“CẦU XIN SẼ ĐƯỢC…”  ai đã từng ở Pleiku…

Sống sót tù Việt cộng tôi có thể sống sót mọi nơi, mọi hoàn cảnh vì tận cùng của sự khủng khiếp là Hỏa Ngục mà so với tù Vit Cộng chắc còn thua một bậc…

“CẦU XIN SẼ ĐƯỢC…”  ai đã từng ở Pleiku…

“…Ngày 22 tháng mười hai năm 1976 tôi bước chân ra khỏi nhà tù Pleiku. Tôi bị bắt ở Kontum cách đó khoảng bảy tháng. Từ Saigon đi xe đò lên cái tỉnh tận cùng biên giới ở phía Tây, chưa kịp nằm nóng lưng công an đã đến thăm hỏi, còng tay tống vào tù một tháng trời chờ xe đưa về trại giam tỉnh Pleiku. Hồi đó thời sinh viên khờ khạo, chưa bao giờ rời nơi sinh ra và lớn lên ở Saigon, chuyến đi Kontum là một mạo hiểm lớn. Vì quá nhiều lần toan tính vượt biên bằng tàu thất bại tôi quyết định thử thời vận lần nữa bằng đường bộ. Đâu có biết rằng những ngày vừa sau 30/4/ 75 VC chăng lưới tình báo nhân dân ở khắp mọi hang cùng ngõ hẻm, ngơ ngơ ngáo ngáo như tôi khi đến một địa phương xa lạ chắc chắn sẽ lọt ngay vào tầm ngắm của an ninh.

Lục soát ba-lô tôi đem theo, bọn chúng thấy một cuộn dây đi rừng và tai hại hơn nữa, một viên đạn colt 45 nằm lẫn lộn trong mớ quần áo,bèn đẩy tôi vào ngay biệt giam. May cho tôi ngoại trừ tang vật hiện trường chúng không tìm được gì khác. Tôi vẫn còn giữ tấm thẻ sinh viên đại học Khoa Học Saigon và thẻ căn cước nên chúng không biết khép tôi vào tội gì . Sau này tôi mới biết với VC, tội tình nghi nặng hơn bất cứ tội nào khác. Ăn cắp ăn trộm còn có án về, tình nghi thì “mút chỉ cà tha”. Ba năm là chuyện nhỏ, có người đã phải “học tập” trên chục năm trời ngày trở về ba má vợ con nhìn không ra.

Khoảng một tháng sau khi tạm giam ở Kontum, CA chuyển tôi về Pleiku. Địa ngục trần gian bắt đầu hiện ra trước mặt tôi. Chỉ có ba phòng sức chứa khoảng 150 người, nay bị dồn nhét hơn ba trăm . Một biệt giam gồm khoảng trên mười hộc (dành cho 10 người) chất đến ba chục mạng.Lần đầu tiên ở tù tôi chỉ muốn tự tử. Chung quanh tôi đa số là Fulro cắc-kè-bông với vết thẹo ghẻ lở phủ kín người. Cấp bậc nhỏ nhất là thằng Giu Se Mới, khoảng 20 tuổi đại úy Fulro. Tôi nằm chung hộc với nó và thẳng Y Nguoun, thiếu tá, bị bắt vì chỉ huy một đại đội tấn công đồn Công An quân số khoảng mười bốn mạng. Đánh đấm thế nào mà thiếu tá Y Nguoun bị bắt sống, lính lác chạy tán loạn, đồn CA thì vẫn còn nguyên.

Đó là lần đầu tiên tôi biết con rận. Sáng sớm thức dậy nhìn thấy một giọt máu nhỏ bằng đầu kim đi chuyển trên cánh tay, tôi kinh ngạc không biết là cái gì. Giu Se Mới chụp ngay lấy bỏ vào miệng cắn cái cóc . Nó còn khuyến khích tôi “ thử đi, ngọt lắm”. Ông nội tôi cũng không dám thử.

Mỗi ngày, chúng tôi được múc nước vào rửa ráy buồng giam một lần, ai có nhiệm vụ trực hôm đó đuoc hưởng thêm phần cơm cháy. Một thằng giết người (dân tộc Kinh) đang chờ ngày ra tòa vẫn dành giựt nhiệm vụ này với Thượng để có thêm cơm ăn. Ỷ mình Việt Nam chính cống nó ăn hiếp bọn Thượng khờ khạo (hay giả khờ qua ải). Thùng đựng nước là một thùng đạn lớn dùng chứa đủ thứ từ rác rưởi, ỉa đái, khạc nhổ. Sáng sớm hai thằng khiêng đổ ra đống rác rồi súc sơ sài bằng nước giếng, sau đó múc nước cũng từ giếng vào tắm rửa. Có lần tôi còn thấy rõ cục đàm của thằng nào nổi lều bều trên mặt. Không ăn nhằm gì hết với tù biệt giam vì cắc-kè-bông không sợ lở, chỉ việc vớt bỏ rồi thoải mái mà xối lên người, kỳ cọ với xà bông cục . Dân Thượng địa phương có thăm nuôi , sáu thằng Việt Nam chúng tôi đói khát muôn năm.

Đó là lý do tại sao sạch sẽ tắm rửa như vậy mà anh Fulro nào cũng thành cắc-kè bông. Thăm nuôi nghèo nàn, thiếu dinh dưỡng lại không ánh nắng mặt trời (biệt giam bị cấm ra khỏi khu vực buồng tối), vệ sinh tệ hại, không bị ghẻ đầy người mới là chuyện lạ.

Cuối cùng tôi chuyển đến phòng ngoài. Ra rồi tôi lại nhớ thời gian nằm “hộc “. Dù sao thỉnh thoảng cũng được chia cho vài hơi thuốc rê quấn giấy bọc lương khô Trung Cộng. Hút cháy cổ mà vẫn ngon, hoặc chí ít cũng nếm được mẩu bánh đậu xanh (lương khô Tàu) lớn bằng đầu ngón tay cái.

Tôi biết ơn Giu Se Mới đã “bố thí” vì trong biệt giam hai phong lương khô cộng với sáu điếu thuốc rê đổi được áo jacket lính Dù mặc rất ấm với khí hậu miền núi. “Thấy cái mặt mày khờ, tao tội nghiệp”. Không có sự tội nghiệp của đại úy Giu Se Mới suốt đời tôi cũng chẳng biết hương vị “ration C” Tàu nó như thế nào…

Nhất y nhất quởn từ ngày bước lên chiếc xe đò định mệnh vốn liếng đi theo tôi cho tới ngày rời khỏi nhà tù chỉ bấy nhiêu để chống chọi cái rét khủng khiếp mùa đông .

Tôi bắt đầu có ghẻ, ghẻ mọc khắp nơi trên người bất kể chỗ kín hay hở. Ghẻ và đói là hai kẻ thù khủng khiếp hành hạ những thằng tù ngày cũng như đêm. Ghẻ và đói lại tàn ác hơn với những thằng tù “xa xứ” quê quán ở tận Saigon như tôi. Tù Saigon đông lắm, nhưng đường xá xa xôi nhất là vào những ngày mới bị VC chiếm đóng miền Nam, phương tiện giao thông nghèo nàn, chẳng thằng nào có thăm nuôi. Bao nhiêu quần áo mang theo đã đổi lấy lương khô, thuốc rê, còn lại thì đem ra quấn hết vào người. Tù khổ nhưng rận rệp lại mừng vì càng ngày càng mập mạp, chỗ trú ẩn ấm cúng sau mấy lớp quần áo.

Buổi sáng tù được ra tắm nắng mỗi thằng tự mài lấy cho mình một cây kim từ những miếng sắt vụn kiếm được. Có hai lợi ích khi sở hữu một cây kim: để may lại bộ đồ rách (chỉ là những sợi nilon rút ra từ bao tải) và để bắt con ghẻ. Nhiều thằng tù không ngồi được vì đít đầy ghẻ mủ, chổng mông cho một thằng khác chà sát xịt máu rồi rửa bằng nước muối. Đó là cách trị ghẻ duy nhất tù nghĩ ra được.

(Sau 30/4/75, ở tù là chuyện dĩ nhiên đối với tất cả những ai sinh ra và sống dưới chế độ VNCH. Con nít ba tuổi còn phải đi tù với mẹ, nhiều bà lặc lè cái bụng cũng ngồi vài tháng vì tội vượt biên hoặc buôn bán lặt vặt. Hễ là người miền Nam (không theo VC) thì phải “học tập cải tạo”, đó là quy luật.)

Một đêm lúc còn trong hộc, bỗng dưng tôi thức dậy vào khoảng ba giờ sáng, chắc tại mấy con rận rệp cắn ngứa ngáy quá chịu không nổi. Thình lình tôi nghe văng vẳng từ xa vọng lại tiếng chuông nhà thờ. Tiếng chuông boong boong vọng vào tai rồi thấm dần đến quả tim từ lâu đã quên bẵng. Tôi nằm trong này hơn hai tháng rồi, chưa biết bao giờ mới được cho ra phòng ngoài chứ đừng nói gì đến được tha. Bao nhiêu ký ức hiện trong đầu tôi, những ngày còn ở ngoài đời.

Tôi là người Công Giáo, theo kiểu ông bà cha mẹ có đạo thì đương nhiên tôi cũng có đạo. Từ lúc lớn khôn tôi chẳng ý thức gì về vấn đề tôn giáo, nhưng phải đi lễ mỗi Chúa Nhật là một cực hình (tôi thà rong chơi với bạn bè trong mấy quán cà phê). Sinh viên năm thứ ba ĐHKH Saigon tôi thích những nơi có nhạc Trịnh Công Sơn, lơ mơ điếu thuốc quấn Bồ Đà. Hồi nhỏ ba má tôi vẫn buộc chúng tôi phải đi lễ chung với gia đình, nhưng khi bước vào đại học, ông bà để chúng tôi tự do. Tôi trịch thượng so sánh những linh mục với những con quạ đen.

Nhưng đêm hôm đó, tôi bị “đánh thức”. Tiếng chuông vọng lại nhắc đến những Giáng Sinh gia đình thiếu vắng tôi trong lễ nửa đêm. Hình ảnh ba má tôi chăm chỉ dự lễ đều đặn nhất là sau ngày đại tang của đất nước. Ông bà cầu nguyện điều gì tôi không biết nhưng gương mặt già nua của cha mẹ giờ đây hiện rõ ràng trong tâm trí. Tôi bật khóc, tự nhiên tôi ngồi dậy, hai cái còng chữ u dưới chân rọt rẹt làm Giu Se Mới cằn nhằn “ngủ đi thằng Sài Gòn”.

Tôi không ngủ được nữa, lần đầu tiên sau bao nhiêu lâu tôi mấp máy môi đọc một kinh Lạy cha, ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh. Rồi tôi quyết định make a deal với Thiên Chúa. Tôi thưa như thế này:

– Lạy Chúa, bao lâu rồi con đã không dự lễ với ba má, Xin cho con được về trước Giáng Sinh năm nay, con muốn cùng ba má con dự thánh lễ Giáng Sinh. Nếu có thể xin hãy cho con điều đó. Nếu không cho hãy cất linh hồn con, con hết chịu nổi rồi. Sau Giáng Sinh nếu còn ở trong này con sẽ chẳng tha thiết điều gì nữa, cho con chết đi thì hơn.

Như đã nói, tội của tôi là tội “tình nghi” mà đối với VC “tình nghi” nặng hơn “tình thiệt”. Tình thiệt còn có ngày về, tình nghi thì cứ “mút mùa Lệ Thủy”. Do đó cầu nguyện là một chuyện, cầu được ước thấy lại là chuyện khác. Tôi đinh ninh như thế và rồi tôi quên đi những gì mình đã thưa vào đêm thức dậy ba giờ sáng.

Ngày 22 tháng Mười Hai năm 1976. Đang lúc ra tắm nắng tù được lệnh trở vào phòng giam, thường là lệnh chuyến đi lao động những tù đã có án. Trước đó hai ngày ngày 20/12/1976 tôi chợt nhớ lại lời cầu xin của mình và lòng buồn rười rượi vì chắc chắn sẽ còn ở đây lâu. Thân thể tôi giờ như một bộ xương khô, cái đói chiếm trọn đầu óc. Đã có lần tôi suýt nhặt một trái ớt hiểm nằm giữa đống phân vì thèm. Tôi sắp chết rồi.

Đợt đầu được gọi ra để chuyển trại, cửa phòng giam mở khoảng mười lăm phút để tù có án tập trung . Sau đó lại đóng. Điều này hơi bất thường vì trước đây chưa từng . Hóa ra còn một đợt kêu tên nữa cho về. Tên tôi nằm hàng thứ ba mươi sáu.

Tôi đi như bay ra khỏi nhà giam, đầu óc tôi tê điếng chẳng còn cảm giác Điều tôi không ngờ đã đến. Tôi bước ngang Biệt Giam thấy mặt Giu Se Mới cười và nghe rõ tiếng nói của nó: “thằng Saigon về rồi!”. Cảm ơn mày nha Giu Se Mới, tao sẽ nhớ mày và Y Nguoun.

Hồi bị bắt tôi còn ít tiền, công an VC trả lại tôi đầy đủ (Điều này cũng đã làm tôi ngạc nhiên một thời gian, ít quá không đáng để lấy?). Tôi mua ngay một nải chuối, mấy cái bánh tét, tất cả những gì tôi thèm khát mà số tiền có thể mua được. Kết quả thấy ngay lập tức, tôi đứng dậy không nổi. Bao tử bị o ép thời gian dài nay căng ra quá độ làm tôi bị bội thực. Tôi ráng lết ra bến xe, trên người còn mặc bộ đồ tù trại phát. Ra đến đó tôi ngồi trên một băng ghế dài, ngẫm nghĩ cách để về nhà. Tiền đã hết, làm thế nào đây? Cách duy nhất tôi có thể thực hiện lúc này là cầu nguyện. Tôi lại thưa:

– Lạy Chúa, Chúa đã nghe lời con kêu xin, cho con được ra tù mà chỉ còn hai ngày nữa là đến Giáng Sinh, con lại không có tiền . Không lẽ Chúa bỏ con bơ vơ ở nơi này? Vậy thì cho con ra tù để làm gì?

Còn đang lẩm bẩm, tôi chợt nghe có tiếng nói

– Sao ngồi đây?

Tôi ngước lên, trước mặt là một người đàn ông trung niên, ăn mặc như nông dân. Giọng miền Nam hơi phảng phất Trung Phần. Anh nhìn tôi có vẻ thông cảm (chắc tại bộ đồ tù)

Tôi thưa thiệt:

– Dạ tôi mới tù ra, nhà ở tận Saigon không biết làm sao để về nhà .

– Vậy hả, tôi tên Tường, mà nè sáng giờ ăn uống gì chưa?

Mặc dù ăn no đến bội thực, bao tử đang hành hạ nhưng cái đói ám ảnh khiến tôi buông vội (vì tưởng như mình vẫn đang rất đói):

– Dạ chưa

– Vậy ngồi đây chờ chút tôi đi, chút xíu quay lại.

Tôi bàng hoàng, kinh ngạc. Như thể Chúa đang ở trước mặt tôi, Ngài đang trò chuyện, đang nghe những lời kêu van thống thiết và gởi một thiên sứ đến giúp tôi . Anh là Thiên Sứ của Thiên Chúa hay người thường vậy anh Tường?

Anh trở lại với khúc bánh mì:

– Nè ăn đi, tôi đã sắp xếp một chỗ cho anh trên chiếc xe đò về Saigon rồi.

Tôi theo anh, anh dẫn tôi lên chiếc xe, nói gì đó với người tài xế, rồi ngoắc tay:

– Về nhà bình yên nghe

Tôi vẫn không biết anh có phải là Thiên Thần Bổn Mệnh của tôi, vì thời điểm đó, đâu có ai muốn rắc rối, dây dưa với người lạ nhất là một thằng tù còn mang trên người bộ quần áo. Càng co cụm, khép kín càng tốt. Ai biết ai…là ai!

Tôi lên xe ôm cái bụng cóc ọc ạch vì thức ăn nằm ủ trong đó. Cứ khoảng một cây số tôi lại xin người tài xế ngừng lại để đi cầu. Trên dưới đều không ra được làm tôi như người sắp chết. Bụng tôi căng cứng giống trái banh chờ lúc bùng nổ. Tôi lại lâm râm cầu nguyện. Những lời kinh phần nào làm đau đớn dịu xuống, nhưng hỗn tạp hàng chục loại thức ăn trong dạ dày khiến tôi chỉ muốn chết cho xong.

Hành khách đi chung xe không ai dám nói chuyện với tôi, họ chỉ liếc mắt nhìn, người đầu tiên ngồi hàng cuối đứng dậy xuống, đi ngang qua ném cho tôi hai đòn bánh tét rồi đi thẳng. Người thứ hai, thứ ba giả bộ để rơi tờ giấy bạc, gói thuốc. Tôi cảm ơn họ những người xa lạ chỉ vì bộ đồ tù tôi mặc trên người sẵn sàng nhường nhịn chia sẻ chút vật thực rất nghèo nàn của họ. Những ngày đầu mất nước chẳng ai giàu có đủ để chia sẻ phần sở hữu của mình. Chắc họ đoán tôi là tù VC vừa được tha, mà đã là tù VC thì (ngoài hình sự ) tất cả đều là anh hùng. Cảm ơn họ, những người miền Nam giàu lòng vị tha.

Tối hôm đó xe ngừng lại ở Qui Nhơn. Nhờ có tiền tôi thuê được cái ghế bố. Tôi muốn ngủ nhưng đau đớn quá đến bật khóc. Tôi lại ngồi dậy thầm thì cầu xin:

– Lạy Chúa, Chúa đã cho con ra tù, cho con có phương tiện về nhà không lẽ Chúa để con chết ở đây? Chúa biết là con cũng sắp chết rồi. Con thở không nổi nữa, đau quá Chúa ơi

Cầu nguyện một chặp, tôi mệt nằm xuống thiếp đi. Đoán chừng khoảng mười lăm phút sau, tôi ngồi bật dậy. Một con nôn thốc nôn tháo tống khứ hết mọi thức ăn đã nằm trong bao tử tôi hai ngày nay.Tôi tưởng sau đó tôi sẽ chết, thật lạ, hết cơn nôn tôi cảm thấy mình khỏe khoắn như chưa bao giờ khỏe như thế. Tối hôm đó tôi ngủ say như một đứa trẻ vừa no sữa.

Xe đến ven thị xã Phan Thiết thì ngưng lại. Lệnh giới nghiêm không cho phép xe lưu thông qua thành phố sau nửa đêm. Đó là tôi đoán vậy, còn thật sự như thế nào tôi không biết. Đêm đó cũng như mọi người chúng tôi nằm lăn lóc ở hai bên vệ đường trong khách sạn “Ngàn Sao”( nhìn lên trời thấy sao không!)

Sáng ngày 24/12/1976 tôi về tới nhà. Con chó Lucky má tôi thừa hưởng từ người dì đã đi tản qua Canada để lại. Nó gốc quân khuyển thường được ăn đồ ngon cho tới khi về với má tôi và sống dưới chế độ VC. Tội nghiệp “thằng nhỏ” phải tập ăn mọi thứ má tôi có thể chia cho nó. Chơi láng hết từ khoai mì khoai lang, cám heo v..v . Hai “đứa” tụi tôi vẫn chơi thân với nhau trước ngày tôi đi tù.

Nghe tiếng người Lucky từ trong nhà chạy ào ra sủa dữ dội. Tôi la khẽ “Lucky, tao nè” nghe tiếng tôi nó ư ử mừng rỡ, chân cào lên hàng rào đuôi vẫy dữ dội. Má tôi đang ăn cơm, nghe chó sủa vội chạy ra coi là ai, tay vẫn còn cầm chén. Vừa nhìn thấy tôi, má chết sững

– Trời ơi, ông ơi, thằng Bảy nó về rồi nè.

Ba tôi chạy ra, mếu máo. Má tôi mở cổng, ôm chầm lấy tôi, Lucky nhảy chồm lên người tôi, ba tôi cứ cầm tay tôi mà lắc. Sau này khi bình tĩnh tôi mới biết ba má tôi tưởng tôi đã chết rồi vì không có tin tức gì hết từ ngày tôi bỏ đi. Ba má biết tôi tìm cách vượt biên đường bộ. Thú dữ, Khờ Me Đỏ, VC chắc là tôi không tài nào đi lọt. Thậm chí má tôi đã xin lễ cầu hồn cho tôi. Tôi đâu có dám cho ba má tôi biết bị tù ở Pleiku, sợ ông bà tuổi già sức yếu lại lo gồng gánh thăm nuôi. Cuối cùng tôi chịu hết nỗi đánh liều gởi lén thằng bạn được tha bức thư cầu cứu chỉ cách ngày tôi được tự do có một tuần lễ. May là thằng bạn chắc về tới nhà vui quá quên giao thư. Cảm ơn nó, nếu không tôi lại làm khổ ba má tôi lần nữa.

Tính ra VC giam tôi hơn sáu tháng. Sáu tháng với một thằng thư sinh như tôi, từ nhỏ tới lớn chỉ biết ăn bám vào cha mẹ là cả một khoảng thời gian khủng khiếp. Tôi biết được con rận hình dạng ra sao, con cái ghẻ nhớ như thế nào và làm cách nào bắt “quả tang hung thủ” bằng đầu kim mài nhọn từ mảnh sắt vụn. Tôi biết sự dã man khi bệnh “đói” hành hạ, cảm giác “sung sướng đến tê dại” lúc áp chai thủy tinh nước nóng vào hai cái mông đầy ghẻ, hoặc khi thằng bạn “ghẻ” chà bật máu mủ rồi chế nước muối lên. Gọi là bạn ghẻ vì chúng tôi sẽ luân phiên “điều trị” bệnh ghẻ cho nhau theo lối đó.

Tôi cũng phải cảm ơn VC. Nghe lạ quá ha? Nhưng đúng là nhờ VC, bao tử tôi giờ vô địch. Tôi có thể ăn bất cứ con gì miễn là nó nhúc nhích (tôi đã từng nếm “hương vị” rận no máu khi cắn cái cóc trong miệng ). Bây giờ nhiều khi ăn thức ăn để lâu hoặc cơm thiu người khác sẽ bị ngộ độc thực phẩm, còn tôi hả? “vô tư”! Vi trùng sợ tôi chứ tôi đếch ngán bất cứ vi trùng nào. Sống sót tù VC tôi có thể sống sót mọi nơi, mọi hoàn cảnh vì tận cùng của sự khủng khiếp là Hỏa Ngục mà so với tù VC chắc còn thua một bậc.

Câu chuyện này hoàn toàn có thật mà bao nhiêu năm nay tôi muốn kể lại để VINH DANH  CÁM ƠN Thiên Chúa, nhưng vì không biết cách viết, cộng thêm với sự lười biếng, lo toan cuộc sống tôi chưa làm được. Tin hay không tuỳ quý vị, nhưng ơn Thiên Chúa ban cho có thật, nhất là cộng thêm lời cầu bầu rất linh nghiệm của Mẹ Maria.

Còn đối với anh Tường tôi vẫn cầu nguyện cho anh ( tôi rất muốn biết anh chỉ là một người giàu lòng nhân đạo tình cờ đi ngang qua hay anh thật sự là một Thiên Sứ được sai đến?)

Tôi xin lỗi, tôi quên phần kết luận: chỉ trong vòng có hai ngày, từ trưa 22/12/1976 với một cái bụng bội thực gần chết, với phương tiện giao thông nghèo nàn dưới sự điều hành của VC đi từ Pleiku (cách xa Saigon bao nhiêu cây số ?) , tôi đã về tới nhà mình vào đúng trưa ngày 24/12/1976. Điều đó có nghĩa là đêm Giáng Sinh tôi đã được tham dự Thánh lễ nửa đêm với ba má mình như lời nguyện xin trong phòng biệt giam ở Pleiku…”

VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI
BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM

(Theo lời kể của một người bạn)
nguoiviettudo

 From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh gởi

CÁI ÔM GIẢI CỨU (Chuyện thật, cảm động!)

CÁI ÔM GIẢI CỨU (Chuyện thật, cảm động!)

Ngày 17-10-1995, tại Trung tâm Y tế Trung ương Massachusetts (Mỹ), cặp song sinh nữ Kyrie và Brielle thiếu đến 12 tuần tuổi chào đời, tổng trọng lượng 2 bé chưa đầy 1kg. Để giảm nguy cơ nhiễm trùng, các bác sĩ đã quyết định nuôi dưỡng 2 bé trong 2 lồng kính khác nhau, với tiên lượng rất xấu rằng một trong hai bé sẽ khó sống sót.

 Lúc đầu, tình trạng của Kyrie có vẻ tiến triển tốt, cô chị bắt đầu tăng cân trong khi cô em bé bỏng Brielle thì ngược lại, Brielle gặp vấn đề về hô hấp và tim mạch, tăng cân ít, đồng thời lượng oxy trong máu rất thấp.

 Vài tuần sau, tình trạng của Brielle trở nên nguy kịch, cơ thể bé bắt đầu tím tái, nhịp tim tăng vọt và thở rất khó khăn. Cha mẹ cũng như các bác sĩ đều nghĩ rằng Brielle không thể sống sót. 

 Một hiện tượng bất thường đã xảy ra: Cô bé Kyrie vốn đang khỏe mạnh bỗng nhiên la hét không dừng, dù các y tá đã tìm mọi cách để giúp đỡ, nhưng Kyrie vẫn khóc thét mãi, và bắt đầu lên cơn co giật.

 Các biện pháp hỗ trợ dường như vô hiệu, mọi người tuyệt vọng, không hiểu chuyện gì đang xảy ra với 2 đứa trẻ, nữ y tá Gayle Kasparian đã nảy ra một ý định táo bạo, điều chưa từng có tiền lệ tại Mỹ, đó là đặt cặp sinh đôi nằm sấp bên cạnh nhau.

 Kỳ tích đã xuất hiện ngay khi y tá Gayle vừa đóng cửa lồng ấp, Brielle đang kiệt sức bỗng nhích người lại gần Kyrie, lúc đó Kyrie dừng khóc và theo bản năng, Kyrie đã vòng một cách tay sang ôm lấy đứa em gái bé bỏng gần như đang hấp hối của mình. 

 Chỉ vài phút sau hành động thân thương này, điều kỳ diệu đã xảy ra, tình trạng hô hấp của Brielle đã cải thiện đáng kể, thân nhiệt cũng dần ổn định.

 Sau đó, các y tá vẫn tiếp tục duy trì cách chăm sóc đặt 2 đứa trẻ nằm cạnh nhau trong một thời gian dài, điều này không chỉ giúp Kyrie càng thêm khỏe mạnh mà còn giúp sức khỏe của Brielle cải thiện nhanh chóng, bé tăng cân đều và đuổi kịp cô chị song sinh.

 Hiện tại, Kyrie và Brielle đều đã tốt nghiệp đại học và trở thành những thiếu nữ xinh đẹp, cả hai vẫn luôn ở bên cạnh nhau như ngày còn bé.

 Điều kỳ diệu giúp cặp sinh đôi may mắn sống sót – Phương pháp đặt trẻ song sinh nằm cạnh nhau, đã được giới y khoa đi sâu nghiên cứu và nhận thấy biện pháp này thật sự có ích đối với những cặp song sinh thiếu tháng vì sự gắn kết “da kề da” sẽ giúp các bé ổn định thân nhiệt, cải thiện hô hấp, cùng nhau phát triển tốt.

 Bức ảnh chụp cảnh cô chị Kyrie vòng tay ôm lấy em gái Brielle đang hấp hối, đã trở nên vô cùng nổi tiếng với tên là Cái Ôm Giải Cứu (rescuing hug), được rất nhiều tạp chí danh giá đăng tải liên tục trong nhiều năm qua.

 Phong Luu (tổng hợp Internet)

From: TU-PHUNG

SỐNG ĐƠN GIẢN CHO ĐỜI THANH THẢN

No photo description available.

Được SỐNG ĐƠN GIẢN CHO ĐỜI THANH THẢN

Ngày mai, tôi phải đi viện dưỡng lão… (một câu truyện hay về nhân sinh quan)

Không phải bất đắc dĩ, thì tôi cũng không muốn đi viện dưỡng lão đâu. Nhưng mà từ khi sinh hoạt hàng ngày không còn có thể tự xoay xở, mà con gái vừa làm việc bận rộn vừa phải chăm sóc cháu trai, không rảnh để quan tâm mình, đây dường như là sự lựa chọn duy nhất đối với tôi.

Điều kiện sống ở viện dưỡng lão không tệ: Một mình một gian phòng sạch sẽ, được lắp các đồ điện đơn giản thực dụng, đầy đủ các loại phương tiện giải trí; đồ ăn cũng ngon miệng; phục vụ rất chu đáo, bày trí xung quanh cũng rất đẹp.

Tuy nhiên giá cả đắt đỏ, tiền hưu của tôi nhất định không đủ trả. Nhưng tôi còn có nhà riêng của mình, đem bán nó đi, tiền cũng không còn là vấn đề nữa. Nhưng tài sản còn lại, trong tương lai tôi muốn để dành cho con cái. Con cái lại rất hiểu chuyện, chúng nói: “Tài sản của mẹ thì mẹ tùy ý sử dụng, không cần lo cho bọn con”. Số tiền còn lại đúng là tôi muốn chuẩn bị để vào viện dưỡng lão.

Sống trong nhà, kim chỉ cái gì cũng không thiếu, rương hòm, ngăn tủ, ngăn kéo đều đầy ắp các loại đồ dùng. Quần áo bốn mùa, đồ dùng bốn mùa, chồng chất như núi; tôi thích sưu tầm, tem sưu tầm đã thành từng chồng lớn, ấm tử sa cũng đã hơn mười cái. Còn có rất nhiều vật linh tinh cất giấu, nào là ngọc bích, hạt óc chó, vật trang sức. Đặc biệt là sách, cả một mặt tường là giá sách, chật kín đầy ắp; rượu ngon thì Mao Đài, Ngũ Lương, rượu Tây cũng phải mấy bình.

Còn có nguyên bộ đồ điện gia dụng, dụng cụ nấu nướng, nồi niêu xoong chảo, củi gạo dầu muối, đủ loại đồ gia vị, nhét chật đầy phòng bếp; còn hơn chục cuốn album ảnh, nhìn một phòng tràn đầy đồ vật, tôi cũng thấy phát rầu !

Viện dưỡng lão chỉ có một gian phòng, một cái tủ, một cái bàn, một giường, một ghế sô pha, một tủ lạnh, một máy giặt, một TV, một bếp điện từ, một lò vi ba, căn bản không có chỗ để lưu giữ của cải mà mình tích lũy.

Trong chớp mắt, tôi đột nhiên cảm giác được, những của cải này đều là dư thừa, chúng cũng không thuộc về mình…

Tôi chẳng qua là nhìn một cái, chơi một chút, dùng một lát, chúng trên thực tế chỉ thuộc về thế giới này, những sinh mệnh lần lượt lướt qua ta, cũng chỉ là quần chúng.

Cố Cung là của ai, hoàng đế cho rằng là của trẫm đấy, nhưng bây giờ nó là của nhân dân, của xã hội, chỉ có thể trở thành lịch sử.

Tôi bỗng nhiên hiểu ra: Tại sao Bill Gates muốn đem cho toàn bộ tài sản của mình; tại sao Jack Ma tuyên bố muốn tặng toàn bộ đồ cất giữ cho viện bảo tàng? Đó là bởi vì bọn họ hiểu rồi: Tất cả vốn dĩ không phải của họ !

Bọn họ chẳng qua là nhìn một cái, chơi một chút, dùng một lát, sinh không mang theo, chết không mang đi, chi bằng tích đức làm việc thiện lưu lại phúc cho con cháu. Đó mới thật là sáng suốt!

Một phòng đồ đạc của tôi, thật muốn đem hiến tặng, nhưng lại không nỡ. Phải xử lý chúng trở thành một vấn đề khó khăn, con cháu lại chẳng dùng được bao nhiêu.

Tôi có thể tưởng tượng, lúc cháu mình đối mặt với những bảo bối tôi khổ tâm tích lũy thì sẽ đối xử thế nào: Quần áo chăn đệm toàn bộ đều vứt đi; hơn chục cuốn album quý báu bị đốt bỏ; sách bị coi như phế phẩm bán đi; đồ cất giữ không có hứng thú sẽ bị dọn sạch; đồ gỗ lim trong nhà không dùng, cũng sẽ đem bán giá rẻ. Giống như phần cuối Hồng Lâu Mộng: “Chỉ còn lại trắng xóa một mảnh, thật sạch sẽ !”

Tôi quay lại nhìn đống quần áo như núi, chỉ lấy vài bộ thích mặc; đồ dùng phòng bếp chỉ chừa lại một bộ nồi niêu chén bát. Sách chọn lấy vài cuốn đáng đọc; ấm tử sa chọn lại một cái để uống trà. Mang theo chứng minh thư, giấy chứng nhận người già, thẻ y tế, hộ khẩu, đương nhiên còn có thẻ ngân hàng, vậy là đủ rồi!

Đây chính là toàn bộ gia sản của tôi ! Tôi đi rồi, từ biệt hàng xóm, đem trả ngôi nhà này lại cho thế giới này !

Đúng vậy, đời người chỉ có thể ngủ một giường, ở một gian phòng, dù nhiều hơn nữa đều là để nhìn chơi. Nhân sinh trên đời, quả thật không cần quá nhiều, đừng quá coi trọng vật chất, bởi vì tất cả cuối cùng đều phải trả lại cho thế giới này ! Chi bằng xem nhiều sách, ở bên cạnh người thân, yêu mến bạn bè bên cạnh, làm cho thế giới này bởi vì có tấm lòng yêu thương của bạn mà trở nên càng tốt đẹp.

Nguồn : Sưu Tầm

Ảnh : Minh Hoạ

Hồi tưởng lại 32 năm trước về chuyến đi Định Mệnh của tàu Trường Xuân

 

Lẻ Bóng-TRUYỆN NGẮN – BÙI BÍCH HÀ…

TRUYỆN NGẮN – BÙI BÍCH HÀ…..

Lẻ Bóng

Ông là một trong những bác sĩ Việt Nam di tản kịp trong biến cố 30 Tháng Tư, 1975. Tới Mỹ, ông đi học lại, hành nghề rất sớm và thành công tại quận Cam ít nhất trên ba thập niên cho tới khi nghỉ hưu.

Tất nhiên như mọi người có cùng địa vị với ông, ông làm chủ một quỹ về hưu khá lớn, cho phép ông vẫn giữ nếp sống thoải mái như thời còn làm việc. Chỉ có điều, ông than thở: “Nhà cao cửa rộng phải bán đi vì lầu cao, đầu gối đau, không lên xuống cầu thang được, chưa kể nhà lớn quá mà một thân một mình, ở sao hết? Sức đâu mà dọn dẹp?

Nhìn cái hồ bơi đầy lá vàng chỉ thêm cám cảnh. Thảm cỏ sân trước, vườn sau cần người chăm sóc nhưng người làm vườn khi tới khi không, gọi khi được khi mất, chỉ tổ bực mình, nhức đầu.

Mời các con, cô cậu nào muốn lấy cái nhà, ông giao nhưng chúng nó, thứ nhất đã có nhà rồi, đẹp và sang gấp mấy lần cái nhà của ông ở Fountain Valley, mắc mớ gì phải nhận của ông để bị anh chị em nhòm ngó, tỵ nạnh, chưa kể nhận cái nhà rồi, sau này khi ông cần gì, nó sẽ là đối tượng thứ nhất được chiếu cố và giao phó trách nhiệm.

Ông đành bán nhà, dọn vào một căn mobile home ở giữa khu Little Saigon cho ông tiện đi lại hoặc hẹn hò bạn bè cũ mới. Nhà ba phòng, sửa sang tươm tất trông cũng khang trang, đẹp mắt, nhưng với ông hôm sớm vào ra một bóng, vẫn còn quá dư thừa. Mấy bụi hoa xung quanh nhà được cắt tỉa gọn ghẽ vì người phụ trách cây cảnh của chủ đất rất dễ gọi để nhờ vả.

Tuy nhiên, “vườn Thúy” của ông thiếu đôi mắt phượng nên không được sum suê và mỹ quan như bên hàng xóm. Ông nhớ cái vườn cây quý tự tay ông đi kén chọn mua giống, chăm bón và săm soi những ngày xưa thần tiên đã xa xôi rồi, ông tặc lưỡi, lắc đầu mấy cái, như người đi dưới cơn mưa muốn rũ sạch những giọt buồn trên khóe mắt.

Nhà đã vậy, xe đẹp cũng thường xuyên nằm ụ vì ông không còn đi đâu xa, ngay cả đi gần thì cũng phải về nhà trước khi tắt nắng vì mắt quáng. Gần đây, vẻ ngoài cái xe và ông chênh lệch nhau nhiều quá, một bên bóng lộn, khỏe mạnh, vạm vỡ, một bên hom hem, xập xùi, yếu ớt, khiến ông ngại ngùng mỗi khi ngồi vào ghế lái, chậm rãi lùi xe ra khỏi gara mà có người đang nhìn ông.

Thêm nữa, do thị lực yếu đi, ông không mấy tự tin vào khả năng ước lượng khoảng cách của cặp mắt mỗi khi cần vào một chỗ đậu xe hơi chật, sợ cọ quẹt, nên ông bắt đầu thấy cái xe Lexus 450 của ông không thích hợp với ông nữa.

Gần đây, ông nghe bạn bè kháo nhau xe Honda kiểu Civic đời 2020 rất đẹp, đầy đủ tiện nghi, thoáng nhìn sang trọng không kém kiểu xe đắt tiền, mua mới từ dealer ra chỉ trên dưới $20,000, xài xăng thường, đổ đầy bình chỉ $20 một lần, bảo hiểm cũng rẻ, bảo trì càng không tốn vì hợp đồng bảo trì miễn phí của dealer có lẽ dài hơn số năm tháng còn lại của ông, chưa kể xe nhỏ nhắn, vào ra parking dễ dàng. Ông đang tính bữa nào chờ có đợt xeo (sales), sẽ ra Honda World đổi một chiếc.

Lúc mới dọn vào khu mobile home trên đường Bolsa, thấy chợ Mỹ, chợ Việt đều gần, ông sung lắm, tự đi chợ và nấu nướng. Được ít ngày, một bữa ông đang ngồi xem ti vi, thoáng thấy có lửa cháy trên màn hình, ông hơi ngỡ ngàng, chưa biết là chuyện gì thì ông nghe mùi khét. Quay nhìn vào bếp, ông hết hồn thấy lửa đang phừng phừng. May phước đầu óc còn tỉnh táo, ông phóng ba bước tới cái lò và nhanh tay vặn cái nút tắt.

Sau lần đó, lớp thì cọ rửa soong nồi, lớp lau bếp bắt mệt, may là máy báo khói chưa hú chớ không cả xóm kinh động rồi, ông quyết định thôi không nấu nướng nữa mà ăn cơm phần hay cơm chợ cho khỏe. Ngày nào ưa ăn ngon thì đi kéo ghế. Tủ lạnh nhà ông lúc nào cũng có chả lụa, chả chiên; tủ pantry thì đầy oat meal, súp hộp và mì gói, không bao giờ sợ cơ lỡ.

Thức ăn giải quyết được rồi nhưng ông nói ăn một mình buồn quá, nhiều khi nghẹn ngào muốn buông đũa, buông chén. Ông than không có gì chán hơn là cứ lui cui cặm cụi gắp, nhai, nuốt một mình, xung quanh vắng lặng không tiếng người, không cả tiếng dép hay tiếng rót một ly nước. Có bữa ông bưng cái tô vừa cơm vừa thức ăn ra đứng bên cửa sổ bếp, ngó mông ra ngoài, thử coi có gì vui không nhưng cũng đâu có gì vui?

Cư xá của ông toàn người cao niên, vắng cả tiếng trẻ con nô đùa. Cụ Nguyễn Du chẳng đã từng hạ bút viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!” ư? Trong trí tưởng ông, thấp thoáng hiện lên quang cảnh gia đình đông vui ngày nào, vợ ông tươi mát như một bông huệ tây, ngồi giữa đám cháu nội ngoại lau hau, đứa này níu tay ông, đứa kia níu tay bà, om xòm tiếng Anh tiếng Việt, grand ma, grand pa, bà ngại, ông ngại, hỏi một trăm câu hỏi mà ông chỉ trả lời qua loa rồi bán cái cho bà, bà không biết sao thì lại chỉ qua ông.

Riêng ông chốc chốc nhìn đồng hồ, chỉ mong sao đến giờ, bố mẹ chúng tới đón hết đám trẻ của từng nhà về để trả lại ông bà ngôi nhà yên tĩnh trong buổi chiều. Trong khi bà kiên nhẫn dọn dẹp đồ chơi và thức ăn thừa mứa do lũ trẻ bỏ lại, ông ngồi duỗi chân xem ti vi tin tức hay ca nhạc, chờ bữa ăn tối ngon lành, nóng sốt, thay đổi hàng ngày nhờ bàn tay của bà.

Bây giờ, ông đảo mắt nhìn một lượt căn nhà sạch sẽ, sàn gỗ không một cọng rác, một mẩu giấy vụn, bàn ghế ngay ngắn, đồ đạc đâu vào đấy, trật tự, lạnh lẽo như chưa từng xô động, như không có ai ở, ông thấm ngấm đến tận xương tủy cảm giác hiu quạnh lạ thường. Đàn cháu nội ngoại ngày nào ríu rít như chim, nay đã trưởng thành, vào/ra đại học hết. Thỉnh thoảng có đứa còn nhớ ông, điện thoại hỏi thăm, tới chở ông ra phố uống cà phê hay ăn chè, khiến ông vui cả ngày.

Bạn bè cũ biết ông thích hát, có người rủ ông đi karaoke buổi tối ở các câu lạc bộ khiêu vũ. Ông theo họ đi giải trí cho quên bớt thời giờ trống trải nhưng trở ngại của ông là ông thích hát song không thích nhảy đầm. Hát xong vòng đầu, ông phải chờ khá lâu mới đến vòng nhì và sẽ về khuya lắm, ông sẽ mất ngủ vì quá giấc rồi lại phải uống thuốc ngủ mà ông thì rất sợ bị nghiện. Vì vậy, ông không đi thường xuyên như lúc bắt đầu nữa, đành chấp nhận nhiều hôm một mình đối bóng với đêm trường.

Năm nay ông đã ngoài 80 nhưng 10 năm trước ông chỉ mới ngoài 70. Chẳng phải ông vì lễ giáo của tông môn và sợ miệng đời mai mỉa mà nhắm mắt bỏ qua cơ hội đi tìm kiếm một hạnh phúc cho quãng đời còn lại của ông ư?

Như gia chủ buổi họp mặt bằng hữu hôm nay cũng ngoài 70 khi hai ông bà gặp nhau trong tình cảnh góa bụa, hiểu ra họ cần nhau và quyết định tạo dựng một mái ấm chung với con cái hai bên đều đồng thuận chọn lựa của bố mẹ. Họ vui lòng trả giá để có những buổi sáng thức dậy cùng nhau đón mặt trời và nghe chim hót trong vườn, ngồi bên nhau uống tách cà phê thơm đầu ngày, ăn món điểm tâm tùy thích, nói năm ba câu chuyện trên trời dưới biển đem lại cho nhau những tràng cười sảng khoái.

Tại sao khước từ những ngụm mật ngọt ấy, cái hạnh phúc ấm êm cận kề ấy mà nghĩ rằng mình khôn ngoan? Thật ra, chỉ vì vẩn vơ lo sợ những điều mình không biết trước và biết chắc có xảy ra hay không? Mà nếu biết trước và biết chắc, liệu có tránh được không, ngay cả xoay chuyển chúng được không? Ở chặng đường cuối một đời người, không ai còn nhiều thời gian phí uổng nữa nhưng có lẽ phí uổng là cách giải quyết dễ nhất khi không có nhiều chọn lựa.

Trên cõi trần gian nhiều phiền trược này, chỉ nghe con người phàn nàn đời không một ngày hạnh phúc nhưng không nghe ai thở than đã một thời hạnh phúc cho dù sau đó, như bầu trời mưa nắng bất thường, vạn vật đổi thay và hạnh phúc cũng sang trang…

Riêng ông, hoàn cảnh có khắc nghiệt hơn vì bà đang ở nhà dưỡng lão. Hằng ngày vào thăm bà, nhìn vào đôi mắt trống vắng, lạnh băng của bà, cầm hai bàn tay bà ấm thân nhiệt, không ấm một dấu hiệu cảm xúc, ông nghẹn ngào nói thầm: “Em ơi, em đã trả lại mọi buồn vui cho đời, không còn bận tâm chi nữa, có biết là anh rất khổ không?” Ông hỏi rồi ông tự nghiệm ra câu trả lời, không ai có thể giúp ông một câu trả lời nào khác.

Mỗi ngày qua, hết chiều đến đêm, hết những công việc phải chu toàn cho mình trong cuộc sống như một bổn phận không thể chối từ, ông ngồi trên ghế bành, mở ti vi cho có tiếng người, không xem, không nghe. Mở nhạc để âm thanh cho ông sự êm dịu trong căn nhà lạ dù ông đã ở đây gần ba năm. Nó không cho ông một hồi ức nào nên không có gì gắn bó.

Ông thèm một tách trà thơm, một ly cà phê nóng nhưng ông ngồi yên vị tại chỗ vì biết những thú vui nhỏ ấy sẽ làm ông mất ngủ. Con đường của người già là con đường trong những bức tranh hay tấm hình vẽ hoặc chụp viễn cảnh, hun hút, thu hẹp dần trong mắt nhìn.

Ông chợt mỉm cười nhớ lại câu nói bâng quơ của người bạn đồng cảnh, thốt lên trong một cuộc họp mặt anh em: “Mai mốt chắc là phải đặt mua robot của Nhật.” Câu nói nhỏ, tan vào đám đông huyên náo. Ông ngồi gần, nên lọt tai. Không biết có ai cũng lọt tai câu nói như ông nhưng cũng như ông, đã cất riêng cho mình như lời tự thú về một mơ ước không tiện bày tỏ?

Đôi mắt ông nhìn mông lung ra xung quanh, chạm vào cái kệ sách chỉ còn lại ít sách quý ông mang theo tới đây, ngậm ngùi hình dung ra đời mình như cuốn sách, nay cũng đang khép lại trên án thư. Các nhân vật có vai trò đã xuất hiện, đã làm xong nhiệm vụ, đã bước ra, chỉ còn ông ở trang cuối cùng chờ cơn gió nhân duyên thổi tắt ngọn nến từ bi trong thời kinh Bát Nhã ông tụng hằng đêm, đóng lại giùm ông cuốn sách sẽ được xếp lên kệ rồi bỏ quên như chưa từng hiện diện.

May be an image of one or more people, people sitting and indoor

 Có ÔNG TRỜI, Niềm Tin Của Dân Việt 

 Có ÔNG TRỜI, Niềm Tin Của Dân Việt 

Nguyễn Hy Vọng

Bàn thờ ông trời ngoài sân trước

  1. Bạn trẻ thắc mắc:

Người ở từ đâu đến địa cầu?

Rồi khi mãn kiếp lại về đâu?

Mênh mông chỉ thấy bầu trời rộng!

Mù mịt như ngồi đáy giếng sâu!

Hỡi ơi sống để làm chi vậy?

Mà cứ đua nhau chuốc việc sầu?

Người già suy tư:

Ngồi mà ngẫm nghĩ thân tôi,

Đâu là ý nghĩa cuộc đời chóng qua?

Nơi đây ai dựng tôi ra?

Nơi đây tôi sống để mà làm chi?

Đời qua còn lại những gì?

Xuôi tay nhắm măt tôi thì đi đâu?

Hai bài thơ trên của một trẻ, một già, nhưng cùng một nỗi khắc khoải: Tôi từ đâu đến? Cuộc đời này có ý nghĩa gì? Tôi sẽ về đâu, khi vĩnh biệt cõi tạm trần gian? Mấy câu hỏi đó bộc lộ con người có linh hồn.

Súc vật không có linh hồn, chúng có nhu cầu ăn, uống, đòi hỏi của thân xác. Súc vật không có tôn giáo, không có khoa học, văn chương, hội họa, âm nhạc… Mỗi loài vật có bản năng khác nhau, do Trời ban cho chúng, và suốt đời chúng sống theo bản năng. Từ khi có loài vật trên mặt đất, cho đến tận thế, chúng không có sự tiến bộ: cá lớn vẫn nuốt cá bé; cọp, sư tử vẫn vồ nai, dê, bò..; ngựa vẫn kéo xe; trâu, bò kéo cầy; chim làm tổ bằng rơm, rạ; loài khỉ vẫn chỉ biết kêu en éc và hái trái trên cây để ăn v.v.. Loài vật là rôbô của Trời.

Loài người có linh hồn, có tình yêu, có giận hờn, có tôn giáo, có khoa học, âm nhạc, hội họa, văn chương… Loài người là sinh vật siêu đẳng, hơn rất xa loài vật và cỏ cây.

  1. Người Việt tin có Ông TRỜI

Khi Khổng, Lão, Phật giáo… chưa du nhập nước ta, người Việt đã tin có ÔNG TRỜI là Đấng Chí Cao bảo tồn vạn vật; ban ơn cho người lành, phạt kẻ gian ác. Người Việt còn gọi Ông Trời là Ông Thiên, Thượng Đế, Đức Chúa Trời, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, Đấng Sáng Tạo….

Nhiều gia đình có bàn thờ tổ tiên trong nhà để tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ đã khuất; và một bàn thờ ngoài sân để cầu khẩn với Trời. Các vua cũng bày tỏ sự tôn kính, biết ơn và cầu khẩn với Trời, như Lễ Tế Trời (Lễ Nam Giao) để tạ ơn Trời khi đất nước thịnh vượng, bình an. Tạ lỗi với Trời, xin mưa khi hạn hán. Ca dao, thơ văn, chuyện tích nói lên niềm tin này:

*Trời cao có mắt

*Trời sinh voi, Trời sinh cỏ

*Trời sinh, Trời dưỡng

*Trời đánh còn tránh miếng ăn.

*Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính.

*Trời cho ai nấy hưởng; Trời gọi ai, nấy dạ

*Sống nhờ ơn Trời, chết về chầu Trời.

*Trời cho không ai thấy, Trời lấy không ai hay.

*Trời nào có phụ ai đâu; Hay làm thì giàu, có chí thì nên.

*Trời cho hơn lo làm. Chỉ có Trời cứu.

*Mong đèn Trời soi xét. Có Trời chứng giám.

*Không có Trời, ai ở với ai?

*Trời quả báo, ăn cháo gẫy răng,

Ăn cơm gẫy đũa, xỉa răng gẫy hàm.

*Phí của Trời, mười đời chẳng có,

Biết ơn Trời, mười đời chẳng khó.

*Chê của nào, Trời trao của ấy.

*Trời đánh còn tránh miếng ăn.

*Trời sinh con mắt là gương,

Người ghét ít ngó, người thương ngó hoài.

*Trời cao đất rộng, em vọng lời nguyền:

Đất trời còn đó, em nguyện giữ tròn thủy chung.

*Lưới Trời lồng lộng, thưa mà không lọt.

*Thiên bất dung gian. (Trời không dung thứ kẻ gian ác)

*Thiên sinh vạn vật, duy nhân tối linh (Trời sinh ra muôn loài, loài người là khôn hơn hết)

*Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần (Giàu to do Trời cho, giàu nhỏ do cần kiệm)

*Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên. (Người mưu kế, thành bại do Trời định đoạt)

*Thuận Thiên giã tồn, nghịch Thiên giã vong (Theo Trời thì sinh tồn, nghịch Trời thì diệt vong)

*Ở hiền thì lại gặp lành, những người nhân đức Trời dành phúc cho.

*Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân (Trời không phụ người có lòng tốt)

*Duyên ba sinh Trời đã dành sẵn (duyên vợ chồng do Trời sắp đặt)

*Trên rừng có cây bong kiểng,

Dưới biển có cá hóa long,

Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong,

Anh đi Lục tỉnh giáp vòng,

Tới đây, Trời khiến cho lòng thương em.

*Ơn Trời mưa nắng phải thì,

Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu,

Công lênh chẳng quản dài lâu,

Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.

*Lạy Trời mưa xuống,

Lấy nước tôi uống,

Lấy ruộng tôi cầy,

Lấy đầy bát cơm…

*Nhờ Trời mưa thuận gió hòa,

Nào cầy, nào cấy trẻ già đua nhau;

Lạy Trời mưa thuận gió đều,

Cho đồng lúa tốt, cho chìu lòng em.

*Làm trai quyết chí tu thân,

Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.

Khi nên, Trời giúp công cho,

Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào,

Trời sinh Trời chẳng phụ nào,

Phong vân gặp hội anh hào ra tay,

Trí khôn rắp để dạ này,

Có công mài sắt, có ngày nên kim.

*Con chim nó hót trên cành,

nếu Trời không có, có mình làm sao?

Con chim nó hót trên cao,

nếu Trời không có, làm sao có mình?

*Ngẫm hay muôn sự tại Trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân,

bắt phong trần phải phong trần,

cho thanh cao mới được phần thanh cao…

*Duy nhất Thiên Chủ hữu Tam Vị,

Thánh Phụ, Thánh Tử, Thánh Thần Thị,

Tạo thành vạn vật, Tể càn khôn,

Toàn tri, toàn năng, toàn thiện mỹ.

*Dù ai nói ngược nói xuôi,

Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng,

Dù ai chác lợi mua danh,

Miễn ta, ta được đạo lành thì thôi

*Lòng Trời lượng cả bao dung

Biêt rồi không lẽ mà không trở về

Xưa kia chỉ biết kêu ‘Trời’

Ngày nay lại biết rằng: ‘Trời là Cha’

Trần gian chưa phải là nhà

Thiên đàng vĩnh phúc mới là chính quê.

*Chữ rằng sinh ký tử quy

Nghiã là sống gửi thác về đời sau.

Biết Trời thưởng phạt sau này

Muốn sau được thưởng thì rầy phải lo

Gắng công, Trời giúp công cho

Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.

*Mọi sự ở trên đời

Rồi mai rồi cũng hết

Việc lành dữ mà thôi

Sẽ theo ta khi chết.

*Thiên đàng địa ngục hai bên

Ai khôn thì nhờ, ai dại thì sa

Đêm ngày nhớ Chúa là Cha

Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn

Linh hồn phải giữ linh hồn

Đến khi lià xác được lên Thiên đàng…

An Tiêm là một người thông minh lanh lợi, được Vua Hùng Vương thương mến và gã con gái nuôi. An Tiêm khéo trang hoàng nhà cửa xinh đẹp. Các quan khen thì An Tiêm khiêm tốn nói là do ơn Trời ban. Các quan có lòng ganh tị, nên trình với Vua: “An Tiêm là kẻ vô ơn, được Vua ban cho nhiều của cải, bổng lộc mà không biết ơn, lúc nào cũng bảo là ơn Trời ban.”

Vua nghe được thì nổi giận và đày vợ chồng An Tiêm ra đảo hoang. Đến đảo, vợ An Tiêm nói với chồng: “Thức ăn Vua cho chỉ đủ trong vài tháng, sau đó thì làm sao mà sống?”

An Tiêm đáp: “Trời sinh, Trời dưỡng”.

Một ngày nọ nghe tiếng chim kêu, An Tiêm chạy đến thì chúng bay đi và nhả lại những hạt đen. An Tiêm đem vùi xuống đất và tưới nước. Thời gian sau chúng mọc thành những dây bò lan xanh tốt và có những trái lớn. An Tiêm bổ ra, thấy trong ruột đỏ; ăn thì thấy ngon ngọt. An Tiêm nói với vợ: “Đây là của Trời cho”.

Từ đó, vợ chồng trồng nhiều để làm của ăn.

Một hôm có thuyền đánh cá vì gió lớn phải tấp vào đảo. An Tiêm cho người trên thuyền ăn những trái họ trồng. Vì thích trái cây của An Tiêm, nhiều người đã mang gạo, thịt, vật dụng… ra đổi. Vợ An Tiêm nói với chồng, “Trời nuôi chúng ta”.

Ít năm sau, Vua sai người ra hoang đảo để xem vợ chồng An Tiêm sống chết ra sao, thì được biết: vợ chồng An Tiêm sống sung túc. Vua cho là chuyện lạ, bèn cho hai vợ chồng trở về thuật lại những gì đã xảy ra. Nghe xong, Vua nói: “Trời đã nuôi chúng nó thật”.

Trong lúc khát nước, Vua ăn trái cây do vợ chồng An Tiêm mang từ đảo về thì thích lắm. Vua cho là trái cây qúy, nên truyền trồng ở nhiều nơi. Trái cây đó là qủa Dưa Hấu mà chúng ta được hưởng ngày nay, đặc biệt là món ăn không thể thiếu trong mấy ngày Tết.

Nguyễn Hy Vọng

May be an image of tree and outdoors

THANK YOU AUSTRALIA

THANK YOU AUSTRALIA

Mary Reibey là một cô gái sinh năm 1777 ở Anh. Mới hai tuổi đã mất cả cha lẫn mẹ rồi lớn lên trong trại mồ côi. Trốn chạy cuộc sống khắc nghiệt đói khát và cực khổ, Mary trở thành đứa trẻ bụi đời bất hảo, chẳng bao lâu cũng sa lưới pháp luật. Năm 1791, Mary mới 14 tuổi bị bắt vì tội trộm ngựa, cộng với nhân thân lắm tiền sự, Mary bị xử án 7 năm lưu đày sang Úc, lúc bấy giờ là đảo nhà tù của Anh. Sau một năm lênh đênh trên chuyến tàu biệt xứ, Mary cập bến Sydney năm 1792 khi mới 15 tuổi.

Mary cùng các bạn tù trở thành nhân công ở nơi ‘hoang đảo’ đất rộng mà ít người, nên tù nhân được tự do đi làm thuê để nuôi thân và được khuyến khích ở lại định cư khi mãn hạn tù. Trong một lần làm bốc vác cho tàu chở hàng Britannia của Anh cập bến Sydney, cô gái 17 tuổi dán mắt nhìn chàng sĩ quan trẻ hào hoa trong bộ cánh hải quân màu trắng, như nhìn thấy hoàng tử hiện ra từ cổ tích. Thomas Reibey cũng không thể không thấy ánh mắt ngưỡng mộ, nồng nàn say mê của cô gái trẻ khỏe mạnh đầy vẻ hoạt bát tự tin mà cũng rất xinh xắn. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, tình yêu nảy nở giữa hai người trẻ xa quê và việc thành hôn với Mary cũng là bước ngoặt để Thomas quyết định rời tầu ở lại thành phố cảng Sydney chung sống với nàng.

Nhờ chính sách khuyến khích định cư và tăng trưởng dân số ở xứ thuộc địa xa xôi của Anh quốc, đôi vợ chồng trẻ được chính phủ cấp đất ở vùng Hawkesbury lúc đó còn hoang vắng làm nhà ở và trang trại. Với kinh nghiệm chạy tầu, lại có nhà ngay vùng cửa sông, Thomas mở đường tàu thủy chạy đường sông từ Hawkesbury tới Sydney. Làm ăn khấm khá, họ mua đất đai mở rộng trang trại, kinh doanh bất động sản, xây cất nhà cửa ở Sydney. Trở nên giàu có, ông bà đóng được chiếc tàu hàng Mercury kinh doanh đường tàu chạy viễn dương chở hàng từ Australia tới các đảo trên biển Thái Bình dương.

Sau khi chồng mất, Mary một tay cáng đáng gia đình 7 đứa con, một tay cai quản mở rộng hoạt động kinh doanh còn lớn mạnh hơn trước. Mary nổi tiếng là một doanh nhân thành đạt nhờ khả năng nhậy bén và các quyết định khôn ngoan. Bà cũng là người dấn thân làm việc thiện nguyện cho nhà thờ và đóng góp tiền bạc cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt cho phụ nữ và trẻ em. Bà tham gia hội đồng quản trị và trực tiếp dạy học các trường nữ để động viên các cô gái trẻ vươn lên giành lấy cơ hội thành công. Bà không bao giờ trở về Anh mà sống ở Sydney cho tới ngày bà mất vào năm 1855, thọ 78 tuổi. Ngày nay người ta vẫn bảo phụ nữ ở Australia được trọng vọng vào hàng số một, cũng là nhờ tấm gương của những người đi tiên phong như Mary Reibey.

Mary Reibey là người có công mở mang xây dựng và doanh thương, làm lợi cho gia đình và làm lợi cho quốc gia còn có công lao đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà. Hình ảnh bà được trang trọng in trên tờ tiền $20 với họ tên bà ở dưới ảnh và chữ ký của bà bên phải ảnh. Như nhắc nhở tới sự thành đạt của bà, bên trái khung ảnh là chiếc thuyền buồm Mercury và bên phải khung ảnh là tòa nhà do bà làm chủ tọa lạc trên đường George Street (ngày nay là con đường trục chính đắt giá nhất ở trung tâm thành phố Sydney).

Nhân ngày Australia Day hôm qua. Xin cảm ơn nước Úc rất đỗi nhân từ và vô cùng bao dung cho người nhập cư, dù là ai, dù lý lịch ra sao, đều được xây dựng sự nghiệp và đóng góp cho xã hội, lại còn có cả cơ hội vô song là có mặt trên tờ tiền nơi quê hương mới.

– Sưu tầm

O Lựu – Hương Thủy

O Lựu – Hương Thủy

truyện ngắn

Trích trong trang web” QUẢNG TRỊ BẮC CALI”

Năm tôi lên chín tuổi, mẹ mất. Chị Cả đi lấy chồng xa, chị Hai còn dại lại đang cắp sách đến trường, Ba tôi nhờ người bác tìm hộ một người giúp việc. Và o Lựu xuất hiện trong gia đình.

O Lựu người làng Bồ Bản, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nhà nghèo lại đông con, mẹ o quyết định cho o lên tỉnh “đi ở ” kiếm chút vốn và cũng để bớt một miệng ăn. Năm ấy o vừa mười sáu tuổi.

Không giống những người làm ruộng vất vả khác, o Lựu có nước da trắng xanh, đuôi mắt dài, tóc chấm vai được cặp lại bằng một cái kẹp ba lá. Vào nhà được mươi lăm phút, o đã tất tả tìm cái chổi que quét dọn bếp núc.

Có o Lựu, tôi khỏi phải ăn những bát cơm nửa sống nửa chín do chị Hai nấu, anh tôi không còn nhăn mặt trước dĩa chả trứng khét lẹt và ba tôi đã có ấm nước sôi pha trà buổi sáng. O dạy chị tôi “xuốc cươi thì phải khom người xuống”, dặn tôi “đừng leo cây ổi mà bổ lọi tay.”

Mất mẹ lúc còn quá nhỏ, ba luôn nghiêm nghị, ít khi biểu hiện tình cảm ra bên ngoài, tôi chỉ còn o Lựu để nhỏng nhẽo. “ O Lựu rửa chân cho em…O Lựu cõng em đi chợ…O Lựu con mèo cào em”…Tai quái hơn, tôi còn bắt o làm bò cho mình cởi và khi muốn “bò ” ngừng lại, tôi đấm thình thịch vào lưng. O lẵng lặng chiều theo ý tôi, không một lời phàn nàn.

Đêm đêm khi gãi lưng cho tôi ngủ, o hay kể chuyện làng mình. Chuyện đền thờ Thần Hoàng có cây đa cao vút với con tinh áo trắng chuyên dọa người đi qua; chuyện bà lão hiền lành nhặt được cục vàng khi mò cua ngoài ruộng…Thỉnh thoảng, o lại đọc những câu ca dao mang âm điệu buồn bã “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” hoặc “Chèo đò bẻ bắp bên sông. Bắp chưa có trái bẻ bông chèo về”…Tất cả ru tôi vào giấc ngủ êm đềm không mộng mị.

An phận thủ thường như những người giúp việc khác nhưng o Lựu lại có một sở thích kỳ lạ: thích chụp ảnh. Hè năm đó, cậu tôi ở Huế ra chơi đem theo cái máy ảnh Canon và chụp cho hầu hết các thành viên trong gia đình nhằm mục đích trau dồi tay nghề tài tử.Thấy sự hiền lành của o Lựu, cậu có nhã ý chụp cho o một tấm hình dưới gốc cây ổi. Ảnh sang ra, o trang trọng đón nhận bằng cả hai tay.

O mua cho tôi một đồng kẹo Gia Địa và năn nỉ tôi viết cho hai chữ “Kỷ niệm” ngòng ngoèo đằng sau ảnh. Những ngày tiếp , o thể hiện sự biết ơn của mình một cách thầm lặng: giặt sạch bộ đồ nhà binh dày cộp , cắm cúi đánh bóng đôi giày “ trấn thủ lưu đồn” của cậu. O xin tờ giấy bóng kính, bao tấm ảnh và cẩn thận xếp nó vào đáy rương. Những buổi trưa rổi rãnh, ngồi sau hiên nhà bếp, o lôi ra ngắm nghía say sưa .

Dưới đôi mắt một đứa con nít như tôi, tấm ảnh chẳng có chi xuất sắc nếu không nói là xấu bởi vì o Lựu trong hình bị xén mất một chân. O nói dưới làng chỉ có nhà giàu mới dám lên tỉnh chụp bóng để sau này có ảnh mà thờ. O ao ước phải chi có nhiều tiền sẽ ra chụp một cái hình màu ở tiệm LIDO ngoài chợ tỉnh.

Mỗi năm o Lựu được về thăm nhà một lần vào ngày hai bảy tháng Chạp. Khi đó o mặc chiếc áo dài xanh của chị Cả tôi cho, đi đôi guốc mộc, đầu đội nón lá. Tiền công xá ba tôi đưa, o gói trong chiếc khăn mùi xoa và lận vào lưng quần. O xin anh tôi mấy cuốn tạp chí Thế giới tự do về cho em dán trên vách nhà. Vắng o, tôi bần thần cả mấy ngày Tết. Năm nào o lên muộn, ngồi trong lớp tôi sốt ruột sốt gan. Và thật sung sướng khi đi học về đã thấy o Lựu trong nhà bếp. O đem lên làm quà những củ khoai từ đầy bột, mớ khoai lang tươm mật và những trái khế vàng ươm.Trước vẻ mặt phụng phịu của tôi, o hứa lần sau sẽ lên nhanh, sẽ xin cho tôi về Bồ Bản, một làng quê nghèo có lũy tre xanh, có động cát trắng với bao nhiêu là sim, móc và những bông hoa chạc chìu thơm ngát.

Một hôm, tôi nằm ở nhà trên, say sưa dán mắt vào cuốn “Lửa cháy thành Phiên Ngung” thì o Lựu đi chợ về. Đã hơi trưa, o gọi vọng lên nhờ tôi lấy giúp cái kéo cắt râu tôm kịp nấu canh cho ba tôi về ăn. Mê mải với chàng trai Hoàng Anh Kiệt hào hùng, o giục giã vài ba lượt tôi mới nhỏm dậy làu bàu rồi vơ cây kéo chạy vội xuống nhà bếp ném đại về phía o đang lúi húi. Cây kéo không rơi xuống đất mà lại phi thẳng một đường vào trán, dòng máu đỏ tuôn ra. O cúi xuống, gục mặt vào đầu gối để cầm máu.Tôi hoảng hồn đứng lặng. Anh tôi vội vã lấy bông và thuốc đỏ rịt vết thương.Trưa hôm ấy khi thấy trán o bị băng, ba tôi hỏi nguyên do, o nói trớ là bị va đầu vào cột nhà. O đã giúp tôi thoát khỏi trận đòn chắc chắn sẽ xảy ra. Sau đó trên trán o có một vết sẹo khoảng ba phân vắt ngang.

O Lựu ở với chúng tôi được 4 năm. Khi tôi vừa lên lớp đệ lục thì mạ o lên xin cho o về làng để “lấy dôông”. Ở nhà quê, hai mươi mà chưa có “dôông”là coi như ế. Tôi nằng nặc không cho o về. Mặc kệ cây roi mây và lời dậm dọa của ba, mặc kệ lời dụ dỗ và những trái khế ngọt của mạ o, tôi ôm o chặt cứng. Đêm ấy, trước khi đi ngủ tôi lấy cái khăn buộc chặt tay tôi vào tay o nhưng sáng mai thức dậy o đã đi từ lúc nào. O để lại cho tôi năm đồng bạc mới trên gối. Tôi khóc tỉ tê suốt cả buổi và nhất định sẽ nhờ ai đó chở về làng tìm o. Chị Hai cứ chế diễu tôi vô duyên, không để o Lựu đi lấy chồng.

Nhưng đứa bé 12 tuổi không dễ dàng thực hiện được dự tính. Làng Bồ Bản quá xa so với đôi chân bé nhỏ của tôi. Chiều chiều tôi ngẩn ngơ ra sân ngóng đợi. Có lần, chị tôi đi sinh hoạt Hội Hồng Thập Tự Thị xã đem về tập san Đan Tay, trong đó có một bài thơ của thầy Lê Văn Mãn dạy Sử Địa nói về Bồ Bản. Bài thơ có lẽ không có chi xuất sắc nhưng tôi thuộc nằm lòng vì nó nhắc đến làng o Lựu:

Đường về Bồ Bản không xa

Cách một trái núi với ba quãng đồng

Chưa đi những ngóng cùng trông

Khi về chỉ thấy đồng không tre già

***

Đường về Bồ Bản xa không

Muốn về nơi ấy mà lòng phân vân

Quê nhà vắng vẻ. Trong sân

Hàng cây không lá muôn phần nhớ thương

Phải chi có o Lựu ở đây, nghe tôi đọc chắc o thích lắm.

Rồi thời gian qua… Trường lớp, bạn bè và những cuộc vui cuốn hút tôi. Tôi đã lớn, đã biết đi xe đạp rồi Honda nhưng làng o Lựu trở thành vùng xôi đậu, mất an ninh. Đôi lần nhớ về o Lựu tôi ngậm ngùi. Chắc o đã có một gia đình êm ấm.

Năm 1972 mùa hè chinh chiến, gia đình tôi cũng bỏ Quảng Trị mà đi. Và từ đó tôi không còn dịp quay lại tỉnh lỵ nhỏ bé này.

***

Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm nhưng với cái lý lịch không mấy “sạch sẽ”: Ba “ngụy quyền”; anh trai, anh rể đi “cải tạo”; với cái nhìn không mấy thiện cảm của loại Sinh viên “Cách mạng 30”về một cô gái trước 75 hay mặc váy lên giảng đường; đi “lao động Xã hội chủ nghĩa ”vẫn áo Pull quần Jean “tàn dư Mỹ Ngụy ”, tôi không được bổ nhiệm. Buồn tình tôi bỏ về Đà Lạt.

Thành phố cao nguyên. Những ngày nằm dài ủ ê nghe thông reo. Chị Cả tôi, từ một mệnh phụ đã bước xuống cuộc đời. Đồ đạc trong nhà bán dần hết. Một nách ba con với gánh hàng trên vai, chị tôi vào bán trong Hồ Than Thở. Đây là một thắng cảnh của Đà Lạt. Cạnh đó là Trường Võ Bị Quốc Gia nay đã đổi tên thành Học Viện Lục Quân. Hàng ngày tôi nhìn sang mà lòng ngậm ngùi. Anh rể và anh trai tôi đều xuất thân từ ngôi trường quân sự danh giá này và bây giờ cả hai đều bị lưu đày ở nơi thâm sơn cùng cốc. Cả hai anh đều bị xếp vào loại “ác ôn” khi chọn lựa binh chủng Biệt Động quân với chiếc mũ nâu, cháu tôi khi chơi đánh nhau vẫn quen mồm “Ranger ranger, kill…kill ”…Khách hàng phần đông là những bộ đội “ cách mạng” các miền; thỉnh thoảng có những chuyến xe Saigon của các du khách lãng mạn đi tìm dấu tích của Đồi thông hai mộ một thuở . Sang hơn hết là xe của những cán bộ cao cấp, những đoàn chuyên gia nước ngoài đi ngoạn cảnh mà họ dùng bằng hai từ tối nghĩa “ Thăm quan”. Hàng họ ngoài thuốc lá, bánh kẹo thông thường, chị tôi bày thêm tranh khắc bút lửa, những con cù lần bằng gốc cây… Mặt hàng này du khách hay mua làm kỷ niệm.Tôi thường giúp chị trong khâu bán hàng.

Buổi trưa, úp mặt vào cuốn “Người xa lạ” của A.Camus, tôi lơ mơ buồn bã. Đang miên man nhớ câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Đời tàn trong ngõ hẹp”, tôi giật mình với tiếng reo hớn hở của người bán hàng bên cạnh: “A, khách Tây, khách Tây”. Hầu như các quán hàng đều tỉnh ngủ. Mối “sộp” đây rồi!

Tính sĩ diện vẫn còn khiến tôi không thể chạy theo chèo kéo khách như những người khác.Thôi thì ngồi yên ngâm nga thơ Nguyễn Công Trứ: “ Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất. Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn”. Các cháu ơi! Dì chịu thôi. Chiều nay chúng ta ăn khoai tây vừa mót được dưới Trại Hầm hôm qua chấm với muối vậy.

Gạt những người xúm quanh, một ông Tây bước về gian hàng bé nhỏ của tôi, chăm chú nhìn những bức tranh rồi cúi xuống chọn lựa…

Lạy Chúa, lạy Phật phù hộ! Chị tôi đang đi thăm nuôi anh rể ở trại cải tạo Sông Mao. Gạo trong nhà đã hết. Trống ngực tôi đập nhanh. Bất ngờ, ông Tây hướng về phía nhóm du khách và reo vang như vừa phát hiện một điều gì kỳ thú:

-Honey, come here. I saw your village in the picture…

Người phụ nữ tóc vàng váy đỏ, dáng dấp Á Đông bước tới. Bà ta có vẻ bồi hồi khi ngắm bức tranh có mái tranh với đụn rơm, cánh đồng, con trâu đang gặm cỏ. Bà ngước lên nhìn tôi chăm chú rồi thảng thốt kêu lên…bằng tiếng Việt:

-Bé Ti, bé Ti phải không? O Lựu nì!

Tôi há hốc miệng. O Lựu, người giúp việc năm xưa? Như sợ tôi không tin, người phụ nữ vén tóc trán:

-Vết sẹo nì. O đây, o đây…

Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Sự nhớ thương pha chút tủi hổ làm tôi nghẹn ngào.Tôi gục đầu vào mái tóc o như muốn tìm lại mùi hương thời thơ ấu…

Phút xúc động lắng xuống, o giới thiệu: “Đây là Tim John, chồng o.”

Để mặc ông chồng đứng cười hiền ngơ ngác, o kéo tôi ngồi xuống kể chuyện tháng ngày qua…

Từ giã nhà tôi, o Lựu về làng lấy chồng theo sự sắp xếp của cha mẹ. Chồng o là một anh nông dân hiền lành và chăm chỉ làm ăn. Được hai năm, chưa kịp có con, anh đã chết do một phát đạn ngu ngơ không biết của phe nào khi đang cày bừa trên mảnh ruộng nhà. Rồi làng Bồ Bản chìm ngập trong lửa đạn. Ban ngày lính cộng hòa hành quân bố ráp, ban đêm du kích bò ra hoạt động, dân chúng toàn phải chui hầm.

Trong một trận pháo kích của Cộng quân, nhà o bị sập. Gia đình chết hết, o bị thương nặng được máy bay trực thăng của tổ chức Hồng thập tự đưa ra Hạm đội cứu chữa. Không còn gia đình, làng mạc tan hoang sau trận chiến mùa hè 1972, o Lựu không còn nơi để trở về. Số phận đưa đẩy, Tim John là người phụ tá bác sỹ điều trị cho o đưa o qua Mỹ và họ trở thành vợ chồng…Năm nay,Tim đại diện cho một tổ chức nhân đạo sang giúp đỡ trẻ em khuyết tật Việt Nam do chiến tranh, o theo chồng về thăm quê hương và tình cờ gặp tôi.

Vẫn là sự thương yêu chân tình đối với “ cô chủ nhỏ” của mười năm trước, o Lựu vuốt ve mái tóc tôi, xuýt xoa khi nắn bóp cơ thể gầy guộc thiếu ăn của “bé Ti ” , chảy nước mắt khi nghe anh tôi đi “cải tạo” tận miền núi Hoàng Liên Sơn rừng sâu nước độc và thở dài khi biết chị tôi đang lặn lội đi thăm chồng tù tội. Ôi! Vẫn là một o Lựu chơn chất, hiền lành của ngôi làng Bồ Bản xa xưa.

Lúc chia tay, o tế nhị dúi vào túi áo tôi một cuộn tiền rồi tất tả lên xe. Vẫy tay chào theo tôi không biết là mình đang mơ hay tỉnh. Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy những tờ 100 đô la Mỹ.

Nhờ số tiền của o Lựu , chị tôi từ giã nghề buôn gánh bán bưng. Chị sang một sạp hàng tạp hóa ở chợ Đa lạt, nuôi 3 đứa con ăn học chờ chồng trở về từ trại giam.

Sáu năm sau anh chị cũng ra nước ngoài theo diện HO.Trên đất khách quê người những ngày đầu tiên, anh chị được vợ chồng o Lựu tận tình giúp đỡ.Tiếc rằng do vết thương chiến tranh, o Lựu không thể có con. Vợ chồng o nhận đứa con trai của anh chị tôi làm con đỡ đầu.

Năm ngoái tôi lặng người khi nghe chị tôi gọi điện thoại báo tin o Lựu đã qua đời sau một cơn đột quỵ. Ôi ! O Lựu, bóng mát trên thiên đường ký ức của tôi, ân nhân của gia đình tôi trong cơn khốn cùng…Tôi khóc o như khóc một người thân yêu nhất.

Hương Thủy

  • Xuốc cươi: Quét sân
  • Bổ : Té
  • Lọi tay: Gãy tay

From: Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh

Đêm Nằm Soi Bóng … TRUYỆN NGẮN….Trần Quang Thiệu,

TRUYỆN NGẮN….Trần Quang Thiệu,

***

Đêm Nằm Soi Bóng ….

Trí viết vội cho xong báo cáo cuối tuần, tắt máy PC, vẫy tay chào đồng nghiệp ngồi gần:

– Về nhé anh Tiến. Have a nice weekend, and see you next week.

Tiến ngẩng lên, nhướng mắt nhìn:

– Sao hôm nay về sớm thế? Có mục gì hả?

Trí mim cười:

– Yes sir! Về chuẩn bị sớm mai đi D.C. xem hoa anh đào.

– Thế hả? Nhưng đi một mình buồn chết.

Trí ngần ngừ:

– Đi với người bạn anh ạ.

Tiến bỗng dưng trở nên ngập ngừng:

– Bạn gái hả? Phải cô Ngân không?

Trí có vẻ ngạc nhiên:

– Anh biết cô ấy hả? Vâng, Ngân chưa tới D.C. bao giờ, tháng Tư hoa đào nở bên bờ sông Potomac đẹp vô cùng. Tôi đã tới đó một lần, vẫn còn nhớ mãi.

Tiến xô ghế đứng dậy, tần ngần vỗ vai Trí:

– Tôi gặp anh và Ngân vài lần tại chùa Sư Nữ, anh và cô ấy thường ngồi ngoài vườn chuyện trò, hầu như không chú ý tới ai nên không thấy tôi.

Trí có vẻ ngượng:

– Hoá ra là vậy! Anh biết tên của Ngân nên có lẽ cũng quen cô ấy.

– Không, tôi không quen nhưng biết rất rõ về Ngân vì cô ấy cùng làm một chỗ với nhà tôi. Có điều tôi muốn nói với anh …

Thấy Tiến có vẻ ngần ngừ, Trí dục:

– Có gì anh cứ nói.

Tiến thở dài:

– Anh biết nhiều về gia cảnh của Ngân không?

Trí gật đầu:

– Chúng tôi quen nhau đã vài tháng, cũng biết được ít nhiều.

– Vậy anh biết gì về chồng của Ngân?

– Ngân nói nhiều về đứa con gái đang theo học đại học ở gần đây nhưng hầu như không bao giờ nhắc tới ông chồng. Khi mới quen tôi có hỏi, chi thấy Ngân buồn bã lắc đầu, nước mắt lưng tròng nên tôi đoán là hai vợ chồng đã chia tay trong buồn phiền. Tôi không bao giờ nhắc tới chuyện đó nữa vì sợ làm cô ta buồn thêm, nhất là từ khi tình bạn đã chuyển thành tình yêu.

Tiến lắc đầu, giọng thật ngậm ngùi:

– Không phải vậy đâu. Vợ chồng Ngân vẫn còn sống với nhau. Anh Văn bị stroke, liệt nửa người, miệng méo và một cánh tay co quắp không cử động được, đi lại cũng rất khó khăn, phải chống gậy, dù chỉ quanh quẩn trong nhà. Anh ấy cũng là cựu quân nhân như chúng mình. Tội nghiệp lắm anh ạ!

Mặc cho Trí đứng thẫn thờ, Tiến trở lại ghế ngồi, đưa mắt buồn bã nhìn màn hình PC nhưng hình như không thấy gì trên đó. Biết là mình không nên dính vào chuyện của người khác, Tiến nghĩ thầm, thế nhưng cũng không đành lòng nhìn một người có thời là chiến hữu bây giờ đã mang nỗi đau tàn tật lại còn bị dày vò cho đau thêm. Có nỗi bất hạnh nào lớn hơn thế không hả anh Văn? Nước mắt Tiến muốn trào ra khi nghĩ tới niềm đau xót của một kiếp người.

******

Hôm nay là ngày lễ Vu Lan, xe đậu kín sân chùa Sư Nữ, và khó khăn lắm Trí mới len vào được chính điện, nhưng không tìm được một chỗ trên bàn thờ để đặt giỏ trái cây cúng Phật. Cũng hơn ba năm rồi từ ngày Thúy qua đời, và cũng kể từ ngày đó Trí mới biết tới kinh kệ và chùa chiền. Gần đây bố lại mới mãn phần, Trí lại càng gắn bó với nơi đặt di ảnh của vợ và cha nên thỉnh thoảng Trí vẫn lên chùa thắp nhang cho bố, cho Thúy, và cho lòng mình bớt cô đơn.

Nhìn người đàn ông lúng túng với giỏ trái cây, Ngân nhanh nhẹn tiến lại gần:

– Ông để tôi giúp cho.

Ngân sắp xếp lại những bình hoa và cây trái của khách thập phương bày hỗn độn trên bàn thờ, đỡ giỏ trái cây từ tay Trí, đặt gần lư hương đang nghi ngút khói, và đốt một nén nhang đưa cho Trí:

– Mời ông.

Trí gật đầu cảm ơn người đàn bà, cầm nén nhang, chắp tay nhìn tượng phật Quan Thế Âm khấn thầm. Ngân đứng tránh sang một bên, kín đáo nhìn người đàn ông. Mắt ông ta nhắm hờ, như quên hết những người xung quanh. Chính điện ồn ào thế nhưng ông ta trông sao cô đơn. Không biết ông ta có tìm được niềm thanh thản ở nơi này hay không, Ngân nghĩ thầm, hay là cũng như mình tới đây để tìm quên nhưng khi ra về lại thấy trống vắng với cuộc đời.

Người đàn bà mặc áo dài màu tro, đồng phục của những người tới làm công quả trong chùa, nhưng vẫn đẹp mặn mà với son môi màu cánh sen và làn da trắng phớt nhẹ lớp phấn hồng. Trí nghĩ chắc chắn là người đàn bà ấy phải hãnh diện về nhan sắc của mình, thế nhưng đôi mắt sâu thăm thẳm đó sao lại rất buồn. Chả nhẽ là em cũng như tôi, cũng cô đơn vì vắng bóng những người thân yêu trên đời?

Trí cám ơn người đàn bà thêm một lần nữa trước khi đi vào hậu viện, nơi bày di ảnh của những người đã khuất, để thắp nhang cho vợ, và cho bố. Trí đứng thẫn thờ trong hương khói nhạt nhòa một lúc thật lâu trước khi buồn bã ra về.

Trí gặp lại Ngân ngay tại sân chùa. Ngân đang tiễn một cặp vợ chồng già ra xe, thấy Trí, Ngân mỉm cười:

– Ông không ở lại ăn cơm chay nhà chùa sao?

Trí cười buồn:

– Có một mình thấy lạc lõng trong phòng ăn nên không muốn ở lại.

Ngân nhíu mày:

– Sao lại thế. Đều là tín hữu cả mà. Ông ở lại dùng cơm chay với nhà chùa. Ngân cũng ăn trưa với các anh chị giúp việc ở đây.

Trí tần ngần:

– Thế cho tôi … ngồi chung được không?

Ngân bật cười:

– Dạ được, nhưng ông phải chờ. Bao giờ khách dùng cơm xong mới tới lượt chúng tôi. Chỉ sợ ông đói, chờ không được.

Trí cũng cười:

– Tôi chờ được. Tôi sẽ ngồi ở ghế đá ngoài vườn, khi nào chị Ngân tiếp khách xong cho tôi biết nhé. By the way, tên tôi là Trí.

Ngân mỉm cười gật đầu, giơ tay vẫn chào Trí trước khi trở vào chùa. Trí thẫn thờ nhìn theo, và tự nhiên trong lòng cảm thấy vui vui.

Đã lâu lắm, từ ngày vợ qua đời, hôm nay Trí mới lại ngồi ăn với một người đàn bà. Ngân tự nhiên và tháo vát cứ y như Thúy ngày xưa, tự động đi lấy nước uống và thức ăn cho Trí trong lúc Trí lúng túng ngồi yên tại bàn vì xa lạ. Thấy Trí bối rối, Ngân mỉm cười trấn an:

– Ông không quen ở đây nên không cần “galant”. Ở đây Ngân quen như ở nhà, cuối tuần nào cũng tới chùa giúp việc vì sư cô cũng là người thân.

Trí chỉ biết mỉm cười cám ơn. Ngân ân cần hỏi thăm:

– Ông Trí có hay tới chùa không?

Trí ngừng đũa, gật đầu:

– Cũng thỉnh thoảng vì di ảnh của ông cụ tôi và của nhà tôi đều để ở chùa này.

– Thì ra vậy! Thảo nào trông anh buồn và cô đơn trong đám đông ồn ào. Ngân nhẹ thở dài:

– Đời vô thường, ông nhỉ?

– Có lần sư cô cũng nói với tôi như vậy. Còn đọc cho nghe cả một câu kinh nhưng tôi không nhớ vì chẳng hiểu gì.

Ngân bật cười:

– Như vậy ông Trí phải tới chùa thường hơn, và chịu khó ngồi nghe kinh chứ không được chỉ thắp nhang rồi ra về.

Trí lúng túng đưa tay vuốt tóc, nói như người phạm tội:

– Quả tình trước đây tôi … gần như vô thần. Khi còn nhỏ có theo mẹ lên chùa vài lần, lớn lên bận với cơm áo đời thường, thì giờ đâu mà nghĩ tới Phật pháp. Chỉ từ ngày nhà tôi mất tôi mới biết tới lễ nghi, chùa chiền và kinh kệ. Trừ những bậc chân tu, mọi người chỉ tìm đến tôn giáo vì những bất hạnh của cuộc đời. Tôi nói thế không biết là có thiển cận quá không.

– Có lẽ là thế thật đó ông. Nhưng thôi, tới chùa lễ phật, học được Phật pháp là điều tốt, nhưng chùa chiền cũng là nơi gặp gỡ bạn bè, nơi nẩy sinh tình tương thân tương ái. Ông Trí có tin như thế không?

Trí cười nhẹ:

– Bây giờ thì tôi tin. Hôm nay gặp được chị Ngân, tôi … tôi phải cám ơn cái chùa này!

Ngân dịu dàng:

– Thế chủ nhật tới ông nhớ lên chùa nhé.

– Vâng! Chủ nhật tới, và … chủ nhật tới nữa!

Ngân và Trí cùng nhìn nhau mỉm cuời. Một thoáng vui trong ánh mắt Ngân nhưng chỉ một giây đã trở lại u buồn, cúi xuống nhìn đĩa thức ăn hầu như còn nguyên.

******

Văn ngồi lặng lẽ trong phòng khách, chỉ khẽ nhấc bàn tay như chào hỏi khi thấy Ngân mở cửa, từ chùa trở về. Ngân nhẹ thở dài, đến bên chồng:

– Anh ngồi đây làm gì, sao không nằm nghỉ cho khỏe.

Văn cười buồn:

– Anh mới thức dậy, cũng hơn ba giờ chiều rồi em.

Nhìn mái tóc còn ướt và vài khuy áo chưa cài hết, Ngân dịu dàng:

– Anh mới tắm xong hả? Để em cài lại khuy áo cho anh.

– Ừ. Mấy cái nút chặt quá, chỉ có một tay nên anh cài không được.

Ngân ngậm ngùi ngồi xuống bên chồng, đưa tay vuốt tà áo Văn cho thẳng. Ngày xưa, không cũng chỉ mới vài năm trước đây thôi, nhiều lần Văn tắm xong Ngân thường ngăn không cho Văn cài khuy áo để Ngân có thể úp mặt vào bô ngực nở nang của chồng, hít hà mùi da thịt đàn ông, khúc khích cười hôn nhẹ lên cổ, lên vành tai của Văn để được vòng tay Văn siết chặt, nhấc bổng thân hình đã mềm ra vì ham muốn của Ngân.

Nghĩ tới những giây phút ái ân nồng nàn và cuồng nhiệt của ngày tháng cũ làm hơi thở của Ngân ngắn lại, thế nhưng khi ngước ngước nhìn khuôn mặt Văn, thấy cái miệng méo mó và dòng nước rãi chảy dài từ mép, Ngân bỗng thấy nguội lạnh, chỉ còn biết kín đáo nhẹ thở dài.

Cánh tay co quắp của Văn buông thõng bên mình, cánh tay còn lại để hờ trên vai Ngân. Ước gì, ừ ước gì, anh có thể ôm em trong vòng tay như xưa, rúc đầu trên khuôn ngực trắng hồng, để cho thân xác em run rẩy trong tình yêu lứa đôi.

Tội nghiệp em, em còn quá trẻ, còn yêu đời thế nhưng anh làm gì được cho em? Em biết không, có nhiều lúc anh đã muốn tự kết liễu đời mình, để anh không còn đau khổ, và để em được tự do như chim trời, tình hạnh phúc ở một nơi nào không có anh. Anh chẳng còn gì để lại cho em, cho đứa con gái độc nhất của chúng mình ngoài cái hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.

Nhờ nó em sẽ bớt đi phần nào những lo lắng về cuộc đời, thế nhưng nếu anh tự kết liễu đời mình thì hợp đồng trở thành vô giá trị. Giá mà anh chết đi khi đột qụy thì em không có gánh nặng này. Anh yêu em, nhưng bây giờ anh làm gì được cho em!

Cài xong khua áo cuối cùng cho chồng, Ngân dục:

– Để em đưa anh ra sân sau ngồi chơi. Florida mùa này gió mát. Anh uống gì không để em lấy cho?

Văn vịn tay vào thành coffee table, cố gắng đứng dậy:

– Anh đi một mình được. Cũng mới uống xong tách trà. Thế hôm nay trên chùa có gì lạ không em?

Ngân lắc đầu:

– Cũng không có gì lạ, chỉ đông hơn ngày thường thôi anh.

Ngân nhớ tới khuôn viên nhộn nhịp của chùa, và chợt nhớ tới người đàn ông cô đơn vừa gặp. Chắc ông ta cũng chỉ bằng tuổi Văn, Ngân nghĩ thầm, nhưng thân hình thẳng băng và bờ vai rộng như đang che chở cho người đi cùng. Không biết bây giờ có mái tóc nào ngả trên bờ vai đó, và có cánh tay nào quấn quít ngang lưng. Chắc là không, vì trông ông ấy cũng thật là cô đơn. Như mình! Ngân lại nhẹ thở dài, nhìn theo dáng đi xiêu vẹo của Văn đang cố gắng bước từng bước một với cánh tay co quắp đong đưa bên mình.

*******

Sáng thứ Sáu hãy còn sớm nhưng Ngân đã đi làm còn Văn vẫn nằm trên giường suy nghĩ vẩn vơ, mắt nhìn lên trần nhà trắng xóa như cuộc đời buồn. Có tiếng chuông điện thoại reo. Văn nhìn sang bàn ngủ cạnh giuờng. Không phải điện thoại nhà mà là cell phone của Ngân.

Sáng nay vì vội vàng nên Ngân đã quên điện thoại ở nhà. Điện thoại reo vài lần nhưng Văn không nhấc máy. Văn vẫn tôn trọng những gì riêng tư của vợ, nhất là khi thấy chữ “Private” trên màn hình. Tiếng chuông điện thoại tắt, và Văn lại trở về với những suy nghĩ vẩn vơ, nhưng chỉ vài phút sau tiếng chuông lại reo, cắt đứt dòng suy tư làm Văn hơi bực mình. Vẫn là “private call” nên Văn mặc kệ, tiếng chuông reo mãi rồi cũng thôi, nhưng Văn không còn cảm thấy thoải mái nằm trên giường nên trở dậy làm vệ sinh cá nhân.

Khi trở lại phòng ngủ Văn lại nghe thấy tiếng chuông điện thoại, nhưng chỉ là một tiếng ngắn, báo tin là vừa nhận được “text message”. Văn nghĩ thầm, không biết là có gì quan trọng cần gọi vào sở cho Ngân không nên lóng ngóng nhấc điện thọai mở xem message nhắn gì.

Đọc xong tin nhắn, Văn thừ người ngồi trên mép giuờng, đầu cúi gập. Lại có tiếng chuông điện thoại báo tin là vừa nhận thêm một text message. Văn vẫn ngồi lặng lẽ, mãi một lúc sau mới lê bước chân nặng nề sang phòng ăn.

Bữa ăn sáng Ngân làm sẵn cho Văn nằm chơ vơ trên bàn. Văn đưa mắt nhìn nhưng không đụng tới, vươn tay với chai cognac trên kệ, rót cho mình một ly đầy. Ngồi xuống bàn, Văn run run đưa ly rượu lên môi, nhắm mắt ngửa cổ nốc cạn ly rượu cay đắng như đời mình, nước mắt trào ra và gục đầu trên bàn, nấc nhẹ: “Ta làm gì cho hết nửa đời sau”. [1]

*******

Chiều thứ Sáu Ngân đi làm về chỉ kịp gật đầu chào Văn đang ngồi suy tư tại sofa phòng khách tước khi vội vã vào phòng ngủ tìm điện thoại của mình. Có hai “missed calls” và tin nhắn mới. Tin nhắn cuối cùng do Trí gửi sáng nay, Ngân đưa mắt đọc vội:

“Anh gọi em hai lần nhưng em không bắt máy. Anh không biết điện thoại nào của em khác hơn là số này. Gửi tin nhắn này nữa là hai. Liên lạc với anh ngay nhé, em yêu.”

Ngân thở nhẹ, mở xem tin nhắn trước đó:

“Vé máy bay và khách sạn đã sẵn sàng. 8 giờ sáng mai gặp anh ở phi trường. Nhớ mang theo áo ấm, tháng Tư trời D.C. còn lạnh. Mong em.”

Ngân xóa vội hai tin nhắn, thừ người ngồi xuống giường. Mới đó mà đã mấy tháng từ lần gặp gở đầu tiên trên chùa. Trí lúc nào cũng nhã nhặn và coi trọng Ngân nên tình bạn của hai người mau chóng trở lên đằm thắm, nhưng niềm cô đơn đã mang họ lại gần nhau hơn nên khi Trí tỏ tình, Ngân đã đã không cầm lòng được, gục đầu lên bờ vai rắn chắc, và run rẩy trong vòng tay của người đàn ông.

Trí không biết gì về hoàn cảnh gia đình của Ngân vì có lần hỏi tới Ngân chỉ lắc đầu, rơi nước buồn phiền. Trí không nhắc tới nữa vì sợ chỉ làm Ngân thêm đau, hơn thế nữa tình yêu mới đã làm mắt Trí mờ đi vì hạnh phúc, không nghĩ và không thấy gì ngoài vành môi gợi cảm và vòng tay thiết tha, mặc dù hai người chưa một lần đi tới tận cùng đam mê.

Ngân đã nhiều lần băn khoăn suy nghĩ, nhất là những phút giây qùy gối trước tượng Phật Bà Quan Thế Âm, thế nhưng nghĩ tới bờ vai ấm áp của Trí và căn nhà vắng lặng với bóng dáng nhạt nhoà của Văn, Ngân lại thấy mềm lòng. Tuần rồi gặp nhau tại một quán café vắng vẻ Trí đã ngồi sát vào Ngân, vuốt ve bờ vai thon nhỏ, thủ thỉ những lời êm ái, mong mỏi hai người được sống với nhau một ngày, cho nhau hết những dạt dào nhớ thương, Ngân đã không suy nghĩ mà ngây ngất gật đầu.

Văn vẫn ngồi yên trên ghế xem tin tức buổi chiều như mọi ngày. Bữa cơm tối vẫn xảy ra như thường lệ nhưng Văn ăn ít hơn và vào phòng ngủ sớm hơn. Ngân loay hoay lau rửa bát đĩa, nghĩ ngợi thật nhiều nhưng vẫn chưa biết nói sao với Văn để có lý do vắng mặt cuối tuần. Một lúc lâu lắm Ngân mới bước chân vào phòng ngủ. Văn đã nằm trên giường, quay mặt vào vách nhưng chưa ngủ. Ngân nằm xuống cạnh chồng, gọi nhẹ:

– Anh.

Văn vẫn quay mặt vào tường:

– Chuyện gì vậy Ngân?

Ngân rụt rè:

– Anh … Em muốn đi cùng với chị Tiến cuối tuần này lên D.C. xem hoa anh đào. Được không anh?

Văn vẫn nằm yên, Ngân hồi hộp đợi chờ, và tưởng như là thời gian ngừng trôi. Ngân nuốt nước bọt nói thêm:

– Mai con về nhà, con sẽ “take care” anh khi em đi vắng.

Tiếng Văn vẫn bình thường như mọi ngày:

– Ừ, em đi chơi cho vui. Đã lâu lắm rồi em không đi đâu xa. Thật là tội nghiệp.

Ngân thở ra một hơi dài nhẹ mhõm:

– Cám ơn anh.

Văn xoay người nhìn lên trần nhà, nói một cách từ tốn:

– Nhớ mang theo áo ấm, tháng Tư trời D.C. còn lạnh.

Ngân như thấy một cơn gió lạnh buốt luồn vào sống lưng. “Nhớ mang theo áo ấm, tháng Tư trời D.C. còn lạnh”, như vậy là anh đã đọc tin nhắn của Trí gửi em rồi ư? Anh biết em sắp đi chơi xa với một người đàn ông lạ mà sao anh vẫn bình thản như thể là không có gì xảy ra. Anh khinh em tới độ không đáng nói hay là anh cam chịu làm người tình thua? Tội nghiệp cho em hay là đau xót cho anh? Ngân nằm vật xuống giường, quay mặt vào tường, nước mắt trào ra thấm xuống gối.

Văn vẫn nhắm mắt nằm im lìm. Anh muốn im lặng làm người tình thua, đến một lúc nào đó khi em đã có người nương tựa thì anh sẽ lặng lẽ từ giã thế gian này mà không ân hận vì bỏ lại em bơ vơ với cuộc đời, nhưng anh cũng không muốn em băn khoăn vì đang lừa dối anh nên anh gián tiếp cho em biết là anh bằng lòng để em đi chơi với người em yêu. Bao nhiêu năm rồi em không có một ngày nào vui, tội nghiệp em. Anh biết em có nhu cầu của một người đàn bà mà anh không mang lại được cho em. Em cứ yên tâm, dù thế nào đi nữa anh cũng vẫn yêu em.

Ngân vẫn nằm im khóc âm thầm. Giá mà anh mắng chửi em thì có lẽ em sẽ không đau đớn như lúc này. Em biết anh không phải là người yếu hèn. Từ ngày tàn tật chưa bao giờ anh nói một lời than van. Anh im lìm nhưng em biết là anh rất yêu em. Có những đêm chợt thức giấc thấy anh vuốt tóc em âu yếm, nhưng ánh mắt anh cũng thật là xót xa. Những lúc đó em nghĩ là anh thương cho thân phận mình, nhưng bây giờ thì em biết là anh chỉ tội nghiệp cho em hơn là cho anh.

Ngân nghiêng mình khẽ gọi:

– Anh.

Không có tiếng trả lời. Có lẽ là Văn đã ngủ hay là anh chìm vào trong cơn mê của những ngày chinh chiến cũ như là anh thường kể với em. Ngân nhẹ nhàng ngồi dậy, cầm cell phone đi vào phòng tắm. Mở điện thoại, Ngân nhắn tin cho Trí:

“Xin lỗi anh em sẽ không tới được… Cám ơn anh đã cho em những ngày vui. Vĩnh biệt anh.”

******

Gần 8 giờ vẫn không thấy Ngân ra khỏi nhà, Văn nhắc:

– Muộn rồi đó em.

Ngân mang cho Văn ly cà phê:

– Em đổi ý. Sợ trời lạnh lắm, sống ở Florida nắng ấm bao nhiêu năm em đã quen rồi.

Văn nhìn Ngân đăm đăm không nói. Tội nghiệp anh, mắt anh trũng sâu, chắc là đêm qua anh không ngủ được nhiều. Ngân ngồi xuống sofa cạnh chồng:

– Chút nữa nắng lên em đẩy xe cho anh ra công viên chơi. Dạo này anh xanh xao quá.

Văn vẫn im lặng. Ngân bùi ngùi:

– Anh biết không, sư cô thường hỏi thăm anh. Chủ nhật tuần tới em sẽ đưa anh lên chùa. Nghe kinh kệ như lời ru, dù mình không hiểu nhưng ngửi mùi trầm hương cũng thấy lòng êm ả anh à.

Văn e dè:

– Em không thấy … bất tiện sao?

Ngân biết là Văn định hỏi là em không thấy mắc cở sao nên thở dài, cúi đầu nói nhỏ:

– Em xin lỗi anh. Em đã hiểu …

Và không để cho Văn trả lời, Ngân nói tiếp vội vàng:

– Cuối tháng này mình đổi cái xe nhỏ lấy chiếc xe van để anh lên xuống cho thuận tiện. Rồi chúng mình sẽ có dịp đi chơi xa. Năm tới em sẽ đưa anh sang Cali họp khoá. Bao nhiêu năm rồi anh không gặp bạn bè đồng đội cũ. Kẻ mất người còn, gặp nhau không biết được mấy lần nữa đâu anh.

Văn không nói, chỉ lặng lẽ gật đầu, run run nắm nhẹ bàn tay Ngân. Không biết làm gì cho hết nửa đời sau, nhưng lâu lâu “ông” được gặp “chúng mày” thì có chết cũng vẫn vui.

Văn reo lên trong lòng khi nghĩ tới bạn bè đồng ngũ ngày xưa.

“Giao thừa”

Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

***

“Giao thừa”

Đã thấy mấy vạt hoa vàng loè xoè, đã thấy những trái dưa hấu bóng mẫy thẫm xanh chất tầng tầng trên chợ. Thế là Tết thật rồi. Tết cứ làm người ta nao lên nôn nóng ngóng chờ, rồi lại nuối tiếc cho tuổi xuân qua. Chợ Tết chạy dọc theo các vỉa hè quanh ngã năm, bán toàn dưa với hoa. Vô tình chỗ Đậm bán đối diện với khu nhà đẹp nhất, cao nhất và sầm uất nhất thị xã.

Sau lưng, cách một lớp chì gai oặt quẹo là một bãi cát trống, cỏ xanh theo gió chạy líu ríu từng triền, từng triền mải miết. Cánh bán dưa ra chợ từ 20 tháng chạp, chở từ sáng tới khuya, hịch hụi. Lúc nghỉ mệt tay chống hông ngó qua. Những ngôi nhà cao. Những bảng hiệu sặc sỡ. Đèn đủ thứ mầu. Sang quá. Người ta đợi tết để trang hoàng cho thật đẹp, mà càng đẹp thì cánh bán dưa trong ruộng ra càng buồn.

– « Biết chừng nào mình xây được cái nhà cỡ đó hen? ».

– « Bán dưa, làm ruộng cỡ 40 năm ».

– «Giỡn hoài, cỡ đó thì xuống lỗ rồi còn gì ».

– « Ừ »…

Chỗ Đậm ngồi dưới tán cây còng bị tỉa nhánh chỏng chơ như bàn tay cụt. Bên trái là vạt bông của ông Chín từ miệt Sa Đéc xuống. Và chỉ Đậm là ngồi bán một mình chứ người ta chồng vợ đùm đề, xoong nồi lủ khủ.

Ngày đầu cô chất dưa chưa khéo, dưa cứ ỷ mình tròn, lăn long lóc ra đường. Dưa lăn, người hì hục đuổi theo. Xe cộ giáp Tết đông nghẹt, người ta cười, người ta cằn nhằn. Tủi cực trào lên như người ta nhận cái thùng vô lu nước đầy. Đậm lầm lũi khóc nghẹn.

Đậm 29 tuổi, hơi đen, trên khuôn mặt lam lũ còn sót lại chút duyên ngầm. Chưa thấy chanh chua như đã từng quen chợ. Lúc chở dưa ra, có anh chàng trẻ tuổi cao lỏng khỏng, nước da đen lùi, lúc cười chỉ thấy hơi hới hàm răng, chạy tới làm giúp. Kéo tấm ni-lông che nắng, chặt mấy cây chuối đem ra bao lại cho dưa khỏi lăn, anh chàng cũng giúp. Đậm nằng nặc bảo thôi đi, anh chàng cãi cố: « Tôi tiếp cho, có sao đâu ». Quần anh chàng lấm nhớt, tóc bù xù đỏ quạch như rễ vú sữa.

Già Chín bán bông thắc mắc:

_ Con gái ơi! Bác thấy thằng đó hiền khô hà, ai vậy?

Đậm bảo:

_ Tên Quí, chạy xe lam, ở xóm thôi, bác à.

_ Chà, giỏi, tốt thiệt. Làm hăng vậy tính kiếm tiền để cưới vợ hả?

Anh chàng nghe lóm, cười chéo mắt:

_ Có ai đâu mà cưới, bác.

Ông Chín cười khà khà, vuốt chòm râu cụt ngủn.

Cái nắng xuân kỳ lạ, không gay gắt đỏ, không nhàn nhạt như nắng chiều hè mà vàng thắm thiết như mầu bông sao nhái. Bấc lồng lộng lẫy qua từng ngọn cỏ sau chợ, mang theo mù mịt cát. Mặt mũi đầu tóc Đậm lúc nào cũng nham nhám như hột me rang cát. Người ta quần là áo lượt kìn kìn chạy qua mà chợ dưa với hoa vẫn chưa sôi động. Năm nay dưa trúng mùa cả núi vầy ăn gì cho hết. Người ta nán đợi tới ngày rước ông bà, lúc đó coi dưa có rẻ hơn bây giờ không. Những người bán ngồi chéo queo, buồn teo. Bông vạn thọ, bông cúc trái nết nở bung từng khóm, lái bông than như bọng: « Năm nay chắc thua rồi ».

Đậm bắt chước cánh lái dưa xóm Vàm Xáng, đi chợ mua xấp liễn dán dưa cho bắt mắt khách, tiện thể mua cho bé Lý bộ đồ. Mứt gừng, mứt dừa ở nhà má làm rồi để coi mua gì thêm. Má thì thích bánh ngọt. Con út thích cắn hột dưa, Đậm mua mỗi thứ vài trăm gam. Về khui ra thấy bộ đồ bé Lý hơi lớn, nhưng không sao, lớn thì mặc tới năm sau.

Già Chín hỏi:

– « Đồ ai mà bây ôm ấp vậy? » .

Đậm bảo của con gái con. Hỏi thêm một chút về ba của đứa nhỏ, Đậm cúi mặt thưa:

– « Không có ». Nghĩa là không có.

Ông Chín không phăng tới nữa. Ông già rồi, lăn lộn trên đời, ông biết chắc có chi lầm lỡ.

– « Con lầm lỡ tới mức phải bỏ nhà đi luôn đó, bác Chín à. Tới lúc ba con buồn rồi chết, má mới rước con về. Bây giờ, có cực khổ thế nào con cũng ráng chịu, miễn sao năm tháng cuối đời má con vui. Mà, chắc bù bi nhiêu cũng không đủ ». Sau này, Đậm mở lời. Giọng Đậm khao khao. Cô thấy mình giống như cỏ ven đường, người ta đi qua đạp, đi lại đạp vẫn ngoi lên sống, sống cỗi cằn.

Những mùa lam lũ. Những mùa cực nhọc. Một mình chống chọi. Đàn ông con trai coi được một chút mới lòng vòng ở ngoài đã nghe thiên hạ rần lên: « Thứ gái hư đâm đầu vô làm gì ».

Ai mà muốn, chỉ tại còn nhỏ, thấy gió yêu gió, thấy hoa yêu hoa, đam mê bồng bột. Nghĩ mình học chưa tới đâu nhưng là học những bài học bự nhất, đắt nhất. Đếm đi đếm lại chỉ còn Quí, khi biết được còn mỗi Quí thì Đậm đã sắp 30. Nhà Quí ở Lung Giữa, Quí gửi xe sân nhà cô. Làm một vài chuyện nhỏ như chở Đậm đi chợ không lấy tiền, tiếp Đậm cất cái nhà củi… thì cho là có qua có lại đi.

Nhưng ánh mắt Quí ngày càng nồng nàn trói buộc, bắt Đậm phải day dứt giữa nỗi khát khao và tủi hổ. Quí trai tơ, chưa vợ, lại nhỏ hơn Đậm gần 4 tuổi. Nhưng Quí tốt quá, rất tốt. Má Quí già rồi, than với Đậm hoài, có một mối trong Nhà Phấn Ngọn, coi được lắm, vậy mà biểu thằng Quí cưới vợ mà nó hổng nghe, làm như nó còn chờ ai đâu.

Thời gian bị người ta chở kĩu kịt đi. Khiếp, mới đó đã 29 Tết. Bánh mứt, dưa hành, quần mới, áo mới như nước tràn lên phố. Đây là một thời điểm rộn rịp nhất, phơi phới nhất trong năm. Tết này không có 30, 29 rồi tới mùng một, như người ta bước hụt, thấy thiếu một ngày.

Những khóm vàng hoa của ông Chín nở sớm từ 24, 25 đã ngả mầu vàng sậm. 4 giờ sáng, ông đi qua bên kia đường gánh nước về tưới, than:

– « Thời tiết năm nay kỳ cục quá »

Ông vấn điếu thuốc, phà khói bảo:

– « Con biết không, nghề bán bông tết cũng như bán lồng đèn Trung thu, qua rằm tháng 8 có cho người ta cũng không thèm lấy. Buôn bán kiểu vậy như con gái có thì, qua rồi, khó lắm… »

Ông nói tới đây, thấy Đậm ngẩng đầu ngó sao muộn, ông thôi không nói nữa. Đậm nhớ con gái quá. Nghe Quí đem đồ về lại đem tin ra bảo:

– « Bộ đồ bé Lý mặc vừa lắm, nó đòi ra với Đậm. Buôn bán như vầy cực quá, chở nó ra đây, tội nghiệp… ».

Rồi Quí bảo mớ bông mồng gà Đậm gieo sao mà khéo quá, bông đỏ bông vàng trổ ngay Tết.

Đó là lúc chờ sáng, còn rỗi rãi xẻ dưa mời nhau, chứ ngày 29 là một ngày tất bật, nói theo dân đá banh là thắng với thua. Người mua xúm xa xúm xít. Mới một buổi đã lử lả, Đậm một mình phải coi trước coi sau. Tưởng dưa hấu đắp đập ngăn sông mà đã vợi đi quá nửa. Nhưng chắc phải đợi cho tới giao thừa. Người ta chờ tới đó sẽ rẻ nữa.

Chạy xong mấy chuyến xe buổi sáng, chiều Quí lại giúp. Từ bến xe lam lại đằng chợ chừng 100 m. Quí kêu:

– « Có ai mua nhiều, Đậm hứa đi, tôi chở tới nhà cho ».

Đậm thấy vui, phần thì bớt lo dưa ế, phần thấy nao nao trong lòng. Cái không khí đẹp thế này, ấm thế này, không vui sao được. Quí hỏi: – « Nhà Đậm có gói bánh tét không? ».

Đậm hỏi lại:

– « Có, mà chỉ ».

– « Tôi cho, má tôi gói nhiều lắm ».

Quí mặc áo đứt mất tiêu cái nút trên, lồ lộ ra mảng ngực ráp nắng. Trong Đậm nhiều khi dậy lên một cái gì rưng rức khó tả, chỉ mong nép đầu vào đó để quên nhọc nhằn, để quên nỗi cô độc lùi lũi trong đời.

Lúc ngẩng lên được đã năm mới mất rồi. Nghe được tiếng trống giao thừa vọng về từ trung tâm thị xã. Ở đó có một lễ hội thật tưng bừng. Ông Chín đốt 6 nén nhang, chia cho Đậm nửa, biểu:

– « Con cúng giao thừa đi. Cầu an khang, sức khỏe, cầu năm tới giàu hơn năm nay ».

Mùi nhang thơm trong gió sực lên mũi Đậm một nỗi nhớ nhà. Dù đây về đấy chưa tới một tiếng đi xe. Ở chợ, người muốn về trước giao thừa thì đã bán thốc tháo để về. Những người còn lại cũng cố dọn dẹp làm sao mùng một có mặt ở nhà, pha bình trà cúng tổ tiên.

Ông Chín đứng chỉ huy cho con trai ông bưng mươi chậu hoa còn lại lên xe hàng, quyến luyến:

– « Hồi nãy con tặng bác dưa ăn, giờ bác tặng lại cho con với cậu nhỏ hai chậu cúc đại đóa này. Năm tới, bác có xuống không biết được ngồi gần cháu như vầy không. Cha, đây về Sa Đéc chắc phải nhâm nhi dài dài cho đỡ buồn quá ».

_ Dạ, bác về mạnh giỏi, ăn Tết cho thiệt vui.

Đậm vén tóc, cười, thấy thương ông quá. Ông Chín leo lên xe còn ngoắc Quí lại nói thì thào:

– « Ê cậu nhỏ, tôi nói cậu nghe, ông bà mình có câu:

Ra đường thấy cánh hoa rơi.

Hai tay nâng lấy, cũ người mới ta

Mạnh dạn lên, cậu thương con gái người ta mà cà lơ phất phơ thấy rầu quá. Cháu Đậm, thấy vậy mà như trái dưa, xanh vỏ đỏ lòng ».

Nói rồi xe vọt đi, mấy người nữa lên xe vỗ vào thùng xe thùm thùm như gửi lại lời chào tạm biệt. Khói xe xoắn ra từng ngọn tròn tròn như con cúi. Đậm lui cui quét dọn chỗ của mình, hỏi:

_ Ông Chín nói gì vậy?

_ Đâu có gì _ Quí cười bối rối.

_ Về nghen, chạy xe chất đồ chở về. Biểu Quí đứng chờ mà không nghe, vì tôi mà ngày nay Quí bỏ mấy mối xe, uổng quá.

_ Đâu có gì còn 31 trái dưa…

_ Tôi tặng Quí chục trái ăn dài dài.

Quí cười:

_ Nhà tôi đơn chiếc, có mấy người đâu, ăn gì nhiều vậy.

Những chiếc xe vẫn nối đuôi nhau chạy về phía đại lộ. Lễ hội giao thừa vẫn chưa tan, chưa muốn tan. Người ta vẫn muốn cùng nhau đi hết Tết này. Một vài anh bạn trẻ chạy xe qua, gọi Đậm:

– Nhanh lên chế ơi, trễ rồi. Tết đâu có đợi ».

Lúc Đậm lên xe thì đã qua lâu giao thừa, Đậm ngồi đằng trước ngang với Quí. Xe ra khỏi thị xã, con đường nhỏ lại, vắng hoe. Đậm ngoái lại nơi cô từng nếm sương, nếm nắng, nghe gió. Những đóa cúc sau sàn xe rung rinh những sắc mầu rực rỡ. Quí bảo:

_ Đậm biết cúc đẹp gì không?

Đậm lắc đầu. Quí cười:

_ Lòng chung thủy. « Diệp bất ly chi, hoa bất ly đài ».

_ Ai nói với Quí vậy?

_ Bác Chín. Năm tới, tôi trồng cúc đi bán với Đậm nghen.

Đậm muốn cười, rất muốn cười mà sao nghẹn lại. Làm sao vượt qua những trở ngại trong lòng người. Hai bên đường rập rờn hoa dại. Những đống lửa rơm còn nghi ngút khói, bọn trẻ cơi lên khoe áo mới rồi mỏi mòn đi ngủ.

Quí cho xe chạy thật chậm, nghe gió thổi qua lỗ tai lạnh quánh. Lạnh như khoảng chiếu nửa đêm Quí chạm tay vào, tượng lên một nỗi nhớ rờn rờn lúc mờ lúc tỏ. Những nỗi nhớ phơ phất mái tóc một người, đôi mắt một người, dáng dấp một người. Đến tỉnh dậy vẫn còn bồng bềnh như khói.

Quí nhìn Đậm, ánh nhìn rất lạ. Anh không biết vì một nỗi gì mà tới bây giờ anh chưa nói lời thương với người ta. Anh không ngại đứa con, anh không ngại chuyện lỡ lầm xưa cũ, tuổi tác cũng không thèm nghĩ đến. Cô luống cuống khi thấy chiếc xe chạy chậm dần:

_ À… Ờ… Tết này nữa, Quí bao nhiều tuổi rồi ha?

Quí im lặng, dừng xe hẳn. Lúc này anh thấy cần nắm lấy bàn tay lạnh tái của Đậm, rất cần. Khi ấy giao thừa đã đi qua lâu, lâu lắm rồi nhưng rõ ràng vẫn chưa hết Tết. Mai là mùng một.

Giọt Lệ Đêm Giao Thừa


Van Pham

TRUYỆN NGẮN

Giọt Lệ Đêm Giao Thừa

Bảo trả tiền bác xe ôm. Cậu móc túi lấy tờ giấy ghi địa chỉ, theo cầu thang chung cư Nguyễn Kim lên lầu 1. Dân trong chung cư, người lau chùi lư hương, kẻ quét dọn nhà cửa chuẩn bị đón Tết.

Thoáng trông những khuôn mặt hân hoan chờ đón ngày thiêng liêng nhất trong năm của các ông già bà lão đến lũ trẻ em, Bảo nghĩ có lẽ tại chính quê nhà mới có hiện tượng và bầu không khí đặc biệt này. Bảo hòa mình với niềm vui nhộn chưa bao giờ xảy ra với cậu. Những cái Tết tại Mỹ, nơi cậu ở, là những ngày tẻ nhạt với thời tiết rét buốt âm 0 độ C, tuyết ngập phố phường…

Nhìn vào căn phòng tối om om, Bảo đưa tay gõ nhẹ lên cánh cửa sắt. Một cô gái ngoài hai mươi tuổi bước ra cúi đầu chào. Bảo hỏi:

– Xin lỗi, có phải đây là nhà chú Tường, lúc trước làm ở Liên Ðoàn 83 Quân Cụ không?

Cô gái nhìn Bảo một lúc. Cô hỏi:

– Có chuyện chi không anh?

– Ba tôi là người quen với chú Tường, có quà biếu chú nhân dịp Tết Nguyên Ðán.

Ngần ngừ một chút, cô gái mời khách ngồi trên tấm phản gỗ. Cô vào buồng trong. Lát sau, cô dìu một ông già ngoài sáu mươi, thân hình tiều tụy, mặt mày hốc hác, chầm chậm bước ra. Cô đỡ ông ngồi trên ghế nhựa ọp ẹp.

Bảo đứng dậy cúi đầu chào. Cậu chậm rãi nói:

– Thưa chú, ba cháu tên Nguyễn Văn X.Y., làm ở xưởng Vũ Khí Tiểu Ðoàn 230, đường Trần Quốc Toản Sài-gòn. Sau khi LÐ 83 YTQC dời về Long Bình, ba cháu thuyên chuyển đến đơn vị khác.

Mặt chú Tường lộ vẻ vui vui:

– Ờ… ờ… Sao chú quên ba cháu được. Hồi đó ba cháu là sếp của chú mà… Sau năm 1975, chú có dò hỏi bạn bè nhưng không ai biết ba cháu và gia đình ở đâu.

Chú Tường ngừng nói, ngồi thở. Cô gái vuốt ngực ông…

Bảo trả lời:

– Khi ra tù năm 1979, ba cháu và gia đình hồi hương về quê ngoại ở Vĩnh Long. Năm 1980, lúc đó cháu mới 1 tuổi, gia đình vượt biên và được định cư tại Mỹ.

Nhìn cô gái, Bảo hỏi:

– Chú bị bịnh sao vậy cô?

Cô gái cúi xuống nhìn cha, không trả lời. Nét mặt thoáng buồn.

Chú Tường chầm chậm kể:

– Cách nay hơn bảy năm, má sắp nhỏ bị tai nạn giao thông mất. Chú phải làm việc quá nhiều để nuôi bốn anh chị em tụi nó. Năm ngoái, đang chạy xe ba gác ngoài chợ Nguyễn Tri Phương, chú bị xỉu. Bạn hàng ngoài chợ xúm nhau giúp chuyển chú vào bệnh viện Bình Dân cấp cứu. Hai con trai lớn của chú đã lập gia đình và sống dưới miền Tây. Ở nhà chỉ còn con Loan đây và em trai nó thay phiên túc trực chăm sóc chú trong nhà thương. Con Loan làm ca ba tại một xí nghiệp giày da Ðài Loan ở Gò Vấp, vừa lo cơm nước cho thằng Mạnh học ôn thi vào Ðại Học Sư Phạm nên nó cũng khá cực nhọc. Sau ngày xuất viện, chú muốn đi làm cũng không đủ sức, càng ngày càng yếu, thêm gánh nặng cho hai chị em nó…

Bảo lặng lẽ nhìn quanh nhà. Loan rót nước mời khách.

Hai tay cầm phong bì, Bảo đưa chú Tường và nói quà của ba cậu biếu. Chú Tường từ chối mãi không được, sau vài lời cám ơn, chú đưa phong bì cho Loan cất. Chú Tường mời Bảo chiều mốt – chiều Ba Mươi Tết – chú cúng ông bà, Bảo ghé nhà dùng bữa cơm gia đình. Bảo nhận lời.

******

Tối 28 Tết, Bảo rời khách sạn, lân la đến các phòng trà ca nhạc để tìm sinh khí sinh hoạt đêm của Saigon, thủ đô cũ miền Nam Việt Nam. Qua báo chí hải ngoại, cậu biết tuổi trẻ Việt Nam bây giờ – nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Ðà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ và Saigon – tiêu tiền như nước.

Dĩ nhiên giữa những tầng lớp có tiền và kẻ có nhu cầu cần tiền nẩy sinh biết bao hoàn cảnh oái oăm. Tình cảm con người với con người biến dạng từ từ. Tình yêu trong sáng của thế kỷ trước – như ba Bảo thường nói – nhường chỗ cho yêu cuồng, sống thử trước hôn nhân.

Bảo có dịp đọc bài báo của một phóng viên trong nước đăng trên tuần báo ở Mỹ, viết về việc phá thai của giới nữ. Càng ngày, người đến bệnh viện càng nhỏ tuổi dần chứng tỏ nhà trường, cha mẹ và xã hội đã không quan tâm đến con cái để cho giới trẻ tự do luyến ái, tự do sống buông thả. Trong giới lao động, cha mẹ đầu tắt mặt tối kiếm sống không kịp thở để lo cái ăn, cái mặc, tiền sách vở, tiền trường cho con cái. Trong thành phần giàu có, cha mẹ chạy theo vật chất để hưởng thụ cho bõ thuở hàn vi, con cái cũng “ăn theo” sa đọa, xài tiền không tiếc…

Saigon dường như không ngủ hoặc ngủ rất ít. Chỉ nhìn dòng lưu thông cuồn cuộn theo đuôi nhau, xe gắn máy nối tiếp xe hơi, Bảo cảm tưởng như say sóng. Muốn băng qua đường – đối với Bảo – không phải là chuyện dễ dàng vì không còn quãng hở nào trên đường để cậu bước đi. Xe cộ không biết từ đâu cứ nườm nượp, nườm nượp từ nửa đêm hôm trước đến nửa đêm hôm sau trên các trục lộ chính…

Bảo tạt vào một quán trên đường Phạm Hồng Thái, quận 1. Hai người bảo vệ nhìn Bảo thoáng qua, đoạn mở cánh cửa nặng trình trịch để cậu bước vào. Bên trong, các cô tiếp viên, lờ mờ dưới ánh đèn màu, dắt Bảo đến một ghế trống cạnh sàn nhảy. Từ ngoài sáng lần mò giữa vùng âm u, phải vài phút sau cậu mới nhận định cảnh vật bên trong, dù tai cậu muốn vỡ tung với âm thanh xập xình của điệu Lambada sóng nhồi hết lượt này đến lượt khác. Thanh niên nam nữ ôm eo ếch nhau, lắc lư theo nhịp điệu dồn dập, thỉnh thoảng rú lên như bị ma ám quỉ đuổi.

Bàn bên cạnh, ba cặp lim dim khóe mắt khi phê vài hơi thuốc trắng. Những chai rượu nặng ngoại quốc đắt tiền cạn nhẵn, nằm lăn lóc bên cạnh những đĩa thức ăn nguội ngắt, có đĩa còn nguyên vẹn chưa đụng đũa. Liếc thoáng, Bảo biết chúng là con các đại gia hoặc con giới có quyền có chức, ăn chơi sa đọa, bất cần đời.

Một đứa trong bọn khoác tay, tất cả lảo đảo đứng dậy. Ðứa con gái tóc nhuộm vàng khè, móc bóp trải ra bàn năm tờ giấy xanh xanh loại một trăm đô-la. Cô hầu bàn từ góc khuất vội vàng chạy ra, gom tiền. Trước khi rời quán, chúng dúi vào tay cô hầu bàn tờ giấy mười đô.

Bảo gọi một chai Heineken. Cô chiêu đãi đem bia ra và sà xuống ngồi bên cạnh Bảo. Cô cất giọng õng ẹo:

– Anh cần mồi gì, em gọi.

Bảo cười ỡm ờ:

– Chút nữa, em. Anh chưa nóng máy mà…

– Anh cho em một chai há?

Không đợi Bảo trả lời, tự động cô vào quầy đem ra một chai và mở nắp nghe một tiếng “bộp.” Cô cụng vào chai của Bảo, cười ỏn ẻn, tu một hơi cạn tận đáy. Tự nhiên Bảo chợt nghĩ đến Loan, đến xóm chung cư nghèo hôm nay cậu ghé thăm. Hình ảnh người con gái gầy gò, ăn uống thiếu thốn, lo chăm sóc cha già đau yếu, người em học thi vào đại học, bất giác anh thở dài. Hai cảnh đời xã hội: một ăn chơi phè phỡn, vung tiền như nước – một còng lưng vất vả suốt ngày vẫn không đủ sống. Bất công nơi nào cũng có nhưng trước mắt Bảo, ngay tại quê hương mình, giai cấp giàu nghèo chênh lệch quá xa…

Bảo kêu cô gái tính tiền. Cô gái ngạc nhiên nhìn ông khách khác thường này, lẩm bẩm:

– Lại thêm một thằng khùng. Cứ tưởng vớ được khách bở mời đi “vui vẻ”, ai dè…

Sau khi lấy tiền hai chai bia, cô gái xòe tay xin “bo.” Bảo dúi vào tay cô tờ giấy bạc hai mươi ngàn Việt Nam và lặng lẽ rút lui. Trong tiếng nhạc đinh tai, Bảo nghe cô gái vói theo:

– Ðúng là “Hai Lúa” mới lên thành phố.

*******

Hai Mươi Chín Tết, Bảo thuê xe ôm lên đường Thích Quảng Ðức gần ngã ba Nguyễn Kiệm Phú Nhuận, trao tiền cho một viện mồ côi mà ba cậu cùng bạn bè ông quyên tặng. Viện do một Việt kiều ở Cali bảo trợ, gồm ba dãy nhà tạo hình chữ U, một trệt một lầu. Bảo vào viện, gặp người đại diện, ông Dương, là người bà con bên ngoại Bảo, trông nom khoảng 20 trẻ mồ côi. Ngoài bảy mươi nhưng ông Dương còn rất khỏe. Sau khi đọc thơ và nhận tiền của ba Bảo, ông dẫn Bảo thăm các nơi.

Ông nói:

– Hầu hết các cháu này, dượng xin ở bệnh viện Từ Dũ. Từ Dũ cũng có viện mồ côi gọi là Làng Hòa Bình. Làng dành cho các cháu tàn tật từ lúc chào đời, đứa mất tay, đứa sứt môi, đứa không thấy đường… Mấy cháu vô phước đó cần ở trong bệnh viện để tiện chăm sóc hàng ngày. Ở đó không đủ chỗ nuôi dưỡng nên dượng đón các cháu khỏe mạnh về đây như san sẻ phần nào sự mất mát tình thương của trẻ thơ vô tội. Khoảng sáu, bảy tuổi, ban tổ chức sẽ chuyển các cháu đến viện khác đủ tiện nghi và phương tiện hơn để các cháu học văn hóa tại nhà trường.

Theo dượng biết, các cô gái trẻ người non dạ, sau khi sanh, bỏ con chạy lấy người, trốn tránh trách nhiệm và tội lỗi. Cũng may, mẹ các cháu bé ít có đứa bị vướng bệnh Sida, nếu không may bị bệnh chết người này, tội nghiệp cho một kiếp sanh linh nhỏ bé. Cũng có một số bà mẹ quá nghèo, đông con nhưng lỡ có bầu, khi sanh xong cũng bỏ con lại…

Ði ngang nhà bếp, đến một sân rộng, Bảo thấy hai cô gái đang giặt giũ quần áo cho các cháu. Ông Dương dừng lại giới thiệu hai cô tình nguyện mỗi ngày vài giờ, giúp viện điều hành một cách suôn sẻ. Bảo trố mắt nhìn cô gái đứng e thẹn, hai tay đầy xà-bong xoa xoa vào nhau:

– Loan…

Ông Dương hỏi:

– Ủa, cháu quen Loan à?

– Dà… Ba cháu với ba Loan cùng chung đơn vị trước năm 75. Hôm qua ghé thăm gia đình Loan nên cháu mới biết Loan.

Bảo chào hai cô gái, tiếp tục lên lầu. Ông Dương cho biết Loan làm ca đêm, sáng nào cũng ghé viện giặt giũ quần áo, mền mùng cho các trẻ, sau đó mới về nhà. Hôm nay là ngày cuối năm, Loan cố gắng giặt xong tất cả quần áo dơ và chăn màn của các cháu. Biết Loan có lòng nhân ái, thương xót trẻ em mồ côi mà không nghĩ đến sức khỏe của mình, Bảo thấy lòng se lại. Bảo không thể so sánh tấm lòng bác ái của Loan với các cô gái ích kỷ khác. So sánh như vậy vô tình hạ thấp phẩm giá cao thượng của một người biết hy sinh thời gian, sức khỏe cho xã hội, mặc dù sự hy sinh chưa phải là vĩ đại.

Tuy nhiên, tấm lòng này không ít thì nhiều cũng gây cho Bảo một ấn tượng sâu đậm mà càng nghĩ, Bảo càng thấy tôn trọng người con gái mới biết mặt.

Trong một căn phòng lớn, hai người đàn bà đứng tuổi đang chăm sóc các cháu mồ côi. Tiếng cười, tiếng khóc trẻ em vang từng chặp.

Ðến dãy nôi giữa phòng, những đôi mắt tròn xoe ngây thơ nhìn ông Dương và Bảo. Một cháu buột miệng “Ba… ba…” khi Bảo cúi xuống ẵm cháu. Bảo lấy tay vỗ nhè nhẹ vào chiếc lưng nhỏ xíu, tự dưng niềm đau xót tràn ngập tâm hồn. Ông Dương nói với Bảo:

– Có nhiều khách đến viếng, họ thường xưng là ba má hoặc ông bà khi nựng nịu các cháu. Có lẽ cách xưng hô này ăn sâu vào tâm hồn thiếu thốn, thèm khát tình thương của những trẻ bất hạnh theo thời gian. Vì vậy, cháu đây gọi cháu là ba cũng không lấy gì làm lạ.

Bảo siết chặt cháu bé, tự nhủ không biết phải làm gì để bù đắp tình thương mất mát của những trẻ không may này. Những tâm hồn thơ dại, những tấm thân bé nhỏ rất cần sự che chở, bảo bọc của ông bà cha mẹ như bóng cây che mát cuộc sống non nớt mới hiện diện trên thế gian. Vậy mà cha mẹ chúng lại nhẫn tâm thả trôi các thân xác sơ sinh cho dòng đời đầy bụi bặm…

Trên đường về khách sạn, Bảo ghé chợ Phú Nhuận mua những thứ cậu cần phải mua.

******

Trời càng về chiều, dường như mọi người càng thêm hấp tấp. Xe hơi, xe gắn máy, người đi bộ, người dân sinh hoạt nhanh nhẹn hơn, vội vàng hơn. Ai cũng muốn trở về nhà sớm để bày biện thêm nhánh mai mua rẻ, cặp dưa hấu bán hạ giá hoặc những chậu bông nở tòe loe. Ai cũng nấu nướng, dù nhà nghèo, vài món ăn đơn giản cúng ông bà và đón giao thừa, khi con cháu từ xa về, sum họp bên gia đình đón Xuân. Không khí này khiến Bảo liên tưởng đến những người không nhà, sống đầu đường xó chợ, những trẻ em bị bỏ rơi không nơi nương tựa, những ông già bà lão bệnh tật không có con cháu phụng dưỡng.

Bảo xóa bỏ bi quan khi đến nhà chú Tường. Ít ra trong lúc này, Bảo cũng có một nơi để chia sẻ bầu không khí thiêng liêng khi xa gia đình. Thực tế tại Mỹ, Tết Nguyên Ðán chỉ nhộn nhịp và ra vẻ ngày Tết ở những nơi có đông người Việt như Cali, Texas, Atlanta Georgia hoặc khu Eden, miền Ðông Hoa Kỳ…

Chú Tường hôm nay trông khỏe hơn. Khi Bảo đến nhà, mâm cơm trên bàn thờ đã cúng xong, Loan và em trai chuyển xuống bàn ăn. Mùi nhang thoang thoảng trong căn phòng được dọn dẹp tươm tất.

Bảo trao cho Loan cây mai đầy búp để cắm vào bình hoa bên cạnh bàn thờ. Cậu mở hộp giấy, trịnh trọng tặng chú Tường bộ âu phục mua trong tiệm An Phú tại ngã sáu Saigon, tặng Mạnh chiếc cà vạt màu rượu chát, tặng Loan mấy xấp vải may áo dài và chiếc điện thoại di động đời mới nhất.

Bảo nói:

– Loan à. Ði làm ca ba, Loan rất cần điện thoại này để phòng thân.

Việc chi phí sử dụng, anh đã trả tiền cho dịch vụ trọn một năm rồi.

Quay qua chú Tường, cậu cười:

– Ở Mỹ ba con sẽ dễ dàng liên lạc với chú. Chú và các em đừng gọi qua Mỹ vì mắc tiền lắm, cứ để ba con gọi về. Thỉnh thoảng chú cho phép con hỏi thăm chú và các em.

Bảo trải lòng mình, mong mỏi giúp gia đình bạn của ba Bảo những phút giây vui vẻ và thoải mái trong ngày cận Tết, dù các món quà không nói lên được hết chân tình của Bảo với những người mới biết mặt. Chú Tường thay mặt gia đình cám ơn Bảo. Chú nói Bảo và hai con ngồi vào bàn. Ðã lâu Bảo mới thấy tô canh măng hầm giò heo, khổ qua nhồi thịt băm với nấm mèo và đĩa giò thủ cắt chéo cạnh. Bảo lấy chai rượu chát từ trong bọc to đặt góc nhà mà cậu khệ nệ vác khi tới lúc nãy. Mạnh vào bếp lấy ba cái ly “xây chừng”, loại ly uống cà phê ngoài các tiệm ăn Tàu.

Bảo cười:

– Em lấy thêm một ly nữa cho chị Loan. Thời buổi bây giờ nam nữ bình đẳng mà em.

Loan xua tay từ chối. Mạnh nhìn ba. Chú Tường gật đầu.

Bảo mở chai rượu rót ra bốn ly. Cậu vừa nói vừa chỉ cái bọc to:

– Thưa chú, cháu rất cảm động được hưởng một cái Tết ấm cúng tại quê nhà với gia đình chú. Sáng nay cháu có ghé viện mồ côi, cháu cũng đã mua hai mươi bộ quần áo trẻ con để tặng các em trong đó. Sáng mai mồng một, xin chú, Loan và Mạnh đến thăm viện và trao quà cho các trẻ. Quà này là của gia đình chú tặng cho viện.

Chú Tường từ chối:

– Ðâu có được, cháu.

– Dà, cháu đã đại diện ba cháu và bạn bè bên Mỹ có tặng quà cho viện rồi. Phần này của chú và hai em. Sáng mai gia đình chú và cháu sẽ đi taxi đến đó. Có hai em và cháu, chú yên tâm xuất hành đầu Xuân…

Tiếng chuông reo. Bảo móc túi lấy máy di động ra nghe. Ðầu bên kia văng vẳng giọng nói đàn ông. Nghe nửa chừng, mặt Bảo bừng bừng dù chưa hớp ngụm rượu nào. Bảo trả lời đứt quãng:

– Dạ chưa lập gia đình… Dạ đang ngồi trước mặt con… Dạ tùy ba và chú Tường quyết định… Con… Con…

Bảo đưa điện thoại cho chú Tường:

– Thưa chú, ba cháu muốn nói chuyện với chú…

Chú Tường vui vẻ chào hỏi người quen thân cũ. Sau khi nghe câu chuyện, chú Tường nói:

– Cám ơn ông thầy nghĩ tới đàn em và có nhã ý với cháu Loan. Chuyện đó… chắc tùy cháu Bảo và Loan quyết định…

Bảo đưa mắt nhìn Loan. Loan cúi gằm, im lặng. Loan thừa thông minh biết hai ông già đang đề cập đến chuyện gì. Cả nhà vui vẻ bên mâm cơm cuối năm.

Bảo nói với chú Tường:

– “Con” mong một ngày rất gần, Loan không còn chịu cực nhọc nữa. Tuy con mới về Việt Nam lần đầu nhưng con cũng nhận định được toàn cảnh xã hội ngày nay. Cái quý nhất của con người là lòng bác ái, tính chân thật và biết an phận. Tâm hồn cao thượng, sự giúp đỡ xã hội của Loan ở viện mồ côi khiến con rất cảm kích. Con rất vui mừng được ngồi ăn uống đêm nay với chú và hai em. Mấy bạn về Việt Nam chung với con, giờ này chắc đã chui vào các quán bia ôm hoặc vũ trường rồi…

Nghe Bảo xưng “con” với ba mình, Loan len lén nhìn Bảo nhưng cô vội quay mặt đi để che giấu hai giọt lệ lăn dài trên đôi gò má xanh xao. Chính Loan cũng không hiểu tại sao mình lại khóc. Giọt lệ bắt nguồn từ niềm buồn tủi cho thân phận nghèo nàn hay vui mừng vì một căn nguyên nào khác, cô bối rối không kịp phân tách được tâm trạng mình.

May be an image of 1 person and indoor

Chuyện hết sức ngắn, nên đọc và suy gẫm.

Chuyện hết sức ngắn, nên đọc và suy gẫm.
May be a cartoon of 1 person

 Vào buổi tối, trong một nhà hàng ăn nhanh nhỏ, có ba thực khách: một ông già, một chàng trai trẻ và tôi.

Có lẽ vì không có nhiều thực khách, ánh sáng trong nhà hàng không được bật hoàn toàn, nên trông hơi mờ. Tôi ngồi một góc cạnh cửa sổ và ăn tối một mình. Chàng trai cầm bát mì xào và ngồi gần cửa, ngay cạnh ông già.

Tôi thấy rằng ánh mắt của chàng trai trẻ này thỉnh thoảng lại nhìn về chiếc điện thoại di động đang để trên bàn của ông lão.

Sự thật đã chứng minh phán đoán của tôi là đúng. Tôi thấy khi ông lão quay sang châm điếm thuốc một lần nữa, anh chàng này nhanh tay lấy đi chiếc điện thoại di động, nhét nó vào túi áo khoác, sau đó anh ta cố gắng rời khỏi nhà hàng.

Ông lão đã sớm phát hiện rằng điện thoại của mình bị mất tích, ông lập tức bình tĩnh và nhìn xung quanh.

Lúc này, chàng trai kia tay vừa chạm vào nắm cửa ra vào của nhà hàng, ông lão dường như hiểu được điều gì đó, ông lập tức đứng dậy và đi về phía chàng trai trẻ đang đứng ở cửa.

Tôi lo lắng cho ông lão, tôi nghĩ ông lão sẽ rất khó khăn để đối phó với một thanh niên khỏe mạnh như vậy.

Thật bất ngờ ông nói: “Con trai xin hãy đợi đã.” Chàng trai này dật mình nói: “Có chuyện gì đấy!”

“Đó là, hôm qua là sinh nhật 70 tuổi của tôi, con gái tôi đã cho tôi một chiếc điện thoại di động, mặc dù tôi không thích nó, nhưng đó là lòng hiếu thảo của con bé. Tôi vừa để nó trên bàn giờ nó đã biến mất, tôi nghĩ rằng nó đã vô tình bị va vào và rơi xuống đất.”

Tôi lại có vấn đề về xương khớp ở lưng, hơn nữa mắt lại kém, tôi rất khó khăn để tìm kiếm chiếc điện thoại. Chàng trai trẻ, anh có thể giúp tôi tìm nó được không? Chàng trai này nghe vậy thì lo lắng liền biến mất. Anh ta lau mồ hôi trên trán và nói với ông lão: “Ồ đừng lo lắng, cháu sẽ giúp ông tìm nó.”

Chàng trai cúi xuống, xoay quanh bàn của ông lão tìm kiếm, chỉ một lát sau, anh ta đưa chiếc điện thoại cho ông lão và nói, cái này có đúng của ông không? Ông lão nắm chặt tay chàng trai và vui mừng nói: “Cảm ơn anh! Cảm ơn anh! Anh thật tốt, anh có thể đi!” Chàng trai trẻ nghe thấy vậy bàn tay liền run run, anh ta quay mặt đi và nhanh chóng rời khỏi cửa hàng.

Tôi sững sờ trước cảnh tượng trước mặt. Sau khi chàng trai trẻ ra khỏi nhà hàng, tôi lại gần ông lão và hỏi: Ông lão, ông đã xác định được rằng điện thoại của ông đã bị đánh cắp nhưng tại sao ông không báo cảnh sát?”

Câu trả lời của ông lão khiến tôi nhớ rất lâu, ông nói: Nếu tôi báo cảnh sát, tôi sẽ mất đi một thứ có giá trị gấp hàng nghìn lần so với điện thoại di động, đó là sự khoan dung.

Trong cuộc sống, khi xử những việc khó xử càng nên khoan dung; xử người khó xử, càng nên trung hậu…Khoan dung thể hiện sự tu dưỡng đạo đức và lối sống đẹp của con người, khoan dung không có nghĩa là bản thân yếu đuối, mà là sự độ lượng cần có trong cuộc sống.

Khi con người có thể bao dung, yêu thương nhau và thôi nhìn vào những khuyết điểm, sai lầm của người khác, lúc ấy cuộc sống này, thế giới này sẽ đẹp tuyệt vời…

-st-