Người Bảo Trợ Của Tôi ( từ FB Huy Nguyễn Đình)

 Người Bảo Trợ Của Tôi ( từ FB Huy Nguyễn Đình)

Đọc được bài này trong ngày Phụ nữ Quốc Tế (International Women’s Day), thật là có ý nghĩa. Xin được chia sẻ 

 Chồng chết tại một xứ sở xa lạ, bỏ người vợ trẻ  ở lại nhà, mà người đàn bà Mỹ này đã không bước đi bước nữa đã là chuyện lạ rồi. Mà còn cưu mang những người lạ chỉ vì họ đến từ nơi mà chồng bà đã bỏ mình, tình yêu người đàn bà này dành cho chồng thật là hiếm có. Thật là trớ trêu cho dân tộc VN, người cùng chủng tộc thì giết nhau chẳng nương tay dưới chiêu bài “Đánh cho Mỹ chết, Ngụy nhào để thống nhất đât nước, dành Độc Lập”, nhưng rút đi rút lại thì có nhiều người dân Mỹ đã thương yêu, đùm bọc cho dân Việt hơn chính người Việt đối với nhau. Người cộng sản VN đọc bài viết này nghĩ sao? Có biết nhục không?  

 Dân VN trong nước đọc bài này có nhìn ra được cái gì không? Độc lập được 45 năm rồi đó. Sao vẫn có quan thầy chỉ đạo từ phương Bắc.

DH

Người Bảo Trợ Của Tôi ( từ FB Huy Nguyễn Đình)

                          Với lý lịch 8 năm tù trong trại cải tạo CS, gia đình tôi sang Mỹ theo diện H.O. 15, đầu trọc: không thân nhân bảo trợ. Tôi đã trải qua. Ngày cùng vợ con lên phi trường ra đi, cũng là một ngày đầy nước mắt. Cha tôi đã chết đúng ngày tôi lên đường. Ngày đi không thể rời. Chỉ còn cách quỳ lạy xác cha. Tạ từ mẹ già và người thân, tôi lặng lẽ cúi đầu ra đi không 1 người đưa tiễn. Ngồi trên phi cơ mà tưởng chừng như tôi đang ngồi trên đống lửa. 

             Rồi đọan cuối của cuộc hành trình đã đến. Theo chân các hành khách , tôi dắt dìu vợ con ra khỏi máy bay. Ra đón gia đình chúng tôi có một số người Mỹ và VN, tôi còn đang ngỡ ngàng với người và cảnh quá lạ xa nầy thì môït bà đầm Mỹ đến ôm tôi và trao bó hoa, chụp hình lưu niệm. Sau vài sự giới thiệu (mà lúc đó đầu óc tôi trống rỗng) gia đình tôi đươc bà Mỹ bà bảo trợ tên là Helen dẫn ra xe và chở vê một apartment mà bà đã thuê sẵn. Vợ chồng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác khi thấy sự chuẩn bị quá ư đầy đủ của bà bảo trợ: từ cục xà bông, cái khăn tắm, cuộn giấy đi cầu đến cái móc áo… moi vật dụng cần thiết đêu có sẵn, tại phòng khách với chiếc TV hiệu SONY 20 inch mà cả cuộc đời tôi không bao giờ dám mơ ước tới thì nay đã hiện hữu và từ nay tôi không còn phải lội bộ thật xa đến xóm chợ đầu làng để xem những trận đá bóng với cái TV cà rịch cà tang… Còn 2 thằng con tôi thì hả hê với chiếc máy game. Vợ tôi cứ xuýt xoa mãi sao mà họ tử tế quá… tôi còn được biết (qua người VN dịch lại) là tiêøn nhà tháng đầu bà bảo trợ đã tặng cho tôi. Sau khi đã chỉ dẫn những cách xử dụng vài vật dụng cần thiết trong nhà cũng như những điêu không được làm như không mở cửa cho người lạ mặt .v…v… mọi người từ giã ra vềâ riêng bà bảo trợ thì dặn tôi chuẩn bị các thứ giấy tờ cần thiết để sáng mai bà đến đón gia đình tôi lúc 9 giờ. Bà còn nói đùa là nhớ mở cửa cho bà… Cả đêm đó tôi trằn trọc không sao ngủ được dù người tôi mệt mỏi rã rời sau chuyến hành trình dài. Sáng hôm sau và dài dài sau đó, bà bảo trợ đã đón đưa gia đình chúng tôi đi làm những thủ tục lúc đầu như làm thẻ An sinh xã hội, khám sức khỏe, nộp giấy tờ cho 2 con tõi đi học và hướng dẫn vợ con tôi chỉ bảo tôi từ đường đi nước bước cho đến khi tôi bắt đầu thi đậu lái xe thì bà nghĩ rằng tôi có thể tạm quen dần với cuộc sống nên thỉnh thoảng khi có việc cần bà mới đến, tuy nhiên những ngày Chủ Nhật bà thường đưa gia đình tôi đi sau đó về chơi và ăn uống ở nhà bà rồi bà dạy Anh Văn cho vợ chồng tôi.

             Căn nhà bà ởø một nơi thật yên tĩnh và có vườn hoa xinh xắn, qua tâm tình với bà tôi đươc hiểu rõ vê lý do tôi được bà bão lãnh, bà kể lại rằng sỡ dĩ bà chọn bảo trợ tôi vì khi đọc hồ sơ ờ Hội Từ Thiện USCC được biết đơn vị của tôi ngày xưa đóng ởø PLEIKU mà nơi đây chồng bà đã công tác rồi mất tích. Bởi địa danh Pleiku cứ ám ảnh tâm trí bà và trong những giấc mơ, Bà thấy chồng hiện về mặt mũi đầy máu và nói rằng ông đã được 1 người nông dân VN cứu nhưng vì vết thương quá nặng nên ông không sống được! Bà cũng đã cho tôi xem những bức hình chồng bà chụp những cảnh Pleiku như Biển Hồ, núi Hàm Rồng, hình người Thượng mang gùi dẫn nhau từng đàn trên đường ra chợ… tất cả đối với bà là những kỷniệm còn sót lại của chồng bà nhưng đối với tôi là cả 1 vùng trời kỷ niệm thân thương của cuộc đời quân ngũ. Chồng bà đã mãn nhiệm kỳ ờ VN nhưng tình nguyện ở lại công tác tiếp và bị mất tích, bà tự hỏi không hiểu cái gì ở VN đã hấp dẫn chồng bà. Bà còn kể cho tôi nghe vài món ăn VN mà chồng bà ưa thích và nay thì bà đang thực tế cùng ăn với gia đình tôi và tỏ ra thích thú lắm. Tình thân giữa gia đình tôi và bà bào trợ càng ngày càng thấm thiết. Vì không có con cái nên mọi tình thương bà dồn cho 2 đứa con tôi. Thời gian khi con tôi đau phải nằm bệnh viên, ngày nào bà cũng đến chăm nom săn sóc với nỗi lo hiện trên nét mặt như chính người thân yêu của bà.

 Tôi thỉnh thoảng vẫn đến dọn dẹp mảnh vườn nhỏ của bà, bà trả thù lao nhưng tôi từ chối thì bà tế nhị mua cho vợ hoặc con tôi những thứ khác. Bà cho biết bà đang làm việc tình nguyện ở một bệnh viện và thỉnh thoảng bà có cộng tác với Hội Chữ Thập Đỏ. Đôi khi tôi thấy bà đem quần áo về nhà giặt sạch sẽ, ủi cẩn thận và bỏ vào thùng mang đi. Bà âm thầm làm việc liên tục, ít khi thấy bà nghỉ ngơi và lúc nào bà cũng vui vẻ biểu hiện qua khuôn mặt đầy lòng nhân ái. Thỉnh thoảng bà cũng thường hay hỏi tôi về đời sống người dân ở VN. Bà rất quan tâm và thông cảm với những khốn khổ mà người VN đang gánh chịu. Khi biết có bão lụt ở VN, bà rất tích cực đóng góp vào công việc cứu trợ, nhất là bà thường gời tiền giúp cho trẻ em Cô Nhi Viện VN. Một hôm thật tình cờ tôi gặp bà cũng đến hiến máu ở Trung tâm Hiến Máu thành phố, tôi càng thấy thương và kính phục bà nhiềøu hơn. Gặp nhau tại đây, bà nhìn tôi với ánh mắt thông cảm và hài lòng khi thấy tôi cũng hiện diện, nhìn tấm thẻ ghi ngày hiến máu của bà đã gần hết chỗ ghi ngày tháng tôi đựợc biết thêm đây không phải là lần đầu tiên bà đến đây. Tại nơi nầy tôi cũng được dịp quan sát và thấy người Mỹ họ đi hiến máu thật đông mà giới trẻ đi hiến máu cũng không phải là ít, tôi ao ước trong cộng đồng VN chúng ta mọi người động viên nhau đến với Trung Tâm Hiến Máu thì thật là quý báu lắm thay. Sau nầy có lần bà hỏi tôi bên VN có đi hiến máu đông không, tôi thật tình kể với bà rằng tôi chỉ thấy chỉ có những người dân nghèo ở Sài gòn phải đi bán máu để kiếm sống, bà tỏ ra xót xa!

                 Càng gần gũi biết vêà bà tôi càng thương bà hơn. Tôi kính trọng bà như chị ruột của tôi, gặp những gì khó khăn tôi thường đến nhờ bà hướng dẫn và ngược lại bà cũng không giấu tôi những nỗi niềm riêng tư của bà. Bà đã bỏ đi cả quãng đời thanh xuân để sống âm thầm với kỷ niệm mặc dù có bao chàng trai đã đến cầu hôn bà khi bà là 1 thiếu nữ trẻ đẹp. Sự thủy chung của bà như viên ngọc quý giữa cái xã hội thay chồng đổi vợ như thay áo ở xứ Mỹ văn minh nầy. Theo bà công tác từ thiện đã giúp bà vượt qua mọi cám dỗ để đứng vững đến ngày hôm nay. Có lần tôi hỏi bà sao không nuôi chó hoặc mèo cho vui” Bà nói bà cũng thích và thương thú vật lắm nhưng bà phải dành thì giờ làm những công việc khác có ích hơn và tiền mua thức ăn cho súc vật để dành giúp cho người nghèo có được miếng sống thì quý hơn. Từ những suy nghĩ đơn sơ đầy tình người, những giúp đỡ thiết thực của bà đối với người dân nghèo VN và cá nhân gia đình tôi, tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói lên lòng biết Ba. Tôi chỉ cầu xin ơn trên cho bà luôn được mạnh khoẻ để đem tình thương đến cho mọi người. Một hôm bà nói với tôi rằng từ lâu bà ao ước được đi thăm VN một chuyến, nhất là đi đến cái xứ Pleiku đó, bà muốn tôi cùng đi và nói khi nào tôi sẵn sàng đi được thì báo cho bà biết. Qua Mỹ hơn 4 năm, tôi cũng nhớ Mẹ già và quê hương lắm, muốn vềø thăm nhưng ngặt nỗi nếu đi cả vợ chồng và 2 đứa con vào dịp Hè thì quá tốn kém. Như hiểu được khó khăn của tôi, Bà nói sẽ tặng vé máy bay cho cả gia đình tôi. Nói vậy chứ tôi đâu dám nhận vì vợ chồng tôi dã mang ơn bà nhiềøu qúa. Cuối cùng tôi đã báo cho bà là dịp Hè tới được nghỉ, tôi và thằng con trai lớn sẽ cùng bà đi VN, bà vui mừng ra mặt, tôi chưa thấy lần nào bà vui như lần nầy. Bà nói được đi VN là bà mãn nguyện lắm. Bà đưa ra những dự tính phải làm khi đến VN. Thời gian như ngắn lại, bà đếm từng ngày, chỉ còn ba tuần nữa thôi.

              Nhưng rồi tang thương lại một lần nữa ập xuống. Một buổi chiều thứ sáu như thường lệ trên đường từ Hội Chữ Thập Đỏ về nhà, xe bà đã bị 1 xe truck do một tài xế VN đụng phải và bà đã trút hơi thở cuối cùng nơi bệnh viện không một người thân. Nhận tin mà tôi tưởng chừng như xung quanh đất trời sụp đổ, tôi chết lặng hồi lâu. Cuộc đời sao quá oan nghiệt, ước nguyện thật nhỏ nhoi của bà đã không thành. Biết đâu Thượng Đế muốn dành cái chết như phần thưởng cho riêng bà. Biết đâu giờ này bà đã gặp lại chồng bà và 2 ông bà đang hạnh phúc bên nhau nơi miền miên viễn. Có lẽ Thượng Đế không muốn bà phải lặn lội đường xa tìm tin tức chồng trong vô vọng và Ngài cũng không muốn bà phải tận mắt chứng kiến cảnh khốn khổ của người dân VN đang sống duới chế độ phi nhân của CS. Gia đình tôi hoà lẫn giữa đám đông người Mỹ trong đám tang thật cảm đông để đưa tin bà lần cuối, viếng xác bà khi còn đặt ở nhà quàng, tôi thấy măt bà đã được trang điểm thật đẹp, trông bà thật thanh thản và mặt bà như có vẻ mãn nguyện… tôi muốn đuợc ôm từ biệt bà lần cuối và thét lên rằng: “Chị ơi sao đành bỏ em!” Vợ tôi đã ngất xỉu khi quan tài bà hạ huyệt. Sau cái chết của bà, gia đình tôi thấy thật trống vắng, 2 con tôi lúc nào cũng nhắc tới bà với nhiều nhớ thương. Vợ chồng tôi cũng dự định chuyển đi tiểu bang khác ấm áp hơn để hy vọng tìm 1 chút an bình. 

             Nay ngồi ngẫm lại những sự việc xảy ra: ngày bà chết cũng đúng vào ngày cha tôi mất (mùa lễ Phục Sinh). Rồi cả bà và chồng bà đều chết bởi người VN gây ra, tôi không hiểu tại sao có thể như vậy… Lòng tôi quặn thắt khi nghỉ đến bà, gia đình tôi mang ơn bà mà không bao giờ trả đươc. Nhớ thương bà tôi chỉ biết đặt ảnh bà cùng chung với bàn thờ cha tôi, cha mẹ tôi đã sinh ra tôi còn bà đã cho tôi lý tưởng sống. Bây giờ trên bàn thờ cha tôi có thêm bức hình của bà Helen. Chị ngồi đây với cha tôi và hàng năm ngày cúng giỗ cha tôi cũng là ngày tôi cúng giỗ chị. Mộ chị sẽ không quạnh hiu vì có chúng tôi đến với chị như khi chị còn sống trên cõi đời nầy. Sau đám tang bà Helen một thời gian, một hôm tôi sững sờ khi luật sư báo cho biết theo di chúc, bà Helen để lại tặng cho vợ chồng tôi căn nhà của bà và ngoài ra bà còn tặng 100 ngàn đôla cho Cô Nhi Viện ở VN. Khi gia đình tôi phải dọn về căn nhà của ba,ø tôi tự hỏi mình đã làm gì để được hưởng phần thưởng nầy. Suốt cuộc đời tôi phải sống trong ân tình ngút ngàn mà không bao giờ trả được. Trước mộ bà, tôi thầm khấn vái “chị Helen sống linh chết thiêng xin phù hộ gia đình tôi, dẫn đường soi lối cho tôi đi theo lý tưởng của chị: sống vì mọi người.

TAM NGUYỄN

From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

CHUYỆN ÔNG BÀ TÁM…

Image may contain: one or more people
No photo description available.
No photo description available.
Image may contain: 2 people, people sitting, child and outdoor
Stephen Nguyen is with Tu Ma Gan Nguyen and 16 others.

CHUYỆN ÔNG BÀ TÁM…

Ông Tám nặng nhọc xách từng bao giấy toilet, giấy tissue, mấy bao gạo Bông Hồng, vài thùng mì tôm, mấy lố xì líp, sú cheng…đủ thứ hầm bà lằng xắng cấu lôi ra từ cốp xe đem vào garage. Hơn 20 bao Kleenex tổng cộng, chật ních cái xe Kluger của ông. Mỗi bao Kleenex 36 cuộn, nặng cũng tầm vài ký. Ông lẩm bẩm :”mua gì mà dữ thần zậy trời, sợ zìa thiên đường hổng có sao ta, khùng!” Nghĩ bực dọc thế thôi, già rồi , gần 80, mới về hưu được chục năm nên ông cứ từ từ làm theo ý bả , cu ky như tầm ăn dâu, rồi cũng xong.

Bà Tám hôm nay trông hớn hở lắm. Dự trữ được từng này thứ bà xem như một thành tích. Bả “phe “ với chồng, phải ngó dọc liếc ngang, chân nhảy tưng tưng như sáo mới mua được như thế đó, đám trẻ chưa chắc bằng bà nhe.

Còn ông, vốn gốc con nhà nông, thường không ngại khó. Chỉ có điều, già nhân ngãi bao năm, nên ông hiểu tính nết bà Tám, bả bảo sao thì ông làm, miễn cãi, miễn hỏi, miễn bàn, phiền sóc óc lắm. Tiền hưu hai người thì bả thâu về một mối, một tay bả quán xuyến. Được cái bả hổng dám xài tầm bậy, chỉ xài…tầm bạ không hà:-)))

Nhớ cái thời còn ở Giồng Ông Tố, Thủ Thiêm, cầu tiêu thì nhà có nhà không, nhà không có thì đi nhờ nhà có. Đa số làm kế hông nhà, mé sông, nối miếng ván ngắn từ trong nhà ra, miếng ván dài từ ngoài đường vào, tiện cho chòm xóm nhà ai không có cầu tiêu mà muốn đi nhờ khỏi cảm thấy ngại ngùng. Cầu tiêu kiểu này mọi thứ thải thẳng ra sông biển, nuôi cá, nuôi tôm. Được cái thích thú là ngồi lúc gió nhẹ hiu hiu thì mát cái mông phải biết; còn gặp lúc gió mạnh thì lại tạo cảnh “đong đưa, lúc lắc” trữ tình, cảm giác thật thú vị râm ran.

Thời đó dân quê chỉ biết giấy quyến gói thuốc hút, giấy báo gói đồ chứ làm gì có giấy cuộn để chùi này chùi kia như thời nay. Lá mít, lá chuối, lá ổi … trong vườn là những mặt hàng chiến lược thiên nhiên có từ thời cha ông truyền lại. Xài hoài không hết. Mãi đến tận gần cuối thế kỷ 20 mới bày đặt ra nào là Kleenex , Sorbent, Quilton, Soft Touch…, mọi thứ từ Sài Gòn theo những chuyền phà Thủ Thiêm đổ về vùng này theo sự “lên đời” của cầu tiêu bồn hiện đại mới tuynh nơi mỗi hộ.

Đang miên man lội ngược giòng về quê cũ, bỗng tiếng bà Tám lanh lảnh từ trong nhà vọng ra: “Tía thằng Hai để đám sú cheng , xì líp của tui ở đâu zị?” Ông Tám uể oải đứng dậy từ cái ghế góc vườn, vào garage lôi đám “lôm côm” của vợ ra. Bỗng ổng dại miệng cắc cớ hỏi:” dịch viêm phổi cấp mà bà mua mấy thứ này chi mà dữ zị, zới lại toàn size C, D cupping con gái không hè, tui nhớ bà size E “full circle “ mà! Bà Tám giựt đám đồ từ tay ông rồi lườm ông một cái :”Ông già rồi mà còn rành size này size kia dữ heng. Nói để cho ông mở tai, mở đầu, mở óc ra nè. Nãy ông đi shop mà hổng để ý mấy cái kệ để khẩu trang sạch trơn rồi hả, đến một lúc ông phải xài những thứ này đó nhe, đừng có mà cắc cớ, không chụp giựt được đám này thì có ngày ông phải xài luôn miếng “ Care free” nhỏ xíu thay khẩu trang nha ông! “ Bà Tám vừa nói vừa dứ dứ cái đám “ khô mực” ấy vào mặt ông rồi bỏ đi.

Ông Tám bó tay chẳng nói gì thêm. Ông trở ra vườn, lại miên man suy nghĩ đến con Corona. Xem ra nó nguy hiểm thiệt. Ở Sydney chớ đâu phải nơi cái đất phèn Thủ Thiêm đâu mà như sắp tận thế đến nơi vậy cà? Chánh phủ ông Cót người ta phải bảo đảm mọi nhu cầu của dân chúng khi lâm cảnh nguy hiểm cần kíp chớ. Ai cũng như bả, kẻ dự trữ, kẻ đầu cơ kiểu này có ngày chưa bịnh thì đã ngủm vì giết nhau, giành giựt ba thứ không đâu rồi.

Nghĩ thế, ông lại dại miệng ca cẩm hò lơ:

“ Hò lơ…ơ…ơ…
Đèn Sài gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Sydney ngọn tỏ ngọn thì …quá lu
Bà zìa bà học chữ u….”

Chưa dứt câu bỗng giọng bả vọng ra:
“ Nè, ông đang càm ràm chì chiết ai zậy ông?”

“ A hèm, tui hát bâng quơ vu vơ vậy mà, có gì hông bà?”

Bà Tám không trả lời, im lặng.
Một sự im lặng đáng sợ:-)))

Mùa dịch 05/02/2020

Stephen Nguyễn

Chú Tư Mạnh

Chú Tư Mạnh

Những năm đầu của thập niên 80 , sau 5 năm lưu đày ở Củ Chi , Tôi được về thành phố dạy 1 trường Cấp 3 ở gần nhà . Mỗi tuần chỉ có 12 tiết dạy của 3 lớp cuối cấp, chuẩn bị thi tốt nghiệp phổ thông . Rảnh rỗi dù thời gian này, cả nước đang đói . Nhưng tôi vốn vô lo , đến đâu hay đến đó, quanh quẩn với đồng lương chết đói , sống tạm qua ngày . Chẳng biết làm chi cho hết giờ, lại bày đặt Chơi Chim . Chơi ở vườn Tao Đàn, sáng sáng xách lồng chim , đạp xe ra , tụ nhau lại đấu láo và nghe chim hót . Và cũng từ đó thành lập 1 nhóm cùng ngồi với nhau .

Người cao tuổi nhất nhóm là Chú Tư Mạnh , hồi đó cũng khoảng 50 . Chú cao to như Tây , ăn mặc chải chuốt và thanh lịch như công chức cao cấp thời trước . Giọng rặt Nam bộ và hành xử cũng khá hào phóng với mọi người . Gia đình Chú thuộc loại giàu có , hồi đó đa số đều đi xe đạp hoặc xe gắn máy cũ mèm , Chú chơi xe Honda đời mới do đám viễn dương đem về bán , chiếc nào cũng giá mấy lượng vàng . Đôi khi cuối tuần , Chú lại đến bằng xe hơi Peugeot có tài xế lái . Lúc đầu , ai cũng tưởng Chú là cán bộ có chức vụ về hưu , nhưng dần dần hỏi chuyện hoá ra không phải . Chú là dân buôn bán từ xưa đến giờ . Chuyên bán vàng . Lúc đó nhà nước cấm dữ lắm , nhưng nhu cẩu xã hội vẫn có , nên Chú vẫn tiếp tục nghề xưa , dù là mua chui bán lậu . Chú có đến 3 căn nhà , toàn mặt tiền đường lớn , mà cái nào cũng to . Tụi tui cứ thắc mắc không hiểu với tài sản như thế mà sao gia đình Chú lại thoát được mấy lần đánh tư sản khốc liệt vậy ? Hoá ra là Chú có người em ở rừng về , làm chức gì lớn lắm trong uỷ ban thành phố , nên tài sản Chú được an toàn mà nghe đâu lại càng nhiều hơn khi có sự trợ thủ đắc lực của Chú Em . Sáng nào cũng vậy , Chú đều chơi dĩa bò kho bánh mì có bốn miếng thịt lớn , Chú bảo Chú rất thích món này , ăn hoài không thấy ngán . Thường thường , Chú ăn 2 miếng , còn 2 miếng bà chủ đã biết ý , luôn gói lại đưa Chú mang về cho 2 con chó Fox bé tí tì ti . Thời đó đói ăn , cả tháng làm giáo viên như tôi mới mua tiêu chuẩn được nửa kí thịt heo bạc nhạc với mỡ , nên thấy Chú ăn sáng như vậy , tụi tôi thấy Chú quá sang trọng , nên dù ngồi với nhau , tiếng nói của Chú vẫn có giá trị hơn hẳn . Người giàu sang lúc nào cũng thế , giữa mọi người họ vẫn có vị thế cao hơn 1 bậc , bởi họ nhiều tiền hơn đương nhiên tiếng nói của họ được vị nể hơn . Chúng tôi càng nể Chú hơn nữa khi gặp 2 đứa con của Chú . Chú có 2 đứa con , trai lớn gần 30 , cô con gái nhỏ khoảng 25-26 tuổi . Cả 2 đều rất lễ phép và cũng vừa lập gia đình . Mỗi lần đi đâu xa hoặc cuối tuần về quê chồng quê vợ , con Chú đều ra tận nơi sân chim để chào và xin phép Chú về thăm Cha thăm Mẹ . Lần nào cũng cúi đầu , khoanh tay chào hết mọi người khi đền cũng như lúc đi . Chú hãnh diện về điều này , mà tụi tôi cũng đồng ý về sự hãnh diện đó của Chú . Cái thời buổi nhiễu nhương , ông thằng thay đổi tá lả thế này , nề nếp gia phong lộn tùng phèo mà còn được những đứa con như thế thì hãnh diện là quá đúng rồi !

Nhưng hoá ra là đóng kịch cả, là mưu mô cả . Lần hồi, các màn kịch cứ he hé và lần lượt diễn ra, tụi tôi nhiều khi không tin được , không ngờ cuộc đời lại có nhiều chuyện khốn nạn đến thế . Khi xã hội Việt Nam bắt đầu mở cửa là lúc màn kịch bắt đầu .

Đầu tiên là căn nhà ba tầng ở Bùi Thị Xuân , căn nhà lâu nay giao cho anh con trai lớn ở và bán buôn . Một ngày đẹp trời vợ chồng anh về thưa với vợ chồng Chú là anh ta muốn sửa sang lại để biến thành khách sạn , bởi bắt đầu sẽ có khách du lịch về , doanh nghiệp qua , đón đầu như vậy mới thắng lớn được . Nghe bùi tai quá , vợ chồng chúng nó từ xưa đến nay ngoan ngoãn , biết lo làm ăn , chưa hề làm mất lòng 2 vợ chồng Chú . Thế là sang tên cho chúng để chúng chúng mở doanh nghiệp , xin giấy phép xây cất . Lại còn cho chúng mượn 300 lượng vàng làm vốn . Hai vợ chồng an tâm phần thằng Hai . Chúng nó làm ăn thành công thì mình lo chi tuổi già , xem như chia gia tài trước cho chúng . Giải quyết nhẹ bâng .

Lại đến cô con gái , cũng 1 đêm mát trời , con gái nằm gãi lưng cho mẹ vừa thủ thỉ : Vợ chồng con cũng đã lớn rồi , ba má cho chúng con ra riêng đặng lo cho tương lai . Ba má giao cho tụi con cái nhà ở đường Nguyễn Đình Chiểu đang cho thuê , tụi con dọn về đó mở tiệm vàng , bây giờ nhà nước cho tư nhân mua bán vàng , làm ăn tốt lắm . Ba má vẫn ở nhà này , tuổi già cần yên tĩnh mà ở chung thế này nhiều khi các con của con quấy quá làm phiền ba má . Nói nghe lọt tai quá , nghĩ cũng hợp lí quá , sang tên nhà , đưa thêm 300 lượng làm hàng bán . Lúc đưa vàng , vợ chồng Chú bắt phải có mặt Con Rể , hai vợ chồng cùng ký giấy mượn của vợ chồng Chú 200 lượng , còn 100 lượng kia cho hai đứa bây làm vốn . Thế là xem như xong chuyện của hai đứa con , hai vợ chồng Chú vui vẻ để lại tiếp tục sống cuộc đời hạnh phúc .

Đùng 1 cái , anh con trai lớn không biết làm ăn hùn hạp với ai , phải cầm cố nhà cửa , khách sạn . Rồi 1 ngày cả nhà trốn mất . Vượt biên . Khách sạn bị tịch thu , cửa khoá to đùng với tờ giấy dán chéo ghi : Vượt biên , phản quốc với mấy dấu đóng đỏ lòm . Chú Tư Mạnh ốm mấy tháng , Vợ Chú lên cơn đau tim phải vào cấp cứu . Thôi ! Của đi thay người , chỉ mong gia đình nó đến nơi bình an . Nhưng rồi , tin đến chẳng bình an , anh con trai chỉ đi ra được đến bãi là bị gài bắn chết ngay tại chỗ để bọn dân quân , công an cướp vàng . Cô vợ và đứa cháu bay ra được tàu lớn , nhưng rồi bão đánh chìm đâu đó ngoài biển sâu . Vợ Chồng Chú suy sụp hẳn , Chú vật vờ như mộng du , thương con , thương cháu đến đứt cả ruột . Một năm sau , không chịu thấu nỗi đau , không dằn nổi những cơn đau tim , Vợ Chú qua đời . Đến thắp nhang cho Thím , nhìn thấy mái tóc mới qua mấy đêm đã bạc trắng của Chú , chúng tôi xót xa cho bi kịch dồn dập đổ xuống gia đình của Chú . Cô con gái và chàng rể quấn khăn tang lo hậu sự , nước mắt vẫn lả chã nhưng trong đầu cũng đang tính chuyện mốt mai . Thế rồi khi tro cốt của Vợ Chú an vị ở Chùa , ngày cúng thất đầu tiên , hai vợ chồng cô con gái vẫn còn mang áo tang đề nghị với Chú : Má mất rồi , Ba tuổi đã lớn , ở đây 1 mình chẳng có ai chăm sóc gần gũi , gia đình mình giờ chỉ còn Con với Ba , Ba bán căn nhà này đi , cho chúng con mượn thêm , làm ăn bây giờ hơn nhau ở chỗ vốn nhiều mới mong thắng lớn , về ở với vợ chồng con , để con được săn sóc ba tuổi về già , lúc đau ốm , đỡ buổn lo , quạnh quẽ . Nghe đúng quá mà . Bây giờ chỉ còn mình nó , không ở với nó thì ở với ai ? Một mình giữ tiền chi cho nhiều , đưa cho chúng làm ăn , có phải là sinh lợi hơn sao . Nỗi buồn chưa lắng xuống , nên Chú Tư giao việc bán mua cho vợ chồng cô con gái , dọn về ở cùng con . Thế là cuối cùng , Chú chỉ còn độc ngôi nhà này .

Lúc đầu , ông Con Rể sắp đặt cho Chú ở lầu 1 , lên xuống cho dễ . Phòng này trước đây cháu ngoại của Chú ở , bây giờ nó dọn lên phòng trên . Phòng tiện nghi , có cửa sổ , có máy lạnh , giường nệm êm , Chú tự nghĩ thế cũng tốt , cũng là nhà của mình mà . Chú lại ra Chơi Chim với nhóm , dù không thường xuyên lắm . Tóc Chú trắng xoá , khuôn mặt buồn không còn vui vẻ như trước , nhưng hàng ngày vẫn dĩa bò kho bốn miếng thịt , ăn hai miếng đem về hai miếng cho hai con chó Fox bé tí tì ti .

Nhưng cuộc sống vẫn chưa yên . Hai vợ chồng cô con gái bắt đầu kiếm chuyện . Đầu tiên là mấy con chim . Trước đây ông con rể khi ra chỗ Chơi Chim thường xách lồng ra xe cho Chú , lặt cào cào cho chim ăn , hàng ngày phụ trách vệ sinh mấy lồng chim cho Chú . Bây giờ ông Con Rể ngạo ngược bảo chim cò bẩn cả nhà , trưa nghỉ 1 tí cũng không yên bởi tiếng hót lanh lảnh của nó . Chú Tư tắm chim , phơi nắng cho chim , hắn đi ngang đá lồng lăn lông lốc và bảo : chật chội , vướng víu quá ! Bực cả mình ! Đôi mắt Chú ngày càng buồn , miệng Chú càng ngày càng ít nói . Rồi từ lầu 1 , chúng dời Chú lên phòng sân thượng , ông con rể bảo cho Chú lên đấy để Chú tiện gần gũi với chim , để chim phía dưới mất vệ sinh , thức ăn rơi ruồi bu , kiến đậu , lông chim bay ảnh hưởng sức khoẻ của mọi người . Chú bằng lòng với sự sắp xếp của nó , dù mỗi lần lên xuống cầu thang , Chú phải nghỉ thở mấy lần . Hồi còn ở dưới , đến bữa cô người làm hoặc cháu ngoại còn lên mời Chú xuống nhà ăn cơm . Từ hồi lên trên này , chúng chẳng kêu , chẳng báo . Khi nào đói , Chú lặng lẽ lần mò xuống ăn . Thức ăn lỏng chỏng như đồ thừa , nhiều lần ngồi ăn , Chú rớt nước mắt . Chú thèm được 1 bữa cơm gia đình sum họp , đầy tiếng nói cười với những ánh mắt thương yêu . Mất hết rồi ! Chẳng tìm đâu thấy nữa . Hàng ngày , Chú xách lồng chim ra ngồi với chúng tôi chốc lát , đó là niềm vui còn sót lại trong ngày của Chú , Chú xem chúng tôi như người nhà , nên những chuyện buồn , bất hạnh của Chú , Chú đều kể cho chúng tôi nghe . Chú vẫn còn ăn món bò kho , nhưng không gói thịt về cho chó nữa vì chúng cũng đã bị cậu con Rể đá chết rồi .

Nghe tin Chú bệnh , nhóm chúng tôi đến thăm Chú . Bước qua cửa , chúng tôi được đón bằng cái nguýt dài của cô Con Gái , cái ánh mắt bực bội của chàng Con Rể . Chúng chẳng chào 1 tiếng , chẳng hỏi 1 câu làm chúng tôi ngỡ ngàng , sao con người biến đổi 1 cách lạ kỳ như vậy ? Chú Tư đón chúng tôi nơi phòng khách , kế bên cửa sổ nhìn ra sân , Chú không dám nhìn thẳng mắt ai , ánh mắt như muốn xin lỗi , ngượng ngùng . Ngồi chưa nóng đít , anh con rể vừa nhả khói thuốc vừa nói vọng vào từ ngoài sân : Ba đưa mấy Chú lên lầu , lát nữa tui có khách . Chú Tư nhìn ra , ánh mắt 1 thoáng như toé lửa , rồi hạ nhiệt ngay , cụp xuống đầy uất hận . Thấy không tiện , tụi tôi rút , ra về cũng không có 1 lời chào . Ai cũng chép miệng : Tội nghiệp Chú Tư . .

Cuối năm 92 , nhóm chúng tôi tản hàng , anh Ba cộng hoà đi HO chuyến áp chót , anh Nam mắt kiếng đi diện đoàn tụ gia đình , tôi bỏ dạy sau 1 màn ác chiến với tay hiệu trưởng vừa nhậm chức , tôi rời bục giảng , mở công ty , chen chân làm doanh nghiệp . Công việc bận rộn , chẳng còn thời gian đâu mà chim với cò , nên cũng chẳng có dịp để gặp Chú Tư Mạnh . Đôi khi gặp đám Chơi Chim ở Tao Đàn , hỏi thăm tin tức về Chú , có người bảo gặp , có kẻ bảo không , định bụng bữa nào ghé thăm Chú 1 bữa . Tình cờ 1 hôm đi qua nhà Chú , thấy người ta đập xây cao ốc mới , hỏi thăm mới biết nhà đã thay chủ , không biết gia đình Chú dọn đi đâu , có người bảo đã đi hết ra nước ngoài . Tôi bặt tin Chú Tư từ đó , lòng vẫn mong chú khoẻ , hy vọng ở nước ngoài , có viện dưỡng lão , Chú được vào đó cũng đỡ khổ thân .

* * *

Tết Nguyên Đán năm 2005 , thay vì tổ chức thăm hỏi , tặng quà cho trẻ bị bệnh ở khoa Nhi bệnh viện Ung bướu như mọi lần , công ty chúng tôi đổi hướng đi đến thăm những người già ở nhà dưỡng lão Thị Nghè . Thấy các bé còn nhỏ đã mắc bệnh nan y , thương cho chúng chưa hưởng gì ở cuộc đời đã mang bệnh chờ chết , đau xót lắm . Nhưng dù sao các cháu khi bệnh , đứa nào cũng có mẹ , hoặc cha , hay ông hay bà thay phiên chăm sóc . Còn ở đây , trong thế giới người già , là nỗi cô đơn cùng cực . Hầu hết các cụ ở đây đều không có gia đình , người thân , hoặc bị con cháu bỏ rơi . Họ cô độc trong những ngày tháng cuối của cuộc đời , họ chờ đợi trong vô vọng những ánh mắt thương yêu của người thân , họ khát khao được nhìn mặt , cầm tay cháu con , nhưng không bao giờ toại nguyện . Họ chậm chạp trong sinh hoạt và chậm chạp đến lần với cõi chết . Những căn phòng ẩm ướt , những áo quần chẳng lành lặn , những gói , những bao không biết đựng gì để đầy trên giường , dưới chân họ . Họ mừng khi thấy chúng tôi đến , họ vui khi nhận được quà , nhưng ánh mắt vẫn nặng trĩu nỗi muộn phiền . Ở cuối phòng , có 1 cụ già cứ lấy tay che mặt khi chúng tôi trao quà , tránh ánh mắt của tôi .

Tôi xong việc của mình , định ra , bỗng Ông Cụ buông tay , vươn cánh tay vẫy vẫy . Ông Cụ gầy gò , da bọc xương , hai xương vai nhô lên như hai mảnh nhọn , bụng trương lên như trống . Tóc lơ thơ rụng gần hết , mắt đục lờ với khuôn mặt nhăn nhúm , vàng khè . Trên khuôn mặt đó , tôi tìm thấy 1 nét quen thuộc của ai đó mình đã từng gặp trong đời . Tôi chưa nhớ ra .

Ông Cụ vẫn vẫy , tôi đi ngược trở lại và ông nắm lấy bàn tay tôi , nói nhỏ : Anh Ngọc phải không ? Có còn nhớ tôi không ? Tôi Tư Mạnh đây . Tôi giật mình , gai ốc bỗng rờn rợn , trời ơi ! Chú Tư Mạnh đây sao . Cuộc đời sao vậy trời . Sao Chú lại ở đây , sao Chú ra nông nỗi này ?

Tôi ngồi xuống ôm chặt lấy Chú , Chú cũng ôm tôi và Chú khóc , nước mắt ướt đẫm vai Tôi và Tôi cũng khóc theo Chú . Hai người ôm nhau khóc 1 hồi , có Ông Cụ giường bên nhìn Tôi với ánh mắt chẳng có chút thân thiện : Con cháu , anh em gì mà bỏ rơi Ông Cụ mấy năm liền , giờ còn khóc lóc gì ? Chú Tư xua tay : Không phải , không phải đâu , người quen thôi mà .

Chúng tôi ra ngoài sân , ngồi trên ghế đá nói chuyện . Tôi hỏi Chú hay là mình qua bên đường uống cà phê . Chú gật , ánh mắt thoáng chút vui . Tôi xin phép cán bộ dẫn Chú ra ngoài . Hai chúng tôi băng qua đường , Chú đi khập khiễng , tôi phải dìu Chú đi . Tôi hỏi Chú muốn ăn gì không , Chú nhìn tôi , ngập ngừng : Tôi … thèm ăn dĩa bò kho … dĩa bò kho 4 miếng thịt và ổ bánh mì thật dòn . Tôi chảy nước mắt ngồi nhìn Chú ăn , Chú ăn ngon lành , miếng thịt trệu trạo trong cái miệng móm mém gần hết răng của Chú .

Và rồi Chú kể cho tôi nghe tại sao Chú có mặt ở đây mấy năm nay .
* * *
Anh biết không , con Hiếu , con gái khốn nạn của Tôi , anh còn nhớ nó chứ ? Tôi đặt nó tên Hiếu mà nó bất hiếu ác nhơn . Nó lấy hết tiền của tôi rồi lừa cho tôi vào đây . Hồi đấy , sau cái lần tôi bệnh mấy anh em vào thăm , thấy chúng nó tồi tệ quá mức rồi , tôi chịu hết nổi nên nói với vợ chồng nó trả vàng cho tôi để tôi đi kiếm chỗ khác ở , dứt tình Cha Con . Nhưng chúng lật lọng , bảo chẳng nợ gì tôi . Tức quá tôi thưa , tôi còn đủ giấy tờ mà . Toà xử chúng phải trả nợ cho tôi . Chúng lần lửa mãi , và có trả tôi 1 lần 10 cây vàng , hẹn cuối năm thanh toán hết . Rồi bỗng dưng 2 vợ chồng nó thân thiện , săn sóc Tôi dữ lắm . Mua đồ này thức nọ cho tôi ăn , sắm áo quần mới cho Tôi mặc , đối xử với tôi rất nhẹ nhàng . Tôi nghĩ , thôi thì con mình đã biết suy nghĩ lại , gia đình , thân thuộc tôi chẳng còn ai , có đứa em trai thì bệnh ung thư chết mấy năm rồi . Làm Cha Mẹ phải biết tha thứ cho con . Được mấy tháng thì 1 hôm nó nói mời cả nhà đi du lịch Nhật Bản , Tôi vui lắm , hăm hở sửa soạn đồ đạc để đi đến 10 ngày . Nhưng đến phút chót , lấy cớ có việc bất ngờ , cả nhà nó ở lại , đành bỏ vé , nên tôi đi 1 mình . Đi du lịch cùng đoàn nên có bạn có bè cũng vui . Hôm đầu điện thoại về , còn nghe nó trả lời , hôm sau cũng còn , nhưng đến hôm thứ 3 thì gọi mãi không được . Tôi sốt ruột nhưng cũng đành chờ cho đến ngày cuối , do vậy chuyến du lịch bỗng mất vui . Nào ngờ khi về đến nhà thì cửa đóng im ỉm , bấm chuông mãi thì có người thò đầu ra nắng , cái mặt lạ hoắc . Hỏi anh ta là ai ? Anh ta hỏi vặn lại Tôi là ai ? Tôi bảo tôi là chủ nhà , anh ta cười hô hố bảo tôi điên , rồi bảo anh ta đã mua căn nhà này rồi , đừng có kiếm chuyện . Tôi như từ cung trăng rớt xuống , mồ hôi ra lạnh cả người và nằm thẳng cẳng giữa lề đường . Hàng xóm thấy vậy chở Tôi đi nhà thương , đến khi tỉnh , được mọi người kể mới biết gia đình nó đi Mỹ định cư cả tuần lễ nay rồi , ai cũng tưởng tôi đã cùng đi với chúng nó . Thế ra Nó lừa Tôi , Nó giả vờ thương yêu Tôi để Tôi mất cảnh giác , nó lừa Tôi đi du lịch để nó giao nhà và ra đi . Nó cướp hết số vàng mà vợ chồng Tôi cho nó vay . Nó khốn nạn thế đấy , nó mưu mô hiểm ác vậy đấy . Thế là Tôi trở thành kẻ vô gia cư . Còn ít vàng tôi để ở nhà , chắc nó cũng lấy đi rồi , tôi chẳng có cách nào để sống nên khi hết bệnh ở nhà thương , nhà-cầm-quyền đưa tôi vào đây ở mấy năm nay .

Tôi nghe mà bàng hoàng , không tin nổi nếu như không gặp Chú Tư ở đây . Tôi không ngờ trên đời lại có những đứa con như vậy . Rồi cuộc đời nó có an lành để sống không ? Con cái chúng sẽ nghĩ gì khi biết được cha mẹ chúng đã đối xử với ông chúng như thế ? Tôi thật sự khiếp hãi khi nhìn thấy con người ta vì đồng tiền mà bán cả lương tri .

Tôi khuyên Chú đi bệnh viện vì thấy Chú yếu quá , nhưng Chú bảo Chú không muốn chữa bệnh , Chú chỉ mong được đi mau để khỏi phải đau khổ và dằn vặt . Chú xin tôi 1 điều là gắng đến thăm Chú và khi nào Chú mất , làm ơn đem tro cốt của Chú để vào chùa cùng nơi với Vợ Chú .

Đó lại là lần cuối cùng tôi gặp Chú , Chủ Nhật sau tôi ghé Chú thì Chú đã đi rồi , trên tay tôi vẫn còn mang cặp lồng món bò kho 4 miếng thịt mà Chú ưa thích . Tôi lặng lẽ mang hủ tro cốt của Chú vào Chùa , làm thủ tục để cạnh hủ tro của Vợ Chú , từ nay 2 vợ chồng sẽ mãi gần nhau và Chú đi được vậy cũng là điều giải thoát cho 1 kiếp người . Mong Chú đến nơi không còn khổ đau , gian dối và lừa lọc . Mong Chú yên nghỉ nghe Chú Tư Mạnh .

Sài Gòn – Tháng Bảy

Đỗ Duy Ngọc

Ông sư Nhà Quê   

Ông sư Nhà Quê   

 “Tưởng niệm cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG – một cựu Tù Nhân Chính Trị – nhân giỗ mãn phần 28 năm ( 29/11/1991 – 2019).”                                            

          BÀI CA KINH HÒA BÌNH 

 VŨ VĂN QUÝ   

Tôn giáo nào cũng có những vị chân tu – những đấng lành thánh – suốt đời hiến thân cho lý tưởng thiêng liêng cao cả của mình đã chọn. Nhiều vị đã cùng sống chết với tha nhân, chết cho đạo pháp và trở nên hiển thánh được đời đời sùng bái tôn thờ. Tấm lòng vị tha chan chứa tình người của họ tỏa ra vô biên không vị kỷ, không đóng khung hạn hẹp ở lằn ranh tôn giáo. Biết bao công đức của họ được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác được kể lại bằng những câu chuyện đầy cảm kích.

Cách nay gần 3 thập niên trên tờ  Đất Mẹ số 38 (Đất Mẹ là tờ báo nguyệt san Công Giáo) chúng tôi đã viết dưới đề tựa ” Nén Hương Cho Hòa Thượng THÍCH THANH LONG” ngay sau khi ngài viên tịch tại Sài Gòn. Từ sau ngày ấy đến nay, nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ cũng có những bài viết về ngài, điểm đáng chú ý là những tác giả này đa số là những tù nhân chính trị người Công Giáo trong đó có một số các vị linh mục đang có mặt tại Hoa Kỳ, những người đã một thời sống cùng với cố hòa thượng ở các trại tù từ Nam chí Bắc, tất cả đều tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ.

Tang lễ cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG ngày 29 tháng 11 năm 1991 được mô tả như một đám rước hết sức trọng thể. Đoàn người tham dự đã phủ kín con đường dài 5 cây số từ cổng Chùa Giác Ngạn đường Trương Minh Giảng Sài Gòn tới Nghĩa Trang Bà Quẹo không chỉ gồm các đoàn thể Phật tử, các thiện nam tín nữ mà có mặt đủ mọi thành phần tôn giáo cũng như rất đông đảo các cựu Tù nhân Chính trị.

Trước năm 1973, Hòa Thượng mang cấp bậc Trung Tá làm Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo cho đến khi thương tọa Thích Tâm Giác đi Nhật bản trị bệnh thì Hòa Thượng mới lên làm Giám Đốc và cũng được thăng cấp Đại Tá tuyên úy từ dạo đó.

Ngày 13/6/1975 bị việt cộng bắt đi cải tạo và đem ra Bắc. Đến ngày 12 /9/1987 được tha trở về lại Chùa Giác Ngạn Sài gòn và mãn phần tại đây.

Ngược dòng thời gian gần 3 thập niên, năm ấy cũng vào mùa thu (1982), trại cải tạo Hà Tây tiếp nhận thêm khoảng 80 tù nhân chính trị (TNCT) từ trại tù Thanh Phong chuyển đến. Đa số thành phần thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị gồm các ngành Tâm Lý Chiến, An Ninh Quân Đội và Tuyên Úy của Quân Lực VNCH.

Trại Hà Tây có tất cả 12 buồng giam. Số TNCT mới đến bị nhốt trong buồng số 7. Buồng này rất kín cổng cao tường, bao quanh chằng chịt kẽm gai vì trước đó được dùng để nhốt các tù hình sự có trọng án nên được canh gác cẩn mật. Việt cộng coi những TNCT này là những đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Khoảng một tháng sau khi thanh lọc kỹ càng  thì việt cộng mới mở cửa cho các linh mục tuyên úy ra ngoài lao động, tuy vậy buồng 7 vẫn chưa được ra sân lớn tập họp điểm số như các buồng khác. Đội Tuyên Úy lúc này do linh mục Nguyễn Quốc Túy (*) – cha Túy là cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân, một mẫu người trẻ năng nổ, ứng phó thần kỳ đã được các vị tu sĩ cử ra đứng mũi chịu sào để điều động đội này xử trí với những thủ đoạn thâm độc của việt cộng. Công việc chính của đội tuyên úy lúc đó là đào đất đắp đường và kéo xe thay thế trâu bò.

Lần đầu tiên tôi được cha Túy mời dự bữa cơm trưa thân mật tại sân buồng 7. Có khoảng chục người trong đó có linh mục Khổng Tiến Giám bào đệ của linh mục Khổng Tiến Giác tuyên úy Bộ Tổng Tham Mưu, linh mục Nguyễn Văn Thịnh cựu giám đốc nha tuyên úy Công giáo, các mục sư Xuân, Điểu Huynh và các đại đức Tâm, Khuê, Tùng và hòa thượng Long. Ngoài đội tuyên úy chỉ có tôi và Đại tá Trần Mộng Chu nha Quân Pháp. Hầu như không phân biệt tôn giáo và cấp bậc, tất cả các vị tuyên úy đều xem hòa thượng Thích Thanh Long như một người anh cả và xưng hô một cách chung chung là thầy Long. Mỗi khi nhắc đến thầy Long thì mọi người đều nói về thầy với niềm sủng ái trọng vọng.

Thoạt đầu khi chưa giới thiệu từng người trong bữa tiệc, tôi ghé vào tai cha Túy hỏi có phải người ngồi trước mặt cha là Thầy Long không thì cha lắc đầu. Cung cách bề ngoài và bộ quần áo mới màu đà còn tươi của vị này làm cho tôi lầm ông với hòa thượng Long. Rồi cha chỉ cho tôi người ngồi đối diện với tôi.

Vóc gầy gò, dong dỏng cao, da ngăm ngăm, hàm răng nhỏ và đen huyền, tóc cạo dúng tiêu chuẩn sư tăng nhà Phật, mặc bộ đồ cũ đơn sơ, khuôn mặt hiền hậu nhưng khắc khổ, toát ra vẻ chân tu như thánh Găng Đi nhất là cặp mắt sáng, sâu, đen láy, rất ít nói nhưng quan tâm lắng nghe mọi người xung quanh. Đó là người ngồi đối diện với tôi. Người đó chính là Thầy Long. Tôi nhìn ông khẽ cúi đầu và ông nhìn tôi với đôi mắt hiền từ trìu mến. Ông đã trao cho tôi một nụ cười thật kín đáo.

Tháng 3/1983, trại Hà Tây sắp giải thể và chuyển hết các TNCT về Nam Hà. Các vị Tin Lành và Phật Giáo được phân tán về các đội lao động. Riêng các tuyên úy Công Giáo chờ phương tiện chuyển ngược về Thanh Phong.

Năm 1985, tôi và thầy Long bị giam chung tại Nam Hà và chính thời gian này tôi được biết thầy nhiều hơn. Có những người đã biết và nói rằng trước ngày di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, thầy đã trụ trì tại một ngôi chùa ở một làng tại tỉnh Nam Định và được đông đảo tín hữu mến mộ. Nhiều đêm tâm sự với thầy trong buồng giam, tôi cố gợi chuyện để biết thêm nhưng thầy là người điềm đạm khiêm tốn chỉ kể với tôi là thầy xuất gia đầu Phật từ lúc 12 tuổi. Quyết tâm tu hành, không muốn vương vấn nợ trần, thầy đổi tên là Nguyễn Văn Long và hầu như hoàn toàn không ai biết được tên thật và quê quán của thầy. Thầy thuộc nhiều địa danh ở Nam Định, khi tôi kể chuyện liên quan đến những vùng Cổ Lễ, Cổ Ra, Văn Tràng, Trực Ninh, Nam Trực, Quần Phương, Lạc Quần v.v. thì bỗng nhiên đôi mắt thầy rực sáng lên và có vẻ thích thú. Tôi đoán có lẽ thầy đã trải qua thời thơ ấu tại một trong những địa danh này chăng?

Thầy nói năm 16 tuổi, thầy chỉ lén về nhà nhìn mặt thân phụ của mình từ trần rồi lại lặng lẽ ra đi. Lý tưởng của thầy là Phật pháp, tình yêu của thầy là tha nhân, thân bằng quyến thuộc của thầy là Phật tử. Thầy có một cuộc sống vô cùng mộc mạc, đơn sơ, đức độ, lúc đi tu cũng như lúc ở tù. Thầy thường nói với tôi : “Tù cũng là tu”. Thầy luôn tự nhận mình là một “Ông Sư Nhà Quê“.Vốn có một tâm hồn thanh tịnh như đóa sen nở trên mặt hồ không gợn sóng lúc nào cũng toát vẻ chân tu khiến người bàng quan thấy thầy là cõi phúc. Đúng như vậy!

Trong thời kỳ đói khát, tù nhân chưa được gia đình tiếp tế thăm nuôi đã có kẻ lấy chiếc lon ghi gô đựng nước uống của thầy nhét đầy thịt heo đánh cắp của trại, lúc bị phát giác không ai dám nhận. Cuối cùng để tránh phiền lụy cho một số người, thầy không ngần ngại đứng ra nhận chiếc lon đó là của thầy mặc dù ai cũng biết thầy ăn chay trường và ai là kẻ ăn trộm lúc bấy giờ. Khi nào trại cho tù nhân chút ít thịt để “bồi dưỡng”, thầy thường nhường cho các anh em đau ốm bệnh hoạn.

Đến khi được thăm nuôi tiếp tế, Phật tử khắp nơi đến thăm thầy hầu như hàng tuần. Những quà tiếp tế, thầy đem chia cho các bạn tù. Quần áo chỉ giữ 2 bộ. còn bao nhiêu cũng đem cho hết. Thầy thường xuống bệnh xá thăm viếng những người đau ốm và đem quà bánh thuốc men  xuống cho họ. Thầy rất quan tâm đến những “con bà phước” (*) bị bỏ quên trong trại. Một vài trường hợp điển hình:

– Anh Khương, Phó Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn Côn Sơn – một người Công Giáo – bị địch bắt ngay trong lúc còn đang mặc sắc phục và bị việt cộng đánh nhừ tử. Hậu quả của những trận đòn thù khiến anh Khương trở thành bại liệt toàn thân và á khẩu. Anh bị mất liên lạc với gia đình từ ngày bị bắt. Gần 13 năm, anh mới bập bẹ nói được một tiếng “dôi, dôi” như đứa trẻ mới học nói. Thầy Long đã đích thân chăm sóc đút cơm, tắm rửa cho anh như một người thân, đặc biệt là khi trại đọc lệnh tha có tên anh nhưng anh không biết về đâu và không thể đi được một mình. Chính thầy Long đã giúp anh một số tiền và nhờ đại đức Tâm được tha cùng một lượt với anh Khương về trước tìm kiếm thân nhân của anh ở tận miền Tây để ra đón anh.

– Anh Nguyễn viết Tân, Đại tá hải quân QLVNCH bị toàn thân bất toại và bệnh nặng trong lúc mọi người ai nấy đều lo cho bản thân mình và tình thương giữa con người đã trở nên mệt mỏi thì thầy Long cũng chính là người tình nguyện chăm sóc anh Tân cho đến khi anh được người nhà ra đón kịp  về rồi chết.

Một trường hợp khôi hài khác là ở trong trại có một anh tên Nguyễn Huệ, “vô tông tích” tự xưng là trung tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23B (?). Có một thời gian anh ta bị giam chung với các tướng lãnh QLVNCH nhưng sau việt cộng phát giác “tướng Nguyễn Huệ”  chỉ là một tên khùng  và bị đuổi ra. Thấy thầy thương người và dễ dãi, “tướng Nguyễn Huệ” thường hay chạy theo quấy quả xin xỏ cơm và thuốc lào. Hễ trông thấy anh ta là thầy tủm tỉm cười, thầy không hề tỏ vẻ khó chịu và còn đi kiếm thuốc lào cho anh ta, tuy thầy chẳng bao giờ hút thuốc.

Tù nhân được tha dần nhưng vẫn còn tồn đọng một số khá lớn trong đó có các đại đức Tâm, Khuê, Xuân, Tùng, Trí, Bình, Ngự, Học, Diệu v.v. Mỗi lần thầy Long được thông báo có thăm nuôi thì các vị này đã sắm sẵn bao bị và tận tình giúp đỡ thầy. Thầy thường nói : ” Hôm nay tôi lại có thánh Veronica đến thăm nuôi “. Đây cũng là dịp thầy tập họp các tu sĩ Phật giáo ở trong trại tù để phân công đi thăm viếng bệnh nhân hoặc cắt cử họ đến tụng kinh và cầu siêu mỗi khi có người tạ thế.

Vào các dịp lễ Noen hay Tết âm lịch, thầy cũng dành dụm chút gạo, đậu xanh, đường tán và khởi xướng việc nấu chè ăn chung cả buồng mang niềm vui nhỏ bé đến cho mọi người và còn dốc hết “hầu bao” giúp các anh em nghèo đói nhất trong trại.

Thầy rất thích nghe tôi đánh đàn và kể chuyện cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn (Francis 0f Assisi) nhất là những câu hát ý nghĩa thâm thúy trong Kinh Hòa Bình. Cứ vào mỗi sáng sớm Chủ Nhật được nghỉ lao động, trong khi tất cả mọi người còn nằm trong mùng thì thầy đã đánh thức tôi và khẽ nói : “Ông Quý ơi ! Dậy cho anh em nghe đàn đi !” Thế rồi âm thanh của chiếc đàn gỗ tự tạo ở trong tù của tôi nhè nhẹ vẳng ra tiếng thay lời trong âm giai cung Mi buồn ” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con…..” hầu như không làm cho ai khó chịu cả.

Tấm lòng cao quý của thầy sáng như ngọn đuốc trong trại tù tăm tối, không những đối với các bạn tù chính trị mà còn lan tỏa  đến cả những tù hình sự giam chung cùng trại.

Như một tấm huy chương vô giá mà trên cõi đời này không thể đem ra so sánh được, thầy đã đối diện với bọn cai tù khát máu, trước họng súng AKA mà không hề nao núng và không sợ chết. Thầy đã được các vị tuyên úy Công Giáo ca ngợi vì đức bác ái và lòng hỉ xả, quên mình và chấp nhận những gì bất hạnh xảy đến. Trong cuốn AKA và Thập Giá của linh mục Phan Phát Huồn, Dòng Chúa Cứu Thế trang 107-108 kể chuyện đám tang của Cha Nguyễn Văn Bản, Dòng Đa Minh, tuyên úy Tổng Y Viện Cộng Hòa chết tại trại giam Yên Bái. Sau khi chôn cất, việt cộng bắt các tù nhân cải tạo lên lớp hội thảo đển lên án và làm nhục người đã chết. Chúng vu cáo cho Cha Nguyễn Văn Bản là một tên ác ôn côn đồ, chạy theo Mỹ Ngụy giết hại đồng bào, một tên có nợ máu đối với nhân dân, một tên lường gạt vv.. Nghe tên Nha cán bộ việt cộng lải nhải nhục mạ một người đã khuất mà người đó vốn là một người đạo đức gương mẫu, không dằn nổi sự bất bình, thầy Long đã đứng lên bênh vực bằng một giọng ôn tồn nhưng cương quyết :

” Tôi được biết Linh Mục Bản ngoài xã hội cũng như ở trong trại cải tạo là một con người đạo đức, được mọi người kính nể…” Tên việt cộng hống hách nạt nộ:

” Anh im mồm ngay. Anh Bản đã bị nhà nước cách chức linh mục của anh ta từ ngày anh bước chân vào trại cải tạo, còn anh, anh đừng có hòng đem cái bọn cha cố vào đây mà hù dọa cách mạng…”  nhưng thầy Long đâu có chịu im cho. Đợi cho tên việt cộng vừa dứt lời thì thầy Long nói tiếp:

” Nếu linh mục đều như cán bộ nói thì làm sao dân chúng tin tưởng và kính mến họ. Mặc dù  cán bộ đã cấm các trại viên gọi các linh mục là Cha và tự xưng mình là con, trại viên nào không tuân thì sẽ phải xử lý, nhưng thưa cán bộ, có ai chấp hành lệnh đó không? Trái lại, đối với công chức nhà nước, trước mặt họ gọi là cán bộ nhưng sau lưng họ gọi bằng thằng việt cộng thì cán bộ nghĩ sao?

Như một con hổ bị trúng đạn, hai mắt hắn đỏ ngầu giận dữ, nhảy chồm tới nhìn trừng trừng vào thầy Long, quát thật lớn văng cả nước miếng vào mặt người đối diện và hắn ra lệnh:

À anh này hỗn thật, yêu cầu các đồng chí đem cùm tên này cho tôi, biên bản sẽ làm sau.

Thầy Long vẫn tiếp tục nói một cách hùng hồn cho đến lúc lính cảnh vệ việt cộng mang AK xông tới còng hai tay ông, ông không tự bênh vực cho mình, ông vẫn bình thản đưa hai tay cho chúng còng để chúng đem đi. Đây thật là hình ảnh một con chiên hiền lành đứng trước kẻ xắn lông mình mà không nói lời than trách như đã được diễn tả trong Kinh Thánh. (Cv.8.32-33).

Cuối năm 1987, thầy Long được tha về. Cởi bỏ chiếc áo chàm cải tạo, thầy lại khoác chiếc áo màu đà. Từ khi trở về Chùa Giác Ngạn, thầy không giữ chức trụ trì như trước, thầy sống trên căn gác xép tại góc vườn nhưng hàng ngày rất đông người đến thăm viếng và ngôi chùa được trùng tu lại trở nên đẹp đẽ khang trang hơn cũng nhờ uy tín và sự quan tâm của thầy. Hầu như ai cũng cảm mến gương hy sinh, lòng can đảm, tánh cương trực của thầy Long. Có những vị Linh Mục không đi cải tạo mà chỉ nghe tiếng thôi cũng muốn đến thăm thầy Long tại Chùa Giác Ngạn. Tôi hỏi Cha Vũ Ngọc Trân, Chánh Xứ Chu Hải tỉnh Phước Tuy, cha nghĩ thế nào khi đến thăm Hòa Thượng Thích Thanh Long tại Chùa Giác Ngạn? Cha đã trả lời một cách không dè dặt: ” Tôi nghĩ Chúa sẽ thưởng công cho bất cứ ai biết khao khát trọn lành, thương người và giúp đỡ bênh vực người. Chúa nói kẻ nào giúp đỡ người đều có công trước mặt Ta. Tôi nghe các cha tuyên úy đi cải tạo về có nói nhiều về ông. Tôi cũng mến mộ ông và việc tôi đến thăm cơ sở một tôn giáo khác đâu có gì làm suy giảm đi lòng kính mến Chúa nơi tôi đâu. Nếu nói đó là một hình thức trao đổi văn hóa thì cũng chẳng sao!” (Cha Đa Minh Vũ Ngọc Trân cũng đã qua đời tại Xứ Chu Hải Bà Rịa ngày 24/2/1992).

Trong thời gian chưa mắc bệnh ung thư nơi xương tọa, phương tiện chính của thầy trong thành phố là “xe đạp ôm”. Thầy thường ngồi trên “poọc ba ga” phía sau để cho một chú tiểu chở đi. Người ta thấy thầy xuất hiện ở nhiều nơi và tình thương của thầy dường như vẫn đặc biệt dành cho bạn tù cải tạo còn trong trại giam hoặc đã được tha về. Khi biết có ai đi xuống trại Z30D thì thầy cũng nhắn lời thăm hỏi, có đôi lúc  thầy gửi một cần xé chôm chôm hoặc vài thùng mì gói xuống phân phát cho anh em chưa may mắn được về xum họp với gia đình. Khi nghe tin có người vừa mất, bất luận ở đâu, không phân biệt tôn giáo, nơi cầu siêu hay chốn làm phép xác, tại chùa hay nhà thờ thánh thất, thầy cũng đều có mặt để phân ưu với gia đình người quá cố, thầy không ngần ngại đến vì “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tôi đã gặp thầy và cùng đứng chung với thầy dưới gốc cây xoài trước tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Nhà Thờ Ba Chuông để chờ tiễn đưa linh cữu của cố Trung Tá Nguyễn Thủy Chung và cố Trung Tá Nguyễn Anh Ly mất vào những năm 1989-1990.

Rất nhiều cựu TNCT nay đang có mặt tại Hoa Kỳ hoặc định cư rải rác trên khắp thế giới vẫn nhắc đến thầy Long. Ký giả Lô Răng tức cố Trung Tá Phan Lạc Phúc và Trung Tá nhà văn Hoàng Ngọc Liên, Ký giả Vũ Ánh… cũng có những bài viết rất sâu sắc về thầy.

                       * * *                                                                            

Tôi chẳng có tư cách gì và cũng chẳng dám đưa ra nhận xét nào để “phong thánh” cho một con người mà tôi quen biết trong một thời gian hạn hẹp. Dưới nhãn quan của một tín đồ Công Giáo, dù sao tôi cũng chỉ là một chứng nhân với biểu kiến riêng, tôi xem Hòa Thượng Thích Thanh Long là một tấm gương rất tốt lành, đáng kính và đáng tôn vinh mà thời đại ngày nay thắp đuốc giữa ban ngày đi tìm cũng khó kiếm. Một người đã hy sinh tất cả để trọn đời đi theo con đường giống như của thánh Phanxicô Khó Khăn tác giả bài ca KINH HÒA BÌNH đã đi.

Thầy Long luôn đề cập KINH LỤC HÒA trong Diệu Pháp Liên Hoa cho các đệ tử. Chính vì thế mà thầy rất thích KINH HÒA BÌNH của thánh Phanxicô lúc ở trong tù thì sau này tôi mới nghiệm ra vì nó ẩn chứa những điều uyên thâm sâu xa nói về đức bác ái và lòng từ bi cũng giống như KINH LỤC HÒA. Tôi không ngờ thầy Long lại là một người bạn tri âm của tôi và ngày nay mỗi khi dạo nhạc hát lên bài ca KINH HÒA BÌNH tôi lại nhớ đến thầy.

Từ cõi bên kia, tôi tin rằng thầy đang mỉm cười và chăm chú lắng nghe tôi hát:

Lạy Chúa từ nhân,  Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người,   Lạy Chúa xin hãy dạy con như khí cụ bình an của Chúa,  Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…

Tôi sẽ nhớ thầy mãi mãi cùng với bài ca KINH HÒA BÌNH trong tiếng tơ đồng của cung Mi buồn.

 VŨ VĂN QUÝ

From: TU-PHUNG

HÓA ĐƠN THANH TOÁN CHO TÌNH NGƯỜI…

     Nhìn ánh mắt, khuôn mặt chú bé ôm em không kìm được cảm giác xúc đ̣ông, thanks người post, ht

Tại một thành phố ở Ấn Độ… có vị thương gia nọ bận rộn cả ngày vì công việc.. mệt mỏi… ông vào một nhà hàng tự thưởng cho mình bữa tối thịnh soạn…

Khi những món ăn đã được dọn sẵn trên bàn… bất chợt ông nhìn thấy một cậu bé đang nhìn trộm ông qua cửa kính với ánh mắt thèm thuồng… hình ảnh ấy như có gì làm nhói tim ông..!

Ông đưa tay vẫy cậu bé.. cậu liền bước vội vào.. theo sau cậu là 1 bé gái nhỏ.. 2 đứa trẻ nhìn chăm chăm vào những đĩa thức ăn còn nóng hổi.. mà chẳng cần biết người vừa gọi chúng vào là ai..?

Vị thương gia bảo chúng cứ tự nhiên mà ăn thỏa thích…

Không nói.. không cười.. cả hai ngấu nghiến ăn hết các món ăn trên bàn một cách ngon lành…

Vị thương gia im lặng.. nhìn hai đứa trẻ ăn đắm đuối.. và khi chúng rời đi.. chúng đã không quên nói lời cám ơn với ông..!

Cơn đói trong lòng vị thương gia lúc ấy được xua tan một cách lạ kỳ.. kèm theo một cảm giác khó tả đang lâng lâng trong lòng…

Mãi một hồi sau.. vị thương gia gọi tiếp các món ăn lần nữa.. rồi từ từ thưởng thức.. đến khi gọi thanh toán.. nhìn tờ hóa đơn.. không ghi số tiền.. mà chỉ là một hàng chữ:

– “Thật đáng tiếc.. tiệm chúng tôi không in được HÓA ĐƠN THANH TOÁN CHO TÌNH NGƯỜI… xin chúc ngài mãi luôn hạnh phúc..!”

Một giọt nước mắt đã rơi từ vị thương gia.. ông quay nhìn người đàn ông đang đứng tại quầy thu ngân rồi gật đầu mỉm cười.. ông ta đáp lại bằng một nụ cười rạng rỡ…

Vị thương gia đã dùng “Đức” đối xử với người nghèo.

Chủ nhà hàng dùng “Nghĩa” đáp lại “Đức” không biết ai hơn ai.?

***** Người xưa có câu: *****

– Ngồi trên đống Cát.. ai cũng là hiền nhân.. quân tử.
– Ngồi trên đống Vàng.. mới biết rõ.. ai mới là quân tử.. hiền nhân.

Tình yêu thương luôn đem đến những sự kỳ diệu từ hai phía :

– “người cho và người nhận”.

Hạnh phúc của TÌNH NGƯỜI là cảm giác bình yên và thật sâu lắng.. xóa tan tất cả những đau khổ và bất hạnh.

Vạn vật tồn tại trên thế giới này đều không thể sống mãi với thời gian.. ngay cả con người cũng không thể đi ngược lại hay cưỡng cầu với quy luật ấy.

– Theo thời gian.. mọi thứ đều biến hóa và thay đổi..

– Tất cả có thể sinh ra hoặc mất đi.. có thể phát triển hay lụi tàn…

– Cái gì có đến chắc chắn sẽ rời đi… không bao giờ là tồn tại mãi mãi.

– Vật chất là ngoài thân.. TÌNH NGƯỜI là vĩnh cửu…

S.T.

From: TU-PHUNG

Để ta nhớ về nhau với niềm yêu thương chứ không phải bằng nỗi đau!

Để ta nhớ về nhau với niềm yêu thương chứ không phải bằng nỗi đau!

      Bà là một góa phụ lớn tuổi, chồng bà đã qua đời sau một tai nạn xe hơi. Kể từ đó, bà sống khép kín, không khóc than, không tâm sự với bất kỳ ai về cái chết của chồng. Hầu như ngày nào, bà cũng ngồi nhìn ra cửa sổ một cách vô định, không nấu ăn, không chăm sóc khu vườn và cả bản thân của mình nữa

Con gái bà đã tìm mọi cách giúp mẹ vượt qua tình trạng bế tắc này nhưng thật vô vọng. Nhiều bác sĩ đã chẩn đoán và điều trị chứng trầm cảm của bà nhưng vẫn hoài công, và đến một ngày người con gái dẫn bà tới gặp một bác sĩ tâm lý.

Lúc đầu, bà và bác sĩ chỉ ngồi quan sát nhau mà không trò chuyện. Trông bà khá trẻ so với cái tuổi bảy mươi, nhưng dường như trong bà không còn chút sức sống.

Người bác sĩ bắt đầu gợi chuyện, hỏi tại sao bà lại đến đây.

– Chồng tôi đã mất – Im lặng một lúc, bà nói tiếp – Các con tôi muốn tôi được khuây khỏa sau cái chết của cha chúng. Nhưng không ai có thể hiểu được cả.

– Tôi hiểu bà như mất đi một nửa cuộc sống của mình. Chỉ có chồng bà mới hiểu được nỗi mất mát ấy. Và cũng chỉ ông ấy mới biết được cuộc sống của hai người trước đây đã hạnh phúc đến nhường nào. – Bác sĩ nói.

Bà quay lại nhìn bác sĩ, đôi mắt màu nâu đen của bà không có một tia sáng nào cả.

– Nếu như lúc này ông ấy đang có mặt tại đây, bà sẽ nói gì?

Bà nhìn bác sĩ một lúc lâu rồi từ từ nhắm mắt lại. Bà bắt đầu nói – như thể đang nói với người chồng thân yêu của mình – về cuộc sống của bà từ khi không có ông. Bà kể cho ông nghe cảm giác của bà khi phải tự mình làm mọi việc mà trước đây hai người cùng làm. Bà cảm thấy thật sự khó khăn khi phải chấp nhận rằng ông thực sự không còn nữa. Bà thấy rằng còn nhiều điều bà chưa kịp làm và chia sẻ cùng ông… Và bà đã khóc, bà khóc rất nhiều như chưa bao giờ được khóc.

Đợi bà qua cơn xúc động, bác sĩ hỏi liệu có còn điều gì mà bà chưa nói với ông không. Bà bảo rằng bà rất giận ông vì ông đã để bà phải sống một mình khi về già, rằng ông đã không thực hiện lời hứa với bà.

– Ông ấy đã dạy cho tôi biết thế nào là tình yêu cuộc sống… 

– Bà tiếp tục kể. Vị bác sĩ vô cùng xúc động và ngạc nhiên khi nghe câu chuyện tình lãng mạn của hai người.

– Giả sử ông ấy đang ngồi đây, trước mặt bà, là tôi đây. Ông ấy sẽ hỏi bà điều gì về cuộc sống của bà trong suốt hai năm qua? – Bác sĩ hỏi.

– Anh ấy sẽ hỏi tôi “Tại sao em lại nhớ anh bằng một nỗi đau đớn vô bờ và hành hạ bản thân mình như vậy? Điều mong muốn lớn nhất trong cuộc đời của anh là mang đến cho em niềm vui mà”. Khi nói xong điều đó, một tia sáng hiếm thấy lấp lánh trong ánh mắt bà. Bà dường như được trở về với chính mình hai năm trước đó.

Qua lần trò chuyện đó, bà dần hiểu rằng không phải cứ đau buồn đắm chìm trong ký ức và giam mình trong một cuộc sống khép kín mới là tưởng nhớ đến nhau. Khoảng một năm sau, bà gửi cho bác sĩ tâm lý một tập gồm các bài viết trích từ tờ báo địa phương về tổ chức từ thiện mà bà đang tham gia – trong đó có những người như bà – cùng lời đề tặng: “Từ trong tuyệt vọng, tôi đã quyết định nhổ neo, căng buồm và lướt sóng ra khơi”.

Đứng trước mỗi một nỗi đau, mất mát nào đó, chúng ta dường như phải lựa chọn cuộc sống một lần nữa. Chúng ta không bắt buộc phải quên đi mọi thứ, nhưng thời gian sẽ chữa lành tất cả, để ta nhớ về nhau với niềm yêu thương chứ không phải bằng nỗi đau!

Helen Keller

Chuyện cô gái trẻ dùng võ đánh mãnh hổ ở chợ Bến Thành (P2)

Năm ông Hai Ất 40 tuổi thì sinh được cô con gái đặt tên là Võ Thị Vuông, và đem hết tài võ nghệ truyền lại cho con, đặc biệt là môn võ đánh hổ…

Lễ khai thị chợ Bến Thành

Năm 1912, chợ Bến Thành được hãng thầu của Pháp tên là Brossard et Maupin xây dựng, đến tháng 3 năm 1914 thì xây xong và tổ chức lễ khánh thành. Thời đấy lễ khánh thành chợ mới được gọi là lễ khai thị. Lễ hội vui chơi diễn ra suốt 3 ngày là 28, 29 và 30/3/1914 thu hút hơn 100.000 người Sài Gòn và các tỉnh lân cận đổ về.

Chuyện cô gái trẻ dùng võ đánh hổ ở chợ Bến Thành (P2)
Chợ Bến Thành lúc mới xây xong tháng 3/1914 chưa làm lễ khai thị. (Ảnh từ ilovesaigon.net)

Lúc này người Pháp ở Sài Gòn đã nghe danh tiếng đánh hổ của anh em ông Ất và ông Giáp, nhưng cũng bán tín bán nghi. Nhân dịp khai thị chợ Bến Thành, họ mời cả hai ông lên Sài Gòn đấu với hổ. Con hổ này được bẫy khi khai hoang đồn điền cao su ở miệt rừng rậm phía bắc Thủ Dầu Một.

Chuyện cô gái trẻ dùng võ đánh hổ ở chợ Bến Thành (P2)
Một con hổ bị bắt. (Ảnh từ anhxua.com)

Ông Ất lúc này đã 60 tuổi nhưng còn tráng kiện, ông không muốn đi mà quyết định để con gái mình là Võ Thị Vuông (còn gọi là Năm Vuông) mới ngoài 20 tuổi đi thay. Trước sự lo lắng của nhiều người, ông Ất chỉ cười và nói ông hiểu khả năng con gái mình, và nếu có gì bất trắc ông sẽ nhảy vào liền không để con mình bị hại.

Ngày khai thị, dân Sài Gòn và các tỉnh miền Tây, miền Đông Nam Kỳ nô nức đến chợ Bến Thành với nhiều lễ hội như múa lân, thao diễn võ thuật, âm nhạc; cùng nhiều hàng hóa như tơ lụa, thực phẩm, v.v.. Buổi tối lại có tổ chức xe hoa, bắn pháo hoa, cùng các loại đèn màu giăng khắp nơi. Người dân tập trung đông vui hơn tết. Nhiều hoạt động vui chơi như hát bội đều không có thu tiền.

Hồi hộp cuộc đấu giữa cô gái trẻ và mãnh thú

Đến buổi xem màn đấu với hổ, ai cũng hồi hộp chờ đợi. Thế nhưng mọi người chuyển từ trạng thái hồi hộp sang ngạc nhiên lo lắng, bởi người đấu với hổ chỉ là cô gái trẻ mới ngoài 20 tuổi, còn người phương Tây thì tròn mắt ngạc nhiên không thể tin được.

Chợ Bến Thành
Chợ Bến Thành năm 1914 (Ảnh từ ilovesaigon.net)

Võ Thị Vuông trong bộ quần áo nai nịt gọn gàng, mang theo ngọn lao có đầu bịt sắt nhọn tiến vào khu vực đấu với hổ dữ.

Hổ trông thấy mồi thì gầm lên rồi nhảy vào vồ cô gái, rất nhanh cô gải nhảy sang một bên tránh được, hổ vồ hụt mồi thì gầm lên xoay mình rất nhanh, đập đuôi rồi tấn công liên tiếp bằng móng vuốt, tát.

Mãnh thú nhanh nhẹn nhưng thủ pháp cô gái còn nhanh hơn, nhảy qua, nhảy lại, lúc tiến lúc lùi, thủ pháp biến hóa khôn lường. Các đòn của mãnh thủ đều không trúng, nó gầm lên khiến người xem sợ hãi.

Sài Gòn xưa: chuyện cô gái đánh cọp lừng danh tại chợ Bến Thành 1914
(Ảnh minh họa qua vietnamvanhien.org)

Biết sức mình không thể mạnh như hổ nên cô Năm Vuông dùng thủ pháp nhanh nhẹn tránh đòn nhằm tiêu hao sức hổ, khi thọc ngược ngọn lao để tránh hổ phủ, xoay sở liên tục tránh đòn của hổ, đồng thời mỗi khi hổ vồ hụt thì dùng cây lao đâm vào khiến hổ chảy máu và dần xuống sức.

Qua mấy giờ giao đấu, người và hổ đều nhuộm đỏ máu. Ở bên ngoài có người lo lắng hỏi ông Hai Ất rằng con ông có sao không, nhưng ông chỉ mỉm cười.

Con hổ dần dần cũng kiệt sức, biểu hiện chậm chạp hơn trước. Lúc này cô gái mới ra tay nhắm vào yết hầu con hổ mà ra đòn chính xác hạ được mãnh thú. Lúc đó cũng đã đến 12 giờ trưa.

Sài Gòn xưa: chuyện cô gái đánh cọp lừng danh tại chợ Bến Thành 1914
Trong cuốn “Những môn võ bí truyền trên thế giới” có ghi lại màn đánh hổ của Võ Thị Vuông.

Màn giao đấu này được xem là kinh điển trong cuộc đấu giữa người với hổ trong làng võ thuật, được ghi lại trong cuốn sách “Những môn võ bí truyền trên thế giới” nguyên tác tiếng Anh của tác giả John F. Gilbey.

Ngày nay ở cạnh làng võ Tân Khánh – Bà Trà có địa danh “Truông Bà Năm Vuông” (trước đây rừng rậm được gọi là Truông). Đây là nơi bà Năm Vuông đánh hổ ở chợ Bến Thành khi xưa từng đánh tan một toán cướp cạn bằng cây đòn gánh trên tay.

Trần Hưng

M.TRITHUCVN.NET
Đến buổi xem màn dùng võ đấu với hổ, ai cũng hồi hộp chờ đợi. Thế nhưng mọi người chuyển từ hồi hộp sang ngạc nhiên lo lắng, bởi người đấu với hổ…

KHI THỨC DẬY KHÔNG THẤY TÔI MÌNH ĐỪNG KHÓC!

KHI THỨC DẬY KHÔNG THẤY TÔI MÌNH ĐỪNG KHÓC!

Câu chuyện về tình già sẽ khiến chúng ta thực sự xúc động và đáng suy ngẫm.

Ông cụ quay sang nhìn người bạn già đi bên cạnh mình, ông mỉm cười:
– Bà này, mỗi buổi sáng, dậy sớm, đi tập thể dục, nghe chim hót, ngắm mặt trời lên, có bà bên cạnh, với tôi cứ như là đã chờ đợi từ lâu lắm rồi.
– Thì ông công tác xa, lại được giữ lại làm cố vấn, tôi ở xa ông cũng quen rồi. Có khi bây giờ ông về, tôi lại chưa quen ấy chứ!
– Cái bà này, tôi kể cả là ở xa, nhưng khi ở bên bà, tôi có thấy lạ gì đâu? Tôi vẫn thấy lòng mình thanh thản lắm.
– Thì giờ già rồi, chỉ mong thanh thản thôi.

Ngày nào họ cũng cùng nhau đi như thế, dưới con mắt ngưỡng mộ của cả người trẻ và người già. Người trẻ nhìn ông bà mà ước: “Ước gì già mình cũng được như thế!”. Người già thì ghen tị vì có người còn có người bạn đồng hành, có người thì không. Nhưng nhiều khi già rồi, lại trái tính, trái nết, mấy ai mà được tình cảm như hai ông bà. Tình già vẫn còn vương, nhất là cụ ông, cũng xấp xỉ bảy mươi tuổi nhưng vẫn phong độ, nhanh nhẹn lắm. Đúng là quân nhân có khác, được rèn luyện qua gian khổ nên mới được như vậy. Cụ bà có vẻ yếu đuối hơn, lưng bà cũng đã không còn thẳng nữa, nhưng khuôn mặt phúc hậu khi nào cũng lấp lánh ánh cười.

***
Ông kéo ghế cho bà ngồi xuống bên cạnh, còn mình thì ngồi chiếc ghế gỗ nhỏ. Ông chăm chú nhìn nồi cháo đang sôi, thỉnh thoảng lại lấy muôi khuấy cho cháo đỡ bị dính dưới đáy nồi. Bà bảo để bà làm cho, nhưng ông nhất định không chịu, ông cười:
– Bao nhiêu năm, chỉ toàn bà nấu cháo cho các con tôi, cho bố mẹ tôi, bây giờ, tôi có nấu cho bà ăn tới hết đời cũng chưa thỏa lòng mà!
Bà nhìn ông, đôi mắt nâu đã nhạt màu vì thời gian ngân ngấn nước, mấy sợi tóc bạc trắng của bà phất phơ trước mặt. Bà vén mấy sợ tóc cho gọn rồi nhìn ông:
– Thứ tôi nuối tiếc duy nhất là khi còn trẻ chúng ta không được sống gần nhau. Ông là một người đàn ông dịu dàng. Nhưng bây giờ, ông về rồi. Với tôi thế là đủ!
Ông nhìn bà, ánh mắt lấp lánh niềm vui và ngập tràn yêu mến. Đúng là khi già, người ta mới cần người làm bầu làm bạn, có người sớm tối bên nhau, câu chuyện câu trò thì cùng nhau ăn bát cháo trắng cũng ấm lòng biết mấy.
Bà nhìn giàn mướp trổ đầy hoa vàng, những con ong mật từ đâu kéo về bay vo vo trước hiên nhà. Ánh nắng buổi sáng chưa gắt, chút gió mát thổi lại khiến không khí thoáng dịu vô cùng. Bà nhắc ông:
– Thằng cả nó bảo hôm nay nó cũng nghỉ phép đưa cả vợ con nó về đấy. Ông tính mua cái gì về làm cơm bây giờ?
– Ôi dào, bà kệ chúng nó, nó về khắc biết mua gì mà ăn. Bà chăm nó mấy chục năm, phải để nó chăm lại bà chứ?
– Nhưng mà chúng nó về đây, biết cái gì mà mua.
Ông nhìn bà, ánh mắt cười vẫn không đổi.
– Thì mua được cái gì, ăn cái đó!
Bà cũng cười nhìn ông:
– Vậy thì nghe ông!

Ông bưng hai bát cháo để lên chiếc bàn nhỏ ở góc sân, hai ông bà ngồi ăn cháo và nói chuyện gì đó rất vui, khiến bà cứ nhìn ông rồi tủm tỉm cười hoài. Những nếp nhăn trên mặt cứ xô vào rồi lại giãn ra, như dấu bước của thời gian, cứ im lìm, lặng lẽ nhưng không thể xóa nhòa.

***

Khi còn trẻ, hai ông bà cùng mệnh Kim nên người ta nói, ở với nhau rất hay va chạm. Bà là người phụ nữ thông minh, lại chịu thương chịu khó, nhưng cũng khá bướng bỉnh, nên khi nào ông cũng là người nhường nhịn bà.

Ông cười:
– Thua ai mới sợ, chứ thua vợ là đương nhiên! Này nhé: Tôi làm sao mà đẻ được hai đứa con vừa ngoan ngoãn như bà, làm sao mà một lúc chăm cả bốn đứa trẻ (ý ông nói là cả bố mẹ chồng, các cụ xưa chả có câu: “Một già, một trẻ bằng nhau” mà). Bà lại còn biết sửa điện, biết tháo lắp các đồ điện trong nhà bị hỏng. Bà biết nấu những món ăn ngon mà chỉ về nhà, tôi mới được ăn. Nói chung là vì bà vĩ đại như thế nên tôi thua là cái chắc.

Có lẽ suốt cuộc đời bà, chưa khi nào phải cãi nhau với ông, vì ông lúc nào cũng yêu thương và tôn trọng bà.
Trong thâm tâm bà cũng vậy, khi còn trẻ, lấy ông vì yêu ông, và cho tới tận bây giờ, tình cảm đó vẫn không thay đổi. Ngày ấy trẻ, những lần ông về, khi nào hai ông bà cũng nằm tâm sự tới khuya, có lần bà ôm ông nói:
– Sau này chúng mình già, anh không được chết trước em, em không muốn sống cô đơn một mình. Em đã sống cô đơn một mình nhiều rồi, nay mai anh về, em không muốn mình lại phải một lần nữa sống như thế. Vì vậy, nhất định anh phải sống lâu hơn em đấy! Em sẽ rất sợ nếu một sáng nào đó em tỉnh dậy và chỉ còn lại một mình. Em sẽ khóc đến hết nước mắt! Em không muốn sống cô đơn không có anh lần hai. Anh nhớ nhé!

Từ đó, bà thấy ông ít uống яượu hơn, nghe nói, ông còn bỏ cả thuốc lá mặc dù ông nghiện nặng. Không phải vì ông muốn sống lâu hơn bà, mà vì ông muốn, khi về già, ông phải khỏe mạnh hơn bà để có thể chăm sóc bà, và cũng có thể, để sống bên bà tới cùng thì thôi. Ông cũng sợ phải sống một mình, nhưng ông sợ bà phải sống một mình hơn. Nhưng nỗi niềm ấy, ông không nói cho bà biết. Đàn ông thường là thế. Yêu ai yêu hơn cả tính mạng của mình, nhưng vẫn cứ lặng lẽ mình mình biết, mình mình hay.

***

Từ ngày có ông về nhà, bà vui vẻ lên nhiều, sức khỏe cũng tốt hơn, bệnh huyết áp thấp của bà cũng đỡ nhiều. Sáng nào ông cũng dậy sớm hơn, đánh thức bà và họ lại nắm tay nhau đi tập thể dục. Vậy mà đột nhiên mấy hôm nay, khi nào bà tỉnh dậy cũng chỉ thấy có một mình trên giường, ông thức từ khi nào? Ông đã đi tập thể dục một mình sao? Bà thầm nghĩ: “Cái ông này, làm gì cũng được vài bữa”. Thật ra, cái “vài bữa” bà nói ấy cũng đã hơn ba năm rồi.

Bà dậy, mặc thêm cái áo len, trời sang thu nên buổi sáng hơi lạnh. Bà thấy ông từ đằng xa, tay xách túi đồ ăn sáng, khuôn mặt có vẻ đăm chiêu, nhưng vừa nhìn thấy bà, ông lại mỉm cười ngay được. Bà nhìn ông, người đàn ông cao lớn, đẹp trai ngày nào, rồi cũng thành một ông già, thời gian trôi cứ ngỡ mới là hôm qua. Thời gian cũng thật khắc nghiệt với con người và với cả tình yêu.

Thấy vẻ mặt suy tư của bà, ông cười:
– Bà lại đang nghĩ gì thế?
– Tôi chỉ nghĩ không biết ông đi đâu?
– Tôi đi mua bánh khúc của bà Dần đấy. Món này bà thích nhất mà. Bà ấy làm bánh khúc cũng ba, bốn chục năm rồi ấy nhỉ?
– Bánh khúc của bà ấy thì chẳng ai làm ngon được bằng ông ạ. Từ ngày hai đứa con nhà mình mới hai, ba tuổi đã ăn bánh của bà ấy rồi. Mà ăn bánh khúc của bà ấy rồi thì đi ăn ở đâu cũng không thấy ngon nữa.
– Nhưng vừa rồi bà ấy bảo, bà ấy bán nốt tuần này thôi. Bà ấy thấy mệt rồi.
Bà thở dài, nhìn ông:
– Thì chúng ta già cả rồi mà. Mà sao dạo này không thấy ông đánh thức tôi dậy cùng thế?
Ông nhìn xa xa, rồi quay lại nhìn bà, ánh mắt vẫn âu yếm như thế:
– Tôi thấy bà ngủ ngon quá, nên không đánh thức bà dậy.
– Lần sau, ông cứ đánh thức tôi dậy đi cùng ông!
Ông biết tâm tình của bà. Ông đưa tay nắm lấy tay bà, bảo:
– Thôi, tôi với bà về ăn bánh khúc nào!
Nhưng rồi tất cả những buổi sáng sau nữa, ông vẫn không đánh thức bà. Khi nào tỉnh dậy trên giường, bà cũng chỉ thấy có một mình. Lúc đầu bà có chút hốt hoảng, nhưng sau vài buổi sáng, bà biết, ông không đi đâu xa, ông chỉ đang ngồi ở ngoài sân hoặc lại đi mua đồ ăn sáng, nên bà vẫn thấy an lòng. Bà chỉ thấy thắc mắc, dạo này nhiều lúc vắng bà, ông lại trâm ngâm đến lạ. Có lần bà về rồi, nhưng ông không biết, khuôn mặt ông nặng trĩu suy tư. Chợt bà thấy lòng mình có chút bất an.
Ông đang ngồi nấu cháo bên chiếc bếp than nhỏ quen thuộc ở góc sân, nhưng nồi cháo đã trào cả ra ngoài mà ông không biết. Bà cầm chiếc áo khoác lên người ông rồi mở vung nồi cháo cho đỡ trào. Giọng bà vẫn dịu dàng như mọi khi:
– Buổi sáng cuối thu rồi, trời sắp chuyển lạnh đấy ông ạ. Mà dạo này, tôi thấy ông gầy đi!
Ông đưa mắt nhìn bà, miệng nở một nụ cười:
– Bà yên tâm, tôi ốm sao được!
– Nhưng dạo này, tôi thấy ông cứ suy nghĩ đi đâu ấy!
– Tôi thì nghĩ đi đâu được ngoài bà.

***

Mấy tháng sau, người ta không còn thấy hình ảnh hai vợ chồng già dắt tay nhau đi dạo nữa. Mà chỉ thấy có một mình bà cụ đi vào mỗi buổi sáng. Khuôn mặt bà không còn rạng rỡ như ngày nào. Đôi mắt dường như mờ đục hơn, như được phủ mờ bởi một lớp sương mỏng. Bà đi quanh một vòng rồi lặng lẽ về nhà, nấu cháo, múc hai bát và đặt trên bàn. Bà ăn cháo và ánh mắt bà lại lấp lánh ánh cười.
Một năm sau, đúng ngày ông mất, bà cũng ra đi. Khi con gái dọn dẹp đồ đạc của cha mẹ mới phát hiện ra lá thư của ông viết cho bà, nét chữ run run, nhòe ướt, không biết vì nước mắt của ông khi viết hay của bà mỗi khi đọc, cô chỉ thấy những nếp gấp gần như bị rách ra:

Mình à!

Tôi muốn được sống lâu hơn mình để có thể nấu cháo cho mình ăn mỗi sáng, đánh thức mình dậy mỗi sáng và để mình không phải sống cô đơn một mình những năm tuổi già. Khi trẻ, tôi đã để mình sống cô đơn như vậy. Tôi muốn bù đắp lại cho mình.
Những ngày tháng này là những tháng ngày hạnh phúc nhất đời tôi. Khi được sống bên mình, được chăm sóc cho mình để bù đắp những tháng ngày tôi không làm tròn trách nhiệm của một người chồng. Nhưng ông trời không chiều lòng người rồi.
Tôi biết, nếu đột ngột một sáng nào đó mình tỉnh dậy và không còn thấy tôi ở bên cạnh nữa, chắc hẳn mình sẽ không chịu nổi đâu. Nên khi tôi biết tôi bị ung thư giai đoạn cuối, tôi biết tôi sẽ chẳng sống được lâu nữa. Tôi đã hết sức lo lắng bởi tôi lại thất hứa với mình rồi. Sáng nào tôi cũng tỉnh giấc trước mình và để mình lại đó. Tôi muốn mình quen cảm giác ấy đi. Để sau này khi tôi đi rồi, mình không quá hụt hẫng. Không biết mình đã quen chưa, nhưng dù sao, khi thức dậy một sáng nào đó, không có tôi bên cạnh, mình cũng đừng khóc đấy!

Khi không có tôi bên cạnh, mình vẫn phải chăm sóc bản thân và sống vui vẻ. Nếu mình cảm thấy cô đơn quá, thì có thể về ở với thằng cả. Vợ chồng nó sẽ thay tôi chăm sóc mình.

Tôi vẫn chưa nói câu này với mình: Tôi yêu mình!.

Bức thư trên tay cô gái chữ đã nhòe gần như không đọc được nữa. Lau nước mắt, cô gái lặng lẽ đặt bức thư của bố dưới bức ảnh của mẹ trên bàn thờ. Dù không thể cùng đi với ông, nhưng cuối cùng bà cũng đã thỏa nguyện được về gần ông. Cô gái thấy tự hào về bản thân mình, vì cô được sinh ra từ chính tình yêu sâu đậm, đẹp đẽ của cha mẹ mình. Và cô tin, ở một nơi nào đó, chắc hẳn, bố cô lại sáng sáng đánh thức mẹ dậy, hai người cùng nhau thong dong đi tập thể dục mỗi sáng, trong ánh mắt mờ đục vì thời gian của họ, hạnh phúc vẫn cứ hiện lên rạng ngời hơn cả ánh bình minh!

Nếu Khi Thức Giấc Không Thấy Tôi, Mình Đừng Khóc! – Đọc Truyện Online

“TÔI DỄ DÀNG HƠN ANH MỘT CHÚT”…

Image may contain: one or more people

8 SÀI GÒN

“TÔI DỄ DÀNG HƠN ANH MỘT CHÚT”…

William James – ký giả của tờ báo New York Times đã cải trang thành một người lang thang, nghèo khổ và què một chân. Anh đã trà trộn và sống với những người vô gia cư ở Miami, một thành phố ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ khoảng nửa năm để tìm hiểu cuộc sống của họ.

Ngay ngày đầu tiên, nhìn thấy James tàn tật, ăn mặc rách rưới và bẩn thỉu, từ trong đáy mắt của những người vô gia cư này đã lập tức biểu lộ ra một sự quan tâm. Một người đàn ông trong nhóm đã bước đến, đưa cho James một cây gậy gỗ và nói với anh rằng: “Người anh em, hãy cầm lấy nó, như thế sẽ thuận tiện hơn nhiều.”

James đưa tay đón lấy cây gậy, dùng tay vuốt ve cây gậy này hết lần này đến lần khác, trong lòng không khỏi cảm kích. Đúng lúc đó, một bóng dáng loang loáng phản ánh trên mặt dường, dáng đi không bình thường, ngẩng lên nhìn, trong lòng James cảm thấy như bị cái gì đó thiêu đốt, người đàn ông đưa gậy lúc nãy đang đi cà nhắc.

Chống cây gậy này, James dường như cảm thấy có một loại sức mạnh vô hình từ nó truyền đến trong tim anh.

Rất mau, anh đã giành được tin yêu của những người vô gia cư này. Họ dẫn James đi đến nơi đặt những chiếc thùng rác ở các siêu thị, đến khu dân cư để thu lượm thức ăn và phế liệu bị người ta vứt đi. Họ còn nói cho James biết nơi nào có nhiều đồ phế liệu, những phế liệu nào đáng tiền và nên đi lượm vào khung giờ nào,…

Trong một lần trông thấy James bước đi khập khiễng một cách vất vả để lật tìm phế liệu, một anh chàng thanh niên da đen với hàm răng trắng bóng đã bước đến, vỗ nhẹ lên vai của James, đưa cho anh túi phế liệu và nói: “Này người anh em, anh hãy đi sang bên cạnh nghỉ ngơi một chút, túi đồ phế liệu này anh hãy cầm lấy đi!”

James nghe xong, đứng ngẩn ra đó, như thể không tin vào tai mình: “Vậy làm sao được? Những thứ này cậu vất vả lắm mới lượm được mà!”

Người lang thang đó nghe xong, khẽ nhếch miệng cười, nói một cách rất vui vẻ: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút.” Nói xong, liền quay người bỏ đi.

James xách túi phế liệu đó, nhớ lại câu mà anh chàng da đen vừa nói khi nãy, trong tâm cảm thấy vô cùng ấm áp và cảm động.

Tới buổi trưa, trong lúc đang cảm thấy đói, một người đàn ông bị còng lưng trong nhóm đi đến trước mặt James, đưa cho anh hai ổ bánh mì và nói: “Này người anh em, hãy ăn đi!“

James nghe xong, cảm thấy có chút ngại ngùng: “Nếu anh cho tôi, thế thì anh ăn gì đây?”

Người đàn ông nghe xong, khẽ nhếch miệng cười, nói: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút!” Nói xong, liền lảng sang bên cạnh bỏ đi.

James cầm hai ổ bánh mì trong tay, nước mắt lã chã rơi, phải rất lâu sau đó mới bình tĩnh lại được.

Đến tối, James cùng vài người vô gia cư rủ nhau co rúc dưới chân cầu. Nhìn thấy James ngủ ở nơi ngoài rìa chân cầu, một ông lão đầu tóc bạc trắng chầm chậm đi đến, vỗ nhẹ vào vai anh rồi nói: “Này người anh em, cậu hãy đến ngủ ở chỗ tôi, ở đó thoải mái hơn một chút.”

James nghe xong, cảm thấy nghi hoặc nói: “Nếu tôi ngủ chỗ ông, thế thì ông ngủ chỗ nào?”Ông lão đó nghe xong, nhoẻn miệng cười, nói: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút!”

Lại là “Tôi dễ dàng hơn anh một chút!“, James nghĩ, những người vô gia cư sống ở giai tầng thấp nhất trong xã hội này, tuy cuộc sống vô cùng gian khổ, thế nhưng khi họ nhìn thấy người khác khó khăn, đều luôn chìa tay giúp đỡ, họ luôn thấy bản thân mình có một phương diện nào đó thuận lợi hơn người khác.

James sống chung với những người vô gia cư này hơn nửa năm, trong suốt khoảng thời gian đó, sớm chiều gặp gỡ nhau đã khiến anh sinh ra tình cảm thiết thân sâu sắc.

Chàng trai vô gia cư người da đen tên Ali luôn thích nói đùa kia, một tay bị tàn tật, nhưng cậu vẫn luôn thích giúp đỡ những người bị tật cả hai tay. Khi người này bày tỏ cảm kích, cậu luôn thích nói một câu: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút.”

Anh chàng vô gia cư tên Bobby, thính giác ở hai lỗ tai không được tốt lắm, mỗi lần nhặt được thứ gì tốt, luôn thích chia sẻ một chút cho người bạn vô gia cư có tật ở mắt. Khi người này bày tỏ sự cảm kích, anh luôn nói một câu, chính là: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút.”

Anh chàng vô gia cư thân thể ốm yếu tên Chater ấy, luôn thích giúp đỡ người bạn vô gia cư thân thể béo phì kia của mình. Khi nhận được sự cảm kích, câu mà Chater thích nói nhất cũng chính là: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút.”

Không lâu sau đó, James có một loạt bài viết trên trang New York Times với tiêu đề: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút.” Loạt bài báo đã gây sự chấn động lớn đối trái tim và tâm hồn hàng triệu độc giả.

James ngập trong những bình luận bất tận đầy xúc động của độc giả gửi về. Một nhà bình luận nói, đó thực sự là một loạt bài đánh thức những trái tim đã ngủ quá lâu trong sự thờ ơ, lạnh nhạt ở một đất nước quá coi trọng sự riêng tư.

Bất kỳ ai đọc loạt bài đó đều muốn ngả mũ chào những người vô gia cư mà họ gặp, với sự kính trọng thực sự. Tuy họ sống ở giai tầng thấp nhất trong xã hội, nhưng họ luôn có thể nhìn thấy bản thân mình có ưu thế hơn người khác, và dùng ưu thế nhỏ nhoi ấy để giúp đỡ những người yếu hơn, mang cho người khác một loại cảm giác ấm áp và dũng khí để tiếp tục sống.

Hàng triệu độc giả của tờ báo danh tiếng bàng hoàng nhận ra, sự rách rưới, bẩn thỉu, tàn tật hay nghèo khó, không ngăn cản con người trở nên tôn quý và cao cả. Và không cần phải giàu có bạn mới có thể trao đi tình yêu thương, sự đồng cảm, thậm chí cả một chút vật chất vốn không có mảy may ra giá trị gì đối với hầu hết mọi người, như là một cây gậy.

James đã viết trong loạt bài gây chấn động của mình rằng: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút.” là câu nói kỳ lạ nhất lưu truyền trong những người vô gia cư, câu nói kỳ lạ nhất mà anh từng được nghe thấy trong đời.

Bởi vì mỗi khi nó được thốt ra từ một người vô gia cư tàn tật, rách nát mà với anh là không thế nào khốn khó hơn; Nó bỗng biến thành một sức mạnh cảm hoá mãnh liệt khiến hết thảy những quan niệm cố hữu về người khác, sự lạnh nhạt, vô tình, sự hãnh tiến và ích kỉ của một người ở tầng lớp trên như anh tan biến.

Nó cho anh một thứ niềm tin về cuộc sống mà anh chưa bao giờ cảm thấy khi đến những toà nhà tráng lệ nhất New York, giữa những chính khách, nhà tài phiệt, hay ngôi sao đỉnh cao thế giới,…

Và chúng ta, những con người chắc chắn giàu có hơn rất nhiều những người vô gia cư khốn khổ, lại thường là những kẻ kêu ca than phiền nhiều nhất về số phận.

Thực ra cuộc đời sẽ đơn giản và hạnh phúc hơn rất nhiều nếu chúng ta có thể nói: “Tôi dễ dàng hơn anh một chút.” với bất kì ai đó mà ta gặp trên đường đời. Bởi vì như những người vô gia cư kia, ta luôn có thể nói câu nói đầy cảm hứng đó ngay cả khi ta không có gì cả, ngoài… một trái tim.

Theo Aboluowang

Một câu chuyện “thần thoại” kiểu Mỹ…

Image may contain: 1 person, beard and closeup
Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: 2 people, people smiling, outdoor and closeup
Image may contain: one or more people, people standing, car and outdoor

Lê Vi

Billy Ray Harris, 55 tuổi, là một người lang thang không nhà cửa. Ông xin ăn tại đầu đường Kansas, thuộc tiểu bang Missouri miền Trung nước Mỹ. Một cô gái tên Sarah Darling đi ngang qua, cho vào trong ly của ông một ít tiền, nhưng cô không biết là chiếc nhẫn trên tay cũng vô tình rơi vào ly.

Đến lúc Billy thấy chiếc nhẫn, ông tính đem bán vì có tiệm trả tới 4.000 đô la. Đối với một người vô gia cư, đó là cả một gia tài. Tuy nhiên, Billy lại do dự… Sau mấy ngày suy nghĩ, ông quyết định sẽ đem chiếc nhẫn trả lại cho người đã mất. Hằng ngày, ông kiên nhẫn ngồi đợi người chủ của nó.

Cuối cùng, Sarah cũng nhận lại chiếc nhẫn, cô vô cùng cảm kích, bởi đó là chiếc nhẫn đính hôn của cô. Để tỏ lòng biết ơn, Sarah và người chồng tương lai quyết định sẽ kể lại câu chuyện chiếc nhẫn trên mạng với mục đích quyên tiền cho Billy, giúp ông có được một cuộc sống bình thường như mọi người.

Hai người hy vọng họ có thể quyên được vài ngàn đô-la. Không ngờ, nhiều người sau khi nghe câu chuyện đó đã rất xúc động vì lòng trung thực của người ăn xin. Ba tháng sau Sarah đã quyên được gần 190 ngàn đô-la. Billy dùng số tiền đó mua nhà, mua xe… nhưng vận may vẫn chưa dừng ở đó.

Sau khi câu chuyện của Billy được truyền thông đưa tin, người chị đã thất lạc 16 năm thấy ảnh ông trên tivi và cuối cùng đã tìm được ông. Phần Billy cứ nghĩ rằng người chị này đã qua đời.

Billy không chỉ có tiền và tìm lại được người thân mà còn có người bạn tốt là Sarah và gia đình cô. Sau khi Sarah kết hôn, cô nói sẽ kể cho con về sự gắn bó của Billy với gia đình cô. Hơn nữa, câu chuyện “thần thoại” này sẽ giúp các con cô hiểu được điều gì là đúng, điều gì là sai.

Bây giờ, khi mọi người nhìn thấy Billy, họ không quyên góp mà nắm tay chúc mừng ông. Billy nói, khi nhớ lại chuỗi ngày khó khăn, ông vô cùng cảm ơn đời đã đem đến cho ông một cơ hội, cho ông quay lại cuộc sống của một người bình thường. Ông tự hứa với mình sẽ sống thật tốt để không phụ lòng những ân nhân của ông .

Quả là một câu chuyện “thần thoại” kiểu Mỹ, thử thách về lòng tham của con người trước những cám dỗ của cuộc đời.

Đức tính “không tham lam những gì không phải của mình” là một bài học đơn giản nhưng chắc gì mỗi người trong chúng ta thực hiện được điều đó?

(st) 
Từ FB Lê Văn Quý

Kỷ vật cho người ở lại

Kỷ vật cho người ở lại

(Hình minh họa: Getty Images)

Diễm Vy

LGT: Trong cuộc sống có nhiều chuyện mình muốn nói với ai đó, nhưng lại không thể nói trực tiếp được. Không nói được với nhau thì hãy viết cho nhau. Âu đó cũng là cơ hội để giải tỏa những tâm tư, những nỗi niềm. Mục “Viết Cho Nhau” do phóng viên Ngọc Lan phụ trách. Thư từ xin gửi về: Người Việt (Viết Cho Nhau), 14771 Moran St., Westminster, CA 92683, hay email: [email protected].

Tối hôm đó, bệnh viện của tôi nhận một nhóm nạn nhân của một tai nạn xe hơi thảm khốc. Trên xe là bốn em học sinh đều ở lứa tuổi 17-18, cùng đi về với nhau sau sau bữa tiệc. Người lái xe 18 tuổi, say rượu và chạy xe quá tốc độ, lạc tay lái tông vào một chiếc xe tải đang đậu bên lề đường. Nhờ có thắt dây an toàn, người lái và em ngồi cạnh tuy bị thương nặng nhưng không nguy hiểm tính mạng. Riêng hai em ngồi sau, 1 nam 1 nữ bị thương rất nặng vì không thắt dây an toàn. Em trai bị chấn thương sọ não và chết ngay sau khi xe chở đến bệnh viện. Em gái hôn mê bất tỉnh phải mổ gấp, không biết có cứu được hay không?

Thật đáng buồn, em trai tử vong là một em Việt Nam, 17 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học và đang sắp rời nhà để vào một trường đại học danh tiếng. Các em còn lại đều người ngoại quốc.

Lúc đó tôi đang làm tại khu ICU (Intensive Care Unit). Bệnh nhân tôi được giao đêm đó là em gái 17 tuổi của tai nạn vừa kể trên. Một cô bé người ngoại quốc, đẹp hay không thì tôi không biết vì cả khuôn mặt lẫn cái đầu tóc vàng của em đều tím bầm, sưng to như trái dưa hấu vì những cú va chạm kinh khiếp. Em đang được mổ não khẩn cấp trong phòng mổ.

Tôi được (hay bị) kêu vào phòng họp gấp để nhận một nhiệm vụ quan trọng.

Sau khi được biết nhiệm vụ của mình là gì, tôi nhăn nhó phản đối, “Tại sao lại là tôi? Đây là nhiệm vụ của bác sĩ mà!”

“Tôi biết, nhưng người nhà của bệnh nhân không biết tiếng Mỹ rành lắm, cô đi theo thông dịch cho bác sĩ, và ráng van xin họ giúp chúng tôi,” bà y tá trưởng năn nỉ.

Sau một hồi bàn qua tính lại, tôi lê bước đi theo ông bác sĩ đến phòng chứa xác của em trai Việt Nam mới tử nạn, với nhiệm vụ là cùng bác sĩ, năn nỉ gia đình người chết hiến tặng những bộ phận còn tốt trong cơ thể của em cho bệnh viện.

Một em trai 17 tuổi đang khỏe mạnh nhưng chết vì tai nạn, là một ứng cử viên tuyệt vời để làm người hiến tặng, vì hầu hết các bộ phận trong cơ thể em còn rất khỏe, rất trẻ, rất thích hợp để cứu sống các bệnh nhân đang chờ đợi để được thay các bộ phận trong người. Đó là lý do bệnh viện hết sức cầu xin gia đình.

Thời gian đó, đối với người Việt mình, khái niệm hiến tặng bộ phận cơ thể còn rất mới mẻ. Nếu không là cho người thân trong gia đình, hầu như rất ít ai hiến tặng cho những người không quen biết. Huống hồ gì, chuyện cha mẹ đồng ý hiến tặng các bộ phận trong cơ thể của con thì hình như chưa hề xảy ra. Có cha mẹ nào mà nỡ lòng nào làm như thế? Mất con đã đau đớn lắm rồi…

Chúng tôi gặp cha mẹ nạn nhân trong phòng đợi, trong khi người con đang được chờ quyết định để rút tất cả ống support bên trong, tôi bắt đầu trình bày lý do. Quả như tôi lường trước, cho dù có van xin, nài nỉ, giải thích cách mấy, bác sĩ và tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu quầy quậy, ánh mắt oán ghét, và những lời xua đuổi.

Tôi lắp bắp xin lỗi rồi bước nhanh như chạy ra khỏi phòng.

Phòng ICU rất vắng lặng vì ở đây toàn những ca rất nặng. Những y tá cùng trực với tôi đêm đó ai cũng bận rộn với bệnh nhân của mình nên chỉ có một mình tôi ngồi tại nurse station. Thường thì ở ICU, mỗi y tá lãnh hai bệnh nhân trong một ca. Nhưng đêm nay tôi chỉ có một, vì một bệnh nhân mới chuyển sang phòng thường. Bệnh nhân còn lại là cô gái đang trong phòng mổ, nên tôi cũng khá rảnh rỗi, cho đến khi ca mổ xong.

Bỗng nhiên tôi thấy hơi nhức đầu nên cúi gục vào lòng bàn tay một chút cho đỡ mỏi mắt. Khi tôi ngẩng đầu lên thì vụt một cái, thoáng có một bóng người mặc áo trắng lướt thật nhanh qua mặt.

Tôi đảo mắt nhìn quanh.

Không có ai cả!

Tôi vẫn thường thấy lao đao như vậy lắm, có lẽ vì tôi bị chứng bịnh thiếu máu kinh niên. Tôi dụi mắt nhìn kỹ lại một lần nữa, lần này thì thật sự có một bóng áo trắng đang từ từ tiến lại gần tôi.

Tôi dợm đứng dậy để nhìn cho rõ thì thấy có một cậu thanh niên Á Châu rất trẻ, gương mặt xanh xao mệt mỏi đang đi lại phía tôi ngồi. Cậu đi nhẹ nhàng như lướt trên không vậy, xuất hiện trước mặt tôi mà không gây nên một tiếng động. Cậu nhìn tôi, đôi mắt nâu hiền và ngây thơ đến nao lòng. Có vẻ như cậu đang bị lạc đường. Chắc là cậu đi nuôi người nhà bệnh và lạc từ khoa khác sang.

Thấy cậu đứng yên lặng không nói gì, tôi hỏi bằng tiếng Mỹ, “Em cần gì, tôi có giúp được gì cho em không?”

Lạ thay, cậu trả lời bằng tiếng Việt, “Em đi kiếm đồ!”

Giọng của cậu nhỏ và thanh, nghe văng vẳng như từ một nơi xa xôi nào đó vọng về.

“Em bị mất cái gì à?”

“Em làm rớt cái ví trong xe. Trong đó có một món đồ rất quan trọng. Chị kiếm dùm em nghe chị. Nhớ nghe chị…”

Không đợi tôi trả lời, cậu quay lưng đi thật nhanh và khuất bóng sau góc quẹo.

Tự nhiên tôi cảm thấy lạnh buốt, cái lạnh từ trong xương lạnh ra. Tôi rùng mình. Lạ thật, Tháng Sáu Mùa Hè ở cái xứ sa mạc này nóng cả trăm độ. Cho dù máy lạnh có mở cũng chỉ vừa đủ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy lạnh cóng bằng cái lạnh của hiện tại.

Đầu óc tôi quay cuồng và tiếp tục nhức. Chắc mình sắp bịnh rồi, tôi tự nhủ. Sao tự nhiên lại cảm thấy lạnh và nhức đầu quá. Tôi đứng lên định đi theo cậu bé nhưng rồi lại choáng váng ngồi phịch xuống một chiếc ghế.

Vừa lúc đó, một cô bạn đồng nghiệp từ đâu đi tới. Nhìn thấy sắc mặt tôi, cô la lên, “Oh my God! Trời ơi sao cái mặt cô xanh lè xanh lét thấy ghê quá. Are you OK?”

“Tôi thấy lạnh quá, cô lấy dùm tôi một cái áo lạnh được không?”

Cô bạn nhanh chóng đi lấy cho tôi một cái áo labcoat mới được giặt ủi và hấp nóng. Tôi mặc áo vào, ngồi co ro mà thấy vẫn còn lạnh, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương.

Tôi uống thêm hai viên Tylenol. Một lúc sau, tôi thấy từ từ dễ chịu, và lại nghĩ đến cậu bé hồi nãy. Cậu ta là ai, làm sao biết cậu ở đâu, đi kiếm cái xe gì, và cái ví gì nữa chứ?

Cả khu ICU này có 6 phòng. Hiện giờ đang có năm bệnh nhân, mỗi người nằm một phòng. Tôi coi lại danh sách bệnh nhân viết trên bảng treo trên tường. Không có bệnh nhân nào người Việt. Vậy cậu từ khoa nào đi sang đây?

Tôi đi lòng vòng với hy vọng gặp lại cậu bé, nhưng hỏi thăm những nhân viên quanh đó xem có ai gặp một cậu bé người Á châu không, ai cũng lắc đầu không biết.

Thất vọng, tôi trở về khoa đúng lúc bệnh nhân của tôi đã được giải phẫu xong và chuyển về phòng ICU. Bác sĩ bảo em được cứu sống nhưng đôi mắt sẽ bị mù vĩnh viễn vì chấn thương quá nặng. Chỉ có một hy vọng duy nhất là được thay đôi mắt khác em mới có thể thấy lại ánh sáng.

Ba mẹ em ngồi bên giường trong khi em vẫn đang nằm thiêm thiếp. Ông bà yên lặng chắp tay cầu nguyện. Tôi không biết làm gì hơn là ngồi xuống bên cạnh và góp lời cầu nguyện trong lòng.

Người mẹ buồn rầu nói, “Tội nghiệp chúng quá. Rồi đây Jane sẽ ra sao khi tỉnh dậy và biết là người yêu của nó đã chết?”

“Người yêu của Jane là anh Việt Nam ngồi chung xe hả bà?” tôi hỏi.

“Đúng vậy, chúng nó yêu nhau lắm. High school sweethearts mà. Hai đứa đều học giỏi và có tương lai. Thế mà, chỉ qua một đêm, một đứa ra đi vĩnh viễn, một đứa trở nên mù lòa.” Bà sụt sịt khóc.

Tôi ngập ngừng, “Bác sĩ nói con bà còn có hy vọng thấy lại ánh sáng, nếu…”

“Vâng tôi biết! Nhưng ở đâu ra có cặp mắt để thay kia chứ? Nếu đó là cặp mắt của một người còn sống cho con tôi, tôi biết chắc chắn nó sẽ không chịu nhận. Nó là cô gái rất tốt, không bao giờ muốn làm khổ ai.”

“Nhưng nếu đó là cặp mắt của một người vừa mới mất thì hoàn toàn có thể dùng được, chỉ có điều…” tôi bỏ dở câu nói vì tôi biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Đừng bao giờ nên hỏi cha mẹ cậu bé Việt Nam thêm một lần nữa.

Như đọc được ý nghĩ của tôi, bà mẹ thở dài, “Cô y tá ạ, tôi biết nỗi đau của người mẹ mất con nó khủng khiếp như thế nào. Tôi không dám đòi hỏi gì thêm. Số phận con gái tôi bị mù thì tôi sẽ hết lòng chăm sóc cho nó. Con gái tôi có nghị lực lắm, tôi tin nó sẽ vượt qua…”

Xót xa nhưng cũng rất xúc động trước những lời nói của bà, tôi nhẹ nắm lấy tay bà. Vừa lúc đó, một ông cảnh sát đang rảo bước tới, trên tay cầm một bọc giấy. Ông hỏi tôi, “Người ta chỉ cho tôi là có một cô y tá người Việt ở đây. Cô nói được tiếng Việt chứ?”

“Dạ được. Ông cần gì không?”

“Tôi muốn nhờ cô đi với tôi đến gặp gia đình người tử nạn trong tai nạn xe chiều nay. Chiếc xe bị total lost. Trước khi xe tow kéo xe đi, chúng tôi kiểm tra trong xe và tìm thấy chiếc ví này rớt trong xe. Nó thuộc về người đã chết. Tôi muốn giao lại kỷ vật này cho thân nhân của cậu.”

Ví, xe, người tử nạn… những mảnh rời rạc của chiếc hình puzzle tự nhiên ráp nối lại với nhau một cách có trật tự. Tim tôi đập thình thịch và cổ họng tự dưng tắc nghẽn. Chân tôi bắt đầu run lập cập và tay thì nổi da gà. Sao giống y hệt những điều cậu bé kia vừa nói?

Không lẽ mình vừa gặp ma sao?

Tôi lắp bắp hỏi ông cảnh sát, “Ông có thể cho tôi xem qua chiếc ví được không?”

Ông ngần ngừ một chút rồi nói, “Cũng được, nhưng trong ví không có gì quý giá hết, chỉ có tấm bằng lái xe và một ít tiền mặt vậy thôi!”

Tôi tần ngần mở chiếc ví ra. Thật vậy, trong ví ngoài một ít tiền nhỏ chỉ có tấm bằng lái xe. Tôi tò mò nhìn vào tấm bằng lái và hoảng sợ làm rơi chiếc ví xuống đất. Trên tấm bằng là hình của cậu bé vừa đến gặp tôi ít phút trước đây. Với gương mặt gầy và cặp mắt nâu trong vắt thơ ngây như đang nhìn xoáy vào tôi, như muốn nói một điều gì.

Vậy ra cậu chính là người đã chết đó sao?

Một luồng khí lạnh chạy dọc theo sống lưng của tôi. Tôi thầm thì, nhắc lại lời của cậu bé khi nãy: “Trong ví này có một vật rất quan trọng…”

“Cô nói gì?”

Tôi lượm chiếc ví lên, mở ra xem lại và lật tới lật lui. Quả thật không có gì khác ngoài vài tờ giấy $10 và $5, cùng tấm bằng lái.

Tai tôi văng vẳng nghe tiếng của cậu bé, “chị nhớ giúp em nghe chị, nhớ nghe chị…”

Tấm bằng lái!

Tôi nhìn kỹ lại tấm bằng lái lần nữa. Đây rồi, vật quan trọng mà tôi cần tìm chính là tấm bằng lái này đây.

Trên bằng lái có tên, tuổi và hình chụp của cậu bé. Còn nữa, nằm ngay ngắn ở góc phải của tấm bằng là cái sticker nhỏ màu hồng, trên có dòng chữ “DONOR” màu đen in đậm nét.

Tim tôi đập thình thịch. Như vậy là, chính cậu đã run rủi cho sở cảnh sát tìm thấy chiếc ví rơi trong gầm xe trước khi xe bị kéo đi; chính cậu đã tìm đến tôi, và đưa đẩy cho ông cảnh sát gặp tôi để mọi người có thể biết được ý nguyện của cậu. Thì ra ngay từ khi mới có bằng lái, cậu đã quyết định là nếu có điều gì xảy ra cho mình, cậu sẽ sẵn sàng hiến tặng những bộ phận còn tốt trong người cho tất cả ai đang cần chúng nên đã tình nguyện ghi tên làm người DONOR. Có phải cậu đến tìm tôi vì biết tôi là người chăm sóc cho người bạn gái thương yêu của cậu đêm nay và muốn nhờ tôi tìm cách để trao tặng cho cô gái đôi mắt của cậu như một kỷ vật cuối cùng?

Tôi chỉ vào chữ “DONOR” và nhờ vị cảnh sát xác minh lại với DMV. Sau khi xác nhận là cậu bé Việt Nam chính thực đã ghi danh làm người “DONOR”, nhưng đồng thời vị cảnh sát cũng thông báo rằng theo luật pháp, vì cậu bé mất khi cậu chưa đủ 18 tuổi, nên quyết định cuối cùng, cho hay không, cũng vẫn là quyết định của cha mẹ.

Phái đoàn gồm các bác sĩ, cảnh sát cùng với tôi sau khi đưa chiếc ví lại cho cha mẹ cậu và thông báo về tất cả những sự việc trên cho họ. Trong khi chờ gia đình cậu bé bàn thảo với nhau, chúng tôi đều lui ra ngoài đứng chờ.

5 phút, 10 phút trôi qua. Một bầu không khí yên lặng đến nghẹt thở.

Rồi cha mẹ cậu bé cũng bước ra. Người mẹ ôm mặt khóc, trong khi người cha nghẹn ngào nói với chúng tôi: “Thôi thì con tôi nó đã muốn như vậy, chúng tôi xin nghe theo ý nguyện của cháu. Xin bệnh viện giúp cháu làm tròn tâm nguyện, hãy giúp đỡ tất cả những ai đang chờ được giúp.”

Tôi bật khóc vì quá xúc động. Tất cả những người có mặt lúc đó đều khóc và cảm ơn cha mẹ cậu bé đã làm quyết định đau đớn và khó khăn nhưng rất cao cả này. Cảm ơn ông bà, tôi thầm thì. Trên cao kia, tôi biết cậu bé đang nhìn xuống và mỉm cười.

Những ngày sau đó, có ít nhất là cả chục bệnh nhân đang chờ thay thận, gan, tim, v.v… đã được cứu sống nhờ được ghép những bộ phận trong cơ thể cậu bé. Cô bạn gái cũng đã nhận được cặp mắt của cậu. Trên gương mặt trắng bóc và mái tóc vàng hoe, đôi mắt nâu trong veo luôn tỏa những tia sáng ấm áp dịu dàng. Đôi mắt như biết nói những lời yêu thương đến mọi người. Cậu bé đã ra đi mãi mãi, nhưng tình yêu quảng đại của em vẫn tiếp tục tồn tại.

****

Ngay sau cái đêm “gặp ma” trong bệnh viện đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Tôi về bàn với chồng, và vợ chồng tôi đã cùng đi đến quyết định là ra DMV để ghi tên tình nguyện làm người “DONOR.”

Nếu một mai có người nào phải ra đi trước, chúng tôi không muốn người thân mình ở lại phải suy nghĩ để làm những quyết định đau lòng thế cho mình.

Cát bụi rồi sẽ trở về với cát bụi. Thế thì tiếc làm chi các xác thân tạm bợ này! Nếu sau khi mình ra đi mà vẫn còn có ích cho người khác thì đó chính là một niềm an ủi và hạnh phúc vô biên cho mọi người chúng ta rồi. (Diễm Vy)