Người Con Dâu Của Nước Mỹ

 Người Con Dâu Của Nước Mỹ

(Viết theo tâm sự của một người)

Lưu Hồng Phúc

***
Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được.
Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.

Tôi vẫn thường nghe nói về vườn hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vôi vã đi ngay.

Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ miền Texas xa xôi về tới thủ đô.
Con đương Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng trắng. Hơi lạnh đầy trong không khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa màu tươi xinh ngày xưa tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây.
Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới những tàn cây. Tôi vẫn thích được đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần qua.

Ngày xưa chưa mất miền Nam gia đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau..
Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử, râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tỉa thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui trong cuộc sống. Bởi thế , anh chàng Mike râu ria xồm xoàm đã chiếm được cảm tình của gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn nguyên nền nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng , áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một ngày kia.
Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị.

Về sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu , khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục , bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người . Có một điều làm tôi lạ lùng là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một người góa phụ tưởng nhớ thương chồng.
Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu tôi cũng tưởng chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ bởi vì còn nặng lòng với mảnh đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ.
Tôi không giống, và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện ơn trên cho chúng tôi vượt sóng đươc bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời…

..Cứ mải suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà ta vừa mới khóc. Gặp nhau trên bực thang đầu tiên, tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn.
-Ông bà từ đâu tới ?
– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
– Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.
-Tôi muốn hỏi cô người nước nào. Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.
-Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu trong lòng.. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
-Cô đừng buồn với thái độ của vợ tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những cử chỉ bất thường.Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ không hề mảy may biết tới. Trong lúc xúc động tôi cũng nói với ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến phi lý đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ quốc.
Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuồng ghế đá cách đó không xa lắm. Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mike Wright, tên người anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất nước đang cưu mang chúng tôi đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mike người ta còn nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn anh được gắn lon giữa hai hàng nến . Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống, chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ.
Chúng tôi lại rủ nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.

Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện.. Ông bà cho tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu bang Indiana . Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm viếng.

Buổi sáng hôm sau tôi có thói quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngôi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như vuốt ve một vật gì quý giá. Gặp lại nhau tôi lên tiếng.
-Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này..
Ông ôn tồn giải thích.
-Chiều nay chúng tôi trở về lại Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.
Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột miệng hỏi ông.
– – Con trai của ông bà tên là gì nhỉ . Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
– – Con trai tôi tên là Mike Wright, Tử trận ở Việt năm năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này.
Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
– Anh Mike của ông bà rất nhiều râu và vui tính lắm phải không.
– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ nhiên ngày ấy Mike còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua là ông trông rất giống Mike ở cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
-Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ ra Mike đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó không bao giờ chấm dứt.
– Thế ông bà có biết tin tức gì về người con gái ấy không.
– Mike có gởi cho chúng tôi một tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio.. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một anh Mike nào khác nữa nên chỉ nói với ông.
-Hơn ba mươi năm trước đây tôi cũng có một người anh rể tên là Mike Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi chỉ biết thế không biết có phải là anh Mike con của ông bà không. Tôi từ Texas lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mike Wright một lần trên tấm bia đá này.
Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
-Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô coi có cái tên Mike Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi thăm tin tức về Mike trong những ngày cuối cùng.
-Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà. Như chính tôi đây chẳng biết gì hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mike . Đầu tiên người ta chỉ thông báo cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
-Thế thì đúng như cô nói, chắc đúng là Mike rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mike thì đã không mở ra được nữa vì những điều kiện vệ sinh.
-Nhưng tôi có một tin quan trọng về anh Mike , không biết ông bà có muốn nghe không.
-Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mike và những gì liên quan đến đứa con yêu thương của chúng tôi.
– Chị tôi có một người con với anh Mike . Chính anh Mike cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp thông báo thì anh Mike và chồng tôi đã không về nữa.
Ông bà liên tục kêu lên những lời thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
-Chúa ơi, thật thế sao. Chúa ơi.. Chúa ơi.
-Thật thế thưa ông bà. Cháu giống Mike lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
-Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
-Cháu vẫn còn ở Việt Nam. Vì thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con lai.
Tôi và ông bà Wright cùng bước đi như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của tôi và nhận lại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày xưa có phải là của chị hay không.
Chiều hôm đó ông bà Wright về lại Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa con gái gồm con rể và hai đứa cháu.. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm ảnh ngày xưa. Gặp nhau tại công viên ông bà đưa tôi tấm ảnh và giải thích.
– Vội quá nên chúng tôi không book được vé máy bay. Vả lại Nathalie , em gái của Mike và chồng con nó ở gần đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm , đang đưa cánh tay khỏe mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
-Đúng là chị tôi rồi.
-Ông bà Wright mừng vui như mở hội.Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở. Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này.
Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chi cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt nam. Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mike nên không ngạc nhiên với quyết định này.
Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.

Sau đó một thời gian dài, tôi lại bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông Bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng tôi sung sướng. Tôi không dấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
– Oh my God, he looks just like his father! Oh my God!
Bây giờ chị tôi, một người con gái Việt nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ đang thay cha mẹ chồng cai quản một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội trong cuộc chiến Việt Nam.

LƯU HỒNG PHÚC 

From: LUCIE 1937 

CÓ MỘT NGƯỜI TÊN V. HUY

QUÁ HAY!

🌿Hắn tên là V. Huy, thật ra tên đầy đủ của hắn là Nguyễn Phúc Vĩnh Huy, vốn là con cháu giòng họ vua chúa triều Nguyễn.

Bố hắn là giáo sư tiến sĩ, từng chữa bệnh cho ông Hồ.
Ông nội hắn là Thượng thư bộ Lại trong triều vua gì đó của nhà Nguyễn.

Mẹ hắn cũng là giáo sư nhưng hình như bên ngành Luật, tốt nghiệp từ bên Tây, nghe lời ông Hồ vì nước tham gia đánh giặc.

Lí lịch của hắn quá ư là đẹp, vừa quí tộc vừa cộng sản, không chê vào đâu được.

Hắn tốt nghiệp Tiến sĩ ngành ngoại giao ở Liên Xô, cũng nghe nói là bằng đỏ đàng hoàng, và chắc chắn là bằng thật.

💥Thế mà hắn lại xổ toẹt cái lí lịch đó, đái lên cái truyền thống đẹp như mơ đó. Hắn không bao giờ chịu thổ lộ cái tên trong khai sinh cho bất kì ai, và luôn luôn tự xưng tên tôi là V. Huy, cắt đứt mọi liên hệ với cái gia đình danh giá.
Cũng chẳng biết tại sao. Và mọi người cũng không rảnh thì giờ để điều tra chuyện đó.

🌿Tôi gặp hắn lần đầu trong quán cà phê. Quen qua quen lại mà thành thân gần tám năm nay.
Hắn là một thằng có cá tính. Mà lại là cá tính quái dị. Tôi cũng vốn là một người quái đản – theo mọi người chung quanh bảo thế – nên khi gặp hắn là thành thân ngay, đi đâu cũng có nhau. Ngưu tìm ngưu, mã tìm mã mà.😊

🌿Hắn có khuôn mặt của John Lennon: ngây thơ mà tinh quái. Cũng nét mặt gầy, mũi thẳng, tóc xoăn để dài đến bờ vai, chỉ khác là tóc màu đen.
Hắn cũng đeo kính cận gọng tròn, nặng độ, dày như đít chai. Lúc nào hắn cũng kè kè cái ba lô nặng trĩu chứa tùm lum nào sách, nào khăn, nào đủ thứ như một túi rác. Nhưng hắn bảo hắn chứa cả càn khôn trong đó.🥰

🌿Hắn chỉ có độc một bộ đồ, chiếc áo jean bạc màu, áo jacket màu cứt ngựa có nhiều túi và cũng nhiều fermature. Chiếc quần jean rách ở đầu gối và sờn ở hai mông đít. Đôi giày lính Mỹ cao cổ loang lổ và ám bụi đường. Hắn không bao giờ giặt áo quần, cứ mặc cho đến tả tơi lại đi tìm bộ khác cũng y như thế. Công nhận hắn cũng giỏi săn lùng vì suốt tám năm quen hắn, tôi có cảm tưởng hình như hắn chẳng bao giờ thay kiểu quần áo.

🌿Hắn là một thằng thông minh, rất thông minh. Và cũng uyên bác, rất uyên bác.

Tôi là người rất ngạo mạn, ít khen ai và cũng ít nể ai, luôn khinh khi những thằng tiến sĩ dỏm nhiều như quân Nguyên chạy đầy đường.

Nhưng gặp hắn, quen hắn, biết hắn thì tôi phải khen ngợi hắn thật lòng. Hắn nói tiếng Anh như dân xuất thân từ Oxford , đúng giọng và ngữ điệu. Hắn vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra. Hắn nói tiếng Ý như mưa rào và tiếng Nga thì thôi rồi, nghe không khác gì Putin. Hắn cũng giỏi tiếng Hán, viết thư pháp như múa, đặc biệt là chữ thảo, đọc toàn sách cổ văn, đọc tiếng Đức ầm ầm như bão tố

. Ngoài ra hắn còn giỏi tiếng Bồ Đào Nha, đọc kinh Phật bằng tiếng Pali và nói thông thuộc tiếng Khmer. Hay nhất là dù hắn có mười mấy năm ở nước ngoài, có bằng Tiến sĩ ở Nga nhưng lại nói tiếng Việt rất chuẩn, tròn vành rõ chữ và dùng từ thì không chê vào đâu được.
Nói tóm lại, xét về mặt ngôn ngữ, hắn là thằng trùm thiên hạ.

🌿Không biết chính xác hắn ở đâu. Lúc thì bảo ở quận tư, có khi lại ở quận tám.

Tóm lại hắn là thằng giang hồ. Một thằng trí thức nhất trong những thằng trí thức đúng nghĩa của Việt Nam đang là kẻ không nhà.

Hắn là thằng ma – cà – bông. Cứ khoảng chín giờ sáng là có mặt hắn ở quán cà phê, kêu li đen và ngồi rít thuốc liên tục.

Bất cứ vấn đề gì hắn cũng có thể nói được, và nói rất sâu. Gặp những từ ngữ cần chính danh, hắn có thể lấy giải nhĩa từ nguyên chữ Hán và có khi từ chữ gốc của tiếng La tinh. Hắn có thể nói từ chuyện văn chương kim cổ cho đến những phát minh từ xưa đến nay của loài người. Hắn giảng về Socrate, Platon cho đến các triết gia cận đại. Hắn nói về Mác thì ai cũng ngóng cổ lên mà nghe bởi vì toàn những vần đề mà những ngài tuyên huấn cộng sản không bao giờ biết đến và phân tích nổi. Khi hắn phân tích cách mạng Trung Hoa, cách mạng Việt Nam, rồi tương lai của toàn thế giới thì mọi người há mỏ nghe không ngậm lại được, mặt ai cũng nghệch ra như ngỗng ỉa. Trong mọi cuộc bàn luận, hắn trở thành trung tâm. Khi chưa có mặt hắn ở khu vực này, tôi được mọi người phong cho là bách khoa toàn thư, chuyện gì cũng biết. Nhưng từ khi có hắn, tôi như đèn dầu le lói mà hắn thì sáng như đèn pha. Ngay như chuyện chó mèo, chim cò, rắn rít, thú hoang hắn cũng rành như ông giáo sư Võ Qúy. Chuyện gì hắn cũng biết, mà biết rõ ngọn ngành rành mạch mới siêu chứ. Khi hắn đã nói thì chẳng còn ai có thể cãi lại hắn được. Với cái đầu của hắn, nếu được làm lãnh đạo hắn có thể là người lãnh đạo giỏi hay ít nhất đất nước sẽ nở mày nở mặt khi hắn tiếp xúc với năm châu bốn bể.

Nhưng hắn lại là thằng lang thang, sống bằng những bài dịch tin nước ngoài cho mấy tờ báo lá cải. Trong khi mấy thằng ngu thì chức cao quyền trọng, ghế cao chót vót. Đời là vậy đấy! C’est la vie!!😥😡

🌿Theo những tin tức vỉa hè thì hồi mới về nước thì hắn cũng đi làm ở Bộ Ngoại giao. Là nhân viên của một cục, một vụ gì đấy.
Nhưng vì hắn quá giỏi lại quá ngông, không chịu nghe theo những chỉ thị ngu xuẩn của lãnh đạo nên cuối cùng bị đẩy xuống làm anh chạy văn thư.
Vì cảm thấy nhục, hắn cũng kiện tụng tùm lum mà chẳng đi đến đâu nên bỏ sở mà làm kẻ lang thang.
Tôi nghĩ tánh khí ngang tàng không khuất phục chính là nguyên nhân bi kịch chối từ gia đình của hắn.

🌿Cách đây mấy năm, tôi có người bạn Pháp, một chuyên gia sưu tầm cổ vật Đông phương sang Việt Nam mua được một chậu sứ Trung Hoa rất cổ, hình như là đời đầu Minh. Chậu sứ vẽ cảnh mục đồng chăn trâu men xanh rất đẹp. Nét vẽ uyển chuyển và tinh tế của một nghệ nhân bậc thầy. Ông bạn tôi mấy lần mang về Pháp đều bị chận lại vì hải quan không cho mang cổ vật ra khỏi nước. Chuyện đến tai hắn, hắn bảo sẽ mang đi được với điều kiện bạn tôi mua vé khứ hồi cho hắn kèm theo 1500 Euro cho hắn tiêu mấy ngày ở bên đó.

Bạn tôi ok ngay. Và hắn mang đi được thật mà chẳng cần xin xỏ, khai báo gì cả. Dịp đó hắn đi hết mấy nước châu Âu; gần hai tháng sau hắn mới về. Hỏi hắn làm sao, hắn bảo có khó đéo gì đâu, vào đến phi trường tớ đến ngay quầy bán hoa lan của Đà Lạt, mua một giỏ hoa lan có cả chậu, vào ngay phòng vệ sinh, bỏ chậu ra, lấy chậu sứ thay vào.

Thế là ung dung xách giò lan bước lên máy bay chẳng thằng nào, con nào hỏi một tiếng. Ai cũng bảo hắn giỏi. Hỏi hắn ở bên đó hai tháng lấy gì mà ăn, hắn bảo hắn làm hướng dẫn viên du lịch.
Đến thành phố nào cứ thấy mấy thằng du khách ngơ ngác thì hắn sấn tới làm quen sau đó hướng dẫn người ta đi tham quan. Hỏi hắn chưa bao giờ đi qua đó, biết đếch gì mà hướng dẫn.
Hắn gào lên xin lỗi mọi người à, trước khi đi tôi đã học thuộc mấy cuốn sách hướng dẫn du lịch của hơn mười nước Châu Âu rồi. Nghe sợ chưa?

🌿Có lần tôi với hắn đi nghe một tay giáo sư người Mỹ nói chuyện văn chương, trong giờ giải lao, hắn bước đến nói chuyện với tay giáo sư đó.

Chẳng biết nó nói những gì mà khi trở lại sân khấu để tiếp tục câu chuyện, tay giáo sư người Mỹ mời hắn lên ngồi chung và giới thiệu hắn với cử tọa bằng những lời rất trân trọng.

Lần đó hắn bị công an văn hóa mời lên mấy lần để nói rõ mối quan hệ giữa hắn và tay người Mỹ. Hắn chỉ bảo là hắn không đồng tình một số ý của diễn giả và người giáo sư nể hắn. Thế thôi. Bắt nó làm tường trình, nó bảo chẳng có đéo gì mà phải tường với trình, không tin thì cứ đi hỏi tay giáo sư người Mỹ chứ tại sao lại hỏi hắn. Cuối cùng huề, chẳng có chuyện gì mà ầm ĩ.

🌿Hắn chưa bao giờ kể cho tôi nghe về mối quan hệ của hắn với phụ nữ.

Thế mà có một lần, có một người đàn bà đẹp đến tìm hắn ở quán cà phê. Tôi ngỡ ngàng khi gặp người phụ nữ này, bởi vì cô ấy quá đẹp. Một sắc đẹp đài các, duyên dáng và rất trí thức. Một khuôn mặt mà thi ca và hội họa suốt đời ca tụng.

Bữa đó không có mặt hắn ở quán và tôi tiếp chuyện với người đàn bà đẹp đó. Nàng tên là Bạch Huệ – hoa huệ trắng- cái tên nghe có vẻ hơi cải lương, nhưng cô gái đó nói chuyện rất thông minh và rất có trình độ. Nàng đi tìm hắn đã lâu rồi, và rồi không biết ai đó đã hướng dẫn nàng đến đây.

Cô gái kể sơ cho tôi nghe về mối quan hệ giữa hắn và nàng. Yêu nhau từ ngày còn ở bên Nga, nàng là con gái rượu của đại sứ Việt Nam ở đó. Một mối tình đẹp và môn đăng hộ đối. Hai người về Việt Nam và dự định khi ổn định cuộc sống sẽ làm lễ cưới.

Nhưng rồi hắn chửi lãnh đạo, mất việc, bị bố nàng nói nặng nhẹ đụng chạm tự ái sao đó, hắn chửi ông bố vợ tương lai một trận ra trò và bảo các ngài chỉ là một lũ ngu rồi bỏ đi không dấu vết. Nàng đau khổ đi tìm. Vô vọng. Mò kim đáy bể.

Cuối cùng nghe theo lời bố lấy chồng. Chồng nàng bây giờ là thứ trưởng một bộ rất quan trọng.
Tôi bảo thế thì bây giờ cô còn tìm hắn làm gì, khi đã trở thành hai tầng lớp khác nhau, vị trí xã hội cũng đã không còn như xưa nữa. Cô ấy bảo là tìm để xem hắn sống ra sao, tìm lại hình ảnh mối tình xưa đã không còn nữa và quan trọng nhất là cô ấy vẫn còn yêu hắn.

🌿Khi tôi kể lại cho hắn nghe cuộc gặp gỡ, hắn không nói gì chỉ lẩm bẩm chửi thề, chửi thề là thói quen của hắn, nên tôi không biết hắn đang chửi cái gì. Chửi số phận hay chửi mối tình của hắn. Sau đó hắn lầm lì mấy ngày rồi vắng mặt gần mười mấy hôm, cũng chẳng biết hắn đi đâu…..

🌿Hắn xuất hiện trở lại chốn giang hồ với một cọc tiền khá lớn, hắn bảo hắn vừa lãnh tiền công viết luận án tiến sĩ cho một đồng chí lãnh đạo thành phố.

Hắn nói đây là đồng tiền tanh hôi, đồng tiền đã làm lụn bại đất nước, nhưng nếu hắn không nhận làm thì thằng khác cũng làm, xã hội bây giờ thiếu gì thằng trí thức sẵn sàng làm thuê.

Hắn gom mấy đứa trẻ bán báo, đánh giày, bán vé số lại. Thuê một chiếc xe mười lăm chỗ ngồi, chở hết mấy đứa trẻ vào thành phố, mua sắm áo quần, đồ chơi, sách vở. Lại còn cho mỗi đứa mấy trăm ngàn. Cả đám trẻ sung sướng. Còn hắn thì hả hê. Chưa bao giờ thấy khuôn mặt của hắn sướng đến như vậy. Mấy bà bán dạo quanh quán cà phê bảo hắn điên, hắn cười sảng khoái, gật gù: điên, điên, đúng là điên.

🌿Tối hôm đó hắn đi vào bar Mưa Rừng, vừa bước vào cửa, mấy gã bảo vệ nhìn bộ dạng của hắn, định ngăn không cho vào.

Hắn rút ra mấy tờ bạc giúi vào tay chúng. Hai gã bảo vệ nghiêng mình, mở cửa. Hắn vào bàn, ngoắc một em phục vụ ăn mặc nóng bỏng lại, kêu cho ly sữa tươi.

Em cave nhìn hắn định cười khi dễ thì hắn đã rút hai tờ năm trăm nhét vào tay cô gái và bảo, em mua giúp anh ly sữa tươi.
Dĩ nhiên là cô gái thực hiện ngay. Ai dại gì từ chối bán ly sữa tươi giá một triệu bạc bao giờ
. Hắn uống một hơi hết ly sữa. Lại ngoắc em gái lần nữa và rút thêm một xấp tiền, bảo: vú em nhỏ quá, anh cho em chục triệu đi bơm vú to lên mà làm cho đời thêm tươi.

Cô gái há hốc mồm không kịp nói gì thì hắn đã lẳng lặng rời ghế, đi về. Chuyện này được kể lại với nhiều tình tiết ly kỳ hơn, kéo dài mấy tháng trong giới cave, sau này trở thành giai thoại, báo chí cũng có đăng.

Mọi người kháo nhau hắn là tỷ phú đóng vai kẻ nghèo vì chán cảnh giàu sang nhung lụa. Bữa đó hắn đi bộ về, vừa đi vừa khóc, chẳng ai hiểu tại sao?

🌿Hắn lại mất hút. Cả tháng rồi tôi không gặp hắn. Cho đến hôm qua, lúc trưa, tôi nhận được điện thoại của công an hỏi tôi có phải là người thân của hắn không? Tôi ừ. Đồng chí công an bảo phát hiện hắn đã chết đêm hôm qua, trong tay có mảnh giấy ghi tên và số điện thoại của tôi

.🔥 Tôi chạy ngay đến đồn, họ chở tôi đến một căn nhà nhiều phòng ở một chung cư tại quận tư.

Hắn nằm đó, khuôn mặt thanh thản và bình yên, trên môi phảng phất nụ cười. Chung quanh giường và tràn ngập căn phòng là những cành huệ trắng. Màu trắng của huệ, màu trắng của chiếc drap giường và bộ đồ trắng lần đầu tiên tôi thấy hắn mặc làm cho căn phòng tinh khiết lạ lùng và cũng tang tóc vô cùng.

Trên đầu giường có một bức tranh sơn dầu nhỏ vẽ chân dung một cô gái cũng mặt chiếc váy trắng. Khuôn mặt trong hình rất quen. Đó là chân dung của Bạch Huệ. Thì ra hắn tự tử bằng hoa huệ. Hắn đã chất đầy căn phòng hoa huệ trắng, đóng kín cửa và hắn từ từ chết trong hương thơm ngào ngạt của loài hoa huệ trắng.

Trong tờ giấy hắm nắm trong tay lúc ra đi, ngoài tên và số điện thoại của tôi, hắn còn ghi thêm hai dòng nữa.
Dòng đầu hắn cho biết là hắn tự kết liễu đời mình, không liên lụy đến ai. Dòng sau hắn ghi là hắn không còn cha mẹ, anh em, bà con ruột thịt nên nhờ tôi hỏa tang thân xác hắn và rải tro xuống sông để cho hắn được trôi ra biển lớn. Tôi đưa tay chào như chiến sĩ, như một lời chia tay.

🌿Ba hôm sau, tôi nhận được mail của hắn. Nhìn thấy tên hắn là tên người gởi, tôi lạnh dọc sống lưng. Sao hắn chết ba hôm rồi, than xác hắn đã thành tro bụi rải xuống sông rồi. Sao lại còn có thư của hắn gởi.

🔥Hắn viết:

“Gởi anh.

Đã đến lúc tôi cảm thấy mình thừa thãi trong cuộc đời này. Tôi không còn lí do để tồn tại nữa. Phải biết đúng lúc để rút lui là người khôn ngoan. Tôi đã làm tròn phận sự và tôi phải ra đi. Biết đâu ở thế giới khác sẽ vui hơn trần gian điên dại này? Xem như không có V. Huy ở cuộc đời này, quá khứ cũng như tương lai.

Anh ở lại hãy sống vui.

V. Huy

Tái bút: Tôi nhờ anh đến địa chỉ…lấy một số vật dụng của tôi và đốt tất cả giúp tôi. Đốt hết và đừng giữ lại gì. Cám ơn anh.

Anh đừng sợ hãi khi nhận được thư này. Tôi gởi thư theo chế độ hẹn. Tôi hẹn ba ngày sau khi tôi ra đi, máy mới gởi thư đi”.

🌿Tôi đến địa chỉ hắn đã ghi, người ta giao cho tôi một thùng to, vất vả lắm tôi mới chở được về nhà. Những gì trong đó làm tôi kinh ngạc đến sững sờ.

🔥18 cuốn nhật ký hắn ghi từ lúc bảy tuổi cho đến trước ngày hắn chết một tuần lễ với nhiều suy nghĩ gây sửng sốt.

🔥72 bản dịch những cuốn tiểu thuyết của nhiều nhà văn nổi tiếng trên thế giới.

🔥4 bản dịch sang tiếng Đức cuốn Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Thơ các thiền sư đời Lý và cuốn Đoạn trường vô thanh.

🔥3 tập phê bình và nhận định những sai lầm của chủ nghĩa Mác viết bằng tiếng Anh.

🔥2 cuốn nói về sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thế kỉ 21 viết bằng tiếng Pháp.

🔥43 cuốn phân tích và phê bình về các tác giả Việt Nam từ thơ ca đến tiểu thuyết.

🔥12 cuốn viết về các danh nhân văn hóa Trung Quốc và sự ảnh hưởng của họ.

🔥5 cuốn dịch thơ Đường sang tiếng Việt.

🔥3 cuốn chép tay kinh Phật bằng tiếng Pali.

🔥1 cuốn dịch nhạc Trịnh Công Sơn sang tiếng Tây Ban Nha.

🔥8 tập thơ hắn viết từ hồi 15 tuổi cho đến năm ngoái, tức là cả năm nay hắn không còn làm thơ.

🔥1 cuốn luận án tiến sĩ của hắn với tiêu đề: “Tìm hiểu chính sách ngoai giao của nhà nước Việt Nam từ đời Lý đến 1945”..với nhiều lời phê khen ngợi.

🔥Và nhiều bằng cấp giấy khen của nhiều trường học, tổ chức trong và ngoài nước. Nhiều bài báo của hắn viết trên nhiều tạp chíchuyên ngành của nhiều tổ chức khoa học tiếng tăm trên thế giới.

🌿Một gia tài đồ sộ chứng tỏ sự uyên thâm cùng sức làm việc khủng khiếp của hắn.

Tôi mất gần cả năm nay mà vẫn chưa đọc hết những gì hắn đã viết, và tôi sẽ tiếp tục đọc để hiểu hắn hơn, để càng thêm cảm phục hắn.
💔 Một thiên tài đã sinh nhầm nơi chốn. Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ..

🌿Tôi không đốt như ý nguyện của hắn. Tôi đóng một tủ sách khá đẹp, đem tất cả tác phẩm hắn đã viết sắp xếp thứ tự. Ngoài mặt tủ, tôi đi thuê khắc dòng chữ: “CÓ MỘT NGƯỜI TÊN V. HUY“

VPA st

 From: Tham Nguyen & KimBang Nguyen

Đám Cưới bên giường bệnh

Đám Cưới bên giường bệnh

22/05/2020

Tôi tên Don, một cựu quân nhân Mỹ. Khi vừa học xong đại học thì chiến trường Việt Nam bộc phát mạnh, tôi cũng như đa số thanh niên đều phải đi lính.

Sau một thời gian huấn luyện, tôi được gửi sang Việt Nam.

Ở đại học tôi theo ngành chính trị và báo chí nên chỉ biết về Việt Nam qua hình ảnh và sách vở. Tôi biết lờ mờ về xứ Việt Nam, nơi có chiến tranh triền miên, từ năm này đến năm khác, hết người Pháp và giờ đến Mỹ liên lụy vào. Những trận đánh như Điện Biên Phủ, Đồng Xoải, Bình Giả, Mậu Thân… mà báo chí, TV liên tiếp bình luận khen chê…

Sang Việt Nam người ta không cho tôi đi đánh nhau như tôi nghĩ mà cử tôi lo về tâm lý chiến, có lẽ cấp chỉ huy biết tiểu sử của tôi trên đại học. Một thời gian sau tôi được chuyển về làm cố vấn cho chi khu Hàm Tân của tỉnh Bình Tuy, một ông cố vấn còn quá trẻ, tuổi chưa tới 25. Từ trước cố vấn Mỹ chỉ tới tiểu khu tức cấp tỉnh, sau này tăng cường cố vấn Mỹ về đến chi khu tức cấp quận, có lẽ vì thế nên thiếu nhân sự. Tôi ăn ở ngay trong khu hàng rào quận.

Công việc hàng ngày của tôi là cung cấp tin tức chiến sự lên cấp trên, đệ đạt ý kiến mà nhu cầu địa phương đòi hỏi như xin tiếp liệu, yểm trợ…

Hàm Tân là một quận hạt nhỏ, sát với Phan Thiết, phía Đông là biển. Dân đa số sống bằng nghề đánh cá. Đời sống ở đây rất buồn, sợ an ninh nên không bao giờ dám đi tắm biển hoặc đi chơi xa. Cô bạn gái của tôi ở Mỹ chắc giờ đã có người khác vì 2 lá thư tôi gửi đều không được hồi âm. Tôi sống trong quận như một nhà tu.

Ông quận trưởng là một Đại úy, khá lớn tuổi, đời sống rất mẫu mực, tôi nghe báo cáo từ ngày ông về làm quận trưởng Việt cộng không dám quấy rối và phá hoại nữa. Ông giải thích với tôi về chiến thuật của ông: Dưới quyền ông có 4 trung đội địa phương quân, hai trung đôi túc trực trong quận, trong các lô cốt, còn hai trung đội luôn luôn ở bên ngoài. Ban đêm nằm phục ở các tuyến quan trọng dẫn vào quận, nếu Việt cộng vào là bị chặn đánh ngay nên Việt cộng không làm gì được nhờ vậy ban đêm rất an ninh. Tôi yên tâm nhưng rất buồn vì không có gì giải trí, thỉnh thoảng được về Sài Gòn nhưng rồi cũng phải trở lại nhiệm sở. ..

Cho tới một hôm tôi nhận được giấy mời của ông hiệu trưởng trường tiểu học Hàm Tân đến dự lễ khánh thành 2 lớp học mới hoàn tất do tiền viện trợ của Mỹ giúp. Tôi, ông quận trưởng và phó quận trưởng ngồi hàng ghế quan khách cùng với các vị xã trưởng như Văn Mỹ, Tam Tân và Hiệp Nghĩa. Sau bài diễn văn khai mạc ngắn gọn của ông Hiệu trưởng, một cô giáo lên nói bằng tiếng Anh, đại ý cám ơn chúng tôi đến dự và cám ơn chính phủ Hoa Kỳ đã giúp đỡ tài chánh để hoàn tất 2 lớp học mới này.

Cô nói tiếng Anh rất lưu loát. Nhan sắc thật đẹp. Lần đầu tiên tôi thấy một người con gái Việt Nam đẹp như thế. Dáng nàng thùy mỵ, da trắng hồng, mái tóc xõa ôm lấy bờ vai, áo dài màu nhạt, tha thướt như một nữ sinh chứ không giống một cô giáo. Tôi ngây ngất nhìn. Tôi như bị người con gái này khớp hồn. Tôi muốn được quen cô nhưng chưa biết làm cách nào. Đợi chương trình chấm dứt, tôi đi thăm phòng học rồi lân la đến gần cô. Tôi tự giới thiệu:

– Tôi tên Don. Rất hân hạnh được gặp cô.

– Cám ơn anh. Tôi tên Hạnh.

– Cô nói tiếng Anh hay lắm. Cô dạy ở đây lâu chưa ?

– Mới gần một tháng. Tôi tốt nghiệp trường sư phạm Sài Gòn và về đây.

Tôi nói với cô:

– Tôi về quận này được gần một năm rồi.

Tôi định nói: “Lần đầu tiên tôi thấy một người con gái đẹp như cô” nhưng không hiểu sao tôi lại thôi rồi đổi sang câu nói khác:

– Cô nói tiếng Anh không khác gì người Mỹ.

– Cám ơn anh đã quá khen.

Hạnh thay mặt ông Hiệu Trưởng mời chúng tôi ăn bánh và uống nước rồi mới ra về. Tôi bắt tay Hạnh và nói: “Mong thỉnh thoảng được gặp cô”. Hạnh chỉ mỉm cười và không trả lới, nhưng nhìn khoé mắt tôi hiểu là Hạnh cũng có cảm tình với tôi.

Tôi biết chỗ ở của Hạnh. Nàng thuê một phòng trên lầu của một căn nhà đẹp nhất quận, muốn đến thăm nàng phải qua nhà chủ ở dưới nên hơi bất tiện, hơn nữa tôi lại là người Mỹ, đi đâu cũng bị dân địa phương dòm ngó nên thỉnh thoảng mới đến thăm nàng. Hạnh không cho tôi lên phòng của nàng, chỉ tiếp tôi nơi phòng khách của chủ.. Tôi muốn rủ Hạnh đi chơi nhưng rất khó vì an ninh trong quận nên không dám đi xa và có lẽ Hạnh cũng không nhận lời vì sợ dư luận.

Tôi mỗi ngày một yêu Hạnh hơn nhưng không biết làm sao. Lấy chồng tôi biết nàng chưa sẵn sàng vì nàng mới 21 tuổi. Nếu ở Sài Gòn chúng tôi sẽ dễ dàng hơn là ở quận nhỏ này, hơn nữa nàng lại là một cô giáo nên cần phải giữ gìn ý tứ…

Chiến trường ngày một sôi động và biến chuyển quá mau lẹ. Chính phủ Mỹ dự trù rút khỏi Việt Nam. Tôi được lệnh rời Hàm Tân ngay để về Sài Gòn và có thể về Mỹ ở luôn. Tôi rất buồn vì phải xa Hạnh. Khi hành lý đã sẵn sàng tôi đến tìm Hạnh, rất may Hạnh mới đi dạy về. Chủ nhà đi vắng, tôi vào trong nhà và nói với Hạnh là khoảng 4 giờ chiều máy bay trực thăng đến đón và tôi phải đi ngay.

Hạnh im lặng không nói gì. Lúc này sao tôi thấy Hạnh đẹp thế và thương nàng vô cùng. Tôi rủ Hạnh đi với tôi nhưng Hạnh lắc đầu từ chối. Tôi đến bên Hạnh rồi không hiểu sao tôi ôm chầm lấy nàng và hôn lên má, lên môi nàng. Môi Hạnh nóng và run run. Tôi chưa bao giờ được hôn người con gái có đôi môi mềm và ngọt ngào như vậy. Tôi có cảm giác tôi là người đầu tiên hôn nàng. Hạnh không chống đối nhưng cũng không ôm lại tôi, Hạnh hồi hộp và da mặt nóng bừng.. Mãi lúc sau tôi mới buông Hạnh ra và nói lời xin lỗi: “Anh xin lỗi đã làm em bất ngờ nhưng anh yêu em quá và không biết đến bao giờ mới được gặp lại…”

Có tiếng máy bay trực thăng, tôi nói trong vội vàng: “Mong có một ngày anh trở lại đón em”. Hình như Hạnh khóc, tôi không dám quay lại nhìn. Rồi tôi về Mỹ và giải ngũ. Chiến tranh Việt Nam chấm dứt.

Người bạn gái của tôi ở Mỹ khi xưa đã đi lấy chồng. Tôi sống bơ vơ. Thời gian trở lại Việt Nam để thăm Hạnh thật xa vời. Tôi đi tìm việc làm, kiếm việc rất khó vì rất nhiều quân nhân giải ngũ sau chiến tranh Việt Nam. Tôi làm đủ thứ nghề nhưng không có nghề nào là chính, bẩy tám năm sau nhờ có người giới thiệu đi làm QA Engineer cho một hãng lo về quốc phòng. Tuy gọi là Engineer nhưng không có liên hệ nhiều với kỹ thuật nên rất dễ dàng. Công việc nặng về giấy tờ. Hãng ký giao kèo để làm từng bộ phận cho một chiến hạm.

Đầu tiên một nhóm engineer design phần hardware, họ họp và bàn luận, khi đã đến phần chung kết tôi được gọi đến như là một nhân chứng và ký vào biên bản cuộc họp rồi người ta viết cách thử bộ phận này như thế nào, sửa chữa cho đến khi hoàn tất rồi lại họp gọi là “review document”, mỗi đại diện đến họp được phát một quyển sách gọi là document để về xem lại và đề nghị sửa chữa nếu cần rồi in ra bản mới. Tôi, đại diện hải quân (Navy) và đại diện bộ quốc phòng ký vào document rồi theo đó định ngày đem ra test thử. Mỗi lần làm như thế tôi lại được gọi đến như là nhân chứng. Hãng định ngày final test. Tôi, đại diện hải quân, đại diện bộ quốc phòng được mời đến chứng kiến và theo dõi xem họ làm có đúng như document không, nếu đúng thì chúng tôi ký vào biên bàn, nếu sai cần được sửa chữa thì lại họp rồi làm lại, hết product này làm đến product khác. Công việc hàng ngày của tôi chỉ có thế, không mấy hứng thú nhưng tôi cần có tiền để tiếp tục học luật trở lại.

Một hôm tới giờ ăn trưa, tôi đang đi trong hành lang để đến phòng ăn. Xa xa có một người con gái trông dáng dấp quen quen, tôi đứng lại đợi. Tôi lên tiếng hỏi:

– Xin lỗi có phải cô Hạnh không ?

Người con gái mỉm cười thật tươi:

– Dạ. Ô kìa anh Don. Anh cũng làm ở đây hở?

– Anh làm ở đây được một năm rồi. Còn Hạnh ?

– Em ở Building bên kia, hôm nay mới thuyên chuyển sang đây.

Tôi mừng quá rồi ôm chầm lấy nàng và chúng tôi vào ngồi ăn với nhau. Hạnh cho tôi biết nàng về Sài Gòn 2 tuần trước khi miền nam rơi vào tay cộng sản. Hạnh và cô em tên Liên theo đoàn người ra bến Bạch Đằng, lên được tàu rồi sang Phi Luật Tân, một năm sau vào được Hoa kỳ. Hạnh ghi tên học college, 2 năm sau nàng lấy được bằng AS và đi làm Electronic Technician.

Tan sở ra về tôi không biết là mộng hay thực nữa. Tôi không ngờ có ngày gặp lại nàng. Hạnh vẫn đẹp như xưa nhưng hơi gầy và có vẻ không được khoẻ. Mới gặp tôi Hạnh mừng lắm nhưng chỉ một lúc sau Hạnh lộ vẻ buồn.

Tôi đến thăm Hạnh và được biết Hạnh và em gái sống vơí nhau. Mẹ Hạnh ở lại Việt Nam đợi bố nên không đi nhưng rồi bố Hạnh là cựu Trung tá bị chết trong trại tù Cộng sản ngoài Bắc… Thỉnh thoảng chúng tôi đi chơi với nhau rồi tôi đề nghị làm đám cưới, Hạnh lắc đầu và nước mắt nàng chảy ra. Hạnh nói người đàn ông duy nhất Hạnh yêu là tôi và không có ai khác nữa nhưng đám cưới thì nàng không bằng lòng. Hạnh rủ tôi thỉnh thoảng đến ăn với nàng, Hạnh săn sóc tôi không khác nào người vợ săn sóc chồng.

Chúng tôi gặp lại nhau được gần một năm thì Hạnh phải vào nhà thương vì một căn bệnh hiểm nghèo đã bộc phát trở lại. Bác sĩ cho biết nàng chỉ có thể sống được thêm 6 tháng nữa. Tôi vào thăm thì lúc đó Hạnh đã hôn mê và không nói được nữa.

Liên, em gái của Hạnh biết chúng tôi thật tình yêu nhau nên nói với tôi: “Chị Hạnh yêu anh lắm, anh là người đầu tiên chị yêu, rất muốn làm vợ anh nhưng vì chị bị bệnh nên không dám nhận lời lấy anh, sợ anh phải khổ…” , nói rồi Liên đưa cuốn nhật ký của Hạnh cho tôi. Đêm hôm đó tôi thức suốt đêm vì những trang nhật ký của nàng. Hạnh viết bằng 2 thứ tiếng: Việt và Mỹ;

Hàm Tân ngày… Người đàn ông đầu tiên hôn tôi lại là người Mỹ. Từ trước tới giờ tôi vẫn tâm niệm người hôn tôi đầu tiên là người tôi yêu và sẽ lấy ngưới ấy làm chồng. Thật oái oăm, anh hôn tôi rồi anh bỏ tôi để về Mỹ… Nhìn đôi mắt anh tôi thấy anh thành thật, anh đâu khác gì người Việt Nam. Anh cuồng nhiệt làm tôi điêu đứng. Tôi luống cuống và run rẩy trong tay anh.

Tiếc quá sao hôm đó tôi không ôm chặt lấy anh rồi đi theo anh để bây giờ tôi không phải nhớ nhung. Mỗi buổi sáng soi gương tôi thấy môi tôi “kỳ kỳ” làm sao, cũng làn môi ấy nhưng sao tôi thấy hơi là lạ, tôi bậm môi rồi nuốt vào trong bụng như để giữ mãi môi anh trong tôi…

Cali ngày… Bao nhiêu mong ước được gặp lại anh và rồi cuối cùng được gặp anh trên đất Mỹ thật. Don, em yêu anh và rất muốn được làm vợ anh nhưng em không thể nghe lời anh được. Em không muốn làm khổ anh. Bác sĩ nói em chỉ sống được hơn 1 năm nữa. Em cố gắng đi làm để được gần anh. Em đi làm đến khi em gục xuống thì thôi…

Hôm sau tan sở tôi đến thẳng bệnh viện thăm Hạnh. Ngồi một lúc thì Liên tới, tôi bàn với Liên là tôi phải làm một cái gì cho Hạnh vui, biết đâu nhờ tình yêu mà Hạnh khỏi bệnh. Rồi tôi nói với Liên: “Anh sẽ làm đám cưới với Hạnh”. Liên ngạc nhiên không hiểu sao tôi lại làm như thế. Đám cưới với một người đang rên la trên giường bệnh ? Nhưng thấy tôi nhật định nên Liên nghe theo.

Tôi liên lạc với vị Mục Sư trong nhà thờ để định ngày, giờ đám cưới. Liên mời 2 người bạn thân với Hạnh hồi còn học Trưng Vương và tôi mời 3 người bạn trong sở, có một người là xếp của Hạnh. Đám cưới hôm đó có 9 người. Liên cẩn thận mua cho tôi một bó hoa để trao cho Hạnh. Tôi xin phép bệnh viện và được chấp thuận. Thế là đám cươí bên giường bệnh được diễn ra.

Vị Mục sư hỏi tôi đại khái; “Don, anh có bằng lòng lấy Hạnh làm vợ không? Thưa bằng lòng.”. “Don, anh có bằng lòng săn sóc Hạnh suốt đời không ? Thưa Bằng lòng”. Mục sư quay ra hỏi Hạnh: “Hạnh, cô có bằng lòng lấy Don làm chồng không?”, Tất cả 7 người đứng đó im lặng chờ đợi không biết sao, Liên nhanh nhẹn ghé sát vào tai chị: “Nếu chị bằng lòng lấy anh Don thì chị chớp mắt nhá”. Mọi người nhìn về phía Hạnh thấy nàng chớp chớp mắt, chúng tôi vỗ tay mừng rỡ. Vị Mục sư cũng vui mừng và nói: “Lần đầu tiên trong đời tôi cử hành một đám cưới như thế này” .

Sau hôm đám cưới, Hạnh vui hơn và tỉnh lại dần. Rồi như một phép lạ, ba tuần sau nàng được xuất viện và mỗi tháng một lần phải trở lại tái khám. Hạnh về nhà nhưng vẫn chưa thể tự túc được. Hàng ngày tôi và Liên thay nhau săn sóc Hạnh. Tám tháng sau Hạnh đi lại được trong nhà và tự ăn uống lấy. Tôi vui theo với sức khoẻ của Hạnh.

Tôi sống với Hạnh như thế được gần 6 năm. Rồi một hôm Hạnh mệt và không muốn ăn, tôi lấy sữa ensure cho Hạnh uống nhưng nàng chỉ uống chưa được nửa lon. Hôm sau Hạnh có hẹn với bác sĩ, tôi dự tính sẽ hỏi xem tình trạng như thế nào. Rồi không hiểu sao Hạnh kéo tôi xuống nằm bên nàng. Hạnh hôn tôi và nói; “Em cám ơn anh đã hy sinh cho em nhiều quá. Em yêu anh và mãi mãi yêu anh.. Em biết bệnh tình của em. Em không thể sống được nữa và sắp phải xa anh…”. Nói xong Hạnh nấc lên một tiếng rồi nằm im, hơi thở không đều. Tôi vội vàng gọi xe cứu thương. Xe cứu thương tới đưa Hạnh vào bệnh viện. Tôi lái xe theo sau. Người ta tiếp nước biển và đo tim mạch cho nàng. Hạnh được giữ lại trong nhà thương. Vì phải đợi kết quả thí nghiệm nên chưa biết bệnh tình ra sao. Tôi hồi hộp chờ đợi. Hạnh mỗi ngày một yếu đi, mắt nhắm lại.

Ở trong bệnh viện đến tuần lễ thứ hai thì Hạnh hầu như không còn biết gì nữa, tim đập bất thường. Rồi bác sĩ đến bên tôi và nói bệnh tình Hạnh tái phát và không thể chữa được nữa. Ông ngỏ lời chia buồn với tôi. Lúc này Hạnh đã ngừng thở. Ông ra lệnh cho y tá tháo giây nối nước biển và tim mạch ra khỏi người Hạnh. Tôi đến gần cúi xuống ôm lấy Hạnh. Tôi hôn lên trán nàng và nước mắt tôi tự nhiên chảy ra…

(Viết theo tâm sự của một cựu quân nhân Mỹ)

Hoàng Nguyên Linh

CHIẾC KHĂN MU-SOA – (Tiểu Tử)

CHIẾC KHĂN MU-SOA

TIỂU TỬ

Hôm đó, tôi nhận được một CD gởi từ Bruxelles (nước Bỉ) trên CD thấy đề: ” À Monsieur Tiêu Tu “. Chữ viết bằng bút feutre rõ nét, nói lên người viết có trình độ. Tuy viết ” Tiểu Tử ” không có dấu, người gởi viết tên của mình lại có dấu đầy đủ:

” Exp : Nguyễn Thị Sương ” ! Vừa ngạc nhiên vừa thích thú, tôi vội vã đặt dĩa vào máy, nghe. Đó là giọng một người con gái miền Nam, trong trẻo, phát âm rõ ràng. Những gì cô ta nói đã làm tôi xúc động, có lúc tôi ứa nước mắt! Tôi đã nghe nhiều lần và cố gắng ghi chép lại đây. Dĩ nhiên là tôi đã viết để đọc cho suông sẻ chớ cô gái nói còn nhiều chỗ nghe sượng hay dùng từ chưa chính xác

…Thưa ông,

 Con tên Nguyễn Thị Sương, con của Nguyễn Văn Cương, một trong những nhân vật trong truyện ngắn ” Con Rạch Nhỏ Quê Mình ” của ông.

 Thưa ông. Con sanh ra và lớn lên ở Pháp, biết nói tiếng Việt nhưng không biết đọc và viết tiếng Việt. Vì vậy, con phải dùng cách nầy để liên lạc với ông. Xin ông thông cảm!

 Hôm chúa nhựt rồi, chị Loan bà con bạn dì của con ghé nhà nói:

 ” Sương ơi ! Người ta nói về ba của Sương ở trong truyện ngắn đăng trên internet cả tuần nay nè ! Chị in ra đem qua đây đọc cho em nghe. “. Rồi chỉ đọc:

 Đó là truyện ” Con Rạch Nhỏ Quê Mình “..

 Thưa ông. Con chưa biết Việt Nam, nhưng những gì ông tả trong truyện làm như con đã thấy qua rồi! Bởi vì hồi con mới lớn ba con thường hay kể chuyện về cái làng Nhơn Hòa và con rạch Cồn Cỏ của ba con, về những người bạn của ba con hồi thời tuổi nhỏ, kể tỉ mỉ đến nổi con có cảm tưởng như ba con đang cầm tay con dẫn đi coi chỗ nầy chỗ nọ ( Nói đến đây, giọng cô gái như nghẹn lại vì xúc động . Ngừng mấy giây rồi mới nói tiếp…) Mà ba cứ kể đi kể lại hoài làm như là những hình ảnh đó nó ám ảnh ba dữ lắm. Sau nầy thì con mới hiểu khi ba con nói:

 ” Hồi đó, ba đi Pháp quá sớm, ở cái tuổi chưa biết gì nhiều. Rồi qua đây, chóa mắt ngất ngây với những văn minh tiến bộ của xứ người làm ba quên đi cái làng nhà quê của ba. Điều ân hận lớn nhứt của ba là đã không viết gởi về một chữ để hỏi thăm bạn bè hồi đó. Ba phải về thăm lại Nhơn Hòa Cồn Cỏ, con à ! “. Nói đến đó, ba ứa nước mắt nắm bàn tay con dặc dặc:

 ” Mà con cũng phải về với ba nữa! Về để cho ba lên tinh thần! Về để thấy ba biết xin lỗi mọi người! Về để thấy ba biết nhìn lại cái quê hương của ba cho dầu nó có quê mùa xấu xí bao nhiêu đi nữa! Về để thấy ba chưa đến nỗi là thằng mất gốc! “. ( Đến đây, không còn nghe gì nữa ! )

 Xin lỗi ông ! Con đã ngừng thâu để con khóc ( Rồi giọng cô lạc đi ) Con thương ba con! ( Ngừng một lúc )

 Thưa ông. Ba má con đều là giáo sư toán, dạy ở lycée. Má con mất hồi con mười tuổi. Bây giờ con làm chủ một tiệm sách ở Bruxelles, ba con dạy ở cách nhà không xa lắm. Một hôm, ba nói:

 ” Ba được một thằng bạn học hồi ở đại học, người Phi Châu, mời qua xứ nó giúp tổ chức lại hệ trung học. Ba đã OK. “. Rồi ba đưa cho con một phong bì loại A4, nói : ” Con ráng tìm cách về Nhơn Hòa Cồn Cỏ, trao cái nầy cho cô Hai Huê nói ba không quên ai hết ! “. Con nhìn thấy trên phong bì ba viết ” Mến trả lại Huê, kỷ vật của thời tuổi nhỏ. Cương “. Vậy rồi ba qua Phi Châu làm việc rồi mất ở bển trong mấy trận nội chiến ( Chắc ngừng thâu ở đây nên không nghe gì nữa )

 Thưa ông. Nhờ nghe đọc ” Con Rạch Nhỏ Quê Mình ” mà con biết được mối tình một chiều của cô Hai Huê, biết được cái khăn mu-soa mà cô Hai đã thêu tặng ba con thuở thiếu thời. Cái khăn đó, bây giờ thì con biết nó đang nằm trong phong bì A4 mà con đang giữ để trả lại cô Hai. Và bây giờ thì con thấy thương cô Hai vô cùng và cũng thấy tội nghiệp ba con vô cùng ( Chỗ nầy giọng cô gái lệch đi, ngừng một chút mới nói tiếp ) Con nhờ ông giới thiệu con cho bác Sáu Lân, người đã kể chuyện để ông viết về Nhơn Hòa Cồn Cỏ. Con sẽ xin bác Sáu đưa con về đó để con làm theo lời dặn của ba con …

 Địa chỉ và số phôn của con như sau :

Melle Nguyên ……

 Con cám ơn ông.

 Con : Sương

Nhớ lại, cách đây khá lâu, một thằng bạn ở Marseille ( miền Nam nước Pháp ) gọi điện thoại lên Paris cho tôi, nói : ” Dưới nầy trời tốt, mầy xuống chơi, đi câu với tao. Sẵn dịp, tao giới thiệu mầy cho một ông bạn mới từ Việt Nam qua định cư ở đây. Tao có khoe với ổng là mầy viết lách khá lắm. Ổng nói ổng muốn nhờ mầy viết một chuyện nhỏ ở dưới quê của ổng để ổng tìm một người bạn. Tao thấy coi bộ ngộ à ! Xuống, đi ! “. Vậy rồi tôi đi Marseille. Sau đó, tôi viết ” Con rạch nhỏ quê mình ” với câu gởi gắm của ổng : ” Tôi nhờ ông viết lại giùm. Biết đâu chừng thằng Cương sẽ đọc. Để nhắc nó đừng quên con rạch Cồn Cỏ, đừng quên thằng Đực Nhỏ, thằng Lân, con Huê … “.

Sau khi nghe CD và ghi chép lại, tôi gọi điện thoại xuống Marseille thì thằng bạn tôi cho hay là ông Lân đã dọn về ở ngoại ô Paris, cách đây mấy năm. Nó cho tôi địa chỉ và số điện thoại của ổng. Vậy rồi ổng và tôi gặp nhau. Tôi kể sơ câu chuyện và đưa cho ổng mượn cái CD. Tôi thấy ổng rơm rớm nước mắt khi nghe tôi nói làm tôi cũng xúc động: người đàn ông hiên ngang, xong xáo trong trận mạc, gan lỳ đánh Việt cộng đến nỗi mang hỗn danh ” thằng Lân ăn pháo “… vậy mà bây giờ cũng biết ứa nước mắt khi nhận được tin thằng bạn không bao giờ gặp lại !

Khi chia tay, ổng nói : ” Cám ơn ông! Nhờ có bài viết của ông mà hôm nay tôi mới có tin của thằng Cương! Tôi sẽ thay nó, đưa con gái nó về thăm Cồn Cỏ! Và thắp cho nó ba cây nhang ở đầu vàm để vong hồn nó nương theo đó mà tìm lại con đường về … “.

* * *

Hơn một tháng sau, ông Lân gọi điện thoại cho tôi nói ổng vừa ở Việt Nam về, muốn gặp tôi để trả cái CD và để ổng kể chuyến đi nầy của ổng. Vậy là chúng tôi đã gặp nhau và tôi đã ghi những lời ổng kể …

 … Nhờ cái CD ông cho tôi mượn mà tôi liên lạc được con Sương. Tội nghiệp! Biết được là tôi gọi, nó khóc ồ ồ ở đầu dây bên kia! Sau đó, nó kêu tôi bằng ” Bác Sáu “, ngọt như tôi là bác ruột của nó vậy! Thấy thương quá!

 Vậy rồi hai bác cháu tôi bay về Việt Nam. Ở Sài Gòn chúng tôi mướn một chiếc xe hơi có tài xế để về Nhơn Hòa Cồn Cỏ. Trên xe, tôi nói với con Sương: ” Ở Cồn Cỏ, ba của con không còn bà con gì hết, họ đã dọn lên tỉnh ở mấy chục năm nay. Bây giờ, ba con chỉ còn có một người bạn thân … ” . Con nhỏ nói; ” Cô Hai Huê ! “. Tôi gật đầu ờ. Nó nói tiếp: ” Cô Hai là người ba nhắc thường nhứt và ba hay thở dài nói ba có lỗi với cô Hai nhiều lắm! Thấy ba con như vậy, con cũng nghe đau lòng, bác Sáu à ! “.

 Thấy thương quá, tôi cầm bàn tay nó bóp nhẹ. Con Sương nhìn cảnh vật bên ngoài nhưng vẫn để bàn tay nó trong lòng bàn tay tôi. Ông biết không ? Tôi không có con, bây giờ, trong cái cầm tay nầy, tôi bỗng cảm thấy như thằng Cương vừa đặt vào tay tôi một đứa con. Trời Đất ! Sao tôi muốn nói : ” Sương ơi ! Từ nay, bác Sáu sẽ thay ba con mà lo lắng bảo vệ con như con là con của bác vậy! “. Nhưng thấy có vẻ cãi lương quá nên tôi làm thinh!

 Xe ngừng ở chợ Cồn Cỏ. Bác cháu tôi vô chợ nhà lồng đến sạp vải của con Huê thì thấy một cô gái lạ. Cổ nói cổ là cháu kêu con Huê bằng dì và đến đây phụ bán vải từ mấy năm nay. Cổ nói : ” Dì Huê có ở nhà, ông bà vô chơi ! “.

 Chúng tôi đi lần theo con đường nằm dọc bờ rạch. Đường nầy bây giờ được tráng xi-măng sạch sẽ. Tôi nói:

 ” Nhà cô Hai có cây mù u nằm trước nhà cạnh bờ rạch, dễ nhận ra lắm ! “. Đến nơi, thấy còn nguyên như cách đây mấy chục năm: cũng hàng rào bông bụp thấp thấp, qua một cái sân nhỏ là ngôi nhà xưa ngói âm dương, kèo cột gỗ, ba gian hai chái với hàng ba rộng, một bên hàng ba có một bộ ván nhỏ … Tôi hơi xúc động vì bắt gặp lại những gì của thời cũ. Chỉ có bao nhiêu đó thôi – nhỏ xíu – vậy mà sao gợi lại được vô vàn kỷ niệm ! Tôi gọi lớn: ” Huê ơi Huê ! “. Trong nhà chạy ra một người đàn bà tóc bạc nhìn tôi rồi la lên: ” Trời Đất ! Anh Lân ! “. Tuy cô ta đang nhăn mặt vì xúc động, tôi vẫn nhận ra là Huê ! Không kềm được nữa, Huê và tôi cùng bước tới nắm tay nhau vừa dặc dặc vừa nói ” Trời Đất ! Trời Đất ! ” mà không cầm được nước mắt!

 Một phút sau, Huê buông tay tôi ra quay sang con Sương, hỏi:

” Còn ai đây ? “. Tôi nói:

” Con Sương ! Con thằng Cương ! “.. Nó hỏi:

” Còn anh Cương đâu ? “. Con Sương thả rơi ba-lô xuống đất, bước lại phía con Huê, nói:

” Ba con chết rồi, cô Hai ơi ! “. Con Huê chỉ nói được có một tiếng ” Chết ” rồi xiêu xiêu muốn quị xuống.

 Con Sương phóng tới đỡ con Huê, nói:

 ” Cô Hai ơi ! “. Rồi hai cô cháu ôm nhau khóc nức nở.

 Tôi đứng tần ngần một lúc mới bước lại đặt tay lên vai Huê bóp nhẹ:

 ” Tại cái số hết, Huê à ! Thằng Cương đang dạy ở bên Bỉ, mắc gì mà qua Phi Châu làm việc để rồi chết mất xác trong chiến tranh ở bên đó. Tại cái số hết ! Phải chịu vậy thôi ! “.

 Con Sương dìu Huê lại ngồi ở bực thềm, vói tay mở ba-lô lấy phong bì A4, nói:

 ” Ba con gởi cái nầy cho cô “. Huê cầm phong bì, nheo mắt đọc rồi lắc đầu nhè nhẹ:

 ” Chắc là cái khăn mu-soa ! “.. Huê xé phong bì lấy khăn ra cầm hai góc khăn đưa lên nhìn:

 khăn còn thẳng nếp, chưa có dấu hiệu xử dụng ! Huê nhăn mặt, đưa khăn lau nước mắt của mình rồi sang qua lau nước mắt của con Sương làm nó cảm động nấc lên khóc. Huê nói:

 ” Khăn nầy cô thêu tặng cho ba của con, nhưng không có duyên nên khăn lại trở về. Bây giờ, cô tặng cho con để kỷ niệm ngày cô cháu mình gặp nhau “. Con Sương cầm lấy khăn rồi ngả đầu vào vai Huê, nói:

 ” Con cám ơn cô Hai “. Huê vừa gật đầu vừa choàng tay ôm con Sương lắc nhè nhẹ như vỗ về đứa con!

 Tôi bước ra bờ rạch ngồi cạnh gốc cây mù u đốt thuốc hút. Tôi thấy trên thân cây có đóng một cây đinh dài đã gỉ sét đen thui, vắt lên cây đinh là một cuộn dây dừa cũ mèm như muốn mục. Tôi nghĩ chắc con Huê nó làm như vậy, nó vốn nhiều tình cảm và giàu tưởng tượng. Nó có ý nói con thuyền ngày xưa đã bỏ bờ đi mất, nếu một mai có trôi về được thì cũng có sẵn dây để cột con thuyền vào gốc cây mù u … Tôi đốt thêm một điếu thuốc rồi đặt lên cuộn dây dừa, vái lâm râm: ” Cương ơi ! Mầy có linh thiêng thì về đây hút với tao một điếu ! “. Tự nhiên, tôi ứa nước mắt!

 Khi tôi trở vô nhà thì cô cháu tụi nó ngồi cạnh nhau trên bộ ván, nói chuyện coi bộ tương đắc! Thấy tôi, Huê nói để vô làm cơm cùng ăn. Tôi từ chối vì phải về trả xe.. Huê xin cho con Sương ở lại chơi với nó mươi hôm, còn con Sương thì hớn hở :

 ” Bác Sáu đừng lo ! Con về một mình được ! “.

 Tôi bằng lòng nhưng đề nghị cùng ra đầu vàm thắp ba cây nhang cho thằng Cương. Con Huê vô nhà lấy nhang và một tấm ni-long để ra đó trải cho ba người ngồi. Khi đi ngang cây mù u, con Huê bước lại gốc cây lấy cuộn dây dừa liệng xuống rạch, rồi phủi tay, đi ! 

 Sau khi cúng vái ở đầu vàm, cô cháu nó đưa tôi ra xe. Nhìn tụi nó cập tay nhau mà thấy thương quá, ông ơi !

 * * *

… Bây giờ thì cô Sương đã đem cô Huê qua Bỉ ở với cổ. Nghe ông Lân nói hai cô cháu rất ” tâm đồng ý hợp “. Còn chiếc khăn mu-soa thêu thì ông Lân nói cô Sương đã cho lộng vào một khuôn kiếng rất đẹp treo ở phòng khách , ở một vị trí mà ai bước vào cũng phải thấy !

TIỂU TỬ

Bỏ quên

Thảm trạng gia đình người Việt ở Mỹ trong mùa dịch

 Bỏ quên

Nghe tiếng phone reng, Hoàng bực mình cho là phone quảng cáo, nhưng vẫn dở phone lên gắt gỏng :

– Alo ! cái gì mà gọi hoài vậy.

 

– Dạ cho chúng tôi gặp ông Lợi,  chúng tôi gọi hai ngày nay không ai bắt phone.

 

– Ông Lợi không có nhà.

– Chúng tôi rất cần gặp ông Lợi

 

– Ông Lợi đi làm hai giờ chiều mới về, có gì nói với tôi được không, tôi là người nhà ông Lợi,

– Xin bà làm ơn nói với ông Lợi đến nhà dưỡng lão CampBell đưa ông cụ về nhà vì dịch corona nhà dưỡng lão được lệnh phải giải tán.

 

Hoàng hoảng  hốt nghĩ cái hoạ sắp tấp vào nhà,  liền xuống giọng năn nỉ :

 –  Thưa bà,  xin bà có cách gì tạm để ông già trên đó không,  tốn mấy chúng tôi xin chịu, nhờ bà làm ơn giúp cho chúng tôi, chúng tôi sẽ hậu tạ riêng bà.

 

 – Không được cô, tôi là nhân viên đâu có quyền hành gì, 19 người già trong viện xét nghiệm có 4 người dương tính, bị nhiễm virus, hiện cho nằm bịnh viện, số còn lại kết quả âm nên cấp tốc trả về nhà cách ly 14 ngày.

Đó là lệnh của ban phòng chống dịch. Hiện người ta về nhà hết, trừ ông cụ, bởi vậy cô phải báo cho ông Lợi biết,  cấp tốc đến đưa ông cụ về. Thôi, cảm ơn cô.

 

Bỏ phone xuống Hoàng sững sờ :  Làm sao bây giờ.

Lợi có một bà chị và một đứa em. Gọi phone bà chị, nhờ bà chị nhận ông già về tạm mấy ngày dịch hoành hành rồi sẽ tính sau :

– Chị nên đưa cha về một thời gian ngắn rồi sẽ tính, chị lo cho cha,  bọn em chịu tất cả phí tổn cho chị

 

– Không được, nhà tui có một phòng,  lớn nhỏ năm người ở,  đưa cha về ở chỗ nào. Nhưng mà cậu mợ nghĩ sao, ba năm nay ổng đã ở yên rồi, thì để ổng ở tiếp cho hết đời, đem về làm gì.

– Bây giờ người ta không cho ở nữa, tất cả viện dưỡng lão đều bị đóng cửa. Thôi để em thuyết  phục chú út thử.

 

 Chú út viện lý do hai vợ chồng chú cả ngày đi làm , vì làm y tá ở bịnh viện nên dù mọi người đều phải ở nhà, hãng xưởng đều đóng cửa, nhưng hai vợ chồng chú không được ở nhà, thì làm sao có thì giờ chăm sóc ông già.

 

Trước lý do đó chị không thể năn nỉ câu thứ hai. Không còn cách gì nữa,  năn nỉ ai cũng không được,  chị liền nghĩ đến cách cuối cùng là im lặng xem như không được tin tức gì hết, và có thể cảnh sát xem như ông già không có thân nhân, và họ sẽ giải quyết theo hướng đó, hướng không có thân nhân.

 

 Chị mỉm cười khen mình người sáng ý,  thông minh. Chị biết rất rõ anh bạn của  chồng chị, cách nay ba năm, có bà mẹ già ở Pháp sang thăm, bà bị bịnh,  anh gấp rút đưa vào bịnh viện, độ vài tuần sau bà cụ qua đời. Bịnh viện liên lạc thân nhân mới hay,  là số phone giả, địa chỉ giả.

 

Chiều hôm đó Lợi về hơi sớm. Đường vắng quá, một vài người lớn tuổi đi bộ có vẻ ké né trên lề đường, đeo khẩu trang,  ra dáng thận trọng nghiêm nghị khác những ngày thường.

 

Quang cảnh khác hẳn, hơi rờn rợn, hình như ma quái núp trong cỏ cây, nơi nào đâu xa lạ hoang vu,  chứ không phải nơi anh thường đi ngày hai bận, đi cắt cỏ cho một trường học gần nhà.

 

Anh vừa bước vào nhà, nghe phone reng, trong phòng bên cạnh chị chạy ra nhưng không kịp.

– Alo ! dạ..dạ .. dạ vâng …dạ..dạ tôi đến ngay.

 

 Vừa đặt phone xuống, anh nói ngay :

– Bọn nó đuổi ông già về, bây giờ anh phải đi đón về.

 

 Chị cố bình tỉnh, tuy giọng hơi run run :

– Thì anh ăn cơm rồi sẽ tính sau.

-Tính cái con mẹ gì, nó bảo trước đây hai ngày, họ về hết rồi, nếu chiều nay không ai đón về, nó báo cho cảnh sát biết và xem như xong nhiệm vụ.

 

– Hay là anh để cho cảnh sát nó giải quyết xem sao.

– Làm thế cha anh sẽ chết lạnh dọc đường cái trong đêm nay.

 

Bực mình anh vẫn giữ nguyên bộ quần áo cắt cỏ ra xe.  Anh nghĩ cũng tại anh, năm đó ông già không  chịu đi, lấy lý do già rồi đi làm gì, tiếng Anh không nói được không biết lái xe, hơn nữa, mẹ anh mới mất chưa giáp năm, bỏ đi thấy tội nghiệp quá.

 

Nhưng anh bảo cha anh nên đi, tuổi già ở Mỹ có đũ thuốc men,  có bác sĩ giỏi, có binh viện tốt,  nhất là tránh được cái nạn dùng thuốc giả, thuốc độc,  của Trung quốc.

 

Bà chị cả của anh, người em trai út và nhất là vợ anh,  liên tục lén anh, viết thơ về khuyên ông già nên ở lại Việt nam lo mồ mã cho mẹ mới mất,  rồi sẽ gửi tiền,  gửi thuốc Tây về cho ông.

 

Bởi vậy ông quyết định xoá bỏ hồ sơ H.O.  Khi được tin xoá bỏ hồ sơ,  anh phải cấp tốc về quê khuyên bảo ép buộc ông làm lại hồ sơ. Thế mà phải chờ đến trên mười năm,  hổ sơ mới được tái xét, mới được ra đi.

 

 Freeway 17 vắng quá, anh chạy hơi quá tốc độ nên chưa đến một giờ đã ra exit Campbell.

Theo con đường nhỏ đi sâu vào rừng rậm.  Tuy chưa đến 4 giờ chiểu nhưng như sắp tối, vắng một cách kinh hoàng.

 

Anh nghĩ làm nhà dưỡng lão ở nơi này có khác gì một nhà tù nhốt mấy ông già gần đất xa trời.

Đậu xe phía trước,  anh chạy vòng vào sân sau, không có một bóng người nào, phía trong hành lang xa,  một ông già nhỏ thó ngồi bất động trên cái ghế dài bên cái xách vải .

“ Trời ơi ! cha tôi đây Trời !” Anh nhào tới ôm cha anh, ông già mỉm cười, nước mắt dầm dề :

–  Thấy con cha mừng quá. Hai hôm nay cha ở đây một mình. Nếu tối nay con không đến, cha mò lần ra đường cái. Trời còn thuong cha.

 

– Cha ngồi đây lâu chưa ?”

– Hồi sáng giờ.  Bà y tá bảo cha dọn đồ ra ngồi chờ người nhà lên,  họ đóng cửa.

 

Lợi xách túi vải nói :

– Con cõng cha ra xe, đường đi nhiều rễ cây dễ bị vấp ngã.

 

Ông giả lẩm nhẩm :

 – Cha ở đây đúng ba năm 4 tháng 18 ngày.

 

Lợi mừng thầm, ông già mình tuy ốm yếu nhưng trí óc còn khá sáng suốt mới nhớ được số ngày tháng năm ở khu rừng này.

– Bọn con đều khoẻ mạnh hết.?

– Dạ, vì bịnh dịch đang lan tràn nên ai ở nhà nấy không dám ra đường, nên mình con đi đón cha..

 

– Hai đứa cháu nội của cha lớn lắm hả,  có đứa nào có vợ chưa.

– Chưa cha, bọn nó còn nhỏ, còn đi học mà.

 

Lợi lái xe chạy chậm vì đoạn đường xấu, sợ xe xóc làm mệt cha già. Nghe tiếng thở đều đều ông già ngoẽo đầu qua một bên thiu thiu ngủ.

Lợi định tạm để cha già ở cách ly tại garage xe. và anh định nghỉ cắt cỏ ít nhất 2 tuần để chăm sóc cha.

Anh nguyện lần này chính anh, chinh bàn tay anh,  sẽ làm mọi thứ,  từ nấu ăn, giặt dũ đến tắm rửa, đổ bô,  lau cầu, không để ai nhúng vào, nhất là vợ anh.

 

Nhắc đến vợ, anh lo lắng rồi đây anh phải cố gắng chịu đựng, cố gắng nhịn nhục tối đa,  để tránh những cuộc đổ vỡ cãi vã to tiếng. Nhất là không để cho ông già nghe được   những lời cãi vã.

Anh chắc chắn phải làm được vì ông già sống ở garage biệt lập.

 

Bữa cơm tối hôm đó tuy rất đói nhưng anh ăn không ngon vì hình ảnh cha anh  khi chiều làm anh rất xúc động, anh cảm thấy tội lỗi,  một ông già gầy ốm một  mình ngồi cheo leo ở bìa rừng vắng vẻ tiêu điều,  vào một buổi chiều sắp tắt.

 

Tại sao một ông già phải bị đày đoạ như thế.  Mâm ăn có 4 người, hai con anh ngồi một bên, vợ anh với anh một bên.

Hai đứa nhỏ và vợ anh mỗi người chăm chú vào chiếc Iphone,  không để ý gì đến việc ăn uống.

Bỗng chị hỏi :

-Cha ăn uống gỉ chưa ?

 

– Cha mệt đang ngủ ngoài garage, anh đang nấu cháo cho cha

– Chắc anh gặp cha đang lang thang ngoài đường cái chứ gì?

 

Anh giả vờ không hiểu câu nói móc của chị,  vì khi ra xe đi đón ông già,  anh bảo nếu không lên đêm nay, ông già có thể chết lạnh trên đường cái.

Anh bình thảng trả lời :

– Không,  ông già ngồi cheo leo một mình ở hè nhà dưỡng lão.

 

Hai đứa nhỏ thôi ăn đứng dậy, mỗi đứa rót một ly nước, lên lầu

 Chị cũng thôi ăn, đứng dậy,  anh liền bảo :

 – Em ngồi lại anh có vài điều muốn bàn với em.

 

Chị ngồi xuống nhìn thẳng vào anh.

Anh đem cha vể đây ở tạm một thời gian, có thể nửa năm, một năm để ổng ổn định sức khoẻ, anh sẽ dẫn ổng về lại Việt Nam ở với bà cô ruột anh cũng đang sống một mình với đứa cháu trong họ.

 

Anh sẽ làm hết mọi việc từ đi chợ, nâu ăn, rửa chén, dọn dẹp trong nhà, lau chùi cầu tiêu nhà cửa, v..v..anh chỉ tha thiết xin em một điều ..một điều.. là cố gắng vui vẻ với ông già trong lúc ổng còn ở nhà này với chúng ta.

Nghĩa là em sẽ không làm gì hết, cố nhiên việc chăm sóc ông già là việc của anh, nếu em …thấy không thể được thì cũng nên cho anh biết.

 

Không khí nặng nề im lặng.  Chị đứng dậy,  chậm chậm đi lên lầu.  Khi chị đi rồi anh bực  mình tại sao lại đặt vấn đề với chị một cách thẳng thừng thô bạo như vậy, vô tình đẩy chị vào thế chống đối, anh cảm thấy mình kém cõi quá, làm vấn đề đáng lẽ đơn giản,  hoá ra khó khăn phức tạp hơn.

 

Nhà anh có 4 phòng, trên lầu 3 phòng ngủ, 2 phòng tắm. Hai con hai phòng anh chị một phòng.

Tầng trệt 1 phòng ngủ 1 phòng tắm. Khi ông già chưa đến nhà dưỡng lão, ở phòng dưới này.  Để ông già nằm một mình ở garage anh không yên tâm, đêm hôm có việc gì ông già kêu không ai nghe, anh đặt môt giường nhỏ anh nằm cạnh ông già.

 

Lấy lý do vì dịch corona, cách ly xã hội, nên anh yên tâm để ông già ở Garage cho đến khi hết dịch.

Cũng vì lý do đó anh giải thích với ông vợ anh và hai con anh chưa dám ra garage.

Thật sự ông già hiểu hết sự việc, nhất là suốt hơn ba năm nay, ba chục người bị  “lưu đày” ( chữ của các cụ ở nhà dưỡng lão Campbell ) ở chung với nhau . Hầu như họ chung một tâm trạng bị con, tống họ ra khỏi nhà, vì tốn kém thì ít,  vì người nào cũng có tiền già, tiền chánh phủ cấp cho tạm đũ sống, có lẽ vì người càng già càng làm cuộc sống của chúng mất tươi trẻ, mất hạnh phúc, và cũng chính người già bị gán cho là cái ổ vi trùng, ổ bịnh tật.

 

Người già đồng nghĩa với dơ dáy. v..v.. Tất cả họ, những người Việt nam ở trại Campbell, đều là cựu sĩ quan miền Nam Việt Nam sau ngày mất nước tháng Tư năm 75 (1975), trung bình mỗi người chịu gần 10 năn tù cộng sản.

 

Vì cùng chung một tâm trạng, một ngôn ngữ họ thông cảm với nhau họ không quá chán nản quá cô đơn như ở các nhà dưỡng lão khác nói tiếng Anh là chính,  nên người nào không nói   được,  chịu rất nhièu thiệt thòi,  có khi bị đánh đập vì bị xem như bất tuân các mệnh lệnh của y tá y công.

Vì chia  xẽ vì thông cảm vì cùng cảnh ngộ họ tránh được những cãi vã,  những xô xác với nhau,  nhưng họ mỗi ngày mỗi chuốt thêm những oái oăm, những nỗi buồn vì bất hạnh với gia đình,  với con cháu.

 

 Mỗi ngày họ phết thêm vào bức tranh tập thể đó,  một nét buồn thảm ảm đạm. Thế cho nên họ thiếu hẳn niềm vui, người nào cũng mang một bộ mặt âu sầu buồn thảm.

Thậm chí có người than rằng ở tù tuy mất tự do,  tuy nhục nhã,  nhưng ít nhất một tháng,  hoặc 6 tháng,  có gia đình đến thăm nuôi, và gia đình còn thương xót,  còn tôn trọng,  còn kính nể người đang ở tù,  và còn hi vọng người tù còn có ngày về để cùng xây dựng lại cuộc sống,  tạo lại hạnh phúc.

 

Trái lại vào trại dưỡng lão không mất tự do,  nhưng gần như  không cần tự do nữa, như bước vào giai đoạn cuối cuộc đời .

 Họ thật sự bi bỏ quên. Có người suốt năm không có người đến thăm.

Theo ông khi vào trại, tổng số là 30 nguòi, và gần 4 năm sau chỉ còn 19 người. Mười một người lìa trần vì buồn bã quá, vì chán nản đến cùng cực, vì tủi thân, vì bị bỏ quên,  chứ không phải vì những bịnh nan y.

Có những người không chịu uống thuốc, có người phản đối đi bịnh viện.

 

Từ ngày đưa cha về nhà anh thay thế vợ làm mọi việc trong nhà,  anh mới biết rằng tuy công việc nhẹ,  nhưng bực mình quá.

Quần quật từ sáng đến tối,  không hết việc.  Anh dọn cho cha anh và chính anh ăn ngoài garage, sợ cha buồn anh giải thích vì trong thời kỳ cách ly nên phải như thế. Vợ con anh ăn trong nhà.

 

 Tuy ông hiểu điều giải thích của anh là đúng trong thời kỳ cách ly này, nhưng ông vẫn buồn buồn tủi thân.  Ông mỉm cười tự thấy mình càng già càng khó tính, càng cô đơn càng khó tính.

 

Ông nghĩ đáng lẽ ở tuổi mình tuổi gần 80 phải dễ dãi , phải cởi mở, sao cũng xong cũng tốt.  Ông nhớ lại cái đề tài này, trong nhà dưỡng lão,  thường đem ra bàn luận với nhau trong nhóm anh em,  và lúc nào ông cũng ở phe chỉ trích những người khó tính,  và quả quyết vì tính xấu đó,  mà con cháu nó không muốn sống gần với mấy người già,  dù đó là ông bà nội ngoại.

 

Mấy người bạn của ông không đồng ý và cho rằng vì hai nền văn hoá Đông phương Tây phương đối lập nhau,  nên mới có những bi kịch như vậy.

Rồi họ dẫn chứng ở Việt Nam chẳng hạn( trừ cộng sản) đứa bé lên ba đã được cha mẹ dạy dỗ lễ độ chào hỏi,  trong khi ở Mỹ trẻ con lên đại học chưa có thói quen chào hỏi.

Vấn đề này với ông,  chưa ngã ngũ,  chưa tìm ra câu giải đáp thoả mãn.

 

 Từ ngày ra khỏi nhà dưỡng lão Campbell. ông sống một mình ở garage ông hay nghĩ đến người vợ quá cố của ông.

Nếu bà còn sống,  thì có lẽ đời ông không như thế này, không có chuyện ở nhà “ lưu đày Campbell”.

 

Càng nhớ đến bà,  ông càng thấy ở bà có phẩm cách cao quí, một người vợ tuyệt vời, một người đàn bà suốt đời biết hi sinh cho chồng cho con, một người kính trọng cha mẹ ông hơn cả ông kính trọng.

Có hôm trong giấc chiêm bao ông thấy bà ngồi cạnh giường ông, ông mừng quá ngồi dậy thì bà lặng lẽ đúng dậy ra  đi im lặng không nói một lời.

Rồi những đêm tiếp theo,  ông mong được gặp bà nhưng không thấy.  Ông tính sẽ nói với anh lập bàn thờ thờ mẹ để đêm đêm có chỗ ông thắp cây nhang, tội nghiệp. Nhưng ý nghĩ này bị dập tắt ngay,  vì ông,  và bạn bè ông đều biết,  có bao giờ bọn chúng chấp nhận bàn thờ.

 

Anh vui vẻ hỏi cha :

– Hôm nay con đi chợ, cha muốn mua thứ gì, muốn ăn uống gì,  con mua cho cha.

– Không, không, khỏi mua gì con, cha ăn gì cũng được,  nhà có gì ăn nấy.

 

Anh vừa ra xe,  thì chị và hai đứa nhỏ đến cửa trong nhà xuống garage, chị nói lớn trong nước mắt :

 

– Hai cháu và con chào cha.  Nhờ cha nói với ổng có cái thư để trong tủ lạnh. Ổng không cần vợ,  không cần con,  nên bọn con ra đi.  Nói xong chị và hai đứa nhỏ lui  vào nhà.  Ông bối rối không kịp nói gì.  Mệt quá ông  nằm đừ lên giường cảm thấy khó thở.  Ông mê mang vào giấc ngủ hồi nào không biết.

 

Anh đặt mâm cơm lên bàn mới hay cha anh đang ngủ. Anh ngạc nhiên sao giờ này cha anh còn ngủ :

 – Cha, cha, dây ăn cơm rồi hãy ngủ cha.

 

 Ông già ngồi dậy bần thần không biết ở đâu. Anh nói lớn:

 – Hình như cha bị cảm phải không.

 – Không,  hơi mệt thôi, không sao đâu.

 

 Ông ngồi dậy cố nuốt miếng cơm, nước mắt dầm dề :

 – Vợ con với hai đứa nhỏ bỏ nhà đi rồi

 – Cha nói cái gì vậy cha ?

  Ông lặp lại :

 – Vợ con bỏ nhà đi rồi. Nó có ra chào cha và dặn cho con biết có thư trong tủ lạnh.

 Anh vội vàng chạy vào nhà. Thư viết : “ Ông xem mẹ con tui không ra gì nên chúng tôi phải ra đi”. Viết vội vã chữ nguệch ngoạc, chỉ một câu thôi, không ký tên không đề ngày.

Tức qúa anh xé nát tờ thư, ngồi thừ xuống ghế nước mắt tuông chảy, anh khóc.  Anh ngồi như thế đến 1 giờ sáng, giật mình nghĩ đến ông già, anh vội bước ra garage cố điềm tỉnh dấu cha anh.

Cha anh nằm im lặng hình như chưa ngủ, vì ông già cựa mình và thỉnh thoảng ho. Anh nghĩ phải cố gắng bình thảng trước cha anh. Mong hết cơn dịch anh sẽ đưa cha anh về Việt nam rồi anh sẽ đi tìm vợ con anh. Nhất định không để đổ vỡ gia đình. Anh nghĩ,  lỗi do mình, mình bất tài quá nên mới ra nông nỗi này.

Nguyễn Liệu

San Jose ngày 15 tháng 4 năm 2020

Ngày cao điểm của trận dịch corona

From: Xuân Nguyễn

Quà tặng giữa mùa dịch

Image may contain: one or more people and people sitting
Image may contain: one or more people
Thanhly Hoang

Quà tặng giữa mùa dịch

Inline image

“Thật xui xẻo! Đúng là thứ Sáu 13.” Sue tặc lưỡi, liếc nhìn kính chiếu hậu. Viên cảnh sát bước xuống, đóng sập cửa xe, tiến về phía xe cô.

Dãy đèn xanh, đỏ trên mui xe tuần tra chớp sáng liên tục. Sue đặt hai tay lên tay lái, cố tỏ ra bình thản. Viên cảnh sát hiện ra, ra dấu cho cô hạ cửa kính xe xuống.

“Xin chào. Cô vui lòng cho xem bằng lái, giấy chủ quyền xe.”

Sue lúi húi mở túi xách tay trên ghế bên cạnh trong lúc viên cảnh sát chống hai tay bên hông, mắt không rời động tác lục lọi túi xách của cô.

“Thẻ ID này là của tiểu bang Massachusetts,” Sue nói trong lúc đưa giấy tờ xe cho anh ta.

Viên cảnh sát nói cám ơn, liếc sơ qua tấm thẻ lái xe.

“Có chuyện gì cần mà cô lái xe xuyên bang đến Minnesota trong lúc có lệnh hạn chế đi lại?”

“Tháng nào tôi cũng đi Minnesota cả,” Sue trả lời. “Tôi có một việc làm không chính thức trong một bệnh viện kiểm dịch ở Duluth.”

“Cô là bác sĩ?” viên cảnh sát nhướng mắt nhìn Sue. “Cô cũng điều trị cho người nhiễm coronavirus chứ?”

“Tôi làm việc ở khoa tim mạch,” Sue nói. “Khi có người nhiễm bệnh thì tôi cũng chăm sóc. Tháng này có rất nhiều người bệnh, bác sĩ, y tá làm đủ mọi việc.”

Viên cảnh sát gật gù.

“Cô chạy hơn 85 miles/giờ, vượt quá tốc độ quy định trên xa lộ này là 70 miles/giờ.”

“Oh…, vậy sao?” Sue làm ra vẻ ngạc nhiên. “Tôi thực tình không biết.”

“Cô ngồi yên đấy, đợi một lát.” Viên cảnh sát nói, quay đi, bước về chiếc xe tuần tra màu đỏ bordeaux vẫn đang chớp chớp đèn.

“Anh chàng trông cũng cao ráo, điển trai mà mặt mũi thì lại khó đăm đăm, không có nổi một nụ cười,”

Sue nghĩ bụng. Cô không lo lắm, anh ta sẽ thấy là trước giờ cô chưa hề bị cái ticket nào. Xa lộ I-35 vắng hẳn tiếng xe từ ngày dịch bệnh bộc phát, mọi khi thì xe cộ chạy vùn vụt mấy làn đường.

Một hàng chữ điện tử chạy nhấp nháy trên tấm biển lớn dọc xa lộ, “Limit Travel – Stay Home – Save Lives – Beat Covid 19”.

Đây là lần đầu tiên Sue lái xe xuyên bang từ Boston đi Minnesota, trước giờ cô chỉ đi máy bay nhưng vào mùa dịch này thì lái xe lại thoải mái hơn.

Viên cảnh sát quay trở lại, vẫn vẻ mặt lành lạnh.

“Cô chạy đi đâu mà nhanh thế?” anh ta hỏi.

“Tôi không biết mình đang chạy quá nhanh,” Sue lúng túng.

“Tôi chỉ muốn về nhà sớm để nghỉ ngơi và lấy lại sức sau những ngày làm việc khá căng thẳng ở bệnh viện.”

“Đấy là lối suy nghĩ vô trách nhiệm”, viên cảnh sát lắc lắc đầu, nhìn thẳng vào mắt Sue. “Cô muốn về sớm nhưng có sớm được đâu, cô đang phải ngồi đây.

Thế cũng là may cho cô đấy, cứ chạy xe với tốc độ ấy thì có khi cô chẳng về tới nhà được đâu mà còn gây tai nạn dọc đường, và xe cứu thương sẽ phải đưa cô trở vào bệnh viện.

Khi ấy người ta sẽ phải điều trị cho cô thay vì cô điều trị cho bệnh nhân, trong lúc nhiều bệnh viện và nhiều người bệnh đang cần bác sĩ hơn bao giờ hết. Nếu cô nghĩ cho người khác thì cô phải hết sức bảo trọng.”

Sue im lặng trong lúc anh ta tuôn ra một hơi dài. Cô từng nghe cách nói này, nhưng đây lại là một viên cảnh sát nói với cô.

Liệu anh ta có quyền “lên lớp” cô như vậy? Sue vừa cố nén bực bội vừa cảm thấy lạ lùng.

“Cô không phải nhận giấy phạt đâu,” anh ta nói tiếp. “Tôi chỉ muốn nhắc cô như thế.”

“Cám ơn anh,” Sue bối rối. “Tôi xin lỗi…, thường thì tôi không chạy nhanh như vậy.”

Inline image

Viên cảnh sát bước lại gần hơn, chìa ra vật gì đó, đưa qua cửa xe cho Sue.

“Cô giữ lấy cái này mà dùng.”

Sue đón lấy, cô nghĩ anh ta trả lại cô giấy tờ xe, nhưng không chỉ có vậy. Trong tay cô là một bọc gì cồm cộm.

“Không nên dùng lại những khẩu trang đã dùng rồi,” viên cảnh sát nói trong lúc Sue vẫn đang ngỡ ngàng.

Khi nhận ra trên tay mình là những chiếc khẩu trang y tế thì cô hiểu ra.

“Nhưng… đấy là của anh,” Sue ngập ngừng. “Anh cần nó mà.”

“Cô cần thứ này hơn tôi.”

Sue lặng người… Trong tay cô là 5 chiếc khẩu trang N95. Cô không biết nói gì, nước mắt cô muốn ứa ra.

Cô ngước nhìn viên cảnh sát. Trong làn gió se se lạnh thổi vào qua cửa kính xe, cô thấy dường như mắt anh cũng rưng rưng như mắt cô.

“Chúc cô một ngày bình an. Chạy xe cẩn thận nhé!” Viên cảnh sát quay lưng, bước vội đi.

Dãy đèn chớp chớp trên mui xe tuần tra phụt tắt, chiếc xe cảnh sát bò ra đường lane ngoài cùng rồi phóng vụt đi. Sue vẫn còn ngồi đó, gục đầu lên tay lái. Xa lộ vẫn trống vắng, mênh mông.

Bên dưới là những dòng Sue viết trong Facebook của cô :

Sau cùng thì tôi cũng biết tên anh ta, Bryan Swanson, một cái tên lạ hoắc. Tôi đã kể lại trong Facebook câu chuyện về “món quà” đặc biệt tôi nhận được ở anh.

Câu chuyện được nhiều người chia sẻ và rồi cũng phổ biến trong Facebook của Minnesota State Patrol (MSP), và tôi gặp lại Bryan trong đó. Trông anh chàng tươi tỉnh chứ không còn bộ mặt hình sự như hôm ấy.

Trong một video clip, khi được hỏi về 5 chiếc khẩu trang N95 đã cho đi, Bryan nói đấy là chuyện nhỏ mà ai khác cũng làm như anh thôi. Bryan kể lúc tôi mở túi xách để lấy giấy tờ xe, anh nhác thấy hai chiếc khẩu trang đã dùng rồi và anh nghĩ tôi cần có khẩu trang mới.

“Như thế tốt cho cô ấy hơn,” anh nói với các đồng nghiệp. “Cô ấy có một gia đình, có những người thân yêu luôn lo lắng mỗi khi cô ấy rời nhà đến làm việc ở bệnh viện.

Tôi cũng vậy, các bạn cũng vậy, chúng ta đều có những người thân lo lắng mỗi khi chúng ta rời nhà vì công vụ. Mọi người đều cần được chia sẻ.”

Một lần nữa, Bryan làm tôi muốn ứa nước mắt.

Bryan, tôi không hề quen biết anh chàng cảnh sát này. Anh ta cũng chẳng nợ nần gì tôi, và tôi cũng chẳng yêu cầu anh giúp đỡ chuyện gì.

Sao anh ta làm vậy? Anh ta đâu cần phải làm vậy. Bryan nói tôi cần những khẩu trang ấy hơn anh ta, điều này không đúng.

Trong lúc tôi làm việc trong điều kiện được bảo vệ, che chắn cẩn thận thì anh tiếp xúc với đủ mọi đối tượng với nhiều rủi ro, bất trắc. Anh phải cần những khẩu trang ấy hơn tôi chứ.

Bryan, tôi chắc mình chỉ gặp anh ta một lần duy nhất trên con đường đời. Có những người ta chỉ gặp có một lần đâu đó trong đời này, nói dăm ba câu chuyện rồi đường ai nấy đi và chẳng bao giờ còn gặp lại lần thứ hai. Như cơn gió thoảng qua vậy.

Dịch bệnh vẫn chưa có dấu hiệu nào là suy giảm. Mỗi ngày mỗi thêm những tin xấu. Con virus ấy đã lấy đi mạng sống của không ít đồng nghiệp tôi, những người tôi quen và không quen, những bác sĩ, y tá và nhân viên y tế bị lây nhiễm trong lúc điều trị, chăm sóc người bệnh.

Tôi có sợ không? Sợ chứ. Ai mà chẳng sợ, nhưng không ai bỏ cuộc cả, trong lúc các thiết bị và dụng cụ bảo hộ y tế như khẩu trang thì vẫn thiếu thốn, vẫn phải dùng đi dùng lại.

Mọi người vẫn nói là chúng tôi đang ở những tuyến đầu. Chúng tôi có chọn “tuyến đầu” này đâu. Nói cho cùng, chúng tôi đâu có sự lựa chọn nào.

Nếu có, chỉ là chúng tôi đã tự chọn lấy nghề nghiệp, tự chọn lấy công việc mình yêu thích ngay từ những buổi đầu, và chúng tôi sẽ còn ở lại mãi với công việc của mình. Chỉ đơn giản là vậy.

Những chiếc khẩu trang N95 mà tôi cầm trên tay hôm ấy là của Bryan, của sở cảnh sát cấp phát cho anh để anh tự bảo vệ. Anh cầm lấy chúng, và anh đưa cho tôi, nói rằng tôi cần chúng hơn anh. Những khẩu trang ấy là quý như vàng trong lúc này đây. Ai cũng cần cả, Bryan à. Con virus ấy đâu có chừa anh ra.

Mùa dịch này rồi sẽ đi qua. Nhiều người sẽ không bao giờ quên, là những người phải chịu đựng những tổn thất vì nó, chịu đựng những mất mát, khổ đau mà nó mang đến cho gia đình mình, cho những người thân yêu.

Những người sống sót qua mùa dịch này cho là mình may mắn. Có bao giờ họ nghĩ rằng trong những may mắn của họ có một phần đến từ những người sẵn sàng hứng chịu cái phần rủi ro.

Loài virus quỷ quyệt ấy vẫn không lấy đi được những tình cảm gắn bó và tương trợ giữa những con người đang phải vật lộn, chống trả với chúng.

Hơn lúc nào hết, tôi cảm thấy bình thản khi đương đầu với những thử thách của cuộc sống.

Liệu có phải những chiếc khẩu trang tôi nhận được nơi Bryan đã làm dịu bớt những căng thẳng và âu lo, tôi không biết chắc, nhưng tôi tin rằng đi bên tôi vẫn không thiếu những người bạn đồng hành.

Vẫn không thiếu những anh chàng Bryan như thế trong cuộc sống quanh ta.

L. H.

(Viết phỏng theo bản tin NBC News, March 31, 2020)

TÌNH YÊU CỦA MẸ

TÌNH YÊU CỦA MẸ

Bà vừa bưng chén cơm lên, gắp một miếng thịt gà bỏ vào chén. Con dâu liền trường người tới lấy tay đè đôi đũa của mẹ chồng, rồi ngọt ngào nói

– Ấy. . . Ấy mẹ già rồi không có làm gì nặng nhọc, đừng nên ăn những thứ này khó tiêu lắm. Ăn chừng nửa chén cơm với ít nước tương là đủ rồi mẹ ạ

Bà tiu nghỉu buông miếng thịt gà ra, cay đắng và vội những hột cơm vào miệng mà tưởng chừng như đang nhai đá, cố nút giọt nước mắt muốn trào ra ngoài, bà buông tiếng thở dài. Con dâu vừa gắp miếng thịt bỏ vào chén cho thằng Tý, con trai nàng vừa nói với mẹ chồng bằng một chất giọng dịu dàng êm ái

– Con cũng chỉ lo cho sức khỏe mẹ mà thôi.

Thằng Tý liền chen vào

– Mẹ nói nội ăn nhiều, ăn thịt không tốt cho sức khoẻ, sao mẹ lại ép con ăn nhiều vào là sao

Nàng trừng mắt lên quát

– Đồ con nít ranh. Mày biết gì mà nói. Có ăn không thì bảo

Có tiếng chuông cửa. Con dâu đứng dậy mở cửa. Thằng Tý ngước nhìn nội, thấy mắt nội ướt ướt, nó biết nội muốn khóc, liền thỏ thẻ với nội

– Nội đừng có buồn, để con dấu miếng thịt gà này lát mẹ con đi làm rồi con lấy cho nội ăn ha

Nói xong, thằng Tý bỏ miếng thịt gà vào chén rồi chạy ù xuống bếp dấu miếng thịt gà vào một góc bếp. Bà nhìn theo mắt rưng rưng. Lấy vạt áo lau vội giọt nước mắt. Con trai vừa bước vào thấy vậy vội hỏi

– Mắt mẹ sao vậy?

Bà gượng cười

– Ờ. . . Ờ hạt bụi nó bay vào mắt thôi mà

Con dâu cắt ngang

– Em đã bảo anh về sớm để còn đi công việc, giờ mới vát xác về. Nhà bao việc mà anh lúc nào cũng thông thả. Thôi ngồi vào ăn nhanh mà đi kẻo người ta đợi

Hắn vội trả lời

– Em làm như anh ở không à. Ở cơ quan cũng bao việc chứ rảnh rỗi gì đâu

*******

Đang làm việc với đối tác thì vợ hắn gọi

– Alo. Chiều anh ghé trường đón con rồi chở con đi ăn luôn nhé. Cơ quan em có đoàn thanh tra đến nên em phải tiếp khách về hơi trễ

Thằng Tý vui mừng vì Hôm nay được ba đón, nó líu lo. Hắn soa đầu thằng con trai cưng của mình

– Hôm nay con trai cưng của ba ăn gì để ba mua về ba con mình ăn với nội cho vui

Thằng Tý ngước nhìn ba hỏi

– Ủa. . . Mẹ đâu hả ba?

Hắn hôn chụt vào má con trai trả lời

– Hôm nay mẹ bận công việc cơ quan về hơi trễ, cha con mình tự ăn

Tý mừng rỡ thốt lên

– Ồ de. Hôm nay không có mẹ ở nhà ba phải mua thật nhiều đồ ăn về cho nội ăn nhé. Ba đừng cho mẹ biết nha. Con thương nội lắm

Hắn ngạc nhiên

– Tại sao phải dấu mẹ?

Tý hồn nhiên trả lời

– Bởi vì mẹ nói nội già rồi ăn nhiều thức ăn không tốt. Mỗi bữa ăn nên ăn nửa chén cơm là đủ rồi

Hắn nghe như sét đánh ngang tai. Ruột gan như có ai đang xát muối, Da thịt như có ngàn con kiến chích. Hắn chở vội con trai đi mua thức ăn rồi hối hả chạy về nhà mong gặp mẹ. Bao nhiêu hình ảnh tuổi thơ của hắn và mẹ như cuốn phim quay chậm hiện về trong tâm trí hắn. Hắn tức giận chen lẫn xót xa, hắn hối hận vì thời gian qua hắn lao vào công việc mà không quan tâm đến mẹ. Lúc này đây, hắn mong muốn có đôi cánh để bay thật nhanh về bên mẹ, để chui vào lòng mẹ như thuở ấu thơ, để xin mẹ tha thứ cho sự thờ ơ của đứa con mà mẹ khổ cực nâng niu nuôi dạy hắn trưởng thành như Hôm nay. Mắt hắn cay xè

Mở cửa lao vội vào nhà. Hắn đứng chết lặng nhìn thấy mẹ vịn quanh thành bếp lò mò bước từng những bước chậm chạp, hắn lao đến ôm hai bờ vai của mẹ lo lắng hỏi

– Mẹ. . .Mẹ sao vậy?

Bà giật mình cười cười nói

-À. . .À đôi mắt của mẹ mấy hôm nay nó lờ mờ không nhìn rõ cho lắm. Chắc tuổi già nó vậy nên con đừng có mà lo lắng. . .

Nó nghẹn ngào

-Sao mẹ không nói con chở đi khám

Bà cười hiền nói

-Ta thấy bay lu bu công việc, nói ra sợ bay lo lắng mà ảnh hưởng đến công việc

Hắn nghẹn đắng nơi cổ họng, nước mắt trào ra, hắn nức nở

-Con xin lỗi mẹ. . .Mẹ tha thứ tội bất hiếu cho con. . .Con cõng mẹ đi bệnh viện mẹ nhé. . .

Hắn bồng Mẹ lên chạy bay ra sân

*********

Bác sĩ nói

– Đôi mắt mẹ anh bị đục thủy tinh thể. Tại sao phải để lâu như vậy. Ngày mai anh chở cụ đến làm thủ tục nhập viện để chúng tôi tiến hành thay thủy tinh thể gấp cho cụ may ra còn cứu kịp. Nhưng độ sáng không được trăm phần trăm. Chỉ sáu mươi là may mắn lắm rồi

Nhìn mẹ mò mẫn bước từng bước, nét mặt bà ngẩn ngơ mà hắn chết lặng, hắn hối hận đau đớn. Dìu mẹ từng bước mà lòng đau như cắt. Hắn khóc như một đứa trẻ, thằng Tý cũng khóc to

**********

Hắn thức cả đêm chỉ để viết một lá thư. Xong, hắn ôm cây đàn lên sân thượng ngồi đến sáng

Vợ hắn thức dậy nhìn quanh không thấy chồng đâu càm ràm

– Mới sáng sớm mà đi đâu không biết. Có công chuyện cũng phải nói cho người ta biết chừng chứ

Vợ hắn đi đến bàn trang điểm thì thấy một lá thư và một cái USB. Nàng tò mò cầm lá thư lên và mở xem thì thấy nét chữ của chồng. Nàng cười khẩy

– Gớm. Thời buổi bây giờ còn thư với từ, cần gì thì nhắn tin là xong, cần phải mất thời gian như thế này không. Hay là muốn hâm nóng tình cảm chăng?

Nhưng với bản tính tò mò của người phụ nữ. Nàng mở ra đọc

” Vợ yêu
Từ ngày mình yêu nhau rồi nên duyên chồng vợ. Anh rất mãn nguyện, anh rất tự tin khoe với bạn bè và đồng nghiệp về vợ yêu của mình, anh vui lắm, anh hạnh phúc lắm. Hạnh phúc hơn nữa là em sinh cho anh một đứa con trai kháu khỉnh thông minh. Anh thầm cảm ơn ông trời đã bang tặng em cho anh. Cảm ơn em đã đem đến cho anh niềm hạnh phúc mà nhiều người mơ ước. . .”

Đọc đến đây vợ hắn cười mỉm đầy sung sướng ” ai nói chồng tôi không biết nịnh đầm này” nàng cười thành tiếng và đọc tiếp

“. . . Vì thế. Anh nguyện với lòng sẽ không để cho em và con cực khổ thiếu thốn như tuổi thơ của anh và mẹ anh. Nên anh không quản khó nhọc ngày đêm lao đầu vào công việc. Đến nay thì nhìn lên vợ chồng mình không bằng ai, nhưng nhìn xuống thì nhiều người mơ ước

Để anh kể cho vợ yêu nghe. Thời thơ ấu của anh rất cơ cực. Anh sinh ra thì đã không thấy
mặt bố.
Mẹ anh tầng tảo nuôi anh, mẹ không ngại nắng mưa, mồ hôi nước mắt chang với cơm. Nhưng mẹ luôn mỉm cười khi nhìn thấy anh khôn lớn mỗi ngày. Anh còn nhớ như in không thể nào quên, năm đó anh lên 8 mẹ đi làm thuê cho người ta tối mịt mới về, vừa bước vào nhà , mẹ liền móc trong túi áo ra đưa cho anh miếng thịt gà gói trong miếng lá chuối, mẹ nói anh ăn đi cho khỏe, anh nói mẹ cùng ăn với anh. Mẹ xoa bụng nói ” Mẹ no quá, đi làm thuê cho người ta, họ cho mẹ ăn nhiều lắm rồi, đây là phần của con, con ăn đi”. Thế là anh ăn ngấu nghiến còn lại xương không là xương. Một lác sau anh ra sau hè nhìn thấy mẹ gặm từng miếng xương mà anh vừa bỏ ra lúc nãy. Anh đứng chết lặng nhìn mẹ. Mẹ thấy anh cười giả lả ” Ơ. . .Mẹ thấy còn tí thịt nên ăn chứ bỏ uổng quá, chứ mẹ no lắm rồi. Không tin đến rờ bụng mẹ mà coi” nói xong mẹ đứng lên xoa bụng cười cười nói ” ôi no quá”
Mẹ anh dại quá phải không em, giá như lúc đó mẹ vứt anh qua một bên mà đi thêm bước nữa thì mẹ đâu phải chịu khổ chịu cực như vậy. Hay trời sinh ra người mẹ là thế đấy hả em?””

Đọc tới đây, mắt vợ hắn nhòe đi, nước mắt của vợ hắn rơi xuống làm ướt một góc của lá thư. Nàng đọc tiếp

“. . .Mẹ anh hy sinh cho anh nhiều lắm. Kể không hết đâu. Nếu kể ra hết thì cả một trăm cuốn vở hai trăm trang họa may mới đủ. Anh chỉ kể cho em chuyện này nữa thôi nhé. Lúc anh lên mười, anh bị một cơn bạo bệnh tưởng đâu không qua khỏi. Mẹ anh thì không có một đồng dính túi, bà chạy từ đầu làng đến cuối thôn vay mượn, nhưng không ai cho mượn. Họ không cho mượn là phải. Bởi vì nhà anh quá nghèo, cho mượn lấy gì mà trả. Mẹ anh vừa cõng anh vừa khóc chạy vào bệnh viện. Chân không mang dép bị gai đâm chảy máu mà mẹ không thấy đau. Đến bệnh viện mẹ anh liền chạy tìm chổ bán máu rồi nộp viện phí chữa chạy cho anh. Khi anh khỏe lại, nhìn thấy mẹ xanh xao vì thiếu máu, quần áo thì xọc sệch, chân thì rách tùm lum vì gai đâm, nhưng mẹ vẫn cười tươi khi nhìn thấy anh khỏe lại. Bà mừng quá khóc to. Rồi anh khôn lớn trưởng thành trong vòng tay mẹ, để đến khi chúng mình gặp nhau rồi cưới nhau. . . Anh cứ ngỡ cuộc đời anh đã bước sang một trang mới khi gặp em. Mà thật, anh đã bước sang một trang mới. Nhưng mẹ anh thì không, bà vẫn sống trong sự thiếu thốn, không được ăn no, ăn những món mà bà thích. Anh đúng là đứa con bất hiếu, anh là một thằng đàn ông không ra gì. Thằng Tý con chúng mình tuy còn nhỏ, nhưng nó biết và thấy hết, nên anh từ nay về sau, phải chăm sóc mẹ chu đáo, nếu không nó sẽ học tính anh đấy em ạ
Hôm qua đón thằng Tý về, anh phát hiện ra mẹ bị mắt mờ và chở mẹ đi khám, bác sỹ nói mẹ bị đục thủy tinh thể mà để quá lâu, nên sáng nay anh chở mẹ vào viện để nhập viện thay cườm mà không kịp báo cho em biết.cầu Trời Phật cho mọi đều tốt đẹp đến với mẹ. Đừng để mẹ của anh khổ nữa
Ah. Khi Hôm buồn quá, nên anh cầm cây đàn lên sân thường ngồi hát bài về mẹ để tặng mẹ khi xuất viện anh có quay và copy vào USB em nghe thử có Ok không nhé”

Vợ nó khóc ngất, khóc cho sự hối hận của mình.tiện tay nàng đút cái USB vào máy tính. Giọng hắn vang lên. Phải công nhận, trời phú cho nó một giọng ca quá tuyệt vời. Hắn vừa hát vừa rưng rưng đầy xúc cảm

Cho con gánh mẹ một lần
Cả đời mẹ đã tảo tần gánh con
Cho con gánh mẹ đầu non
Cả lòng mẹ đã gánh con biển trời
Ngày xưa mẹ gánh à ơi
Con xin gánh lại những lời mẹ ru
Đường đời sương gió mịt mù
Vì con hạnh phúc chẳng từ gian lao
Để con gánh mẹ đừng can
Sợ khi mẹ mất muộn màng gánh ai
Cho con gánh cả tháng dài
Gánh qua năm ròng những ngày đắng cay

Cho con gánh cả đôi vai
Thân cò lặn lội sớm mai vai gầy
Mẹ già lá sắp xa cây
Lỡ đâu lá rụng tội này gánh sao
Mẹ ơi sóng biển dạt dào
Con sao gánh hết công lao một đời
Bông hồng cài áo đúng nơi
Đâu bằng bông hiếu giữa trời bao la
Cho con gánh lại mẹ già
Để sau người gánh chính là con. con

Mặt không trang điểm, mặc nguyên bộ đồ ngủ. Nàng dắt thằng Tý chạy ào ra đường đón tắc xi đi thẳng đến bệnh viện. Vào tới bệnh viện. Nhìn thấy chồng đi tới đi lui trước phòng mổ với khun mặt lo lắng. Nàng chạy ào đến bên chồng nức nở

– Em xin lỗi anh, xin lỗi mẹ, em hối hận lắm rồi. Từ rày về sau em sẽ cùng anh gánh mẹ anh nhé

Hắn ôm ghì vợ vào lòng nở nụ cười và âu yếm nói

-Như thế mới là vợ yêu của anh chứ. . .

Thằng Tý chen vào

– Vậy từ rày về sau nội có được ăn gà không hả mẹ?

Nàng cúi mặt thẹn thùng pha lẫn xấu hổ

******

Cửa phòng mổ mở toang. Cô hộ lý đẩy bà cụ ngồi trên chiếc xe lăn ra. Cô hộ lý liền cất tiếng

– Chúc mừng gia đình. Ca mổ đã thành công ngoài mong đợi. Đôi mắt của cụ được trăm phần trăm độ sáng

Con dâu chạy ào đến ôm mẹ chồng lo lắng. Con dâu rưng rưng

– Con xin lỗi mẹ những hành động vừa qua của con đã làm cho mẹ buồn. Mong mẹ tha thứ cho con

Thoáng chút ngỡ ngàng. Nhưng bà kịp lấy lại trạng thái và đã hiểu ra vấn đề. Bà liếc nhìn thằng con trai rồi nở một nụ cười rất tươi và rất mãn nguyện. Điều lo sợ của bà đã tiêu tan. Bà lo sợ một điều, nếu con trai mình biết chuyện, vì bà, nó sẽ cãi vã với vợ nó, rồi dần dần vợ chồng nó sẽ mất hạnh phúc, rồi sẽ dẫn nhau ra toà ly dị thì cháu bà sẽ như thế nào đây, nó sẽ thiếu cha hoặc thiếu mẹ,cháu nội bà không ai dậy bảo, sẽ trở nên hư hỏng hay đau buồn vì chuyện ly dị của cha mẹ. Còn con trai bà lấy người khác có được hạnh phúc hay không, hay hết cưới người này rồi tới người khác, hay chán đời mà bê tha. Bà mừng lắm. Không phải mừng vì được sáng mắt, mà bà mừng vì con bà đủ trí thông minh để xử lý tình huống. Chứ việc gì không hài lòng thì đưa nhau ra toà ly dị là sẽ tan nát cả một gia đình. Biết chịu khó ngồi lại gỡ rối thì mới là vẹn toàn. Bà vuốt tóc con dâu âu yếm nói

– Mẹ tha thứ và bỏ qua cho con từ lúc con về làm dâu mẹ rồi mà

Cả nhà đều nở nụ cười tươi. Hắn kề vai vào cõng mẹ ra giường bệnh. Miệng nghêu ngao

– Cho con gánh lại mẹ già
Để sau người gánh chính là con con

Thằng tý vố tay

– Ba hát hay quá. . .

Thằng Tý chạy lại kéo tay mẹ của nó

– Mẹ ơi. Ba cõng nội kìa. . . Ba rất là năm bờ quoanh. . . Sau này này ba mẹ già già bằng nội, con sẽ cõng cõng ba mẹ giống như ba cõng nội. . . Ha ha. Con vui quá mẹ ơi. Con vui quá nội ơi

Câu nói ngây thơ của cu Tý đã chạm sâu vào trái tim nàng. Nét mặt con dâu tái đi, thoáng chút giựt mình và run sợ. Nàng lí nhí trong cổ họng ” Nam Mô A Di Đà Phật. Cảm ơn Người đã đưa đường chỉ lối để con kịp tĩnh ngộ mà sám hối. . .”

ST.

 From: Lucie 1937

MỘT SĨ QUAN QUẬN TRƯỞNG

 MỘT SĨ QUAN QUẬN TRƯỞNG

Hồi ký của Nguyễn Kim Dần  (bài 1)
 

 Phần 1Giới Thiệu Sơ Lược

Đây là một chuyện có thật 100%, ghi lại trung thực thời gian tôi làm việc với một vị Sĩ quan Quận trưởng, cách đây 32 năm. Tuy bài được viết năm 1996, nhưng câu chuyện cũng không mất thời gian tính.Tôi rất phân vân vì trong những năm trước đây, nếu tôi viết ra mà vị Sĩ quan Quận trưởng này còn ở lại Việt Nam, có thể Ông sẽ bị phiền phức . Nhưng cách đây 6 tháng, tôi đã liên lạc, nói chuyện và biết  Ông đang định cư ở Nam Cali.

Đầu năm 1963, vừa tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh (QGHC), vào trình diện Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chúng tôi nhận được chỉ thị của vị Nguyên Thủ Quốc Gia là “Trong thời chiến tranh, Hành chánh chưa đủ, cần phải học lớp quân sự“. Thế là chúng tôi phải vào “Lò Luyện Thép” của Trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang để theo học lớp Sĩ Quan đặc biệt. Theo Tổng Thống DIỆM, trường quân sự này đào tạo có kết qủa tốt Trong các khóa QGHC chỉ có khóa 6,7 và khóa 8 (khóa tôi) là phải học trường Quân sự này, các khóa khác học ở Đàlat hay Thủ Đức. Quả đúng trường Đồng Đế Nha Trang là Lò Luyện Thép và chúng tôi đã trải qua 7 tháng huấn luyện vất vả vô cùng…Rồi thời gian cũng trôi qua, cuối năm 1963 chúng tôi tốt nghiệp Chuẩn Úy và được chỉ định  đi làm Phó Quận trưởng, đeo lon Trung Úy Hành Chánh.

Đầu năm 1964, tôi về Tây Ninh nhận việc và giữ chức vụ Phó Quận trưởng quận Khiêm Hanh, lúc đó còn là một Quận lưu động, chưa có Văn Phòng, phương tiện di chuyển duy nhất là trực thăng, thỉnh thoảng mới đi đường bộ được nếu có mở đường. Tôi đợi 5 ngày mới có trực thăng đi Quận. Người đón tôi tại bãi trực thăng là Đại Úy Quận trưởng tên Nguyễn Văn Mách, nhân vật chính trong câu chuyện tôi sắp kể.

Đại Úy Mách độ 43 tuổi (năm 1964). Ông nguyên là Trung Tá trong quân đội của Giáo Phái Cao Đài. Khi Tổng Thống Diệm chấp chánh, thống nhất quân đội, ông Mách phải đi học một khóa Quân sự để xác định lại cấp bậc…Khóa học này học ở Đàlat, nghe nói cũng rất cực khổ nên đa số các Sĩ quan Cao Đài đều bỏ cuộc. Ông Mách tốt nghiệp hạng nhì, được đồng hóa là Trung Úy trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó cho Đại Úy Lê Nguyên Vỹ (Đại úy Vỹ sau này lên Chuẩn Tướng Tư lệnh Sư Đoàn 5, ông tự tử chết ngày 30/4/1975). Trung Úy Mách mấy tháng sau được lên Đại Úy và được bổ nhiệm làm Quận trưởng quận Khiêm Hanh trước khi tôi nhận việc độ 3 tháng.

Mới ra đời, tôi như một “con nai tơ ” trong môi truờng mới. Dù chúng tôi được trang bị kiến thức về hành chánh  và quân sự khá đầy đủ, nhưng chỉ là lý thuyết, chưa có kinh nghiệm thực tế. Tới nhiêm sở, người đầu tiên tôi tìm hiểu là ông Quận trưởng, sau đó tìm hiểu địa phương…
Trong guồng máy hành chánh và quân sự thường xẩy ra đụng chạm giữa cấp Trưởng và cấp Phó do 2 nguyên nhân chính: quyền hành và quyền lợi (tiền bạc), nhưng đối với Ông Quận trưởng tôi không sợ bị đụng chạm vì cách xử thế của mình: Về quyền hành, tôi không tranh quyền với cấp Trưởng. Tất cả giấy tờ tôi đều dồn cho Ông quyết định và ký tên, khi nào ông không ký nổi thì sẽ  giao lại cho tôi . Về quyền lợi vật chất, bất cứ vấn đề gì có liên hệ đến lợi lộc, tiền bạc, tôi đều để cho ông Quận trưởng quyết định. Với cách xử thế của tôi từ lúc ra trường , áp dụng 2 nguyên tắc trên, trong suốt thời gian làm việc và gặp rất nhiều cấp chỉ huy Quận, Tỉnh, bao giờ tôi cũng giữ được mối giao hảo tốt đẹp và được họ kính nể.

Sau mấy tháng làm việc, tôi  nhận thấy Đại Úy Nguyễn Văn Mách là một người thanh liêm, khiêm nhường (trong lý lịch ông khai sức học bậc Tiểu học). Ở quận Khiêm Hanh, 95% dân chúng theo đạo Cao Đài, Ông Quận trưởng là người rất có uy tín và được lòng dân, vì thế ông thu lượm được những tin tức tình báo rất chính xác do người dân cung cấp. Tuy có gia đình, nhưng Đại Úy Mách sống một mình ở Quận, thỉnh thoảng vợ con mới lên thăm vài ngày…

Về tình hình địa phương, Quận còn ở trong tình trạng lưu động, chưa có văn phòng, Chi Khu cũng chưa thành lập và cũng chưa có cố vấn Mỹ. Ông Quận và tôi phải chỉ huy cả hành chánh lẫn quân sự, cũng may là tôi đã tốt nghiệp khóa Chuẩn Úy. Dân chúng thì rất nghèo, 90%  mù chữ, cả Quận không có một ngôi trường nào, chỉ có vài lớp học tư nhân, dậy đến lớp Ba ở xã Thuận Lợi. Bệnh ho lao, kiết lỵ, sốt rét rất phổ biến…

Tuy gọi là Văn Phòng Quận, nhưng thực ra đó  là một cái đồn lính. Các đơn vị cố hữu của Quận như Nghĩa quân, Điạ phương quân cũng chưa có, chỉ có 2 Đại đội của Trung đoàn 9, thuộc Sư đoàn 5 có nhiệm vụ bảo vệ Quận. Tối đến, tôi và ông Quận hay ngồi nói chuyện dưới ngọn đèn dầu, vì Quận chưa có điện. Nhờ nói chuyện hàng ngày và hàng đêm nên chúng tôi rất thông cảm nhau. Chúng tôi lại cùng ăn cơm chung do một nghĩa quân đi chợ, nấu cơm. Tất nhiên là ngưởi lớn tuổi và có kinh nghiệm trường đời hơn tôi, ông đã biết rõ con người của tôi…

 Phần 2.  Ly Gián

Vào một buổi tối nói chuyện, ông Quận nói :

–         Ông Phó à! Thằng Bẩy Ốm phá Quận quá tôi sẽ làm cho nó, một là bị thuyên chuyển, hai là bị giết trong vài tháng nữa.

Tôi nghe vậy và mỉm cười vì Bẩy Ốm là tên Huyện ủy Việt cộng, hoạt động phá hoại rất nguy hiểm. Quả thực lúc đó, tôi nghi ngờ khả năng của ông Quận, nghĩ là ông nói dóc vì một tên đang hoạt động rất đắc lực sao lại bị thuyên chuyển hay bị giết ?. Tuy không tin, nhưng tôi cũng chỉ im lặng mà không có ý kiến gì …Khoảng 2 tháng sau, cũng vào một buổi tối, dưới ánh đèn dầu, Ông Quận trưởng nói với tôi:

  – Ông Phó à! Thằng Bẩy Ốm đã bị thuyên chuyển khỏi Quận.

Tôi ngạc nhiên, tỏ vẻ nghi ngờ về chuyện khó tin này. Biết tôi chưa tin, Ông Quận trưởng giải thích: Ông  cho người theo dõi mấy cái quán nước trên đường đi ra Gò Dầu Hạ hay lên Tỉnh, xem tụi du kích hay ngồi ở quán nào?. Sau khi được tin tức chính xác cái quán mà du kích vẫn thường lui tới, Ông sai  ngừơi viết một lá thư có nội dung như sau:”Anh Bẩy Ốm, Đại úy Quận trưởng nói anh đừng về vội, anh có thiếu tiền ổng sẽ gởi tiếp cho anh. Khi nào về nhớ đem cả súng về để lãnh tiền thưởng.” ( VNCH có chính sách Chiêu Hồi, cán binh Cộng sản nếu mang vũ khí về sẽ được thưởng tiền). Lá thư này được để trong một cái bóp cũ và mấy thứ giấy tờ lặt vặt, được “cố ý” đánh rớt ở cái quán mà du kích thường lui tới. Khi tên du kích nhặt được cái bóp có lá thư này, để lập công sẽ mang lá thư trình thẳng lên cấp Tỉnh. Tỉnh sẽ nghi Huyện ủy Bẩy Ốm sắp sửa về hồi chánh và có biện pháp thuyên chuyển Bẩy Ốm đi gấp, để tránh hậu hoạ.
Đó là bài học ly gián dầu tiên mà tôi học được nơi ông Quận Trưởng. Như trên đã nói, ông Quận chỉ có sức học tiểu học, nhưng đã đi lính Cao Đài từ  năm 19 tuổi. Là người có tiếng trong đạo Cao Đài, rất được lòng dân nên Ông có những tin tình báo chính xác, Ông lại biết khai thác đúng tâm lý của các cấp chỉ huy Cộng Sản (Khi nghi ngờ là phải có biện pháp), và kết quả Huyện ủy Bẩy Ốm bị thuyên chuyển ra khỏi Quận!! Ông Quận trưởng đã triệt hạ được một tên Huyện Ủy rất lợi hại.

Phần 3.  Kinh Nghiệm Du Kích

An ninh tại nông thôn vào đầu năm 1964 rất kém, nhất là sau khi Tổng Thống Diệm bị lật đổ, tiếp theo là những cuộc đảo chính liên miên. Vì thế ông Quận trưởng rất chú trọng đến vấn đề an ninh. Sau khi đã loại được tên Huyện ủy, Ông tiếp tục đánh vào hàng ngũ Cộng Sản trong Quận. Ông cho điều tra và biết có tên Ba Mập chỉ huy đám du kích, tên này từng đi lính Cộng Hòa, sau đó bất mãn, đào ngũ bỏ sang hoạt động cho CS. Ông còn biết tên này trước phục vụ tại Sư đoàn, Trung đoàn, Tiểu đoàn, Đại đội nào…Một buổi sáng có đám đông đồng bào đang đợi xin giấy tờ trước cửa Quận, Ông Quận Trưởng ra hỏi thăm mọi người và nói lớn: “Đồng bào đừng sợ Ba Mập vì nó trước là lính của tôi. Ba Mập biết tôi về đây làm Quận Trưởng thế nào nó cũng về hồi chánh, vì trước nó ở đơn vị…”(Ông ta kể rõ chi tiết…) Ông Quận thừa hiểu trong đám đông đồng bào trước cửa Quận, thế nào chẳng có 1,2 tên hoạt động cho CS. Chính các tên này  lấy tin tức ,về báo cáo lại…và ít lâu sau chúng  tôi được tin  Ba Mập đã bị điều động đi quận khác. Lại một đòn ly gián thành công của Ông Quận. Quả thật tôi cũng không rõ Ông Quận có phải là cấp chỉ huy cũ của Ba Mập trong quân đội của VNCH hay không ? hay là ông cứ đặt chuyện để CS nghi ngờ và thuyên chuyển Ba Mập đi nơi khác.

Sau khi tình hình an ninh đã khá khả quan, Quận được bổ nhiệm thêm một Chuẩn Úy vừa tốt nghiệp Thủ Đức và tốt nghiệp trường Quân Báo tên Đoàn văn Yêm, người Huế, có trình độ Đại Học….Ông Quận Trưởng cũng bắt đầu cho xây cất Văn phòng Quận trên một miếng đất cao. Quận cũng được tăng phái một Đại đội Công Binh để cất trường học, làm đường sá. được cấp 2 xe pick up để di chuyển…Tôi mới ra trường, thấy xe là nhẩy lên học lái, có hôm tôi lái xe khỏi quận tới 4 cây số, khi trở lại Quận, ông có nóí với tôi “Đi như vậy rất nguy hiểm vì có thể sẽ bị CS phục kích. Tôi chết, có ông Quận trưởng khác thế, ông chết, có ông Phó khác thế, nhưng đài phát thanh Hànội và Mặt Trận Giải Phóng sẽ loan tin là vừa giết chết một tên Phó Quận Trưởng ác ôn, nên mình sẽ thua nó về mặt tuyên truyền…”.Tôi thấy ông Quận nói có lý nên từ đó thận trọng hơn. Ông còn nói tiếp”:Cả Quận này chưa chắc có ai lái xe giỏi bằng tôi”..Vì Chi khu chưa thành lập nên ông Quận  không có xe Jeep riêng và tôi cũng chưa bao giờ thấy Ông lái xe.

Một hôm có mở đường, nghĩa là có an ninh, chúng tôi  có thể lái xe ra Gò Dầu Hạ, rồi lên tỉnh lỵ Tây Ninh, hôm đó tôi nhường cho ông Quận trưởng lái xe và nói:”Mấy tháng trước Đại úy nói là trong quận chưa chắc ai lái xe giỏi bằng Đại úy, hôm nay tôi ngồi cạnh, để xem Đại  úy lái xe ra sao…”  Từ quận ra Gò Dầu Hạ độ 12 cây số đường đất, thỉnh thoảng có một xe Lambretta chở hành khách đi qua, ra tới Gò Dầu Hạ mới bắt được đường quốc lộ lên Tỉnh……Ngồi bên cạnh Ông Quận tôi thấy Ông lái xe kỳ quặc, không tôn trọng luật lệ đi đường, lúc lạng qua phải, lúc né qua trái, không nhất định gì cả. Đi được 3,4 cây số, tôi cười nói:”  Đại Úy lái xe gì mà kỳ cục vậy, lúc bên trái, lúc bên phải, thế mà Đại úy nói là trong Quận này chưa chắc gì có người lái xe giỏi bằng Đại úy”. Ông mỉm cười giải thích :  “Đây là đường làng, làm gì có xe di chuyển nhiều mà sợ đụng xe, hơn nữa mình lại phải quan sát trước mặt, xem nơi nào du kích có thể đặt mìn được, thí dụ trước mặt ở xa có một bụi cây bên trái, du kích núp bên trái  có thể đặt mìn, ta phải lái qua phải để tránh, trái lại nếu thấy bên phải có bụi cây, ta lại phải lái qua bên trái… Vì mìn của CS giật bằng giây điện và mấy cục “pin” nên có bụi cây bên nào là CS núp phía bên đó, ta phải lái sang phía đối diện . Mìn nổ ta chết vi sức ép của hơi, nếu cách 2,3 thước sức ép giảm nhiều, ta không bị chết, vì thế ở đây lái xe  đâu cần tôn trọng luật lệ đi đường ...Ra tới quốc lộ, từ Gò Dầu Hạ lên tỉnh lỵ Tây Ninh,  có nhiều xe cộ lưu thông, tôi thấy ông Quận trưởng lái xe rất đúng luật và rất giỏi. Từ đó, tôi càng khâm phục những kinh nghiệm ông và học được nhiều bài học quý giá nơi ông.

Phần 4.  Nghi Binh

 Vài tháng sau, khi văn phòng Quận được cất xong và các Sĩ quan được bổ nhiệm về giữ các chức vụ bên Chi khu, Quận bắt đầu tuyển lính cho những đơn vị cơ  hữu của Quận. Các Ấp Chiến Lược được đổi là Ấp Tân Sinh và bắt đầu được xây dựng lại : có cắm chông, rào kẽm gai, có cửa ra vào cố định để ngăn chặn CS xâm nhập.  Quận mới lập nên chưa đặt  mìn xung quanh vòng rào, chỉ có mấy lớp kẽm gai. Đồ viện trợ  Mỹ như xi măng, kẽm gai, tôn lợp nhà, đinh loại dài 10 cm rất nhiều, xin bao nhiêu cũng được cung cấp. 

Vì vị trí Quận ở nơí qúa nguy hiểm, sát chiến khu Dương Minh Châu và chiến khu Bời Lời của CS nên ông Quận rất lo ngại về vấn đề bảo vệ Quận….. Ông ra lệnh  trong lúc chưa có mìn rải chung quanh, tối đến các sĩ quan làm các “chông” bằng xi măng, có cắm đinh ngược chiều để rải chung quanh quận. Mỗi sáng, các lính phạm kỷ luật phải đi cắt cỏ chung quanh vòng rào, để dễ quan sát. Nhân một buổi sáng, khi có đông dân chúng chờ đợi đến giờ văn phòng mở cửa để xin giấy tờ, bất ngờ Ông Quận  trưởng đi ra, la hét mấy người lính đang cắt cỏ trước cửa Quận:”Coi chừng chông có tẩm thuốc độc, đụng vào chỉ có cưa chân”. Thực ra, các sĩ quan và tôi làm chông, làm gì có thuốc độc, nhưng Ông cố tình la lớn để những tên CS trà trộn trong đám đông, dò la tin tức, nghe. Vì thế nếu CS có muốn đánh Quận cũng phải e sợ. Tóm lại ông Quận trưởng có quá nhiều kinh nghiệm chiến đấu với CS và biết khai thác đúng tâm lý của chúng.

Thêm một bằng chứng về khả năng này của Ông, theo tin tình báo , Ông biết  tên chủ tiệm sửa xe đạp trước cửa Quận thường vào mật khu để đem tin tức cho CS, vì chưa có bằng chứng chính xác, nên Quận chưa bắt tên này. Một buổi sáng, Ông Quận vào một quán hủ tíu đang đông khách, tình cờ cũng có tên chủ tiệm sửa xe đạp ngồi ăn, Ông đến vỗ vai hắn và nói lớn cho mọi người đều nghe: ”Sao dạo này mày vào mật khu hoài mà ít tin tức thế?, trong khi tiền thì mày vẫn lãnh của Ban 2 đều đều” (Ban 2 của Chi khu coi về tình báo, dùng tiền để mua tin tức..). Mọi người đều đổ dồn mắt về phía ông Quận và chủ tiệm sửa xe đạp…Ai nghe cũng tin tên chủ tiệm là nhân viên tình báo của Quận. Trong số những người ngồi ăn hủ tíu chẳng thiếu những tên hoạt động cho CS, sẽ báo cáo lại với cấp trên….và từ đó tên  sửa xe đạp không còn được CS tin dùng. Mưu kế ly gián của ông Quận thật là thâm độc vì thực ra tên này đâu có liên hệ gì tới ban 2 của Chi Khu!!
Việt Nam Cộng Hòa thường có những thói quen mà CS dễ khai thác, thí dụ mỗi lần ông Quận Trưởng đi họp từ tỉnh về bằng trực thăng, thì y như hôm sau sẽ có cuộc hành quân cấp Trung đoàn hay Sư đoàn. Có một lần Quận nhận được tin tình báo là CS kéo về rất đông ở mấy xã, có lẽ sẽ đánh Quận nay mai, tình hình rất căng thẳng. Hôm Ông Quận trưởng  đi họp ở Tỉnh về, khi xuống trực thăng, Ông cho gọi tôi  cùng mấy Sĩ quan Chi khu ra bãi đáp trực thăng, trong khi có nhiều đồng bào đứng xa, sau lớp hàng rào kẽm gai để bảo vệ bãi đáp, Ông trải bản đồ ra và nói chuyện với chúng tôi như sắp có cuộc hành quân lớn. Đồng bào đứng xa chỉ nhìn mà không nghe được những gì Ông nói. Ông cố tình làm như vậy để những tên CS lấy tin tức cho rằng sẽ có cuộc hành quân lớn!!. Thực tế, tôi biết hôm đó Ông Quận đi họp trên tỉnh về vấn đề khác, không dính líu đến hành quân. Ông cố tình làm như vậy,  CS sợ là có hành quân liền  rút đi nơi khác và Quận giải tỏa được áp lực…..

Trong thời gian làm Phó Quận, tôi đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm rất thực tế, nhất là đòn ly gián của Ông Quận Trưởng, tuy vậy tôi vẫn chú trọng tới vấn đề Dân Trí , vì dân trí có cao đất nước mới khá được… Có Công binh giúp, tôi đã xây nhiều trường học. Tôn lợp mái trường, xi măng quá nhiều…nên chỉ trong vòng vài tháng, chúng tôi đã xây được khoảng 30 đến 40 lớp học,..Tại Sàigòn vào thời gian đó đảo chánh liên miên, chánh quyền thì tham nhũng từ trên xuống dưới, tôi nghĩ mình không thể làm gì được, chỉ có cách là xây cất thật nhiều trường học, đầu tư vào giáo dục. Dân trí cao thì nhiều vấn đề sẽ được giải quyết. Đành phải trông cậy vào tương lai vậy.

Phần 5. Tái Hồi Chánh               

Sau hơn một năm, Quận và Chi khu đã  thành  lập đươc đầy đủ , Cố Vấn Mỹ đã có. Tuy nhiên tình hình an ninh vẫn còn kém và tinh thần của lính Nghĩa quân vẫn chưa cao…
Rồi một chuyện không may đã xẩy ra: số là là  Quận có tiếp nhận một Hồi Chánh viên tên Phước. Tên này, cũng như các hồi chánh viên khác, được gởi lên Tỉnh học mấy tuần tại Ty  Chiêu Hồi Tỉnh rồi được trả lại Quận. Phước được giao cho Chuẩn úy Yêm ở ban 2, Yêm có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo, sai Phước đi các Ấp ở chung quanh Quận.  Được mấy tháng, Phước lại đào ngũ đi theo CS. Sự kiện này làm cho các Nghĩa quân hoang mang, giao động tinh thần. Ông Quận trưởng ra lệnh họp các Trung đội trưởng Nghĩa Quân. Ông nói:”Tôi biết mấy hôm nay  Anh Em giao động tinh thần vi tên Phước bỏ đi theo CS, hôm nay tôi chỉ họp với các cấp chỉ huy, buổi  họp này hoàn toàn bí mật. Tôi nói cho Anh Em rõ, tên Phước không phải đào ngũ, thực ra Chuẩn úy Yêm giao nhiệm vụ cho Phước giả vờ đào ngũ để vào  mật khu lấy tin tức cho Ban 2. Rồi các Anh Em sẽ thấy, tên Phước sẽ về một ngày gần đây, và còn đem theo cả vũ khi...”.. Ông Quận lại dùng đòn ly gián. Thực tế tên Phước đào ngũ thật. Tuy ông Quận nói là họp mật,  chỉ với khoảng một chục Trung đội trưởng Nghĩa quân, nhưng thế nào tin này cũng  bị tiết lộ ra ngoài ..

Quả thiệt sau mấy tháng, vào một buổi trưa, tôi đang nằm đọc báo chợt nghe thấy mấy tiếng súng ở phía sau Quận, tôi vội vàng ra quan sát, thấy 2 bóng người thấp thoáng, tiến lại gần tôi nhận ra Phước và một người  tên Mai, cán bộ Bình định của Quận bị CS bắt trên đường đi Gò Dầu Hạ. Hai người còn mang về khẩu CKC, loại súng trường CS hay dùng.
Họ thuật lại là đã gặp nhau trong tù CS, lúc đầu CS để Phước tự do, vì hắn trở về hàng ngũ  chúng, không hiểu sao mấy tuần sau  Phước bị bắt nhốt lại. Tôi đoán là lời ông Quận nói trong buổi họp với các Trung đội trưởng Nghĩa quân, cho biết Phước có nhiệm vụ vào mật khu lấy tin tức, đã đến tai  CS chúng liền bắt nhốt tên Phước. It lâu sau CS cho 2 tên đi đốn cây, có một tên CS đem súng đi canh chừng. Phước và Mai vì đã quen nhau trước, lúc làm việc ở Quận, bàn tính cướp súng về lại Quận.
Lời nói của ông Quận đã thành sự thật, tên Phước đem cả súng về và hàng ngũ Nghĩa quân càng tin tưởng nơi ông Quận, với những đòn ly gián rất lợi hại, chuyển bại thành thắng

Phần 6.  Đặc  Công Đánh Cận Chiến

 Như trên đã nói, quận Khiêm Hanh ở vào một vị trí gần 2 mật khu của CS: Dương Minh Châu và Bời Lời, nhưng nhờ tình báo rất chính xác và những đòn ly gián của ông Quận,  CS rất dè dặt khi muốn đánh Quận. Tương đối Quận lúc đó cũng có lực lượng quân sự khá đầy đủ, có vài Trung Đội Nghĩa Quân, đóng rải rác khắp nơi cùng với vài Đại Đội Điạ Phương Quân. Tại Văn phòng Quận có một Trung đội Nghĩa quân, 4 sĩ quan Chi Khu, một sĩ quan tiền sát Pháo Binh . Sĩ  quan này thuôc binh chủng Pháo binh, có nhiệm vụ gọi pháo yểm trợ Quận khi cần thiết. Vì tình hình còn  nguy hiểm nên Tư lệnh Sư Đoàn 5 quyết định không đem 2 khẩu pháo  105 ly vào Quận, sợ nếu CS đánh Quận sẽ mất 2 khẩu súng này.  Ông Quận trưởng có tâm sự với tôi “Mạng Anh Em mình không có giá bằng 2 khẩu pháo, thật là mỉa  mai”. Chúng tôi cũng nhờ có một Đại đội Công Binh đóng sát văn phòng Quận để làm đường, xây trường hoc.v.v… Công Binh được trang bị hỏa lực rất mạnh, nhiều súng 50 ly có tầm sát hại tới 1 km, cùng những xe ủi đất, nên vị trí đóng quân được phòng thủ rất kiên cố…..

Vào một buổi tối, chúng tôi tổ chức một bữa tiệc quy tụ tất cả các Sĩ quan của Chi Khu, Pháo binh (tiền sát viên), Công binh . Tổng cộng độ 10 người, kể cả tôi và Ông Quận. Vào lúc độ 7 giờ tối, chúng tôi bắt đầu vào bàn tiệc tại dẫy nhà tôn trong phạm vi Quận, sau văn phòng làm việc, bất ngờ có mấy nhân viên xã ấp vào báo cho chúng tôi biết: Cộng sản đang kéo về rất đông, đầy ở trong xã ấp, có lẽ sắp đánh Quận. Chúng tôi lập tức giải tán, ai về đơn vị  đó,  để sẵn sàng chiến đấu. Ông Quận trưởng ra lệnh cho Sĩ quan tiền sát Pháo binh liên lạc với các đơn vị Pháo binh của Quận Gò Dầu Hạ, Bến Kéo, bắn chung quanh Quận, vào những địa điểm nghi ngờ…..

Sau nửa giờ được pháo binh các nơi bắn yểm trợ , chúng tôi biết là CS đã phải rút lui, vì yếu tố bất ngờ không còn và có lẽ một số đã bị thương vì đạn pháo. Lúc đó trời lại  lâm râm mưa…

Sáng hôm sau, Ông Quận dẫn chúng tôi đi quan sát chung quanh Quận, thấy vài nơi ngoài hàng rào kẽm gai, những ngọn cỏ bị cắt… Ông Quận trưởng cắt nghĩa: tối  hôm qua đặc công của CS đã vào sát hàng rào Quận, trong lúc đợi súng cối của chúng bắn vào Quận (theo chiến thuật Tiền Pháo, Hậu Xung), chúng dùng mã tấu chém những ngọn cỏ (do thói quen) nên cỏ mới đứt như vậy…. Tính ra chỗ đặc công của CS núp chỉ cách chỗ chúng tôi ngồi ăn tiệc độ 10 thước……may nhờ có viên chức xã ấp báo, chúng tôi giải tán kịp, CS chưa bắn súng cối vào Quận. . Thông thường sau đợt súng cối, đặc công sẽ vào Quận dùng mã tấu để đánh cận chiến…  Ông Quận còn nói thêm là nhờ tối hôm qua trời lâm râm cũng làm CS do dự không dám đánh Quận. Ông cắt nghĩa khi giao chiến, cán binh CS bị thương, nước mưa vào cơ thể làm máu loãng, dễ chết…….(vì thế thương binh VNCH không đươc cho uống nước, chỉ cho truyền nước biển, nếu nặng thì cho truyền máu….)
Sau lần đánh Quận bị thất bại….  CS rút kinh nghiệm, không đi vào xã ấp để khỏi bị phát giác. Lần này chúng đi thẳng từ mật khu vào để giữ bí mật. CS bố trí vào các vị trí chung quanh Quận mà chúng đã nghiên cứu trước . Khoảng 11 giờ đêm, chúng bắt đầu nổ súng…Vì đã được tập dượt và phân chia công tác nên chúng tôi đã chống trả rất hiệu quả. Lần này CS không dùng chiến thuật Tiền Pháo Hậu Xung mà đánh trực diện. Nhờ phòng thủ kỹ, nhất là có pháo binh yểm trợ, chúng tôi đã cầm cự để đợi máy bay thả hỏa châu chiếu sáng.  Sĩ quan của Chi khu liên lạc  để hướng dẫn phi cơ thả trái sáng, tinh thần binh sĩ đều phấn khởi. Từ trên cao ngoài tầm đạn của súng phòng không địch, phi công đề nghị chúng tôi là nên gọi máy bay khu trục  để oanh tạc vì hỏa lực của CS rất mạnh.  Chúng tôi cố gắng cầm cự, và nhờ pháo binh bắn rất chính xác,  khoảng hơn 1 giờ sau, CS  có lẽ bi thương nhiều nên đành rút lui…

Cũng nhờ tài chỉ huy của Ông Quận trưởng nên trong 2 năm làm việc ở Quận này, tôi chỉ chứng kiến 2 lần đánh Quận, lần đầu thì CS bị phát giác sớm nên chưa kịp đánh, lần thứ 2 nhờ pháo binh, công binh, và hỏa châu do phi cơ thả xuống nên không bị thiệt hại gì. Thật  may mắn cho tôi đã gặp một vị Quận trưởng quá giỏi về tình báo cũng như tác chiến với nhiều kinh nghiêm chiến trường.

Phần 7.  Phục Kích Trên Đường Hành Quân

 Một hôm ông Quận quyết định lên xã Cầu Khởi, cách Quận độ 14 cây số, bằng đường bộ, sáng sớm đi trưa về. Phái đoàn do Ông  hướng dẫn gồm có tôi (Phó Quận, lên để kiểm soát về Hành chánh), một số Sĩ quan Chi khu và 3 Cố vấn Mỹ. Vì lộ trình rất nguy hiểm, Ông Quận chỉ thị Sĩ quan Tiền sát Pháo binh (thường gọi la DELO) đi theo, để nếu có đụng trận thi gọi Pháo binh hay Không quân yểm trợ. Đêm hôm trước Ông  đã đánh công điện mật cho các đồn bót trên lộ trình để giữ an ninh tuyến đường, đồng thời có 2 Đại đội Địa phương quân đi 2 bên, còn phái đoàn chúng tôi đi ở giữa, có một Trung đội Nghĩa quân thiện chiến nhất đi để bảo vệ Bộ Chỉ Huy. Ông Quận trưởng ra lệnh:

1)  Bộ chỉ huy di chuyển phân tán mỏng, không co cụm vào một chỗ

2)  Di chuyển giữa đường chính hay đi xuống ruộng chứ không được đi ở lề đường, chỗ có cỏ mọc (vì dễ đạp mìn của CS). Sở dĩ Ông Quận Trưởng phải chỉ thị như vậy vì chúng tôi toàn là Sĩ quan mới ra trường chưa được bao lâu, thiếu kinh nghiệm tác chiến…

Chúng tôi di chuyển an toàn tới xã Cầu Khởi, lưu lại  độ 2 giờ để làm việc với xã và đồn lính ở đó…….

Quá trưa chúng tôi ra về. Đi được khỏi xã 2 cây số, giữa rừng cao su, chúng tôi bị CS phục kích, súng nổ vang trời. Lính CS chạy khơi khơi giữa rừng cao su, lần đầu tiên trong đời tôi thấy cảnh như vậy. Ông Quận chỉ huy tổng quát, la lớn để cho CS có thể nghe được: “Đừng đuổi theo nó (Thực tế là lính mình đang tìm địa thế phòng thủ…). Coi chừng Pháo binh sẽ bắn lộn, pháo binh sẽ bắt đầu bắn đó..”..Tôi quay lại hỏi ông Sĩ quan Tiền sát Pháo binh:” Đã liên lạc đươc với Pháo binh chưa ?”, Ông Sĩ Quan pháo binh buồn rầu lắc đầu.Tôi hiểu ngay là Ông Quận lại dùng đòn ly gián, ta chưa hề liên lạc được với pháo binh mà Ông la lớn là Pháo binh bắt đầu bắn. Súng vẫn nổ…chúng tôi không có ai bị trúng đạn vì đã nấp vào chỗ kín đáo…..Sau một hồi lâu cũng không có Pháo binh bắn yểm trợ (Tất nhiên vì đơn vị pháo binh cách chúng tôi trên 10 cây số, như Bén Kéo, nơi đặt bộ chỉ huy Trung đoàn hay Chi khu Quận Châu Thành mới có Pháo binh). Sau dó Ông Quận lại la lớn:” Đã liên lạc được với Không quân, oanh tạc cơ sẽ đến oanh tạc, đâu nằm đó để tránh nhầm lẫn, phi cơ sẽ tới….”…Tôi cũng hỏi có phi cơ không, Ông Sĩ quan Tiền sát cũng lắc đầu vì chưa liên lạc được với phi cơ……Nghe gọi Pháo binh và Phi cơ, CS bắn độ 20 phút rồi tự động rút lui, …Sau khi không còn tiếng súng, chúng tôi tiếp tục di chuyển trên đường về Quận….

Về tới Quận, các Sĩ quan Chi khu ai cũng thấm mệt, riêng tôi nhờ đã ở Lò Luyện Thép Đồng Đế Nha Trang, phải đi bộ  70, 80 cây số với hành trang độ 15 kg mà không thấy mệt, thì cuộc lên xã Cầu Khởi này đi về có 30 cây số, lại không có hành trang thì đối với tôi quá nhẹ nhàng. Tôi cám ơn trường Đồng Đế Nha Trang…và một lần nữa cám ơn Ông Quận Trưởng  với  quá nhiều kinh nghiệm về tác chiến!

Hôm đó cũng xui xẻo là phía Sĩ quan Cố vấn Mỹ cũng không liên lạc được với hệ thống của họ (Cố vấn Mỹ có hệ thống liên lạc riêng, thường họ gọi máy bay rất lẹ…) . Cũng may mà không phải là cuộc đụng trận nặng, nếu đơn vị CS lớn và cố tình đánh chúng tôi thì không biết sự tổn hại sẽ ra sao.?….Từ hôm đó Cố vấn Mỹ cũng học hỏi nơi ông Quận về kinh nghiệm đánh lừa CS…… Khi đụng trận mới thấy Cố vấn Mỹ rất tầm thường, mặt tên nào cũng tái xanh…trông tội nghiệp, nhất là khi không liên lạc được với các cố vấn Tiểu khu để xin máy bay yểm trợ…HẾT

Tù Binh

Tù Binh

Tù binh bị đồng đội căm hận và báo thù đến chết, 60 năm sau, phát hiện từ một gốc cây gây chấn động nước Anh!

Roddick là một tù nhân chiến tranh người Anh. Anh bị bắt trong một lần kém may mắn và giống như nhiều tù nhân khác, Roddick bị áp giải đến một trại tập trung ở Đức.

Trong trại tập trung có gần 1000 tù binh, toàn bộ đều là người Anh. Họ bị đối đãi thậm tệ đến mức khó có gì lột tả hết, không khác gì loài vật và phải làm những công việc vô cùng nặng nhọc.

May mắn là, Roddick là một binh sĩ huấn luyện kỹ năng lái xe tải trong quân đội Anh. Trong trại tập trung của Đức, vị trí này lại thiếu rất nhiều nên tại đây, anh được chiêu mộ làm lái xe.

Tất nhiên, trong số những tù binh Anh ở trại tập trung đó, không ít người có kỹ năng lái xe nhưng chẳng ai tình nguyện làm công việc đó, bởi nhiệm vụ của việc lái xe là chuyên vận chuyển những chiến hữu chết đói và bị sát hại mỗi ngày đến nơi chôn cất.

Tuy nhiên, Roddick lại tỏ ra rất nhiệt tình với công việc này. Anh nói mình sẽ vui vẻ làm tốt công việc được giao.

Và như vậy, Roddick cuối cùng đã là một lái xe của Đức quốc xã và cũng kể từ đó, anh trở nên thô bạo và tàn nhẫn với chính đồng bào mình.

 Không chỉ quát tháo, lớn tiếng với các tù nhân, anh còn dùng bạo lực, nắm đấm hướng về phía họ. Thậm chí, có tù nhân rõ ràng chưa chết, anh vẫn cố tình vứt lên xe.

Lẽ dĩ nhiên, tất cả những tù binh đều tỏ ra căm hận con người này, đồng thời dùng nhiều cách khác nhau để cảnh cáo Roddick. Nghe xong, anh vẫn bỏ ngoài tai, việc mình mình làm. Các tù binh không tiếc lời mắng nhiếc Roddick là tên cẩu tặc, kẻ bán nước, loài chó săn…

Nhưng cũng chính nhờ đó, quân Đức quốc xã càng lúc càng thích thú và tín nhiệm Roddick. Ban đầu, khi anh lái xe ra khỏi trại tập trung, binh sĩ Đức quốc xã đều chặn xe lại kiểm tra, giám sát từng cử động nhưng về sau, anh có thể ra vào thoải mái mà không hề bị kiểm soát. 

Chiến hữu của Roddick cũng ngầm công kích anh, không ít lần thiếu chút nữa thì bị họ đánh cho mất mạng.

Sau một lần bị đánh thừa chết thiếu sống, Roddick vĩnh viễn mất đi một cánh tay, đồng thời, anh cũng mất đi giá trị lợi dụng. Không còn có thể tiếp tục lái xe, Roddick như chiếc bị rách bị quân Đức quốc xã vứt ra bãi rác.

Không còn được quân Đức bảo hộ, Roddick nhanh chóng rơi vào trận địa báo thù vô tình của các tù nhân chiến tranh Anh. Một ngày mưa, trong một hoàn cảnh cô độc đến thê lương, anh chết cạnh một góc tường ẩm ướt trong trại tập trung của người Đức.

Ảnh minh họa.

Người cứu mạng tôi, trở thành người tôi hận nhất

60 năm đã trôi qua, người dân ở quê hương Roddick dường như sớm đã quên mất anh còn những người trong gia tộc cũng cố tình né tránh tất cả những việc làm liên quan đến con em mình.

Cứ như thế, Roddick bị chôn vùi trong cát bụi của thời gian.

Thế nhưng bỗng nhiên có một ngày, một tờ báo có lượng phát hành không nhỏ của nước Anh đã đăng tải một bài viết có tựa đề “Người cứu tôi, là người tôi hận nhất” ở ngay vị trí bắt mắt nhất trang nhất. 

Nội dung bài báo như sau:

Trong tại tập trung của Đức quốc xã có một tên phản đồ tên Roddick, cam tâm bán mạng cho tụi Nazi (ám chỉ Đức quốc xã). Ngày hôm đó, tôi ốm nhưng chưa chết, thế nhưng anh ta vẫn vất tôi lên xe tải và nói với bọn Đức là đem tôi đi chôn.

Tuy nhiên, điều khiến tôi không thể ngờ đến là, khi xe chạy được nửa đường, Roddick dừng xe, nhấc tôi đang thoi thóp ra khỏi xe và đặt tôi xuống dưới gốc một cây cổ thụ, để lại vài mẩu bánh mỳ đen và một bình nước, vội vã nói với tôi: Nếu như anh có thể sống, hãy đến thăm cái cây này rồi cấp tốc lái xe đi mất.

Sau khi câu chuyện ngắn ngủi này được đăng không lâu, tòa soạn báo liên tục nhận được điện thoại gọi đến và không một ai ngoại lệ, tất cả đều là cựu binh chiến tranh Thế giới thứ hai và đều là những chiến binh già không may từng bị bắt làm tù binh.

Một điều nữa càng khiến người ta không tưởng tượng được, là không một ai ngoại lệ, 12 cựu chiến binh gọi điện đến đều từng ở cùng nhau trong một trại tập trung của Đức – đó là trại tập trung mà Roddick đã ở.

Những câu chuyện do chính 12 cựu quân nhân kể ra, dường như đều là bản sao của câu chuyện đã được đăng tải trên mặt báo: Họ đều được Roddick đặt xuống dưới gốc cây và nhờ đó mà thoát chết.

Điều khiến người ta chú ý hơn là, mỗi lần Roddick lái xe ra khỏi trại tập trung, anh đều nói với các chiến hữu rằng: Nếu anh có thể sống, hãy quay lại thăm cái cây này.

Người biên tập và giới thiệu bản thảo của bài viết là một cựu biên tập từng tham gia chiến tranh. Dựa vào trực giác nghề nghiệp, ông phán đoán một cách nhạy cảm, rằng cái cây mà Roddick nhiều lần nhắc đến, nhất định phải chứa đựng nội dung gì đó.

Và ông lập tức tổ chức các cựu binh, hợp thành nhóm 13 người, men theo con đường năm xưa họ trốn chạy để tìm cái cây vốn không thể phán đoán liệu nó tồn tại hay không.

Khi đoàn người đến được điểm đến, rừng núi vẫn như xưa, cái cây cổ thụ vẫn ở đó. Một cựu binh không kiềm chế được cảm xúc, chạy về phía trước ôm thân cây, khóc lớn. Trong một cái hộc ở gốc cây, người này phát hiện một cái hộp sắt đã hoen gỉ từ bao giờ.

Ảnh minh họa.

Khi mọi người xúm lại lấy và mở chiếc hộp ra, họ phát hiện một cuốn nhật ký nhiều trang đã loang lổ và trong đó là một tấm ảnh đã mốc theo thời gian. Nhẹ nhàng lật giở cuốn nhật ký, cựu biên tập viên bắt đầu đọc:

Hôm nay mình lại cứu được một chiến hữu, đây đã là người thứ 28 rồi… cầu mong anh ta có thể sống được…

Hôm nay, 20 chiến hữu của mình đã chết…

Đêm qua, các chiến hữu lại một lần nữa mạnh tay với mình… Nhưng mình phải kiên quyết đến cùng, cho dù thế nào đi nữa mình cũng không được nói ra sự thật, như thế, mình mới có thể cứu được thêm nhiều người khác…

Các chiến hữu thân yêu, tôi chỉ có một hy vọng, nếu các bạn còn sống, xin hãy quay lại thăm cái cây này.

Giọng của vị cựu biên tập ứ nghẹn lại, những cựu binh khác đã rơi nước mắt tự khi nào không hay. Những mái đầu hoa râm đứng dưới tán cây cổ thụ, cho đến lúc đó mới hoàn toàn nhận thức thật rõ ràng, rằng Roddick đã cứu tất cả 36 tù binh của Anh Quốc.

Hôm nay, những người còn sống trên đời, có lẽ không chỉ có 13 người đi tìm lại gốc cây năm xưa.

Cuốn nhật ký và tấm ảnh liên quan đến trại tập trung được lưu lại ở hộc cây, đó là bằng chứng thép vạch trần tội ác của Đức quốc xã với thế giới, nó cũng là bằng chứng thép cho thấy Roddick không tồi tệ như các chiến hữu năm xưa đã đánh giá về anh. 

Roddick đã chấp nhận mọi đau khổ, thậm chí là chấp nhận cả cái chết dù anh biết mình đã bị hiểu lầm.

Chia tay với các cựu binh, vị cựu biên tập nhanh chóng cho đăng tất cả những câu chuyện đủ hay, đủ sức lay động hàng triệu triệu trái tim trên khắp thế giới trên trang bìa của tờ báo mình đang cộng tác.

Vì được báo chí đưa tin mà khung rừng già cùng gốc cây lưu lại dấu tích của Roddick kia bỗng trở nên náo nhiệt. Không ít người đã tự tìm đến đây, cúi đầu trước người chiến binh thực sự vĩ đại, thể hiện sự tôn kính của họ dành cho anh. 

Lẽ đương nhiên, Roddick trở thành anh hùng của nước Anh.

Một tác gia đến thăm khu rừng này, bó một bó họa rừng không rõ tên đặt trước bia kỷ niệm mộc mạc và ngồi lại dưới gốc cây thật lâu.

Về sau, ông ta lấy bút ra viết một đoạn cảm xúc ra cuốn sổ của mình. Ông cảm giác, mình có trách nhiệm phải nói với mọi người: 

Sự hoàn mỹ luôn cần có cái giá để đánh đổi, không có tinh thần trách nhiệm lớn lao, không có sự hy sinh bất khuất, không có một tinh thần thép, tuyệt đối không thể làm được!

Khát vọng hoàn mỹ là quyền của mỗi con người. Có những lúc, sự hoàn mỹ đó vì bị môi trường thúc ép mà hình thức biểu hiện của nó trở nên khác với nguyện vọng ban đầu, vì thế mà tạo nên sự hiểu lầm, dẫn đến những ánh mắt thù địch.

Điều này nhất định sẽ hình thành nên một loại áp lực xã hội vô cùng lớn. Thế nhưng người có thể vì sứ mệnh cao cả của sự hoàn mỹ, từ đầu đến cuối chấp nhận mọi oan ức, đau đớn, hiểu lầm… tên tuổi của anh ta sẽ trở thành một lá cờ luôn đương giương cao, cao mãi.

Roddick là một người như thế.

Và trên thế giới này, tôi kính phục nhất một kiểu người mà trong hoàn cảnh ác liệt và tồi tệ, họ thà chấp nhận gánh nặng trên vai và bước tiếp thay vì sống vô trách nhiệm, để mặc đời muốn trôi đến đâu thì đến! 

From: Do Tan Hung & KimBằng Nguyen

 Người Bảo Trợ Của Tôi ( từ FB Huy Nguyễn Đình)

 Người Bảo Trợ Của Tôi ( từ FB Huy Nguyễn Đình)

Đọc được bài này trong ngày Phụ nữ Quốc Tế (International Women’s Day), thật là có ý nghĩa. Xin được chia sẻ 

 Chồng chết tại một xứ sở xa lạ, bỏ người vợ trẻ  ở lại nhà, mà người đàn bà Mỹ này đã không bước đi bước nữa đã là chuyện lạ rồi. Mà còn cưu mang những người lạ chỉ vì họ đến từ nơi mà chồng bà đã bỏ mình, tình yêu người đàn bà này dành cho chồng thật là hiếm có. Thật là trớ trêu cho dân tộc VN, người cùng chủng tộc thì giết nhau chẳng nương tay dưới chiêu bài “Đánh cho Mỹ chết, Ngụy nhào để thống nhất đât nước, dành Độc Lập”, nhưng rút đi rút lại thì có nhiều người dân Mỹ đã thương yêu, đùm bọc cho dân Việt hơn chính người Việt đối với nhau. Người cộng sản VN đọc bài viết này nghĩ sao? Có biết nhục không?  

 Dân VN trong nước đọc bài này có nhìn ra được cái gì không? Độc lập được 45 năm rồi đó. Sao vẫn có quan thầy chỉ đạo từ phương Bắc.

DH

Người Bảo Trợ Của Tôi ( từ FB Huy Nguyễn Đình)

                          Với lý lịch 8 năm tù trong trại cải tạo CS, gia đình tôi sang Mỹ theo diện H.O. 15, đầu trọc: không thân nhân bảo trợ. Tôi đã trải qua. Ngày cùng vợ con lên phi trường ra đi, cũng là một ngày đầy nước mắt. Cha tôi đã chết đúng ngày tôi lên đường. Ngày đi không thể rời. Chỉ còn cách quỳ lạy xác cha. Tạ từ mẹ già và người thân, tôi lặng lẽ cúi đầu ra đi không 1 người đưa tiễn. Ngồi trên phi cơ mà tưởng chừng như tôi đang ngồi trên đống lửa. 

             Rồi đọan cuối của cuộc hành trình đã đến. Theo chân các hành khách , tôi dắt dìu vợ con ra khỏi máy bay. Ra đón gia đình chúng tôi có một số người Mỹ và VN, tôi còn đang ngỡ ngàng với người và cảnh quá lạ xa nầy thì môït bà đầm Mỹ đến ôm tôi và trao bó hoa, chụp hình lưu niệm. Sau vài sự giới thiệu (mà lúc đó đầu óc tôi trống rỗng) gia đình tôi đươc bà Mỹ bà bảo trợ tên là Helen dẫn ra xe và chở vê một apartment mà bà đã thuê sẵn. Vợ chồng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác khi thấy sự chuẩn bị quá ư đầy đủ của bà bảo trợ: từ cục xà bông, cái khăn tắm, cuộn giấy đi cầu đến cái móc áo… moi vật dụng cần thiết đêu có sẵn, tại phòng khách với chiếc TV hiệu SONY 20 inch mà cả cuộc đời tôi không bao giờ dám mơ ước tới thì nay đã hiện hữu và từ nay tôi không còn phải lội bộ thật xa đến xóm chợ đầu làng để xem những trận đá bóng với cái TV cà rịch cà tang… Còn 2 thằng con tôi thì hả hê với chiếc máy game. Vợ tôi cứ xuýt xoa mãi sao mà họ tử tế quá… tôi còn được biết (qua người VN dịch lại) là tiêøn nhà tháng đầu bà bảo trợ đã tặng cho tôi. Sau khi đã chỉ dẫn những cách xử dụng vài vật dụng cần thiết trong nhà cũng như những điêu không được làm như không mở cửa cho người lạ mặt .v…v… mọi người từ giã ra vềâ riêng bà bảo trợ thì dặn tôi chuẩn bị các thứ giấy tờ cần thiết để sáng mai bà đến đón gia đình tôi lúc 9 giờ. Bà còn nói đùa là nhớ mở cửa cho bà… Cả đêm đó tôi trằn trọc không sao ngủ được dù người tôi mệt mỏi rã rời sau chuyến hành trình dài. Sáng hôm sau và dài dài sau đó, bà bảo trợ đã đón đưa gia đình chúng tôi đi làm những thủ tục lúc đầu như làm thẻ An sinh xã hội, khám sức khỏe, nộp giấy tờ cho 2 con tõi đi học và hướng dẫn vợ con tôi chỉ bảo tôi từ đường đi nước bước cho đến khi tôi bắt đầu thi đậu lái xe thì bà nghĩ rằng tôi có thể tạm quen dần với cuộc sống nên thỉnh thoảng khi có việc cần bà mới đến, tuy nhiên những ngày Chủ Nhật bà thường đưa gia đình tôi đi sau đó về chơi và ăn uống ở nhà bà rồi bà dạy Anh Văn cho vợ chồng tôi.

             Căn nhà bà ởø một nơi thật yên tĩnh và có vườn hoa xinh xắn, qua tâm tình với bà tôi đươc hiểu rõ vê lý do tôi được bà bão lãnh, bà kể lại rằng sỡ dĩ bà chọn bảo trợ tôi vì khi đọc hồ sơ ờ Hội Từ Thiện USCC được biết đơn vị của tôi ngày xưa đóng ởø PLEIKU mà nơi đây chồng bà đã công tác rồi mất tích. Bởi địa danh Pleiku cứ ám ảnh tâm trí bà và trong những giấc mơ, Bà thấy chồng hiện về mặt mũi đầy máu và nói rằng ông đã được 1 người nông dân VN cứu nhưng vì vết thương quá nặng nên ông không sống được! Bà cũng đã cho tôi xem những bức hình chồng bà chụp những cảnh Pleiku như Biển Hồ, núi Hàm Rồng, hình người Thượng mang gùi dẫn nhau từng đàn trên đường ra chợ… tất cả đối với bà là những kỷniệm còn sót lại của chồng bà nhưng đối với tôi là cả 1 vùng trời kỷ niệm thân thương của cuộc đời quân ngũ. Chồng bà đã mãn nhiệm kỳ ờ VN nhưng tình nguyện ở lại công tác tiếp và bị mất tích, bà tự hỏi không hiểu cái gì ở VN đã hấp dẫn chồng bà. Bà còn kể cho tôi nghe vài món ăn VN mà chồng bà ưa thích và nay thì bà đang thực tế cùng ăn với gia đình tôi và tỏ ra thích thú lắm. Tình thân giữa gia đình tôi và bà bào trợ càng ngày càng thấm thiết. Vì không có con cái nên mọi tình thương bà dồn cho 2 đứa con tôi. Thời gian khi con tôi đau phải nằm bệnh viên, ngày nào bà cũng đến chăm nom săn sóc với nỗi lo hiện trên nét mặt như chính người thân yêu của bà.

 Tôi thỉnh thoảng vẫn đến dọn dẹp mảnh vườn nhỏ của bà, bà trả thù lao nhưng tôi từ chối thì bà tế nhị mua cho vợ hoặc con tôi những thứ khác. Bà cho biết bà đang làm việc tình nguyện ở một bệnh viện và thỉnh thoảng bà có cộng tác với Hội Chữ Thập Đỏ. Đôi khi tôi thấy bà đem quần áo về nhà giặt sạch sẽ, ủi cẩn thận và bỏ vào thùng mang đi. Bà âm thầm làm việc liên tục, ít khi thấy bà nghỉ ngơi và lúc nào bà cũng vui vẻ biểu hiện qua khuôn mặt đầy lòng nhân ái. Thỉnh thoảng bà cũng thường hay hỏi tôi về đời sống người dân ở VN. Bà rất quan tâm và thông cảm với những khốn khổ mà người VN đang gánh chịu. Khi biết có bão lụt ở VN, bà rất tích cực đóng góp vào công việc cứu trợ, nhất là bà thường gời tiền giúp cho trẻ em Cô Nhi Viện VN. Một hôm thật tình cờ tôi gặp bà cũng đến hiến máu ở Trung tâm Hiến Máu thành phố, tôi càng thấy thương và kính phục bà nhiềøu hơn. Gặp nhau tại đây, bà nhìn tôi với ánh mắt thông cảm và hài lòng khi thấy tôi cũng hiện diện, nhìn tấm thẻ ghi ngày hiến máu của bà đã gần hết chỗ ghi ngày tháng tôi đựợc biết thêm đây không phải là lần đầu tiên bà đến đây. Tại nơi nầy tôi cũng được dịp quan sát và thấy người Mỹ họ đi hiến máu thật đông mà giới trẻ đi hiến máu cũng không phải là ít, tôi ao ước trong cộng đồng VN chúng ta mọi người động viên nhau đến với Trung Tâm Hiến Máu thì thật là quý báu lắm thay. Sau nầy có lần bà hỏi tôi bên VN có đi hiến máu đông không, tôi thật tình kể với bà rằng tôi chỉ thấy chỉ có những người dân nghèo ở Sài gòn phải đi bán máu để kiếm sống, bà tỏ ra xót xa!

                 Càng gần gũi biết vêà bà tôi càng thương bà hơn. Tôi kính trọng bà như chị ruột của tôi, gặp những gì khó khăn tôi thường đến nhờ bà hướng dẫn và ngược lại bà cũng không giấu tôi những nỗi niềm riêng tư của bà. Bà đã bỏ đi cả quãng đời thanh xuân để sống âm thầm với kỷ niệm mặc dù có bao chàng trai đã đến cầu hôn bà khi bà là 1 thiếu nữ trẻ đẹp. Sự thủy chung của bà như viên ngọc quý giữa cái xã hội thay chồng đổi vợ như thay áo ở xứ Mỹ văn minh nầy. Theo bà công tác từ thiện đã giúp bà vượt qua mọi cám dỗ để đứng vững đến ngày hôm nay. Có lần tôi hỏi bà sao không nuôi chó hoặc mèo cho vui” Bà nói bà cũng thích và thương thú vật lắm nhưng bà phải dành thì giờ làm những công việc khác có ích hơn và tiền mua thức ăn cho súc vật để dành giúp cho người nghèo có được miếng sống thì quý hơn. Từ những suy nghĩ đơn sơ đầy tình người, những giúp đỡ thiết thực của bà đối với người dân nghèo VN và cá nhân gia đình tôi, tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói lên lòng biết Ba. Tôi chỉ cầu xin ơn trên cho bà luôn được mạnh khoẻ để đem tình thương đến cho mọi người. Một hôm bà nói với tôi rằng từ lâu bà ao ước được đi thăm VN một chuyến, nhất là đi đến cái xứ Pleiku đó, bà muốn tôi cùng đi và nói khi nào tôi sẵn sàng đi được thì báo cho bà biết. Qua Mỹ hơn 4 năm, tôi cũng nhớ Mẹ già và quê hương lắm, muốn vềø thăm nhưng ngặt nỗi nếu đi cả vợ chồng và 2 đứa con vào dịp Hè thì quá tốn kém. Như hiểu được khó khăn của tôi, Bà nói sẽ tặng vé máy bay cho cả gia đình tôi. Nói vậy chứ tôi đâu dám nhận vì vợ chồng tôi dã mang ơn bà nhiềøu qúa. Cuối cùng tôi đã báo cho bà là dịp Hè tới được nghỉ, tôi và thằng con trai lớn sẽ cùng bà đi VN, bà vui mừng ra mặt, tôi chưa thấy lần nào bà vui như lần nầy. Bà nói được đi VN là bà mãn nguyện lắm. Bà đưa ra những dự tính phải làm khi đến VN. Thời gian như ngắn lại, bà đếm từng ngày, chỉ còn ba tuần nữa thôi.

              Nhưng rồi tang thương lại một lần nữa ập xuống. Một buổi chiều thứ sáu như thường lệ trên đường từ Hội Chữ Thập Đỏ về nhà, xe bà đã bị 1 xe truck do một tài xế VN đụng phải và bà đã trút hơi thở cuối cùng nơi bệnh viện không một người thân. Nhận tin mà tôi tưởng chừng như xung quanh đất trời sụp đổ, tôi chết lặng hồi lâu. Cuộc đời sao quá oan nghiệt, ước nguyện thật nhỏ nhoi của bà đã không thành. Biết đâu Thượng Đế muốn dành cái chết như phần thưởng cho riêng bà. Biết đâu giờ này bà đã gặp lại chồng bà và 2 ông bà đang hạnh phúc bên nhau nơi miền miên viễn. Có lẽ Thượng Đế không muốn bà phải lặn lội đường xa tìm tin tức chồng trong vô vọng và Ngài cũng không muốn bà phải tận mắt chứng kiến cảnh khốn khổ của người dân VN đang sống duới chế độ phi nhân của CS. Gia đình tôi hoà lẫn giữa đám đông người Mỹ trong đám tang thật cảm đông để đưa tin bà lần cuối, viếng xác bà khi còn đặt ở nhà quàng, tôi thấy măt bà đã được trang điểm thật đẹp, trông bà thật thanh thản và mặt bà như có vẻ mãn nguyện… tôi muốn đuợc ôm từ biệt bà lần cuối và thét lên rằng: “Chị ơi sao đành bỏ em!” Vợ tôi đã ngất xỉu khi quan tài bà hạ huyệt. Sau cái chết của bà, gia đình tôi thấy thật trống vắng, 2 con tôi lúc nào cũng nhắc tới bà với nhiều nhớ thương. Vợ chồng tôi cũng dự định chuyển đi tiểu bang khác ấm áp hơn để hy vọng tìm 1 chút an bình. 

             Nay ngồi ngẫm lại những sự việc xảy ra: ngày bà chết cũng đúng vào ngày cha tôi mất (mùa lễ Phục Sinh). Rồi cả bà và chồng bà đều chết bởi người VN gây ra, tôi không hiểu tại sao có thể như vậy… Lòng tôi quặn thắt khi nghỉ đến bà, gia đình tôi mang ơn bà mà không bao giờ trả đươc. Nhớ thương bà tôi chỉ biết đặt ảnh bà cùng chung với bàn thờ cha tôi, cha mẹ tôi đã sinh ra tôi còn bà đã cho tôi lý tưởng sống. Bây giờ trên bàn thờ cha tôi có thêm bức hình của bà Helen. Chị ngồi đây với cha tôi và hàng năm ngày cúng giỗ cha tôi cũng là ngày tôi cúng giỗ chị. Mộ chị sẽ không quạnh hiu vì có chúng tôi đến với chị như khi chị còn sống trên cõi đời nầy. Sau đám tang bà Helen một thời gian, một hôm tôi sững sờ khi luật sư báo cho biết theo di chúc, bà Helen để lại tặng cho vợ chồng tôi căn nhà của bà và ngoài ra bà còn tặng 100 ngàn đôla cho Cô Nhi Viện ở VN. Khi gia đình tôi phải dọn về căn nhà của ba,ø tôi tự hỏi mình đã làm gì để được hưởng phần thưởng nầy. Suốt cuộc đời tôi phải sống trong ân tình ngút ngàn mà không bao giờ trả được. Trước mộ bà, tôi thầm khấn vái “chị Helen sống linh chết thiêng xin phù hộ gia đình tôi, dẫn đường soi lối cho tôi đi theo lý tưởng của chị: sống vì mọi người.

TAM NGUYỄN

From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

CHUYỆN ÔNG BÀ TÁM…

Image may contain: one or more people
No photo description available.
No photo description available.
Image may contain: 2 people, people sitting, child and outdoor
Stephen Nguyen is with Tu Ma Gan Nguyen and 16 others.

CHUYỆN ÔNG BÀ TÁM…

Ông Tám nặng nhọc xách từng bao giấy toilet, giấy tissue, mấy bao gạo Bông Hồng, vài thùng mì tôm, mấy lố xì líp, sú cheng…đủ thứ hầm bà lằng xắng cấu lôi ra từ cốp xe đem vào garage. Hơn 20 bao Kleenex tổng cộng, chật ních cái xe Kluger của ông. Mỗi bao Kleenex 36 cuộn, nặng cũng tầm vài ký. Ông lẩm bẩm :”mua gì mà dữ thần zậy trời, sợ zìa thiên đường hổng có sao ta, khùng!” Nghĩ bực dọc thế thôi, già rồi , gần 80, mới về hưu được chục năm nên ông cứ từ từ làm theo ý bả , cu ky như tầm ăn dâu, rồi cũng xong.

Bà Tám hôm nay trông hớn hở lắm. Dự trữ được từng này thứ bà xem như một thành tích. Bả “phe “ với chồng, phải ngó dọc liếc ngang, chân nhảy tưng tưng như sáo mới mua được như thế đó, đám trẻ chưa chắc bằng bà nhe.

Còn ông, vốn gốc con nhà nông, thường không ngại khó. Chỉ có điều, già nhân ngãi bao năm, nên ông hiểu tính nết bà Tám, bả bảo sao thì ông làm, miễn cãi, miễn hỏi, miễn bàn, phiền sóc óc lắm. Tiền hưu hai người thì bả thâu về một mối, một tay bả quán xuyến. Được cái bả hổng dám xài tầm bậy, chỉ xài…tầm bạ không hà:-)))

Nhớ cái thời còn ở Giồng Ông Tố, Thủ Thiêm, cầu tiêu thì nhà có nhà không, nhà không có thì đi nhờ nhà có. Đa số làm kế hông nhà, mé sông, nối miếng ván ngắn từ trong nhà ra, miếng ván dài từ ngoài đường vào, tiện cho chòm xóm nhà ai không có cầu tiêu mà muốn đi nhờ khỏi cảm thấy ngại ngùng. Cầu tiêu kiểu này mọi thứ thải thẳng ra sông biển, nuôi cá, nuôi tôm. Được cái thích thú là ngồi lúc gió nhẹ hiu hiu thì mát cái mông phải biết; còn gặp lúc gió mạnh thì lại tạo cảnh “đong đưa, lúc lắc” trữ tình, cảm giác thật thú vị râm ran.

Thời đó dân quê chỉ biết giấy quyến gói thuốc hút, giấy báo gói đồ chứ làm gì có giấy cuộn để chùi này chùi kia như thời nay. Lá mít, lá chuối, lá ổi … trong vườn là những mặt hàng chiến lược thiên nhiên có từ thời cha ông truyền lại. Xài hoài không hết. Mãi đến tận gần cuối thế kỷ 20 mới bày đặt ra nào là Kleenex , Sorbent, Quilton, Soft Touch…, mọi thứ từ Sài Gòn theo những chuyền phà Thủ Thiêm đổ về vùng này theo sự “lên đời” của cầu tiêu bồn hiện đại mới tuynh nơi mỗi hộ.

Đang miên man lội ngược giòng về quê cũ, bỗng tiếng bà Tám lanh lảnh từ trong nhà vọng ra: “Tía thằng Hai để đám sú cheng , xì líp của tui ở đâu zị?” Ông Tám uể oải đứng dậy từ cái ghế góc vườn, vào garage lôi đám “lôm côm” của vợ ra. Bỗng ổng dại miệng cắc cớ hỏi:” dịch viêm phổi cấp mà bà mua mấy thứ này chi mà dữ zị, zới lại toàn size C, D cupping con gái không hè, tui nhớ bà size E “full circle “ mà! Bà Tám giựt đám đồ từ tay ông rồi lườm ông một cái :”Ông già rồi mà còn rành size này size kia dữ heng. Nói để cho ông mở tai, mở đầu, mở óc ra nè. Nãy ông đi shop mà hổng để ý mấy cái kệ để khẩu trang sạch trơn rồi hả, đến một lúc ông phải xài những thứ này đó nhe, đừng có mà cắc cớ, không chụp giựt được đám này thì có ngày ông phải xài luôn miếng “ Care free” nhỏ xíu thay khẩu trang nha ông! “ Bà Tám vừa nói vừa dứ dứ cái đám “ khô mực” ấy vào mặt ông rồi bỏ đi.

Ông Tám bó tay chẳng nói gì thêm. Ông trở ra vườn, lại miên man suy nghĩ đến con Corona. Xem ra nó nguy hiểm thiệt. Ở Sydney chớ đâu phải nơi cái đất phèn Thủ Thiêm đâu mà như sắp tận thế đến nơi vậy cà? Chánh phủ ông Cót người ta phải bảo đảm mọi nhu cầu của dân chúng khi lâm cảnh nguy hiểm cần kíp chớ. Ai cũng như bả, kẻ dự trữ, kẻ đầu cơ kiểu này có ngày chưa bịnh thì đã ngủm vì giết nhau, giành giựt ba thứ không đâu rồi.

Nghĩ thế, ông lại dại miệng ca cẩm hò lơ:

“ Hò lơ…ơ…ơ…
Đèn Sài gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Sydney ngọn tỏ ngọn thì …quá lu
Bà zìa bà học chữ u….”

Chưa dứt câu bỗng giọng bả vọng ra:
“ Nè, ông đang càm ràm chì chiết ai zậy ông?”

“ A hèm, tui hát bâng quơ vu vơ vậy mà, có gì hông bà?”

Bà Tám không trả lời, im lặng.
Một sự im lặng đáng sợ:-)))

Mùa dịch 05/02/2020

Stephen Nguyễn

Chú Tư Mạnh

Chú Tư Mạnh

Những năm đầu của thập niên 80 , sau 5 năm lưu đày ở Củ Chi , Tôi được về thành phố dạy 1 trường Cấp 3 ở gần nhà . Mỗi tuần chỉ có 12 tiết dạy của 3 lớp cuối cấp, chuẩn bị thi tốt nghiệp phổ thông . Rảnh rỗi dù thời gian này, cả nước đang đói . Nhưng tôi vốn vô lo , đến đâu hay đến đó, quanh quẩn với đồng lương chết đói , sống tạm qua ngày . Chẳng biết làm chi cho hết giờ, lại bày đặt Chơi Chim . Chơi ở vườn Tao Đàn, sáng sáng xách lồng chim , đạp xe ra , tụ nhau lại đấu láo và nghe chim hót . Và cũng từ đó thành lập 1 nhóm cùng ngồi với nhau .

Người cao tuổi nhất nhóm là Chú Tư Mạnh , hồi đó cũng khoảng 50 . Chú cao to như Tây , ăn mặc chải chuốt và thanh lịch như công chức cao cấp thời trước . Giọng rặt Nam bộ và hành xử cũng khá hào phóng với mọi người . Gia đình Chú thuộc loại giàu có , hồi đó đa số đều đi xe đạp hoặc xe gắn máy cũ mèm , Chú chơi xe Honda đời mới do đám viễn dương đem về bán , chiếc nào cũng giá mấy lượng vàng . Đôi khi cuối tuần , Chú lại đến bằng xe hơi Peugeot có tài xế lái . Lúc đầu , ai cũng tưởng Chú là cán bộ có chức vụ về hưu , nhưng dần dần hỏi chuyện hoá ra không phải . Chú là dân buôn bán từ xưa đến giờ . Chuyên bán vàng . Lúc đó nhà nước cấm dữ lắm , nhưng nhu cẩu xã hội vẫn có , nên Chú vẫn tiếp tục nghề xưa , dù là mua chui bán lậu . Chú có đến 3 căn nhà , toàn mặt tiền đường lớn , mà cái nào cũng to . Tụi tui cứ thắc mắc không hiểu với tài sản như thế mà sao gia đình Chú lại thoát được mấy lần đánh tư sản khốc liệt vậy ? Hoá ra là Chú có người em ở rừng về , làm chức gì lớn lắm trong uỷ ban thành phố , nên tài sản Chú được an toàn mà nghe đâu lại càng nhiều hơn khi có sự trợ thủ đắc lực của Chú Em . Sáng nào cũng vậy , Chú đều chơi dĩa bò kho bánh mì có bốn miếng thịt lớn , Chú bảo Chú rất thích món này , ăn hoài không thấy ngán . Thường thường , Chú ăn 2 miếng , còn 2 miếng bà chủ đã biết ý , luôn gói lại đưa Chú mang về cho 2 con chó Fox bé tí tì ti . Thời đó đói ăn , cả tháng làm giáo viên như tôi mới mua tiêu chuẩn được nửa kí thịt heo bạc nhạc với mỡ , nên thấy Chú ăn sáng như vậy , tụi tôi thấy Chú quá sang trọng , nên dù ngồi với nhau , tiếng nói của Chú vẫn có giá trị hơn hẳn . Người giàu sang lúc nào cũng thế , giữa mọi người họ vẫn có vị thế cao hơn 1 bậc , bởi họ nhiều tiền hơn đương nhiên tiếng nói của họ được vị nể hơn . Chúng tôi càng nể Chú hơn nữa khi gặp 2 đứa con của Chú . Chú có 2 đứa con , trai lớn gần 30 , cô con gái nhỏ khoảng 25-26 tuổi . Cả 2 đều rất lễ phép và cũng vừa lập gia đình . Mỗi lần đi đâu xa hoặc cuối tuần về quê chồng quê vợ , con Chú đều ra tận nơi sân chim để chào và xin phép Chú về thăm Cha thăm Mẹ . Lần nào cũng cúi đầu , khoanh tay chào hết mọi người khi đền cũng như lúc đi . Chú hãnh diện về điều này , mà tụi tôi cũng đồng ý về sự hãnh diện đó của Chú . Cái thời buổi nhiễu nhương , ông thằng thay đổi tá lả thế này , nề nếp gia phong lộn tùng phèo mà còn được những đứa con như thế thì hãnh diện là quá đúng rồi !

Nhưng hoá ra là đóng kịch cả, là mưu mô cả . Lần hồi, các màn kịch cứ he hé và lần lượt diễn ra, tụi tôi nhiều khi không tin được , không ngờ cuộc đời lại có nhiều chuyện khốn nạn đến thế . Khi xã hội Việt Nam bắt đầu mở cửa là lúc màn kịch bắt đầu .

Đầu tiên là căn nhà ba tầng ở Bùi Thị Xuân , căn nhà lâu nay giao cho anh con trai lớn ở và bán buôn . Một ngày đẹp trời vợ chồng anh về thưa với vợ chồng Chú là anh ta muốn sửa sang lại để biến thành khách sạn , bởi bắt đầu sẽ có khách du lịch về , doanh nghiệp qua , đón đầu như vậy mới thắng lớn được . Nghe bùi tai quá , vợ chồng chúng nó từ xưa đến nay ngoan ngoãn , biết lo làm ăn , chưa hề làm mất lòng 2 vợ chồng Chú . Thế là sang tên cho chúng để chúng chúng mở doanh nghiệp , xin giấy phép xây cất . Lại còn cho chúng mượn 300 lượng vàng làm vốn . Hai vợ chồng an tâm phần thằng Hai . Chúng nó làm ăn thành công thì mình lo chi tuổi già , xem như chia gia tài trước cho chúng . Giải quyết nhẹ bâng .

Lại đến cô con gái , cũng 1 đêm mát trời , con gái nằm gãi lưng cho mẹ vừa thủ thỉ : Vợ chồng con cũng đã lớn rồi , ba má cho chúng con ra riêng đặng lo cho tương lai . Ba má giao cho tụi con cái nhà ở đường Nguyễn Đình Chiểu đang cho thuê , tụi con dọn về đó mở tiệm vàng , bây giờ nhà nước cho tư nhân mua bán vàng , làm ăn tốt lắm . Ba má vẫn ở nhà này , tuổi già cần yên tĩnh mà ở chung thế này nhiều khi các con của con quấy quá làm phiền ba má . Nói nghe lọt tai quá , nghĩ cũng hợp lí quá , sang tên nhà , đưa thêm 300 lượng làm hàng bán . Lúc đưa vàng , vợ chồng Chú bắt phải có mặt Con Rể , hai vợ chồng cùng ký giấy mượn của vợ chồng Chú 200 lượng , còn 100 lượng kia cho hai đứa bây làm vốn . Thế là xem như xong chuyện của hai đứa con , hai vợ chồng Chú vui vẻ để lại tiếp tục sống cuộc đời hạnh phúc .

Đùng 1 cái , anh con trai lớn không biết làm ăn hùn hạp với ai , phải cầm cố nhà cửa , khách sạn . Rồi 1 ngày cả nhà trốn mất . Vượt biên . Khách sạn bị tịch thu , cửa khoá to đùng với tờ giấy dán chéo ghi : Vượt biên , phản quốc với mấy dấu đóng đỏ lòm . Chú Tư Mạnh ốm mấy tháng , Vợ Chú lên cơn đau tim phải vào cấp cứu . Thôi ! Của đi thay người , chỉ mong gia đình nó đến nơi bình an . Nhưng rồi , tin đến chẳng bình an , anh con trai chỉ đi ra được đến bãi là bị gài bắn chết ngay tại chỗ để bọn dân quân , công an cướp vàng . Cô vợ và đứa cháu bay ra được tàu lớn , nhưng rồi bão đánh chìm đâu đó ngoài biển sâu . Vợ Chồng Chú suy sụp hẳn , Chú vật vờ như mộng du , thương con , thương cháu đến đứt cả ruột . Một năm sau , không chịu thấu nỗi đau , không dằn nổi những cơn đau tim , Vợ Chú qua đời . Đến thắp nhang cho Thím , nhìn thấy mái tóc mới qua mấy đêm đã bạc trắng của Chú , chúng tôi xót xa cho bi kịch dồn dập đổ xuống gia đình của Chú . Cô con gái và chàng rể quấn khăn tang lo hậu sự , nước mắt vẫn lả chã nhưng trong đầu cũng đang tính chuyện mốt mai . Thế rồi khi tro cốt của Vợ Chú an vị ở Chùa , ngày cúng thất đầu tiên , hai vợ chồng cô con gái vẫn còn mang áo tang đề nghị với Chú : Má mất rồi , Ba tuổi đã lớn , ở đây 1 mình chẳng có ai chăm sóc gần gũi , gia đình mình giờ chỉ còn Con với Ba , Ba bán căn nhà này đi , cho chúng con mượn thêm , làm ăn bây giờ hơn nhau ở chỗ vốn nhiều mới mong thắng lớn , về ở với vợ chồng con , để con được săn sóc ba tuổi về già , lúc đau ốm , đỡ buổn lo , quạnh quẽ . Nghe đúng quá mà . Bây giờ chỉ còn mình nó , không ở với nó thì ở với ai ? Một mình giữ tiền chi cho nhiều , đưa cho chúng làm ăn , có phải là sinh lợi hơn sao . Nỗi buồn chưa lắng xuống , nên Chú Tư giao việc bán mua cho vợ chồng cô con gái , dọn về ở cùng con . Thế là cuối cùng , Chú chỉ còn độc ngôi nhà này .

Lúc đầu , ông Con Rể sắp đặt cho Chú ở lầu 1 , lên xuống cho dễ . Phòng này trước đây cháu ngoại của Chú ở , bây giờ nó dọn lên phòng trên . Phòng tiện nghi , có cửa sổ , có máy lạnh , giường nệm êm , Chú tự nghĩ thế cũng tốt , cũng là nhà của mình mà . Chú lại ra Chơi Chim với nhóm , dù không thường xuyên lắm . Tóc Chú trắng xoá , khuôn mặt buồn không còn vui vẻ như trước , nhưng hàng ngày vẫn dĩa bò kho bốn miếng thịt , ăn hai miếng đem về hai miếng cho hai con chó Fox bé tí tì ti .

Nhưng cuộc sống vẫn chưa yên . Hai vợ chồng cô con gái bắt đầu kiếm chuyện . Đầu tiên là mấy con chim . Trước đây ông con rể khi ra chỗ Chơi Chim thường xách lồng ra xe cho Chú , lặt cào cào cho chim ăn , hàng ngày phụ trách vệ sinh mấy lồng chim cho Chú . Bây giờ ông Con Rể ngạo ngược bảo chim cò bẩn cả nhà , trưa nghỉ 1 tí cũng không yên bởi tiếng hót lanh lảnh của nó . Chú Tư tắm chim , phơi nắng cho chim , hắn đi ngang đá lồng lăn lông lốc và bảo : chật chội , vướng víu quá ! Bực cả mình ! Đôi mắt Chú ngày càng buồn , miệng Chú càng ngày càng ít nói . Rồi từ lầu 1 , chúng dời Chú lên phòng sân thượng , ông con rể bảo cho Chú lên đấy để Chú tiện gần gũi với chim , để chim phía dưới mất vệ sinh , thức ăn rơi ruồi bu , kiến đậu , lông chim bay ảnh hưởng sức khoẻ của mọi người . Chú bằng lòng với sự sắp xếp của nó , dù mỗi lần lên xuống cầu thang , Chú phải nghỉ thở mấy lần . Hồi còn ở dưới , đến bữa cô người làm hoặc cháu ngoại còn lên mời Chú xuống nhà ăn cơm . Từ hồi lên trên này , chúng chẳng kêu , chẳng báo . Khi nào đói , Chú lặng lẽ lần mò xuống ăn . Thức ăn lỏng chỏng như đồ thừa , nhiều lần ngồi ăn , Chú rớt nước mắt . Chú thèm được 1 bữa cơm gia đình sum họp , đầy tiếng nói cười với những ánh mắt thương yêu . Mất hết rồi ! Chẳng tìm đâu thấy nữa . Hàng ngày , Chú xách lồng chim ra ngồi với chúng tôi chốc lát , đó là niềm vui còn sót lại trong ngày của Chú , Chú xem chúng tôi như người nhà , nên những chuyện buồn , bất hạnh của Chú , Chú đều kể cho chúng tôi nghe . Chú vẫn còn ăn món bò kho , nhưng không gói thịt về cho chó nữa vì chúng cũng đã bị cậu con Rể đá chết rồi .

Nghe tin Chú bệnh , nhóm chúng tôi đến thăm Chú . Bước qua cửa , chúng tôi được đón bằng cái nguýt dài của cô Con Gái , cái ánh mắt bực bội của chàng Con Rể . Chúng chẳng chào 1 tiếng , chẳng hỏi 1 câu làm chúng tôi ngỡ ngàng , sao con người biến đổi 1 cách lạ kỳ như vậy ? Chú Tư đón chúng tôi nơi phòng khách , kế bên cửa sổ nhìn ra sân , Chú không dám nhìn thẳng mắt ai , ánh mắt như muốn xin lỗi , ngượng ngùng . Ngồi chưa nóng đít , anh con rể vừa nhả khói thuốc vừa nói vọng vào từ ngoài sân : Ba đưa mấy Chú lên lầu , lát nữa tui có khách . Chú Tư nhìn ra , ánh mắt 1 thoáng như toé lửa , rồi hạ nhiệt ngay , cụp xuống đầy uất hận . Thấy không tiện , tụi tôi rút , ra về cũng không có 1 lời chào . Ai cũng chép miệng : Tội nghiệp Chú Tư . .

Cuối năm 92 , nhóm chúng tôi tản hàng , anh Ba cộng hoà đi HO chuyến áp chót , anh Nam mắt kiếng đi diện đoàn tụ gia đình , tôi bỏ dạy sau 1 màn ác chiến với tay hiệu trưởng vừa nhậm chức , tôi rời bục giảng , mở công ty , chen chân làm doanh nghiệp . Công việc bận rộn , chẳng còn thời gian đâu mà chim với cò , nên cũng chẳng có dịp để gặp Chú Tư Mạnh . Đôi khi gặp đám Chơi Chim ở Tao Đàn , hỏi thăm tin tức về Chú , có người bảo gặp , có kẻ bảo không , định bụng bữa nào ghé thăm Chú 1 bữa . Tình cờ 1 hôm đi qua nhà Chú , thấy người ta đập xây cao ốc mới , hỏi thăm mới biết nhà đã thay chủ , không biết gia đình Chú dọn đi đâu , có người bảo đã đi hết ra nước ngoài . Tôi bặt tin Chú Tư từ đó , lòng vẫn mong chú khoẻ , hy vọng ở nước ngoài , có viện dưỡng lão , Chú được vào đó cũng đỡ khổ thân .

* * *

Tết Nguyên Đán năm 2005 , thay vì tổ chức thăm hỏi , tặng quà cho trẻ bị bệnh ở khoa Nhi bệnh viện Ung bướu như mọi lần , công ty chúng tôi đổi hướng đi đến thăm những người già ở nhà dưỡng lão Thị Nghè . Thấy các bé còn nhỏ đã mắc bệnh nan y , thương cho chúng chưa hưởng gì ở cuộc đời đã mang bệnh chờ chết , đau xót lắm . Nhưng dù sao các cháu khi bệnh , đứa nào cũng có mẹ , hoặc cha , hay ông hay bà thay phiên chăm sóc . Còn ở đây , trong thế giới người già , là nỗi cô đơn cùng cực . Hầu hết các cụ ở đây đều không có gia đình , người thân , hoặc bị con cháu bỏ rơi . Họ cô độc trong những ngày tháng cuối của cuộc đời , họ chờ đợi trong vô vọng những ánh mắt thương yêu của người thân , họ khát khao được nhìn mặt , cầm tay cháu con , nhưng không bao giờ toại nguyện . Họ chậm chạp trong sinh hoạt và chậm chạp đến lần với cõi chết . Những căn phòng ẩm ướt , những áo quần chẳng lành lặn , những gói , những bao không biết đựng gì để đầy trên giường , dưới chân họ . Họ mừng khi thấy chúng tôi đến , họ vui khi nhận được quà , nhưng ánh mắt vẫn nặng trĩu nỗi muộn phiền . Ở cuối phòng , có 1 cụ già cứ lấy tay che mặt khi chúng tôi trao quà , tránh ánh mắt của tôi .

Tôi xong việc của mình , định ra , bỗng Ông Cụ buông tay , vươn cánh tay vẫy vẫy . Ông Cụ gầy gò , da bọc xương , hai xương vai nhô lên như hai mảnh nhọn , bụng trương lên như trống . Tóc lơ thơ rụng gần hết , mắt đục lờ với khuôn mặt nhăn nhúm , vàng khè . Trên khuôn mặt đó , tôi tìm thấy 1 nét quen thuộc của ai đó mình đã từng gặp trong đời . Tôi chưa nhớ ra .

Ông Cụ vẫn vẫy , tôi đi ngược trở lại và ông nắm lấy bàn tay tôi , nói nhỏ : Anh Ngọc phải không ? Có còn nhớ tôi không ? Tôi Tư Mạnh đây . Tôi giật mình , gai ốc bỗng rờn rợn , trời ơi ! Chú Tư Mạnh đây sao . Cuộc đời sao vậy trời . Sao Chú lại ở đây , sao Chú ra nông nỗi này ?

Tôi ngồi xuống ôm chặt lấy Chú , Chú cũng ôm tôi và Chú khóc , nước mắt ướt đẫm vai Tôi và Tôi cũng khóc theo Chú . Hai người ôm nhau khóc 1 hồi , có Ông Cụ giường bên nhìn Tôi với ánh mắt chẳng có chút thân thiện : Con cháu , anh em gì mà bỏ rơi Ông Cụ mấy năm liền , giờ còn khóc lóc gì ? Chú Tư xua tay : Không phải , không phải đâu , người quen thôi mà .

Chúng tôi ra ngoài sân , ngồi trên ghế đá nói chuyện . Tôi hỏi Chú hay là mình qua bên đường uống cà phê . Chú gật , ánh mắt thoáng chút vui . Tôi xin phép cán bộ dẫn Chú ra ngoài . Hai chúng tôi băng qua đường , Chú đi khập khiễng , tôi phải dìu Chú đi . Tôi hỏi Chú muốn ăn gì không , Chú nhìn tôi , ngập ngừng : Tôi … thèm ăn dĩa bò kho … dĩa bò kho 4 miếng thịt và ổ bánh mì thật dòn . Tôi chảy nước mắt ngồi nhìn Chú ăn , Chú ăn ngon lành , miếng thịt trệu trạo trong cái miệng móm mém gần hết răng của Chú .

Và rồi Chú kể cho tôi nghe tại sao Chú có mặt ở đây mấy năm nay .
* * *
Anh biết không , con Hiếu , con gái khốn nạn của Tôi , anh còn nhớ nó chứ ? Tôi đặt nó tên Hiếu mà nó bất hiếu ác nhơn . Nó lấy hết tiền của tôi rồi lừa cho tôi vào đây . Hồi đấy , sau cái lần tôi bệnh mấy anh em vào thăm , thấy chúng nó tồi tệ quá mức rồi , tôi chịu hết nổi nên nói với vợ chồng nó trả vàng cho tôi để tôi đi kiếm chỗ khác ở , dứt tình Cha Con . Nhưng chúng lật lọng , bảo chẳng nợ gì tôi . Tức quá tôi thưa , tôi còn đủ giấy tờ mà . Toà xử chúng phải trả nợ cho tôi . Chúng lần lửa mãi , và có trả tôi 1 lần 10 cây vàng , hẹn cuối năm thanh toán hết . Rồi bỗng dưng 2 vợ chồng nó thân thiện , săn sóc Tôi dữ lắm . Mua đồ này thức nọ cho tôi ăn , sắm áo quần mới cho Tôi mặc , đối xử với tôi rất nhẹ nhàng . Tôi nghĩ , thôi thì con mình đã biết suy nghĩ lại , gia đình , thân thuộc tôi chẳng còn ai , có đứa em trai thì bệnh ung thư chết mấy năm rồi . Làm Cha Mẹ phải biết tha thứ cho con . Được mấy tháng thì 1 hôm nó nói mời cả nhà đi du lịch Nhật Bản , Tôi vui lắm , hăm hở sửa soạn đồ đạc để đi đến 10 ngày . Nhưng đến phút chót , lấy cớ có việc bất ngờ , cả nhà nó ở lại , đành bỏ vé , nên tôi đi 1 mình . Đi du lịch cùng đoàn nên có bạn có bè cũng vui . Hôm đầu điện thoại về , còn nghe nó trả lời , hôm sau cũng còn , nhưng đến hôm thứ 3 thì gọi mãi không được . Tôi sốt ruột nhưng cũng đành chờ cho đến ngày cuối , do vậy chuyến du lịch bỗng mất vui . Nào ngờ khi về đến nhà thì cửa đóng im ỉm , bấm chuông mãi thì có người thò đầu ra nắng , cái mặt lạ hoắc . Hỏi anh ta là ai ? Anh ta hỏi vặn lại Tôi là ai ? Tôi bảo tôi là chủ nhà , anh ta cười hô hố bảo tôi điên , rồi bảo anh ta đã mua căn nhà này rồi , đừng có kiếm chuyện . Tôi như từ cung trăng rớt xuống , mồ hôi ra lạnh cả người và nằm thẳng cẳng giữa lề đường . Hàng xóm thấy vậy chở Tôi đi nhà thương , đến khi tỉnh , được mọi người kể mới biết gia đình nó đi Mỹ định cư cả tuần lễ nay rồi , ai cũng tưởng tôi đã cùng đi với chúng nó . Thế ra Nó lừa Tôi , Nó giả vờ thương yêu Tôi để Tôi mất cảnh giác , nó lừa Tôi đi du lịch để nó giao nhà và ra đi . Nó cướp hết số vàng mà vợ chồng Tôi cho nó vay . Nó khốn nạn thế đấy , nó mưu mô hiểm ác vậy đấy . Thế là Tôi trở thành kẻ vô gia cư . Còn ít vàng tôi để ở nhà , chắc nó cũng lấy đi rồi , tôi chẳng có cách nào để sống nên khi hết bệnh ở nhà thương , nhà-cầm-quyền đưa tôi vào đây ở mấy năm nay .

Tôi nghe mà bàng hoàng , không tin nổi nếu như không gặp Chú Tư ở đây . Tôi không ngờ trên đời lại có những đứa con như vậy . Rồi cuộc đời nó có an lành để sống không ? Con cái chúng sẽ nghĩ gì khi biết được cha mẹ chúng đã đối xử với ông chúng như thế ? Tôi thật sự khiếp hãi khi nhìn thấy con người ta vì đồng tiền mà bán cả lương tri .

Tôi khuyên Chú đi bệnh viện vì thấy Chú yếu quá , nhưng Chú bảo Chú không muốn chữa bệnh , Chú chỉ mong được đi mau để khỏi phải đau khổ và dằn vặt . Chú xin tôi 1 điều là gắng đến thăm Chú và khi nào Chú mất , làm ơn đem tro cốt của Chú để vào chùa cùng nơi với Vợ Chú .

Đó lại là lần cuối cùng tôi gặp Chú , Chủ Nhật sau tôi ghé Chú thì Chú đã đi rồi , trên tay tôi vẫn còn mang cặp lồng món bò kho 4 miếng thịt mà Chú ưa thích . Tôi lặng lẽ mang hủ tro cốt của Chú vào Chùa , làm thủ tục để cạnh hủ tro của Vợ Chú , từ nay 2 vợ chồng sẽ mãi gần nhau và Chú đi được vậy cũng là điều giải thoát cho 1 kiếp người . Mong Chú đến nơi không còn khổ đau , gian dối và lừa lọc . Mong Chú yên nghỉ nghe Chú Tư Mạnh .

Sài Gòn – Tháng Bảy

Đỗ Duy Ngọc