ĐÊM XA NGƯỜI – Truyện ngắn – Kim Thanh

Việt Luận – Viet’s Herald  ·

Kim Thanh

(Truyện ngắn)

Em ơi! lửa tắt bình khô rượu

Đời vắng em rồi say với ai?

(Vũ Hoàng Chương)

  1. Tôi gặp nàng lần đầu, khoảng giữa 1970, cách đây bốn mươi bốn năm, khi đang là Trung đội trưởng Chính Huấn của Đại đội 204 CTCT Nha Trang. Một buổi sáng, Thiếu úy Cường, Trung đội phó, vào văn phòng gặp tôi, cùng với một thiếu nữ rất đẹp, vẻ hiền thục, tuổi độ đôi mươi. Cường nói:

– Xin giới thiệu với Trung úy, đây là cô Hương Mai, đến xin việc.

Tôi ngừng viết, đứng lên, chào nàng. Thấy gương mặt thanh tú, môi thắm tự nhiên, tóc huyền rẽ đường ngôi ở giữa, buông lơi trên bờ vai, mắt to đen, mũi thẳng, trong bộ quần *jeans* và áo *pull* tím ôm dáng cao thon, đầy đặn, tất cả nơi nàng biểu hiện một vẻ đẹp có phần cổ điển, như trong tranh Raphaël, tràn đầy sức sống, và dưới mắt tôi đã đạt quá tiêu chuẩn của một ca sĩ chuyên nghiệp, nói chi ca sĩ chính huấn – hay nữ huấn đạo, theo ngôn từ chính thức. Hương Mai ngồi xuống, và bắt đầu tự giới thiệu, giọng nhỏ nhẹ, nửa Huế nửa Nha Trang:

– Thưa Trung úy, gia đình em ở Ninh Hòa. Ba em là sĩ quan phục vụ tại Tiểu khu Phú Yên. Em còn mẹ và ba đứa em nhỏ. Em thi rớt Tú tài I, chán quá, bỏ học luôn…

Tôi ngắt lời, nói một câu khá vô duyên:

– Thi rớt là chuyện thường. Đừng vội nản, nhất là mới rớt lần đầu.

Tôi khuyên cô nên tiếp tục việc học. Nghề nữ huấn đạo ba chìm bảy nổi lắm, không có tương lai đâu. Trừ phi, sau này, nếu cô trở thành một ca sĩ hoặc diễn viên nổi tiếng.

Nàng tỏ vẻ ngạc nhiên, đăm đăm nhìn tôi, rồi ngập ngừng hỏi:

– Trung úy nói thế có nghĩa là Trung úy không muốn nhận em?

– Không đâu. Tôi không có quyền quyết định. Về sắc, riêng tôi đã chọn cô rồi, chắc Thiếu úy Cường đây cũng đồng ý với tôi. Về tài, thì cuối tuần này Trung đội sẽ tổ chức văn nghệ để các thí sinh vào thi phần hát. Tôi hy vọng cô sẽ có điểm cao.

Câu này, dĩ nhiên, tôi cũng đã nói với những cô thí sinh khác, trước nàng.

Buổi văn nghệ thuộc loại bỏ túi được tổ chức tại hội trường đại đội.

Như thường lệ, tiếng đàn tiếng trống xập xình vừa trổi lên đã thu hút một số đông khán giả từ khu gia binh và đồng bào quanh vùng Bình Tân – nơi chúng tôi trú quân, không xa Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân bao nhiêu. Dưới ánh đèn màu lấp lánh, bốn nữ huấn đạo “cơ hữu” của đại đội bỗng biến dạng, son phấn điểm tô, đẹp lộng lẫy trong những chiếc áo dài thướt tha, thay cho bộ đồng phục thường ngày tôi đã quen mắt – quần *jeans* và áo sơ-mi trắng pha màu xanh xám. Tám cô thí sinh cũng thế, cũng đều yêu kiều, lả lướt như tiên giáng trần. Nhận ai, bỏ ai, là cả vấn đề làm nhức đầu! Y như thi hoa hậu bây giờ.

Tôi ngồi hàng ghế khán giả, bên cạnh Đại úy Đại đội trưởng 204 Phạm Văn Tải (hiện định cư cùng thành phố Portland, Oregon), một sĩ quan nổi tiếng bay bướm, một đơn vị trưởng có tài chỉ huy và tổ chức, một người bạn trung thành và dũng cảm dám sống chết với bằng hữu và thuộc cấp, từ thời còn ở Ban Mê Thuột, Kon Tum, ai cũng mến. Đặc biệt, ông còn là một nhạc sĩ hào hoa với ngón đàn dương cầm và phong cầm điêu luyện tại các vũ trường, sau giờ làm việc. Còn tôi mù tịt về âm nhạc, văn nghệ, thỉnh thoảng nổi hứng hát vớ vẩn vài bài, nhưng giọng *faux* và luôn sai nhịp, và nếu cực chẳng đã phải ra sàn nhảy tôi chỉ biết có hai điệu tủ: *slow*, mà tôi thích nhất, vì không hao sức, và *boston*, mà tôi đã quên. Nhưng không hiểu sao ông lại bổ nhiệm tôi trông coi trung đội Chính huấn. Sau này, mới vỡ lẽ, đó bởi vì ông không muốn giao trứng cho ác, nghĩa là đặt tôi vào kỷ luật và trách nhiệm nặng nề của một ông “thần giữ của” giùm cho cha mẹ các nữ huấn đạo, đa số còn rất trẻ, theo giao ước bất thành văn với họ: tạo bầu không khí gia đình thân ái giữa các nhân viên và ca sĩ trong trung đội, nhưng đồng thời bảo vệ tối đa các cô khi đi công tác nhất là ban đêm, không để rủi ro nào xảy ra, không để sĩ quan và quân nhân thuộc đơn vị khác hoặc ngay trong đại đội đến ve vãn, dụ dỗ, làm tai tiếng.

Mỗi thí sinh sẽ hát hai bài tự chọn, một tình cảm, một hùng mạnh, và trước đó được phép đến tập mỗi ngày với ban nhạc Chính huấn. Điểm số dựa trên phong cách trình diễn và nhất là giọng ca. Phong cách có thể tập luyện, nhưng giọng ca là thiên phú, cũng như hồn thơ và óc hài hước, như ai đã nói. Ca sĩ cỡ tôi là bị loại ngay. Đêm ấy, cả tám cô thí sinh đều rất xuất sắc. Hương Mai hát bản *Serenata*, nhạc Enrico Toselli, lời Việt Phạm Duy – bài ruột của tôi từ dạo được nghe dĩa thâu của Tino Rossi. *Viens, le soir descend, et l’heure est charmeuse. Viens, toi si frileuse, la nuit déjà comme un manteau s’étend…* Lắng trong tiếng chiều ngân, nhạc dặt dìu ái ân… Nhạc và lời đã hay, và nàng diễn xuất tuyệt vời, như một ca sĩ chuyên nghiệp, với dáng điệu lúc tha thiết, si mê, lúc kiêu sa, hờ hững, với giọng buồn, trầm bổng, lên xuống cung bậc một cách tự nhiên, dễ dàng, theo tiếng *clarinette* thổn thức của một anh sĩ quan bạn, Trung úy Nhuệ, Quân Cụ, được mời đến tăng cường giúp vui. Tôi ngạc nhiên, sung sướng, nghe xôn xao bao nhiêu là mộng cũ và lời yêu gọi mời, giục giã. Cảm giác ngất ngây hiếm hoi đưa hồn xa rời cõi đời ô trọc và khói lửa chiến chinh để trở về những bến mơ thiên đường diễm ảo, cũng như mỗi lần nghe Kim Tước hát bản *Tiếng Thời Gian* của Lâm Tuyền và Juliette Greco ca bài *Les Feuilles Mortes*, phổ thơ của Jacques Prévert. Tôi vốn yêu những ca sĩ và thi sĩ đích thực. Vì muốn hát và viết ra những ngôn ngữ mượt mà, quý phái, trữ tình như thế, họ phải có một tâm hồn rất thanh cao, trong sáng, luôn hướng về cội nguồn Chân Thiện Mỹ từ trời phản chiếu xuống nghệ thuật trần gian.

Một tuần sau, Trung đội Chính huấn họp bàn về kết quả thi tuyển, dưới sự chủ tọa của đại đội trưởng. Chỉ lấy hai trong tám thí sinh, nên việc chọn lựa không dễ. Nàng đứng nhất với số phiếu tối đa gồm của ban nhạc và tất cả nữ huấn đạo. Và của tôi nữa, dĩ nhiên.

  1. Mấy tháng sau, Hương Mai đã quen công việc. Như những nữ huấn đạo khác, mỗi ngày nàng đến đại đội tập dượt đều đặn, và không bao giờ vắng mặt vào những đêm công tác. Gặp tôi, nàng luôn chào hỏi vui vẻ, lịch sự, khác với Thiên Ân, một nữ huấn đạo “ma cũ”, cũng đẹp và hát rất hay, thấy tôi đâu là tìm cách né tránh. Thiếu úy Cường bảo tôi: “Cô ấy giận Trung úy vì đã cấm các cô không được giao du thân mật riêng lẻ với bất cứ ai trong khi công tác và tập dượt.” Còn nhớ trong buổi văn nghệ mừng Tết của Đại đội, Thiên Ân lên hát một bản tình ca (tôi quên tựa đề), và mắt hướng về phía tôi, nói tỉnh bơ: “Bài này em xin riêng tặng Trung úy NKQ, Trung đội trưởng Chính huấn rất độc tài và hắc ám của lòng em.” Cả hội trường cười rộ. Tôi cũng bật cười theo.

Một hôm, Hương Mai đến xin Đại úy Tải cho đi hát tại vũ trường Nha Trang Hotel ngoài giờ để kiếm thêm tiền. Ông chấp thuận, với điều kiện khi cần đi công tác là phải nghỉ hát. Còn tôi khuyên nàng không nên cho ai biết đang làm việc với Đại đội 204 và đổi biệt danh khi hát cho vũ trường, bởi lý do an toàn cá nhân. Dần dần, cảm tình của tôi dành cho nàng tăng trưởng vì tính tình khả ái, tấm lòng chân thật, cử chỉ dịu dàng, cộng với tài nghệ, sắc đẹp tự nhiên và nét duyên dáng trong lời ăn tiếng nói đã làm nàng trở thành ca sĩ hoa khôi, ít ra là đối với lòng tôi. Nhưng tôi may mắn đã dừng lại được ở đó. Quả vậy, tôi không phải là nhà tu hành cũng không đạo đức thật, hay giả, mà vì đã lỡ tự đặt cho mình một nguyên tắc bất di bất dịch qua thời gian và cuộc đời thăng trầm, là tự cấm không bao giờ được tơ tưởng đến, huống chi là đem lòng yêu thương, các nữ sinh học trò của tôi và ca sĩ dưới quyền. Lý do thật đơn giản: họ là những đối tượng tương đối dễ chinh phục, đã đặt hết lòng tin và kính trọng vào mình. Tôi không muốn lợi dụng vị thế của mình, làm thất vọng mọi người. Hương Mai, cũng như Thiên Ân, dường như không hiểu điều đó.

Một buổi chiều cuối tuần, để tưởng thưởng thành quả công tác tâm lý chiến, dân sự vụ tốt đẹp, sau khi tổ chức một tiệc vui chung cho cả Đại đội, Đại úy Tải mời các sĩ quan và nữ huấn đạo ra quán Gió Khơi Số Một, lộ thiên, ở bãi biển Nha Trang ăn bò nhúng dấm chấm mắm nêm, món ngon nổi tiếng của quán. Hương Mai đến trễ, vẻ mặt buồn hiu. Tôi mang theo một chai rượu mạnh, đãi anh em. Nàng ăn ít, nhưng cứ nốc *cognac* của tôi, ly này sang ly khác, khiến tất cả ngạc nhiên, không ngờ tửu lượng của nàng cao như vậy, ăn đứt cả đám nam nhi, nhưng không ai dám cản, sợ bị hiểu lầm là kỳ thị. Đến khi chai Courvoisier gần cạn và mặt nàng tái nhợt, Thiếu úy Cường mới giật lại ly rượu của nàng, ôn tồn bảo:

– Cô say rồi, nên ngưng là vừa.

Nàng không nghe:

– Không sao đâu, cho em một ly nữa! Em đang vui mà!

Cường và các cô lựa lời khuyên nhủ. Ai cũng đoán nàng thất tình hoặc buồn chuyện gia đình. Còn tôi lại nghĩ khác: một người đẹp như nàng khó thất tình lắm, trái lại, làm người ta thất tình thì có. Chắc một chuyện gì kinh khủng đã xảy ra cho nàng. Khi chai rượu cạn sạch, nàng đứng dậy, lảo đảo đến bàn tôi, nói như ra lệnh, tỉnh bơ:

– Trung úy đưa em đi tiểu!

Mọi người há hốc mồm kinh ngạc. Còn tôi không thể tưởng tượng Hương Mai bình nhật rất đoan trang hôm nay có rượu vào lại “chơi bạo” đến thế. Sau mấy giây sửng sốt, các sĩ quan vỗ tay tán thưởng. Đại úy Tải thì cười cười, nhìn tôi chờ đợi.

Tôi vẫn ngồi yên, chưa biết phải làm sao. Thấy thế, Đan Tâm, cô ca sĩ trẻ nhất, chuyên hát nhạc kích động, đứng lên, nắm tay dắt nàng đi ra phía sau quán. Trở lại bàn, Hương Mai mệt lắm, tựa đầu vào vai Cường, lim dim mắt. Đại úy Tải nói tôi đưa nàng về trước, vì tối hôm ấy tôi lái xe nhà – chiếc Peugeot 203 đen cũ kỹ của ba mẹ tôi cho mượn. Tôi bảo Thiên Ân, người rất kỵ tôi, theo cùng. Hai nàng ngồi băng sau. Tôi hỏi Hương Mai về đâu. Nàng đáp, giọng chán chường:

– Về đâu cũng được. Em khổ lắm. Em không muốn sống nữa!

Rồi thiếp đi trong tay Thiên Ân. Không ai biết địa chỉ nhà nàng. Thiên Ân đề nghị về khu gia binh Đại đội, bề nào cũng còn có sĩ quan trực trại và lính gác. Cô dìu nàng vào phòng tôi, hầu như trống trơn, chỉ có một bàn viết, vài quyển sách, và chiếc giường – mà tôi chỉ đặt lưng xuống vào những đêm cấm trại thôi. Khi tôi ngỏ ý không nên để nàng ngủ một mình trong tình trạng đó tại một nơi xa lạ, nhưng đồng thời tôi cũng không thể ở qua đêm canh nàng, Thiên Ân nói:

– Em sẽ ở lại đây với chị ấy, vì em cũng sống một mình. Không sao đâu. Em sẽ ngủ trên chiếc ghế bố kia kìa.

Chờ đến khi các sĩ quan khu độc thân ồn ào kéo về, ghé thăm, tôi mới bàn giao hai nàng lại cho ông phó Cường, đã có vợ hai con, cho chắc ăn. Lúc này Hương Mai đã ngủ mê, hơi thở mệt nhọc. Cường chu đáo lắm, lôi ở đâu ra được một lô mền gối, khăn mặt, ca cóng, bàn chải và kem đánh răng còn nguyên trong hộp, và đặc biệt hai bộ *pyjama* đàn ông mới tinh, chắc là vừa trưng dụng được của một anh chàng sĩ quan độc thân tốt số nào. Trong lúc giúp Thiên Ân căng ghế bố, Cường cười nói với tôi:

– Hôm nay tôi trực, ngoại trừ Trung úy, đứa nào muốn đụng đến hai cô phải bước qua xác chết của tôi. Trung úy yên tâm về nhà.

Tôi và Thiên Ân cùng cười theo. Tôi bảo:

– Anh phải nói như thế này: *kể cả Trung úy*, đứa nào đụng đến hai cô sẽ từ chết tới bị thương…

Sáng hôm sau, tỉnh dậy, Hương Mai nhớ chuyện xảy ra, bèn đi xin lỗi mọi người. Riêng tôi, cho mãi đến bây giờ vẫn không rõ đêm ấy nàng buồn chuyện gì để đến nỗi “em không muốn sống nữa”.

Những quân nhân và nữ huấn đạo trong Trung đội Chính huấn hiểu rõ công việc của mình. Giúp vui cho binh sĩ tại những quân trường và đơn vị tác chiến về hậu cứ dưỡng quân, trong đó thỉnh thoảng có cả lính Căm Bốt được gửi qua thời Sirik Matak, đồng thời trau dồi nơi họ kiến thức chính trị, hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng yêu nước, thương dân, v.v… bằng những buổi “lên lớp” ngắn, gọn, dễ hiểu do các sĩ quan trung đội đảm trách và chương trình *mini* văn nghệ gồm những bản hùng ca, vở kịch ngắn, màn ảo thuật, hoặc những trò chơi vui, lành mạnh được giao cho Trung sĩ trưởng ban văn nghệ sắp xếp. Đó là binh vận, tương đối dễ dàng và kết quả mỹ mãn.

Đại đội 204 CTCT đôi khi được vài toán chính huấn từ Sài Gòn ra phối hợp công tác, trú ngụ trong doanh trại đại đội. Tôi nhận thấy những ông trưởng toán này còn “giữ gà” kỹ hơn chúng tôi, hoặc “giấu nghề” thái quá, vì nói là phối hợp, mà chả bao giờ họ chịu cho các nữ huấn đạo tập dượt hay sinh hoạt chung, trao đổi kinh nghiệm với trung đội chúng tôi, làm Đại úy Tải vốn rất xã giao, bặt thiệp cũng phải lắc đầu. Công tác tại những đơn vị gần thành phố, như Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, chúng tôi trở về nhà ngay trong đêm. Ở nơi xa, như Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ, phải ngủ lại. Những lần đi xa, tôi nhường xe jeep cho Cường và các sĩ quan, các quân nhân khác ngồi xe dodge, còn tôi lái Peugeot, chở theo được bốn cô nữ huấn đạo. Tất cả trang bị súng ống đầy đủ, để tự bảo vệ, khi cần. Đi ngang Ninh Hòa, Hương Mai thường xin ghé thăm nhà, gần quốc lộ. Đoàn xe dừng lại, vẫn nổ máy, trước nhà nàng chỉ độ năm, mười phút, nhưng nàng trở ra, lộ vẻ vui mừng, biết ơn, một lần còn giới thiệu tôi với mẹ nàng.

Một tối, sau buổi sinh hoạt tại Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ, cả trung đội chúng tôi và toán Sài Gòn được chỉ định nghỉ đêm trong một phòng học rộng ở khu gia binh, trên những chiếc bàn dài xếp lại với nhau. Riêng tôi, liên toán trưởng, được cấp một chiếc giường ở văn phòng trường. Vì lịch sự với khách, tôi định xin thêm ghế bố cho hai sĩ quan Trung ương, nhưng hai ông cám ơn từ chối, bởi không muốn xa rời các cô ca sĩ của mình.

Tôi ngồi chuyện trò, uống trà với anh em trong trung đội cho tới nửa khuya. Lò mò về phòng, vén màn tính chui vào giường, tôi đụng phải một thân người mềm mại đang nằm chờ. Bật đèn pin lên thì hóa ra Hương Mai, trong bộ đồ ngủ, rất khêu gợi. Tôi giật mình, suýt kêu lên. Nàng bật ngồi dậy, lấy tay bịt miệng tôi, rồi mỉm cười, khẽ nói:

– Suỵt… Em đây, chứ không phải ma. Đừng sợ. Anh cho em ngủ ở đây với anh đêm nay.

Tôi đứng chết trân, á khẩu, nhìn nàng không chớp, căng mắt định thần xem có cái đuôi chồn liêu trai lấp ló sau lưng nàng không, hoặc nàng có say như tối nào? Tình thế thật khó xử và nguy hiểm. Một đàng nỗi khát khao bị ức chế bấy lâu thôi thúc, một đàng danh dự và trách nhiệm của một sĩ quan chỉ huy đè nặng lên vai, không đùa được. Lại còn cái nguyên tắc bất di bất dịch của tôi! Lại còn vết thương lòng buốt nhức và mảnh trăng thề bỏ lại ở Qui Nhơn! Sau mấy phút vật vã với chính mình, cuối cùng lý trí thắng. Nhưng từ chối thế nào để nàng không tự ái, bực bội, tri hô cho mọi người nghe?

Đoán được sự dằn vặt trong tôi, nàng đứng lên, nắm lấy tay nhẹ nhàng kéo tôi xuống ngồi bên nàng. Và ôm tôi, thủ thỉ:

– Hãy hôn em đi, một lần thôi, cho em biết rằng anh cũng đáp lại tình yêu của em…

Tôi nói, thầm thì như năn nỉ:

– Tôi không thể làm gì được bây giờ, cô… em hiểu cho. Tôi hứa sẽ yêu em, sẽ hôn em, hoặc nếu em muốn, sẽ van xin tình yêu em ở một ngày khác, một hoàn cảnh khác, hay một kiếp khác, biết đâu, khi em không còn là ca sĩ trong trung đội của tôi nữa. Bây giờ thì tôi không thể, em hiểu cho…

Một giọt nước mắt rơi nhanh xuống cánh tay tôi.

Nàng thút thít:

– Anh càng trốn chạy tình yêu em chừng nào, em càng đuổi bắt anh chừng nấy, dù từ bên kia cõi đời. Em hiểu nỗi khổ và cái nguyên tắc kỳ quặc, điên rồ của anh. Nhưng anh đâu có hiểu nỗi khổ của em. Anh tàn nhẫn lắm, anh biết không? Thôi em đi, để Trung úy nghỉ.

– Không, em cứ ở đây. Tôi xuống lớp học.

Tôi đặt nàng nằm lại ngay ngắn trong giường, đắp chăn cho nàng. Rồi bước ra giữa trời khuya, làn gió mơn man trên má, trên tóc, thấy người nhẹ thở. Bỗng nhiên tôi lại nghĩ đến chuyện anh mục đồng trong truyện *Les étoiles* của Alphonse Daudet đã để cô chủ nhỏ xinh đẹp ngồi dựa vào vai anh ngủ vùi suốt đêm thâu trên núi, dưới bầu trời đầy sao, mà không dám động tĩnh gì hết. Tôi bước vào gian phòng của trung đội. Hạ sĩ Mừng còn thức. Anh ta hỏi, “Trung úy chưa nghỉ sao?” Tôi lắc đầu, và hỏi lại, rất khẽ, “Còn anh, chưa ngủ à? Các nữ huấn đạo đâu?” Mừng chỉ tay về một góc phòng.

Các cô chắc đã say giấc ngủ, màn buông kín mít. Cách đó không xa là ông phó Cường và hai ông bầu Sài Gòn. Cuối cùng, tôi nói với Mừng:

– Tôi đến ngủ với anh em cho vui.

Cả trung đội không ai hay Hương Mai đêm ấy đã nằm trong giường của tôi và chuyện gì đã xảy ra giữa hai người.

Sáu tháng sau, Hương Mai đột ngột xin nghỉ việc, lấy lý do muốn làm ca sĩ toàn thời gian cho nhà hàng Nha Trang Hôtel. Lúc từ giã, nàng nói với tôi, có sự hiện diện của Cường và một số quân nhân:

– Bây giờ em không còn là ca sĩ của Trung đội nữa. Em sẽ nhớ nó lắm!

Chỉ một mình tôi hiểu câu nói ấy. Từ đó, nàng không bao giờ trở lại Đại đội dù để thăm bạn bè, và cũng chỉ một mình tôi hiểu vì sao. Rồi cuối năm 1972, tôi phải đổi về trường Đại Học CTCT Đà Lạt. Đêm cuối cùng trước khi rời bỏ Nha Trang, tôi đến vũ trường, tìm nàng. Trên sân khấu, Hương Mai đang hát bản *Besame Mucho*, lời Việt, giọng buồn não nuột, và dưới sàn nhảy, những cặp tình nhân đê mê dìu nhau vào cõi mộng. Xong bài hát, nàng tiến nhanh đến bàn tôi, cười tươi, nét mặt rạng rỡ, nhưng đôi mắt long lanh như có ngấn lệ, hỏi dồn:

– Anh… Trên sân khấu, em thấy anh vào. Em chờ anh từ một thế kỷ rồi. Sao đêm nay anh mới đến? Anh đã quên em rồi sao?

Khi biết tôi đến từ biệt nàng đi xa, nàng nói sẽ xin nghỉ hát sớm để “sống với anh cho hết đêm nay”. Lên xe, tôi đề nghị ra biển. Chúng tôi ngồi trên bãi cát còn ấm nắng chiều, có bóng thùy dương, hắt xuống từ những ngọn đèn đường, chở che, đồng lõa. Sóng vỗ, tràn vào bờ, xóa hết dấu chân của những tình nhân chia cách, như lời thơ Prévert ngày nào. *Et la mer efface sur le sable les pas des amants désunis*. Trăng mơ chiếu những tia lẻ loi, vàng vọt trên biển vắng. Chân trời tối mờ, xa tắp. Nàng nhắc lại chuyện cũ, chuyện chai Courvoisier, chuyện “Trung úy đưa em đi tiểu”, và tự trách “sao bữa đó em… cà chớn dữ vậy?” Rồi cả hai cười vui. Rồi tựa đầu vào ngực tôi, như trong đêm Dục Mỹ, nàng khẽ nói, lời nhẹ tơ vương:

– Hãy hôn em đi, một lần thôi, cho em biết rằng anh cũng yêu em. Hãy ôm em nhiều, thật nhiều. *Besame mucho, mucho, mucho*. Em đâu còn là ca sĩ trong trung đội của anh nữa mà anh phải sợ?

Rồi ngước nhìn ánh trăng mờ, nàng hỏi:

– Có bao giờ anh mơ một ngày anh sẽ đưa em về nhà… Nhà của chúng ta, ở một phương trời khác, khuất xa loài người độc ác và thế gian vô tình này, một nơi chỉ còn mình anh với em và đàn con nhỏ, xinh đẹp của chúng ta? Có bao giờ anh sẽ nói yêu em mãi mãi, cho đến sau bên kia đời? Em sợ lắm, sợ anh sẽ quên em…

Tôi thở dài, nhẹ nhàng bảo:

– Anh cũng mơ như em và sẽ không quên em bao giờ. Nhưng hãy cứ sống với hiện tại trước đã, như đêm nay có em và anh bên nhau. Là đủ. Làm sao có thể biết được ngày mai? Tình yêu nào cũng mong manh như sương như khói, cần phải nâng niu, vì *bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu*, như trong thơ Xuân Diệu đó em…

Và rồi từ đêm đó, tôi không còn gặp lại nàng. Vì bận bịu công việc và vài hình bóng khác lướt nhẹ vào đời, chiếm chỗ của nàng, tôi không về Nha Trang bao giờ nữa. Thỉnh thoảng nhớ Hương Mai và những kỷ niệm có nàng, tôi thở dài, lòng thấy bùi ngùi và buồn vô tả.

  1. Cho đến sau 30/4/75 và tám năm đọa đày. Từ những trại tù cải tạo, tôi trở lại quê cũ với mảnh đời vỡ vụn và tâm hồn trống vắng. Đến Nha Trang Hôtel tìm Hương Mai và *dĩ vãng nào xanh như mắt em* (Đinh Hùng) mới biết vũ trường đã đổi thành phòng trà, cà phê, có tên mới, chủ mới. Người ta không biết “ca sĩ Hương Mai trước 75, tóc có đường ngôi rẽ ở giữa” là ai. Một hôm tình cờ được gặp lại Thiên Ân bán vải tại chợ Đầm. Trông cô vẫn còn trẻ đẹp, thách đố thời gian tàn nhẫn và cuộc đổi đời bi đát, nhưng trong đôi mắt cô – cũng như các giai nhân Nha Thành một thời vang bóng còn kẹt lại – tôi đọc được, ôi mênh mông là nỗi u hoài khôn nguôi của những nàng tiên bị đọa đày. Thiên Ân ôm chầm lấy tôi, khóc ròng, rồi kể lể:

– Từ ngày anh đi, bao nhiêu chuyện đã xảy ra. Em nghỉ làm ở Đại đội, hát cho Nha Trang Hôtel được một năm thì mất nước. Sau 75, Phương Hoa lấy một dược sĩ quân y “ngụy” vừa ra trường, nghe nói đang ở Mỹ. Đan Tâm vào Sài Gòn sinh sống. Mấy cô nữ huấn đạo khác thì mỗi người một ngả. Đại đội tan tác hết. Đại úy Tải, Thiếu úy Cường chắc cũng đi cải tạo, em không biết ở đâu. Đôi khi có việc đạp xe ngang qua Bình Tân thấy không còn dấu vết gì của Đại đội cũ, nhất là căn phòng ngủ trống trơn của ông “Trung úy rất độc tài và hắc ám của lòng em”, em buồn muốn rớt nước mắt. Em lập gia đình với một thiếu úy Lực Lượng Đặc Biệt, có một đứa con trai năm nay được mười tuổi. Chồng em tử trận trên đèo Khánh Dương hai tháng trước khi Nha Trang mất.

Thiên Ân kể chuyện huyên thiên, mà không một lời nhắc đến Hương Mai. Tôi sốt ruột lắm, nhưng tự chế, không hỏi. Cuối cùng, cô cũng nói:

– Hương Mai chết rồi. Trong tay em…

Tôi hoảng hốt, ngắt lời:

– Ôi, thật vậy sao?

– Chuyện dài lắm. Mời anh tối nay đến nhà em chơi, ăn cơm, em sẽ kể anh nghe…

Mấy tháng sau ngày anh lên Đà Lạt, Hương Mai cặp bồ với một thương gia giàu sụ, khách hàng thường trực của Nha Trang Hôtel, có vợ con, vừa mập vừa lùn vừa hói, lớn hơn nàng gần hai mươi tuổi. Bà vợ chằn lắm, đã mấy lần đến bắt ghen tại vũ trường. Nhờ em và nhân viên an ninh can thiệp, Mai không việc gì, nhưng mang tai tiếng phải bỏ hát và bỏ luôn lão ta. Sau 75, nàng giấu kỹ lý lịch, đổi tên, đổi họ, được đi hát lại, và xin học lớp kịch nghệ, và trở thành một diễn viên sân khấu có hạng, rất được ái mộ. Thời gian này nàng chung sống với một nhà văn soạn kịch trẻ, đang lên, tên Lân, nghe nói là một Thiếu úy trường Đại Học CTCT của anh vừa mãn khóa, chưa kịp đeo lon, nên trốn cải tạo, từ nơi khác đến Nha Trang mua được hộ khẩu ở Xóm Mới, khai là cựu sinh viên đại học Đà Lạt, ban báo chí, và như thế tưởng qua mặt được bọn Công an địa phương. Lân và Hương Mai không hề biết là họ bị theo dõi và canh chừng gắt gao. Nàng cũng không hay rằng Lân lén viết gửi ra ngoại quốc bài vở có nội dung chống Cộng, cho đến một hôm ở phố về tình cờ nàng bắt gặp anh ta đang loay hoay giấu một lô giấy tờ trên trần nhà. Lân biết bị lộ, nhưng rất tin tưởng nàng, nên ỷ y. Lúc này nàng ghiền ma túy nặng, và vì say mê danh vọng và mong được đãi ngộ thêm, đã một lần phải trao thân cho tên Trưởng Ty Văn Hóa tỉnh cứ đeo đuổi, sách nhiễu nàng. Thấy tình thế đã chín muồi, Công an bắt đầu ra tay.

Đầu tiên, chúng gài bắt nàng về tội mua và xử dụng ma túy. Dùng lời ngon ngọt, chúng dụ dỗ nàng khai ra chỗ Lân giấu tài liệu, để đổi lại những ưu đãi dành cho các ca sĩ, diễn viên thượng thặng. Rồi đe dọa, nếu ngoan cố, nàng sẽ bị đuổi khỏi đoàn kịch và bị tù về tội tàng trữ ma túy. Cuối cùng, nàng chấp thuận làm cộng tác viên, khai hết, và lập tức được thả ra.

Trưa đó, trở về, nàng thấy công an đứng chật nhà hai người, và một ô vuông gỗ trên trần bị tháo xuống, và Lân đang bị còng tay, mặt mũi sưng vù, ngước lên nhìn nàng, vẻ khinh bạc, không nói một lời. Nàng hiểu, và chạy bay ra khỏi nhà, lao vào chiếc xe vận tải đang phóng ngược chiều…

Trong cơn hấp hối, lúc tỉnh lúc mê, tại bệnh viện, Hương Mai nhờ em xin Lân tha thứ, nếu sau này còn gặp anh ta. Nàng thầm gọi tên anh, khóc nức nở, lo sợ một ngày anh biết được những chuyện tồi tệ nàng đã làm và sẽ hết yêu nàng. Vì, nàng nói, anh vẫn là tình yêu duy nhất của nàng. Trước đó lâu lắm, khi tụi em trở thành bạn thân, Hương Mai có kể em nghe chuyện đã xảy ra trong đêm công tác ở Dục Mỹ giữa anh và nàng. Nếu anh ở lại với nàng tối hôm ấy, thì mặc dù nàng tự dâng hiến, em tin rằng Hương Mai đã quên anh ngay, như một trong nhiều người đàn ông khác đi qua đời nàng sau này, mà nàng rất ghê tởm. Cũng như em, phải sau một thời gian dài xa anh, sau bao giông tố và cạm bẫy trong cuộc đời, mới hiểu con người trung hậu của anh, qua vẻ ngoài mà anh cố tình làm ra nghiêm khắc và hiểu rằng tận đáy hồn em, nói ghét anh không có nghĩa là ghét anh. Phụ nữ tụi em bị quyến rũ ở người đàn ông bởi nhiều cái khác hơn, cao quý hơn thể xác, tiền tài, địa vị. Đó là sức mạnh tinh thần, tâm hồn cao thượng, đối xử tế nhị, phong thái trượng phu, không xu nịnh hèn mạt, lưng thẳng như thân cây trúc, đồng thời đó còn là sự khổ đau, dằn vặt, và nhất là dũng cảm, trước những chọn lựa khó khăn.

Đối với Hương Mai và em, tình yêu như đóa hoa, hái xuống sẽ úa tàn đi, nhưng nếu được giữ lại trên cành, nó sẽ vĩnh viễn sống trong tim, dù qua bao nhiêu gió mưa tơi tả. Anh đã giữ đóa hoa tình yêu của nàng còn mãi trinh nguyên. Nàng nói hẹn gặp lại anh để cùng anh sống nốt những ngày hạnh phúc dở dang trong căn nhà nàng nói đã một lần mơ ước, ở cõi khác, chắc chắn tốt đẹp hơn cuộc đời này. Hôm sau, nàng chết trong tay em, vẻ mặt rất thanh thản, không còn thấy đớn đau nữa. Bấy giờ là giữa mùa thu 1982, chắc anh còn đang bị lưu đày cải tạo ở nơi nào trên miền Bắc…

Thiên Ân ngừng kể, đưa mắt buồn rầu nhìn qua song cửa. Mưa rơi tự khi nào, giăng kín khung trời mờ tím. Đêm xuống càng thêm lạnh trong hồn người quả phụ – một cựu ca sĩ chính huấn tài sắc vẹn toàn một thời. Tôi đứng lên từ biệt, hôn lên má Thiên Ân, ôm đứa nhỏ vào lòng, và ngậm ngùi nói:

– Cám ơn em thật nhiều đã kể cho anh nghe câu chuyện thương tâm này. Giống như Anna Karenine, nhân vật của văn hào Nga Tolstoï, chắc em còn nhớ, Hương Mai đã chọn lấy cái chết để chuộc những lỗi lầm. Chắc nàng đã tìm được sự cứu rỗi, tha thứ và bình an ở bên kia thế giới, nơi không còn bất hạnh, hận thù, gian dối. Hôm nào, em hãy dẫn anh đến thăm mộ nàng, và xin lỗi nàng. Anh mới là người cần được nàng tha thứ.

Kim Thanh


 

HAI CHỊ EM – Dinh van Son – Truyen ngan HAY

Nghệ Lâm Hồng

HAI CHỊ EM

Dinh van Son

Sáng nào chị Hai cũng chở tôi tới trường đi ngang qua quán cafe cây mận bắt gặp anh Tư mỉm cười nhìn chị. Chị tôi cũng mỉm cười nhìn anh, biết là ảnh thích mình nhưng chị vẫn làm lơ vì còn độ tuổi đi học.

Nhà anh Tư phía cuối dưới xóm, qua ngõ quanh co sát mé sau vườn. Cha mẹ đã già mà chỉ có mình anh. Anh bỏ học nửa chừng ra học nghề sửa xe rồi mở tiệm. Cái tiệm nho nhỏ góc ngã ba cuối con đường làng. Trên đường này tới trường còn lỗ chỗ quanh co đầy ổ voi, ổ chuột bởi vậy nên chị tôi chở tôi tới trường vô cùng vất vả. Nhớ hôm nào trời mưa rơi lất phất chị đạp xe bỗng trật dây sên, đang loay hoay chưa biết làm sao thì bỗng nhiên từ đâu anh đạp xe tới đưa áo mưa cho chị rồi ngồi hụp xuống gắn lại sợi dây sên. Lúc dẫn xe đi anh không quên dặn tôi chiều mai đem xe tới tiệm anh thay cho sợi dây sên mới. Chị Hai mỉm cười nhìn anh nói cảm ơn lí nhí trong cổ họng, tôi giận chị la lên “có cảm ơn thôi mà chị cũng ngượng ngùng à ! “. Trông ảnh thật tội nghiệp đầu đội trời mưa rơi lất phất, tay chân thì lấm lem dính dầu mỡ sợi dây sên, tôi thấy thương anh vô cùng. Sau hôm đó thì chị Hai tôi cũng có cảm tình chút chút đối với ảnh. Chiều hôm sau tôi đạp xe tới tiệm anh sửa chữa. Sau khi thay dây sên mới xong, tôi trả tiền anh không lấy rồi nhét tờ giấy nhỏ vào túi tôi nói gởi cho chị Hai.

Dọc đường trở về nhà tôi gặp nhỏ Hạnh lùn rủ đi ăn bún canh thế là tôi quên hẳn luôn tờ giấy nhỏ gởi cho chị. Ai có ngờ đó là lá thư tỏ tình và hẹn gặp chị uống nước sau sân đình. Tôi bỏ quên trong túi áo rồi bỏ vào thau đồ đem giặt báo hại anh đứng đợi chị Hai tới tối khuya mới chịu về. Hôm sau anh gặp tôi gương mặt buồn rười rượi cứ nghĩ chắc chị tôi không thích anh ấy. Tôi đến xin lỗi anh kể lại sự tình, anh mỉm cười vui lắm.

***

Thời gian dần trôi, chị Hai tốt nghiệp ra trường xin được việc làm ở trên Saigon. Anh vẫn chờ đợi chị hai. Tía má tôi ngày càng già yếu cũng mong chị yên bề gia thất. Một buổi chiều mưa rơi lất phất anh đến nhà tôi cậy nhờ mai mối xin cưới chị hai. Tía má tôi mừng lắm rồi định ngày kết hôn. Nhưng mà trong thời gian học tại Saigon chị quen và yêu một người học trên một lớp. Gia thế nhà anh ta rất giàu có, anh đẹp trai cao to hát hay đàn giỏi là thần tượng của các cô sinh viên cùng trường trong đó có chị Hai tôi. Vì thế chị tôi từ chối lời cầu hôn với anh Tư viện lý do mới ra trường cần đi làm có chỗ ổn định mới tính chuyện cưới xin. Nghe chị nói vậy lòng anh buồn rười rượi đôi mắt đỏ hoe, gương mặt nhợt nhạt, anh quay trở về mà trái tim tan nát héo hon.

Tối hôm đó hai chị em tâm sự tôi nói sao chị ác quá, anh Tư thương chị thật lòng, người như ảnh khó kiếm lắm sao chị lại từ chối. Chị nói thật là do trình độ anh và chị chênh lệch nhau rất lớn sợ sau này anh mặc cảm mà ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Còn người mà chị đang thầm thương trộm nhớ là anh chàng đẹp trai con nhà giàu hát hay đàn giỏi. Nhưng tôi cũng cảnh báo chị nếu anh ta có điều kiện như vậy ắt là sẽ có rất nhiều cô theo đuổi làm gì tới lượt chị. Nhà mình ở dưới quê cũng đâu giàu có gì làm sao môn đăng hộ đối. Nghe tôi nói xong chị mỉm cười nói nhỏ :

– Chị hỏi thiệt em nè ?

– Dạ, sao chị Hai ?

– Em có thương thầm anh Tư phải không ?

– Dạ…thì em có cảm tình với ảnh chút chút.

– Ừ, chị hiểu rồi…

Chị Hai không nói gì thêm nữa, chị úp mặt vào trong, tôi chỉ nghe tiếng nấc mà thôi. Đêm nay thật khó ngủ cho hai người.

***

Mấy hôm sau đó nghe chị Hai kể lại là viện lý do cần nhiều tài liệu trong công việc nên chị có đến nhà anh nhờ cậy. Anh rất nhiệt tình giúp đỡ và cảm nhận được tình cảm của chị Hai. Anh nói với chị rằng có rất nhiều cô gái đến làm quen nhưng ảnh chỉ để ý đến chị thôi vì nét duyên ngầm. Sau đó hai người đã có những khoảnh khắc yêu thương hò hẹn. Được biết gia đình anh làm nghề kinh doanh địa ốc rất khá giả nên chị rất trông mong lọt vô được gia đình này.

Mấy năm sau gia đình anh có giấy bảo lãnh ra nước ngoài sinh sống. Anh hẹn chị ba năm sau sẽ về thưa chuyện cùng tía má rồi làm lễ cưới luôn. Chị chờ đợi ba năm trôi qua rồi ba năm nữa nhưng hình bóng anh chàng lãng tử như bóng chim tăm cá. Thời gian dần trôi, tuổi xuân chị héo mòn, chị đã khóc hết nước mắt. Qua thăm dò bạn bè và theo dõi được biết anh ta đã lấy một cô gái khác ở bên đó. Chị đau khổ lắm, chị đã ân hận vì không nghe theo lời khuyên của mọi người.

Trong khi đó tôi đã thương thầm anh Tư từ lâu. Ngày nào tôi cũng đạp xe qua đây giả vờ xe hư để được anh sửa chữa. Rồi một hôm tôi đi học về bị trúng mưa nằm nóng sốt li bì trong phòng ngủ, anh nghe tin chạy tới chăm sóc chu đáo, nấu cháo mua thuốc cho tôi uống, thế rồi tình cảm giữa tôi và anh phát sinh. Ảnh cũng biết là chị tôi đã thương người khác nên đồng ý đến với tôi. Hôm cữ hành hôn lễ chị Hai có về dự, nhìn thấy tôi hạnh phúc chị nắm tay tôi rươm rướm nước mắt. Tôi biết chị vui lắm, mừng vì đứa em mình thật sự lấy được người thương nó. Mừng vì đứa em rễ là người đàn ông có trách nhiệm, hiền lành và chí thú làm ăn.

Đêm hôm trước khi về nhà chồng, hai chị em đã ôm nhau khóc. Chị nói trong nghẹn ngào :

– Út à, chị thương em nhiều lắm. Tía má già yếu rồi sẽ mất. Chị chỉ còn mình em là thân nhân thôi.

– Chị à, em cũng thương chị nhiều lắm. Sao chị không tìm hạnh phúc khác. Em biết có nhiều nơi dọ hỏi chị mà

– Ừ rồi chị sẽ tìm. Em nhớ giữ gìn sức khỏe ngày mai về làm dâu nhà người ta phải vui vẻ nha em

– Dạ, em biết rồi. Chị ở chơi với em vài ngày rồi lên Saigon nha chị

– Ừ chị sẽ ở lại đây chơi vài ngày với em rồi chị sẽ đi

– Ôi em thương chị quá !

– Chị cũng thương em…

Hai chị em ôm nhau khóc rưng rức dưới vầng trăng khuya. Chỉ có tiếng côn trùng nỉ non nghe lời tâm sự của hai người.

***

Thời gian trôi mau, tía má tôi lần lượt qua đời. Gia đình nhỏ của tôi hạnh phúc có thêm hai đứa con một trai một gái. Còn chị Hai vẫn ở vậy đến giờ. Mặc dầu biết là trông chờ trong vô vọng, có nhiều nơi dạm hỏi nhưng như trái tim lòng đã rỉ máu khó làm lành vết thương.

Mãi đến sau này trong trận bệnh thập tử nhất sinh tôi mới biết qua cuốn nhật ký chị đã ghi. Thì ra tất cả câu chuyện chị quen anh chàng đẹp trai con nhà giàu ở Saigon chỉ là câu chuyện chị bịa ra mà thôi. Bởi vì chị Hai thấy tôi thương thầm anh Tư nên chị bỏ lên Saigon đi làm công nhân chứ đâu có học hành gì đâu. Chị Hai thấy em mình thương người mình yêu thì đã nhường tình yêu đó lại cho em mình.

Chị đã chôn chặc một mối tình câm lặng không hề oán trách. Đêm đêm chị nhớ anh ấy da diết nhưng đành ôm mối tơ lòng gói trọn vào trong tim. Cho đến bây giờ chị vẫn ở vậy dù tóc đã hai màu muối tiêu. Em thương chị quá chị Hai, tại vì em mà chị phải dở dang cả một đời của tuổi thanh xuân. Em cúi đầu xin lỗi chị.

Dinh van Son


 

Đổi bác sỹ khác!-Truyen that ngan

Chính Trực

ĐỌC HẾT CÂU CHUYỆN, SUY TƯ MỘT CHÚT, RỒI CHÚNG TA SẼ NHẬN RA NHỮNG BẤT CẬP…

Và đây là câu chuyện!

Đổi bác sỹ khác!

Một bệnh nhân đang nằm trên giường bệnh chờ phẫu thuật thì bác sỹ kíp trưởng đến.

Vừa nhìn thấy bác sỹ kíp trưởng, bệnh nhân biến sắc mặt cắt không còn giọt máu, toàn thân run rẩy, miệng kêu gào: “Đổi bác sỹ khác! Đổi bác sỹ khác!”

Người nhà thấy vậy nắm chặt tay ông và động viên ông: “Đây là bác sỹ phó khoa, thạc sỹ y khoa đấy!”

Người bệnh vẫn lắc đầu nguây nguẩy: “Biết rồi! Đổi ngay! Tao là giáo viên hướng dẫn luận văn thạc sỹ của nó, bằng thạc sỹ của nó do tao cấp!”

Tình Nghĩa, Nghĩa Tình – Khôi An.

U 70 LVC.

Kimtrong Lam  ·   ·

Khôi An.

Lần đầu tiên tôi có ý định viết chuyện này là năm 1989. Năm đó, cả nước Mỹ xôn xao tranh cãi về việc một người đàn ông đã đốt lá cờ Mỹ ngay trên thềm toà nhà Quốc Hội trong buổi họp thường niên cuả đảng Cộng Hòa. Lúc đó tôi đã nghe nhiều bàn tán về sự kiện này từ phía chống đối cũng như phe ủng hộ. Ngày đó tôi vưà mới tốt nghiệp đại học, chưa để ý nhiều đến những sinh hoạt chính trị xã hội ở chung quanh, nhưng trong lòng tôi đột nhiên dâng lên một cảm xúc gần như là tiếc cho người đàn ông đã làm hành động đó. Nếu ông ta từng nhìn lá cờ Mỹ qua đôi mắt của tôi và của hơn một trăm người bạn đồng thuyền vaò buổi sáng muà hè năm ấy, không biết ông ta có hành động khác đi chăng”

Đêm trung tuần tháng 7 năm 1983 bắt đầu khá êm ả. Con thuyền nhỏ đầy kín người đã ra hải phận quốc tế được gần 24 tiếng. Tôi đã hơi quen với mùi hôi tanh lợm giọng trong thuyền nên cảm thấy hơi tỉnh táo, ngồi bó gối nhìn cô em gái nằm bên cạnh đang mê man vì say sóng. Ngước mắt nhìn lên bầu trời đang chuyển dần từ màu xám sang màu đen thẫm, tôi thầm cầu nguyện cho được bình an.

Cám ơn trời, biển khá êm, con tàu không vật vã mà chỉ chồm lên hụp xuống theo từng đợt sóng. Tiếng khóc cuả con nít, tiếng càu nhàu than thở, tiếng chửi thề cũng lắng dần khi mọi người chìm vào giấc ngủ mệt mỏi…

Hình như tôi có thiếp đi một lúc vì khi tôi giật mình chòang dậy thì sự hoảng sợ đã chụp xuống chung quanh. Bác tài công đang hối hả kêu mấy người lái phụ và các thanh niên khác dùng bạt bịt kín khoang thuyền nơi mọi người đang nằm chen chúc. Chiếc đèn măng xông duy nhất trong phòng máy bị thổi tắt phụt sau khi bác tài công ra lệnh:

– Tắt đèn! Tắt hết đèn đi!!!

Lắng nghe những lời thì thào trao đổi một lúc tôi mới hiểu ra rằng tàu chúng tôi đang bị tàu cuớp Thái Lan đuổi bắt. Chúng tôi phải tắt hết đèn chạy xuyên vào biển đen trong khi tàu Thái ra sức rượt theo. Cả tàu đuợc lệnh tuyệt đối im lặng, những đứa bé vưà lên tiếng khóc phải bị bịt miệng ngay. Không biết lúc đó tôi còn trẻ quá, dại dột quá, có nhiều tin tưởng quá, hay vì cảm xúc cuả tôi đã tê dại đi, nên tôi không thấy sợ hãi lắm. Tôi gần như không cảm được sự hãi hùng của hơn một trăm sinh mạng đang loi ngoi trong khoang thuyền bịt kín. Tôi chỉ thấy khó thở vô cùng; tôi chỉ thấy nhẹ gánh cho em tôi đang mê man, chắc nó không phải cảm thấy sự ngộp thở tưởng chừng như không kham nổi mà tôi đang chịu; tôi chỉ biết tự nhủ ráng lên, ráng lên; và tôi không ngừng cầu xin Thượng Đế, Chúa, Phật, và tất cả những đấng thiêng liêng cứu vớt chúng tôi…

Chúng tôi chạy vòng vèo ngay truớc mũi tử thần trong suốt một đêm, và bình minh tới dù không ai mong đợị. Những tia sáng đã quét đi màn đêm đang che chở chúng tôi. Bác tài công buông những câu chửi thề uất hận khi khoảng cách giữa bọn cướp và chúng tôi thu ngắn trong khoảnh khắc… Rồi tôi lại nghe bác lại chửi, nhưng lần này đượm vẻ ngạc nhiên pha chút vui mừng:

– ĐM, hình như tụi nó bỏ đi hả bây”

Tấm bạt bịt khoang được hé ra cho chúng tôi khỏi chết ngộp, và qua cái khe hở nhỏ đó, một con cá nhỏ xíu bằng ngón tay cái đã phóng vào thuyền, rơi xuống ngay cạnh tôi. Tôi ngước mắt cố nhìn nhưng vì đang ngồi bẹp trong khoang thuyền nên tôi chẳng thấy được gì ngoài một mảng trời đang sáng dần.

Bỗng bác tài công và những người trong phòng máy trên cao vụt la lớn:

– Có tàu! Có tàu lớn ở đàng xa kià!

– Tàu gì vậy” Vái trời cho không phải tàu Liên Xô!

Chúng tôi như đuợc hồi sinh, ai cũng nhỏm lên nhìn nhưng vì lúc đó chiếc tàu kia chỉ là một đốm nhỏ ở xa nên tôi chưa thấy gì cả. Vài phút sau, có tiếng máy rồi một chiếc máy bay trực thăng nhỏ bay qua. Người trong thuyền la hét như điên cuồng, nhiều người đàn ông cởi áo phất lia lịa nhưng máy bay chỉ lượn vài vòng rồi… mất hút. Dù sao chúng tôi cũng có một tia hy vọng ở chân trời, chúng tôi vội nhắm cái chấm ở tít đằng xa mà chạy tới. Và chiếc tàu kia hình như cũng đang chạy về phía chúng tôi vì nó càng ngày càng lớn dần.

Và, suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên giây phút đó, giây phút người đàn ông ngồi trên cao la lạc giọng:

– Thấy rồi! Thấy cờ Mỹ rồi!!!

Nước mắt ông ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ lấm lem dầu máy. Mọi người đứng bật lên làm thuyền chao mạnh. Chúng tôi đã thật sự được sống!

Chiếc tàu vớt chúng tôi là một hàng không mẫu hạm của Mỹ. Nó to như một toà nhà mười mấy tầng, những người lính đầu tiên phải leo thang dây xuống để đem con nít và những người yếu sức lên trước. Em tôi đã tỉnh dậy như một phép lạ và chúng tôi bám vào thang dây, dò từng bước leo lên boong tàu. Vưà lên tới nơi, mỗi người được trao một ly sữa và một trái táo trước khi tụ tập trong một góc boong. Và ngạc nhiên thay, trên tàu đã có cả trăm người Việt Nam chạy ra mừng chúng tôi. Thì ra chiếc tàu Mỹ này vừa mới vớt một thuyền vượt biên khác ngày hôm trước. Sau khi mọi người đã lên tàu lớn, những người lính Mỹ tưới xăng lên chiếc thuyền mà chúng tôi vưà rời khỏi rồi châm lưả đốt. Đứng trên boong tàu nhìn vói theo chiếc thuyền nhỏ xíu đang bốc cháy và trôi dần ra xa, biết rằng mình vô cùng may mắn, nhưng lòng tôi vẫn thoáng chút ngậm ngùi…

Tổng cộng thuyền nhân được cứu từ hai chiếc ghe vượt biên lên tới gần hai trăm năm mươi người. Hồi đó, tiếng Anh cuả tôi kém và tính tình nhút nhát nên không dám hỏi han những người lính ở trên tàu. Tôi chỉ nghe nói lại là chiếc hàng không mẫu hạm này đang trên đuờng đi công tác ở Phi Luật Tân. Họ đã nhìn thấy tàu chúng tôi từ rất xa và quyết định đi chếch qua để cứu chúng tôi. Chiếc trực thăng bay qua trước khi tàu đến cũng là do vị thuyền trưởng đã gởi tới để xem xét tình trạng của chúng tôi.

Không hiểu vì sao mà trên tàu có sẵn một số quần áo cũ. Chúng tôi được phép lựa những thứ tạm mặc được để thay đổi hàng ngàỵ. Khổ nỗi đống quần áo đã qua sự lựa chọn cuả những người lên trước nên chỉ còn toàn những thứ khó mặc. Tôi nhặt đại hai cái áo to bằng bốn lần khổ người tôi, và một bộ áo liền quần màu xanh bó sát. Chẳng hề gì, tôi vẫn vô cùng sung sướng vì ước mơ gần như hoang đường nay đã thành sự thật: tôi đã trốn thoát khỏi Việt Nam và đang ở trên tàu Mỹ.

Ngày đó tôi vưà học xong trung học. Sau 8 năm đói khổ sau bức màn sắt cuả Cộng Sản, thế hệ chúng tôi hầu như quên mất có một thế giới bên ngoài. Trong những ngày trên tàu Mỹ tôi đã gặp lại những hành động lịch sự, những cử chỉ nhân ái gần như đã biến mất trong xã hội nơi tôi vừa ra đi. Những ân nhân của chúng tôi ân cần đến từng chi tiết nhỏ, một trong những việc đầu tiên họ làm là phát phong bì, giấy bút cho chúng tôi viết thư báo tin cho người thân. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ chiếc phong bì màu xanh nhạt có hình chiếc hàng không mẫu hạm và tên tàu ở góc, tôi vẫn còn nhớ ánh mắt thương cảm của những người trên tàu nhìn chúng tôi nhếch nhác, bơ phờ dò từng bước lên tàu.

Suốt thời gian trên tàu tôi vô cùng ái ngại cho những ngưòi lính và những sĩ quan đã tốn không biết bao nhiêu công sức để lo cho hơn hai trăm người chúng tôi. Vì hàng không mẫu hạm là đơn vị quân sự nên chúng tôi không được phép ra khỏi phần cuối boong tàu. Mỗi người được phát một tấm chăn dạ màu xám, loại chăn nhà binh Mỹ mà tôi đã thấy trước năm 1975. Chăn rất tốt và khí hậu Thái Bình Dương vào muà hè khá ấm nhưng chúng tôi phải nằm ngay trên boong và gió thổi lồng lộng khi tàu chạy nhanh nên ban đêm vẫn lạnh. Tôi ngủ được rất ít nhưng chính vì thế tôi càng có cơ hội chứng kiến sự tận tâm cuả những người trên tàu. Sáng sớm tôi vưà thức dậy đã thấy người ta đang lăng xăng dọn thức ăn sáng cho chúng tôi. Mất mấy tiếng mới phục vụ hết đám người đông đúc nên chỉ vài tiếng sau là họ lại lục tục lo bữa ăn trưa, rồi ăn tối. Thức ăn quá lạ miệng nên tôi không thấy ngon, ngay cả trái chuối cũng khác ở Việt Nam, nhưng tôi nhớ nhất là ly cà phê đầu tiên trên tàu. Đã từng nếm những ly cà phê đen sánh quậy với sữa đặc ở Việt Nam, tôi ngạc nhiên lắm khi ngậm ngụm cà phê Mỹ pha sẵn. Thật tình, cà phê sao chua lè và trong veo, y như là nước giảo của cà phê Việt Nam!

Vấn đề vệ sinh cho hơn hai trăm người chen chúc trong khoảng không gian nhỏ mới thật là kinh khủng. Thuỷ thủ đòan phải dùng nylon đen che thành mấy phòng tắm quay mặt ra biển, nhà vệ sinh cũng là nylon đen quây quanh mấy thùng sắt to. Mỗi sáng nhân viên trên tàu cùng chúng tôi dọn dẹp, và tôi không thấy người nào tỏ thái độ khó chịu cho dù trong khi làm những việc cực nhọc nhất.

Mấy ngày ngắn ngủi trên tàu mãi mãi là một trong những kỷ niệm khó quên nhất trong đời tôi. Trên chiếc hàng không mẫu hạm hùng vĩ đó, tôi đã được xem cảnh tàu chở xăng xáp vào tiếp nhiên liệu cho tàu lớn ngay trên biển, đã được chứng kiến những sinh hoạt hàng ngày quy củ răm rắp như một trong guồng máy nhưng được thực hiện bởi hải đoàn đầy ắp tình người. Tôi nhớ nhân viên trên tàu ngoài nhiệm vụ riêng họ còn phải chăm sóc đủ thứ cho chúng tôi, và phải lo rất nhiều giấy tờ cho thủ tục gởi chúng tôi vào trại tị nạn Thái Lan. Bận rộn vậy nhưng không khí trên tàu luôn ấm cúng và thân tình. Tôi vẫn nhớ lễ chào cờ mỗi sáng, đám người tị nạn đứng sát bên thuỷ thủ đoàn cùng lắng nghe quốc ca Hoa Kỳ vang vọng. Tôi vẫn mường tượng được cảm giác bàng Hòang khi nhìn lá cờ Hoa Kỳ bay lồng lộng trên bầu trời xanh biếc cuả Thái Bình Dương mà tự nhủ không biết mình sẽ ra sao nếu chiếc tàu này đến trễ chỉ một vài tiếng trong buổi bình minh hôm trước…

Mỗi buổi chiều khi công việc đã xong, người trên tàu túa ra trò chuyện với chúng tôi. Từ vị sĩ quan trong đồng phục trắng toát tới anh thuỷ thủ trong đồng phục xanh, ai cũng ân cần vui vẻ. Họ đùa giỡn với con nít, trò chuyện với mọi nguời, cố lắng nghe những câu tiếng Anh vụng về cuả chúng tôi để tìm hiểu xem chúng tôi có cần thêm gì hay không. Để chúng tôi giải khuây, họ còn căng màn chiếu phim. Tôi nhớ mãi cuốn phim đó là phim Điệp viên 007 James Bond với tựa đề “For Your Eyes Only”. Giữa trời đêm lồng lộng ngàn ánh sao, trên con thuyền băng băng xuyên vào biển đen, những hình ảnh rực rỡ chớp tắt trên màn ảnh vĩ đại làm tôi mơ màng tưởng như mình đang trôi trong đêm hoa đăng thần thoại của một giấc mơ kỳ diệu.

. . .

Như thế đó, tôi đã may mắn gặp được cái đẹp đẽ nhất cuả nước Mỹ trước khi đặt chân tới đất nước này. Tôi đến Mỹ với vài đô la và mấy bộ quần áo tồi tàn nhưng gia tài cuả tôi là lòng cảm mến sâu xa với một miền đất giàu tình người, cùng với Hòai bão sẽ cố gắng sống cho xứng đáng với sự hy sinh cuả gia đình, với sự may mắn mà Thượng Đế đã nhờ những “sứ giả” trên tàu Mỹ đem đến cho chúng tôi.

Những bối rối vì ngôn ngữ, những trở ngại khi hội nhập đôi khi có làm tôi buồn nản, nhưng tôi thấy quay quắt nhất là những khi nhớ về Việt Nam. Những chuyện nhỏ nhặt như khi đi chợ Việt Nam, nhìn người ta xăm soi tìm cho được những trái tuyệt hảo nhất trong đám nhãn mọng tươi nhập cảng từ Á châu cũng làm tôi bùi ngùi. Tôi nghĩ đến những trái hơi có tì vết mà không ai thèm mua kia cũng có thể là hàng xuất khẩu từ Việt Nam, là tinh hoa chắt ra từ quê hương nghèo nàn của tôi, là loại hàng “xuất khẩu” mà người đi làm bình thường như cha mẹ tôi không bao giờ mua nổi.

Tuy thế, vấn đề lớn nhất tôi gặp phải trên đất Mỹ là một chuyện tôi chưa hề nghĩ tới: đó là tình cảm của tôi với nước Mỹ đã làm tôi hoang mang. Ngay từ nhỏ, những câu tục ngữ như “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nhà nghèo” đã thấm sâu vào lòng tôi. Cho dù tôi biết chắc rằng tôi không liều mạng vượt biển vì miếng cơm manh áo, tôi ra đi không phải vì tôi chê mẹ Việt Nam nghèo khó, nhưng trong trí óc cuả một thiếu nữ đang trưỏng thành một mình trên miền đất mới, tôi cảm thấy gần như… có lỗi khi thấy mình càng ngày càng quen với đời sống mới và thật sự yêu mến quê hương thứ hai này. Có lẽ cảm giác đó giống như đưá con nuôi cuả một gia đình giàu có, một ngày kia trở về quê cũ và cảm thấy băn khoăn khi bắt gặp mình ngập ngừng, xa lạ trước cha mẹ ruột nghèo nàn xấu xí.

Không hiểu may mắn hay không may cho tôi là khi chiến tranh Việt Nam đang diễn ra thì tôi còn nhỏ. Vì thế, trong lòng tôi không có cảm giác hụt hẫng và đau đớn của nhiều người lớn khi bị “đồng minh Mỹ bỏ rơi”. Khi tôi nghe vài ngưòi nói rằng nước Mỹ cưu mang chúng ta không phải vì họ tốt mà vì họ có trách nhiệm với người Việt, tôi hiểu tại sao họ nghĩ thế nhưng tôi không cảm được. Tôi kính trọng suy tư riêng cuả mỗi người, nhưng riêng tôi, tôi thấy cái tinh tuý cuả hiệp chủng quốc vượt khỏi những nhiệm kỳ tổng thống hay đảng phái. Tinh tuý đó đến từ những người dân Mỹ. Có lẽ tình cảm cuả tôi với nước Mỹ đã thành hình từ lúc nhìn con tàu mang lá cờ Mỹ lớn dần từ phía chân trời trên Thái Bình Dưong, từ khoảnh khắc thấy người lính Mỹ ôm chặt em bé nhớp nhúa ói mửa vào lòng để đem lên tàu, từ khi anh thủy thủ ân cần dùng con dao nhỏ cắt bớt chiếc dép cao su cho vừa chân tôi, từ hình ảnh người sĩ quan trong bộ đồng phục trắng toát đang xắn quần, gò lưng kéo dây ghìm cho thuyền nhỏ đứng yên để chúng tôi bước lên bờ biển Thái Lan, từ hình ảnh những người Mỹ đứng một hàng dài lưu luyến dõi theo đám thuyền nhân chúng tôi đang lục tục đi vào trại mà còn cố ngoái lại nhìn qua làn nước mắt.

Tôi tin rằng không phải vị thuyền trưởng nghĩ rằng người Mỹ có trách nhiệm với chúng tôi, hay vì sự may mắn khi con cá nhỏ nhảy vào tàu mà chúng tôi được vớt. Nước Mỹ có quyền không cho phép chiếc hàng không mẫu hạm đi chệch hải đồ để cứu người, giống như bao con tàu khác đã làm ngơ với những chuyến vượt biên kém may mắn. Hơn nữa, những gì không thật sẽ không tồn tại lâu bền, cho nên tình cảm ban đầu cuả tôi với nước Mỹ sẽ mất đi nếu tôi không càng ngày càng thấy Hoa Kỳ là một đất nước bao dung. Tôi không ngây thơ nghĩ rằng – hay mong rằng – nước Mỹ là Hòan hảo; nhưng với tôi nuớc Mỹ là một dòng sông mênh mông, đôi khi cũng đem theo rác dơ, đôi khi cũng dậy sóng nguy hiểm, nhưng dòng sông đó đã rộng lòng đem nước và phù sa đến cho những giống cây đến từ khắp nơi có cơ hội đơm trái ngọt.

Người sống lâu ngày trong bình an, sung sướng thường quên rằng mình may mắn. Người đàn ông đốt lá cờ Mỹ trên thềm nhà Quốc Hội chắc chỉ nhớ đến những rác rưởi trong dòng sông, chắc ông ta không hiểu rằng chỉ ở Hoa Kỳ ông ta mới dám chà đạp quốc kỳ ngay trước toà nhà lập pháp mà không sợ rằng mình sẽ “ra đi không có ngày về”. Ông ta chắc chắn không biết rằng lá cờ đó đã khiến hải tặc Thái Lan buông chúng tôi, đã quyết định giữa cuộc sống bình an ở Hoa Kỳ và cái chết – hay một cuộc sống nô lệ trên xứ Thái đau khổ hơn cả cái chết – cuả hơn một trăm người trên chiếc thuyền vượt biên vào một ngày hè năm 1983.

. . .

Thời gian trôi qua. Tôi đã lớn lên và đã hiểu ra rằng tôi không hề phải chọn lựa giữa quê hương thứ nhất Việt Nam và quê hưong thứ hai Hoa Kỳ. Tôi yêu mến đất nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã cưu mang tôi, cho cây tôi lớn lên thành một cây quýt ngọt, và đất nước này không hề phiền hà khi tôi đem chia xẻ trái ngọt đó với nơi tôi sinh ra. Tôi đâu phải là cá hồi mà phải chọn lựa giưã sông và biển” Tinh thần cuả nước Mỹ luôn khuyến khích mọi người góp sức làm thế giới tốt đẹp hơn và tôi sẽ làm như thế. Tôi sẽ cố gắng để bằng cách này hay cách khác, trao lại những may mắn và cơ hội mà tôi đã được trao. Hy vọng là tôi sẽ góp phần để một ngày nào đó người dân Việt Nam không còn phải tìm cách ra đi cho dù phải trả giá bằng tính mạng hay nhân phẩm

Tôi yêu Việt Nam đã sinh thành ra tôi và tôi yêu Hoa Kỳ đã dưỡng dục tôi. Đôi khi tôi tẩn mẩn phân tích tình cảm cuả mình: với Việt Nam là tình, với Hoa Kỳ là nghiã… Rồi tôi lại loay hoay tự hỏi có phải như vậy không, hay là ngược lại” Cuối cùng tôi bật cười, nghĩ mình thật là lẩn thẩn, bởi vì tình cảm đâu cần gì phân loại và đặt tên.

Khôi An.


 

TÂM HỒN THUẦN KHIẾT-Truyen rat ngan HAY

Nghệ Lâm Hồng

Một lần, nhà từ thiện Kenneth Belling đi ngang qua khu vịnh San Francisco, Hoa Kỳ vào những năm 1990 của thế kỷ 20, đột nhiên ông thấy mình đánh rơi chiếc ví khi nào không hay. Trợ lý của ông đã lo lắng nói: “Có lẽ chiếc ví đã bị rơi khi chúng ta đi bộ qua các khu nhà ổ chuột ở Berkeley vào buổi sáng, giờ chúng ta phải làm gì?” Belling miễn cưỡng nói: “Chỉ có thể chờ người nhặt được ví tiền gọi lại cho chúng ta mà thôi.”

Mấy giờ qua đi, người trợ lý thất vọng nói: “Thôi, chúng ta đừng chờ nữa, đừng hy vọng gì ở những người sống trong khu nhà ổ chuột.” Tuy nhiên, ông Belling lặng lẽ nói: “Không, tôi vẫn muốn chờ đợi xem thế nào.”

Người trợ lý nghe thấy vậy thì rất ngạc nhiên: “Trong ví có danh thiếp của ngài, nếu muốn trả lại thì họ đã gọi rồi, chỉ mất vài phút thôi. Tuy nhiên, chúng ta đã chờ đợi cả một buổi chiều mà vẫn không thấy tin tức gì. Dường như người nhặt được không có ý định trả lại.”

Tuy nhiên, Belling vẫn khăng khăng chờ đợi. Trời bắt đầu tối và điện thoại vang lên. Cuộc điện thoại này là của người nhặt được chiếc ví. Người đó nói là đợi ông trên đường Kata.

Thấy vậy, người trợ lý hét lên: “Hãy cẩn thận! Đây có phải là cái bẫy không? Liệu có phải họ muốn gõ cửa tống tiền?”

Belling vẫn bỏ qua lời cảnh báo và lái xe đi. Ông tới nơi thỏa thuận thì một cậu bé mặc chiếc áo rách, trên tay cậu cầm chiếc ví tiến lại gần. Người trợ lý vội cầm lấy chiếc ví và kiểm tra, anh thấy bên trong vẫn còn nguyên số tiền. Chờ đợi một lát, cậu bé ấp úng nói: “Cháu có một lời cầu xin, các ngài có thể cho cháu một ít tiền không?”

Lúc này, người trợ lý cười lớn: “Biết ngay mà …” Belling vội ngắt lời trợ lý rồi mỉm cười hỏi cậu bé muốn bao nhiêu.

“Chỉ cần cho cháu xin 1 đô la thôi.” Cậu bé ngượng ngùng nói: “Cháu đã tìm kiếm rất lâu để đến được bốt điện thoại công cộng nhưng không có tiền, cháu phải vay 1 đô la để thực hiện cuộc gọi.”

Nhìn vào đôi mắt trong sáng ngây thơ của cậu bé, người trợ lý đã phải cúi đầu vì cảm thấy xấu hổ. Còn Belling đã vội ngồi xuống ôm cậu bé vào lòng.

Hành động này của cậu bé đã khiến Belling thay đổi kế hoạch từ thiện. Ông quyết định xây mấy trường học ở Berkeley để các bé nghèo không có tiền đi học được đến trường.

Trong ngày khai giảng, Belling nói: “Chúng ta không nên tự phán xét về người khác. Chúng ta cần tạo ra không gian và cơ hội để đón tiếp học sinh có tâm hồn thuần khiết và tốt bụng. Điều này rất đáng để chúng ta đầu tư.”

(st)


 

Những người năm cũ – Dư Thị Diễm Buồn -Truyen ngan

Dư Thị Diễm Buồn

Bọn nữ sinh chúng tôi thường đi học sớm. Kẻ đứng, người ngồi rải rác trong sân cỏ xanh để chờ ông cai trường mở cửa vào lớp. Chúng tôi đồng phục áo dài trắng, quần đen, hoặc quần trắng thướt tha lượn qua lượn lại nhởn nhơ như đàn bươm bướm trắng. Có đứa đùa giỡn, rược bắt, có đứa nói chuyện ồn ào, có đứa kể chuyện tào lao, có đứa chọc bạn, phá thầy. Và có đứa tư lự nhìn trời xanh mây trắng mà mộng, mà mơ ở tuổi xuân hồng.

Tôi là học sinh chuyển trường. Trung hoc Đệ nhứt cấp tôi học ở trường khác. Sang Đệ nhị cấp tôi được vào trường Trung học Đoàn Thị Điểm Cần Thơ. Lúc đó bà Trần Thị Nhơn quyền Hiệu trưởng. Dù được vào trường nữ trung hoc lớn nổi tiếng ở Tây Đô của miền Hậu Giang. Nhưng tôi vẫn nhớ về trường xưa, thầy cũ và bè bạn vui buồn có nhau, cùng lớp chung trường mà đã bao năm mài thủng ghế nhà trường đễ trau giồi kinh sử…

Ngôi trường mà bốn năm, từ lớp Đệ thất đến Đệ tứ tôi hai buổi đi về, nắng gội mưa chan đã cho tôi biết bao là kỷ niệm lúc thiếu thời. Trước sân trường cũ của tôi có khoảng sân đất rộng trồng nhiều cây anh đào. Mỗi năm vào mùa hoa anh đào nở, cả sân trường rợp màu hồng nhạt trên nền cỏ xanh mướt, dưới bầu trời quang đãng ngập nắng mai, và gió xuân phơi phới. Giờ ra chơi, chúng tôi thường ngồi dưới cội anh đào, tụm năm, tụm ba tán gẫu, đùa giỡn tung tăng.

Tôi vẫn nhớ rõ vào năm Đệ tứ niên, nhằm cuối mùa hoa anh đào nở. Một hôm đang đứng ở hiên trường nói chuyện với bạn bè, thì cô thư ký đến cho biết Hiệu trưởng gọi. Tôi lật đật vuốt lại mái tóc, sửa lại tà áo, nếp quần cho ngay thẳng rồi e dè đi theo sau cô.

Hiệu trưởng của chúng tôi là ông giáo già người miền Bắc. Ông đã làm Hiệu trưởng nhiều năm ở Tiểu học. Vợ ông là cô Như Mai cũng dạy học trò như chồng. Ông Hiệu trưởng nổi tiếng khó trời đất! Đứa nào vô phước được ổng gọi thì coi như khổ dài dài. Không bị “con-sin” vì dưới điểm trung bình hàng tháng, hay trong các lần thi Tam cá nguyệt, Lục cá nguyệt, thì cũng bị rầy về phạm kỷ luật, hay chuyện gì đó chớ hiếm thấy người nào “bị” gọi lên mà gặp chuyện tốt lành. Nhưng phải công nhận rằng, trường nào được ông hướng dẫn, và nhứt là các lớp của ông dạy. Chỉ số hàng năm học sinh thi đậu rất cao, cao hơn hẳn nhiều trường khác.

Mặt tôi nhăn nhó như con khỉ ăn phải ớt, nặng trĩu và dài ra như cái bị chín quai! Bởi tôi vừa sợ, lại vừa lo không biết việc gì sẽ xảy đến đây? Tôi tự trấn an cho mình “Phải bình tĩnh! Phải bình tĩnh!” Tôi làm động tác thở ra một hơi thật dài, rồi hít vào buồng phổi không khí mát mẻ trong lành để lấy bình tĩnh.

Nhưng tội nghiệp lắm! Thật sự, tôi không bình tĩnh chút nào hết! Vừa bước vào cửa phòng Hiệu trưởng, thấy ông trễ cặp mắt kiếng lão nhìn tôi từ đầu đến chân. Sợ quá, tôi vội chụp ngay vào thành cái ghế dựa trước mặt, lí nhí trong miệng:

–  Dạ thưa, Hiệu trường gọi con?

Ông không trả lời ngay, nhìn thẳng vào mặt tôi, hỏi:

–  Chị là Minh Thu học lớp Đệ tứ 1 đấy à?

Tôi run giọng, trả lời:

–  Dạ thưa Hiệu trưởng, con là Minh Thu, hoc lớp tứ 1.

Đôi mắt nghiêm khắc và sắc bén của ông làm tôi lính quính:

–  Chị có biết tại sao tôi gọi chị lên đây không? Chị năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

Tôi lập bập trả lời:

–  Dạ thưa Hiệu trưởng, con 17 tuổi. Con không biết tai sao Hiệu trưởng gọi con?

Ông thẳng thừng nói một hơi:

–  Phải lo học hành, để sau nầy được vào các ngành nghề mình muốn. Có công ăn việc làm để trả ơn cho cha mẹ, và bản thân chị cũng được khỏe, không phải vất vả vì cày sâu, cuốc bẩm hay buôn gánh bán bưng… Mới nứt mắt mà chị đã bày đặt “có bồ có bịch” rồi phải không? Nếu có bồ thì nghỉ học ở nhà, để chỗ cho những người khác chuyên tâm vào học hành. Vả lại, luật của nhà trường không nhận thư tình, chị có biết không?

Tôi chới với, như trên trời mới rớt xuống! Ông nện luôn mấy câu:

–  Tôi có đỗ oan cho chị đâu. Chị hãy xem đi. Bức thư tình của chị đó!

Ông Hiệu trưởng lấy ra bức thư từ hộc tủ, có đóng con dấu bưu điện và đã mở ra rồi. Ông thảy trước mặt tôi. Mặc dù lúc đó tôi chưa có bồ, và tôi cũng không biết ất giáp gì về bức thư nầy! Nhưng tôi sượng sùng và sợ hãi đến nỗi đứng không muốn vững. May mà nhờ vịn vào cái ghế trước mặt, nếu không thì chắc tôi ngã quỵ rồi. Ông Hiệu trưởng không để cho tôi nói, hay phân bua lấy nửa lời. Ông đẩy lá thư đến gần tôi hơn, dằn từng tiếng:

–  Chị cầm về xem đi để mà hối lỗi. Lần nầy chị may mắn được tha, nhưng không có lần sau! Từ rày nếu ai gởi thư đến cho chị nữa thì chị sẽ bị đuổi học!

Tôi cầm lá thư, riu ríu đi trở về lớp mà nước mắt chảy ròng ròng!

Trong lớp học, thầy giáo vẫn đứng trên bục giảng bài. Hình như thầy không biết, và không đếm xỉa gì đến những chuyện lẩm cẩm của đám học trò. Các bạn trong lớp, đứa ưa thì nhìn tôi ái ngại, xót thương. Mấy đứa không ưa thì nhìn tôi với ánh mắt hả hê ra điều đắc ý. Mặc dù chúng không biết nguyên nhân gì tôi bị gọi lên gặp Hiệu trưởng.

Rồi cuối năm đó, lớp chúng tôi lo gạo bài để thi lấy bằng Trung học Đệ nhứt cấp. Và trước khi thi chúng tôi còn phải lo làm đơn chuyển trường. Vì trường chúng tôi không có Đệ nhị cấp. Bận rộn quá, tôi cũng đã quên mất bức thư ai đã gởi đến cho mình không đề tên người gởi, mà Hiệu trưởng cho đó là bức thư tình.

Cuộc chiến Quốc Cộng trên quê hương ngày càng sôi động. Cha, mẹ, anh, chị… không ngại gian lao ngoài việc xả thân chống giặc, còn lo cơm áo để cho con em mình an tâm cắp sách đến trường giồi mài kinh sử. Thời gian qua mau, học hết năm Đệ nhứt, chúng tôi rời trường như bầy chim lìa tổ. Xoãi đôi cánh mềm bay vào bầu trời bao la có đầy hương thơm, cỏ lạ, có cây lành cho trái ngọt. Dưới không gian bát ngát, thân thiện nồng ấm tình người của vùng đất tự do miền Nam rộng mở và chào đón chúng tôi.

Chúng tôi được người đi trước ươm mầm, uốn nắn diều dắt, chăm sóc dạy dỗ, tôi luyện trong vòng tay nhân ái, lễ nghĩa… Để chúng tôi có đủ khả năng trong các ngành, các nghề. Khi có thể đương đầu với bão táp chung quanh, thì chúng tôi rời ngành nghề chuyên môn ra tạo dựng vững chắc đời mình và giúp người.

Sau khi học xong nghề, tôi được về nhận việc ở Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Mỹ Tho. Đầu năm 1968 (sau Tết Mậu Thân). Thuở đó, Bác Sĩ Võ Văn Cẩn quyền Trưởng Ty Y Tế.

Trong dịp tình cờ tôi gặp lại thầy Hiệu Trưởng năm xưa đi khám bịnh. Ông vẫn điềm đạm, ít nói, dáng gầy gầy, tóc trắng nhiều hơn tóc đen và cặp mắt kiếng vẫn trễ xuống. Khi tôi chào, ông hỏi:

–  Xin lỗi, chị là ai tôi không nhớ?

Tôi không còn run sợ như xưa nữa, mà mỉm cười lễ phép trả lời ông:

–  Dạ thưa Hiệu Trưởng, con là Minh Thu học lớp Tứ 1.

Ông châu mày, mắt nhìn trời xa xăm như cố tìm nhớ lại. Bỗng ông “à” một tiếng! Nhưng ánh mắt ông vẫn nghiêm khắc và pha nỗi u buồn, nhìn sâu vào mắt tôi dịu giọng:

–  Tôi nhớ ra rồi, phải Minh Thu bị tôi rầy về bức thư nặc danh không? Lúc đó tôi cố tình rầy chị. Thật ra chị có tôi vạ chi đâu? Chắc chị giận tôi lắm phải không? Lâu quá rồi, chị còn nhớ nội dung bức thư đó không?

Tôi không ngần ngại, lanh lẹ đọc một hơi như đang trả bài thuộc long. Tôi đọc không sót một chữ:

“Em đứng nghiêng mình dưới nắng mai
Vịnh ngành sương đọng lệ hoa rơi
Cười nâng tà áo đưa lên gió
Em bảo hoa kia khóc hộ người”

–  Dạ thưa Hiệu Trưởng, trong thư chỉ vỏn ven có 4 câu thơ của Thế Lữ thôi, không còn một chữ nào khác. Con không có giận Hiệu trưởng, nhưng lúc đó con thấy thiệt là oan cho mình quá! Nay thì chuyện cũng đã qua rồi. Con nghĩ Hiệu trưởng rầy như vậy là có chủ tâm? Thưa Hiệu trưởng, cho đến bây giờ con cũng không biết thư đó của ai gởi cho con? Hiệu trưởng có biết không?

Ông thở dài:

–  Của Nguyễn Khương Tịnh lớp tứ 2. Chị còn nhớ Tịnh không? Đậu phần hai xong, nó vào trường Võ Bị Đà Lạt. Sau khi tốt nghiệp, Khương Tịnh được bổ nhiệm về binh chủng SĐ7/BB. Tổng hành dinh của Sư đoàn 7 ở đối diện cửa chánh bệnh viện nầy. Chị biết chứ?

Ông có vẻ xúc động ngừng nói. Tôi nhớ ra:

–  Da thưa Hiệu trưởng, có phải Khương Tịnh mà lần nào lễ lộc, hay bãi trường có mục văn nghệ, anh ưa hát bài “Mỗi Độ Thu Về”,  hoặc bài “Đường Xưa Lối Cũ” không?

Ông Hiệu trưởng gật đầu, tiếp:

–  Ờ, thằng đó thì nghệ sĩ lắm, nó ưa hát hò, và cũng thích viết lách. Khương Tịnh gọi tôi bằng bác ruột. Tôi biết, dạo đó thấy đám nữ sinh ngồi dưới cội anh đào nở rộ trước sân trường, nó chạnh lòng mượn thơ của Thế lữ để tỏ tình với chị. Nhưng hai người lúc đó còn quá trẻ, lại học giỏi. Thật tình tôi ngại chuyện tình cảm nam nữ dây dưa làm hỏng đường học vấn của hai người. Nên một mặt rầy chị và mặt khác ngăn cấm nó. Tội nghiệp! Một thanh niên ưu tú như vậy mà vắn số! Nó đã qua đời 6 tháng trước, trong lúc dẫn quân về truy lùng địch ở trận Bà Bèo (một địa danh nằm trong tỉnh Định Tường).

Tôi rời trường Trung học Đệ nhất cấp tính đến nay đã mười mấy năm rồi. Thật sự tôi không biết gì về việc nầy! Nay nghe thầy Hiểu trưởng kể lại tôi cảm thấy lòng mình xao động! Bùi ngùi thương tiếc thuở học trò và người bạn năm xưa.

Tôi chép miệng thở dài nhìn mưa bay bay trong bầu trời xám đục. Mưa lê thê cùng gió lành lạnh đầu xuân của vùng Hoa Thịnh Đốn, đã làm tan tác những cánh hoa anh đào tức tưởi tàn mau. Lòng tôi đang bồi hồi xúc động nhớ đến những chuyện ngày xưa dưới mái trường.

–  Mưa thế nầy, người ta cũng muốn bịnh, nói chi hoa anh đào không rụng hết sao được!

Tiếng nói bâng quơ, khi mắt vẫn không rời những hạt mưa rơi lác đác của chị Lành (hiền thê anh Hiền, nhóm TX), làm tôi quay về thực tế. Tôi hỏi chị:

–  Ủa anh Hiền đâu, mà chị ở đây?

Chị cười, nhưng mắt vẫn nhìn bầu trời mông lung ảm đạm:

– Ổng lạc đâu mất tiêu rồi. Tôi lạnh quá, thấy chị nên đến nhập bọn để cùng đi về.

Lúc khởi hành du ngoạn, chúng tôi có từng nhóm hẳn hoi, có người dẫn đầu cầm cờ nhiều màu sắc khác nhau cho phân biệt. Tôi từ vùng Sacramento đến (chỉ một người) nên tôi tự nhập vào toán cờ vàng.  Bởi màu cờ vàng hợp với tôi hơn.

Sau khi mỗi người nhận phần ăn trưa, giấy xe ra vào cửa để đi từ trạm xe ngừng gần nhứt của khách sạn. Nơi mà đồng môn và thầy cô tạm trú trong thời gian mấy ngày về dự đại hội. Hôm nay, chúng tôi đi thăm bảo tàng viện, tòa nhà Quốc Hội, xem diễn hành, và ngắm hoa anh đào ở vùng Hoa Thịnh Đốn đẹp nổi tiếng trên nước Mỹ nầy.

Trời chẳng chiều lòng người! Mưa rơi lách tách cả đêm rồi. Vậy mà sáng, mây đen phủ cả vùng trời Washington và mưa lại rơi nữa. Mưa rơi đều đều. Đoàn người du ngoạn của chúng tôi vẫn lên đường, không ngại gì mưa gió. Mưa vẫn tiếp tục rơi! Mưa rơi càng ngày càng nặng hột. Những người có dù, có áo che mưa cũng bị ướt loi ngoi thì nói chi người không đem theo dù che, áo phủ…

Chúng tôi đến bảo tàng viện thì coi như rã hàng vì đông người, và vì có rất nhiều vật trưng bày để cho du khách thưởng lãm. Trong toán, người thích xem thứ nầy, kẻ thích ngắm thứ kia… hoặc người muốn chụp hình lưu niệm nên không thể cứ chờ đợi nhau mãi. Chị hướng dẫn để mọi người đi riêng và dặn phải đến chỗ hẹn đúng giờ. Tôi biết thân, bởi mình vừa quê mùa lại vừa dốt, giống như Tư Ếch đi Sài Gòn. Tôi sợ lạc không biết đường về, cho nên bám sát đuôi vợ chồng sư huynh sư tỷ Thanh Bạch, Thầy Đàm, anh chị Chín (thầy và những đồng môn này từ Arizona qua)… cùng người hướng dẫn đoàn. Thế mà khi lên xe trở về khách sạn chỉ còn có mấy người: Thầy Đàm, chị Lành, một anh ở Atlanta, tôi, và hai vợ chồng anh chị (không nhớ tên) và người hướng dẫn thôi.

Tôi mừng vui và xúc động khi về đến khách sạn thì gặp lại cô Hiệu trưởng Trần Thị Nhơn. Cô ngồi giữa và học trò vây quanh nơi phòng tiếp tân của khách sạn.

Tôi không làm sao quên được, thuở đó cô dạy tôi môn Anh văn. Tôi đã rời trường từ năm 1965. Thời gian qua như chớp mắt. Cuộc đời theo vòng quay của kim đồng hồ và đổi thay theo vận nước nổi trôi! Mới đó, mà nay đã hơn 40 năm rồi còn gì? Tóc cô trắng phau phau. Chợt nhớ lại, tôi mỉm cười! Bây giờ mình cũng đã hai màu tóc, cũng là bà ngoại rồi chớ bộ!

Mỗi năm về dự Đại hội của đại gia đình cựu học sinh Trung học Phan Thanh Giản và Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ), tôi được gặp lại những bạn cũ, thầy xưa, những nhân viên hành chánh có thời làm việc ở trường. Mặc dù những bạn không cùng lớp, những thầy không trực tiếp dạy lớp mình. Cho dù những hình ảnh đó, dáng dấp đó có thay đổi theo thời gian, theo năm tháng… Nhưng đã cho tôi sống lại những kỷ niệm ngọt ngào thân thương của thời son trẻ.

Năm nay, ngay vừa đến phi trường Washington Dullas, thì tôi gặp một số anh chị đến trước, trong đó có Thúy con chị Huệ (ở TX), và nàng Bé Xíu. “Nàng Bé Xíu thân mến của tôi ơi! Tôi không ngại ngùng hay mắc cỡ khi thú thật với các đồng môn của chúng ta rằng: Ngày xưa ở trường tôi sợ nhứt vì tánh liếng khỉ chọc bạn phá thầy của nàng. Một trong những tác phẩm đã phát hành, có đoạn nói về trường cũ, tôi không quên nhắc về nàng đó”.

Thuở còn là nữ sinh Đoàn Thị Điểm, nàng Bé Xíu của chúng ta tròn trịa, người thấp, nước da mịn màng, trắng hồng, tánh tình hồn nhiên, miệng cười xinh xắn, rất dễ thương. Tôi ngại và sợ nhứt là mỗi lần đi ngang qua mặt nàng. Không phải mình tôi ngại, mà gần như những đồng môn thuở đó hay bị nàng Bé Xíu khều, nắm áo dài, cột đuôi áo, hay nói câu chọc ghẹo…

Tôi nhớ không lầm có lần nàng Bé Xíu của chúng ta ghẹo chị bạn học (ở Sóc Trăng hay Cà Mau lên học ở trương ĐTĐ. Tôi không nhớ tên chị). Bọn nữ sinh chúng tôi thuở đó đi học đứa nào cũng đội nón lá, hoặc nón vải (rất ít). Còn chị bạn nầy thì luôn che cây dù màu đen, cán ngoéo. Vóc người chị ốm, cao, lưng hơi cong cong, miệng hơi hô, tướng đi hơi lom thom. Nhưng chị học giỏi lắm (về sau hình như chị được học bổng du học ở Mỹ?). Nàng Bé Xíu thân mến của chúng ta đứng trên lầu nhìn xuống thấy chị, bèn rống họng lên hát lớn: “Cái đít Ba Tàu thằng nào cũng như thằng nấy, bà già Tư Ếch đi đâu cũng xách cây dù”.

Nàng Bé Xíu hát xong thì nhanh chân “vọt” mất! Bà Mừng (Giám Thị) từ đâu trờ tới. Thế là những đứa vỗ tay cười phụ họa, và những đứa lớ ngớ vô tội vạ như tôi đang đứng gần đó bị ghi tên và có giấy mời “cấm túc” thứ bảy phải vào trường làm bài, học bài và lượm rác, làm vệ sinh…

Trong chuyến đi dự đại hội của trường, ở Washington năm nay. Tôi có dịp được gặp những nhà văn, nhà thơ, nhà báo kỳ cựu, đã thành danh lúc còn ở trong nước và hải ngoại: Nguyễn Thị Ngọc Dung, Lê Thị Nhị, Tạ Quang Khôi, Uyên Thao, Hoàng Song Liêm, Vương Đức Lệ… Ông bà chủ nhiệm kiêm chủ bút, và ban biên tập tạp chí Thời Đại. Vợ chồng bác sĩ Cường, Yến (cặp vợ chồng nầy làm ở BV Chợ Rẫy và Từ Vũ ngày xưa). Sư huynh Hồ Thanh Sơn, sư huynh Cao Thanh Tùng và sư tẩu Phượng … Còn sư huynh Nguyễn Văn Thùy của chúng ta mấy năm rồi vắng bóng, có lẽ sư huynh đã lên núi rừng thâm sâu luyện bí kiếp. Để năm nay tái xuất ở đại hội với tập sách dầy mới xuất bản hơn 700 trang.

Tôi gặp những người năm cũ, luôn về dự đại hội hàng năm của trường. Cũng có những người năm cũ, mới đi dự đại hội lần đầu tiên… Những đồng môn ở phương trời xa xứ lạ từ: Úc, Pháp, Canada, Anh… Ở cố quốc Việt Nam năm nay cũng có 2 đồng môn qua tham dự (trong thời gian các anh đến Mỹ thăm gia đình). Cùng các đồng môn ở rải rác các tiểu bang trên nước Mỹ như: Texas, Atlanta, Seattle, Arizona, Nam Bắc California, và lẻ tẻ từ nhiều tiểu bang khác…

Đại hội năm nào cũng vậy, có cái vui và cũng có cái không vui. Nó tùy thuộc vào góc độ và cảm nhận của mỗi cá nhân. Nhưng trong chúng ta ai cũng biết, tự cổ chí kim đời vốn không có gì là tuyệt đối cả!

Hành trang tôi nhận được khi trở lại nhà sau mỗi lần đi dự đại hội là: Đặc san của trường, những tác phẩm của đồng môn mới phát hành, một vài tạp chí ở địa phương… Có khi còn được gói bánh phồng tôm, gói bánh tráng dừa, gói kẹo chuối… Của các đồng môn trong dịp về thăm quê hương mang qua để dành tặng. Trước khi lên xe ra phi trường, tôi còn đươc gói sôi lá cẩm, ly giấy tạm đựng cơm nhét vào giỏ xách để phòng hờ trên quãng đường xa cho tôi đỡ đói lòng của cô bạn học, của rể con anh bạn đồng môn, của bà chị dâu tặng. Cùng đầy ắp những lời thăm hỏi chân tình, những lời chúc phúc chúc lành của thầy cô và các đồng môn…

Đối với riêng tôi, những tình cảm đó trong những lần đại hội đã qua, thật sự quá đủ và trân quý vô cùng!

Tệ xá Diễm Diễm Khánh An

Dư Thị Diễm Buồn

https://www.namkyluctinh.org/tac-gia-tac-pham/a-b-c-d/du-thi-diem-buon/truyen-ngan/nhung-nguoi-nam-cu.html


 

ĐI QUA MÙA GIÓ THỔI – Tác giả: Diệu Hạnh – Truyen ngan HAY

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn 

Chị bấu chặt vào cánh cửa, nhìn anh. Đôi mắt ngỡ ngàng pha lẫn hạnh phúc – thứ hạnh phúc chỉ có ở những người đã từng chờ đợi nhau hơn hai mươi năm ròng mới hiểu..

****

Hai mươi hai năm trước, chị còn là cô thiếu nữ sinh ra ở một miền quê nhiều nắng gió và nghèo. 18 tuổi, theo nguyện vọng của mẹ, thi vào sư phạm chị ngậm ngùi gác lại giấc mơ kiến trúc. Thế nhưng – chị vẫn thường trốn sang trường kiến trúc chơi, cũng dựng giá đỡ, cũng vẽ vời như thật…. rồi chị gặp anh, chàng sinh viên kiến trúc có mái tóc bồng bềnh nhưng trong đôi mắt kiên nghị lại chẳng chút bóng dáng lãng tử nào.Trong buổi giao lưu sinh viên đầu khóa, ngẫu nhiên, hai ánh mắt chạm nhau giữa đám đông, trong tiếng rock chát chúa…. rồi yêu…. anh chỉ hơn chị hai tuổi nhưng đĩnh đạc. Bên anh, chị có cảm giác được chở che. Chị như chiếc bóng lẻ giữa đời. Anh đến là cơn gió mát thổi sâu vào tâm hồn chị.

Nghỉ hè năm 3 anh muốn chị đưa anh về quê “ra mắt”. Anh phải nói dữ lắm chị mới đồng ý cho anh về nhà. Chị sợ bao nhiêu thứ ngăn cách giữa chị và anh. Anh phẩy tay, kéo chị chạy băng băng qua con đường xẻ giữa cánh đồng mênh mông. Anh cười như đứa trẻ, xắn quần quá gối, lội ruộng hái mấy nhánh lúa thơm lừng mùi sữa dúi vào tay chị. Mẹ chị cứ lo, anh công tử nhà giàu nên không hợp sống ở quê, đã vậy còn là quê nghèo. Anh chẳng nói chẳng rằng, cứ phăm phăm bắt chước mẹ chị đi đặt đơm, mò cua, bắt ốc đầy thích thú. Ngày về là bấy nhiêu ngày anh đi chân đất dọc đường quê, tự tay lợp từng miếng liếp, đóng từng cái chân bàn riệu rã. Mẹ chị cứ nhìn anh cười miết. Cuối cùng thì ngôi nhà chị cũng đã ấm lên khi có hơi thở của đàn ông.

Chờ chị tốt nghiệp rồi anh mới dẫn chị về ra mắt mẹ anh. Chị run lẩy bẩy như đứa trẻ lần đầu đến trường. Nếu không có anh siết chặt tay, có lẽ chị đã không can đảm đặt chân vào ngôi nhà có cánh cổng sắt lạnh băng và ảo não. Thế nhưng dù có anh, chị cũng không thể nào được đường hoàng bước qua cánh cổng ấy thêm lần nữa.

Mẹ anh không thể dứt bỏ mối hận ám ảnh với nghề giáo. Ngày xưa ba bỏ mẹ con anh (lúc ấy anh mới 2 tuổi đầu) để xây dựng gia đình với cô giáo trong làng. Mẹ nhìn chị rất lâu bằng quãng ký ức mù mịt đó và lắc đầu: “Không”.

Cánh cổng sắt nặng nề khép lại sau lưng như đóng sẵn nắm mồ chôn chặt tuổi xuân của chị. Anh đứng đó, đau đớn nhìn chị lao đi trong màn mưa. Anh không thể đặt mẹ và chị lên bàn cân để đong đếm. Anh không chọn lựa được – dù anh biết rằng anh đang có một đứa con sắp chào đời, và điều đó sẽ ám ảnh anh suốt đời. Anh nhắm mắt. Giọt nước cuộc đời xám ngoét chảy ngược vào lòng. Vậy là anh đánh mất chị…

Về sau, ngay cả khi cố nhớ, chị cũng không biết sao chị và mẹ anh có thể đi qua những ngày tháng ao tù đó. Mỗi khi đứa trẻ quẫy đạp trong bụng, chị lại cắn răng quên đi, không dám nâng niu niềm hạnh phúc được làm mẹ. Chỉ cần nghĩ đến đứa trẻ thôi là cả một vùng ký ức dữ dội ào về. Sẽ nhớ đến anh, đến mẹ anh, đến nỗi thèm khát được xóa sạch, được quên hết đi, nhẹ bẫng, như… cái chết chẳng hạn. Nhưng chết thì dễ, sống mới khó. Thế nên… chị – phải – sống.

Chị ngày càng lầm lũi thêm mỗi khi thấy anh thường lặng lẽ tìm đến căn nhà cô độc của mình, nhìn chị bình yên bên tã, áo, tất, khăn rồi đi.

Đôi khi, có những người dù yêu thương nhau rất nhiều nhưng họ có một số phận cách xa nhau. Chị tin giữa chị và anh tồn tại số phận khó chấp nhận đó. Nhưng chỉ cần còn được bình lặng nhìn thấy nhau, chị sẽ còn sống được với điều đó, đến khi chị sinh con, rồi con chị lớn. Rồi sẽ phải có một lúc nào đó chị sẽ tìm được một số phận ở gần anh. Chị chỉ giữ được niềm tin đó đến khi đứa con chào đời.

Mẹ anh đến hàng ngày trong thời gian chị ở cữ, răn đe, van xin, tìm mọi cách để tách cậu con trai kháu khỉnh, giống anh như tạc ra khỏi chị, như đã từng dùng uy quyền và nỗi khổ đau của bà để chia cắt chị và anh.

Chị không hiểu được những người đàn bà đã từng bị phản bội. Ở họ, ở mẹ anh, có một sức mạnh huyền bí nào đó khiến họ một mực phải giữ chặt lấy điều họ đang có….

– Xin con! Hãy để cả nó và con nó được yên! Con có quyền sống một cuộc đời tự do theo ý con!…

Chị rời khỏi ngôi nhà, rời khỏi anh, rời khỏi nỗi tuyệt vọng ám ảnh người mẹ của anh.

Mẹ chị tuồn tay vào trong tóc chị bảo rằng mọi thứ sẽ qua đi. Còn với chị, qua đi không biết có đồng nghĩa với cái chết hay không? Rồi Mẹ chị cũng kết thúc những tháng ngày yên bình trong lòng đất cao nguyên. Chị còn lại một mình trong căn nhà lát gạch hoa màu xanh lá khang trang. Thấy chị đơn chiếc, vài người đàn ông quá lứa lui tới nhà chị, gửi gắm những ý định chân tình và giản dị. Với ai chị cũng chỉ nghe nói suốt, cười suốt và rồi từ chối suốt. Chị không biết mình còn mong đợi ở đời này điều gì. Chỉ đơn giản là chị muốn mình giữ được mãi sự thăng bằng giúp chị sống sót từ ngày anh rời bỏ chị, từ ngày con trai bị đưa đi xa chị. Không cần thay đổi điều gì nữa cả.

Chiều nay trường chị đón một đoàn giáo sinh về thực tập. Trong cơn mưa nặng gió đầu mùa, chị đứng im, tím tái nhìn cậu bé trưởng đoàn đang háo hức nói với thầy hiệu trưởng.

– Dạ, sau khi sắp xếp chỗ ăn ở, nhất định thầy phải dẫn con đến gặp cô Duyên nha thầy, nha thầy!

Chị quay đi, chạy biến vào màn mưa gió phũ phàng. Chị không dám đứng lại, không dám bước tới để đối diện với thằng bé – bản sao của anh hai mươi năm về trước. Biết đâu cái nhìn của chị đã sáng suốt? Biết đâu mọi chuyện giờ đã khác? Và còn muôn vàn cái biết đâu nữa chị giăng đầy ra trên những lối cây rừng tối mù. Suy cho cùng, quá khứ vẫn là gánh nặng khó trút bỏ, khó lường định nhất.

Chị báo ốm, xin nghỉ suốt một tuần để tránh mặt thằng bé. Nó tìm đến nhà. Chị đóng cửa tắt đèn vờ như đi vắng.

Sáng tinh mơ, chị len lén ra rẫy tưới cà, vấp chân cậu giáo sinh nằm co ro ngay thềm nhà, khắp người phủ đầy vải bạt, bao đựng cà . Nó gãi đầu, trở người sang bên kia, nói mớ.

– Mẹ. Mẹ đừng bỏ con. Đừng bỏ con…

Chị gục xuống ôm thằng bé. Nó bừng tỉnh, líu ríu quíu chặt lấy chị, giọng ngái ngủ lào khào, cuống quýt.

– Con… là con đây…

Gió thổi tung những cánh hoa rừng vừa chớm nụ. Gió như cánh tay trần buốt lạnh mơn man trên những ngọn đồi xanh cỏ. Triền núi còn mờ trong sương, tiếng gà rừng thi thoảng gáy xua tan sự tĩnh mịch. Chị lần ra cửa, đứng đó nhìn miết vào dáng người gầy dong dỏng đi lên từ dưới chân dốc. Là anh – anh của ngày xưa với đôi mắt vời vợi xa xôi nhưng lại gần quá đỗi. Anh bằng thịt bằng xương đang đứng đó, trong cái lạnh đầu thu, trong những cơn gió thổi qua sự xót xa, đưa bàn tay cố đỡ lấy chị. Phải chăng chỉ là một cơn mơ? Cơn mơ của một người đã chờ đợi hơn 22 năm qua. Nếu chỉ là một giấc mơ thì mãi mãi, chị ước mình sẽ không bao giờ tỉnh.

Đêm ấy, trong gian nhà lửa ấm, có bóng ba người lặng lẽ ôm nhau thổn thức…

Anh đưa chị xuống núi. Bước chân chị bên anh líu ríu như trẻ con vừa tập đi. Cũng phải thôi, con đường hạnh phúc này vắng mặt chị lâu quá rồi. Ngôi nhà có cánh cổng sắt nặng nề của anh cũng đã vắng bóng mẹ anh. Thắp nén nhang cho người quá cố, chị khẽ nép vào lòng anh, thì thầm:

– Mẹ có thể chúc phúc cho bọn con không mẹ?

Không có tiếng trả lời. Nhưng hôm đó – thành phố đột nhiên nhiều gió đến nỗi chẳng ai nghe rõ những gì họ nói với nhau. Chỉ có giọt nước mắt nhẹ hẫng, tan vào gió, bay đi…

ĐI QUA MÙA GIÓ THỔI.

Tác giả: Diệu Hạnh

Bài & ảnh sưu tầm.


 

TẤM LÒNG NGƯỜI VỢ CŨ – Tác giả : Hoàng Thị Bích Hà-Truyen ngan HAY


Chuyện tuổi Xế Chiều

Công Tú Nguyễn

Tác giả : Hoàng Thị Bích Hà

Hoàng Lan là con gái Đô Thành “chính hiệu con nai vàng”. Cô thuộc thế hệ 5 X đời cuối. Hoàng Lan sinh ra trong một gia đình gia phong nền nếp. Cũng như bao thiếu nữ nội thành con cái gia đình căn bản, chị được ăn học nên người.Trưởng thành chị đi làm ở một công ty. Bản tính siêng năng, cần mẫn, chị tỏ ra đằm thắm, chững chạc.

Chị bén duyên cùng một đồng nghiệp trong công ty. Anh cũng là người nội đô. Hai gia đình ở cách nhau không xa. Hai anh chị xây tổ ấm hạnh phúc, rồi lần lượt có hai đứa con xinh, càng tăng thêm sự gắn kết của mái ấm gia đình. Đồng thời cũng là lúc trong vai trò làm vợ, làm mẹ, chị phải lo vén khéo chi tiêu, đảm bảo cuộc sống gia đình và nuôi con ăn học. Thời gian tích cóp, anh chị cũng tạo dựng được một căn nhà khang trang ở một con phố thuộc quận 2, cách cầu Sài Gòn chừng vài cây số.

Cuộc sống cứ bình lặng an yên với hạnh phúc gia đình. Anh chị vẫn làm lụng, các con ngoan, chăm lo học hành. Sau một thời gian công tác, anh đã được lên chức, lên quyền. Anh được bổ làm giám đốc công ty. Nhân viên trẻ nhiều- trai xinh gái đẹp. Anh cũng được săn đón, nịnh nọt hơn. Ở nhà vợ cưng, đến công ty thì có nhân viên chăm sóc chiều chuộng.

Đùng một cái anh bị tiếng sét ái tình giáng xuống khi anh phải lòng cô gái trẻ..Một nhân viên dưới quyền ở tỉnh miệt vườn ven đô lên thành phố làm việc. Trạc tuổi cô bé chỉ nhỉnh hơn con gái anh vài tuổi và dĩ nhiên là trẻ đẹp rồi!

Ở một gia đình đang êm ấm chợt trở nên lạnh lẽo. Sóng ngầm bất ngờ quá! Người vợ hiền, không thể lường trước biến cố nên có khi trở tay không kịp. Nhưng thôi, việc gì đến, sẽ đến thuận theo tự nhiên ý thích của con người. Ý thích riêng của mỗi người sai đúng hồi sau sẽ rõ.

Anh chị ra tòa li dị. Ai đi đường nấy, chị ôm hai đứa con về mình. Để anh tự do phiêu bồng cùng tình mới. Hoàng Lan đưa hai con về bên ngoại.

Căn nhà ở quận 2 được bán để chia đôi tài sản. Phần chị, chị về quận Bình Thạnh mua một căn nhà khác đủ công năng sinh hoạt cho 3 mẹ con và mẹ chị. Mẹ chỉ có mỗi con gái duy nhất là chị. Nên sau khi chuyện chồng con không suôn sẻ, chị mua nhà đón mẹ về ở cùng. Như vậy, Không chồng thì có mẹ. Chuyện chồng con lở dở may mà còn mẹ và các con, vậy cũng đỡ cô đơn. Cuộc đời vậy cũng an ủi cho chị phần nào để có động lực sống tiếp. Chị lại tiếp tục làm việc để mưu sinh và chăm lo gia đình. Mỗi lần chị bận đi làm vắng thì con cái nhờ bà ngoại chăm nom. Chị cũng yên lòng làm lụng. Hoàng Lan đảm đang, vén khéo, chịu thương chịu khó lo cho hai đứa con đến nơi đến chốn.

Về phần anh, số tiền được chia anh về vùng Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân mua một sở đất rộng, là nhà vườn cho thuê kiếm thu nhập. Còn anh và cô gái ấy thuê nhà ở cùng nhau. Họ cũng đã sinh được một cháu trai gọi là cu Win. Chị qua thăm, mua sữa bồi bổ cho mẹ con cô ấy. Thấy anh ở trọ, chị nghĩ chắc cũng thiếu thốn nên thường mua thêm cá tôm, đồ ăn khô và sữa,..để cuối tuần anh ghé lấy về xài dần. Chị nói với các con là: Bố và dì còn ở trọ, mình phải bù chì cho bố. Những việc làm cho anh, bên nhà nội ông bà các cô chú đều biết. Chị vẫn dạy con thương yêu bố và em khác mẹ, kính trọng ông bà nội và các cô chú bên nội.

Bên nhà nội, dù li dị nhưng vẫn coi chị là con dâu của gia đình. Cứ mỗi lần ông hay bà ốm, nằm viện thì mẹ con chị lại bới xách vào bệnh viện chăm sóc. Ông bà nội và mấy chú thím rất quý chị và thương hai cháu. Cứ cuối tuần là hai đứa lại về thăm gia đình bên nội. Nay hai đứa con chị đã thành đạt, sau khi du học về đều có công ăn việc làm ổn định. Dù lớn vậy cứ mỗi lần gặp là mấy thím lại dúi cho ít tiền. Chị bảo:

-Thôi! Cháu lớn rồi, già chát là đằng khác, nay 30- 40 tuổi cả rồi! Nhưng mấy thím thương nên khi nào cũng xem như bé bỏng vậy.

Lại đùng một cái, cô vợ sau chán ông chồng già, không muốn ở nữa. Lại đưa nhau ra tòa li dị.

Chị bảo anh đem Cu Win về nuôi cho có tương lai. Dù gì thì ở gần bên gia đình bên nội cũng thuận tiện để cho cháu học hành. Hơn nữa mấy chú trong gia đình cũng có vị trí công tác rất tốt. Để cháu ở lại sẽ có điều kiện hơn là theo mẹ về dưới quê vất vả. Thế là cô vợ trẻ ra đi, để lại hai bố con chăm nhau trong căn nhà trọ. Như vậy, anh và cô vợ trẻ không duy trì được lâu, chưa hẳn đã vì thiếu tiền mà còn bị chênh nhiều thứ: chênh về cách nghĩ, cách sống của hai thế hệ tuổi tác cách xa nhau, chênh lệch sức khỏe, sinh lý bản năng,… cũng là một vấn đề đối với người không nghĩ sâu xa coi trọng gia đình và con cái.

Chị hàng tuần lại tiếp tục mua sắm lương thực, thực phẩm dành cuối tuần anh ghé lấy về hai cha con có mà dùng, khỏi bận bịu mua sắm.

Ai cũng bảo sao chị không đi bước nữa để nương tựa. Vì lúc li dị chị còn rất trẻ, mới ngoài ba mươi tuổi. Nhưng chị bảo:

– Thôi! Lấy chồng một lần là cũng đủ rồi! Ở vậy nuôi con cho con ăn học.Tình mẹ phải dành trọn vẹn cho con. Lấy chồng nữa, liệu người khác (nếu yêu mẹ) chắc gì đã họ đã thương con mình, rồi con thêm khổ mà thôi”. Tôi thì nghĩ rằng chị lấy chồng một lần cũng đã đủ “thấm đòn” của tình yêu và hôn nhân rồi! Dĩ nhiên con người tồn tại với những điều rất người. Cũng có những nhu cầu vật chất lẫn tinh thần. Khi cần chia sẻ ngọt bùi vẫn có bạn bè tâm giao ở bên ngoài, tiệc tàn ai về nhà nấy. Vậy thôi cũng là cách lấy cân bằng trong cuộc sống.

Công việc hàng ngày của chị cũng vất vả. Công ty trước đây bị giải thể, chị lãnh tiêu chuẩn về một lần. Kiếm việc khác, chị xin làm ở công ty cung cấp rau quả tươi cho các siêu thị trong thành phố. Nên phải làm đêm để sáng sớm xuất hàng cho kịp. Ban ngày về nhà ngủ vài tiếng để tái tạo năng lượng. Chị cố gắng làm việc để

con cái học hành và hiếu sự hai bên nội ngoại, còn bù chì cho cả anh nữa.

Chị bây giờ đã ngoài lục tuần. Tôi hỏi chị:

-Vậy bây giờ chị có tha thứ cho anh, về sống chung để ông bà già chăm nhau được không?

Chị bảo:

-Không! Bây giờ coi nhau như bạn bè tri kỷ vậy thôi. Khi ông đau ốm nằm bệnh viện thì mẹ con chị vẫn tới chăm sóc – Hết duyên thì còn nghĩa, dù sao ổng cũng là bố của các con mình.

Bây giờ chị đã là bà nội của mấy cháu, các con ngoan, hiếu thảo. Chị được bà con gia đình bên nội quý trọng, thương yêu. Ngay cả chồng cũ của chị cũng nể phục chị vì tấm lòng nhân ái bao dung. Cái tâm tốt, sức khỏe tốt, da dẻ chị hồng hào khỏe mạnh. Chị bây giờ có cuộc sống an nhiên, vui vầy cùng con cháu.

Tôi nghe chị kể say sưa, quên cả việc đi ăn sáng ở đầu hẻm. Lòng dâng lên xúc động. Người mẹ đơn thân đã nuôi con vẹn toàn, hiếu thảo với nội ngoại hai bên, tình nghĩa cả với người chồng bội tình – người từng mang đến cho chị cả hạnh phúc lẫn khổ đau. Chị còn có cách ứng xử hợp lòng người nhất có thể. Ngưỡng mộ một tấm lòng người vợ cũ như chị.

(Tên nhân vật đã được thay đổi)

Sài Gòn, ngày 05/7/2023

Bài & ảnh sưu tầm


 

NGƯỜI ĐẦU BẾP GIÀ – K.Paustovsky-Truyen ngan HAY

Những câu chuyện hay và ý nghĩa

K.Paustovsky

Một buổi tối mùa đông năm 1786, trong ngôi nhà gỗ nhỏ ở ngoại ô thành Viên, người đầu bếp cũ của bá tước Tun- một ông lão mù- đang hấp hối. Nói cho đúng, đó cũng chẳng phải là nhà, mà chỉ là một chiếc lều canh rách rưới ở sâu trong vườn. Khu vườn ngập những cành mục bị gió đánh gẫy. Những cành cây kêu răng rắc dưới mỗi bước đi và con chó được xích trong chuồng bắt đầu gầm gừ khe khẽ. Nó cũng như chủ nó, đang hấp hối vì tuổi già và giờ đây không còn sủa được nữa.

Người đầu bếp bị hỏng mắt vì hơi nóng của bếp lò từ mấy năm về trước. Viên quản lý của bá tước cho ông lão ở trong túp lều canh và thỉnh thoảng cho ông vài flôrin.

Ông lão ở với con là Maria, một cô gái mười tám tuổi. Đồ đạc trong lều vẻn vẹn có một cái giường, mấy chiếc ghế khập khiễng, một cái bàn thô, một số đồ sứ đã rạn nứt và một chiếc dương cầm kiểu cổ – của cải độc nhất của Maria.

Chiếc dương cầm đã cũ lắm, cũ đến nỗi mỗi khi có những tiếng động vang lên ở chung quanh những dây đàn lại rung lên rất lâu và khẽ. Không ai có thể bước vào nhà mà không được cây đàn đón tiếp bằng một âm thanh run rẩy và già yếu. Khi Maria đã làm xong việc rửa mình cho người cha hấp hối, mặc chiếc áo trắng và lạnh giá vào cho ông, ông lão bảo cô:

– Cha không hề lựa chọn thầy tu và bọn nhà dòng. Vì vậy cha không thể mời cha xứ đến rửa tội, nhưng trước khi chết cha muốn cho lương tâm mình được trong sạch.

– Vậy phải làm thế nào, thưa cha? – Maria lo lắng hỏi.

Ông lão nói:

– Con hãy ra đường và mời người đầu tiên mà con gặp vào nhà để rửa tội cho một người đang hấp hối. Không ai nỡ từ chối con đâu.

– Phố thì vắng tanh… – Maria lẩm bẩm, với lấy khăn choàng lên đầu và bước ra.

Nàng chạy qua khu vườn, khó nhọc mở hai cánh cổng sắt gỉ. Phố vắng. Gió lùa lá rụng chạy trên mặt đường và từ trên bầu trời đen tối những hạt mưa rơi lạnh lẽo.

Maria đợi rất lâu và nghe ngóng. Cuối cùng nàng thấy một người đi dọc theo hàng rào, vừa đi vừa hát. Nàng tiến lên mấy bước, va phải anh ta và kêu lên. Người đàn ông dừng lại hỏi:

– Ai vậy?

Maria nắm tay người đàn ông và nàng run rẩy nói lại lời yêu cầu của cha mình.

– Được rồi, – người đàn ông bình thản nói. – Tôi không phải thầy tu, nhưng không sao, ta đi thôi.

Hai người bước vào nhà. Dưới ánh sáng của ngọn nến Maria nhìn thấy một người gầy gò bé nhỏ. Chàng vứt chiếc áo mưa rơi xuống ghế. Người lạ mặt ăn vận sang trọng và giản dị – ánh nến lấp lánh trên chiếc camidon màu đen, trên những khuy pha lê và chiếc cổ áo thêu ren.

Người lạ mặt còn trẻ lắm. Chàng lắc đầu như đứa con nít, sửa lại bộ tóc giả rắc phấn, nhanh nhẹn đẩy chiếc ghế đẩu lại bên giường rồi ngồi xuống, đầu hơi cúi, chăm chú và vui vẻ nhìn vào mặt người hấp hối.

– Xin cụ cứ nói! – Chàng bảo. – Rất có thể, với quyền lực không phải do trời, mà do nghệ thuật mà tôi phụng sự, tôi sẽ làm cho những phút cuối cùng của cụ được thanh thản và cất đi gánh nặng đè lên tâm hồn cụ.

– Tôi suốt đời làm việc cho tới mù hai con mắt. – Ông lão lẩm bẩm và nắm tay người lạ mặt kéo lại gần mình hơn. – Và ai làm việc, người đó không có thì giờ để phạm tội. Khi vợ tôi bị lao – vợ tôi tên gọi Mácta – thầy thuốc cho nàng một đơn gồm nhiều thứ thuốc đắt tiền, buộc phải cho nàng ăn kem sữa và quả vả khô, uống rượu vang đỏ hâm nóng, vì vậy tôi đã ăn cắp trong bộ đồ ăn của bá tước Tun một chiếc đĩa vàng nhỏ, đập vụn ra rồi mang bán. Tôi rất khổ tâm phải nghĩ đến việc này bây giờ, và cũng khổ tâm khi phải giấu con gái tôi: tôi đã dạy nó không đụng đến một hạt bụi trên bàn người khác.

– Vậy chứ có ai trong những người hầu bá tước phu nhân vạ lây vụ đó không ? – Người lạ mặt hỏi.

– Thưa ngài, tôi xin thề rằng không có ai khổ vì chuyện đó. – Ông lão trả lời và khóc. – Nếu tôi biết rằng vàng cũng chẳng cứu được Mácta thì tôi cũng đã chẳng lấy trộm!

Người lạ mặt hỏi:

– Tên cụ là gì?

– Jôhan Mâye, thưa ngài.

– Vậy thì thưa cụ Jôhan Mâye! – Người lạ mặt nói, và đặt tay lên đôi mắt mù của ông lão. – Trước mọi người cụ không có tội. Việc cụ đã làm chẳng phải là tội lỗi, cũng chẳng phải là ăn trộm, ngược lại, có thể coi nó như một chiến công của tình yêu.

– Amen! – Ông lão nói khẽ.

– Amen! – Người lạ mặt nhắc lại. – Còn bây giờ, cụ hãy nói cho tôi biết ước nguyện cuối cùng của cụ.

– Tôi muốn có người sẽ chăm sóc Maria.

– Tôi sẽ làm việc ấy. Cụ còn muốn gì nữa không?

Người hấp hối bỗng mỉm cười và nói:

– Tôi muốn được nhìn thấy Mácta một lần nữa, thấy cả buổi đầu gặp gỡ khi tôi còn trẻ. Tôi muốn nhìn thấy mặt trời và khu vườn cũ này khi nó nở hoa vào mùa xuân. Nhưng cái đó không thể nào có được, thưa ngài. Xin ngài hãy đừng bực mình vì những lời lẽ ngu xuẩn đó. Bệnh tật đã làm cho tôi không còn sáng suốt.

– Được. – Người lạ mặt nói và đứng dậy. – Được, – chàng nhắc lại, đến gần chiếc dương cầm và ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê trước đàn. – Được, – chàng nói lớn lần thứ ba và bất thần một âm thanh lanh lảnh vang dội khắp lều như thể có hàng trăm viên pha lê rơi xuống sàn. – Cụ hãy nghe đây, – người lạ mặt nói. – Cụ hãy nghe và hãy nhìn đi.

Chàng bắt đầu chơi đàn, Maria về sau nhớ lại khuôn mặt của người khách lạ khi phím đàn đầu tiên rung lên dưới tay chàng. Một màu sắc kì lạ phủ lên trán chàng và trong đôi mắt chợt tối đi của chàng có một ngọn nến lung lay.

Lần đầu tiên sau nhiều năm chiếc dương cầm ca hết giọng. Tiếng đàn tràn ngập không riêng gian lều mà cả khu vườn. Con chó già bò ra khỏi chuồng, đầu ngả về một bên, nó chăm chú nghe, vẫy đuôi khe khẽ. Tuyết bắt đầu rơi, nhưng con chó chỉ ve vẩy đôi tai.

– Tôi thấy rồi, thưa ngài. – ông lão nói và gắng gượng ngồi dậy- Tôi thấy ngày tôi gặp Marta và nàng, vì xúc động đã đánh vỡ bình sữa. Lúc ấy vào mùa đông, và Marta cười. Nàng cười, – ông lão nhắc lại, chú ý nghe theo những tiếng róc rách của cung đàn.

Người lạ mặt tiếp tục chơi, mắt nhìn vào khung cửa sổ tối.

– Còn bây giờ, – chàng hỏi, – cụ có nhìn thấy gì không?

Ông lão im lặng nghe ngóng.

– Chẳng lẽ cụ không nhìn thấy ư? – người lạ mặt nói nhanh và tiếp tục đàn. – Đêm đen bỗng thành màu lam nhạt, rồi lại thành màu da trời và ánh sáng ấm áp đã từ một nơi nào trên cao kia chiếu xuống. Trên những cành khô của cây cối trong vườn, những bông hoa trắng đang nở. Tôi cho đó là hoa táo mặc dù từ trong nhà này nhìn ra chúng giống hoa tuylip hơn. Cụ thấy không: tia nắng đầu tiên đã rơi xuống bức tường đá, sưởi ấm cho nó và từ đó hơi nước đang bốc lên. Chắc đó là do đám rêu ẩm ướt đang khô dần. Còn trời thì cứ cao lên mãi, xanh thêm mãi, đẹp thêm mãi và từng đàn chim đang bay trên thành Viên cổ kính của chúng ta về phương Bắc.

– Tôi trông thấy tất cả những cái đó. – Ông lão kêu lên.

Bàn đạp rít lên khe khẽ và chiếc dương cầm cất cao giọng một cách trịnh trọng như thể không phải chỉ riêng mình nó mà là tiếng hát của hàng trăm giọng vui mừng.

– Không, thưa ngài, – Maria nói với người lạ mặt, – hoa đó không hề giống tuylip. Đó là những cây táo cùng nở rộ vào một đêm.

– Vâng, – người lạ mặt trả lời – Đó là hoa táo nhưng chúng có những cánh lớn.

– Mở cửa sổ ra, Maria! – ông lão nói to.

Maria mở cửa sổ. Một luồng không khí lạnh ùa vào phòng. Người lạ mặt chơi rất khẽ và rất chậm.

Ông lão ngã xuống gối, thở dốc, đôi tay quờ quạng trên tấm chăn. Maria chạy vội lại. Người lạ mặt ngừng chơi đàn. Chàng ngồi lặng người trước chiếc dương cầm như bị mê đi bởi âm nhạc của chính mình.

Maria kêu lên. Người lạ mặt đứng dậy và bước đến bên giường bệnh. Ông lão vừa thở hổn hển vừa nói:

– Tôi đã trông thấy tất cả, rất rõ, như trong những năm xưa. Nhưng tôi không muốn chết mà không được biết… tên… tên Ngài…

– Tôi là Wolfgang Amadeus Mozart l – người lạ mặt trả lời.

Maria lùi lại và cúi xuống, đầu gối gần sát đất, trước nhạc sĩ vĩ đại. Khi nàng đứng dậy thì ông lão đã qua đời. Bình minh cháy đỏ ngoài cửa sổ và trong ánh sáng ban mai, khu vườn đã phủ đầy hoa tuyết ướt.

(Vũ Thư Hiên dịch từ nguyên bản tiếng Nga)


 

CÂU CHUYỆN CUỘC ĐỜI ÔNG CHỦ STARBUCKS

Đó là một ngày mùa đông lạnh lẽo năm 1961. Trong mắt cậu bé Howard Schultz, đó là ngày buồn bã vô cùng. Sau khi người cha lái xe tải bị tai nạn và mất đi một chân, kinh tế gia đình Schultz mất đi hoàn toàn chỗ dựa. Mỗi bữa ăn tối, trên bàn ăn của gia đình chỉ toàn là những món khó nuốt, là rau mẹ Schultz nhặt nhạnh ngoài vườn và cafe gần hết hạn được giảm giá.

Từ ngày bị mất việc làm do tai nạn lao động, cha Schultz cũng mất luôn cả niềm tin vào cuộc sống. Mỗi ngày chỉ biết mượn rượu giải sầu, và trở thành một con ma men. Bởi sẵn có men rượu trong người, nên chỉ cần Schultz hơi không nghe lời cha liền nổi giận lôi đình, và cũng từ đó trận đòn tra tấn của cha diễn ra hằng ngày như cơm bữa.

Một đêm Noel, năm cậu bé Schultz 12 tuổi, trong khi các gia đình đang quây quần vui vẻ bên bàn ăn với những món thơm ngon nức mũi trong ánh nến lung linh huyền ảo thì cảnh nhà cậu lại hoàn toàn khác biệt. Mẹ cậu vì không mượn được tiền đang cau mày rầu rĩ ngồi ở góc nhà, còn cha cậu thì đang nổi trận lôi đình mắng nhiếc những người kia là kẻ ngu ngốc. Người mẹ bất lực của cậu không còn cách nào khác chỉ đành biết xua mấy anh em cậu ra phố chơi.

Ba đứa trẻ bụng đói cồn cào đành đi ra phố, vừa ra tới cổng ba anh em phát hiện một cửa hàng tổng hợp đang bày la liệt các loại đồ ăn và nước ngọt. Mấy anh em cậu thèm rỏ dãi. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu. Schultz liền bảo em trai và em gái mình về nhà trước, còn bản thân thì đứng nhìn chăm chú vào một lon cafe được đóng gói cầu kỳ đẹp mắt ở đó. Schultz rất muốn làm một điều gì đó để giúp cha vui vẻ hơn.

Nhìn ngó một hồi đợi đúng thời cơ, Schultz nhanh chóng lấy lon cafe đó nhét vào túi áo bông. Tuy nhiên thật không may là cậu lại bị ông chủ cửa hàng phát hiện. Ông ta hét lớn: “Bắt lấy kẻ trộm”. Cậu cắm đầu bỏ chạy một mạch về nhà và cứ nghĩ rằng đã thoát nạn. Cậu mang món quà nhỏ đó tặng cha. Khỏi phải nói nét mặt cha cậu khi đó vui mừng cỡ nào. Khi mở lon ra mùi thơm ngào ngạt của cafe bốc lên làm ông cứ hít hà mãi và nhắm mắt tận hưởng. Nhưng khi còn chưa kịp thưởng thức thì ông chủ cửa hàng tạp hóa đã đuổi tới tận nhà Schultz. Sự việc bại lộ, cậu bé bị lãnh một trận đòn đau nhớ đời.

Đêm Noel năm đó đối với Schultz thật sự vô cùng khó quên khiến cậu mãi khắc cốt ghi tâm. Khi cảm nhận được những dư vị của sự khốn khó và đau khổ tột cùng, cậu tự thề với mình sẽ nỗ lực hơn nữa để bằng mọi giá mua được loại cafe hảo hạng nhất, thay vì phải uống cafe sắp hết hạn như lúc này.

Để giảm gánh nặng kinh tế cho mẹ, sau giờ học, cậu tới làm thêm ở một quán ăn nhỏ và nhận giao báo sáng trước khi lên lớp. Nhưng số tiền ít ỏi mà cậu bé đáng thương kiếm được lại bị cha lấy cắp để mua rượu uống. Cậu trở nên oán giận và chán ghét cha. Hai cha con cậu vì thế mà càng ít nói chuyện hơn.

Từ sau ngày đó, để kiếm tiền cậu đã làm thêm rất nhiều việc: kéo da thú trong một công ty sản xuất áo da, xử lý sợi ở công ty sản xuất giầy thể thao… Chỉ có một điều mâu thuẫn giữa hai cha con cậu mãi không thay đổi. Trải qua vô số khó khăn, chông gai, cuối cùng Schultz cũng xuất sắc thi đỗ đại học.

Cảnh nhà nghèo khó, cha kiên quyết không cho Schultz vào đại học mà muốn cậu đi làm kiếm tiền. Schultz gào lên: “Cha không có quyền quyết định cuộc sống của con. Con không muốn sống những ngày tháng không có mơ ước, không có động lực phấn đấu, ăn bữa nay lo bữa mai như của cha. Cuộc sống của cha làm con cảm thấy thật hổ thẹn”.

Khi vào học đại học bắc Michigan, để tiết kiệm tiền lộ phí và có tiền trang trải học hành trong, trong kỳ nghỉ hầu như Schultz không về nhà mà đều đi làm thêm. Mỗi tháng Schultz đều viết thư về cho mẹ nhưng không hề hỏi thăm về tình hình của cha mình. Sau khi tốt nghiệp Schultz trở thành một nhân viên kinh doanh xuất sắc. Tất cả mọi cố gắng phấn đấu trong cuộc sống của cậu chỉ là vì muốn chứng minh cho cha cậu hiểu rằng lựa chọn của mình không sai lầm.

Năm đó nhờ làm việc chăm chỉ, Schultz kiếm được một món tiền khá lớn. Lần này phá lệ cậu quyết định mua cho cha mình một hộp cafe đen của Brazil loại hảo hạng. Schultz cứ nghĩ cha sẽ rất vui khi nhận món quà đó, nhưng nào ngờ cậu lại bị cha chế nhạo tới ức phát khóc. Ông nói với cậu: “Con dốc sức học hành chỉ là vì để mua loại cafe này thôi à?”. Để không bị cha xem thường hơn nữa, Schultz quyết tâm đạt thành tích tốt hơn để chọc tức ông.

Nhiều năm sau, mẹ điện cho Schultz nói cha nhớ và muốn gặp anh. Từ trước tới nay chưa bao giờ cha anh nói với anh những lời như vậy. Schultz ngạc nhiên và khó hiểu. Dù vậy, vì đang bận đàm phán với khách hàng nên anh từ chối không về, cũng không nói chuyện điện thoại với cha. Vì những bận rộn công việc, hai tuần sau anh mới về nhà được. Khi này, anh mới biết cha đã mất rồi…
Khi dọn dẹp sắp xếp lại những di vật còn sót lại của cha, Schultz phát hiện có một lon cafe đã rỉ sét lốm đốm. Anh nhận ra ngay đó là lon cafe mình đã ăn cắp năm lên 12 tuổi. Trên đó là nét chữ của cha: “Món quà của con trai yêu quý, Noel 1964’”. Trong đó còn có một bức thư ngắn gửi cho anh:

“Con trai yêu quý, cha xin lỗi, vô cùng xin lỗi con. Cha là một người cha thất bại. Cha đưa con đến với thế giới này nhưng lại không thể mang lại cho con một cuộc sống đầy đủ tốt đẹp. Nhưng cha cũng có ước mơ của mình. Ước mơ lớn nhất của đời cha là có một quán cafe nhỏ và cha có thể nhàn nhã pha cafe cho mọi người yêu thích cafe. Nhưng tiếc là cha đã không thể thực hiên được. Cha hi vọng con có thể trải nghiệm niềm hạnh phúc đó”.

Trong giây phút đau thương ấy, Schultz bỗng phát hiện ra những trận đòn đánh mắng của cha lại chính là một ký ức đáng trân quý. Sau khi nghe Schultz kể lại câu chuyện, Shirley vợ anh đã động viên: ‘”Nếu cha đã có nguyện vọng như vậy thì chúng ta hãy thực hiện mơ ước này của ông đi”. Vừa hay khi đó quán Seattle Cafe lại muốn chuyển nhượng, Schultz đã từ bỏ công việc với mức lương 75.000 đô la/ năm để mua lại quán cafe đó.

Đây chính là câu chuyện cuộc đời của ông chủ đế chế cafe Starbucks, người khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng nổi tiếng thế giới.
***

Sinh ra ở Brooklyn, New York, vào ngày 19/7/1953, Howard Schultz tốt nghiệp Đại học Bắc Michigan với bằng cử nhân Thông tin trước khi trở thành Trưởng phòng tiếp thị và bán lẻ 1982 của Starbucks. Sau khi thành lập công ty cà phê Il Giornale, vào năm 1987, ông mua Starbucks và trở thành Giám đốc điều hành và chủ tịch của công ty.

Năm 2000, Schultz công khai từ chức Giám đốc điều hành của Starbucks. Tuy nhiên, 8 năm sau ông đã trở về để lãnh đạo công ty. Tính đến năm 2012, Starbucks có hơn 17.600 cửa hàng với vốn cơ bản lên tới 35,6 tỷ USD.

VietBF@sưu tập

HÃY ĐỢI EM BA PHÚT !!! Truyen ngan HAY

Chi Nguyen  Những Câu Chuyện Thú Vị

Nguồn : Tuệ Tâm

Anh và cô yêu nhau đã được mấy năm, cũng đã dự định sẽ tiến tới hôn nhân. Hôm đó, anh hẹn cô 9 giờ sáng ngày thứ Hai, sẽ đến Cục Dân chính để đăng ký kết hôn.

– Cô hỏi anh vì sao phải đến sớm như vậy?

– Anh ta tinh nghịch trả lời: “Chúng ta phải tranh được vị trí đầu tiên, ngày mai nhất định chúng mình phải là cặp đôi đăng ký kết hôn sớm nhất”.

– Cô cười đồng ý…

Nhưng đến ngày hôm sau, đoạn đường cô đi qua lại đang tu sửa, cô phải ngồi xe đợi một hồi lâu mới có thể đi được. Thời gian đã gần tới 9 giờ, cô bước nhanh về phía Cục Dân chính. Anh thì đã đến sớm và chờ ở cửa, nôn nóng nhìn xung quanh nhưng vẫn chưa thấy cô đâu. Cục Dân chính đã mở cửa, tuy rằng họ đã điện thoại hẹn trước, nhưng nhân viên công tác nói:

– Nếu đến trễ hai mươi phút sẽ phải nhường cho cặp đôi khác xử lý thủ tục…..

Cuối cùng, cô cũng xuất hiện, đứng ở bên kia đường vẫy tay ra hiệu cho anh. Anh gọi to:

– “Em mau qua đây đi!”.

– Cô do dự nhìn đèn giao thông đang chuyển sang màu đỏ, liền đưa tay ra hiệu nói: “Hãy chờ em 3 phút”.

– Anh tức giận, cũng ra hiệu cô hãy băng qua đèn đỏ….

– Cô chần chừ không quyết, đứng đối diện bất động. Ba phút sau, cô mới theo dòng người đi qua đường, rồi đến trước mặt anh ta.

– Anh ta vô cùng tức giận, mặt tối sầm đi, không nói không rằng kéo tay cô bước nhanh vào Cục Dân chính.

Khi vào bên trong, cũng vừa kịp lúc anh ngăn nhân viên công tác xử lý thủ tục với cặp đôi khác. Bọn họ đã giành được vị trí đầu tiên, anh ta vô cùng cao hứng. Thế nhưng…. anh không ngờ …

– Cô lại gạt tay anh ra, rồi nói với nhân viên công tác “Thật xin lỗi, chúng tôi có lẽ không làm thủ tục được rồi, tôi nghĩ tôi vẫn chưa cân nhắc kỹ lưỡng”. Nói xong cô liền bỏ ra bên ngoài.

– Anh đuổi theo phía sau, hỏi cô vì nguyên nhân gì lại thay đổi như thế ?

– Cô dừng lại và nói:

“Cũng chỉ vì ba phút vừa rồi”.

– Anh lớn tiếng kêu oan, nói:

“Vừa rồi em đến muộn, hơn nữa anh bảo em đi nhanh qua đường mà em còn không chịu. Anh không trách em thì thôi, trái lại em lại trách anh là sao?”.

– Cô bình tĩnh nói:

“Bởi vì ba phút này có quan hệ đến an nguy của tôi. Nếu như một người đàn ông chỉ vì muốn kịp ba phút đồng hồ mà không màng tới an nguy của người yêu, người như vậy liệu có đáng để tôi gửi gắm cả đời hay không?”.

Có câu nói rằng:

” Người yêu bạn, chưa chắc đã đợi được bạn. Nhưng người chờ được bạn , chắc chắn rất yêu bạn” . Yêu một người luôn chờ đợi bạn tức là nhận lấy sự hi sinh về thời gian, tâm sức và cả trái tim của họ dành trọn cho bạn..

Bài & ảnh sưu tầm.