

Nguyễn Hữu”

Anh nhắc lại hai lần chữ “lầm lẫn”, để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.

Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: “Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?”

Anh lắc đầu: “Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất.. “

“Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng.”

Người cán bộ nói tiếp: ” Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa.”

Anh ấp úng: “Vâng, thưa cán bộ.”

Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: ” Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình.”

Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.

Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn.. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ “lầm lẫn” kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.

Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.

Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc.. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.

Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.

Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.

Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: “Xin lỗi…xin lỗi chị”.

Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi.. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.

Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.

Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.

Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên lạc với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật.. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện…

Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?… Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.

Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.

Phan Xuân Sinh

__._,_.___
Image may contain: 1 person

Hôn Nhân Buồn Chán

Hôn Nhân Buồn Chán

image.png

Những ngày này, tôi đang bất mãn về cuộc hôn nhân của mình, người chồng sáng sáng ra khỏi nhà từ lúc tôi chưa ngủ dậy, tối khuya mới trở về, nhưng thu nhập chẳng khá khẩm gì, tình cảm thì cứ nhạt dần, không còn khái niệm tặng quà, cũng chẳng còn niềm vui mỗi khi chồng đi làm về…

Khi nghe nỗi niềm tâm sự của tôi, mấy cô bạn gái thân nghiêm túc phân tích vấn về rồi kết luận: “Sống với nhau nhạt nhẽo như vậy thì nên giải thoát sớm đi”.
Chia tay hội chị em, trên đường về nhà, tôi bắt đầu suy nghĩ về việc ly hôn.

Bước vào nhà, nhìn căn phòng đơn giản mấy năm rồi không có gì thay đổi, tôi bỗng cảm thấy chán chường khó tả. Đón con về, nó đánh đổ cả sữa xuống sàn nhà, rồi nó bày bừa đồ chơi khắp nơi khiến căn nhà đã chật chội càng thêm bừa bộn. Tôi chỉ lo thu dọn cái bãi chiến trường ấy cũng đủ mệt bở hơi tai.

Đang vội vàng nấu cơm thì chuông điện thoại réo rắt, chồng báo tối nay về muộn, cả tuần nay anh ấy không về nhà ăn tối lấy một bữa. Tôi bực mình, thò tay nắm hai quai nồi định bắc xuống bếp thì bị rớt, tay tôi bị bỏng rộp cả lên. Miếng nhựa chống bỏng ở quai nồi đã rụng ra từ lâu, tôi đã nói với chồng năm lần bảy lượt, nhưng mãi vẫn chưa sửa.

Tôi tắt bếp, bước vào phòng, soi vào gương, đôi mắt trong trẻo ngày nào nay bỗng trở nên mờ nhạt và lấm tấm nếp nhăn.
Cuộc sống gia đình thật đáng sợ, đã bao lâu rồi tôi không chăm sóc cho bản thân mình, mọi thứ chỉ xoay quanh căn hộ bé xíu và cậu con 3 tuổi.
Tôi cần phải thoát khỏi cuộc sống vô nghĩa này, nhanh chóng rời xa khỏi đây.

Hai tiếng sau chồng tôi về, không thấy có cơm trên bàn, chỉ thấy tôi ngồi một mình trong bóng tối.
– Sao chưa nấu cơm?
– Sao phải nấu cơm? Tôi nấu đủ rồi, từ nay trở đi sẽ không nấu nữa. Sống thế này tôi không chịu được. Chúng ta ly hôn thôi.
– Anh nghe nhầm phải không? Em nói lại xem nào!
Lúc này con trai tôi bỗng cất tiếng khóc, anh ta chạy vội vào trong phòng bế con và cho nó uống sữa, ngạc nhiên hỏi dồn: “Sao đang sống tử tế lại đòi ly hôn?”. Tôi cười khẩy.

Tối đó, tôi cố ý ngủ riêng. Theo kinh nghiệm của các cô bạn, ly hôn không đơn giản, nhiều thứ ràng buộc như tình cảm, tài sản, thói quen, vì thế nhất định phải có nghị lực mới làm được.
Để có thể tiến hành thuận lợi, tôi cần thực hiện 3 điều:
Thứ nhất không nấu cơm nữa, tách sinh hoạt của hai người ra.
Thứ hai không ngủ chung, không cho cơ hội làm lành.
Thứ ba, kinh tế riêng rẽ.

Nằm trên ghế sofa mãi mà không sao ngủ được, tôi bật dậy viết đơn ly hôn. Tôi người Bắc, chồng người Nam, cùng nhau đến thành phố biển này, mua được căn nhà đứng tên tôi.
Chồng tôi có một cửa hàng làm ăn có vẻ không khá lắm, nhưng dù sao đó cũng là tài sản của anh ta. Như vậy chia ra tôi sở hữu căn nhà, anh ấy lấy cửa hàng cũng là hợp lẽ. Con trai tôi nuôi, anh ta gửi tiền trợ cấp hàng tháng là ổn.

Hôm sau, khi đưa cho anh ta tờ đơn ly hôn:
– Tôi muốn tự do!
Anh ta ngây người ra, tôi sốt ruột giục:
– Anh ký đi! – nói xong tôi liền cảm thấy mình có phần hơi quá đáng, liền đổi giọng
– Lẽ nào anh không thấy chúng ta là người của hai thế giới? Chia tay tốt cho cả anh lẫn tôi…

Một tuần sau, anh gọi điện cho tôi và nói:
– Anh ký rồi, chiều nay cùng ăn với nhau một bữa nhé. Vẫn chỗ cũ, anh sẽ đưa đơn cho em.
Hết giờ làm việc, tôi đi đến nhà hàng ven biển mà chúng tôi thường đến.
Mấy hôm không gặp, trông anh gầy đi, ánh mắt ưu tư, râu đã được cạo nom sáng sủa hơn.
Anh lặng lẽ đẩy cái phong bì đến trước mặt tôi, bỗng tôi thấy cay cay mắt, trong lòng có một cảm giác hoang mang khó tả.
– Đã đến rồi thì gọi chút gì ăn nhé, có thể đây sẽ bữa cơm cuối cùng của chúng ta.
Anh quay ra gọi người phục vụ:
– Cho một suất cơm thịt bò xào ớt, một bát canh ngao.
Đây đều là những món tôi thích nhất. Tôi ngồi im, anh bỗng nói với tôi:
– Bữa cơm cuối cùng này em có thể gọi cho anh món anh thích ăn không?

Tôi bỗng bối rối, tôi chẳng biết anh thích ăn món gì. Trước giờ anh đều rất dễ tính, món nào cũng ăn được, món nào cũng thấy ăn ngon lành.
– Anh thích món gì? Chẳng phải anh luôn ăn giống em hay sao?
Anh lại mỉm cười, nói chậm rãi:
– Thực ra, ngần ấy năm, anh luôn ăn những món mình không thích. Em quên rồi sao, anh là người miền Nam, anh thích chế biến kiểu miền Nam, hơi ngọt chút. Anh cũng thích ăn cay nhưng em không thích nên đành thôi.

Nghe anh nói, mặt tôi nóng bừng. Đúng là tôi chưa từng nghĩ đến việc hỏi anh thích ăn món gì. Lần đầu tiên biết anh thích ăn ngọt lại là lúc ly hôn, thật nực cười. Tôi muốn ứa nước mắt nhưng cố kìm lại.
– Anh quyết định rồi, nhà, cửa hàng, mọi đồ đạc trong nhà đều thuộc về em, anh chỉ mang theo mấy quyển sách và vài bộ quần áo thôi.
– Anh định đi đâu?

Hình như tôi thực sự chưa từng suy nghĩ nghiêm túc rằng chúng tôi sẽ sống như thế nào sau khi ly hôn.
– Bố mẹ và bạn bè anh ở miền Nam luôn giục anh về quê làm ăn. Nhưng do em thích biển nên anh chiều theo em. Ở đây gió biển mang mùi tanh của cá, ăn đồ biển anh cũng không thích, công việc cũng chẳng sáng sủa gì, đã làm em thiệt thòi…
– Anh nói gì thế? Em không phải ly hôn vì những thứ đó.
Tôi không ngăn được nước mắt.

– Ly hôn xong anh sẽ về Nam. Sau này em sống một mình nuôi con sẽ vất vả. Anh để lại tất cả cho em. Cửa hàng dạo này kinh doanh cũng khá hơn trước, em lấy tiền đó tích lại, đừng tiêu linh tinh, để phòng khi cần có cái mà tiêu.
– Vậy anh thì làm thế nào?
– Đàn ông quăng đâu chả sống, không như đàn bà con gái, cả tin lương thiện, dễ bị tổn thương.
Tôi bỗng trào nước mắt.

“Đừng khóc!” – Anh đặt tay lên vai tôi, cử chỉ quen thuộc, vậy mà không hiểu sao lúc sống bên nhau tôi lại không hề nhận thấy tình cảm của anh.
– Anh phải đi rồi. Em biết không, mỗi lần gia đình bên em tụ họp đông vui anh đều cảm thấy trống trải. Anh cũng rất nhớ ba mẹ, họ cũng già cả rồi…

Tôi bỗng thấy mình quá vô tâm. Anh là người đàn ông tốt, vậy mà đến tận giây phút này tôi mới biết sống với tôi, anh đã phải che giấu những cảm xúc không vui, những điều không hợp, chỉ vì tôi.
– Sao anh không nói những điều này sớm hơn?
– Anh muốn em sống vui vẻ, không phải bận lòng vì những việc vặt ấy.
Tôi thẫn thờ, một lúc sau tôi nói:
– Anh… Anh có thể không đi không?

Chúng tôi bước ra khỏi nhà hàng, bên ngoài gió biển rất mát, tôi ngồi sau xe của anh đi về nhà. Tôi ôm chặt lấy anh, cảm thấy thật hạnh phúc.
Sự việc vừa rồi đã cho tôi một bài học. Sau khi kết hôn, những lo toan chuyện cơm áo gạo tiền khiến người ta ngày càng không có thời gian quan tâm tới nhau, nhưng đó thực ra không phải vì họ đã thay lòng đổi dạ, mà bởi cuộc sống cần phải vậy.
Nếu mỗi người biết nghĩ cho người kia một chút, bao dung và nhường nhịn lẫn nhau một chút, gia đình sẽ êm ấm, hạnh phúc.

Xã hội ngày nay ly hôn càng ngày càng dễ, chính vì thế, chúng ta càng cần trân trọng, giữ gìn hôn nhân phải không các bạn?

S.T.

From:TU-PHUNG

    3 năm nằm trên mộ cậu chủ đã mất, chú chó đã đợi được điều diệu kỳ

3 năm nằm trên mộ cậu chủ đã mất, chú chó đã đợi được điều diệu kỳ

 – Xúc động trước tình yêu thương của chú chó đen dành cho cậu chủ nhỏ của mình, nhiều người đã góp tiền lại xây một mái che trên mộ cho chú có chỗ trú mưa nắng.

 Cách đây không lâu, câu chuyện về chú chó đen nằm trên mộ chủ ròng rã 3 năm trời không rời đi nửa bước do một tài khoản facebook chia sẻ đã làm xôn xao mạng xã hội. Bài viết có chủ đề “Giống chó đen tuyền và đốm lưỡi thật sự rất khôn và trung thành” đã thu hút nhiều sự chú ý.

Theo chia sẻ của người này, suốt 3 năm qua, kể từ khi cậu chủ nhỏ tên Kiệt qua đời do đuối nước, chú chú đen tuyền tên Mino lúc nào cũng túc trực nằm trên mộ của chủ. Dù ngày nắng hay mưa, dù bị đuổi, bị cấm cản, Mino cũng không rời khỏi ngôi mộ.

gtV3sDYteBJWcnayWzlYS9yW3YDFtJnLPgZP1l1H

Được biết, chú chó được gia đình cậu bé xấu số xin về nuôi từ khi cậu bé mới 2 tuổi. Từ khi được mang về, Mino lúc nào cũng quấn quýt bên cậu chủ không rời. Mặc dù nhà bà Út (bà của Kiệt) nhiều cháu thế nhưng chú chó chỉ tỏ ra thân thiết và thường xuyên chơi đùa với mỗi bé Kiệt. 

Kể từ khi Kiệt mất do đuối nước, chú chó Mino lúc nào cũng túc trực bên mộ của cậu, dù làm cách nào nó cũng không chịu vào nhà. Có hôm trời nắng gay gắt hoặc mưa to thật to chú chó mới lánh tạm nhưng sau đó lại trở ra và nằm suốt ở mộ. Đặc biệt, hễ nhà cho đồ ăn hoặc bánh trái gì chú chó cũng tha ra mộ.

LMRtZsrDfTFGZXDXWIAkXgzbv3c1ooWT20kFszds

Sau khi câu chuyện về chú chó trung thành được chia sẻ trên mạng xã hội, rất nhiều người đã bày tỏ sự nể phục với tấm lòng trung thành tuyệt đối của Mino. Cảm thương cho chú chó phải đội mưa nắng, nhiều mạnh thường quân đã gom góp tiền dựng mái che cho phần mộ của cháu bà Út để chú chó nằm được thoải mái. 

Từ khi có mái che, Mino lại càng gắn bó hơn với mộ cậu chủ. Chú chó chỉ vào nhà lúc ăn cơm còn lại mưa hay nắng cũng chỉ nằm ngoài mộ và duy trì thói quen tha bánh trái ra mộ như muốn chia sẻ với cậu chủ nhỏ của mình.

H5OJEqDO726D6l2PBg9e0DWDOFZynKVqhy5Y8ZVu (1)

 From: TU-PHUNG

Người Thua Cuộc Hay Bản Lãnh Một Người Đàn Bà…

 

BẠN SẼ XỬ SỰ RA SAO, NẾU LÀ BẠN?

******

Người Thua Cuộc Hay Bản Lãnh Một Người Đàn Bà…

Một năm trước, tôi và Kiệt làm chung hãng. Tuy biết nhau qua nhiều lần gặp gỡ trong những giờ cơm trưa nhưng chưa có dịp để trò chuyện.

Một hôm, thấy Kiệt ngồi ăn trưa với gói xôi, hơi ngạc nhiên tôi hỏi:

– Bà xã đâu mà phải ăn xôi thay cơm vậy anh Kiệt?

Kiệt cười:

– Bả về Việt Nam rồi, phải chay tịnh kiểu này tới hai tháng lận, cô ơi!

Ngày hôm sau, khi chuẩn bị thức ăn trưa, tôi bỗng nảy ra ý nghĩ mang thêm một phần cơm cho Kiệt. Không chút khách sáo, Kiệt vui vẻ nhận lấy với lời cám ơn nồng nhiệt. Vậy là từ đó, chúng tôi có những bữa cơm trưa thân mật. Một vài tiếng xầm xì bắt đầu nổi lên, nhưng tôi lờ đi như không biết gì. Kiệt là một người thật thà, dễ tính, nên anh cũng chẳng quan tâm đến lời gièm pha của thiên hạ. Anh bảo tôi:

– Ai nói gì thì nói, mình không có thì thôi.

Tôi nhìn Kiệt đẩy đưa:

– Mà nếu có gì thì “đây” cũng chẳng ngán ai.

Kiệt cười phá lên một cách vô tư. Nụ cười thoải mái nhưng đầy hấp lực của Kiệt, làm khơi dậy trong tôi một ý tưởng táo bạo “hai tháng cũng đủ cho một cuộc tình manh nha”.

Tôi vốn là người đàn bà bất cần đời sau hai lần dang dở. Tôi đủ khôn ngoan để không “mắc cạn” như thuở đôi mươi. Và tôi cũng muốn thử sức chinh phục của mình với độ tuổi bốn mươi. Vì thế, tôi bắt đầu tấn công Kiệt. Một cuối tuần tôi hỏi Kiệt:

-Ði biển chơi không?

Kiệt trầm ngâm do dự. Tôi gõ nhẹ vào tay anh:

-Coi vậy… anh cũng thuộc loại “thờ bà” há? Vợ vắng nhà mà cũng giữ kỷ luật nghiêm minh. Phục anh thiệt!

Kiệt nhướng mày, bặm môi với tôi:

– Ðừng có xuyên tạc. Tôi đang nghĩ xem có bận gì không?

Tôi cười nắc nẻ:

– Xin lỗi, tôi đánh giá anh quá thấp… Anh Kiệt chứ đâu phải đồ bỏ.

Kiệt đứng lên, nói vài câu đùa cợt trước khi bỏ đi, nhưng không đá động gì đến lời đề nghị của tôi.

Quyết không chịu thua, tôi nghĩ đến việc mời Kiệt đến nhà, dự sinh nhật của tôi. Buổi tối sinh nhật, khi bước vào nhà chẳng thấy một người khách nào, Kiệt có vẻ bối rối. Tôi vội vàng lên tiếng:

– Lâu lắm rồi tôi không tổ chức sinh nhật. Hôm nay, bỗng nhiên thấy hứng thú nên muốn mời bạn bè đến chung vui, nhưng vì bất ngờ quá, nên không ai sắp xếp để đến dự được, may còn có anh, để tôi cảm thấy ngày sinh nhật của mình ấm áp đôi chút.

Kiệt ngồi vào bàn với nụ cười quen thuộc. Bữa tiệc trong một khung cảnh lãng mạn với nến hồng, hoa tươi, với tiếng nhạc dìu dặt và rượu nồng, đã làm Kiệt quên giữ gìn ý tứ mà thường ngày anh vẫn có. Tôi cố ý. Kiệt vô tình. Vậy là anh lọt vào cái bẫy êm ái của tôi.

Buổi sáng, khi mở mắt dậy và nhận biết mình đang nằm trên giường của tôi, mặt Kiệt tái xanh. Cái vẻ lúng túng ngượng ngập như con trai vừa mới lớn của Kiệt làm tôi phì cười:

– Anh hối hận à?

Kiệt ấp úng:

– Tôi … tôi…

Thương hại Kiệt, nên tôi níu tay anh trấn tĩnh:

– Có gì đâu … Tôi và anh, không ai dụ dỗ ai hết, mình đồng ý cuộc chơi này mà.

Kiệt nhìn tôi bằng cái nhìn kinh ngạc. Nét hiền lành và thật thà trên khuôn mặt bảnh trai của Kiệt làm tôi xao động. Dù sao, Kiệt cũng là một người đàn ông, khi tôi đã quyết chí quăng mẻ lưới tình, thì làm sao anh có thể thoát được. Thế là tôi và Kiệt trở thành đôi tình nhân.

Thời gian vợ Kiệt vắng nhà quả là thời gian trăng mật tuyệt vời của chúng tôi. Với những kinh nghiệm trên tình trường của một người đàn bà “dám chơi, dám chịu” như tôi, Kiệt chỉ có nước xuôi tay, dấn thân vào cuộc chơi mà không cần biết đến hậu quả.

Rồi cũng đến ngày vợ Kiệt trở về, anh như ngồi trên lò lửa vì không biết phải làm thế nào để chuyện “lăng nhăng” của anh đừng đến tai vợ và làm thế nào để anh có thể đến với tôi thường xuyên.

Tôi hỏi Kiệt:

– Em muốn hỏi, anh yêu em thật sự hay chỉ vì một lý do nào khác?

Kiệt cầm tay tôi, hôn nhẹ:

– Anh không biết nói những câu văn hoa, bóng bẩy, nhưng anh biết rằng anh không thể nào xa em và quên em được.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, tôi nhận rõ được những cảm tình tha thiết mà tôi đã dành cho Kiệt, nên quyết định phải làm những việc tôi nên làm, để giành lấy tình yêu này.

*****

Tôi gửi vợ Kiệt tấm ảnh tôi và Kiệt chụp chung trên bãi biển. Tôi tin chắc rằng, không một người vợ nào có thể ngăn được sự ghen hờn, tức giận, khi nhìn thấy chứng tích ngoại tình của chồng mình. Vợ Kiệt sẽ giày xéo, đay nghiến, hành hạ anh cho thỏa cơn tức giận. Có thể, bà sẽ tìm đến tôi để đánh ghen, để chửi bới. Có hình ảnh nào thê thảm, xấu xí hơn hình ảnh người đàn bà đỏ mặt, tía tai, la hét, khóc lóc trong cơn ghen tuông lồng lộn. ..

Còn tôi. Tôi sẽ kiêu sa, quyến rũ trong căn phòng xinh xắn, ấm cúng của tôi để chờ đợi Kiệt đến tạm trú trong cơn hoạn nạn. Tôi sẽ ngọt ngào an ủi, chiều chuộng Kiệt hết lòng.

Và ai… Ai sẽ là người thắng thế?

Tôi nghe lòng rộn rã với niềm mơ ước sắp thành tựu.

Mấy ngày sau, Kiệt hớt hải tìm tôi. Anh ôm đầu khổ sở:

– Không biết ai cho tin mà vợ anh có vẻ nghi ngờ!

Tôi thăm dò:

– Bà ấy có gặng hỏi, có đưa ra bằng chứng gì không?

– Không… nhưng anh biết, vợ anh là người rất bản lãnh.

Tôi cười mỉa mai:

– Vậy thì bà ta sẽ làm gì được mình?

Kiệt ra về với nét mặt âu lo.

Hai tuần sau, vợ Kiệt gọi điện thoại cho tôi, hẹn gặp ở một nhà hàng Mỹ. Với lòng tự tin, tôi hân hoan đi đến điểm hẹn sau khi trang điểm thật kỹ lưỡng với bộ quần áo thời trang rất “sexy”. Tôi quyết phải để cho người đàn bà này thấy rõ sự thua kém của mình, mà đừng lấy danh nghĩa là vợ của Kiệt để lấn át tôi.

Tôi đến nhà hàng khoảng năm phút sau thì vợ Kiệt xuất hiện. Người đàn bà trước mặt tôi thật xinh đẹp, tươi tắn và quý phái. Với nụ cười rạng rỡ, tự nhiên, bà chìa tay để bắt tay tôi và tự giới thiệu:

– Tôi tên Kiều Loan, bạn bè thường gọi tôi là chị Kiệt. Hân hạnh được biết chị.

Giọng nói dịu dàng, ngọt ngào và điềm tĩnh của vợ Kiệt làm tôi thoáng bối rối. Tôi đã có chuẩn bị. Nhưng chỉ chuẩn bị đối phó với một người đàn bà buồn thảm, hốc hác vì ghen tuông, bà sẽ khóc lóc, van xin tôi trả Kiệt lại cho bà, chứ không phải người đàn bà rất thong dong, tươi tỉnh, đang nhìn tôi bằng cái nhìn rất kẻ cả.

Ngay lúc tôi chưa biết phải nói gì thì Kiệt bước vào. Mặt Kiệt biến sắc khi nhìn thấy tôi và vợ anh.

Ðến lúc này thì tôi chợt hiểu. Vợ Kiệt đã sắp đặt cuộc gặp gỡ ngày hôm nay, để xem Kiệt sẽ xử sự ra sao trước mặt tôi, và cũng để xác định rõ vị trí của bà trong tình cảm của Kiệt.

Bà nhìn Kiệt nhỏ nhẹ nói:

– Ngồi đây anh, có cần em giới thiệu người khách quý này không?

Kiệt vừa lắc đầu, vừa cười. Nụ cười của anh hôm nay trông thảm hại làm sao. Tôi nhìn Kiệt tức tối. Kể từ khi bước chân vào đây, anh không một lần liếc mắt đến tôi. Mới hôm qua anh còn nồng nàn, tình tứ. Mới hôm qua anh còn chất ngất đam mê, sao bây giờ phũ phàng đến thế?

Tôi phóng một nụ cười chua chát về hướng Kiệt, nói rõ từng tiếng một, khi vợ Kiệt yêu cầu tôi chọn món ăn:

– Anh Kiệt có thể chọn món ăn cho tôi. Anh ấy biết rõ tôi thích gì.

Vợ Kiệt nghiêng đầu nhìn sâu vào mắt chồng:

-Em thích món nào anh cũng biết, phải không?

Rồi vợ Kiệt nheo mắt với tôi, thân mật đề nghị:

– Vậy thì tôi và chị cũng nên làm khó anh Kiệt một chút nha.

Quay sang Kiệt, bằng giọng nói thật mềm mỏng, nhưng ánh mắt của bà sâu thẳm, đầy cương quyết:

– Anh chỉ được chọn một món trong những món em và … khách thích.

Kiệt cười không thành tiếng. Thái độ lúng túng của Kiệt đêm nào trên giường ngủ của tôi dễ thương bao nhiêu, thì cái lúng túng của anh ngày hôm nay đáng ghét bấy nhiêu.

Kiệt đã nói rằng anh không thể xa tôi, không thể quên tôi, nhưng món ăn anh lựa chọn ngày hôm nay đã làm đau buốt trái tim tôi.

Vợ Kiệt âu yếm gắp từng món ăn cho Kiệt và luôn miệng khen:

– Món ăn anh chọn cho em ngày hôm nay ngon thật. Cám ơn anh vẫn còn nhớ vợ anh thích gì, dù em không ở cạnh anh mấy tháng nay.

Gắp một ít thức ăn đặt vào bát tôi, vợ Kiệt nói:

– Chị ăn thử món tôi thích xem có hợp với khẩu vị của chị không?

Chưa bao giờ môi miệng tôi lại bị khóa cứng như hôm nay. Tôi ngồi yên không cử động, quên cả lời cám ơn để chứng tỏ sự lịch sự của mình.

Giọng vợ Kiệt như sắc lại:

– Nếu không hợp khẩu vị của chị, là vì nó không phải là món ăn của chị. Chị nên gọi món khác, tôi sẵn sàng mời chị.

Tôi nhìn vợ Kiệt không chớp mắt. Cảm tưởng như mình đang tham gia một vở kịch trên sân khấu mà tôi là một diễn viên không diễn trọn vai trò, làm tôi bối rối, sượng sùng.

Tôi ra về trong nỗi đau và sự thán phục. Giá như vợ Kiệt mắng nhiếc, sỉ vả tôi, có thể tôi sẽ dễ đối phó hơn là thái độ nhẹ nhàng, lịch sự nhưng không kém phần cứng cỏi của bà.

Tôi thua cuộc vì tôi đã khinh địch, đã xem thường câu nhắc nhở của Kiệt “vợ anh là một người đàn bà bản lãnh”, đồng thời tôi cũng nhận ra một điều,

Thượng đế đã dành cho mỗi người một chỗ đứng. Và tôi. Tôi không thể giành lấy những gì không thuộc về tôi…/.

Image may contain: one or more people, tree, outdoor and nature

ĐỘC TỐ GIẾT ĐÀN ÔNG!

ĐỘC TỐ GIẾT ĐÀN ÔNG!

Ngày xưa, một cô gái xinh đẹp cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống hôn nhân và muốn giết người bạn đời của mình.

Một buổi sáng, cô ấy chạy đến bên mẹ và nói với mẹ “mẹ ơi, con mệt mỏi với chồng con lắm rồi, con không còn muốn chung sống với anh ấy nữa. Con muốn giết anh ấy nhưng sợ luật pháp bắt con phải chịu trách nhiệm, mẹ có thể giúp được không? “.

Người mẹ trả lời:

– Được, con gái của mẹ, mẹ có thể giúp con, nhưng có một nhiệm vụ nhỏ kèm theo.

Cô con gái hỏi “nhiệm vụ gì”? Con sẵn sàng và sẵn sàng đảm nhận bất kỳ nhiệm vụ nào kèm theo để đưa anh ta biến mất”.

OK, người mẹ nói:

  1. Con sẽ phải làm hòa với chồng con, để không ai nghi ngờ con khi anh ta chết.
  2. Con sẽ phải làm đẹp bản thân để trông trẻ trung và hấp dẫn hơn với chồng con.
  3. Con phải chăm sóc chồng con thật tốt và trân trọng anh ấy.
  4. Con phải kiên nhẫn, yêu thương và ít ghen tuông hơn, có thái độ lắng nghe hơn, tôn trọng và vâng lời hơn.
  5. Tiêu tiền của con cho anh ấy và đừng tức giận ngay cả khi anh ấy từ chối đưa tiền cho con bất cứ điều gì.
  6. Đừng lên tiếng phản đối, hãy khuyến khích hòa bình và dành tình yêu thương để con không bao giờ bị nghi ngờ khi chồng con chết.

Người mẹ hỏi: Con có thể làm tất cả những điều đó?

Cô ấy đã trả lời: Vâng con có thể.

OK! Bà mẹ nói.

Con hãy lấy bột này và đổ một chút vào bữa ăn hàng ngày của nó, nó sẽ từ từ giết chết nó.

Sau 30 ngày cô gái về với mẹ và nói:

Mẹ ơi, con không có ý định giết chồng nữa. Đến bây giờ con càng yêu chồng con hơn vì anh ấy đã hoàn toàn thay đổi, chồng con

giờ là một người chồng vô cùng ngọt ngào so với những gì con tưởng tượng.

Con có thể làm gì để ngăn chất độc giết chết anh ấy? Mẹ ơi giúp con với!

Cô ấy cầu xin với một giọng điệu buồn bã.

Người mẹ trả lời: Đừng lo lắng con gái của mẹ. Những gì mẹ đưa cho con hôm trước chỉ là Tinh bột nghệ. Nó sẽ không bao giờ giết anh ta.

Trên thực tế, con là liều thuốc độc đang dần giết chết chồng con trong sự căng thẳng và chán nản.

Đó là khi con bắt đầu yêu, tôn trọng và trân trọng chồng con, con mới thấy anh ấy thay đổi thành một người chồng tốt và ngọt ngào.

Đàn ông không thực sự xấu xa, nhưng cách chúng ta phán xét họ sẽ quyết định phản ứng và cảm xúc của họ đối với chúng ta.

Là phụ nữ nếu con biết thể hiện sự tôn trọng, tận tâm, yêu thương, chăm sóc thì anh ấy sẽ 100% ở bên con.

Nguồn: S.T.

 HIỂU LẦM

 
Image may contain: car and outdoor

 HIỂU LẦM …

Gia đình hai vợ chồng họ ở chung một đoạn đường với tôi, cách nhau khoảng 5, 6 căn, có đưá con gái kháu khỉnh dễ thương, sống cùng cha mẹ già. Cả hai cùng đi làm nên cuộc sống có vẻ thoải mái, gia đình hạnh phúc. Chúng tôi quen biết qua tình đồng hương hàng xóm.

Một điều hơi lạ là tuy gia đình có vẻ khá giả, nhưng cách đôi ngày lại thấy ông cụ, có khi cả bà, đẩy một cái xe đi..lục thùng rác !

Mỗi tuần đúng ngày đổ rác, sáng sớm tôi ra đi làm là thấy ông bà cụ đẩy xe tới mấy thùng re-cycle trong xóm bới kiếm những chai nước plastic, hoặc lon nhôm…những loại có thể bán recycle lấy tiền. Tôi để ý vậy nên mỗi tuần bao giờ cũng đặt những thứ đó riêng bên cạnh để ông bà lấy cho dễ. Ngày khác, tôi lại thấy ông đẩy xe sang khu xóm lân cận, hoặc có khi ra cả công viên gần nhà lang thang đi lượm chai lọ.

Thật khó hiểu tại sao hai vợ chồng có vẻ rất gương mẫu đó lại để cho cha mẹ phải đi kiếm tiền lẽ cực nhọc như vậy!

Một hôm anh đến nhờ tôi dùng xe van chở những chai lọ ông bà cụ kiếm được ra chỗ recycle bán. Xe anh bị hư. Tôi đi cùng anh, và thấy số tiền bán hôm đó dưới $50. Ôi công trình ông bà cụ sáng sáng đi lục thùng rác hai tháng trời chỉ được $50? Chưa kể công bao bì đóng gói sạch sẽ và công đứng chờ đong đếm để bán mất cả tiếng đồng hồ của con cái.

Trên đường về, như đoán được những gì tôi đang nghĩ trong đầu, anh tâm sự:

Số tiền này khi về đưa cho bố mẹ sẽ tăng lên …gấp đôi.

Tại sao? Tôi ngạc nhiên.

Anh nói ông bà cụ tự nguyện làm việc này để kiếm thêm tiền góp công quả giúp cho một ngôi chùa nào đó ở Việt Nam đang nuôi dưỡng một số đông trẻ mồ côi, hoặc những trẻ sơ sinh mà cha mẹ không đủ điều kiện nuôi dưỡng, đem đến bỏ lại cho chùa nuôi. Những ngôi chùa từ thiện đó không được chính phủ trợ cấp đồng nào cả. Tất cả chi phí hoàn toàn do từ bá tánh.

Anh muốn công khai đóng góp tiền cho cha mẹ giúp đỡ cũng được, nhưng chọn cách này để ông bà cụ tiếp tục đi lục thùng rác kiếm chai lọ.

Tôi càng ngạc nhiên

Dễ hiểu lắm, anh giải thích: Sức khoẻ, đường, máu, huyết áp… cả ông lẫn bà đều rất tốt đến nỗi bác sĩ gia đình phải ngạc nhiên. Sau khi hỏi qua sinh hoạt của ông bà, bác sĩ nói chính nhờ sự đi bộ thường xuyên đó, nhất là đối với ông cụ, đã khiến sức khoẻ trở nên tốt hơn rất nhiều.

Một điều nữa là yếu tố tâm lý. Anh thấy cha mẹ từ ngày làm việc này, tinh thần của họ cũng trở nên vui vẻ, lạc quan hẳn lên vì cảm thấy mình vẫn còn khả năng kiếm tiền để làm việc hữu ích cho xã hội mà không cần phải nhờ đến con cái.

Cho nên, anh tiếp, tuy biết hình ảnh ông bà cụ già đẩy xe đi kiếm chai lọ có vẻ…kỳ cục, nhưng thực ra đang mang lại sức khoẻ, niềm hạnh phúc cho cả hai ông bà, vậy tại sao phải ngăn?

Nghe anh nói, tôi cảm thấy xấu hổ vì lỡ có ý nghĩ không tốt cho anh mấy tháng nay!

ThaiNC.

VẪN CÒN CÁI GỐC

 

 Diem Chi

 TRUYỆN

VẪN CÒN CÁI GỐC

Tiểu Tử

Tôi sanh ra vào thời Pháp thuộc, lớn lên, ra đời với Mỹ Diệm, Mỹ Thiệu rồi… già trước tuổi sau ngày “cách mạng thành công” ! Để thấy tôi đã có cái may mắn biết thằng Tây, biết Chú Sam, biết Bác. Thằng Tây đội nón cối thực dân ngồi trên đầu thằng dân đội nón lá. Chú Sam với cái nhãn bàn tay của chú nắm bàn tay người bạn mà chú giúp đỡ – cái nhãn chưa kịp tróc, chú đã buông rơi thằng bạn như buông rơi một vật vô tri! Trải qua ba trào như vậy mà tôi đã không thành Tây, không thành Mỹ, cũng không thành Bôn-sê-vít, nhờ truyền thống của ông cha: Biết giữ gìn cái gốc. Điều này, tôi rất tự hào.

Bây giờ, tôi xin tự giới thiệu …

Tôi tên là Tư – Lê Di Tư – Theo ông nội tôi kể lại thì tôi thuộc dòng họ Lê Di ở Huế, một dòng họ nổi tiếng khoa bảng. Hồi đó, ông sơ ông sờ gì của tôi đã làm quan lớn trong triều đình. Ổng được lệnh vua, đưa dân đi dài vào Nam khai hoang, dựng làng lập ấp, để mở mang bờ cõi. Khi ổng vào đến vùng rừng thiêng nước độc mà sau này người ta gọi là Tây Ninh, ổng ngã bịnh rồi chết. Sau đó, không nghe ông nội tôi kể tiếp. Điều mà tôi biết là đến đời ông nội tôi, cái gia tài quyền quy chữ nghĩa của dòng họ Lê Di chỉ còn lại đủ để ông nội tôi…bắt mạch hốt thuốc độ nhựt! Rồi qua đến đời cha tôi, đời anh chị tôi…chỉ còn làm ruộng dài dài, mà mớ chữ nghĩa thì vừa đủ để ngâm nga mấy truyện thơ bình dân như Chàng Nhái Kiểng Tiên hay Bạch Viên Tôn Các.

Hồi đó, có người thắc mắc tại sao tôi đã mang cái họ Lê Di rất văn vẻ, rất …quí phái mà lại có cái tên Tư nghe quá cộc lốc khô khan? Nói cho có vẻ…văn chương, cái họ của tôi như tấm lụa mềm mà sao cái tên của tôi thì như hòn sỏi nhám? Đó là do bản chất thật thà của cha tôi. Ổng đặt tên anh em chúng tôi giống như ổng đếm bầy con! Đầu tiên là anh cả tôi: Lê Di Một. Kế đó là anh Lê Di Hai. Tiếp theo là chị tôi: Lê Thị Ba. À! Chỗ này được cha tôi giải thích…gọn bâng: Tại nó là con gái, mang họ Lê Di sao được, nữ sanh ngoại tộc mà ! Cuối cùng là tôi, Lê Di Tư, sanh cách chị tôi đến chín năm. Vì vậy, ở nhà gọi tôi là thằng Út, còn hàng xóm thì gọi tôi là Út Tư, chắc là để khỏi lầm với những thằng Út khác.

Năm đó, tôi đến tuổi vào trường tiểu học. Cha tôi xách xe đạp chạy ra nhà việc (hồi đó, chỗ ban hội tề –là những người chức trách trong làng – làm việc được gọi là nhà việc, cũng có người gọi là nhà vuông bởi vì ngôi nhà đó có bốn cạnh bằng nhau) để trích lục khai sanh của tôi. Khi ổng về đến nhà, ổng cầm tờ khai sanh vừa chỉ chỏ vừa phàn nàn: “Con mẹ thằng lục bộ! Hồi đó tao khai là Lê Di Tư, nó nghe rõ chớ, lại còn gục gặc đầu nói đứa thứ bốn phải không. Vậy mà nó đánh dấu ư cách xa chữ u đến cả thước lận, thành ra là dấu sắc. Bây giờ thằng chả chết mất rồi, lấy ai mà đối chất đây? Còn thằng lục bộ mới này thì nó đọc sao là chép y ra vậy. Con mẹ nó! Làm thằng nhỏ bây giờ tên là Tú. Coi vô duyên không?”

Vậy là trong khai sanh – và mãi về sau này – tôi tên là Lê Di Tú! Phiền một điều là hồi đó cái tên Tú này tôi nghe không quen lỗ tai. Cho nên, ngày đầu trong trường tiểu học, khi thầy giáo điểm danh, gọi đến Tú là tôi vẫn tĩnh bơ ngồi yên. Còn dòm qua ngó lại coi là đứa nào! Cũng may là thầy giáo lớp chót đó là cậu Sáu An – bà con bạn dì với má tôi – nên cẩu đã biết qua cái sự trục trặc trong cái tên của tôi. Thẩy bèn gọi ‘’ Tư ‘’ làm tôi giựt mình dạ một tiếng lớn. Cả lớp cười rộ. Rồi mấy ngày sau đó, khi gọi đến Tú là thẩy… chêm ngay tiếng Tư cho xong chuyện. Trẻ con dễ thấm, nên chỉ mấy hôm sau là tôi đã quen với cái tên Tú văn vẻ đó, như đã quen lâu !

Lật bật rồi tôi cũng trèo tới lớp nhứt, rồi đậu xép-phi-ca (certificat). Hồi này, ở nhà trúng mấy mùa lúa, nên cha tôi quyết định cho tôi học tới. Ổng nói: ‘’Thằng Út nó lanh lợi, bắt nó làm ruộng cũng uổng ‘’ (Bây giờ nhớ lại, tôi không khỏi phì cười : ổng làm như phải là …cù lần mới đi làm ruộng!) Vậy là tôi được xuống Sàigòn thi vào trường lớn (hồi đó, bậc trung học đã được gọi là trường lớn, bởi vì nó… lớn hơn trường tiểu học). Tôi thi đậu và ở nội trú.. Cha tôi sắm cho tôi cái nón cối hiệu Con Gà Trống và đôi xăng-đan (sandales). Xưa nay, lúc nào tôi cũng đầu trần và đi chân không – đôi guốc chỉ dùng để…rửa chân ban đêm trước khi leo lên ván ngủ. Bây giờ, vào trường lớn phải khác !

Ở trường lớn, người ta gọi tôi là Tú Lê để phân biệt với thằng Tú Phạm học cùng lớp và cũng ở nội trú như tôi. Tôi mang cái tên Tú Lê được hai năm thì trong nước có giặc. Sàigòn bị đồng minh gì gì đó dội bom. Trường lớp bị đóng cửa, dân chúng thị thành tản cư. Cha tôi vội vã đem tôi về làng. Từ đó, tôi tập tành làm ruộng. Điều này không đi đúng với sự mong muốn của cha tôi. Lâu lâu ổng hay nhắc :’’Con mẹ nó! Nếu không có giặc thì thằng nhỏ đã không phải về làm ruộng. Giòng họ Lê Di bây giờ chỉ còn có mình nó là khá. Vậy mà…’’. Câu nói thường bị bỏ lửng. Để thấy ổng cũng hơi phiền trách ông Trời đã không giúp tôi đi theo “con đường chữ nghĩa” cho dòng họ Lê Di được nở mặt, mà đẩy tôi về với ruộng lúa, con trâu, cái cày…Riêng tôi thì lại thích được như vậy. Có lẽ tại vì cái gốc “ruộng” của tôi đã ăn quá sâu vào đất. Tôi sung sướng được trở về với cái tên “Út Tư” bình dị mà hàng xóm dùng để gọi tôi từ thuở ấu thời. Và tôi cũng quên dễ dàng cái tên “Tú Lê” văn vẻ đã bỏ lại ở một góc sân nào đó trong trường lớn…

Vào thời ông Diệm/ông Thiệu, tôi “đi” dân vệ. Để được ở lại làng giúp gia đình làm ruộng ngoài giờ công tác ở đơn vị địa phương. Bởi vì gia đình tôi không có tá điền tá thổ gì hết. Ngoại trừ mùa cấy hay mùa gặt phải mướn thêm người giúp cho “kịp mưa kịp nắng”, kỳ dư đều do người trong gia đình tôi làm lấy, kể cả mẹ tôi, mấy chị dâu anh rể tôi và vợ tôi nữa (hồi này tôi đã có vợ con). Kể lại như vậy để thấy rằng gia đình chúng tôi thuộc loại “tay làm hàm nhai” chớ không phải loại “chỉ tay năm ngón, ngồi không trục lợi” ! Và nhờ trời, gia đình tôi làm ruộng mà “lúa ăn không hết”…

Sau biến cố tháng Tư 1975, tôi đi học tập hết ba hôm rồi về nhà tiếp tục làm ruộng. Yên chí rằng mình thuộc giới công nông đem “mồ hôi đổi lấy bát cơm”, lấy sức “lao động làm nên của cải” (mấy câu này tôi mới học được của mấy cán bộ cách mạng, cha nào cha nấy nói y như nhau, còn lập đi lập lại nữa nên…dễ nhớ!) Chớ không thuộc loại “Mỹ Ngụy ác ôn” hay “trí thức vong bản” hay “địa chủ phú nông , cường hào ác bá “ gì gì…Tôi đã thật tình tin tưởng rằng mình “không có nợ máu với nhân dân” thì không có gì phải lo âu sợ sệt. Chẳng dè ít lâu sau ruộng bị “sung” vào hợp tác xã, còn chúng tôi thì làm công lại cho họ. Ngang ngược một cách rất…tự nhiên! (May quá! Cha mẹ tôi đã thất lộc trước ngày “cách mạng thành công”. Mừng cho ổng bả!)

Vào hợp tác xã chưa đủ. Còn phải đi lao động (làm như đi làm ruộng mỗi ngày chưa phải là lao động!) Rồi đi họp hành, học tập đường lối chủ trương (làm như phải có những thứ đó thì lúa…mới tốt!) Rồi đi mết tinh, rồi hô khẩu hiệu, rồi khai lý lịch khai tới khai lui…Có đêm tôi nằm trăn trở, nghĩ tiếc cho cái gốc của ông bà để lại, bây giờ không còn đứng vững nữa. Cái gì không giống cái gì hết ! Lai căn tạp nhạp.

Vậy là sau một thời gian nhẫn nhục làm một “nhân khẩu“ của chế độ, tôi thấy tối ngày cứ hô “sống mãi, sống mãi, sống mãi” chắc… chết quá! Tôi đành liều mạng mang vợ con vượt biên. Nhờ ơn trên phò hộ, chúng tôi đi thoát và tấp lên đảo Pulau Bidong (Mã Lai).

Sau hơn bốn tháng “nằm” đảo, chúng tôi được chánh quyền Pháp nhận cho định cư. Đó là nhờ chút ít tiếng Pháp còn sót lại của thuở thiếu thời xa xưa. Thuở đó, mỗi ngày học trò phải chào cờ “Đại Pháp”, phải hát bài “Maréchal ! Nous voilà !”. Vào lớp phải đứng thẳng, đợi thầy nói “Asseyez-vous” rồi chấm câu với tiếng roi mây hay cây thước bảng đập lên bàn. Chừng đó, cả lớp đồng nói “Nous nous asseyons” rồi mới ngồi xuống. Ở cái thời như vậy mà sao cái “gốc” vẩn còn. Có lẽ nhờ truyền thống của ông cha và nhờ mấy quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã âm thầm nhen nhúm tình thương quê hương dân tộc.

Chúng tôi được “bốc” về đất liền ở thị xã Trenganu, rồi từ đó về Kuala Lampur, thủ đô Mã Lai, để làm thủ tục giấy tờ.

Hôm chuẩn bị lên xe để ra phi trường Kuala Lampur “bay” đi Paris, lòng tôi như mở hội. Ngày mai chẳng biết ra sao, nhưng chân trời mới này đã thấy rộng thênh thang. Không phải cho tôi, mà là cho hai thằng con tôi đang trong tuổi lớn ! Điều này tôi muốn chia xẻ với những người ti. nạn đang đứng chùm nhum ở lãnh sự quán Pháp đợi gọi lên xe ca, nhưng tiếc quá họ toàn là người Tàu Nam Vang và người Miên người Lào. Họ không biết tiếng Việt Nam, thành ra tôi… cụt hứng.

Chính ông phó lãnh sự gọi tên từng gia đình để trao thông hành và mời lên xe. Khi ổng gọi đến gia đình “Lơ đi”, chẳng thấy ai nhúc nhích. Ổng đưa mắt tìm trong đám đông rồi cái nhìn của ổng ngừng lại ở tôi. Ổng mỉm cười hỏi bằng tiếng Pháp:”Gia đình ông người Việt phải không?”. Tôi gật đầu “Ùy mong xiừ” mà tự hỏi làm sao ổng nhận ra cái gốc Việt Nam của mình? Ổng bèn trao tờ thông hành rồi chúc thượng lộ bình an. Lên xe ca, tôi đọc tấm giấy thấy đề :”Nom: Ledi- Prénom: Tu”. Tôi nhổm dậy định xuống xe phân trần, nhưng xe đã rồ máy và tôi cũng nghĩ lại: Cái vốn Pháp ngữ quá ít ỏi của mình không đủ để giải thích những gút mắt của cái họ cái tên Việt Nam, của dấu ê dấu sắc trong tiếng Việt Nam. Tôi đành ngồi xuống, thở dài… : Thân phận lưu vong, bỏ hết mất hết đã đành, chỉ có cái họ cái tên là mang theo được bên mình, vậy mà bây giờ nó cũng không còn nguyên vẹn hình hài và âm thanh của nó nữa ! Nghĩ đến đó, tôi bỗng nghe tủi thân đến ứa nước mắt….

Ở Pháp, tôi không “hành” nghề làm ruộng. Tôi làm thợ nhà in. Chắc tổ tiên dòng họ Lê Di, nhứt là vong hồn của cha tôi, muốn cho tôi -dù sống ở xứ người- cũng vẫn được gần với…chữ nghĩa ! Ở đây, người ta hay gọi tôi bằng cả họ lẫn tên “Ledi Tu”, bởi vì phát âm ‘Lơ đi tuy‘ theo tiếng Pháp có nghĩa là “ Mầy có nói ra không? “.Tôi không thích, nhưng phải chấp nhận, như tôi đã chấp nhận định cư ở xứ này, bởi vì điều quan trọng vẫn là tương lai của hai thằng con. Tuy nhiên, lâu lâu tôi vẫn thèm được nghe gọi “Út Tư”, cái tên có âm thanh hiền lành bình dị, cái tên sao mà gợi nhớ quê cha đất mẹ vô cùng…

Bây giờ tôi đã về hưu. Ngày ngày tôi “chăn” bầy cháu nội, dạy dỗ chúng nó từng chút để chúng nó đừng thành “Tây con”. Khi nói chuyện với cha mẹ của chúng, tôi thường ví von: ”Ba giống như cây bần cây đước đã bị cơn bão năm 1975 bứng ra khỏi đất. Trôi nổi bập bềnh theo sống gió đại dương đến khi đụng một bến bờ nào đó, cho dù đất khô đá cứng, cây bần cây đước đó vẫn cố bám rễ . Để giữ lấy cái gốc. Bởi vì những nhánh nhóc bên trên rồi sẽ đâm chồi nẩy lộc. Cái gốc đó – chắc các con còn nhớ – nó tên là Việt Nam“.

Tiểu Tử

EM GÁI CỦA TRỜI

Image may contain: 1 person, standing and outdoor
 

Chuyện thật hay và cảm động. Mình đã khóc dẫu đọc 2 lần , thấy mình thật là nhỏ bé so với 2 mẹ con trong truyện .

EM GÁI CỦA TRỜI

(Cusiu)

Chương 1

Sau 5 ngày bỏ nhà đi bụi thì cuối cùng tôi cũng chịu mò về nhà, vì hay tin ngoại tôi chống gậy đi tìm. Ngoại mắt không thấy đường, tai nghễnh ngàng rồi, vừa đi vừa gào tên tôi khắp làng khắp xóm. Nghe thằng bạn kể tới đó thôi tôi cũng không đủ can đảm ở cái chòi vịt nhà nó thêm một ngày nào nữa, sợ thì ít mà thương ngoại thì nhiều, ngoại nuôi tôi từ bé đến giờ, ngoại cưng tôi nhất..

Lần đầu tiên trong đời tôi dạt nhà vì cái lý do chẳng giống ai, đó là ba tôi lấy vợ khác sau hơn 10 năm gà trống nuôi… tôi. Đó là một phụ nữ người gốc Huế, bán bánh bèo lọc nậm ở chợ huyện, quen ba tôi trong một lần ba tôi tới tiêm thuốc cho mấy con heo nhà bả (ba tôi là bác sĩ thú y, gọi thế cho oai chứ chả có bằng cấp gì, toàn bị chúng nó gọi là “bác sĩ heo”). Sau đó thì bả hay ghé nhà tôi vì nhà tôi gần chợ, bả đi bán sẵn ghé luôn, thỉnh thoảng có mua quà cho tôi, ban đầu thì tôi thích lắm, cho gì cũng lấy. Nhưng sau khi biết ba tôi chuẩn bị lấy bả làm vợ thì tôi vứt hết, vứt sạch. Thậm chí thấy bả tới nhà là tôi bỏ đi ra ngoài, không thèm chào như trước nữa.

Đến trước ngày cưới một hôm thì tôi bỏ đi, mọi người bận bịu quá nên chắc chả ai để ý đến tôi, khiến kế hoạch phá vỡ đám cưới của tôi sụp đổ. Cưới xong mới bắt đầu thấy có người í ới đi tìm.

Ừ thì về nhà, chả ai dám nói gì, nói là tôi bỏ đi nữa, bây giờ tôi oai lắm, ai cũng sợ tôi, tôi dám bỏ nhà đi bụi cơ mà. Nghĩ thế nên tôi chả thèm chào hỏi ai, lầm lũi xuống bếp bới cơm rồi mang ra vườn ngồi trên khúc cây đổ ăn, ngấu nghiến như một con chó con đói lâu ngày, xong rồi thì lăn ra ngủ, mặc kệ.

Từ đấy tôi bắt đầu gắt gỏng, thỉnh thoảng còn bỏ ăn, bả gọi tôi không thèm thưa, trả lời thì luôn trống không và chưa một lần tôi gọi bả là mẹ. Tôi cố tình chống đối và tỏ ra khó chịu với mẹ ghẻ, mặc dù bả không làm gì tôi cả.

Có lần tôi nghe trộm được bả nói với ba tôi là bả thương tôi như con đẻ, từ từ bả sẽ lấy được thiện cảm của tôi. Đừng mơ lừa được tôi nhé “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng” Câu này tôi thuộc lòng từ lâu rồi, tôi thách đấy!

Cứ thế năm tháng sau trôi qua, bả vẫn lầm lũi tiếp cận và lấy lòng tôi, còn tôi thì ngày càng ngang ngạnh, có lúc tôi còn nói hỗn với bả. Ba tôi thì vốn hiền lành như khúc củi, ổng lại bị thọt một chân, chưa bao giờ ổng đánh tôi cả. Thế nên tôi càng được thể lấn tới.

Rồi một ngày bả dắt một con bé về, nó đen nhẻm, tóc đỏ quạnh như cháy, quần áo thì quê mùa. Đích thị là con bé nhà quê vì chỉ có bọn nhà quê mới thắt tóc bím 2 bên và mặc áo tay phồng, bọn con gái lớp tôi nó bảo thế. Nó khúm núm chào tôi, mặt có vẻ sợ hãi vì tôi trừng mắt nhìn nó. Ba tôi bảo nó là con riêng của “mẹ”, ở dưới quê với bà nội, vì học chưa hết học kì nên bây giờ mới chuyển tới ở được, bảo tôi từ đây chăm sóc bảo ban em học hành. Tôi chả thèm nói gì, bỏ đi đá bóng, con riêng với chả con chung, rõ là rách việc.

Từ ngày có nó tôi lại càng thêm khó chịu, nó đi ra đi vào, đụng cái này ngó cái kia.. Cái gì cũng hỏi, cũng cầm lên lắc lắc thử, coi bộ mới thấy lần đầu. Sai nó ủi đồ thì nó lớ ngớ làm cháy mất cái áo đi học vì không biết vặn chỉnh nhiệt độ, bắt nó chép bài hộ thì nó chép ra cả lề vở (sau này tôi mới biết vở nó cuốn nào cũng thế, chép ra lề để tiết kiệm). Đến việc sai mở tivi nó cũng không biết cách, rõ là quê một cục. Tôi bực mình chửi nó: “Mày chưa xem tivi bao giờ à?” Nó đỏ mặt, nó bảo bà nội nó cũng có cái đài casset, nhưng mà chỉ có tiếng, không có hình người. Tóc nó ban đầu tôi tưởng nó nhuộm, sau hỏi nó mới bảo là ở dưới quê đi chăn bò với lội ruộng nhiều nên nó bị cháy. Nghe thế tôi cười hô hố..

Vào năm thì nó đi học, nó học thua tôi hai lớp, tôi học lớp 8, nó học lớp 6. Trẻ em ở quê thì thường dậy thì muộn, đến lớp 10 tôi mới bắt đầu “lớn”, lớp 8 tôi vẫn còn còi cọc và trẻ con lắm, hầu hết con trai trong lớp tôi đều thế, chả riêng gì tôi. Nó còn thê thảm hơn tôi, gầy đét và còi cọc như con bé tiểu học, mới đầu nghe nó nói nó học lớp 6 tôi còn há mồm không tin.

Nhà có mỗi một chiếc Phượng Hoàng nên ba tôi bắt tôi phải chở nó đi học, mặc dù tôi cực lực phản đối. Mấy ngày đầu tôi phóng cái vèo đi trước, mặc kệ nó lủi thủi đi bộ theo sau. Mẹ nó thì đi bán từ sớm, ba tôi thì không đi xe đạp được với lại cũng chả có xe, thế nên nó phải cuốc bộ đến trường, mặc dù khá xa. Có lần quên tập, tôi chạy ngược xe về nhà thì thấy nó đang mồ hôi nhễ nhại, mặt mũi đỏ gay vì mệt, tôi lấy làm đắc chí lắm, nghĩ bụng: “cho mày chết đi con nhà quê”…

Một lần nó sốt mấy ngày liền do đi học nắng quá, nó vẫn giấu không cho ba tôi và mẹ nó biết vụ tôi không chở nó đi học. Thấy nó nằm rên hử hử trên giường, lúc tỉnh nó còn dặn tôi để quần áo đấy nó giặt, nó đang mệt quá không giặt được. Nghe nó lảm nhảm tự nhiên thấy hơi.. tội tội và có lỗi với nó.

Nó hết sốt và đi học lại thì tôi bắt đầu cho nó đi chung xe, ban đầu nó hơi ngạc nhiên, sau nó cũng lên, suốt cả năm học tôi chở nó, chưa bao giờ tôi thấy nó nói gì. Thỉnh thoảng có nghe nó hát nho nhỏ gì đó, tôi quay lại thì nó lại im. Nó là một đứa khá khó hiểu, mãi cho đến lúc nó đi xa mãi, tôi cũng chưa hiểu được nó, con em gái bé bỏng của tôi….

Chương 2

Sau vài lần bị bạn bè bắt gặp tôi chở con bé đi học, bọn trong lớp tôi ngay lập tức rêu rao cái tin động trời này vào lớp: “Thằng T có bồ rồi tụi bay ơi, thằng T có bồ rồi, bồ nó xấu như con ma lem”. Có thằng còn thề sống thề chết là thấy bọn tôi ôm nhau, đúng là chém gió một cách trắng trợn kinh tởm mà. Tôi thanh minh không được, điên máu gào toáng lên rằng đó là “em họ” tôi, đứa nào còn nói nữa thì cẩn thận ăn đấm. Thấy tôi làm dữ, bọn nó cũng chùn không nói nữa, nhưng tôi để ý bọn con gái nhìn tôi với ánh mắt rất đểu, thỉnh thoảng có đứa còn đưa tay bịt miệng cười hi hí. Thật là một nỗi oan động trời mà, tôi đẹp trai thế này, lại là con của bác sĩ… mà lại đi cặp bồ với một đứa đen đủi xấu xí như thế à, nghĩ sao vậy chứ, thật bực mình hết chỗ nói.

Hôm sau tôi quyết định không chở nó đi nữa, kệ cho nó đi bộ. Nó cũng không nói gì, cúi đầu lặng lẽ rảo bước khi thấy tôi phóng xe đi trước. Nhưng mà đi được một đoạn, ngẫm lại cái hôm nó ốm liệt giường, thều thào xin lỗi đến tội nghiệp vì không giặt được quần áo, nấu cơm cho tôi được, để tôi phải làm, nó nói như là nó có lỗi lắm ấy… Tôi quay xe lại, dù sao thì…

Từ xa xa tôi thấy nó đang lững thững đi, trông dáng nó bé tí teo như cục kẹo vậy, trên lưng là cái cặp to tướng. À mà không giống cục kẹo lắm, nhìn kỹ thì giống con rùa con hơn, một con rùa cả nghĩa đen và nghĩa bóng… Tôi bảo nó lên xe, nó im lặng bước lên, cũng lại chả nói gì. Nó như là bản sao của mẹ nó vậy, không bao giờ chống đối hay hỏi han điều gì, mẹ con nó như những người phụ nữ ở nhà thống lý Pá Tra ngày xưa…

Tôi đi đường tắt để tránh sự dòm ngó của bọn trong lớp, con đường vòng vo và vắng nhà cửa. Tôi chở nó chạy xe băng băng qua vườn điều, vườn cam, vườn mía, băng qua cả những ngày tôi phởn chí dừng xe lại trèo vào bứt trộm ổi cho nó ăn, nó ở ngoài trông xe mà mặt tái mét, băng qua cả những lần tôi điên tiết bỏ nó giữa đường cho nó đi bộ, làm nó bị trễ cả giờ kiểm tra, băng qua cả những hôm bị xịt lốp xe, hỏng xe, tôi thì dắt, nó đi phía sau phì phò đẩy hộ…

Bây giờ thỉnh thoảng có dịp về quê tôi hay xách chiếc xe đạp ngày xưa đi ngang con đường ấy để tìm lại kỉ niệm, có những lúc giật mình buột miệng gì đó mà không thấy ai trả lời, tôi quay lại nhìn phía sau, không còn thấy cô em gầy gò của tôi hai tay bám chặt vào yên xe, mặt ngơ ngác thay cho câu hỏi nữa… Bất giác tôi không còn sức để đi tiếp, dừng xe lại… nước mắt chảy dài…

Ngày ấy bọn tôi hay có trò chơi gảy hình, hình Songoku và dũng sĩ Héc-man. Trong lớp tôi hầu như ngày nào cũng mở hội gảy hình trước giờ học. Tôi chơi dở tệ nên thường xuyên thua sạch, bao nhiêu tiền ba tôi cho mua sách vở bút mực tôi đều mua hình và cống nạp hết cho tụi bạn. Hôm đấy cay cú vì lời thách thức của thằng bạn quá mà hết sạch tiền, tôi chả biết làm sao cả. Ba tôi thì đi vắng chưa về nên không nói xạo để xin tiền được. Tôi đánh liều… Lục cặp của nó trộm tiền, vì tôi biết mẹ nó hay dấm dúi tiền cho nó mua mấy thứ linh tinh của bọn con gái. Định bụng khi thắng cuộc tôi sẽ bán hình lại lấy tiền rồi khéo léo bỏ vào trả lại cho nó như không có chuyện gì xảy ra. Ai ngờ đâu… tôi thua sạch sẽ…

Cả ngày hôm đấy tôi cứ lấm la lấm lét nhìn nó, tôi chỉ sợ nó méc mẹ nó hay ba tôi. Rồi thì ba tôi vặn hỏi, tôi sẽ lắp bắp, rồi thì lộ ra cả chuyện tôi không mua sách vở, rồi thì… lúc đấy thì chỉ có mà nhục hơn chết. Nhưng mà quái lạ là tôi không thấy nó nói gì, tôi chắc chắn là nó đã biết vì tôi thấy nó soạn sách vở đi học, có lôi mấy thứ trong cái ngăn đựng tiền ra. Nhưng dù sao, tôi cũng thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát được một kiếp nạn…

Mãi sau này tôi mới phát hiện ra một điều, nó là đứa con gái duy nhất trong trường đội nón lá đi học. Trước đây tôi tưởng điều đó là bình thường vì thấy cô, dì, hay những phụ nữ tôi quen đều đội như vậy. Nhưng khi nghe con gái trong lớp xì xào: “con bồ thằng T nó vẫn đội nón lá đi học đấy, đúng là gái dưới quê lên có khác” thì tôi mới chột dạ, như thế là nhà quê, là không hợp thời…

Tôi về nhà lôi nó ra hỏi: “Con kia, sao mày lại đội nón lá đi học, đây có phải như dưới quê mày đâu, mày không biết xấu hổ à?”. Nó lí nhí: “Tiền em dành được để mua nón hoa, em làm mất rồi”. Tôi đứng hình và hiểu ra ngay, thì ra những khi mẹ nó cho nó tiền mua quà, mua bút sách này nọ, nó đều tiết kiệm lại, vở nó viết ra cả lề, nó tính nháp ra chằng chịt cái bàn học vì sợ tốn giấy, trong khi tôi thì giật giấy trắng trong tập gấp máy bay phi ầm ầm, bộ đồ đi học của nó, cũng là được “thừa kế” của một người chị họ, sách giáo khoa của nó cũng là đi mượn về, nhiều quyển còn bị xé lam nham… Nó tiết kiệm từng đồng từng xu để rồi cuối cùng bị thằng khốn nạn như tôi ăn cắp mất…

Tôi đuổi nó vào rồi ngồi thẫn thờ một lúc, lần đầu tiên tôi nhận ra một điều là dù sao nó cũng là một đứa con gái, cũng biết xấu hổ khi bạn bè chê cười, cũng thích nơ kẹp tóc và nón hoa như bao đứa khác… Tôi thấy ân hận ghê gớm, tâm trạng nặng nề kéo dài mãi đến tận mấy hôm sau…

Chương 3

Những ngày tháng trẻ con vụng dại ấy rồi cũng trôi qua nhanh chóng, vẫn chiếc ngựa chiến ấy, tôi chở nó băng băng qua tuổi thơ, băng qua những ngày tháng cuối cùng của đời học sinh ở trường huyện, nhưng tôi không còn cố tình phóng nhanh để cho nó hoảng sợ nữa, tôi không còn bắt nó đi bộ một đoạn rất xa khi gần đến trường để tránh bị phát hiện nữa. Tôi chở thẳng nó vào trường, như thể một thằng anh trai chở em gái đi học. Ừ, nó là em gái tôi mà, lần đầu tiên trong đời tôi có em gái, nó lại ngoan và hiền như thế, có lý do gì để tôi bắt nạt nó hoài cơ chứ… Tôi nhận ra điều này, tuy muộn nhưng không trễ. Nó thấy tôi bắt đầu đối tốt với nó, không còn quát mắng nó như xưa nữa, không còn dọa đánh nó mỗi lần nó làm gì lớ ngớ nữa… Nó không nói gì nhưng nó nhìn tôi lạ lắm, không còn thái độ sợ sệt như trước đây nữa, hình như mắt nó có gì đó long lanh… Nếu nó là con cún con, tôi ắt hẳn nó sẽ vẫy vẫy cái đuôi bé tí…

Một ngày cuối năm lớp 9, tôi đang ngồi học trong lớp thì nó ở đâu chạy vào, nước mắt nước mũi tèm nhem: “Ba bị tông xe rồi anh Bi ơi, người ta đưa vô bệnh viện rồi…”

Tôi chở nó phóng như bay vào bệnh viện, sáng nay có người mang ô tô đến chở ba tôi đi vào xã chích ngừa cho gia súc, bảo là chiều sẽ về…

Vừa để nó xuống xe, tôi phóng như bay vào phòng cấp cứu, tôi biết nó ở chỗ nào vì bà ngoại tôi từng 2 lần nằm ở đây. Cô dì chú bác họ hàng tôi đứng chật ngoài phòng cấp cứu, ba tôi vốn hiền lành và tốt bụng nên được cả họ quý mến… Cô tôi thấy tôi đến thì chạy lại ôm chồm lấy tôi khóc nức nở. Tôi hoảng loạn mặt mày tái mét, miệng lắp bắp: “ba… ba con… sao rồi cô?” Cô không trả lời mà đưa tay lên bụm miệng rồi nấc càng mạnh… Tôi hoảng quá, chạy lại túm lấy anh tôi, chú tôi, bác tôi… gào toáng lên: “ba con sao rồi, ba con sao rồi…”. Không ai đủ dũng khí để nói gì với tôi, một thằng mất mẹ từ năm 3 tuổi… Họ sợ phải chính miệng thốt ra với tôi rằng: “Bi à, ba con mất rồi…”…

Từ ngày ba tôi mất, tôi biến thành một người hoàn toàn khác, không còn muốn quậy phá làng xóm nữa, không còn muốn đùa giỡn chạy nhảy nữa, tôi gần như là một cái xác không hồn… Bạn bè cũng nhìn tôi bằng ánh mắt khác, một ánh mắt đầy thương hại, lớp tôi còn tổ chức đến nhà tôi ”thăm và chia sẻ” với tôi, tôi biết thế nên trốn sang nhà ngoại, tôi chẳng cần ai thương hại hết, tôi chẳng cần ai hết, tôi chỉ cần ba tôi mà thôi… ba ơi…

Con em gái tôi, từ dạo đó cũng trở nên ít nói hơn. Hằng ngày tôi vẫn chở nó đi học, vì tôi chỉ còn vài tháng ngắn ngủi nữa là hết cấp 2 rồi, dù sao thì như ngoại tôi nói, tôi phải cố học để ba mẹ tôi ở dưới suối vàng được yên lòng…

Cô tôi sang nhà nói chuyện với mẹ kế của tôi về việc để tôi qua nhà cô ở, cô sẽ nuôi và chăm sóc tôi. Tôi ở trong buồng nghe mẹ kế nói, chậm rãi và từ tốn bằng giọng Huế khá nặng, rằng bà thương tôi như con, ba tôi mất rồi nên bà phải có trách nhiệm nuôi nấng tôi nên người, bà nhất định không để tôi phải khổ…

Từ đấy mẹ kế tôi nuôi tôi và em gái bằng gánh hàng chợ nắng đắt mưa ế, bằng những buổi sáng dậy sớm tinh sương để nặn nặn gói gói chiên chiên xào xào. Tôi nghe hai mẹ con họ thì thầm, để tránh gây ồn “cho anh Bi ngủ… “, tôi nghe con em kể chuyện đi học ở trường, tôi nghe họ nói đến những gì cao xa và tốt đẹp lắm… Chiếc đèn Hoa Kỳ treo ở bếp in bóng hai người phụ nữ bé nhỏ ấy vào tường, in cả vào những giấc mơ của tôi sau này, giấc mơ có mùi hành phi thơm phức… Con bé em tôi từ dạo đấy phải dậy sớm để phụ mẹ nên bị thiếu ngủ, có lần tôi chở nó đi học, quay xe lại nhìn thì thấy tay nó vẫn bám chặt yên, nhưng mắt thì đã nhắm nghiền từ lúc nào, lông mi nó dài và cong lắm…

Nhiều lần tôi áy náy quá, cố dậy theo để phụ làm bánh, nhưng mẹ kế nhất quyết không cho, nằng nặc bảo tôi đi ngủ, bà nói rằng chỉ còn vài tháng nữa là thi chuyển cấp 3 rồi, tôi nhất định phải đậu trường chuyên trên tỉnh, cứ học giỏi vào là khổ bao nhiêu bà cũng chịu được, còn con Luyến (em gái tôi) thì chưa phải chuyển cấp nên để nó phụ. Bà xua tôi vào ngủ như xua tà…

Cuối cùng tôi cũng đậu vào trường chuyên trên thị xã thật, con em tôi là người biết đầu tiên. Nó cầm tờ giấy báo phóng ra ngoài mương câu cá để tìm tôi, bộ dạng nó hớn hở còn hơn cả tôi. Nó đưa tôi tờ giấy, mắt nó mở to và rạng rỡ: “anh Bi xem này. “. Tôi cầm tờ giấy báo trên tay, vui thì ít mà nhớ ba tôi thì nhiều… Nếu ba tôi mà còn sống, chắc chắn ông sẽ vứt cả nạng mà chạy đi tìm tôi… “Bi phải thi khối B, làm hẳn bác sĩ, bác sĩ thật, chứ không phải bác sĩ heo như ba… ”

Chương 4

Trường mới cách nhà tôi gần 50km, tất nhiên là với chiếc xe đạp cọc cạch, tôi không thể nào đạp xe đến trường với một khoảng cách xa như vậy được. Vì vậy chắc chắn nếu tôi đi học cấp 3 trên đấy, tôi phải trọ học, phải xa nhà. Vấn đề ở đây không phải là tôi không muốn đi học xa, mà là vì nếu ở trọ thì sẽ có biết bao nhiêu vấn đề phát sinh. Tiền nhà trọ, tiền ăn, tiền học, tiền điện, tiền nước… Tiền tiền tiền, thứ mà nhà tôi thiếu nhất vào lúc này, khi trụ cột là ba tôi đã không còn nữa…

Lúc ngồi ăn cơm, tôi bảo với mẹ kế: ”Thôi con ở nhà học cũng được, ở trọ rồi tiền đâu mà học, với lại con thích ở nhà thôi, lên đó biết chơi với ai”. Bà nghe vậy thì dừng đũa, nói với tôi một cách nghiêm nghị nhất: “Con nghe cô, con nhất định phải đi học, cô còn lo được thì con cứ an tâm mà học hành, sau này cô già yếu không còn sức nữa thì con còn phải thay cô lo cho con Luyến nữa chứ… ”. Bà nói nhiều lắm, đại ý như là tôi phải hoàn thành tâm nguyện của ba tôi, sau này tương lai còn dài lắm, rồi thì cứ học thật giỏi, phải làm gương cho em… Bà ít học, nửa chữ cắn đôi bà cũng không biết, nên bà cảm nhận được cái sự khổ của việc không được đến trường, được đi học… Con Luyến nó cũng ngồi im nghe, nó cũng mong tôi đi học lắm, nó còn bảo sau này nó cũng muốn vào trường chuyên như tôi, nó sẽ học để làm cô giáo…

Một ngày cuối tháng tám, tôi dậy rất sớm để chuẩn bị lên đường, áo len mũ trùm kín mít vì trời lạnh. Chiếc balo đã chật cứng quần áo con Luyến nó xếp vào cho tôi hôm qua, một cái bao đựng hũ ruốc khô mẹ kế làm, một bao gạo đựng trong túi cám con cò, vài thứ vật dụng linh tinh… Ngày ấy phương tiện di chuyển còn ít, đi đâu xa xa là phải đi bằng ô tô than, mỗi lần ba tôi đi lên thị xã mua thuốc hay học lớp kỹ năng nông nghiệp về là áo quần ướt đẫm mồ hôi và bồ hóng bụi than thì bám đen kịt, lấm lem mặt mũi như Bao Công…

Đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi rời khỏi cái phố huyện nghèo, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Mẹ kế hôm đấy vẫn đi bán, vì nghỉ bán một ngày là cụt vốn ngay. Tối hôm trước bà đã dặn dò tôi đủ điều rồi, ngồi nghe căn dặn, tôi bắt đầu cảm nhận được tình cảm của bà dành cho tôi, đứa con riêng của chồng suốt ngày chỉ biết chống đối và quậy phá…

Tôi chở con Luyến qua nhà ngoại, để nó ngồi sau ôm ba lô và đồ đạc cho tôi. Ngoại tôi biết là sáng nay tôi sẽ qua nên đã chống gậy đứng sẵn ngoài cửa chờ từ lúc nào. Ngồi nói chuyện với ngoại một lúc thì tôi chào ngoại về để kịp xe, ngoại dúi cho tôi một cục tiền lẻ cuộn tròn và cột chặt bằng dây thun, bảo tôi cầm lấy thỉnh thoảng ăn quà, cục tiền tròn vo và cũ kỹ, có lẽ ngoại đã dành từ rất lâu rồi… Ngoại dặn tôi phải học cho giỏi để làm bác sĩ, để về chữa bệnh đau lưng cho bà, để chữa mắt cho bà, để bà lại được dịp đi lòng vòng khắp xóm để khoe “Thằng cu Bi nhà tôi nó đậu to lắm, đậu trường to nhất trên thị xã…”… Giờ tôi cũng đã thành bác sĩ, nhưng ngoại tôi thì đã đi xa lắm rồi…

Bến xe quê tôi thực chất nó chỉ là một khu đất trống gần chợ, sáng thì nó là bến xe, quá trưa thì thành chỗ phơi cá khô của tiểu thương trong chợ, chiều thì thành chỗ đá bóng của trẻ con. Con Luyến nó nhất quyết chờ tôi lên xe rồi mới chịu về, tôi bị nhét ra hàng ghế sau cùng, tôi úp mặt vào cửa kính phía sau xe, nhìn ra cái bóng bé tẹo của nó xa dần xa dần trong lớp sương mờ của buổi sáng miền núi. Sau này có dịp đi ô tô, xe bus, tôi thường chọn cho mình dãy ghế sau cùng, chỗ mà người ta tránh nhất, để thỉnh thoảng nhìn ra cửa kính, tìm kiếm một cái gì đó, một cái gì đó thật mơ hồ…

Chương 5

Trường trên thị xã khác hẳn ở dưới quê tôi, tuy không mát mẻ và nhiều bóng cây bằng nhưng rất rộng và sạch sẽ. Sau hai ngày đầu bỡ ngỡ thì anh con của bác hàng xóm dưới quê cũng tìm được cho tôi một phòng trọ ở gần trường, ở chung với một anh người Tày lành như đất lên thị xã học theo diện chính sách.

Ngoài giờ đi học thì tôi hay lăng quăng ra bờ hồ gần trường để đi dạo, ra sân vận động xem đá bóng, thỉnh thoảng buồn quá thì trèo lên cái cột nước ở gần trường để ngồi ngắm nhà cửa, xe cộ, cây cối bé tẹo ở phía dưới. Học trường mới lớp mới, trong lớp toàn học sinh của thị xã con nhà khá giả nên với bộ dạng hai lúa và khù khờ của mình, tôi hầu như không thể hòa nhập được với bọn chúng. À mà thật ra tôi cũng chả muốn chơi với ai cả, chỉ muốn đi học rồi về, ai hỏi thì trả lời, không thì thôi, có hôm cả ngày tôi không nói tiếng nào. Một thời gian thì tôi bị liệt vào thành phần lập dị trong lớp, nhưng tôi chả mấy quan tâm về điều này.

Cứ đều đặn đầu tháng là mẹ kế tôi gởi gạo, tiền, mắm muối và những thứ cần thiết lên cho tôi. Tháng nào cũng như tháng nào, chưa một lần bà để tôi đói hay thiếu thốn. Thỉnh thoảng con em tôi nó có biên thư lên, lá thư của nó thường có ba phần, một phần của ngoại tôi, một phần của mẹ kế, và một dòng ngắn ngủn của nó cuối thư “Anh Bi ráng học cho giỏi nghen…”. Hầu như lần nào cũng chỉ có vậy, nhưng tôi vẫn háo hức khi mỗi lần nhận được thư của nó, nét chữ của nó tròn vo và nắn nót, tôi đọc được nét mặt của nó trong thư…

Mặc dù trường cách nhà tôi cũng không xa lắm, chỉ khoảng 50 cây số, nhưng ngày xưa đi lại khó khăn và cũng sợ tốn kém nên tôi ở một lèo đến giáp Tết cũng chưa chịu về nhà.

Hôm ấy đi học về thì tôi thấy con Luyến đứng trước nhà, tay cầm mảnh giấy ghi địa chỉ. Tôi ngạc nhiên lắm, chạy ngay lại hỏi nó: “Mày đạp xe lên đây à, xa thế mà mày cũng đi được, mày có hâm không đấy?”

Nó bảo với tôi là nó được nghỉ 2 ngày nên lên thăm tôi, nó đi từ lúc 5 giờ sáng bây giờ mới tới. Với lại nó cũng muốn lên xem thị xã nó như thế nào…

Tôi gỡ những thứ linh tinh trên xe xuống cho nó. Gạo, bánh của ngoại, nửa con vịt của cô, và một bọc bánh tráng nướng nát vụn vì đi đường xa…

Tối hôm đấy nó ngủ lại phòng tôi vì tôi không cho nó đi xe về buổi tối, sợ nguy hiểm. Anh người Tày biết ý nên sang nhà hàng xóm ngủ nhờ và cũng vì cái phòng tôi bé tẹo nên không đủ chỗ cho ba người. Nó đi đường xa mệt nên đi tắm rồi lăn quay ra ngủ. Tôi thì ngồi học bài đến khuya…

Phòng của tôi chỉ rộng 12m2 và kê đủ thứ linh tinh rồi nên chỗ ngủ cũng là chỗ ăn cơm, chỗ tiếp khách. Tôi nằm xuống cạnh nó, lần đầu tiên trong đời tôi nằm gần một đứa con gái như thế. Tôi quay mặt vào tường nhưng có cái gì đó thôi thúc, thôi thúc khiến tôi quay sang nhìn nó. Con em tôi học lớp 8 rồi, cũng bắt đầu lớn rồi. Trong ánh sáng mập mờ của cái đèn học tôi chợt nhận ra nó không còn là con bé đen nhẻm dạo trước nữa. Hai năm ở nhà tôi không phải chăn trâu bắt ốc, không phải ăn uống khổ cực nữa nên nó đã mập và da dẻ đã trắng lên rất nhiều. Tôi nằm nghiêng đối diện nó, tự nhiên tôi nhận ra là so với tất cả con gái tôi từng gặp hay học chung, không có đứa nào đẹp bằng nó cả… Nó xinh lắm, xinh ghê gớm, sao bây giờ tôi mới nhận ra nhỉ, hay là tôi xa nhà nửa năm nên nhìn nó lạ đi…

Năm ấy tôi cũng đã bắt đầu dậy thì rồi, cũng vật vã và cào cấu như bao người khác, nhưng chuyện ấy và con gái đối với tôi là một cái gì đó rất mơ hồ và siêu thực. Tôi không biết là mình muốn gì và cần gì nữa, tôi đón nhận sự thay đổi của cơ thể, của tâm lý một cách tự nhiên và thuần khiết nhất…

Tôi nằm ngắm trộm nó đến nửa đêm thì bỏ ra ngoài đi dạo. Tôi sợ chính mình, sợ chính đôi bàn tay run cầm cập thò ra lại rụt vào của mình, sợ chính cơ thể mình. Sợ con bé nằm ngủ ngoan như thiên thần trước mặt mình… Tôi thấy mình thật ghê tởm và xấu xa như con quỷ….

Sáng hôm sau tôi viết giấy xin phép nghỉ học rồi chở đi nó dạo quanh thị xã. Chỉ còn hơn nửa tháng nửa là Tết nên đường phố đẹp lạ lùng, hay là điều gì khác trong tôi khiến tôi thấy nó bỗng nhiên đẹp nhỉ. Tôi cũng không biết nữa, chỉ biết con em tôi nó cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn ngắm những dãy nhà cao tầng, khu chợ nhộn nhịp đông đúc khác hẳn với cái chợ nhỏ vắng teo ở nhà…

Tôi chở nó qua trường tôi đang học cho nó xem, mua cho nó chiếc bánh kẹp trước cổng trường mà ở dưới quê không có, mua cả cho nó một cái bờm kẹp tóc. Lâu lắm rồi tôi mới thấy nó cười, nó cười cũng không giống những đứa con gái khác, có cái gì đó buồn xa xăm, mặc dù tôi biết là nó vui thật…

Lúc nó về, tôi buột miệng bảo nó: “Em đi xe cẩn thận đấy, về nhà thì qua nhà cô Tư gọi điện lên cho anh, cái số anh vừa chép ấy”. Nói xong tôi mới nhớ đây là lần đầu tôi gọi nó bằng em, thôi kệ, tôi thấy tôi và nó cũng đủ lớn để gọi như thế rồi, và tôi biết, điều đó khiến nó vui…

Chương 6

Hai mươi chín giáp Tết tôi mới về đến nhà, bà ngoại với cô tôi chờ sẵn ở nhà tôi từ lúc nào rồi, lúc ăn cơm họ hỏi han tôi đủ thứ rồi lắng yên nghe tôi kể chuyện học trên thị xã, kể về nhà cửa phố phường, về những thứ mà dưới quê tôi không có, về tất tần tật những chuyện xảy ra trong nửa năm tôi xa nhà. Lần đầu tôi đi xa nên ăn cơm gia đình tôi thấy ngon và ấm cúng lạ thường, không chê ỏng eo như ngày còn ở quê nữa. Tôi thấy mình thật dại khi trước đây không biết trân trọng những bữa cơm đông đủ ở nhà…

Tối đấy tôi chở con Luyến đi dạo, tôi bảo nó kể cho tôi nghe chuyện ở nhà, chuyện học hành của nó, chuyện linh tinh xóm làng. Nó ngồi sau tôi thì thầm to nhỏ chuyện anh hàng xóm mới lấy vợ, chuyện con chó ở nhà đẻ được hai con, biết ăn cơm thì nó cắp ra chợ bán, chuyện bà ngoại hay chống gậy sang hỏi bao giờ thì thằng Bi nó về, chuyện về trường cấp 2 mới xây thêm một dãy nhà nữa…

Ngày ấy quê tôi chưa có đèn đường, nhưng vì gần Tết nên nhà nào cũng thắp đèn sáng trưng để gói bánh, để thịt gà thịt heo… Tôi chở nó đi xa tít, ra tận con đập nước ngoài ven, chỗ mà ngày còn ở nhà tôi hay ra tắm với lũ bạn. Ngồi trên bờ đập nước, gió thổi mát lạnh, nói chuyện với nó, tôi phát hiện ra rằng nó đã khác xưa rất nhiều, cũng đã bắt đầu hiểu chuyện chứ không có khù khờ như dạo mới lên nữa… Nó đã lớn thật rồi, chí ít là trong suy nghĩ…

Lúc nằm mơ màng ngủ, nhớ lại lúc ở trên con đập, tôi chợt thấy xao xuyến lạ kì, sao hồi nãy nó cười duyên thế nhỉ, sao hôm nay nó lại kẹp cái bờm của tôi mua cho nhỉ, trông đáng yêu và gọn gàng lắm, không có bù xù như ngày trước… Tôi có tâm trạng ấy cũng là vì lên cấp 3, tôi được đọc cuốn sách về tình yêu đầu tiên trong đời, hình như là quyển ”Đồi gió hú”… Nói cách khác, là tôi đã bắt đầu biết mơ mộng, mơ mộng những thứ mà trước đó tôi cho rằng vớ vẩn và đáng khinh…

Đấy là năm 1995, năm đầu tiên cấm nổ pháo vào dịp Tết. Tết trở nên kém vui hẳn đi. Với lại nhà tôi đang có tang nên tôi cũng chẳng muốn đi đâu, mấy ngày Tết quanh quẩn ở nhà một mình với chiếc ti vi trắng đen có cái chốt vặn cọt kẹt. Mùng 5 Tết thì nó về nhà, nó đi về quê thăm bà nội từ hôm mồng 2, hôm nay phải về để mùng 7 còn đi học lại. Nó bước vào nhà, mặc chiếc váy màu xanh gấp nếp, áo sơ mi trắng cổ tròn. Đấy là kiểu thời trang ngày xưa của hầu hết tụi con gái quê tôi. Giấu vẻ ngạc nhiên khi lần đầu thấy nó mặc váy, tôi gật đầu khi nó chào rồi tiếp tục hướng mắt vào tivi. Nhưng thật ra, thật ra tôi tò mò kinh khủng, tôi muốn quay sang nhìn nó, nhìn dáng nó trong chiếc váy, nhìn thấy nó lần đầu ăn diện. Tôi cố gắng kiềm chế để nhìn lên tivi, cố gắng không quay sang nhìn nó, cũng không biết vì sao tôi làm lại thế nữa. Tôi chỉ biết là mặc dù nhìn thế, nhưng tôi không biết là tivi đang chiếu cái gì, đơn giản là vì tâm trí và ý nghĩ của tôi thuộc về nơi khác…

Tôi lên thị xã học lại, mang theo nỗi bâng khuâng kì lạ về cô em gái. Hình ảnh nó hôm Tết cứ ám ảnh tôi mãi, nó đi vào cả những giấc mơ, những buổi chiều thơ thẩn, những lúc ngồi trên bồn nước cao, trong lớp học, thậm chí nó lờ mờ hiện ra cả trên mặt nước bờ hồ, khiến tôi phải giật mình cứ ngỡ là đang ngủ gật…

Đến tháng năm, lúc mà ve đã râm ran chuẩn bị vào hè thì cô tôi biên thư lên bảo tôi về nhà gấp. Tôi thấy kì lạ là sao không phải là em gái tôi, mà lại là cô tôi. Giọng của cô trong thư cũng gấp gáp lạ thường. Chiều hôm đấy học xong tôi bắt xe rồi về quê ngay trong đêm…

Chương 7

May là hôm đấy tôi về ngay, chứ còn chần chừ đến sáng hôm sau thì tôi đã không còn được gặp mẹ kế lần cuối nữa. Bà nằm trên giường, vẫn tỉnh táo và nói chuyện được, nhưng bụng rất to như có chửa sắp sinh, da thì tái nhợt. Cô tôi nói, bà bị xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối, trạm xá trả về tối qua…

Con Luyến nó ngồi cạnh mẹ, tay nắm chặt lấy mẹ. Tôi không biết là nó gan lỳ không khóc để tránh mẹ nó buồn, hay là nó đã trốn vào góc nào đó khóc hết nước mắt rồi. Mặt nó phờ phạc đi vì thức đêm trông mẹ, vì lo lắng, vì sợ hãi… Bà ngoại tôi thì khóc hết nước mắt, bà bảo bà có một đứa “con gái” như mẹ là phúc của cả đời bà, phúc của thằng Cảng (bố tôi), phúc của thằng Bi…

Tôi ra ngoài ngồi ủ rũ chẳng biết nói gì hơn, chẳng biết phải làm gì trong lúc này. Một lúc sau thì cô tôi ra gọi tôi vào buồng để mẹ kế tôi gặp. Bà nắm chặt tay tôi, thều thào bảo tôi phải học thật giỏi để đỗ đạt cao, để sau này lo cho con Luyến… Bà nấc lên mấy cái rồi nhắm mắt. Con Luyến thấy thế gào thảm thiết, gào như điên như dại. Cả nhà tôi, bà con chòm xóm đến thăm cũng đồng loạt ôm mặt khóc nức nở. Đến lúc này tôi cũng không nén được nữa, tôi nắm chặt lấy tay mẹ: “Mẹ ơi… mẹ ơi…”. Đấy là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi gọi Mẹ bằng Mẹ. Cái từ mà tưởng như đã chết hẳn trong tôi từ lâu lắm rồi…

Mẹ không sinh ra tôi, nhưng đôi quang gánh của bà đã gánh tôi trên vai, gánh cả những tủi nhục của phận làm vợ kế, gánh cả đứa con gái nhặt được ở ngoài mương về nuôi nấng chăm sóc nó như con đẻ, để nó thành em gái tôi như bây giờ. Tình thương của mẹ mênh mông và rộng lớn quá, đến khi mẹ mất đi rồi tôi mới nhận ra thì đã quá muộn. Ngay cả lúc mẹ sắp ra đi, bà cũng cố dặn cả nhà đừng báo cho tôi biết vì sợ tôi lo lắng mà ảnh hưởng học hành. Thỉnh thoảng có nghe ai đó ru con: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng…” tôi lại nghĩ đến mẹ, nghĩ đến đôi quang gánh của mẹ và cái nhìn trìu mến của bà khi lần đầu gặp tôi: “Cu Bi đây à anh, giống bố nhỉ…”…

Đám tang mẹ xong, tôi lên thị xã thu dọn đồ đạc rồi về ngay. Tôi quyết định bỏ học để theo chú tôi đi xẻ gỗ. Mà tôi có muốn đi học cũng không được nữa vì lấy tiền đâu để mà học, rồi thì ai sẽ lo cho con Luyến. Tôi ở nhà khoảng mười ngày, thấy con Luyến nguôi ngoai phần nào rồi, trong bữa cơm tôi nói với nó: “Mai anh theo chú Bảy đi làm, em ở nhà lo học nhá, cứ nửa tháng anh về một lần”. Nó nghe thế thì quên cả vẻ ủ rũ: “Không được, anh không được bỏ học, anh mà bỏ học thì anh là đồ bất hiếu, không nghe lời ba mẹ, ngày mai anh phải lên trường ngay, ở nhà đã có em lo…”. Nó nói như ra lệnh, người lớn và rất dứt khoát.. Tôi hơi bất ngờ khi thấy nó như thế, nhưng vẫn từ tốn bảo nó: “Không phải anh không muốn đi học, anh đã quyết thế rồi, em ở nhà học cho giỏi đi, không được nghĩ ngợi gì hết.”.

Nó thì nằng nặc bảo tôi đi học, tôi thì cứ ôn tồn nói với nó, giải thích cho nó hiểu. Cuối cùng nói không được nữa, nó mới nói toẹt với tôi: “Em bỏ học từ sau Tết rồi, từ mai em sẽ đi bán bánh thay mẹ, anh cứ đi học… Anh nghe em… anh cứ học thật giỏi… Còn em là con gái, học hành rồi cũng chẳng tới đâu… Em theo mẹ đi bán từ mấy tháng nay rồi…”. Đến đây thì tôi shock nặng, bát cơm trên tay tôi tự nhiên nặng trịch, tôi không còn lời nào để nói với nó nữa. Nó là đứa học giỏi nhất trường tôi, chỉ vào học nửa năm nó đã đứng đầu trường, tôi nghĩ thế nên kì vọng vào nó biết nhường nào, vậy mà vì tôi, vì một thằng chẳng phải máu mủ gì… Mãi rất lâu sau này tôi mới biết, khi phát bệnh, biết mình sẽ không qua khỏi nên Mẹ đã bảo nó thôi học, tập đi bán dần để sau này… nuôi tôi ăn học.

Sáng hôm sau ngủ dậy thì nó đã đội quang gánh đi bán rồi. Nó để lại cho tôi một mảnh giấy nhỏ, dặn tôi đủ điều. Quần áo của tôi nó đã xếp gọn gàng vào ba lô rồi, trong đó còn có một ít tiền được gói bằng giấy báo, bên ngoài là bọc ni lông, cột rất kỹ càng. Đó là số tiền mẹ để lại cho tôi, cô chú và hàng xóm dấm dúi giúp đỡ… Đủ để cho tôi ăn học trong 2 tháng..

Tôi gạt nước mắt, vác ba lô lên trường để tiếp tục đi học, để lại ở quê cô em gái bé nhỏ hàng ngày vẫn nặng nề đôi gánh trên vai, bước thấp bước cao trên những con dốc chợ miền núi “Ai bèo lọc nậm không…”

(Cusiu)

ANH CHƯA TỪNG BỎ RƠI EM

ANH CHƯA TỪNG BỎ RƠI EM

Tiền trong nhà ngày trước cha mẹ để lại đã tiêu hết, người anh trai không đành lòng để em gái ở nhà đợi chết, cậu dùng chiếc xe kéo tự chế của mình đưa em tới một bệnh viện lớn trên thành phố.

Bác sĩ bị tình cảm của hai anh em làm cho cảm động, sau khi họp bàn các bác sĩ quyết định miễn phí làm phẫu thuật cấy ghép thận, người hiến thận tất nhiên là người anh trai câm của cô bé.

Sau đó bác sĩ lại dẫn cậu anh trai vào phòng làm việc, thẳng thắn nói với anh:

“Nếu hiến thận của cậu cho em gái, thì cô bé có thể sống, nếu không hiến, em gái cậu sẽ nhanh chóng qua đời. tuy nhiên nếu trong cuộc phẫu thuật có gì sai sót, thì tính mạng của cậu cũng có thể là không giữ được”.

Người anh trai câm, sắc mặt tái nhợt, trong lòng nặng trĩu, đầy những suy nghĩ, và có chút do dự. Một lúc sau anh ngẩng đầu nhìn bác sĩ và gật đầu vẫn tiếp tục làm cuộc phẫu thuật này cho em gái. Bác sĩ vui mừng vỗ vai anh, bảo anh về nhà đợi.

Không ngờ, buổi chiều ngày hôm đó, người anh trai câm liền mất tích. Vị bác sĩ hỏi Tiểu Tiểu:

“Rốt cuộc anh trai cháu đã đi đâu? Lúc đi có nói gì với cháu không?”

Tiểu Tiểu nói: “Anh nói với cháu, phải về nhà 1 chuyến”.

Bác sĩ thấy có chút kỳ lạ, nhớ đến sắc mặt tái nhợt khi ông nói với người anh trai câm về sự cố không may xảy ra trong phẫu thuật. Ông cau mày nói:

“Sắp đến ngày phẫu thuật rồi, tại sao anh trai cháu còn về nhà làm gì?”

Tất cả đều đã chuẩn bị kỹ càng, chỉ cần đợi người hiến thận là xong, nhưng vào giờ phút này người anh trai câm lại bỗng dưng mất tích, khiến cả bệnh viện náo loạn.

Một ngày nữa lại trôi qua, người anh trai câm vẫn chưa xuất hiện. Tất cả ý tá, bác sĩ trong viện đều biết chuyện, tất cả mọi người đều không nói ra, nhưng trong lòng đều cho rằng anh nhất định vì sợ quá nên đã chuồn rồi.

Do lo lắng Tiểu Tiểu không chịu được sự đả kích này, bác sĩ và các y tá đều không dám nói trước mặt cô bé. Bất kể là như vậy, Tiểu Tiểu từ sắc mặt của mọi người cũng có thể đoán được ít nhiều, trên khuôn mặt của cô bé không còn những nụ cười vui tươi nữa, cả ngày cô bé đều khóc lóc.

Thời gian phẫu thuật cũng sắp đến, lúc đó, có một người vội vội vàng vàng chạy vào phòng bệnh. Thì ra đó chính là người anh trai câm đã mất tích mấy ngày qua của cô bé.

Tiểu Tiểu vừa nhìn thấy anh, dùng những động tác hình thái để nói chuyện với anh, một lúc sau cô bé bỗng khóc òa.

Mọi người có mặt trong phòng đều mơ hồ: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”, cuối cùng vì cảm xúc của cô bé lên cao quá mà cuộc phẫu thuật phải hoãn lại.

Vị bác sĩ tò mò hỏi Tiểu Tiểu: “Tất cả mọi người đều muốn biết, vừa rồi, cháu và anh trai đã nói gì với nhau vậy?”

Tiểu Tiểu lau nước mắt, nghẹn ngào nói:

“Cháu hỏi anh trai về nhà làm gì, vì bác sĩ đã miễn phí tiền viện phí và chi phí phẫu thuật rồi, anh nói với cháu là mấy ngày qua anh về nhà để vào rừng kiếm củi, gánh nước. Với số củi và nước đó cháu có thể dùng trong vòng nửa năm”.

Bác sĩ ngạc nhiên hỏi: “Anh trai cháu sao lại làm như vậy?”

Tiểu Tiểu vừa cười vừa khóc nói:

“Cháu cũng hỏi anh như vậy, anh nói để nếu có lỡ xảy ra chuyện gì trong lúc phẫu thuật, nếu anh có qua đời thì cháu cũng không phải lo về việc không có củi đốt và nước dùng”.

Khi đó mọi người mới hiểu những ngày qua không phải vì anh muốn bỏ rơi em gái ở lại, một mình chạy trốn, mà là vì anh muốn chuẩn bị chu đáo cho cuộc sống của người em sau cuộc phẫu thuật nếu như anh không còn ở bên. Biết chuyện ai nấy đều cảm động trước tình cảm của anh dành cho em gái.

Được làm anh em trong cùng một gia đình là phúc phận của mỗi người. Hãy luôn yêu thương quý mến nhau, vì không phải ai cũng có may mắn hạnh phúc đó. Tình cảm anh em là một trong những tình cảm quý giá mà ai cũng nên trân quý.

Nguồn: Sưu tầm

From: Duong, Paul H  

 CHUYỆN CẢM ĐỘNG VÀ ĐÁNG SUY NGẪM

 CHUYỆN CẢM ĐỘNG VÀ ĐÁNG SUY NGẪM

Một vụ nổ xảy ra tại Donetsk, Ukraine, ngày 20/10/2014

Căn nhà bốc cháy, người chủ trước lúc chạy thoát thân đã nhớ và tháo bỏ dây xích của chú chó trong nhà, hy vọng nó cũng mau theo chủ bỏ chạy ra ngoài. Nhưng không …. con chó này đã không làm như thế mà quay đầu xông vào căn nhà đang cháy.

Đây là điều người chủ không ngờ tới, nhưng lửa mỗi lúc một lớn, họ không tài nào quay trở lại để cứu con chó của mình. Khi người chủ còn đang lo âu nôn nóng, thì con chó từ trong biển lửa xông ra, miệng đang ngậm một chú mèo con.

Con mèo này cũng là thú nuôi của gia đình, cả hai vẫn đùa giỡn với nhau, vậy nên khi ngọn lửa bùng cháy, phản ứng đầu tiên của chú chó chính là đi cứu bạn.

Hành động dũng cảm của chú chó này đã khiến người chung quanh cảm động. Con mèo con thân thể gầy yếu, bị mắc kẹt trong biển lửa, không biết lối nao mà chạy; nếu chú chó không quay lại cứu, mèo con chắc hẳn sẽ chết trong biển lửa.

Trong lúc nguy cấp đó, chú chó không một chút do dự, lao vào biển lửa để cứu người bạn thân. Tình bạn có hậu của nó rất đáng cho chúng ta thán phục.

Chính chúng ta đây, ngay tại thời khắc giữa sự sống và sự chết, sẽ có người chỉ lo cho mạng sống của riêng mình, nhưng chú chó này hoàn toàn ngược lại. Chú không ngại tình huống sống hay chết.

Câu chuyện cho chúng ta thấy rằng hãy trân quý cuộc sống, ngay cả của những con vật, và tất cả mọi thứ xung quanh bạn, bởi chúng đều có linh tính và tình cảm.

Xin chuyển cho mọi người để càng nhiều người hơn nữa biết được câu chuyện cảm động này.

St.

Image may contain: outdoor

Ðầu Ðường Xó Chợ – 1934 – Nhất Linh

Ðầu Ðường Xó Chợ – 1934

Nhất Linh

Từ năm thầy tôi mất, anh chị tôi rời bỏ chốn quê nhà đi tha phương cầu thực, đến ở một túp nhà tranh ở ngay đầu chợ C… Bắt đầu từ đó, tôi bỏ cái đời cũ là cái đời một cậu con quan ăn sung mặc sướng, bước chân vào một cuộc đời riêng mới cho tôi: tôi gọi là cái đời đầu đường xó chợ.

Năm ấy tôi mới mười ba tuổi.

Cái xã hội xó chợ ấy khác hẳn với cái xã hội quí phái của tôi ngày trước: này gia đình bác Tèo bán bánh đúc, vợ chồng bác xã Tắc kéo xe, mẹ con nhà hai Lộc bán nồi đất.

Từng gia đình nho nhỏ lúc nhúc trong những gian nhà xiêu vẹo, tối tăm, bẩn thỉu. Trước nhà một cái rãnh nước dài, đầy những vỏ dưa, lá chuối, giẻ rách.

Thật là một xã hội xấu xa, mà xấu xa vì nghèo khổ quá. Tự nhiên tôi đem lòng mến những đứa trẻ cùng trạc tuổi tôi của những gia đình hèn hạ ấy: cái Nhớn, thằng Cu, con Tẹo là bạn tôi cả. Tôi đã trông thấy chúng ăn cả bữa cơm có dúm muối, vài quả cà thâm hay đĩa rau sam luộc, tôi đã thấy chúng nhặt những gốc mía người ta vứt đi mà chia nhau hít cho đỡ thèm, nên tôi thương; chiều mát tôi đi với chúng ra đồng, xem chúng đặt những cái lờ vào các lạch con để bắt tôm cá. Chúng được nhiều tôm cá, tôi cũng mừng hộ và tôi đợi đến bữa cơm của chúng để xem trong mâm có được thêm đĩa cá rô kho hay mấy con tôm đỏ nào không.

Người mà tôi quí nhất hồi đó là chị Hiên, vợ một người phu xe ở xế cửa nhà tôi.

Nguyên anh chị tôi được lĩnh một cái ty bán thuốc phiện, nên chị Hiên thường lui tới mua thuốc cho chồng. Lần đầu tôi trông thấy chị ta, tôi đem lòng thương hại ngay. Bây giờ tôi mới rõ rằng tôi có cái cảm tình đó vì chị Hiên còn trẻ, xinh và có duyên, lại lấy phải chồng nghiện ngập, xấu xí. Nhưng chị Hiên thì không nghĩ như tôi. Cả ngày chị cặm cụi ngồi đan lờ trong khi chồng đi kéo xe vắng. Hôm nào chị bán lờ được một hào, chị mua cho chồng một hào thuốc thì chị lấy làm vui vẻ, sung sướng lắm.

Chị không nghĩ gì đến thân chị, có cái áo nâu đã bạc, đã vá tay, vá vai, vá lưng mà chị không chịu để dành tiền may cái áo mới.

Trí non nớt của tôi không sao hiểu được cách hành động của chị đối với một người chồng nghiện ngập, hèn hạ như thế.

Một hôm, tôi sang bên nhà chị, thấy chị ngồi gục đầu vào cánh tay, bên cạnh mấy chiếc lờ đan dở. Tôi vào, chị ngẩng lên nhìn, hai con mắt như có ngấn lệ. Tôi vừa định quay ra thì chị ta vẫy tôi lại gần hỏi khẽ:

– Này cậu, cậu có một hào, cậu cho tôi vay, vài hôm tôi giả.

– Tôi làm gì có tiền cho bác vay! Bác vay làm gì?

Chị Hiên lẳng lặng chỉ vào trong buồng. Tôi hỏi:

– Bác giai đau phải không? ốm hay sao mà rên dữ thế?

– Cậu ạ, hai ngày hôm nay, nó lên hai cơn sốt rét, không đi kéo xe được. Nhà không có tiền, tôi phải nhịn cơm từ hôm qua, nhưng nguy nhất là hết tiền mua thuốc. Đã ốm mà cơn nghiện lên thì chết mất. Hay cậu về ăn cắp ở nhà một hào chỉ cho tôi vay.

Tôi mỉm cười, lắc đầu:

– Chiều tối, bác mang tiền lại mua thuốc, tôi thêm cho ít nhiều thì họa may… còn tiền thì tôi không thể nào có được.

Vừa lúc ấy con gà trống to của anh chị tôi nuôi lởn vởn đến bên cạnh mẹt vừng của chị Hiên phơi trước cửa. Chị Hiên tay xua con gà, miệng nói đùa:

– Giá được con gà này mà bán thì chồng tôi tha hồ hút.

Đã khuya, nhà tôi đóng cửa đi ngủ, bỗng có người gọi mua thuốc.

Tôi nhanh nhẹn cầm cây đèn hoa kỳ ra vì tôi biết chắc đấy là chị Hiên mua thuốc cho chồng. Qua khung cửa bán thuốc, một cái bàn tay thò vào cầm một cái vỏ hến trong có một hào chỉ đã nhẵn mặt. Chị tôi cầm lấy đồng hào, nhìn đi nhìn lại rồi nói:

– Đưa hào khác thì bán, hào này nhẵn mặt lắm không tiêu được.

Tôi lo lắm, và tôi chắc chị Hiên đứng ngoài cửa còn lo gấp mấy. Tôi vội bảo chị tôi:

– Thôi, chị cứ nhận cho người ta, mai giả nhà đoan cũng được.

Tôi không dám nói rõ vì tôi biết chị tôi ghét vợ chồng nhà này lắm.

Khi chị tôi cân thuốc xong, quay lưng đi, tôi vội cầm cái que thuốc rỏ thêm vào trong hến một giọt. Lúc đưa cho chị Hiên, tôi bảo khẽ:

– Thêm cho rồi đấy nhé.

Tôi vừa đóng xong cái cửa bán thuốc thì ở ngoài bỗng có tiếng kêu:

– Chết tôi rồi, cậu cho tôi mượn cái đèn, đổ cả rồi!

Tôi đưa đèn ra xong rồi nhìn qua khe cửa, thấy một cảnh tượng không bao giờ tôi quên được; hến thuốc đổ sấp xuống đất, thuốc bắn tung ra thành từng chấm đen nhánh. Chị Hiên cúi xuống lật cái hến lên, cái hến chỉ còn rây một ít thuốc; trong lúc hấp tấp chị lấy ngón tay quệt thuốc dưới đất cho vào hến, nhưng thuốc lẫn cả với đất còn hút gì!

Không làm sao được, chị nhặt cả những hòn đất có dây thuốc để vào bàn tay – Rồi chị cứ ngồi đấy khóc thút thít. Sau thấy chị tôi giục đem đèn vào, tôi phải để mặc chị Hiên ngồi khóc trong bóng tối. Tôi vừa đặt mình xuống giường nằm thì vẳng có tiếng người cãi nhau, tôi chắc là ở nhà chị Hiên, chồng chị đương đánh mắng chị ta.

Sáng hôm sau, tôi sang nhà chị Hiên sớm, thấy chị ta ngồi dựa vào góc, đầu tóc bù xù, vẻ người mệt mỏi, trên trán có một chỗ sưng tím lên. Tôi không thấy mấy cái lờ nan đan dở để đấy, liền hỏi:

– Bác bán lờ đi rồi phải không?

– Không, tôi cất ở dưới bếp.

– Thế hào chỉ hôm qua?

Chị ta thấy tôi hỏi đường đột, nhìn tôi có vẻ sợ hãi, nói một cách hoảng hốt:

– Tôi vay của…. Không! Người ta trả nợ tôi.

– Bác mà có người nợ tiền.

– ấy nợ cũ… đã lâu.

Vừa nói đến đấy thì nghe bên nhà tôi có tiếng người nói to, con đỏ nhà tôi chạy ra ngơ ngác như tìm một vật gì. Tôi hỏi thì nó trả lời:

– Nhà mất con gà, con gà sống thiến to nhất…

Chị Hiên hỏi tôi:

– Con gà nào thế cậu nhỉ!

– Ấy con gà hôm qua nó sang đây mổ vừng của bác ấy.

Chị Hiên thốt nhiên nói:

– Chết tôi rồi! Gà nhà cậu!

Tôi hỏi:

– Làm sao mà chết?

Chị Hiên luống cuống như định nói lại thôi, nhưng cái trí non nớt của tôi đã hiểu rõ, đã đoán ra hết. Tôi ngắm lại chị ta thấy vẻ mặt tái mét, nửa vì đói, nửa vì lo mà tôi đem lòng thương hại vô cùng. Vì hết lòng với chồng phải đi ăn trộm gà lại bị chồng mắng. Tự nhiên tôi muốn tìm cách chống chế cho người đã ăn cắp gà nhà tôi.

Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo chị ta:

– Được! Bác đừng lo, bác để mặc tôi!

Rồi tôi về nhà chạy thẳng ra cổng sau nhìn xuống sông, bảo chị tôi rằng:

– Nhà mất gà phải không, thôi đừng tìm nữa vô ích, hôm qua tôi thấy con gà giống con gà nhà ta đậu ở dưới thuyền buôn nồi đất. Bây giờ họ đi họ cuỗm đi rồi. Còn biết thuyền ai mà hỏi.

Tôi lấy làm tự đắc rằng đã tìm được một kế hay và rất mừng rằng cái kế đó hiệu nghiệm, vì chị tôi coi như mất hẳn con gà rồi, không cho người đi tìm nữa.

Tôi còn bé không hiểu rằng giúp đỡ một người ăn cắp thế là tốt hay xấu, tôi chỉ biết rằng trong lòng tôi lúc bấy giờ vui vẻ lắm, vui vẻ vì cứu thoát được một người khổ sở, đáng thương.

Về sau, tôi càng ngày càng cách biệt với cái xã hội đầu đường xó chợ ấy. Đến nay đã gần hai mươi năm, cái cảnh đời cũ đã lờ mờ trong trí nhớ, nhưng câu chuyện của chị Hiên thì không bao giờ tôi quên được.

Cái đời đầu đường xó chợ ấy ngay từ thủa còn nhỏ đã dạy cho tôi hiểu rằng: muốn cho người ta dễ có lòng thiện thì phải làm thế nào cho người ta khỏi nghèo khổ, mà một xã hội nghèo khổ thì bao giờ cũng dễ thành một xã hội xấu xa.

Nhất Linh – 1934

Image may contain: one or more people and outdoor

Vụ án mẹ già tạt xăng đốt nhà con gái ruột: Bản án nào cho con?

Câu chuyện buồn

Vụ án mẹ già tạt xăng đốt nhà con gái ruột: Bản án nào cho con?

02/11/20

Người mẹ già cô độc, ngồi trong phiên tòa. (Ảnh qua BaoPhapLuat)

Bà Võ Thị Ánh Nga (SN 1940) có tổng cộng 5 người con và nhiều cháu, nhưng bà chỉ sống một mình trong căn nhà tại đường liên khu 1/6 (phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, TP.HCM).

Nuôi lớn cả thảy 5 con cho đến khi dựng vợ gả chồng, nhưng bà vẫn không nhờ được vào đứa nào chăm sóc cho mình. Phần lớn ngôi nhà đang ở, bà cho người ta thuê để lấy tiền sinh sống, đồng thời cũng có người qua lại, trò chuyện cùng bà, khiến căn nhà đỡ trống vắng hơn.

Một ngày nọ, đứa con gái lớn của bà là Võ Thị Ánh Hà (SN 1959) dắt theo cả đại gia đình, gồm chồng và 10 con về tá túc nhờ nhà mẹ. Bà Nga vui vẻ đồng ý, nhưng trong thời gian sống chung, hai mẹ con liên tục cãi vã nhiều lần. 

Lừa đảo mẹ ruột để chiếm đoạt tài sản

Có lẽ từ lâu, người con gái đã có ý định muốn chiếm đoạt căn nhà của mẹ ruột. Do đó, trong một lần, chị Hà thủ thỉ với mẹ rằng, muốn vay vốn ngân hàng 50 triệu để kinh doanh, mong bà Nga đi cùng mình đến văn phòng công chứng làm thủ tục.

Lợi dụng bà Nga không biết chữ, phòng công chứng cũng không đọc nội dung văn bản đã ký cho bà Nguyệt nghe. Thân làm mẹ, mà con cái nhờ vả, bà thương con nên tin tưởng không chút nghi ngờ. Nào đâu, cái chữ ký hôm đó, bà đã chính thức giao toàn bộ tài sản của mình cho người con.

Kể từ đó, chị Hà cũng không còn nhân nhượng với mẹ nữa, mỗi lần có gì không như ý, là chị Hà mắng chửi, ngược đãi mẹ thậm tệ, hai mẹ con cứ liên tục khắc khẩu nhau như thế trong thời gian dài. Bà Nga cảm thấy khó mà sống hòa hợp nên yêu cầu gia đình con gái hãy rời khỏi nhà bà.

Lúc này, người con cũng lật bài ngửa với mẹ, chị Hà gằn giọng:  “Ngôi nhà bây giờ là tôi đứng tên, nếu phải ra khỏi đây, thì người đó chính là bà”.

Bà Nga bị sốc trước lời con gái nói, càng không tin sự thật, rõ ràng bà chưa từng đồng ý sang tên nhà cho con, nên đã lên UBND quận Bình Tân để tìm hiểu.

Lúc này thì bà mới ngã ngửa, hóa ra cái hôm ký giấy thế chấp cho vay mà con gái nói, chính là giấy sang tên chuyển nhượng nhà. 

Hồ sơ lưu ở phòng công chứng Gia Định có ghi rõ ràng rằng, ngày 26/4/2010, bà Nga đến làm hợp đồng nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho con gái là Võ Thị Ánh Hà. Từ hợp đồng này, chị Hà đã làm thủ tục sang tên chị. Ngày 4/6/2010, UBND quận đã cấp sổ đỏ cho “chủ mới”.

Bà Nga đau đớn quyết liệt phản đối, cho rằng mình đã bị lừa, vì lúc ký kết bà không hề hay biết gì cả. Tuy nhiên, giấy trắng mực đen đã rõ ràng, bà Nga chỉ biết nuốt đắng vào lòng.

Có một lần trong lúc tranh cãi với con, bà Nga bị con gái tiếp tục đuổi ra khỏi nhà, bà giận bỏ nhà đi bụi 2 – 3 ngày mới về. Khi về đến nhà, do mệt quá, bà nằm xuống chiếc ghế bố để chợp mắt một chút. 

Nào ngờ đứa con gái thấy mẹ về không những không vui mừng, còn cầm chân mẹ lôi dậy, mắng chửi té tát: “Bà về đây làm gì, biến đi!”.

Âm thầm đốt nhà rồi bỏ đi bụi

Đau đớn trước câu nói của con, bà Nga tức giận không kìm được, canh lúc cả nhà đang nằm ngủ trưa, bà âm thầm đi ra cây xăng, mua 50 ngàn xăng về đổ lên yên 2 xe máy dựng trong nhà. Tiếp đến bà ngắt cầu dao điện, lấy một tờ báo châm lửa ném vào 2 chiếc xe máy. 

Ngửi thấy có mùi khét, cả nhà chị Hà tỉnh giấc, hô hoán nhau chạy thoát ra khỏi nhà an toàn. Vụ cháy đã thiêu hủy 2 chiếc xe máy và nhiều tài sản trong nhà, tổng thiệt hại khoảng 200 triệu đồng. Đứa con bé nhất của chị Hà cũng bị bỏng nặng sau đám cháy.

Bà Nga sau đó cũng bỏ nhà đi mất tích, không ai tìm thấy bà đâu nữa.

Không biết mình bị truy nã, vui vẻ theo công an đi về đồn

Sau vụ án đốt nhà, lệnh truy nã bà Nga được chuyển về phòng Cảnh sát truy nã tội phạm (PC52) Công an TP.HCM, và giao cho trinh sát Nguyễn Thành Công thực thi. 

Trong quá trình tìm bà Nga, tổ trinh sát có đi qua các nhà con cái của bà, nhưng bà không ở với ai cả. Do hành tung bà bất định, nên công an phải mất nhiều ngày mới tìm kiếm ra được nơi trú của bà.

Hóa ra, bà đi bán vé số dạo để kiếm tiền, ăn bờ ngủ bụi ở khắp nơi, trên các con phố, vỉa hè, gầm cầu,… có những đêm mưa to, bà không có nơi trú thân nên người ướt nhẹp, đứng núp ở vỉa hè cả đêm không chợp mắt. Gầm cầu thì trú được mưa, nhưng nơi đó không an toàn, vì là nơi nhiều tay nghiện ngập, giang hồ lui tới, do đó bà không dám ngủ ở đó nữa. 

Bà đi bán vé số dạo để kiếm tiền, ăn bờ ngủ bụi ở khắp nơi, trên các con phố, vỉa hè, gầm cầu,… (Ảnh minh họa)

Nhiều người tội bà nên mách, buổi tối xin vào chùa ngủ nhờ, nhưng bà không chịu được sự cô quạnh nên lại tìm đến vỉa hè để ngủ, chẳng nơi đâu là nơi ở cố định của bà. 

Sau một thời gian lang thang, bà may mắn gặp được một gia đình tốt bụng ở phường Bình Trị Đông A, họ cho bà căng tấm bạt trước vỉa hè nhà để trú tạm, còn cho bà sử dụng chung nguồn nước. Trong nơi ở của bà, chỉ có một túi nilon treo vài bộ quần áo, một túi khác treo một chiếc xoong, vài cái chén…

Người trinh sát khi tìm thấy bà, từ xa xa anh bỗng khựng lại khi nhìn thấy cảnh tượng trước mắt mình. Kẻ tội phạm mà anh sắp bắt về đồn, chính là một bà lão mái tóc bạc phơ, thân hình gầy gò, nhỏ thó, gương mặt bà khắc khổ, bi thương, khiến người khác phải chạnh lòng.

Có lẽ hôm nay bà đã thấm mệt sau những ngày dài vất vả ngoài đường, nên bà đã ngủ thiếp đi trên chiếc võng đang treo vắt vẻo. Dáng vẻ co ro, mệt mỏi ấy, khiến người trinh sát cũng không dám đến làm phiền.

“Có lúc tôi nghĩ, hay quay về, không bắt nữa. Nhưng một phần đó là nhiệm vụ, phần nữa đã có lệnh truy nã, tôi không bắt thì người khác cũng bắt. Tôi cố gắng làm cách nào để bà lão cảm thấy nhẹ nhàng nhất”, Trinh sát Công kể lại.

Đồng thời, sau một hồi suy nghĩ, anh cũng chia sẻ thêm rằng: “Và cuối cùng tôi lại nghĩ đến việc đưa bà lão về quy án, để kết cho ‘xong tội’, phần vì ở trại giam còn không khổ sở như lang thang vỉa hè kiếm miếng ăn; cuối cùng tôi quyết định bắt”. 

Mãi đến 16h chiều, trời lúc này đổ mưa to, hai người trinh sát, kiếm cơ hội chạy đến xin trú mưa dưới tấm bạt của bà. Bà lúc này chẳng hề hay biết họ đến để mang bà đi, nên vẫn niềm nở chia sẻ nơi ở của mình cho những người khách lạ.

Phân vân một lúc, người trinh sát bèn mở lại hỏi chuyện bà: “Cô có phải cô Ánh Nga không? Con nghe nói cô mâu thuẫn với con gái, con là công an, mời cô về phường nói chuyện được không?”. 

Nghe thấy có người hỏi thăm mình, bà tủi thân trút hết nỗi lòng tâm sự, vui vẻ theo những người trinh sát lên xe đi về đồn. Nhưng khi đến nơi, bà mới biết mình là tội phạm bị truy nã, vốn dĩ bà tức con nên chỉ định đốt nhà cho hả giận, chẳng biết như thế là phạm pháp.

Lúc này, bà oán trách, gào khóc, bằng sức lực yếu ớt, bà lao vào đánh người trinh sát như để tuôn cho hết những uất ức trong lòng mình. “Con tôi nó cướp nhà tôi, mấy chú không bắt nó, sao lại đi bắt tôi”. 

Tiếng khóc bà như xé lòng, người trinh sát thì cười buồn: “Những lần khác tìm được đối tượng trốn nã, bắt họ về quy án là tôi thấy nhẹ cả người, sao lần này lại thấy lòng nặng trĩu. Bà có sai cái lý thì bị pháp luật trừng trị, nhưng đúng là vụ án này thấy ẩn khuất cái tình. Con cái đối xử bất hiếu với người có công sinh thành nuôi dưỡng mình như vậy, pháp luật nào xử họ, cảnh sát nào có quyền ‘truy nã’ họ đây?”.

Tại phiên tòa TP.HCM, nơi bà Nga bị kết tội, hết thảy 5 người con, không một người có mặt, chỉ mình bà ngồi bơ vơ, tội nghiệp, lắng nghe những lời phán quyết dành cho mình.

HĐXX nhận định, bị cáo đã già yếu, hành vi cũng xuất phát một phần từ lỗi của bị hại, và bị hại cũng đã bãi nại; nên sẽ giảm nhẹ một phần hình phạt. Tòa tuyên xử bà Nga hai năm tù, cho hưởng án treo, với tội danh Huỷ hoại tài sản.

Nghe toàn tuyên án, bà Nga rơi nước mắt, vì bà không còn nơi nào để đi nữa. Con gái thì ngược đãi mẹ, các con trai đã có gia đình riêng, nên bà không thể ở cùng được.

“Bây giờ được thả, tôi không biết phải ở nhờ nhà ai đây”, bà nói trong nước mắt.

Chẳng ai biết rồi cuối cùng bà sẽ ở đâu, chỉ biết hơn 2 năm sau khi vụ án xảy ra, ngôi nhà cũ của bà, đã được người con gái xây lên 2 lầu khang trang, còn người mẹ già yếu gần đất xa trời, vẫn phải bán vé số lang thang khắp nơi. /-

Chúc Di (t/h)

From: Cam Tuyet & KimBang Nguyen