Bác Sĩ Trong Tù

Bác Sĩ Trong Tù

BS.Tôn Thất Sang

Crack!Tiếng cơ bẩm đẩy viên đạn lên nòng súng nghe gai nhọn và lạnh lùng như tiếng gằn giọng của tử thần! Một luồng cảm giác ớn lạnh chạy dọc xương sống, làm toàn thân tôi nổi ốc. Tôi chưa kịp định thần thì một giọng nói chát chúa vang lên:

-Ðứng lại, không tôi bắn!

Tôi vội vàng cố khép hai vạt áo mưa đang phần phật bay trong gió, quay mình lại. Một tên “cán bộ” sát khí đằng đằng lạnh lùng chĩa mũi súng vào tôi và nhìn tôi không chớp mắt.

Tôi vội nói:

-Báo cáo cán bộ, tôi, Y tế trại, đi cấp cứu.

-Vậy đèn đóm đâu hết?

-Bị gió lùa mới tắt!

Tên Cán bộ nhìn tôi gằn giọng:

-Lần sau đi không có đèn thì tôi bắn! Thôi anh đi đi!Tôi gật đầu chào nó, vội quay đi mà lòng còn ấm ức.

Tôi đi trong cái lạnh và cô đơn vô cùng của đêm khuya ở trại Z 30D Hàm Tân, khoảng 2, 3 giờ sáng, giữa hai hàng cây so đũa đưa đẩy cùng bóng tối, đang chập chờn uốn éo và cất tiếng hú xào xạc dưới cơn mưa lất phất nghe như tiếng rên xiết thở than của linh hồn những người tù ở trại đã bỏ mình quá nhiều vì bệnh tật, vì lao động khổ sai! Tôi thốt nhiên rùng mình xốc lại túi cứu thương nặng trĩu một bên vai, hai tay khép chặt tà áo mưa cúi mình rảo bước.Xa xa, lẫn trong tiếng gió, văng vẳng tiếng la lớn của một tù nhân:

-Báo cáo Cán bộ, buồng 9 có người bệnh nặng, xin cấp cứu!

Tiếng kêu được lập đi lập lại nhiều lần, thống thiết, khẩn cầu và khổ sở nhưng chứa chan tình đồng đội. Tôi chạy vội lại hướng đó.Ðêm khuya lắm rồi, trời lạnh thấu xương, cả trại Hàm Tân đang đắm chìm trong giấc ngủ đầy giá buốt và ác mộng, một giấc ngủ dật dờ không đầy giấc để tờ mờ sáng hôm sau, nghe kẻng báo thức, tất cả lại phờ phạc thức dậy, lại đi lao động, lại kéo dài cuộc sống khổ sai!

Ðến buồng 9, qua chấn song sắt của khung cửa hẹp, tôi thấy một số anh em còn thức, ngồi quây quần ở bục xi măng cuối phòng. Dưới ánh đèn le lói, khoảng giữa một số mùng đã được cuốn lên nhăn nhúm, có một thân hình bọc kín trong hai ba lớp chăn đang run lên từng chập, cất tiếng rên hừ hừ giữa hai hàm răng đánh lập cập. Mọi người chung quanh đang lo lắng, kẻ thoa dầu, người bắt gió. Trông thấy tôi, ai nấy đều thở phào, nhẹ nhõm:

-Y tế đến rồi, yên tâm đi, có gì thì khai với Bác sĩ.

Tôi vội hỏi người trưởng buồng:

-Ai bệnh vậy, anh Ngọc?

-Anh Loan đó anh.

Mọi người chung quanh vội đẩy anh Loan đến sát bờ cửa sổ vì cửa chính đang bị đóng kín với vòng xích sắt khổng lồ được khóa bằng một khóa Virex to tổ bố. Trong lúcđó, tôi cởi áo mưa, ngồi xổm xuống, mở túi cứu thương, lùa tay qua chấn song, kẹp nhiệt người bệnh, sờ trán thấy nóng như lửa, tốc mền bệnh nhân ấn chẩn, thấy đau vùng gan lách, bắt mạch thấy nhanh, đều, đọc nhiệt kế thấy 40 độ C. Tôi bảo bệnh nhân ngồi dậy để nghe tim, phổi, không có tiếng thổi bệnh lý, tuy nhịp có nhanh hơn vì đang sốt. Bệnh nhân khai sốt về chiều, rét run và đổ mồ hôi, ăn không ngon, miệng đắng, nhức đầu.

Tôi trấn an anh Loan, bảo anh đang lên cơn sốt rét và sau khi ra mồ hôi, thân nhiệt sẽ hạ và khỏe lại, không có gì đáng ngại. Tôi nhờ anh em vén cao tay áo anh Loan, làm garrot và dưới ánh đèn leo lét, tôi vỗ, vuốt, nắn, tìm veine mediane và chích ống Quinoserum vào tĩnh mạch một cách nhẹ nhàng và đầy kinh nghiệm, cái kinh nghiệm đắng cay và đầy linh động tính của một thầy thuốc trong trại tù thường khi phải hành xử những thủ thuật Y khoa trong mọi điều kiện thiếu thốn về vệ sinh, thuốc men, y cụ…

Mỗi lần phải cấp cứu trong đêm khuya, thường phải chẩn bệnh qua song sắt, mà khi chích thuốc, anh em tù nhân thường phải đứng nhón mông lên đúng giữa hai chấn song, và thầy thuốc định vị xong cũng phóng kim nhanh như chớp. Cái khó là chích gân (veine) qua khe cửa vì lấn cấn, tuy nhiên lâu ngày cũng quen dần nên mọi sự vẫn trôi chảy.

Chích thuốc xong, tôi đưa thêm anh Loan vài viên Quinine, Perymethamine và một viên an thần. Dặn anh cách sử dụng xong tôi về Phòng y tế. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi mơ hồ nhớ lại hồi ở trại miền Trung.

***

Hồi ở trại Tiên Lãnh, tù nhân có ba bác sĩ là các anh Phùng Văn Hạnh, Vương Ngọc Lâm và tôi. Tuy nhiên, trại bảo chúng tôi là thành phần trí thức Tiểu tư sản nguy hiểm nên cả ba anh em chúng tôi không ai được làm Y tế. Tên trại trưởng chỉ định một anh cán sự Y tế (anh Hiển) lên làm Y tế trại để định bệnh và trị bệnh cho hàng ngàn tù nhân. Anh Hiển làm việc rất tận tâm và cũng được anh em thương mến, tuy nhiên vì bệnh nhân quá nhiều và có những trường hợp vượt quá khả năng của một Y tá nên thỉnh thoảng vẫn có những vấn đề nghiêm trọng xảy ra. Trong khi đó thì những Bác sĩ vẫn phải đi lao động khổ sai!

Anh Phùng Văn Hạnh đi nhổ mạ, tăng gia sản xuất. Anh Vương Ngọc Lâm theo đội 11 lên rừng đốn củi, một công việc rất nặng nhọc và theo chỉ tiêu tăng dần.

Có bữa đi lao động ngoài, gặp Lâm. Nhìn anh trong bộ Treillis tơi tả, lưng đeo túi cải thiện (vỏ đựng mìn Claymore), tay xách lon gô (guigoz), vai vác cây rựa cùn, mặt mày đen nhẻm, tôi cười bảo: Sao, ngày nay lại lên rừng khám bệnh cho khỉ à? Anh nhìn lại tôi,nói: Anh lại ra ruộng nghiên cứu chất Heparine chống đông máu à? (chất của đỉa tiết ra làm loảng máu để dễ hút). Hai thằng chua chát cười xòa rồi tôi vội đi nhanh cho kịp đội ra ruộng đàn piano -mò cỏ lúa -làm bạn với đỉa, với ếch nhái và rắn nước.

Bầu trời xanh lồng lộng gió nhưng tôi không thấy bầu trời theo hướng bình thường mà chỉ thấy một bầu trời đục nhờ nhợ, nhăn nhó lộn ngược phản chiếu trong mặt nước đục ngầu tanh tưởi dưới chân tôi. Tất cả bọn tù đều chổng mông, đầu cúi xuống, hai tay khuấy, mò, rứt những chòm cỏ mọc gần thân lúa. Thỉnh thoảng chớp được con nhái con ếch thì reo mừng cho vào túi cải thiện. Nếu gặp được bầy dế nhủi thì thật là béo bở. Chúng tôi đàn piano suốt ngày, khi nghe kiểng bãi, mừng rỡ bước lên bờ thì mặt nặng, chân phu, sưng vì dồn máu, lưng chồn gối mỏi, đĩa đeo đầy kẻ móng chân, có vài con lại mò lên hút máu gần chỗ bí hiểm, ngứa ngáy cùng mình, cảm thấy cuộc đời tù tội là cả một chuỗi ngày dài thê thảm và quá ảm đạm!

Một thời gian sau vì tù nhân chết quá nhiều, giao mùa Hè -Thu là thời gian sốt rét hoành hành song song với cường độ lao động căng thẳng thi đua sản xuất để thu hoạch vụ mùa. Tù nhân đi lao động mà như đang đi vào cõi chết, lừ đừ, mệt nhọc, tay chân làm mà tai chỉ lóng nghe tiếng kẻng bãi! Tai nạn lao động xảy ra liên miên: người bị tre đâm, kẻ bị sập nhà, người bị rắn cắn, kẻ bị cây đè, có bữa anh em lại đạp phải mìn bị thương nhiều người nên trại phải điều động Bác sĩ Hạnh lên phụ trách Y tế. Anh nguyên là Thiếu tá BS, trưởng Khoa xương ở bệnh viện Ða Khoa và Giám đốc một Bệnh viện tư ở Đà nẵng. Anh làm việc tận tụy bất kể ngày đêm. Việc anh khoái nhất là nhổ răng cho anh em và các tiểu phẩu; (BS Giải Phẩu, nên thấy máu là nhớ nghề lắm).

Trong thời gian đó anh Lâm bị tai nạn lao động vì khiêng cây quá nặng, vấp té ngồi trên một chồi cây đã vót nhọn làm rách toát hậu môn máu tuông xối xả. Anh em vội cõng về Bệnh xá cấp cứu và chính B.S. Hạnh đã khâu nhiều lớp trong ngoài rất đẹp và rất thành công. Một thời gian sau anh Lâm cũng được điều lên Bệnh xá. Tuy nhiên sau đó ít lâu thì nghe nói hai anh Hạnh và Lâm bị chế tài phải ra lao động lại vì phát biểu linh tinh.

Tôi, sau một thời gian lao động chết bỏ, cũng được điều lên Na Sơn, trại lẻ cách đó mười tám cây số đường núi, làm Y tế. Ở trại này là nơi sơn cùng thủy tận, đầy sương lam chướng khí, đêm đêm trong cái lạnh tê người, nằm nghe tiếng suối chảy róc rách lẫn với tiếng thác dội ì ầm, tiếng chim gõ mõ, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng bóp bóp, bóp thì bóp của đôi chim đỗ quyên suốt đêm cô đơn đi tìm nhau mà hừng sáng là chấm dứt: một chuyện tình, một lời nhắn gọi đầy bi thảm, quyến luyến, thi vị và đầy kịch tính.

Có một lần, trong đêm, cả trại hầu như thức dậy xôn xao, sợ hãi vì một tiếng gầm rung chuyển cả núi rừng. Tiếng của chúa sơn lâm, đang giận dữ tìm mồi lẩn quẩn đâu đây gần doanh trại. Tôi rùng mình mơ màng, không tin rằng mình đang ở hậu bán thế kỷ 20, gần đầu thế kỷ 21, thời gian mà nền khoa học vũ trụ đang phát triển tột đỉnh với những trạm không gian có người ở, với hệ thống vệ tinh và những tàu con thoi tuyệt hảo mà thân phận những tù nhân Việt Nam phải còn ở nơi rừng xanh núi thẳm làm bạn với rắn rít, với hổ dữ, một kiếp sống nô lệ không tương lai, một cuộc sống cô lập với thế giới bên ngoài, hoàn toàn bị bưng bít sau bức màn sắt.Ở trại tù, tình trạng lao động nặng, lại thêm suy dinh dưỡng của anh em đã đến cực độ, thân mình chỉ còn da bọc xương, hoặc phù thũng vì thiếu ăn, thiếu sinh tố.

Anh em bị bệnh sốt rét rất nhiều (tôi cũng trải qua mấy cơn), kế đến là lao phổi, kiết lỵ, dạ dày, gan, thấp khớp và tim mạch, v.v. và v.v… Thuốc men giới hạn, thiếu ăn, đói khát, nên có lần tôi phải xin Cán bộ chăn nuôi cho một ít cám heo (thường hàm chứa một số Vitamine B1) để phát cho anh em quá suy dinh dưỡng đang bị phù thủng. Nhìn anh em nhận lon cám heo, đôi mắt rực sáng sung sướng tôi không khỏi ngậm ngùi nghĩ đến cái nhân vị con người ở mức độ không thường dưới chế độ Cộng sản.

Trong trại tù, đau răng là một bệnh hầu như mọi người đều mắc phải. Theo thống kê, đau răng khi lên cơn nhức thường có cường độ cao hơn khi đau đẻ. Khi chịu không nổi, anh em thường nhờ tôi nhổ (cũng nhờ tôi thưòng xem BS. Hạnh nhỗ cho các bạn tù, chính tôi cũng được anh nhỗ cho ba cái răng sâu). Tôi soạn dụng cụ nhổ răng gồm có hai thanh sắt nhỏ dẹp đầu, một cái dùng để nạy (tôi thường gọi là thanh xà beng), một cái sắc cạnh hơn dùng để tách và rọc nếu răng. Ngoài ra còn có một cây kềm mỏ cong như mỏ chim ưng, để nhổ.

Thấy tôi bày đồ ra anh em cứ tưởng tượng là dụng cụ sửa xe đạp thì hết hồn. Nhưng sau khi nấu sôi dụng cụ cùng với bông gòn để sát trùng, chích thuốc tê, tiếp đó bảo bệnh nhân ngồi trên chiếc ghế, dựa lưng sát tường, đầu ngẩn cao, lại nhờ một anh bạn mạnh bạo giữ thật chặc đầu bệnh, không cho lắc! Sau đó tôi dùng thủ thuật róc, tách nếu ra và lấy kềm mỏ cong (nhờ thợ rèn trong trại làm) kẹp chính xác, nhổ răng ra nhẹ nhàng thì anh em như cất được gánh nặng cám ơn rối rít. Có nhiều lúc, vì răng cấm quá chắc nên thầy thuốc, bệnh nhân cùng người kềm giữ đánh vật với nhau gần nữa tiếng mới xong, và cả ba đồng cưòi xoà và thở ra nhẹ nhỏm! Vì vậy, hầu như ngày nào cũng có người đăng ký nhổ răng.

Có những khi trại hết thuốc tê mà anh em đau quá, tôi phải dùng nước cất chích vào nếu răng để bệnh nhân yên trí là có thuốc tê (Phương pháp dùng thuốc tâm lý placebo) và tôi cũng nhổ được răng mà người bệnh quả nhiên không thấy đau bao nhiêu.

Có một thời gian thuốc thông thường, trụ sinh đều thiếu trầm trọng, Cán bộ Y tế chỉ cho được vài chai Xuyên tâm liên và quảng cáo đó là thuốc trị bá bệnh của nhà nước ta, vì vậy, đau đầu, nhức răng, khó ngủ, đau bụng, nhiễm trùng… tất cả đều được cấp phát Xuyên tâm liên mà sau này tôi gọi đùa là Xuyên tâm tiễn.

Có đôi lúc khâu vết thương rách toạt vì tai nạn lao động mà không có kim mỗ, tôi phải lấy kim may và chỉ may quần áo nấu sôi sát trùng và khâu vết thương, cho thêm trụ sinh và cắt chỉ năm hay bảy ngày sau.

Tóm lại, làm Y tế trại là phải quyền biến, thường phải dùng xuyên tâm trị liệu kết hợp với vật lý trị liệu, tâm lý trị liệu, cùng với thuốc tây, thuốc nam (cỏ mực để cầm máu, vỏ cây xoài để trị nhức răng, lá ổi nấu nước uống để cầm tiêu chảy…) Phải biết làm thầy mằn để trị bong gân, trật xương, phải biết châm cứu để trị đau lưng, mất ngủ, di tinh… Vì vậy tôi nhắn người nhà gởi lên cuốn châm cứu thực hành của cụ Thượng Trúc để biết thế nào là nhâm mạch, đốc mạch cùng 12 đường huyệt đạo chính trên cơ thể: thủ thái âm, thủ thiếu âm, túc khuyết âm, túc thiếu dương… hiểu thế nào là bá hội huyệt, phong phù, phong trì, thiếu dương, quan xung, đan điền v.v…

Cũng nhờ vậy mà tôi biết những tay viết kiếm hiệp thường dùng từ đả thông huyệt nhâm đốc, sinh tử huyền quan, kinh kỳ bát mạch và những tay xạo có hạng thường chế thêm ra chưởng thế này thế nọ, dùng cách không điểm huyệt cách sơn đả ngưu, câu hồn đại nã di tâm pháp. v.v…là cũng dựa vào tên các huyệt đạo này để lòe độc giả, làm mọi người say mê đến quên ăn bỏ ngủ một thời (trong đó cũng có tôi).

***

Hơn 12 năm trời rồi cũng trôi qua, lần tay đếm lại thấy số đậu trắng rất nhiều mà số đậu đen hầu như rất ít. Mừng, vì mình làm đuợc nhiều việc hữu ích cho anh em, 12 năm trời qua đi như một giấc mộng đớn đau ở chín tầng địa ngục, bây giờ mới thấy ánh bình minh!

Cuối cùng tôi cũng hết hạn tù, ra về với tâm hồn thanh thản vì đã sống được một cuộc sống đẹp và hết lòng với anh em, một cuộc sống không chút bợn nhơ, được anh em thương mến. Tôi ra về, anh em chào giã từ trong thương yêu và ngậm ngùi, có một vài bác già, bệnh nặng kinh niên, khi tôi về các bác mừng cho tôi nhưng lại lo lắng vì không biết ngưòi kế tiếp có nắm vững bệnhlý của các bác mà chữa trị không?! Tôi trấn an và bồi hồi chào giã biệt các bác.

Trên đường ra khỏi cổng trại, ngoảnh mặt lại, bùi ngùi vẫn thấy anh em vẫn lao động miệt mài khổ ải ở hiện trường, tôi bâng khuâng đưa tay vẫy anh em một lần nữa, anh em lưu luyến khẻ vẫy tay chào lại và trong ngấn mắt mờ lệ, tôi thoáng nhớ đến câu nói của một Văn sĩ nào đó: Trại tù không phải là nơi anh ăn ở suốt đời, sẽ có một ngày nào đó anh sẽ được trở về với gia đình, với xã hội. Ðiều quan trọng là anh ăn ở làm sao mà khi ra đời, gặp lại bạn tù, người ta vui vẻ chào anh, mời anh một điếu thuốc, chứ đừng để cho người ta phải tránh né anh, hoặc nhổ vào mặt anh một bãi nước miếng!

Tôi tự nhiên cảm thấy sung sướng thật sự vì mình đã không nằm ở vế thứ hai…

BS.Tôn Thất Sang

From: TU-PHUNG

Nước Mắt Trong Nail

Nước Mắt Trong Nail

Kiếp làm Nail, chủ cũng như thợ, đôi khi được dự phần vào những chuyện mủi lòng không thể quên.

“Nước Mắt Trong Nail,” chuyện thật, chuyện không hề thêu dệt vì bất cứ những dụng ý nào khác, đã xảy ra tại tiệm Solar Nails & Spa, Indianapolis.

Trời hôm ấy nóng, nóng lạ thường, làm người người dân địa phương ngạc nhiên về một ngày thứ Bảy trong cuối tháng Sáu. Một người đàn bà trạc tuổi trung lưu, ăn mặc đơn sơ, bước chầm chậm vào tiệm, hai tay ôm chặt cách tay của hai ông bà già, trạc tuổi 80, 90, yếu ớt, lê thê chân bước.

Sau khi cả ba người cùng ngồi vào ghế bồn làm chân, người đàn bà trung niên ngồi giữa, ông cụ già ngồi bên phải và bà cụ già ngồi bên trái của bà ta. Thỉnh thoảng, ông cụ thều thào: “Mẹ con đâu rồi?” ông lăp đi lặp lại hai ba lần. Người đàn bà đáp: “Ba ơi, Mẹ đây, Mẹ đang ngồi bên cạnh con đây.” Cứ cách vài phút, ông cụ lại lặp lại câu hỏi, “Mẹ con đâu rồi?” Người đàn bà nắm lấy bàn tay bên trái của cụ ông đặt lên bàn tay phải của cụ bà để bàn tay cụ ông được sờ vào bày tay cụ bà; “Ba ơi, Mẹ đây, tay Mẹ đây,” vừa nói, bà vừa quay qua cụ ông và theo dõi phản ứng của cụ.

Tôi thấy cử chỉ ân cần và kiên nhẫn của người đàn bà, cảm kích, liền tiến lại gần, hỏi han, mới biết được cụ ông trước đây là một luật sư, nhưng tuổi già, sức yếu, đã làm trí nhớ của ông hao mòn, nên thường xuyên hỏi, nhắc đến cụ bà.

Trong khi cả ba người đang được thợ lo chănn sóc móng chân, móng tay, một người đàn bà khác ngồi đối diện đến quày trả tiền và hỏi: “Ở đây có bán gift card không?” cô thư ký đáp: “Thưa có,” và lấy trong tủ ra một thẻ gift card bằng nhựa đưa cho bà. Bà hỏi, “Cô có loại gift card nào mà tôi có thể viết lên được không?” Cô thư ký đáp: “Thưa bà không.” Bà hỏi tiếp, “Vậy cô cho tôi mượn cây bút và cho tôi một mảnh giấy.”

Bà lấy bút giấy qua chiếc bàn đối diện, rồi trở lại, bà mua một gift card một trăm đô ($100.00). Bà nhờ cô thư ký mang tờ giấy bà vừa viết và gift card đến trao tận tay người đàn bà đang ngồi giữa hai ba mẹ già.

Cầm trong tay mảnh giấy, từng ngón tay của bà dần dần di động, mặt bà ửng đỏ. Rồi khuôn mặt bà bỗng dưng đổi sắc, từ trong khoé mắt, hai dòng lệ lăn dài xuống đôi má. Bà nghẹn ngào, lấy tay lau nước mắt.

Tôi đứng lặng yên, không ngăn nổi xúc động, mắt tôi ướt. Nhìn qua cô thư ký, nước mắt cô ta cũng đã làm ước cả đôi má. Tôi bước đi, trả lại cho bà khoảng trống riêng tư.

Khi mọi dịch vụ móng xong, tôi ghé lại nói với người đàn bà, “Bà ơi, bà có thể chia sẻ với tôi người phụ nữ kia đã viết cho bà những gì?”

Bà trao cho tôi tấm thư, tôi đọc:

“Chị mến, ngồi nhìn thấy chị ân cần lo cho ba mẹ già, lòng tôi thổn thức. Chị là người con hiếu thảo, người phụ nữ tuyệt vời, nhắc nhớ tôi, người con gái cũng đã chăm lo cho ba mẹ tôi trước đây, các ngài đã yên nghỉ bảy (7) năm về trước. Quả thật, ba mẹ chị thật diễm phúc có một người con hiếu thảo như chị. Chúc chị bình an!”

Đọc đến đây, người tôi nóng ran lên, nước mắt tôi lại giàn giụa khi nào chẳng hay.

Những dòng ngắn ngủi ấy, dường như không chỉ viết cho người đàn bà trước mặt tôi, mà như đã viết cho chính tôi vậy. Vì chính tôi, cũng đã lo chăm sóc cho mẹ già nhiều năm liệt  trên giường bệnh, Mẹ cũng mất trí nhớ; và Mẹ vừa mới mất năm rồi. Nỗi nhớ nhung Mẹ vẫn còn bao la và triền miên trong trái tim tôi.

Tôi ôm cánh tay ông cụ, dìu ông ra khỏi ghế và đưa ông bước chầm chậm ra khỏi tiệm; mở cửa, đỡ ông cụ ngồi an toàn nơi ghế sau của xe, đóng cửa và lui lại phía sau để xe lùi bánh. Tôi đứng nhìn chiếc xe đưa hai ông bà cụ chạy ra khỏi khu shopping, rồi dần dần khuất xa cuối đường.

Tôi đứng lặng yên, nắng nóng, gió nhẹ thoáng xoa vào mặt, nghĩ miên man về người đàn bà hiếu thảo, nghĩ về mình, nghĩ về Mẹ, lòng lâng lâng, lâng lâng.

Rồi từ đó, tôi tìm thấy nơi tiệm Nail, không phải chỉ là nơi mưu sinh, kiếm tiền, mà còn là nơi con người tìm thấy con người. Tôi tìm thấy rất nhiều niềm vui và ngay cả những muộn phiền của khách trang trải trong những phút giây ngồi nơi bàn làm móng tay, hay nơi ghế làm móng chân, hay cả những lúc khách ngồi lặng yên, bất động, nhắm mắt như đang thả hồn về chốn xa xăm nào.

Tôi cảm nghiệm, tiệm Nail không còn là của mình, của riêng ai, mà là nơi đã cho mọi người trong giới Nail cơ hội tiếp cận với con người trong một cung cách hết sức thâm tình. Nhiều khách hàng khi nằm xuống còn yêu cầu con cháu họ đã gọi báo cho những thợ Nail, tiệm Nail như một lời chia tay, vĩnh biệt, đã song hành với người thân của họ, người quá cố, với những sinh hoạt của đời sống đáng nhớ.

Nguồn: Internet.

From: TU-PHUNG

Trạm Cuối Cuộc Đời

Các bạn già:

Tạm quên đi chính trị, chính em bây giờ, dành đôi phút đọc qua, hay đọc lại, bài viết về trạm cuối cuộc đời.

Cá nhân tác giả , thấu hiểu nổi buồn khôn tả khi phải sống ở nursing home, dù là skill nursing home, một ngày sống ở đó, là một ngày đầy đau khổ và chán nản, buồn phiền !!!.

Bây giờ, mình còn phân nửa bên cạnh, là có phước lắm rồi. Một mai, không thể tự lo và phân nửa đã đi trước về phương trời nào đó, có lẻ là những ngày buồn tẻ, và u ám tột cùng khi phải vào nhà nursing home.

Trạm Cuối Cuộc Đời.

Chú Chín Cali Sống ở Mỹ khá lâu nên tôi ít nhiều cũng bị ảnh hưởng tư tưởng của người Mỹ nên không có ý định nhờ vả con cái khi tuổi về chiều.

Một ngày nào đó khi thấy mình không còn khả năng để tự lo cho mình được nữa tôi sẽ vào sống trong các “Boarding care” để có người chăm sóc, nếu tệ hơn sẽ được hưởng những phúc lợi dành cho người cao niên và được bảo vệ bởi hệ thống an ninh xã hội Mỹ.

Ở Mỹ có “Nursing Home” được trang bị đầy đủ phương tiện, kỹ thuật và nhân sự chuyên môn để chăm sóc những người không còn khả năng tự lo cho mình, có “Hospice Service” chăm sóc vật chất lẫn tinh thần cho các bệnh nhân không thể sống hơn sáu tháng, giúp họ ra đi trong yên bình và giúp gia đình họ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất.

Nhưng tư tưởng lạc quan này đã hoàn toàn thay đổi từ khi tôi thật sự đối diện với tử thần và nếm mùi bệnh viện sau khi trải qua một cơn bạo bệnh phải vào bệnh viện trong 10 ngày.

Tuy đã được thoát chết, vết thương mổ xẻ đã lành, nhưng những đau đớn về thể xác và vết thương tâm thần mà bệnh viện để lại vẫn còn hằn sâu trong ký ức không bao giờ lành.
Từ đấy tôi bắt đầu thấy sợ bệnh viện, sợ luôn cả nursing home vì đây chẳng qua chỉ là một hình thức khác của bệnh viện, bệnh viện của người già.

Từ tâm trạng sợ hãi này tôi liên tưởng đến 4 năm hãi hùng mà nhạc mẫu tôi phải trải qua trong nursing home trước khi bà mất.

Từ đấy những quảng cáo đẹp về nursing home với hình ảnh những cụ già vui chơi hạnh phúc được thay thế bằng những hình ảnh đau khổ của nhạc mẫu tôi và của những cụ già ngồi xe lăn ủ rủ, nghiêng ngả, cong queo, nhễu nhão, những gương mặt mếu máo, những ánh mắt vô thần.

Chúng tôi may mắn được sống chung với cha mẹ vợ vì bà xã tôi là con gái út.

Lúc còn khỏe ông bà nhạc của tôi quán xuyến hết mọi chuyện trong nhà để vợ chồng tôi được rảnh tay lo chuyện ngoài xã hội.

Hai con tôi gần gũi với ông bà ngoại nhiều hơn với cha mẹ chúng. Đi học về vừa đến cổng nhà là đã réo gọi ông bà ngoại.

Tuy nuôi con nhưng thật ra tôi chưa biết thay tã hay cho con bú! Kể cả tiếng Việt chúng nói đều nhờ ông bà dạy từ ngày chúng bập bẹ tập nói.

Nhưng cuộc sống hạnh phúc chấm dứt từ khi nhạc mẫu tôi ngã bệnh.
Năm 78 tuổi, sau chuyến du lịch Việt Nam về, mẹ nằm suốt trong phòng, than mệt. Ngoài bệnh tiểu đường loại 2 mãn tính, mẹ thường xuyên bị nhiễm trùng đường tiểu, đau cột sống, ho kinh niên và sau đó khám phá ra bị ung thư phổi.

Từ đấy bà ra vào bệnh viện như đi chợ. Thiếu bàn tay của mẹ, gia đình tôi rối loạn lung tung, con cái đi học trễ, cơm nước thất thường, nhà cửa bề bộn.

Vợ chồng tôi phải tập lại từ đầu cách quán xuyến gia đình, nuôi con, thêm nuôi mẹ già trong bệnh viện. Bố cũng yếu chỉ hụ hợ chuyện lấy thơ, đổ rác, đóng cổng là đã than mệt rồi.

Bác sĩ ung thư khuyến cáo không nên mổ xẻ hoặc trị liệu gì cho mẹ vì ung thư đã di căn đến não.

Hơn nữa tuổi mẹ đã quá cao lại bị bệnh tiểu đường nên vết mổ không lành. Hãy để cho thiên nhiên quyết định vận mệnh của mẹ.

Tôi giấu nhẹm lời bác sĩ bảo rằng mẹ chỉ sống tối đa là sáu tháng. Mẹ được cho về nhà với lời khuyên “thích ăn cái gì cho bà ăn cái nấy”.
Nhưng “Còn nước còn tát” chúng tôi không chịu thua, chạy chữa bệnh cho mẹ bằng thuốc nam. Ai bày thuốc gì ở đâu tôi cũng tìm cho được.
Khi lái xe mắt tôi cũng láo liên nhìn bên lề đường, dọc theo các hàng rào tìm cây cỏ “Dendelion” để hái lá cho mẹ ăn. Nghe nhà ai có cây Nha Đam chúng tôi cũng tìm đến xin hay mua cho bằng được. Bã xã tôi cầu nguyện cho mẹ hàng ngày không xao lãng.

Như được một phép nhiệm mầu, bệnh ung thư của mẹ tôi thuyên giảm dần dần và sau mấy tháng khối u trong phổi tự nhiên biến mất.

Bác sĩ gia đình rất vui bảo “Đừng thắc mắc, hãy cứ tin là như vậy đi”.
Nhạc mẫu tôi thì tin là mình đã khỏi bệnh thật, còn vợ chồng tôi thì gần như kiệt lực, mong sau phép lạ sẽ kéo dài.

Bệnh ung thư không thấy trở lại, nhưng bệnh đau cột sống làm mẹ đau đớn không ăn ngủ được nên sinh ra khó tính.

Mẹ lại quên trước quên sau. Mẹ không còn kiểm soát được tiêu tiểu nữa nhưng nhất định không chịu mang tã. Bố cũng già mệt mỏi, suốt ngày ngủ trong phòng. Ông bà lại không biết tiếng Mỹ, không dùng điện thoại, nên khi vợ chồng tôi đi làm lúc nào cũng phập phồng lo sợ.
Bác sĩ gia đình đề nghị nên cho mẹ vào nursing home để dễ bề chăm sóc. Vợ chồng tôi đồng ý ngay nhưng gặp sự phản kháng quyết liệt của nhạc mẫu tôi.
Suốt đời mẹ không bao giờ xa gia đình nửa bước nói chi chuyện cách ly vĩnh viễn!

Đối với mẹ, mất gia đình là mất tất cả. Chúng tôi nể mẹ nên không dám nói chuyện nursing home nửa, chỉ sợ làm mẹ buồn ảnh hưởng đến sức khỏe.

Nhưng sức khỏe của mẹ càng lúc càng tệ. Sau lần cấp cứu cuối cùng vì bị ngất xỉu, bác sĩ đề nghị phải đưa thẳng mẹ vào nursing home, vì theo ông, đó là cách tốt nhất để bác sĩ có thể theo dõi bệnh tình và giữ an toàn cho mẹ.

Ngày đầu tiên vào nursing home không ai nỡ bỏ mẹ một mình nên quấn quýt bên bà cho đến tối rồi cũng phải ra về. Đó là ngày đầu tiên trong cuộc đời mẹ phải sống lẻ loi một mình bên những người xa lạ.

Tôi còn nhớ rõ gương mặt thẫn thờ của mẹ nhìn theo con cháu đang bỏ bà mà đi. Tôi không dám nhìn mẹ lâu hơn vì tôi thấy mẹ khóc, một điều rất lạ đối với nhạc mẫu tôi vốn là người đàn bà cang cường và cứng rắn.
Bố thấy tội nghiệp đòi mỗi ngày chở bố vào nursing home để ông chăm sóc cho mẹ. Được mấy tuần rồi tôi cũng chịu thua vì chuyện đón đưa hàng ngày thật là bất tiện….
Còn nếu để bố đi xe bus nếu có chuyện gì xảy ra thì ai lo cho bố đây!

Từ ngày Mẹ vào nursing home vợ chồng tôi thở phào nhẹ nhõm, không còn phải lo lắng như khi xưa khi bỏ mẹ ở nhà.. Chúng tôi yên tâm là mẹ được theo dõi và chăm sóc 24/7.
Tan sở vợ chồng tôi chở bố vào thăm mẹ, thấy mẹ sạch sẽ thơm tho, giường nệm trắng tinh, kẻ qua người lại tấp nập vui vẻ lắm.
Yên tâm chúng tôi dần dần xao lãng việc thăm viếng…. Cả hai cháu cũng không còn đòi đi thăm ngoại nữa, nhiều khi phải bắt chúng mới chịu đi. Chúng không thích cái mùi trong nursing home.

Từ ngày sống trong nursing home mẹ hoàn toàn thay đổi, trở nên trầm lặng, ít nói, khác hẳn với mẹ trước đó “quậy” tưng bừng trong bệnh viện.

Mẹ chịu mang tã, nằm yên trên giường, không có ý kiến chuyện chung quanh, không đòi hỏi gì, không còn than phiền đau lưng nhức gối, hay càu nhàu vì thiếu ngủ, mất ăn như lúc ở nhà.

Sau này mới biết bà đã được cho dùng thuốc an thần và thuốc đau nhức nồng độ cao nên lúc nào bà cũng ở trạng thái lờ đờ lim dim ngủ.
Có lúc tỉnh táo, mẹ chỉ nhìn qua khung cửa sổ với đôi mắt vô thần. Hỏi mẹ có đau đớn gì không, mẹ lắc đầu. Hỏi có thích ăn uống đồ ăn Việt Nam không mẹ lắc đầu, tuy tôi biết là mẹ rất ghét đồ ăn Mỹ nhất là khẩu phần cho bệnh nhân tiểu đường và cao máu nhạt nhẽo không sao nuốt nổi.
Mẹ chịu đựng, sống âm thầm không một lời than thở.

Cho đến một hôm mẹ nắm tay nhà tôi, nước mắt rưng rưng mẹ van xin:
– Mẹ muốn chết con à. Con xin người ta cho mẹ chết đi!
Bà xã tôi sững sờ, ôm mẹ năn nỉ:
– Mẹ đừng nói kỳ vậy, phải ráng lên chớ, con biết phải làm sao bây giờ? Rồi vợ tôi cũng khóc. Tôi chỉ đứng nhìn. “Chúng tôi biết phải làm sao bây giờ”?
Vợ chồng tôi đều nghĩ rằng đã tìm được giải pháp tốt nhất cho mẹ rồi. Mẹ thì đã “ráng” quá nhiều, ráng đến mỏi mòn, đến kiệt quệ nên muốn bỏ cuộc.
Đã bốn năm dài đằng đẵng mẹ sống nơi đây như cái xác không hồn.

Có lúc chúng tôi vào thăm mẹ vào giờ ăn trưa thấy mẹ ngồi gục đầu trên xe lăn như một em bé ngoan, mắt nhắm nghiền, đợi đến phiên mình há mồm được đút cho ăn. Mẹ không còn thiết tha gì nữa.
Những tháng cuối cùng mẹ nằm trên giường đưa mắt nhìn con cháu, không cử động hoặc nói năng gì. Hình như có điều gì u uẩn trong lòng mà mẹ không nói được hay mẹ có tâm sự gì nhưng muốn giấu kín trong lòng.

Một buổi sáng sớm, tôi nhận được cú điện thoại từ nursing home báo tin là mẹ chúng tôi đã mất đêm qua.
Bà mất lúc nửa đêm nên không ai hay biết cho đến sáng ngày hôm sau.
Bà âm thầm ra đi không một lời từ giả, không một giọt nước mắt tiễn đưa. Chắc mẹ cô đơn lắm lúc trút hơi thở cuối cùng. Suốt đời mẹ lo cho chồng, cho con, cho cháu, ngày mẹ ra đi chỉ có một mình, trong cô đơn. Có ai biết rằng không phải mẹ chỉ cô đơn trong giây phút ra đi mà mẹ đã chết từ lâu rồi, kể từ ngày mẹ bước chân vào ngưỡng cửa nursing home, một nhà tù không cần đóng cửa.

Tôi chợt hiểu được tại sao mẹ đã khóc ngày đầu tiên đến nursing home. Ngày ấy mẹ chấp nhận bản án tử hình không văn tự vì muốn hy sinh cho con cái. Ngày ấy Mẹ đã khóc lời vĩnh biệt các con cháu rồi.
Chúng tôi vội vã vào nursing home vừa kịp lúc nhìn mẹ lần cuối cùng trước khi người ta phủ kín mặt mẹ với tấm trải giường màu trắng rồi mang xác mẹ đi. Mọi người đứng nhìn theo chết đứng, ngỡ ngàng, đớn đau, nhưng không ai khóc thành lời.Chúng tôi đã biết là ngày này sẽ đến với mẹ, và hôm nay nó đã đến.

Cái chết của nhạc mẫu nhắc tôi nhớ lại chuyện cổ tích về chuyện người tiều phu đẩy xe chở mẹ vào rừng cho thú hoang ăn thịt vì bà đã quá già.
Tôi có khác gì người tiều phu đó, đã đưa nhạc mẫu tôi vào nursing home để chết. Đến một ngày nào sẽ đến lượt con tôi chở tôi đi như vậy sao?

Tôi lại nhớ đến chuyện con voi già biết mình sắp chết, nó âm thầm đi vào cái “nghĩa địa voi” là cái hang động cho voi đến để chết.
Nó âm thầm gục chết một mình bên cạnh những đống xương voi già đã chết trước nó. Tôi chợt nghĩ nếu con người làm được như con voi già thì con cháu không phải cực khổ vì cha mẹ già, không phải khổ tâm vì mặc cảm là đã làm một hành động bất nhân, bất hiếu, như tâm trạng hối hận của tôi bây giờ đối với nhạc mẫu của tôi.

Nursing home. Cái trạm cuối của cuộc đời mấy ai tránh khỏi!
Bạn đã chọn cho mình cách đến chưa?

Chú Chín Cali

From: Doan Dang

image.png

  Trong họa có phúc, trong phúc có họa…

  Trong họa có phúc, trong phúc có họa…

 Người gác cửa muốn chia sẻ nỗi vất vả với Chúa Jesus, nhưng quả thực những điều mắt thấy tai nghe lại không phải như những gì mà anh ta nghĩ. Có một câu chuyện kể rằng: Trong một giáo đường, có một bức tượng Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá, kích cỡ gần bằng người bình thường. Nơi đây được mọi người cho là “cầu được ước thấy”, rất linh thiêng, người khắp nơi tấp nập đến cầu nguyện, lễ bái, dòng người đông như trẩy hội

Trong giáo đường có một người gác cửa, mỗi ngày nhìn thấy Chúa Jesus trên thập tự giá, đều phải lắng nghe lời cầu nguyện của nhiều người như vậy, cảm thấy không đành lòng, nên hy vọng có thể chia sẻ nỗi vất vả với chúa Jesus. Một hôm, ông ta hướng đến Chúa Jesus bày tỏ tâm nguyện này.

Thật bất ngờ, ông nghe được một giọng nói: “Tốt lắm! Ta sẽ xuống dưới canh cửa cho anh, còn anh thì sẽ lên thập tự giá thay ta. Nhưng mà, có một điều kiện, bất luận anh thấy cái gì, nghe được điều gì, đều không được nói câu nào”. Người đàn ông này cảm thấy có thể làm được, thấy yêu cầu này thật đơn giản.

Vì thế Chúa Jesus xuống dưới, còn người đàn ông gác cửa thì thay thế vị trí của Chúa Jesus. Bởi vì kích cỡ của bức tượng cũng tương đương với người thật, nhìn cũng không thấy sai biệt nhiều lắm, vậy nên những người đến cầu nguyện cũng không nghi ngờ gì. Và người đàn ông này cũng như đã hứa, đóng giả Chúa Jesus, im lặng không nói gì.

Dòng người lui tới nối liền không dứt, bọn họ khẩn cầu, có điều hợp lý, có điều không hợp lý. Nhưng bất kể như thế nào, người gác cửa đóng giả Chúa Jesus đều cố nén không nói gì, bởi vì nhủ lòng mình phải tuân thủ lời hứa.

Đến một ngày, có một vị thương nhân giàu có đi tới, sau khi cầu nguyện xong thì quên mất không mang theo túi của mình. Người gác cửa nhìn thấy, muốn gọi vị thương nhân kia quay lại, nhưng mà cuối cùng phải nhịn lại không thể nói. 

 Tiếp sau đó, có một người nghèo khổ rách rưới đi đến, cầu nguyện Chúa Jesus giúp anh vượt qua cuộc sống khó khăn này. Khi chuẩn bị rời đi thì phát hiện một cái túi to, bèn mở ra thì thấy bên trong có rất nhiều tiền. Anh ta mừng rỡ, nói rằng Chúa Jesus thật linh nghiệm, cầu được ước thấy, phủ phục cảm tạ rồi rời đi.

Trên thập tự giá, người gác cửa chứng kiến tất cả chuyện này, muốn mở miệng nói túi tiền kia không phải của anh. Nhưng mà vì ước định lúc trước, nên đành phải nhịn lại không thể nói. Kế tiếp có một người thanh niên trẻ tuổi bước vào, anh này chuẩn bị lên thuyền ra biển, nên đến cầu khẩn Chúa Jesus cho mình được may mắn bình an.

Đang lúc chuẩn bị rời đi thì vị thương nhân lúc trước đột nhiên xông tới, túm lấy vạt áo người thanh niên trẻ tuổi này, yêu cầu trả lại túi tiền. Người thanh niên không hiểu chuyện gì, vậy là hai người cãi cọ ầm ĩ cả lên. Lúc này, trên thập tự giá, người gác cửa đóng giả Chúa Jesus rốt cuộc nhịn không được, đành phải mở miệng nói. Chuyện được nói ra rõ ràng, vị thương nhân liền đi tìm người nghèo khổ kia để đòi lại tiền, còn người thanh niên trẻ tuổi cũng vội vã rời đi để kịp giờ lên thuyền ra biển.

Lúc này Chúa Jesus thật mới bước ra, chỉ tay lên thập tự giá nói: “Anh xuống đây đi! Vị trí kia anh không thể đảm trách được”. 

 Người gác cửa nói: “Tôi đem sự thật nói ra, bảo vệ lẽ phải, chẳng lẽ không đúng sao?”.

Chúa Jesus nói: “Anh biết được gì chứ? Vị thương nhân kia cũng không thiếu tiền, cái túi tiền kia bất quá chỉ là dùng để ăn chơi trác táng, nhưng đối với người nghèo kia lại có thể là sinh kế cứu sống cả nhà; đáng thương nhất chính là người thanh niên trẻ tuổi, nếu vị thương nhân cứ gây sự với cậu ta, dây dưa làm lỡ thời gian của cậu ấy, thì may ra có thể bảo toàn tính mạng, còn bây giờ cậu ta đã lên thuyền, đã bị đắm chìm trong biển nước rồi”.

Nghe vậy người gác cổng lặng người….

Câu chuyện ngắn này đã cho chúng ta thấy được nhiều điều ý nghĩa. Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường kỳ vọng những điều tốt nhất, và khi hễ không được như ý nguyện, thì vội than thân trách phận, thậm chí than trách ông trời bất công đối với mình.


Tuy nhiên, những điều chúng ta nhìn thấy và cho là đúng nhưng chưa hẳn đã đúng, điều cho là không tốt, lại chưa hẳn đã không tốt. Người xưa cũng thường nói, trong cái rủi có cái may, trong họa lại có phúc. Vậy nên, chúng ta nên tin tưởng rằng, những điều xảy ra trước mắt, cho dù là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thì tất thảy đều là những an bài tốt nhất đối với mình. Bởi vậy, mới có câu nói rằng, thuận theo tự nhiên cũng là một loại phúc.

Và còn một điều nữa, con người cũng chỉ là con người, dùng lối suy nghĩ của con người để “tưởng tưởng” các vị Phật, Đạo, Thần, Chúa rằng các Ngài chắc hẳn cũng có lối nghĩ giống mình, nhưng họ không hiểu được một điều rằng… con người quá nhỏ bé, trí tuệ thì nông cạn, lại còn mang theo các quan niệm ích kỷ, vị tư khác nhau, thì làm sao mà có thể giống như các vị ấy được? 

 Những vị thần có trí tuệ vô biên, một trái tim bao la chứ không phải một trái tim nhỏ nhoi, nhìn thấu được bản chất của sự vật, bản chất của vật chất, nhìn thấu hết thảy, những sinh mệnh cao cấp này điều hành vũ trụ theo đúng quy luật tự nhiên vốn có của nó! 

 Vậy nên, chỉ có đặt niềm tin vô điều kiện vào các thế lực siêu nhiên, với một trái tim chân thật và thiện lương, thì loài người mới cảm thấy được sự từ bi và bao dung rộng lớn của các ngài, mới có được một cuộc sống hạnh phúc đúng nghĩa!

 nguồn trên mạng

 From: TU-PHUNG

Có tiền ở Việt Nam sướng hơn

Kimtrong Lam

Có tiền ở Việt Nam sướng hơn

Tác giả : Nguyễn Thị Thanh Dương.

Ngày đăng: 2020-10-10

Lan nhận được cú phone của chị Tư từ Việt Nam gọi sang lúc 5 giờ chiều tức 5 giờ sáng bên Việt Nam. Chẳng biết có chuyện gì làm chị Tư phải gọi sớm thế. Tiếng chị Tư hối hả:

– Lan à, suốt đêm qua buồn quá chị không ngủ được chỉ mong mau sáng để gọi cô.

Lan lo lắng và hồi hộp:

– Nhà xảy ra chuyện gì vậy chị Tư?

– Chị quyết định lại rồi. bây giờ chị…muốn đi Mỹ. Ðược không?

Lan kêu lên:

– Trời, chị đã từ chối, sở di trú Mỹ đóng hồ sơ lâu rồi. Làm sao đi?

– Bởi vậy chị mới cầu cứu em. Em làm đơn giải thích với sở di trú và xin mở lại hồ sơ giùm chị nha.

Chị Tư thở than:

– Bây giờ chị mới biết là mình sai lầm, mình…ngu quá em ơi. Thằng Tú tốt nghiệp đại học không xin được việc làm nó đang buồn chán. Trong khi hai con của anh Hai và chị Ba ở Mỹ học xong đại học ra trường có việc làm, lương cao ngon lành. Con chị cũng học giỏi chăm ngoan, nó mà qua Mỹ thì thua kém gì các anh chị họ của nó chớ.

– Chị kêu nó nộp đơn xin việc nhiều nơi xem sao, đừng vội nản chí. Ở Mỹ xin việc cũng thế thôi.

Chị Tư chán nản:

– Những công ty nhỏ đồng lương không đủ cho con chị… tiêu vặt và thường chết yểu, hôm nay hoạt động rầm rộ mai chết mấy hồi, còn những công ty nước ngoài hay công ty lớn thì ưu tiên tuyển chọn những bằng cấp tốt nghiệp nước ngoài, nhất là nước Mỹ thế mới chua xót cho chị, hoặc là tuyển con ông cháu cha không à… chị cũng đang tìm cách “thủ tục đầu tiên” xin việc cho nó được một chỗ ngon lành mà chưa xong…

– Ở Mỹ cũng có cảnh ra trường không xin được việc làm, đó là tùy vào số cung số cầu. Nhưng rất công bằng, không phải chạy chọt nhờ vả ai hết.

Chị Tư năn nỉ:

– Bởi vậy chị mới thấy thương thấy tiếc cho thằng con chị. Em làm gấp đơn khiếu nại… À quên đơn thỉnh nguyện cho chị đi Lan, nước Mỹ bao dung nhân đạo lắm mà. Chắc họ sẽ… thông cảm.

Hồ sơ bảo lãnh đã đóng mấy năm nay, ai rảnh mà ngồi đó cứu xét thông cảm cho từng hoàn cảnh gia đình. Nhưng Lan thương chị nên vẫn hứa:

– Ðược rồi, để hôm nào em đến sở di trú địa phương hỏi cho cặn kẽ xem có thể xin mở hồ sơ lại không. Em sẽ cố hết sức.

o O o

Lan là người con duy nhất đi xuất cảnh cùng với cha theo diện HO. Anh Hai, chị Ba, chị Tư đều đã quá tuổi và có gia đình con cái nên không được đi cùng.

Sang Mỹ, được hưởng cuộc sống thoải mái về tinh thần và vật chất cha và Lan đều mong muốn những người thân còn lại sang đây đoàn tụ. Cha đã làm việc chăm chỉ và thi quốc tịch ngay khi đến thời hạn cho phép.

Bốn năm sau Lan gởi đơn cha bảo lãnh về cho các anh chị. Diện cha bảo lãnh con đã có gia đình phải mất thời gian dài khoảng 4-5 năm nhưng vẫn còn kịp cho đám con của các anh chị khi chúng sang Mỹ, đứa lớn nhất cũng độ tuổi bắt đầu vào đại học. Thật là thuận lợi.

Anh Hai, chị Ba háo hức gởi giấy tờ sang cho Lan để bổ túc hồ sơ bảo lãnh, còn gia đình chị Tư thì… không.

Chồng chị Tư đang là nhân viên nhà đất của huyện, công việc hái ra tiền ra bạc. Ngoài tiền người ta mang đến nhà “làm quà” để chồng chị ký giấy tờ cho họ, anh còn lạm dụng chức vụ mua được những mảnh đất lợi thế cho tương lai với giá rẻ, chỉ vài năm sau những miếng đất chốn đồng không mông quạnh, khỉ ho cò gáy ấy đã trở thành “đất vàng”. Tiền của đất đai bề bề như thế nên anh chị Tư không màng chuyện đi Mỹ.

Chị Tư nói có tiền ở Việt Nam sướng hơn, muốn gì cũng có cần gì phải đi Mỹ để phải làm lại từ đầu. Ðọc báo thấy mấy Việt kiều và mấy nghệ sĩ hải ngoại tâm tình hồi mới sang Mỹ phải đi chùi cầu tiêu cực khổ mà thương.

Lan đã giải thích những người sang Mỹ đủ loại thành phần, họ bắt đầu cuộc sống bằng nhiều cách, nhiều công việc khác nhau, không phải ai đến Mỹ cũng đi chùi cầu tiêu. Mà dù họ có làm công việc ấy hay bất cứ công việc tầm thường nào khác cũng chỉ là tạm bợ lúc mới chân ướt chân ráo đến Mỹ. Biết bao người Việt đã thành công, thành người và thành danh từ những bước đầu tiên khó khăn ấy.

Chị Tư liền khoe:

– Em à, anh chị nhà cao cửa rộng, có người giúp việc, các con chị được hầu hạ cưng chiều sướng như tiên. Có buổi sáng cô giúp việc quen lệ mua về đĩa bánh ướt giò lụa, con chị đổi ý là cô ta phải chạy ba chân bốn cẳng ra ngoài mua ngay tô hủ tiếu cho nó điểm tâm. Còn chuyện học hành hả? không lo, mai mốt chúng lớn chị sẽ cho cả ba đứa con sang Mỹ du học, tốn kém bao nhiêu đối với chị cũng không thành vấn đề.

Lan vẫn cố công thuyết phục vợ chồng chị Tư cứ gởi giấy tờ qua Mỹ để Lan hoàn thành hồ sơ bảo lãnh đoàn tụ, vài năm sau được phỏng vấn đi Mỹ quyết định lại cũng còn kịp. Họ nể lời cô em và sự mong muốn thúc giục của người cha nên đã gởi đầy đủ các giấy tờ cần thiết cho xong chuyện.

Dù ai muốn hay không thì thời gian vẫn trôi qua. Cả ba gia đình anh Hai, chị Ba và chị Tư đều lần lượt được phái đoàn Mỹ gọi phỏng vấn.

Gia đình anh Hai, chị Ba xuất cảnh sang Mỹ trong khi gia đình chị Tư cứ hẹn đi hẹn lại với phái đoàn Mỹ với những lý do bận giải quyết chuyện gia đình cho đến khi sở di trú Mỹ gởi một lá thư và mời đi phỏng vấn lần cuối, nếu không đi thì họ sẽ đóng hồ sơ.

Sang Mỹ, gia đình anh Hai, chị Ba mau chóng hội nhập cuộc sống mới. Bước đầu các anh chị xin việc làm ở các nhà hàng, giúp việc trong tiệm giặt Việt Nam để có tiền ngay. Sau đó họ xin làm việc trong các hãng xưởng có những quyền lợi bảo hiểm y tế và những lợi ích khác, nhất là công việc ổn định hơn.

Các con họ đều đến trường, đứa nhỏ vào trung học, đứa lớn vào college. Tuổi còn nhỏ và rất trẻ nên chúng tiến bộ nhanh về ngôn ngữ và chuyện học hành.

Cả nhà đều tiếc vợ chồng chị Tư đã từ chối đi Mỹ. Họ vẫn làm ra nhiều tiền của và không thay đổi suy nghĩ: Có tiền ở Việt Nam sướng hơn!

Nhiều người Việt sinh sống tại Mỹ cũng nhìn đời đơn giản hời hợt như thế, hoặc họ bất mãn gì đó, hoặc họ không thành công trong cuộc sống ở Mỹ. Bảo lãnh người thân sang đây làm gì, phải đi làm vất vả cực như…trâu. Ở Việt Nam có tiền vẫn sướng hơn.

Thằng Tú, con lớn nhà chị Tư xong trung học là hào hứng làm giấy tờ xin đi du học Mỹ nhưng không hiểu vì lý do gì khi phỏng vấn bị từ chối. Nó buồn lắm.

Anh chị Tư thương con, khuyên con xin du học ở Úc hay Singapore nhưng nó không nghe, chỉ muốn du học Mỹ vì nghe các anh chị, con của anh Hai chị Ba bên Mỹ kể chuyện học hành, trường lớp, nó đã thích mê. Nó trách cha mẹ sao ngày ấy không chịu đi Mỹ để nó được bằng các anh chị họ của nó. Chị Tư nghe con trách mà xót xa, đôi khi chị cũng tiếc rẻ về quyết định của mình nhưng vẫn lựa lời an ủi:

– Ở đây có tiền của cũng sung sướng con ơi.

Tú thi đậu vào đại học. Chị Tư lên Sài Gòn mua hẳn một căn nhà đẹp cho con ở để ăn học. Chị mua được mọi thứ tiện nghi cho con, nhưng vẫn không mua được cuộc sống bên Mỹ, trường đại học Mỹ cho nó.

Nó không nghe, chỉ muốn du học Mỹ vì nghe các anh chị, con của anh Hai chị Ba bên Mỹ kể chuyện học hành, trường lớp, nó đã thích mê. Nó trách cha mẹ sao ngày ấy không chịu đi Mỹ để nó được bằng các anh chị họ của nó. Chị Tư nghe con trách mà xót xa, đôi khi chị cũng tiếc rẻ về quyết định của mình nhưng vẫn lựa lời an ủi:

– Ở đây có tiền của cũng sung sướng con ơi.

Tú thi đậu vào đại học. Chị Tư lên Sài Gòn mua hẳn một căn nhà đẹp cho con ở để ăn học. Chị mua được mọi thứ tiện nghi cho con, nhưng vẫn không mua được cuộc sống bên Mỹ, trường đại học Mỹ cho nó.

Ðể rồi ngày hôm nay, các con của anh Hai, chị Ba học đại học nọ kia bên Mỹ, ra trường đi làm thì thằng Tú con trai lớn của vợ chồng chị vẫn chỉ cầm cái bằng đại học ở Việt Nam đi xin việc nơi nào cũng gặp khó khăn. Làm sao mà chị không ganh tị.

Anh Hai, chị Ba lúc ở Việt Nam chẳng khá giả gì. Họ bán căn nhà cấp bốn mang tiền sang Mỹ, thế mà chỉ sau 5-6 năm chăm chỉ làm việc ai cũng có nhà trong khu hàng xóm đẹp đẽ sạch sẽ. Họ chỉ làm những công việc lao động bình thường, không chức vụ, không làm ăn khuất tất như vợ chồng chị Tư mà vẫn nên nhà nên cửa.

Mới đây người bạn thân của vợ chồng chị Tư bị bệnh nặng. Gia đình giàu có, cả nhà bạn chỉ ước ao mang được người bệnh qua Mỹ chữa trị.

Chị Tư nghe mà tiếc hùi hụi. Người ta còn phải ước mơ như thế mà chị từng từ bỏ nó.

Vợ chồng chị Tư đã dần dần thấm thía có bao nhiêu thứ trên đất nước Mỹ kia anh chị không thể mua được bằng tiền.

Vợ chồng chị Tư đã học được một bài học đáng giá. Họ đã từng tâm đầu ý hiệp từ chối đi Mỹ. Nay họ biết mình đã sai lầm và hơn lúc nào hết cả hai vợ chồng lại cùng tâm đầu ý hiệp muốn đi Mỹ.

o O o

Lan đến văn phòng di trú để hỏi về trường hợp hồ sơ bảo lãnh của gia đình chị Tư. Lan đã nghĩ ra nhiều lý do…đáng thương mong thuyết phục họ mở lại hồ sơ. Nhưng tất cả tận tình của Lan đều hoài công. Chưa có luật lệ nào mở lại những hồ sơ đã từ chối phỏng vấn đi Mỹ và đã close nhiều năm.

Lan không thất vọng mấy vì đã hiểu trước sự việc. Buổi chiều Lan phone ngay cho chị Tư thông báo rõ ràng cho chị đừng hy vọng chờ mong hão huyền nữa:

– Em đã đến sở di trú trình bày hồ sơ của chị cũng như nêu lý do phải từ chối phỏng vấn xuất cảnh thời gian đó, nay xin mở lại hồ sơ nhưng không được chị ạ.

Chị Tư thất vọng não nề:

– Vậy là chị không có cửa đi Mỹ rồi. Lúc nắm thời cơ trong tay đi Mỹ cái một thì chị không hưởng, bây giờ kiếm không ra.

Nhưng chị vẫn cố bám víu:

– Không còn cách nào sao em? Thí dụ như…chạy chọt đút lót cô nhân viên?

– Trời, chị làm như chuyện nhà đất của chồng chị, người ta cứ chạy chọt đút lót là anh ký giấy cho họ mua nhà bán đất ngay vậy đó. Luật lệ ở Mỹ là luật lệ, cô nhân viên có muốn cũng không làm nổi.

– Chị thua một ván bài to rồi em ơi!

– Chị vẫn có thể đi Mỹ nhưng…

Chị Tư hớn hở vội chụp lấy:

– Nhưng sao em nói lẹ đi. Phải chi tiền chạy chọt tới trung ương chị cũng theo.

Lan nhẹ nhàng:

– Em đã nói rồi, ở Mỹ không ăn hối lộ như ở Việt Nam. Tới tổng thống Mỹ cũng phải theo luật chị Tư ơi. Cô nhân viên sở di trú nói với em là nếu gia đình chị vẫn muốn đi Mỹ thì làm lại hồ sơ bảo lãnh từ đầu và chờ đợi. Thế thôi.

– Nhưng cha qua đời rồi. Ai bảo lãnh chị?

– Thì em chứ ai! Diện cha mẹ bảo lãnh con cái khoảng 5 năm, còn diện anh chị em ruột bảo lãnh nhau bây giờ tới mười hai mười ba năm lận. Anh chị đợi được không?

Chị Tư im lặng chắc là đang tính toán và ai oán:

– Lúc đó anh chị sắp già khú và con cái đã lớn. Coi như chị đành ở lại chấp nhận thương đau

– Em cũng đang tính nói thế.

Có tiếng anh Tư vọng vào trong phone:

– Em chuẩn bị xong chưa? Chúng ta cùng đi.

Chị Tư vội kể:

– Anh chị sắp đi công chuyện, lo chạy chọt tìm việc cho thằng Tú đó. Vợ của một người bạn anh Tư có thằng cháu là con rể của ông sui gia với ông phó tổng giám đốc của một công ty liên doanh với nước ngoài.

– Trời! Nhờ vả lòng thòng thế biết đường nào mà tính hả chị?

– Chuyện bình thường ở Việt Nam mà em. Thí dụ như mấy người đi xuất khẩu lao động, nói toẹt ra là đi nước ngoài làm cu li, lao động mà cũng phải đi đường vòng qua nhiều khâu trung gian nên tốn phí “giấy tờ” mấy trăm triệu là thế đó.

Rồi chị Tư tự an ủi:

– Thôi, dù gì ở Việt Nam có tiền mà chạy chọt cũng sướng hơn kẻ không có tiền phải không em.

Nói xong chị Tư cúp phone. Lan tưởng như trong tiếng phone của chị Tư còn vọng lại tiếng thở dài.

Nguyễn Thị Thanh Dương

CẢM GIÁC CHIẾN THẮNG

CẢM GIÁC CHIẾN THẮNG

Một cô gái hỏi: “Bao nhiêu tiền 1 trái dừa vậy ông?”

Ông già bán dừa trả lời cô gái: “Thưa cô 10 ngàn 1 trái.”

Cô gái nói: “Bán cho tôi 2 trái 15 ngàn được chứ, không được tôi đi chỗ khác.”

Người bán dừa trả lời: “Cô lấy đi, 15 ngàn 2 trái. Tôi nghĩ như vậy cũng tốt rồi bởi vì cả ngày nay tôi chưa bán được cho ai cả”

Cô gái lấy 2 trái dừa và bỏ đi với cảm giác của một người chiến thắng.

Cô ấy bước vào xe hơi và đi đón cô bạn, cả 2 cùng tới một quán ăn sang trọng. 2 cô gái ngồi xuống bàn và gọi những thứ họ thích. Họ chỉ ăn một ít và để lại rất nhiều thứ mà họ gọi ra.

Sau đó cô ta thanh toán hóa đơn. Hóa đơn là 950 ngàn, cô gái đưa 1 triệu và nói với ông chủ quán: “Khỏi thối”

————

Sự việc này có vẻ rất bình thường đối với ông chủ quán giàu có. Nhưng nó rất đau đớn cho người bán dừa tội nghiệp.

Tại sao chúng ta thể hiện sự tính toán chi li khi chúng ta mua hàng của những người nghèo khổ tội nghiệp?

Và tại sao chúng ta lại quá hào phóng với những người không cần sự hào phóng của chúng ta?

Mỗi lần một đứa trẻ nghèo đến với tôi để bán một cái gì đó đơn giản, tôi lại nhớ về ba tôi. Ba tôi thường mua những món đồ lặt vặt từ những người nghèo khó với giá cao, mặc dù ông không thực sự cần đến chúng. Có lần tôi thắc mắc hỏi ba về hành động “kỳ quặc” đó thì ba tôi nói: “Đó chính là chân giá trị của cái gọi là từ thiện”.

Bài st.

Photo: Nandi.

Một chuyến đi thăm nuôi chồng 

Một chuyến đi thăm nuôi chồng 

Hay và cảm động. cứ nghĩ nếu mình ở trong hoaǹ cảnh đó thì sao.

 Thân chuyển và tha thiết mời đọc cho hết bài viết.

   Những ai chưa phải đi tù cải tạo. Những ai đã đi tù cải tao được “Tạm tha” rồi mà quên lửng đi thời kỳ ở trong tù cải tạo. Những thầy tu, những nhà đạo đức nào từng khuyên các người tù cải tạo nên quên quá khứ, hòa hợp hòa giải. Đều nên đọc bài này.

   Họ, chỉ cần nhớ đoạn: Người vợ đi thăm tù mà không nhận ra được chồng minh.

  Phải ở hoàn cảnh của vợ chồng người tù cải tạo như người này mới hiểu tại sao có những người Chống Cộng Cực Đoan. 

Chân thành cám ơn các Chị, những người vợ quả cảm của người Lính VNCH, các Chị đã không bỏ anh em chúng tôi trong những năm dài tủi nhục trong ngục tù việt cộng. Hận thù này đến chết vẫn không quên.

Tưởng niệm 30 tháng Tư: Một chuyến đi thăm nuôi chồng

Hoàng Yến

 


Tiếng chuyển động rì rì của máy chiếc xe đò loại nhỏ đang chạy trên tuyến đường từ Qui nhơn đi Pleiku, Kontum. Hành khách trên xe bắt đầu chập chờn vào giấc ngủ. Dù có mệt mỏi cho một chuyến đi xa, tôi không thể nào ngủ được, mắt nhìn ra khung cảnh ngoài cửa sổ xe, nhà cửa lui dần khỏi cảnh ồn ào bụi bậm trong thành phố. Nhìn xa xa, những ngọn núi nối tiếp ẩn hiện nhấp nhô, được bao phủ lớp sương mù như mây như khói. Xe bắt đầu tăng ga để leo dốc, con đường dốc ngoằn nghèo thật cao, một bên là vách núi đá một bên là vực sâu, chiếc xe như chênh vênh đang bò bên bờ vực, phía dưới vực rừng cây mờ mờ thật sâu. Tôi không dám nhìn xuống phía dưới, đưa tay áp lấy ngực miệng lâm râm cầu nguyện, cứ tưởng tượng không biết lúc nào chiếc xe sẽ lao xuống vực. Xe leo gần tới đỉnh đèo, ngay khúc quẹo hình chữ V độ dốc thẳng và cao. Đột nhiên xe khựng mạnh và dừng hẳn. Những người trên xe bừng tỉnh nhốn nháo vì đầu máy xe đang bốc khói mù mịt, sợ xe cháy ông tài xế nhảy vọt ra khỏi cửa sổ xe. Chiếc xe không người lái lùi lại từ từ, mọi người trong xe hoảng hốt tìm cách nhảy ra ngoài. Tôi ngồi hàng ghế bên trong, kẹt cứng giữa đám người đang chen nhau thoát ra khỏi xe. Chiếc xe lùi lại thật nhanh. Thất thần mắt nhìn thấy bờ vực cận kề tôi hét to “Lậy Chúa tôi”. Trong lúc chú lơ xe cầm cái cục gỗ chận bánh xe lại, với đà đổ dốc bánh xe trườn trên cục gỗ nẩy mạnh lên và càng lùi nhanh hơn, chú lơ xe không kịp chạy theo. Tiếng la khóc, tiếng kêu cầu cứu Chúa và Phật, Tôi nhắm mắt phó linh hồn trong tay Chúa, biết chắc sẽ chết nơi đây. Giây phút cuối cùng, hình ảnh thân yêu của mẹ và chồng con tôi lóe nhanh trong đầu. Một tiếng “rầm” thật lớn cùng sức dội mạnh như muốn vỡ lồng ngực, mọi người đổ ngã chụm vào nhau, mọi sự chìm trong im lặng, nửa tỉnh nửa mê, không biết mình còn sống hay đã chết. Một phép lạ, chiếc xe đang lùi thật nhanh thì đuôi xe quay ngang đâm vào vách núi và khựng lại, bánh xe kẹt vào khe rãnh thoát nước. Nhờ ơn Trên, mọi người sống sót nhưng vẫn còn thất kinh hồn vía biểu lộ trên khuôn mặt.


Chúng tôi được chuyển qua một chiếc xe khác. Qua cơn hiểm nghèo, ai cũng nguyền rủa ông tài xế không có lương tâm, không có trách nhiệm, nắm giữ hơn 50 sinh mạng, chỉ biết cho mình, còn những người khác coi như cỏ rác. Tôi không nguyền rủa ông ta mà tôi đau cho cả xã hội này, đã đào tạo con người ông giống như CS. Nếu họ có trái tim, người dân đâu chịu khổ, chồng tôi đâu bị đày ải tù tội như thế này. Nhớ tới chồng, tới giây phút vừa thoát hiểm nguy, tôi bật khóc, nếu chiếc xe rớt xuống đèo, tôi không bao giờ còn thấy chồng, đau thương hơn nữa, tôi chết ngay địa danh gần nơi giam giữ chồng tôi, mà anh đang ngóng chờ mong mỏi được gặp tôi.


Xe qua khỏi mấy cái đèo nguy hiểm như đèo An Khê, đèo Măng Giang. Bớt lo sợ, tôi đưa mắt quan sát những hành khách còn trong xe. Bốn người tôi mới quen ở bến xe Qui nhơn tối hôm qua, cùng đồng cảnh đi thăm nuôi như tôi, họ ngồi rải rác những hàng ghế phía khác, mắt tôi chăm chú nhìn một ông lão ngồi ngoài đầu hàng ghế bên kia, cách chỗ tôi ngồi là lối đi giữa của hai hàng ghế. Ông trạc tuổi bố chồng tôi, dáng người nhỏ còm cõi trông rất hom hem. Ông không ngủ, trên khuôn mặt khắc khổ, thỉnh thoảng môi ông nhếch lên mỉm cười, ánh mắt lộ vẻ hân hoan như sắp nhận được món quà quí, hoặc sắp gặp lại gia đình sau một chuyến đi, đôi lúc lại thấy ông tư lự đăm chiêu như đang suy nghĩ một vấn đề gì, hai bàn tay ông ôm chặt cái giỏ vào lòng như sợ nó vuột mất. Bất giác tôi cười thầm nhìn xuống tay mình thì cũng như ông lão thôi, tôi có hai cái giỏ lúc nào cũng bên cạnh không dám rời xa nó, hở một tý là bị lấy cắp.


Bất chợt ông lão nghiêng mặt qua phía tôi, bắt gặp ánh mắt tôi đang nhìn ông. Tôi nhoẻn miệng cười chào hỏi làm quen:


– Dạ chào bác! Bác là người ở trên miền này hả bác?


Ông lão quay hẳn qua phía tôi cười. Răng ông đã rụng gần hết, miệng móm mém. Nhìn ông tôi có cảm tình ngay với đôi mắt và nụ cười hiền hòa phúc hậu của ông. Ông trả lời:


– Không! Tôi không phải người trên miền này cô à. Ông thân thiện. – “Tôi ở xa lắm! Cô có biết Saigon không? Nhà tôi còn ở xa hơn nữa, mãi tận Rạch Giá cô à”. Thấy ông lão vui vẻ, tôi tò mò hỏi tiếp:


– Vậy bác đi thăm con cháu ở trên này à?


Trong ánh mắt ông lão thoáng buồn, nhưng môi ông lại mỉm cười tạo trên khuôn mặt ông nét vừa buồn vừa vui, nửa khóc nửa cười. Tôi không thể nào đoán được ông lão đang nghĩ gì. Thấy ông im lặng, tôi than thở dùm ông lão:


– Trời ơi! Bác lớn tuổi rồi, sao không để con cháu về dưới thăm bác, đường đi xa xôi, lại nguy hiểm bác ngồi xe như thế này mệt lắm.


Miệng ông đang cười, câu nói của tôi như chạm vào nỗi niềm riêng tư của ông, mắt ông nhuốm màu sương khói ngấn lệ. Tôi cảm thấy áy náy cho câu hỏi thăm tự nhiên nhưng vô ý của mình, định ngỏ lời xin lỗi và an ủi ông, thì ông cất lên lời tâm sự cùng tiếng thở dài:


– Cô ơi! Tôi già cả rồi, đi lại rất khó khăn, đâu muốn đi xa như thế này đâu, vì thương con tôi phải đi thôi.


Nghe tới đây tự nhiên trong lòng tôi thật bất mãn người con của ông, thầm trách trong bụng: “Bố già rồi không về thăm bố, lại để bố lặn lội đường xa đi thăm mình, loại con gì vô tâm bất hiếu vậy”. Tôi đang tức dùm cho ông lão. Ông đưa mắt ngó tôi, chép miệng thở than:


– Tội nghiệp thằng con tôi lắm cô ơi! Nó bị nhốt mấy năm nay rồi, nó là lính VNCH cô à. Nói tới đây giọng ông nhỏ lại, đưa mắt lấm lét nhìn xung quanh như sợ người khác nghe. Có thể ông cảm được tôi đồng cảnh đồng thuyền nên ông dễ dàng tâm sự, nhìn tôi ông rỉ rả:


– Nó chưa vợ cô à, nên tôi cứ phải lê thân già đi từng trại tù thăm nó.

Tôi thật xúc động. Ông lão cùng cảnh ngộ với tôi, như một luồng giao cảm, tôi nghiêng người chồm hẳn gần ông lão hỏi nhỏ


– Bác! Vậy chuyến đi này có phải bác đi thăm nuôi ở trại tù Gia trung không ạ?


Mặc dù lần đầu tiên tôi đi đến vùng này, không biết con trai ông có cùng chung trại tù với chồng tôi không? Vừa nghe đến tên trại tù Gia-trung từ miệng tôi, ông lão mở to mắt mừng rỡ:


– Đúng! Tôi đi thăm con tôi ở đó.


Ông bỏ lửng câu nói, mắt nhìn tôi ngập ngừng, e dè nói khẽ: “Cô là người ở đây hay sao mà biết trại tù đó”?


Tôi mỉm cười với tay xoa nhẹ vào tay ông: “Thưa bác! Cháu không phải người trên này mà là cháu đi thăm nuôi nhà cháu ở trại tù đó”.


Mắt ông lão sáng lên. Thế là một già một trẻ cùng cảnh ngộ như nhau trở nên thân thiết. Nhích người chụm đầu vào nhau rủ rỉ chuyện thăm nuôi, chuyện gia đình, thời cuộc đất nước, chuyện khổ cực nghèo đói của mọi người sau ngày mất nước.


Ông tâm sự, người con của ông hiện giờ bị giam ở K3. Tôi đoán chắc không xa nơi giam giữ chồng tôi,vì chồng tôi ở K1. Đã mấy năm trời ông lăn lội đi từng trại tù thăm nuôi con trai ông. Trước ngày miền Nam mất vào tay CS, người con ông có vị hôn thê sắp làm đám cưới. Thời điểm đó đất nước trong cơn hỗn loạn, nơi con ông đóng quân đánh nhau dữ dội nên không thể về làm đám cưới. Ngày 29/4/1975 người vợ chưa cưới theo gia đình xuống tàu trốn chạy CS. Vài tuần sau con ông bị đưa đi tù cải tạo. Bà cụ thì quá gìa yếu bệnh tật liên miên, muốn đi thăm để nhìn thấy mặt con trai mà cũng không sao đi được. Ông chỉ lo bà cụ chờ không được tới khi con ông về.


Giọng ông run run thở dài lo sợ: “Hoặc là con ông không bao giờ có ngày về”. Lời ông đều đều bên tai như muốn tôi chia sẻ nỗi buồn niềm đau với ông. Ông cứ kể, tôi vẫn nghe để cho những gì đang chất chứa trong ông hòa vào với khổ đau tủi cực của tôi. Cùng một cảnh đời, lòng tôi nhói lên theo từng lời kể của ông. Ông lại chép miệng nỉ non:


– Còn hai người con gái lớn đã có gia đình. Thời buổi cuộc sống khó khăn, tất bật kiếm miếng ăn chưa đủ nuôi mấy cháu ngoại của ông, làm sao có thể giúp đỡ ông hoặc đi thăm con trai ông. Ông bà chỉ còn tí mảnh vườn sau nhà, trồng mấy liếp rau nuôi bầy gà lấy trứng, sống lây lất rau cháo qua ngày. Nước mắt ông rưng rưng ứa tràn khóe mắt, giọng ông đứt quãng nghẹn lại. Ông nhận được giấy thăm nuôi của con ông mấy tuần rồi nhưng ông không thể đi thăm con ông sớm được, vì không có tiền, ông biết con ông rất mong ông. Vừa kể ông vừa lấy tay áo chấm nước mắt làm tôi cũng mủi lòng. Hoàn cảnh gia đình ông và gia đình tôi đều giống nhau. Sống trong một xã hội mới không tự do, bơi lội trong khổ đau khốn nghèo và người thân bị đày ải trong lao tù chẳng biết ngày về.


Ông chỉ vào cái giỏ đang ôm trong tay, bờ vai vẫn còn rung nhẹ theo cảm xúc:


– Cô biết không! Tôi phải chờ thêm vài tuần lễ để bầy gà lớn thêm lên mới bán được, rồi mua đồ thăm con, còn tiền xe đi đường tôi được người hàng xóm tốt bụng cho mượn. Lồng ngực của ông hít thật sâu, thả mạnh trong tiếng thở dài như xả những ưu phiền khổ đau, giọng ông não nuột: “Không biết về nhà xoay đâu ra tiền mua lại bầy gà”.


Giấu nỗi buồn lo, ông quay mặt qua hướng cửa sổ, nhìn nghiêng khuôn mặt ông, tôi thấy khóe mắt ông ươn ướt. Tôi cảm được những lo lắng, buồn phiền nhớ thương trong đôi mắt ấy.


Chợt ông quay sang cười với tôi, miệng ông móm mém kéo theo những đường nhăn nhúm hai bên má như thể những nhăn nhúm của cuộc đời hằn nặng trên khuôn mặt ông. Ông lại rỉ rả:


– Tội nghiệp con tôi! Chắc là đang mong và mừng lắm khi thấy tôi đi thăm 


Ông ngó xuống cái giỏ nhỏ để trên đùi, tay vẫn nắm chặt hai quai giỏ. Ông gật gù cái đầu: – Vợ chồng tôi chỉ lo liệu ít đồ ăn trong cái giỏ này thôi, dọc đường phải đổi mấy lượt xe, tôi lo lắm chẳng dám ngủ nghê, sợ bị giật giỏ con tôi chẳng có gì ăn. Ông chép miệng: -“Khổ quá nỗi, thời buổi làm ăn khó khăn mà trộm cắp mọc lên như rươi, chỗ nào cũng có”.


Ông nói giọng Bắc như tôi, cách nói chuyện thật thà miền quê. Tôi cảm thấy thật gần gũi với ông và tội nghiệp cho ông, đường sá xa xôi, thân già lặn lội đi thăm con. Tôi lại nghĩ tới tôi có khác gì ông đâu.


Xe chạy xuống khỏi mấy cái đèo. Ông cụ thấm mệt mắt lim dim, có lẽ ông đang nghĩ đến người con trai mà ông sắp được gặp, và niềm vui con ông nhận được những món quà nhỏ nhoi mà ông dành dụm chắt chiu như một gia tài của ông. Nhìn ông lòng tôi thương chồng, như ông đầy vơi nghĩ đến người con của mình. Quang cảnh hai bên đường đồi núi chập chùng, con đường đến trại tù xa vời vợi. Nghĩ tới chồng, tới sự thoát chết vừa qua, cùng nỗi khổ hiên tại của tôi, nước mắt tôi ứa ra…


Nếu không có ngày đen tối quái ác 30 tháng 4 năm 1975, mọi người dân đâu phải khốn khổ đói rách, chồng tôi đâu bị đi tù cải tạo khổ nhục xa xôi như thế này mà không biết ngày về. nếu đừng có xã hội như thế này, nếu tôi có tiền, nếu tụi du kích CS đừng tịch thu hàng mua bán của tôi. Nếu tôi đừng dùng phương tiện bằng xe lửa đi thăm chồng và còn nhiều cái nếu trong đầu làm lòng tôi quặn đau, khổ thương quay quắt.


Hơn 4 năm rồi,chồng tôi đã chịu bao tủi nhục khổ cực qua hai trại tù, bây giờ Cộng sản lại đưa chồng tôi đi trại khác. Gần một năm bặt tin tức của anh, tôi chẳng dò hỏi được gì về anh và chẳng biết tìm kiếm anh ở đâu. Phần sống trong một xã hội khốn khổ chẳng chút tự do, chỗ nào cũng chận bắt tịch thu giam giữ. Trong khó khăn lầm than, tôi bôn ba vật lộn tìm miếng ăn cho gia đình và cho chính mình thật gian nan vất vả, còn tâm trí lúc nào cũng nghĩ và lo sợ cho số phận chồng trong lao tù CS chẳng biết giam giữ nơi đâu. Tâm hồn tôi bất an phập phồng không thôi, đôi khi tưởng rằng mình đang rơi xuống đáy vực thẳm của cuộc đời. Nhờ tình yêu anh tôi cố bám víu ngoi lên, mong nhìn thấy tia hy vọng về anh dù chỉ là mong manh.


Ngày nhận được thư chồng, không chỉ mình tôi mà cả gia đình và hàng xóm, ai cũng vui mừng, cả xóm huyên náo ồn ào vì biết chồng tôi vẫn còn sống, mọi người đến nhà hỏi thăm, họ cũng như tôi nôn nao mong được gặp anh. Tất cả đều khó khăn nghèo khổ, họ không có gì làm quà để gửi cho chồng tôi, nhưng sự ân cần quan tâm lo lắng của họ đối với chồng tôi cả là niềm an ủi xúc động cho gia đình tôi.

Địa chỉ trại tù giam chồng tôi thật xa lạ và quá xa xôi. Đọc thư chồng nước mắt tôi ngắn dài đầy vơi. Tội nghiệp chồng tôi, trong thơ vỏn vẹn vài câu kín đáo hỏi thăm gia đình và cho biết đã được phép thăm nuôi. Thơ anh viết ngắn, tôi đọc và cảm được biết bao tình cảm của anh gói ghém trong đó dành cho tôi. Anh không dám xin những thứ mà anh cần, mặc dù anh rất cần. Tôi biết anh rất thương tôi. Bố mẹ anh đã già, mọi việc mình tôi cáng đáng lo liệu với hoàn cảnh và xã hội hiện tại. Còn tôi dù cuộc sống khó khăn vất vả, tôi cũng cố xoay sở lo cho chồng, chút an ủi giúp anh thêm nghị lực, và cho tôi chút niềm vui hạnh phúc trong tình nghĩa vợ chồng.

Số tiền tôi cực khổ dành dụm chắt chiu để đi thăm nuôi chồng, số tiền đó cũng bao lần đã muốn lấy mạng sống của tôi. Trong một chuyến hàng tuần trước, tôi đã trở thành trắng tay, cũng may mạng sống tôi vẫn còn. Những lần bị bắt bị tịch thu, chị em bạn chúng tôi thường than thở với nhau: “ Ký ca ký cóp cho cọp nó tha”, rồi lại lăn lộn bôn ba bất chấp nguy hiểm làm lại từ đầu, được tý vốn lại bị tịch thu, cứ xoay vòng trong cuộc sống XHCN. Vậy mà chỗ nào cũng thấy cái bảng tô đỏ hàng chữ “không có gì quý hơn độc lập tự do”.


Trại tù giam chồng tôi mãi tận Pleiku – Kontum có tên là trại Gia Trung, một địa danh tôi chưa bao giờ biết đến. Trước ngày đi thăm chồng, tôi dò hỏi được biết mỗi ngày bến xe Saigon – Miền Trung có hai chuyến chạy suốt về Pleiku. Giá chính thức được bán ra từ 15 tới 20 vé, còn lại bán với giá chợ đen rất mắc, mà phảỉ đứng xếp hàng từ đêm tới sáng may ra mới mua được vé. Tôi ở miền quê ngu ngơ làm sao mua được. Thật khó khăn và tốn kém. Tôi đành chọn giải pháp đi bằng tàu lửa, giá rẻ mà dễ đi . Ga xe lửa tôi đi gần chợ Long Khánh cách nhà tôi khoảng gần 30 cây số.


Nhớ tới giây phút giành giật chen nhau để lên toa xe lửa, bất giác tôi cảm thấy sau gáy và bả vai vẫn còn đau, đưa tay lên rờ phía sau đầu cục sưng u vẫn còn, vì tôi bị những bó củi họ quăng ném vào người. Trời ơi! Tôi không thể nào tưởng tượng được cảnh chen lấn hỗn loạn tại ga xe lửa lúc bấy giờ. Không giống như ga xe lửa trong phim ảnh, kẻ đi người về, kẻ tiễn đưa người đi đón sao êm đềm cảm động nên thơ đến thế. Ga xe lửa này cũng người lên kẻ xuống nhưng trong cảnh xô đẩy chen lấn giành giật cùng tiếng chửi thề xen lẫn tiếng la hét inh ỏi hỗn loạn. Bao nhiêu hàng hóa vừa bao vừa túi, bao than, giỏ đựng gà vịt, bất cứ vật gì cũng đều quăng ném vào toa theo lối cửa sổ, có người quăng cả đứa con nít như quăng một món đồ, kẻ tung lên người ném xuống. Tôi chen lấn trong đám người xô đẩy, kéo lê hai giỏ đồ tới gần cửa lên xuống, tay cố bám vào thành cửa, hy vọng đu được người vào bên trong,nhưng thân người tôi như tàu lá chuối vật vờ đong đưa giữa đám người hỗn độn. Tay tôi bị giật thốc ra khỏi thành cửa làm tôi ngã chúi theo đà xô đẩy, tôi ngồi xuống ôm lấy hai giỏ đồ vừa khóc vừa năn nỉ mọi người:


– Bà con ơi! Tôi có mua vé mà, hãy để tôi lên toa đi.


Mặc cho tôi khóc năn nỉ, họ chẳng để ý, cứ vô tình bước đạp trên hai giỏ đồ và cánh tay tôi làm đà bước lên toa xe, còn quay lại mắng tôi:


– Bộ tưởng một mình cô có vé thôi sao, tụi tui cũng có vé vậy.


Người họ khỏe bám trèo lên bằng lối cửa sổ, tôi thân đàn bà chân yếu tay mềm nên không thể bám và leo lên như họ, còn hai giỏ đồ thăm nuôi tôi làm cách nào đưa lên bằng lối đó. Tiếng còi xe lửa hú lên từng chập như báo hiệu sắp khởi hành, tôi càng quýnh quáng, mọi người càng vội vã chen lấn hơn trước. Sợ lỡ chuyến tàu sẽ trễ ngày thăm chồng, tiếng còi xe lửa hú lên càng làm tôi hốt hoảng. Ôm hai giỏ đồ, mắt đỏ hoe ngó lên toa xe, tôi hết hy vọng vì bánh xe lửa bắt đầu chuyển động trên đường sắt cùng những người còn đang chạy theo bám lấy.


Trong những người xô đẩy vô lương tâm đó, cũng còn một người có chút lương tri. Người đó là một thanh niên, ngồi trên nóc xe nhìn cảnh hỗn loạn phía dưới, thấy tôi ngồi khóc, mặc cho xe lửa đang chuyển bánh, nhảy xuống đất cầm vội hai giỏ đồ của tôi quăng vào lối cửa sổ, không cần biết có trúng ai bên trong hay không và nâng người tôi lên đẩy vào cửa sổ. Tôi chưa kịp cám ơn, người thanh niên đã xa tấm mắt của tôi, ngoái cổ nhìn với theo bên hông tàu, người thanh niên đang tìm cách nhảy lên toa xe và rồi những tàng cây bên đường làm khuất mất hình ảnh người thanh niên đó.


Tôi vui mừng không bị lỡ chuyến tàu, thở phào nhẹ nhõm, nhưng nghĩ tới người thanh niên trong lòng tôi lại áy náy, thấp thỏm không biết người thanh niên tốt bụng đó đã lên được tàu chưa hay là đã lỡ chuyến?


Tìm một chỗ dưới sàn tàu ngồi xuống, người tôi mỏi mệt đau nhừ, nhất là trên đầu phía sau ót và bả vai, tôi bị những bó củi ném trúng làm đau buốt. Thấy mặt tôi nhăn nhó, tay xoa xoa phía sau đầu, một bác ngồi gần bên lấy hộp dầu cù là đưa cho tôi xoa bóp.


Yên trí ngày mai gặp chồng làm tôi nôn nao, những mỏi mệt đau nhừ tan biến nhanh, nhường cho tâm tư sắp đặt những gì muốn nói với anh. Đừng như những lần trước, gặp được anh mừng quá chẳng nói được gì, hết giờ thăm lúc đó mới ngẩn người nuối tiếc. Ừ nhỉ! Nếu ngày mai tên cán bộ có đứng xa xa nơi vợ chồng tôi như ở trại tù Hốc môn, những người đi thăm nuôi như tôi cùng tâm trạng, họ cũng biểu lộ tình cảm như tôi. Tôi sẽ ngả đầu vào vai anh, thủ thỉ với anh bao nỗi nhớ niềm thương, bao buồn phiền tủi cực, bao vất vả đắng cay và biết bao điều muốn nói với anh. Nhưng tôi biết anh không cần nghe tôi nói, chỉ cần nhìn thấy tôi là anh hiểu và nghe nặng cả bao nghĩa ân tình yêu thương, giúp anh thêm nghị lực vượt qua tất cả. Tôi vẫn biết rằng ý chí của anh rất mạnh.


Theo lịch trình 6 giờ chiều xe lửa sẽ tới ga Nha trang, và chuyến xe lửa từ Nha trang đi Qui nhơn khởi hành lúc 6 giờ 45 phút. Tôi thở phào yên trí đủ thời gian mua vé đi Qui nhơn và tôi cũng không lo ngại nếu có cảnh chen lấn như ở ga Long khánh.

Quá mỏi mệt, tôi tìm cách tựa lưng vào thùng đồ của ai để bên cạnh nhắm mắt thiu thiu vì chuyến đi còn dài, chân tôi gác lên kẹp lấy một giỏ đồ còn một giỏ tôi lấy khăn tay cột quai giỏ vào cánh tay của mình, lỡ ngủ mệt sợ có người lấy cắp. Nhắm mắt để đó chứ không ngủ được, phấn ồn ào, phần háo hức sắp được gặp chồng làm tôi nôn nao. Không biết khi vợ chồng tôi gặp nhau, sự mừng rỡ sẽ như thế nào? Con người tôi rất tình cảm và xấu tính, buồn cũng khóc vui cũng khóc. Cả hai nhập lại không biết lúc đó tôi như thế nào? Còn hình dáng chồng tôi có khác lạ không? Gần một năm trời rồi, tôi chưa được nhìn thấy anh. Trong đầu tưởng tượng về anh, về nơi giam giữ anh. Họ đưa anh đi xa xôi thế này chắc là thăm nuôi đễ dãi và được ở lại đêm với chồng như là trại tù Phước-long mà chị Thái cùng xóm đi thăm chồng đã kể lại cho tôi nghe. Nếu lần thăm này mà giống như trạị tù Phước-long, không biết tôi có trải được tình cảm yêu thương với chồng tôi không, mặc dù tôi rất yêu anh, rất nhớ anh. Tôi không muốn bị CS xỉ nhục bằng cách đê tiện này, càng nghĩ trái tim tôi càng bị bóp nghẽn. Tôi hy vọng rằng chồng tôi cùng quan điểm với tôi, thông cảm cho tôi nếu đúng như điều tôi đang nghĩ.

Tôi giật mình bởi tiếng nổ lớn do xe lửa bị đứt ống hơi, thỉnh thoảng cứ phải nghe như vậy vì mấy người đi buôn họ dựt đứt để xe lửa ngừng lại, lần đầu tiên tôi đi xe lửa nên không biết cảnh này, cũng vì vậy tôi thật lo sợ muốn khóc tại ga Nha trang.


Xe lửa ngừng tại ga Nha trang là lúc tôi không biết phải làm sao xoay sở vì quá trễ, chuyến xe lửa đi Qui nhơn đã khởi hành trước đó 1 giờ. Trời đã tối, mọi người trong sân ga lần lượt đi mỗi người mỗi ngả, càng lúc càng thưa thớt người. Tôi định ở lại sân ga chờ chuyến xe lửa khác. Khung cảnh sân ga trở nên vắng vẻ im lìm. Tôi bơ vơ lạc lõng nơi xa lạ, lo sợ nhìn tứ phía, nước mắt rưng rưng, thật sự hoảng hốt không biết đi ngã nào, lạ người lạ cảnh. May quá từ xa một người đạp xích lô đang đến. Tôi hỏi thăm được biết ngày mai mới có chuyến xe lửa đi Qui nhơn. Nhìn tôi còn trẻ và giọng nói người khác miền, chú xích lô khuyên tôi không nên ở lại sân ga ban đêm vắng vẻ không người, sợ điều không tốt xảy đến cho tôi. Nghe chú nói người tôi run lên vì sợ, tôi cố trấn tĩnh nhưng sao giọng tôi run như muốn khóc. Chú gợi ý chở tôi tới nhà trọ nghỉ đêm chờ sáng ngày mai đi Qui nhơn. Nghe tới nhà trọ tôi càng sợ thêm vì nghĩ không biết chú ấy có tà ý gì, nơi lạ lẫm với giòng đời đầy lừa lọc gian trá liệu tôi có tin chú ấy không? Ánh đèn vàng vọt, sân ga không đủ sáng cho khung cảnh vắng vẻ như thế này. Tôi nhìn chung quanh rồi lại nhìn chú xích lô lưỡng lự. Không còn cách lựa chọn, đánh bạo tôi đành nhờ chú ấy chở đến bến xe đò Qui nhơn, nơi đó có lẽ an toàn cho tôi hơn. Ngồi trên xe xích lô tôi vẫn lo sợ, miệng lâm râm cầu nguyện cho tôi được bình an.


Tôi ngồi ngay trước quày bán vé đi Qui nhơn, hy vọng sáng sớm hôm sau tôi là người đầu tiên mua vé. Khung cảnh nơi đây sáng sủa hơn, có người qua lại bán quà rong, những gian hàng nhỏ đèn điện còn sáng. Tôi an tâm khoan khoái đặt lưng nằm xuống đất, đầu gối lên hai giỏ đồ để ngủ. Trời đã về khuya sao mặt nền đất vẫn còn nóng bỏng, hâm hâm dưới lưng tôi, mùi khen khét xông cả vào mũi thấm tận trong bụng tôi, quá mệt tôi cố chịu để dỗ cho đôi mắt nhắm lại. Chưa kịp nhắm mắt thì một tiếng thét thất thanh vang trong đêm. Tôi nhổm dậy, một người đàn bà đang chạy theo một người thanh niên còn rất trẻ ngang qua chỗ tôi, tay bà với với phía trước, tiếng thất thần kêu cầu cứu của bà “bắt lấy nó …, ăn cướp, ăn cướp bà con ơi”. Nhưng tiếng kêu cầu cứu ấy rơi trong đêm, giữa bao con mắt nhìn theo hờ hững. Người thanh niên tung cái giỏ cho một người khác hứng lấy chạy vào ngõ tối, rồi nhẩn nha đi như người đi dạo, làm như không có chuyện gì xẩy ra. Người đàn bà ngồi bệt xuống đất òa khóc tức tưởi cách tuyệt vọng. “Trời ơi! Nó lấy hết của tôi rồi, cả giấy tờ nữa, làm sao tôi về nhà được đây hở trời? Sao thất nhơn thất đức quá nè, Trời ơi!”. Tiếng than não lòng của bà như xé lòng Trời mà không làm động lòng người.


Nhìn bà tôi lại nghĩ đến tôi, tay rờ nhanh vào bụng, cái ví nhỏ bọc nhựa vẫn còn nằm trong lưng quần. Tôi chỉ có ít tiền đi đường và tờ giấy đi thăm nuôi trong đó, nếu bị mất, không biết sự đau khổ của tôi như thế nào, vì sẽ không được thăm chồng, lại lo lắng hai giỏ đồ thăm nuôi, thời buổi này bất cứ cái gì cũng sợ. Tôi khệ nệ vừa rê vừa xách tới gần hàng bán cháo ở góc xa, mua một chén cháo để làm quen và như là một nơi an toàn cho mình, mặc dù tôi chẳng thấy đói.


Gần về sáng ngoài đường bắt đầu nhộn nhịp, xe chạy qua chạy lại trong bến, xích lô máy xích lô đạp chạy tới chạy lui, hàng quán mở cửa. Bóng người qua lại tiếng cười tiếng nói ồn ào. Nhìn về phía quầy bán vé đã có vài người đứng xếp hàng ở đó. Tôi chào cảm ơn bà bán cháo cho tôi một đêm an toàn bên cạnh bà, rồi đến quày bán vé đi Qui nhơn, vậy mà tôi cũng chẳng mua được vé chuyến đầu tiên vì ở đó người ta đã đặt từng gói đồ, từng khúc củi, cả cái sô nước theo hàng dài để giữ chỗ. Cuối cùng tôi cũng đi tới Qui nhơn.


Tiếng chú lơ xe la to: Tới Gia Trung rồi bà con ơi, ai xuống Gia Trung chuẩn bị đồ đạc đi bà con ơi. Tôi giật mình trở về hiện tại. Xe từ từ vào sát lề đường. Tiếng của chú lơ xe đơn độc hai chữ Gia Trung mà không thêm tiếng trại cải tạo. Tôi tưởng tên gọi Gia Trung là tên của một thành phố, ngơ ngẩn ngó ra ngoài, chẳng thấy nhà cửa hoặc trại tù, chỉ thấy rừng cây cao vút, chung quanh hoang vắng. Tôi nhìn quanh quẩn tự hỏi trại cải tạo ở đâu. Trên xe mọi người lục đục kẻ kéo người xách, lách người xuống xe. Ông cụ ngồi gần bên ôm giỏ đồ đứng lên, thấy tôi còn ngơ ngác, gục gặc đầu nói:


-Tới nơi rồi cô ơi! Họ xuống xe cả rồi, mình cũng xuống đi thôi kẻo không kịp, từ đây vô tới trại còn xa lắm.


Tôi lật đật xuống xe theo mấy người đó. Số người đi thăm nuôi khoảng 12 người. Tôi thật bỡ ngỡ, khung cảnh chung quanh vắng vẻ quạnh hiu không bóng người, ngoài tốp người mới xuống khỏi xe, đang đi trên con đường đất vào sâu hút bên trong.


Vừa đi tôi vừa ngó hai bên đường, những cây cao cây thấp, chỗ dầy chỗ thưa làm ánh sáng chỗ âm u chỗ sáng rực. Tôi lẹt đẹt đàng sau xa nhóm người đi phía trước. Họ đã đi thăm nuôi nhiều lần, nên họ có người nhà đi theo để phụ giúp xách đồ, còn tôi vướng hai giỏ loay hoay tay xách đầu đội, lúc mỏi cổ đau tay tôi lại hất cái giỏ trên đầu xuống bả vai để vác. Vai tôi vẫn còn đau vì hai ngày trước bị củi ném trúng ở ga xe lửa Long-khánh, vừa đi vừa nghiêng cổ vẹo người, dáng người tôinghiêng nghiêng như bóng nắng dưới đường, mồ hôi đổ theo thấm chung từng giọt nước mắt. Xa xa phía trước, ông già lúp xúp đi như chạy để theo kịp họ, ông vừa đi vừa ngoái cổ ra phía sau, tay vời vời ra hiệu cho tôi đi nhanh lên. Những người phía trước bỏ tôi khoảng cách thật xa và khuất hẳn vào khúc đường cong.


Qua khỏi khúc đường quẹo, một trạm kiểm soát với tên công an mặc áo vàng ngồi bên trong. Tôi giật mình theo phản xạ tự nhiên – “chết rồi lại gặp công an”, giữ bình tĩnh tôi thầm nghĩ – “mình đi thăm nuôi chứ buôn bán gì mà sợ tịch thu”. Tấm bảng nhỏ ghi hàng chữ “Trình giấy tờ tại đây”. Tôi bước đến, tên công an nhìn còn rất trẻ tươi cười chào thân mật:


– Chị đi thăm người nhà phải không?


Sự thật là tôi không có thiện cảm với những người mặc bộ đồ công an, tôi đã khổ nhiều với họ rồi, họ không cùng giới tuyến với tôi và họ là người đang giam giữ chồng tôi. Tôi không cười, đưa trình tờ giấy thăm nuôi để ra khỏi chỗ này thật nhanh, vì tôi dị ứng không muốn nhìn họ. Khi nhìn vào thẻ Chứng minh nhân dân của tôi, tên công an mặt hớn hở reo lên:


– Ồ! Quê chị ở Đông Phú – Tiền Hải – Thái Bình, vậy là cùng quê với em. Còn thân mật như là người nhà của tôi: “Gia đình thầy mẹ em còn đang ở ngoài ấy, mà chị cùng họ Đinh với em, chả nhẽ chị em mình có họ hàng với nhau.”


Tôi lườm thầm trong bụng: “Họ hàng gì với chú mà chú nhận, tôi bên Quốc Gia, chú là CS, không thể họ hàng được”. Không muốn mất đi vẻ lịch sự của người miền Nam, tôi hơi mỉm cười nói mát:


– Tôi người miền Nam còn chú miền Bắc sao mà có họ hàng được.


Tên công an ngẩn người như suy nghĩ câu nói của tôi. Cử chỉ vồn vã, nét mặt vui tươi thân thiện của hắn khi biết tôi cùng quê cùng họ, làm như trong tôi có vết thương đang bị muối xát vào. Cùng mẹ VN một dòng máu, một màu da, nhưng không cùng lý tưởng. Biết đâu người công an này có họ hàng với tôi và cũng có thể những người coi tù là bà con với chồng tôi. Với nghiệt cảnh hiện tại, làm sao tránh khỏi anh em cốt nhục tương tàn.


Tôi được chỉ đường tới K1 là nơi giam giữ chồng tôi, đường vẫn còn dài, tôi đến ngồi dưới bóng mát gốc cây bên vệ đường. Phía xa cùng con đường, một người đàn bà đầu đội tay xách như tôi còn dẫn theo một bé gái, vừa đi bé gái vừa khóc, người đàn bà rất trẻ, đứa bé gái khoảng tuổi con tôi. Hình như bé gái không chịu đi bộ nên người mẹ cúi xuống vừa đỡ con vừa kéo lết giỏ đồ trông khó nhọc lê thê. Có lúc người mẹ bỏ giỏ đồ bên vệ đường, gập lưng xuống để cõng con, một tay đưa ra phía sau đỡ lấy con trên lưng mình còn một tay xách giỏ đồ, dáng xiêu xiêu bước đi nặng nề mỏi mệt giữa trưa nắng như lửa đốt. Đi được vài bước, người mẹ lại xốc đứa con trên lưng để khỏi bị tuột xuống, lưng người mẹ còng hẳn xuống, tay vuốt mồ hôi trên mặt và quay lại vuốt nhè nhẹ vào má đứa bé như thể dỗ đành vỗ về. Người mẹ cõng đứa con tới gốc cây tôi đang ngồi, thả con xuống và nhờ tôi trông chừng rồi trở lại chỗ cũ xách giỏ đồ còn lại. Cứ như vậy suốt con đường, thay phiên cõng con và xách đồ từng chặng, thật vất vả khổ sở. Nếu không cùng hoàn cảnh, không thể nào cảm được cái cảnh đi thăm chồng. Trên thân người đàn bà đó đã chịu bao nỗi khổ trong cuộc sống, giờ đây đang cố gắng gồng giữ niềm yêu thương của mình..


Đứa bé gái trông thật xinh, mặt bé đỏ au dưới ánh nắng mặt trời, tóc ướt mồ hôi dính chặt trên vầng trán, mắt bé tròn như hai hòn bi, thơ ngây nhìn tôi an tâm không khóc. Đến khi nhìn thấy một người công an gánh hai thùng nước đang đến gần, những giọt nước sóng sánh toát ra ngoài theo nhịp bước, mắt tôi và bé gái đều sáng lên, tôi còn chịu đựng được nhưng bé gái gào khóc lên gọi mẹ vì thấy nước. Người mẹ ngước về phía con lo lắng, chân bước thật nhanh đến con mình, thấy mẹ, đứa bé vừa khóc vừa chỉ về hướng người công an:


– Mẹ! Con muốn uống nước, con khát nước quá mẹ ơi.


Người mẹ liếc nhìn tên công an như thể thấy một hung thần, cúi xuống dỗ con.


– Đừng khóc nữa con, gần tới chỗ bố rồi, tha hồ uống nước con ạ.


Nhưng vì quá khát nước, đứa bé càng khóc to hơn.


– Không! Mẹ ơi con muốn uống nước bây giờ, không có nước con sẽ chết.


Người mẹ không còn biết làm sao dỗ con, đành bứt mấy lá cây rừng, cuốn tròn lại thành cái phễu, đánh bạo đến gần người công an để xin nước cho con mình.


– Xin cán bộ cho con tôi tý nước.


Mặt người công an lạnh lùng cau mày gắt lên:


– Chị là vợ của những tên ngụy quân, ngụy quyền, là loại phản động phản quốc, được nhà nước khoan hồng cho đi thăm nuôi, mà còn đòi thế nọ thế kia, ở đây không có nước cho các chị.


Người mẹ nhìn về phía con đang gào khóc đòi nước, cố nén tủi nhục, nhẫn nại năn nỉ:

 

– Không! Tôi không xin nước cho tôi. Người mẹ chỉ tay về đứa con đang khóc, hầu mong khơi dậy một chút tình người. “Cán bộ nhìn thấy đứa bé đang khóc đàng kia kìa, từ sáng đến giờ nó chưa được uống nước. Cán bộ làm ơn cho tí nước đi cán bộ”. Người mẹ giở cái phễu lá rừng năn nỉ:


– Tôi chỉ xin một chút nước đựng trong này thôi, không nhiều đâu cán bộ.


Tên công an đứng bật lên, gánh nước bước đi, trút đổ bao hận thù xuống người mẹ.


– Toàn là thứ phản động, theo đế quốc Mỹ, sống sung sướng quen rồi, nóng một tý mà cũng không chịu được. Chị tưởng tôi là đầy tớ gánh nước cho chị hả, đồ thứ phản quốc.


Người mẹ chạy lại ôm chặt con mình, ép nỗi uất đau òa theo tiếng khóc của con. Tiếng khóc hai mẹ con vang trong rừng vắng không làm vơi thù hận của những kẻ không trái tim không tình người.


Ôi quê hương tôi không còn chiến tranh, không còn nghe tiếng súng mà vẫn còn đè nặng bởi thù hận và khổ đau. Hình ảnh vừa rồi thật trái ngược với hình ảnh năm nào của những người lính Sư đoàn 18 VNCH trong một buổi chiều dừng quân nơi thôn làng tôi ở. Họ chỉ có một vài giờ nghỉ chân mà còn tìm cách giúp đỡ những người dân trong thôn làng, người gánh nước người chẻ củi, cứ thấy công việc nào người dân đang làm là họ xúm lại phụ giúp. Hình ảnh thân thương đầy tình người, gần gũi với đồng bào đã ở mãi trong tim tôi.


Con đường đi vòng trên sườn đồi, nhìn xa xa phía dưới, những dãy nhà lợp tôn lẫn lợp lá hiện ra thấp thoáng. Trong lòng tôi vừa mừng vừa hồi hộp biết là nơi đó có chồng tôi, tự dưng đầu tôi quay mòng mòng, chân tôi muốn quỵ xuống. Mãi tận rừng núi hoang vu, hàng hàng lớp lớp nhà tù, đang giam giữ chồng tôi và những người sống vì chính nghĩa, chịu bao nhục hình của bầy thú dữ, nước mắt tôi lại chảy, chỉ biết gọi thầm tên anh. Mong rằng anh cảm nhận được tiếng gọi của tôi và biết rằng tôi đang đến gần anh.


Căn nhà thăm nuôi của K1 nằm bên phải con đường phía dưới chân đồi, nhìn rất rõ vì cây rừng đã được phá hoang, thỉnh thoảng còn lại ít cây to rải rác. Thấy con đường vòng hơi xa, nóng lòng gặp chồng, tôi tìm cách đi lối khác. Tôi thả hai giỏ đồ đã được cột chặt lăn xuống theo sườn đồi, còn tôi thì cột hai ống quần vào cổ chân rồi ngồi tụt xuống, vì độ dốc rất cao. Cũng may tôi mặc cái quần vải thun dầy nên không bị rách, chỉ bị trầy chút da chân và tay vì vướng vào cành chà.


Tôi tới nhà thăm nuôi đã gần chiều, có mấy người cùng chuyến xe tới trước cũng đang ở đó. Nhà thăm nuôi hẹp và dài, được chia ra nhiều ngăn, mái lợp lá, vách đắp bằng đất trộn rơm. Ngăn đầu có một lối ra vào không cánh cửa, ở giữa kê một cái bàn gỗ dài, hai cái ghế dài hai bên, có lẽ là chỗ gặp thân nhân. Gần lối ra vào, một cái bảng nội qui ghi những điều luật cấm.Những điều luật cấm thì trại tù nào cũng như nhau, nhưng thời gian thăm nuôi thì tôi như hụt hẫng với bao mơ ước dự tính trong đầu khi nhìn con số 15 phút thăm gặp. Lòng tôi sôi quặn, trời ơi ba ngày đường xa xôi, lặn lội rừng sâu mà chỉ được gặp chồng có 15 phút thôi sao. Chưa gặp mặt chồng mà nước mắt tôi đã ứa bờ mi.


Trước sân nhà thăm nuôi là con suối nhỏ, bên kia con suối, những dãy nhà tù thật xa, dù thấy bóng người tù cũng không thể nhận diện được ai vì quá xa. Tôi mon men đến gần sát bờ suối, mắt hướng về phía trại tù mong ngóng hình bóng yêu thương của mình qua thần giao cách cảm.


Trời gần nhá nhem tối, thêm được hai chị đi thăm chồng ở K4 và K5 đến tạm ngủ chung với chúng tôi cho qua đêm, chờ sáng hôm sau trở lại chỗ cũ để gặp chồng. Chúng tôi chẳng ai biết ai, nhưng cùng hoàn cảnh nên dễ thân thiết, ngồi chụm chung lại với nhau nói chuyện. Thật là khủng khiếp kinh sợ khi nghe các chị kể chuyện, ngay tại nhà thăm nuôi K1 này, đêm đêm có một bóng ma, hiện lên lơ lửng phía sau nhà, chỗ cây cao nhiều cành lá. Ngôi nhà này vách sau có những cửa sổ không cánh, chấn song bằng những cành tre nhỏ nên có thể nhìn qua lại rất rõ. Tin đồn có một chị đi thăm chồng, không biết vì vấn đề gì đã treo cổ tự tử ngay cây cao phía sau nhà, nên bây giờ hồn chị luẩn quẩn quanh đây, hiện ra với âm thanh rên rỉ khóc than theo tiếng gió vi vu thật rợn người. Trời chưa tối hẳn, tôi đã thấy sờ sợ, ngồi chen vào giữa các chị. Có chị quả quyết là chị không tin người đàn bà đó tự tử, trong khi cực khổ đi thăm chồng, đã đến tới nơi sắp gặp được chồng, cớ gì lại tự tử. Có thể người đó tới đây, không có ai cùng thăm nuôi, đêm vắng vẻ bị tụi công an hãm hiếp, rồi giết treo cổ chị trên cây để không chứng cớ và gán cho chị là tự tử. Hai chị thăm nuôi K4 và K5 đều nói cũng nghe tin đồn đó, nên hai chị tìm đến với chúng tôi để không bị nguy hại. Phần tôi, nếu không nghe được chuyện này, lần đầu tiên đến đây, một mình đêm vắng, có thể cũng như người đàn bà bị treo cổ trên cây kia.


Ngoài sân màn đêm đã bao phủ một màu đen đặc, ếch nhái ngoài bờ suối ì ộp kêu. Đàng xa, có ánh đèn bin đang rọi đi tới nhà thăm nuôi, một chị khều tay nói khẽ, “kiến vàng đang đến” (ý nói Công An). Chờ trời tối, công an mới đến kiểm tra có bao nhiêu người ở đó để phát mùng mền. Tới lượt tôi, tên công an cầm súng chỉa thẳng vào tôi, sợ trường hợp bất cẩn, tôi nói với tên công an:


– Cán bộ làm ơn đưa họng súng qua hướng khác, đừng chỉa vào tôi lỡ tay rất nguy hiểm.

Tên công an sừng sộ:

– Vợ tụi ngụy không tin được, phải cảnh giác.


Và họng súng vẫn hướng về phía tôi. Tôi là người sau cùng vô tới trại, công việc nấu cơm theo thứ tự, tới phiên tôi là chót. Ở đây có một cái bếp và một cái nồi móp méo, người này nấu xong dỡ cơm ra rồi đến người kế tiếp. Cũng có người không nấu cơm, họ mua các loại bánh đưa vào ăn, còn tôi tiền bạc eo hẹp, mua được hai lon gạo, nấu ăn đêm nay và ngày hôm sau, cũng may tôi còn một quả trứng luộc mua dọc đường chưa kịp ăn..


Nấu cơm xong đã quá nửa đêm, tôi dỡ cơm vào chiếc khăn tay ướt nắm lại cho chắc và chia thành hai nắm, một nắm ăn ngay, còn một nắm dành cho ngày mai. Tôi cạo vét những hạt cơm cháy dưới đáy nồi để còn rửa sạch cho người khác nấu. Nhìn những hạt cơm bất chợt lòng tôi nhói buốt xót xa. Hình ảnh hai người tù cải tạo hồi chiều đã làm tôi rơi nước mắt, ruột co thắt và tim gan như xé ra từng mảnh.


Lúc tôi đứng bên bờ suối nhìn sang trại giam. Một chị đưa nồi ra suối rửa, những hạt cơm theo nước trôi, nằm đọng dưới nước lẫn lộn đất cát và sỏi đá. Một người tù cải tạo lao động gần đó, đưa mắt liếc nhanh, chờ cho chị ấy bước hẳn lên bờ, người tù vội vàng bước thật nhanh xuống lòng suối, giả bộ cúi xuống rửa mặt, nhanh tay mò nhặt những hạt cơm lẫn chung với đất cát bỏ vội vào miệng của mình. Hình ảnh đó thu nhanh vào mắt tôi, vào đáy lòng của tôi. Ôi! Thật đau khổ dường nào, xót xa dường nào. Trời ơi! Chồng tôi cũng như thế sao?


Khi tôi ra bìa rừng nhặt mấy nhánh củi khô để nấu cơm, một người tù cải tạo đang chặt cây rừng, mon men lại gần phía tôi lấm lét nói nhỏ, ánh mắt như cầu khẩn:


– Chị ơi! Khi nào chị nấu cơm xong, chị đừng đưa nồi ra suối rửa, chị làm ơn dấu cái nồi trong bụi rậm này cho chúng tôi chị nhé.


Hai hình ảnh đó làm tôi như chết lặng. Trời ơi! Những người tù cải tạo, những con người khốn khổ sao ra nông nỗi này? Sao biến đổi như thế này? Cộng sản quá ti tiện bẩn thỉu, hành hạ người tù bằng cách này.


Hai nắm cơm trắng nằm trong chiếc khăn tay. Tự nhiên hình ảnh chồng tôi qua hình ảnh hai người tù cải tạo ấy làm tôi chẳng thấy đói. Một nắm tôi gói lại cho chồng, một nắm tôi bỏ lại trong nồi cùng ít cơm cháy, chờ trời sáng tôi dấu vào bụi rậm, không biết người tù nào may mắn được ăn nắm cơm này.


Đặt lưng xuống chiếc giường tre, tôi không ngủ được, trằn trọc thao thức đếm từng tiếng chim cú kêu ngoài rừng, đếm từng tiếng gà rừng gáy. Chỉ còn vài giờ đồng hồ là tôi được gặp người chồng yêu thương của tôi. Thời gian trôi qua chậm lòng tôi bồn chồn nôn nao khó diễn tả, bao nhiêu hình ảnh của chồng, bao nhiêu tâm tình muốn nói với chồng đầy ắp trong đầu, không biết sắp xếp câu nào trước câu nào sau, vì chỉ có 15 phút. Mắt cứ mở lớn nhìn trên nóc mùng, từng bầy rệp, họ hàng nhà rệp, phải nói là cả xã hội rệp lớn nhỏ có đủ, vừa ngửi thấy hơi người, thi nhau bò theo hàng theo lớp thật nhanh xuống chỗ tôi nằm để hút máu, cái mền cũng vậy, rệp bò lổn ngổn lúc nhúc, mùi tanh tanh ngai ngái đến lợm giọng. Bỏ mền ra thì lạnh, cái lạnh của miền núi rừng cao nguyên tê buốt thấu xương, ra ngoài ngồi thì bị muỗi rừng chích, tôi đành chịu để rệp hút máu. Nhìn đoàn rệp bò như hội chợ, con no máu bụng căng phồng chậm chạp bò lên nóc mùng, con nào còn thèm thuồng lại bò xuống, cứ như vậy bò lên bò xuống suốt đêm. Tôi thương tôi bị rệp hút máu, tôi lại đau xót cho đất nước và đồng bào tôi, chịu để bị tàn phá rỉa róc đến tận xương tủy.


Trời hừng hừng sáng, tiếng kẻng lanh lảnh phát ra từ trong trại tù, hàng loạt vang dội vào tai tôi đến nhức óc, tiếng kẻng báo hiệu những người tù đi làm khổ sai. Mọi người lăng xăng háo hức xếp đồ thăm nuôi gọn gàng chờ gặp người thân, có người sắp đồ để bên cạnh cái bàn như thể chồng mình đang ở đó. Tôi cũng nôn nao hồi hộp, mắt hướng về bên kia bờ suối mong ngóng. Từ đàng xa, người công an dẫn những người tù đi đến, tất cả mọi người chúng tôi chạy ùa ra đứng cạnh bờ suối, chỉ mong nhìn thấy chồng mình trước, nhưng những người tù đó rẽ ra hướng khác làm mọi người hụt hẫng ngơ ngác. Tôi không ngạc nhiên, biết chắc tốp tù đó không có chồng tôi, vì họ mắc bộ đồ tù màu xám nhạt, trước ngực và sau lưng đều đeo bảng số, người nào cũng như bộ xương biết đi được khoác lên bộ đồ tù rộng thùng thình, vạt và tay áo phất phơ như hình thằng bù nhìn mà nông dân thường treo ngoài ruộng rẫy để đuổi chim. Thêm hai lớp tù nữa đi qua, họ đi bên kia bờ suối khoảng cách hơi xa, nhưng họ cứ ngoái lại nhìn chúng tôi, trông thật tội nghiệp. Mặt người nào cũng còm cõi hốc hác. Tôi đoán họ là tù hình sự, chắc bị hành hạ tra tấn dữ lắm nên thân xác họ tiều tụy như vậy. Tiếng các bác các chị nhao nhao:


– Đang ra kìa! Đang đến nữa kìa, chắc lần này đúng rồi.


Tôi bước ra chỗ khác để nhìn cho rõ, vẫn thấy hai người công an mặc áo màu vàng cầm súng đi chung với tù cải tạo, nhưng tốp này ít người tù hơn. Họ cũng mặc áo tù màu xám có bảng số. Tôi nhìn dửng dưng, người tôi đang mong đợi là chồng tôi, chứ không phải những người tù hình sự đó. Những người tù đến gần bờ suối, người nào cũng hướng về chúng tôi, mắt tôi nhìn về một người vì người ấy nhìn tôi mỉm cười. Tôi thấy tội nghiệp vì bộ đồ tù quá rộng phủ lên người đó, còn tóc cắt ngắn gần như trọc nhẵn. Mắt tôi vẫn trông theo người đó, tôi hơi ngạc nhiên, người đó xa lạ tôi không quen tại sao cứ nhìn thẳng vào tôi. Quay sang chị bên cạnh, tôi chỉ vào người tù đó:


– Chị ơi! Tôi không quen người tù đó, mà sao nhìn tôi cười.


Chị ta nhìn theo hướng tay tôi chỉ:


– Chắc người nhà chị, cười với chị, chứ tui đây sao không cười với tui. Chị ta cười nói đùa:


– Trời ơi! Nhìn thấy chồng mà mặt làm bộ tỉnh queo.


Tôi cãi lại: “Chồng tôi nhìn đâu như vậy”. Những người tù qua hẳn bên này suối, khoảng cách thật gần, cách tôi chừng 5 bước. Bỗng mắt tôi hoa lên, chân đứng không vững, bầu trời như sập xuống. Tôi mở to mắt nhìn, như không vào mắt mình, tim tôi đập mạnh trong lồng ngực. Ôm lấy ngực, cắn chặt môi để không thét thành tiếng, tim tôi đau nhói.


Ôi! Chồng tôi, chồng tôi đấy ư! Chồng tôi ra nông nỗi này sao? Không lẽ là anh, lúc này tôi nhận rõ anh qua ánh mắt. Ánh mắt ngày xưa nhìn tôi yêu thương nồng nàn, bây giờ cũng ánh mắt ấy nằm trong một hốc sâu trông thật xót xa. Đôi mắt to tròn đầy cương nghị chỉ còn là hai hố sâu hoắm trên cái đầu lâu được bọc da. Đau xót thương cảm tôi nghẹn ngào, nước mắt cuồn cuộn thi nhau chảy. Trời ơi! Hình dạng chồng tôi hao mòn biến đổi ra thế này ư. Tôi đưa tay bụm chặt lấy miệng để tiếng khóc không thoát ra ngoài, mặt tôi dàn dụa nước mắt, tim nhói đau theo nhịp tiếng khóc trong cổ họng. Hình ảnh chồng tôi lung linh qua làn nước mắt. Anh nhìn tôi đau khổ, đầy nước mắt khô,môi anh khẽ mấp máy:


– Nín đi em, nín đi em. Anh đây! Anh không sao, anh còn sống!


Tôi đứng nhìn anh chết sững, Tôi biết những dòng nước mắt của tôi sẽ làm anh khổ, nhưng tôi không thể nào cầm lòng được khi nhìn thấy chồng như thế này. Tôi muốn chạy lại ôm chặt lấy anh, ôm lấy hình hài như da bọc xương của anh, san sẻ cho anh chút sinh lực hơi ấm nơi tôi. Nhưng tôi không làm được, cặp mắt hai tên công an cầm súng trừng trừng nhìn chúng tôi như ngầm bảo “không được lại gần những người tù”, chúng tôi thật gần mà khoảng cách thật xa bởi quyền lực.


Sáu người tù đứng theo hàng trước nhà thăm nuôi. Tôi chờ tiếng nói của 2 tên công an cho phép gặp gỡ người tù, sẽ chạy đến bên anh, đưa anh vào chỗ nơi tôi để sẵn giỏ đồ thăm nuôi. Nhưng tên công an ra lệnh mấy người tù thứ tự theo hàng đứng vào một bên hàng ghế, còn một bên hàng ghế đối diện, tên công an hất mặt lại phía những người đi thăm nuôi.


– Này! Ai là người nhà, chỉ được một người thôi, ngồi phía bên kia người nhà của mình.

Chúng tôi lần lượt như một cái máy bước nhanh vào chỗ ngồi đối diện. Những người tù ngồi bất động, xót đau nhìn người thân của mình, kiên nhẫn chờ đợi. Người công an đứng ở đầu bàn hắng dặng, gằn giọng nói:


– Trước khi người nhà tâm sự với nhau, phải tuân theo điều luật, động viên các anh ấy học tập tốt, nhất là không được khóc làm nản chí học tập các anh ấy. Phải biết là nhà nước cách mạng đánh đuổi Mỹ- Ngụy ra khỏi nước, nhà nước đã khoan hồng cho các anh ấy học tập để không còn theo Mỹ-Ngụy đánh đổ nhà nước, bây giờ đã hòa bình, xã hội chủ nghĩa là xã hội tự do vv…Ôi chao, tên công an cứ như con vẹt đọc bài thuộc lòng, những lời tên công an không lọt vào tai chúng tôi. Mắt và đầu óc tôi chỉ chăm chú vào chồng tôi, nước mắt tôi vẫn không ngừng rơi.


Trong phòng thăm nuôi im lặng, ngoài tiếng nấc, tiếng sụt xịt nghẹn ngào trong cuống họng và tiếng giảng thuyết lên lớp của tên công an, kéo dài như cố tình quên 15 phút thăm gặp. Những giọt nước mắt của tôi như động lực đưa bàn tay anh về phía tôi, như muốn vỗ về an ủi mà trước đây mỗi lần tôi khóc. Bàn tay anh rướn gần tới bàn tay tôi thì ngừng lại, vì tên công an cầm súng tiến gần phía sau lưng tôi, ngón tay anh run rẩy như những lóng xương đang động đậy. Lòng tôi đau như cắt, chẳng nói được gì ngoài hai hàng nước mắt, tôi muốn vươn tới nắm lấy bàn tay xương xẩu của anh, nhưng cặp mắt của tên công an vừa nói vừa liếc nhìn chúng tôi. Dưới gầm bàn, tôi cảm được bàn chân chồng tôi đang động đậy kiếm bàn chân tôi, trút vội cái dép khỏi chân tôi đưa chân mình lần mò đặt lên chân anh, để chồng tôi nhận hơi ấm và tình cảm của tôi lén lút gửi qua bàn chân anh. Bàn chân chồng tôi đang lạnh từ từ ấm lên, tôi khóc mà cảm được hạnh phúc qua đôi bàn chân. Cho tới khi tên công an cho phép trao đổi tâm tình, thời gian chỉ còn 5 phút ngắn ngủi, tôi chẳng nói được gì với chồng tôi, ngoài tiếng nấc nghẹn ngào, gật đầu và lắc đầu theo tiếng hỏi thăm của chồng tôi về bố mẹ và hàng loạt người thân mà chồng tôi nhớ tới. Hết giờ thăm nuôi.


Tới lúc kiểm tra đồ thăm nuôi, có món mẹ tôi cố công làm gửi cho anh và vài món khác không hợp lệ bị gạt ra. Tôi hồi hộp nhìn những món đang kiểm tra, tới món mỡ chưng hấp với đường cát trắng, tôi nặn óc nghĩ mãi cách qua mặt tên công an, mở gói mỡ ra, những miếng mỡ trong veo bọc với đường cát trắng trông giống như miếng mứt bí, tên công an cầm từng miếng lên ngửi, thắc mắc hỏi tôi:


– Cái này là thứ gì?


Tôi trả lời nhanh để hắn khỏi nghi ngờ:


– Thưa cán bộ, thứ này là mứt bí, Tết qua lâu rồi sợ bị hư, tôi gởi cho chồng tôi để ăn tết muộn ạ.


Như thể tên công an chưa bao giờ nhìn và nghe nói mứt bí, vẫn thắc mắc:


– Mứt bí là cái thứ gì?


Có lẽ người ngoài Bắc không hiểu tiếng người trong Nam. Tôi lại giải nghĩa:


– Mứt này cứ vào dịp tết, chúng tôi lấy quả bí đao cắt lát, ướp với đường phơi khô thành mứt, gọi là mứt bí.


Tôi thở phào khi tên công an bỏ miếng mỡ heo vào gói và đẩy về phía chồng tôi, anh nhanh tay bỏ vào giỏ của mình, chỉ sợ bị lấy lại. Tên công an giả lả:


– Mất bí đao thì cứ gọi là mất bí đao. nói là mứt..mứt …,ai mà biết.


Vài tiếng cười khúc khích nho nhỏ của mấy người đi thăm nuôi đứng gần đó. Tên công an quay lại gừ lên: – Các chị cười cái gì vậy. Còn nắm cơm, tôi gói vào tờ giấy đã nguội ngắt, hắn cầm lên sừng xỏ với tôi:


– A! Chị này giỏi thật. Dám xỉ nhục cách mạng. Chị tưởng nhà nước chúng tôi bỏ đói chồng chị hả, tôi bỏ lại hết đồ thăm nuôi của chị bây giờ.


Lúc đó tôi run quá, vì thương chồng mà làm hại tới anh. Sợ chồng tôi không được nhận những món đồ thăm nuôi, tôi định lấy lại nắm cơm và xin lỗi tên công an, nhưng thấy ánh mắt chồng tôi nhìn vào nắm cơm. Tôi thật đau lòng và xấu hổ cho sự hèn nhát yếu đuối của mình khi phải nói những gì không đúng sự thật, giọng tôi run run uất ức:


– Thưa cán bộ! Tôi biết nhà nước cách mạng khoan hồng cho chồng tôi, được đi học tập cải tạo như vậy là tốt, để chồng tôi thông suốt đường lối, sống tốt với nhà nước với nhân dân. Còn tôi đâu dám xỉ nhục nhà nước, nắm cơm này tôi nắm để ăn, còn thừa đã hơn một ngày rồi, nó bắt đầu hơi thiu, bỏ đi thì tiếc. Tôi để lại cho chồng tôi ăn, nếu không còn ăn được, chồng tôi vất đi cũng được mà.


Những lời tôi nói làm dịu lòng tên công an, cầm cuốn sổ tay, tên công an gõ vào cạnh bàn, nói.


– Chị hiểu được nhà nước như vậy là tốt, thôi được, cho phép chồng chị lấy nắm cơm thiu này. Chồng tôi chỉ chờ có vậy, cầm vội nắm cơm bỏ vào giỏ và bước nhanh vào hàng đi theo hai tên công an vào lại trại.


Chúng tôi nước mắt tiễn đưa những người thân tới bờ suối, ranh giới của chia cách. Những người tù ngoái lại nhìn chúng tôi trông rất thương cảm xót xa, không biết có lần sau gặp lại vợ mình, người nhà của mình nữa không?


Mọi người trở vào thu xếp để đi về. Bóng chồng đã khuất hẳn, tôi thẫn thờ nán lại bên bờ suối, nhìn về hướng trại giam như để hy vọng còn nhìn thấy anh. Tiếng các chị gọi ơi ới:


– Không gặp lại nữa đâu, đi về đi.


Bước vào nhà thăm nuôi, nhìn từng chỗ vẫn thấy hình ảnh chồng tôi, từ chỗ anh đứng xếp hàng, chỗ ngồi vào ghế, lúc anh đứng nhích tới để xếp đồ vào giỏ, từng hình ảnh một hiện lại trong mắt tôi. Tôi ngồi vào ngay chỗ anh ngồi, tưởng tượng anh còn đang ngồi với tôi, tay tôi xoa xoa mặt bàn tìm chút hơi ấm còn đọng lại của anh. Nước mắt tôi lại trào ra, chỉ là tưởng tượng, mặt bàn trống trải lạnh tanh, hơi lạnh chuyền vào tay thấm tới tim tôi, ngơ ngác tôi như còn muốn kiếm tìm.


Mặt trời đã lên cao. Tôi ra về mà lòng trĩu nặng xót đau, hình ảnh tù tội khốn khổ của chồng luẩn quẩn quanh tôi là hành trang yêu thương theo tôi suốt cả cuộc đời. Từng bước chân nặng nề bước trên con đường dốc ven đồi, đầu tôi ngoái lại như hồn còn ở giữa núi rừng hoang vu.


Từ xa, nơi ngã ba đường, hình dáng như quen thộc đang tiến vào con đường tôi đang đi. Ồ! Thì ra ông cụ cùng chuyến xe sáng hôm qua. Tôi đứng lại chờ, dáng ông thất thểu lom khom từng bước chậm chạp, không còn vẻ nhanh nhẹn như hôm qua. Thấy tôi ông chỉ hơi nhếch mép, vẫn cái miệng móm mém của ông, tôi nhanh nhẩu chào:


– Chào bác! Hai bác cháu mình có duyên gặp lại nhau, sao bác? Con trai bác có khỏe không?


Tôi chào hỏi để có chuyện nói chứ cùng cảnh thăm tù, thấy người thân nỗi đau như xé ruột gan. Ông cụ òa lên khóc, tiếng khóc nỉ non ai oán.


– Tôi khổ quá cô ơi! Lặn lộn đường xa mong gặp con mà chẳng được gặp.


Tôi cầm lấy tay ông lắc lắc, lo sợ!


– Sao vậy bác! Anh ấy bị làm sao?


Như cào vào nỗi đau thương của ông, mếu máo ông càng khóc to hơn:


– Tội nghiệp cho con tôi, nếu tôi đi thăm một tuần trước đây thì đâu đến nỗi này, con tôi bị giam vào nhà đá mấy bữa nay rồi cô ơi. Ông khóc hu hu, giọng nghẹn ngào đứt quãng: “ Khổ thân con tôi! Sao con khổ vậy, con làm gì nên tội mà họ hành hạ con”!


Nước mắt tôi chảy theo nước mắt ông, cùng hoàn cảnh và tâm trạng. Kẻ khổ không gặp được con, người đau nhìn chồng thân xác hao mòn xác xơ. Một già một trẻ chung niềm đau, chậm chạp lê bước trên đường.…


Sau này, những đêm nằm gối đầu trên cánh tay chồng, tôi thường nghĩ đến những năm tháng sống trong đen tối khổ đau, những tủi nhục khổ cực mà chồng tôi chịu đựng trong nhà tù khổ sai mà Cộng sản gọi là “ tập trung cải tạo”. Tôi thì thầm hỏi anh nghĩ gì mỗi lần nhìn thấy tôi và ngày đó ở trại tù Gia Trung, cảm giác của anh khi bàn chân tôi tìm để trên bàn chân anh dưới gầm bàn, anh bóp nhè nhẹ bờ vai tôi cách âu yếm. Ngày mất nước, anh mất tất cả. Ngày vào tù, coi như anh đã chết. Những lần thấy tôi, nhìn tôi tàn tạ héo úa, anh rất khổ. Anh bất lực trong hoàn cảnh không thể an ủi xoa dịu tôi, anh không khóc được như tôi đã khóc, anh dồn nén niềm đau của mình càng làm anh đau hơn. Nhưng anh vẫn nhìn thấy nơi tôi một vùng trời đầy hy vọng, giúp anh thêm niềm tin và nghị lực. Và lần đó, anh không nhận được hơi ấm từ bàn chân tôi, có thể chân anh và tôi khoảng cách hơi xa, nên chân tôi đặt lên bàn chân người bạn tù ngồi kế bên.. Thôi thì người bạn tù đó cũng cảm được sự an ủi, hạnh phúc nghĩ đó là chân của vợ mình.


Anh quàng tay ôm chặt lấy tôi, như thể bàn tay anh còn quá hẹp, không đủ ôm cả niềm yêu thương hạnh phúc của mình. Còn tôi, rúc vào cổ vào ngực anh, hạnh phúc nghe được nhịp tim và hơi ấm, như đang nghe điệu nhạc dịu êm, ru tôi vào giấc ngủ trong vòng tay ấm áp của anh, mà trước đây tôi thường phập phồng lo sợ tưởng rằng mình không bao giờ còn có những giây phút này.


24/4/2014

Hoàng Yến

From: Bác sĩ: Hanh Van Phung

PHÙNG QUÁN: THÈM ĐƯỢC LÀM NGƯỜI


PHÙNG QUÁN: THÈM ĐƯỢC LÀM NGƯỜI

 Trần Mạnh Hảo

Sau vụ “Nhân Văn giai phẩm” (1955-1957), Phùng Quán (1932-1995) bị đuổi khỏi quân đội, đuổi khỏi Hội Nhà Văn, bị kiểm điểm quy tội đại phản động vì dám viết bài thơ “Lời mẹ dặn” in trên báo “Nhân Văn” năm 1956 và bài thơ “Chống tham ô lãng phí” viết năm 1957 cũng in trên báo “Nhân Văn”, cả gan dám quần tam tụ ngũ với bọn “đại phản động, đám chống đảng, dòi bọ xấu xa, đám hút xách, đĩ điếm gián điệp cho Mỹ Diệm” (lời thóa mạ của báo “Nhân Dân”) gồm : Phan Khôi, Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Trần Đức Thảo

 Trong tập tài liệu “Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận” in tháng 6/1959 tại Hà Nội, đã tập hợp bài viết lên án phong trào của 83 văn nghệ sỹ, với những tên tuổi như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị

 Khi bị đuổi ra khỏi ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, trụ sở của tạp chí “Văn nghệ quân đội” bây giờ, Phùng Quán đến ngồi bên một gốc cây ở đường Phùng Hưng hai tiếng đồng hồ. Ông không biết về đâu, ngủ đâu, ăn ở đâu vì không có gia đình bà con họ hàng.

 

Phùng Quán bơ vơ, lẩm bẩm: chỉ còn nước đi ăn mày…

Chú ruột Phùng Quán (tên hoạt động cách mạng là Nguyễn Vạn) đang là cán bộ cao cấp ở ngay Hà Nội đã từ ông vì tội chống đảng “nhân văn giai phẩm”, cậu họ là Tố Hữu đang là hung thần đánh “Nhân văn giai phẩm”…

 Phùng Quán tìm tới công viên tạm trú suốt một tuần thì bạn bè tìm được ông. Lúc đó, ông mới 26 tuổi, sức dài vai rộng, đi ăn mày, ai cho? Vả lại, đi ăn mày là nói xấu đảng, rằng chế độ tốt đẹp thế này mà mày đi ăn mày là sao?

 Đêm ngủ công viên, mưa lạnh, ướt như chuột lột, Phùng Quán thèm được đi tù. Đi tù còn có chỗ ngủ, chỗ ăn…Đi tù chính là thiên đường trong mơ của Phùng Quán lúc đó. Khi đuổi ông ra khỏi cơ quan Văn nghệ quân đội, người công an bảo: đi đi, đi mà tự lo lấy cuộc sống, đảng tha bắn, tha tù cho mày vì mày là con liệt sĩ ! Cấm mày đi ăn mày, ăn mày là tội nói xấu đảng nghe chưa ?

 Cha Phùng Quán là cụ Phùng Văn Nguyện một trí thức yêu nước chống Pháp bị Pháp giết trong lao tù Đà Nẵng năm 1932. Mẹ ông là Công Tằng Tôn nữ Thị Tứ ở vậy thờ chồng nuôi con.

 Phùng Quán đi đâu cũng có công an theo dõi. Đảng vẫn nhớ ông, ban cho ông đặc ân là liên tục được đi cải tạo lao động suốt 20 năm ở nhiều tỉnh như Thái Bình, Thanh Hóa, Việt Trì, Thái Nguyên…Mà đi cải tạo lao động theo Phùng Quán nói, còn khổ hơn ở tù…

 “Cải tạo lao động” là một cách ở tù mãn đời, tuy không có án nhưng với “tội nhân văn giai phẩm” Phùng Quán đã bị loại ra khỏi xã hội loài người.

 Từ nhà tù trá hình của cộng sản, Phùng Quán bước vào một nhà tù ngọt ngào khác có tên là tình yêu. Mối tình Phùng Quán – Vũ Thị Bội Trâm ( cùng sinh năm 1932) yêu nhau trước khi Phùng Quán bị nạn- là một mối tình kỳ lạ, bi kịch, hạnh phúc và đau thương là một.

 Cô giáo dạy văn cấp 3 trường Chu Văn An  trường Bưởi xưa) Vũ Thị Bội Trâm xinh đẹp, con nhà gia giáo, lấy ai chẳng lấy, điên mới đòi lấy tên đại phản động “nhân văn” chống đảng Phùng Quán. Bố mẹ, anh chị em họ hàng của chị Bội Trâm cấm chị yêu và lấy Phùng Quán, một gã bị xã hội coi không phải là người.

Sao mày lại lấy cái thằng trên răng dưới cát-tút, không nhà cửa, không nghề nghiệp, không lương lậu, không có đến một bộ áo quần sạch sẽ để mặc, liên tục bị đi cải tạo lao động, cái thằng phản động chống đảng thì thà lấy chó còn hơn.

Mẹ chị Bội Trâm bảo hàng xóm nói thế. Chị Trâm đòi tự tử. Anh chị Quán – Trâm có lúc tính ra cầu Long Biên cùng nhảy xuống sông tìm lối thoát…

 Nhưng Phùng Quán không dám tự tử cùng bạn tình Bội Trâm vì anh hi vọng có ngày về gặp Má còn đang ở Huế. Mẹ anh chỉ có mình anh. Năm bố anh bị Pháp giết trong tù Đà Nẵng, mẹ sinh anh, nuôi anh đến 14 tuổi thì anh trốn nhà theo Việt Minh đi chống Pháp năm 1945. Ra tới cầu Long Biên, quyết nhảy sông cùng chết với bạn tình Bội Trâm thì anh Quán nghe tiếng má gọi Bê ơi, Quán ơi trong tai mình. Anh toát mồ hôi, bàn với người yêu quay lại sống tiếp vì Má, chờ về gặp Má. Năm 1970 Má anh đã mất tại Huế mà không bao giờ được gặp lại người con trai duy nhất.

 Trước ngày phát hiện bị xơ gan cổ trướng, tôi ( TMH) ra Hà Nội. Anh Quán rủ đến chòi ngắm sóng của anh và chị Bội Trâm ăn cơm uống rượu, thức với nhau một đêm cùng đọc thơ, tâm sự…

 Đêm ấy, chỉ có hai anh em uống say và đọc thơ cho nhau nghe. Có khi cả hai cùng nói, cùng đọc thơ, chẳng cần ai nghe, cứ uống, cứ đọc. Anh Quán đọc bài “Lời Mẹ dặn”, “ Đêm đọc thơ Đỗ Phủ cho vợ nghe”…Anh Quán vừa đọc vừa khóc. Anh chỉ khóc với thơ, khóc với tình yêu thôi…

Công nhận, giọng đọc thơ bằng tiếng Huế của anh Quán hay tuyệt, có thể là người đọc thơ hay nhất nước…

 …Hảo à, mình có bạn thân nhất là Xuân Đài nhưng chưa hề kể những điều này với Đài đâu ! Mình chưa được sống Hảo ạ. Mới là thí dụ sống, thí dụ yêu. Năm nay 64 tuổi đời, mình chỉ thèm nhất là được làm người…Có ai coi mình là người đâu, trừ Bội Trâm và mấy thằng bạn như Xuân Đài, Tuân Nguyễn và mấy ông anh như Văn Cao, Phan Khôi, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt…

Mình yêu Bội Trâm và cô ấy yêu mình kinh khủng lắm. Mình đã nhốt cô ấy vào một nhà tù dã man nhất có tên là Phùng Quán…

Mình sống chui cả đời, lấy vợ chui, đám cưới chui, nghĩ chui, viết chui, in chui. May mà mình có bà mẹ nuôi tên là Tưởng Dơi ở Nghi Tàm.

Mình

và Trâm cưới nhau chui ở nhà mẹ nuôi, chỉ có bốn người dự là Xuân Đài,

vợ chồng Tạ Vũ – Nguyễn Thị Điều, bạn Vũ Trung. Đêm tân hôn, động phòng

không có, vì Tạ Vũ say, nằm ngủ cùng với cô Điều trên chiếc giường tre mẹ nuôi dành cho cô dâu chú rể…

  Nói ra chuyện này, chắc anh Quán đã say lắm: lấy vợ cả tuần chưa động phòng. Có phòng đâu mà động. Mẹ Tưởng Dơi nằm dưới bếp, cách vài bước là chiếc giường tre mẹ dành cho cho con nuôi và con dâu mới.

Chỉ cần ngồi lên là chiếc giường tre cọt kẹt là mẹ nuôi thức. Trong tâm lý sợ sệt và ức chế tận cùng, nó không cương nổi Hảo ạ… mần răng được. Lấy vợ mà vợ vẫn ở nhà mẹ đẻ, mình ở vất vưởng lúc công viên, lúc tá túc nhà bạn bè, lúc về nhà mẹ nuôi, còn có chỗ nào mà làm tình với làm tội nhau Hảo ơi…

Lấy vợ cả tháng mà Bội Trâm vẫn còn trinh trắng, mình buồn lắm. Chúng mình hẹn nhau ngoài công viên. Ngồi trong bóng cây và bụi rậm công viên che chắn lúc 9 giờ tối, mình hôn cô ấy và nó lên bình thường. Mình đè vợ ra động phòng ngay trên cỏ công viên…May mà công an không bắt được. Mình đã được làm người chưa Hảo ?

Suốt 20 năm, chúng mình thỉnh thoảng vẫn hẹn hò ngoài công viên, giải quyết chuyện vợ chồng trên cỏ, vậy mà cũng sinh được cháu Quyên con gái và cháu Quân con trai…

Đến khi vợ được trường Chu Văn An cấp cho chỗ ở năm 1981 là cái chái nhà kho thì mình lại phải lên Thái Nguyên cải tạo lao động ba năm…

 Anh Quán kể, ngày nào anh cũng quỳ lạy Hồ Tây, hồ Trúc Bạch đã cứu gia đình anh khỏi chết đói. Phùng Quán là vua câu cá trộm. Anh đã câu được nhiều chục tấn cá bán đi mua gạo mua sữa nuôi hai con. Suốt 20 năm câu cá trộm, nhiều lần anh đã bị bảo vệ bắt đánh hoặc giải về đồn công an…Anh nổi tiếng là “cá trộm, văn chui, rượu chịu”…

 Suốt 30 năm bị cấm làm người, cấm sống, cấm nghĩ, cấm viết, cấm hạnh phúc, cấm in ấn…anh Quán đã phải nhờ người khác đứng tên tác phẩm của mình. Truyện anh viết đứng tên em vợ anh là anh Vũ Quang Khải, hoặc đứng tên Đào Phương, Nguyễn Huy…thì mới được in, mới có nhuận bút kiếm cháo nuôi con. Truyện anh dự thi về Liên Xô mang tên Vũ Trọng Khải được giải thưởng là cái xe đạp Liên Xô anh mới có xe đạp đi. Anh viết hàng chục truyện ngắn mang tên người khác, ăn chia nhuận bút 50/ 50…Có một người đã đứng tên cho Phùng Quán viết 70 cuốn truyện tranh in ra đàng hoàng là nhà thơ Thanh Tịnh đồng hương Huế, thủ trưởng cũ, mà ông Thanh Tịnh không lấy một đồng nhuận bút nào của anh. Chuyện này hồi đó mà lộ ra thì không chỉ Phùng Quán mà đại tá Thanh Tịnh chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội cũng phải đi tù vì tội nối giáo cho giặc.

Bằng tiền câu cá trộm, viết văn chui suốt 30 năm, Phùng Quán đã góp với chị Bội Trâm nuôi sống mình và gia đình trong hoàn cảnh còn khổ hơn cả ở tù.

 Chị Bội Trâm yêu Phùng Quán như người đàn bà yêu đàn ông, yêu và lấy anh để anh khỏi tự tử, yêu như nô lệ yêu chủ nô, yêu vô điều kiện, vượt lên mọi ghen tuông thường tình. Chị Bội Trâm biết hết các nhân tình của anh như Hương Quân, Hà Khánh Linh… Vẫn mời các tình nhân của chồng đến nhà chơi, cùng đi chợ nấu ăn, chị chị em em vui vẻ. In ra cuốn “Trăng Hoàng cung” Phùng Quán viết trong cơn điên tình với nữ văn sĩ Hà Khánh Linh, Bội Trâm còn gửi sách vào Huế cuốn này tặng Hà Khánh Linh với lời đề tặng: “Thân yêu tặng em Hà Khánh Linh, nàng thơ của anh Quán, là hứng khởi cuối đời cho anh ấy làm thơ. Cám ơn em”…

 Đọc lại cuốn sổ tay nhòe chữ của chồng, chị Bội Trâm, sau khi anh Quán mất, đã biết được mối tình đầu cháy bỏng của chồng với thiếu nữ tên Nhủ năm 1955 ở Sầm Sơn. Chị Bội Trâm bèn nhờ người tìm tới tay bà Nhủ còn sống ở Sầm Sơn, tặng người tình xưa của chồng toàn bộ sách của anh, với lời đề tặng : Cám ơn chị Nhủ mối tình đầu của anh Quán, gợi hứng cho anh viết cuốn tiểu thuyết “Vượt Côn đảo” năm 1955.

Chị Nhủ gửi tặng chị Bội Trâm 5 con mực khô to nhất với lời nhắn: em vẫn còn yêu anh Phùng Quán.

 20 tuổi thành công vang dội với tiểu thuyết “Vượt Côn Đảo”, được giải thưởng của Hội Văn Nghệ Việt Nam năm 1955-1957 cùng với Tố Hữu, Tô Hoài, Nguyên Ngọc…

Phùng Quán được báo chí của đảng cho lên voi với mấy chục bài báo tôn vinh, khen ngợi là nhà văn của đảng, nhà văn nhân dân, là hạt giống đỏ cách mạng vinh quang…

Đùng một cái, vì hai bài thơ “ Lời mẹ dặn” và “Chống tham ô lãng phí”, Phùng Quán đang trên lưng voi của đảng bèn ngã xuống hàng chó đẻ của địch, kẻ phản động chống đảng bẩn thỉu khả ố nhất, xấu xa ghê tởm nhất…

 Xin in lại hai bài thơ này :

 Lời mẹ dặn

 Tôi mồ côi cha năm hai tuổi

Mẹ tôi thương con không lấy chồng

Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải

Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.

Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ

Ngày ấy tôi mới lên năm

Có lần tôi nói dối m

Hôm sau tưởng phải ăn đòn.

Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn

Ôm tôi hôn lên mái tóc

– Con ơi

trước khi nhắm mắt

Cha con dặn con suốt đời

Phải làm một người chân thật.

– Mẹ ơi, chân thật là gì?

Mẹ tôi hôn lên đôi mắt

Con ơi một người chân thật

Thấy vui muốn cười cứ cười

Thấy buồn muốn khóc là khóc.

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét.

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

Từ đấy người lớn hỏi tôi:

– Bé ơi, Bé yêu ai nhất?

Nhớ lời mẹ tôi trả lời:

– Bé yêu những người chân thật.

Người lớn nhìn tôi không tin

Cho tôi là con vẹt nhỏ

Nhưng không! những lời dặn đó

In vào trí óc của tôi

Như trang giấy trắng tuyệt vời.

In lên vết son đỏ chói.

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi

Đứa bé mồ côi thành nhà văn

Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm

Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.

Người làm xiếc đi dây rất khó

Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn

Đi trọn đời trên con đường chân thật.

Yêu ai cứ bảo là yêu

Ghét ai cứ bảo là ghét

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao doạ giết

Cũng không nói ghét thành yêu.

Tôi muốn làm nhà văn chân thật

chân thật trọn đời

Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã

Bút giấy tôi ai cướp giật đi

Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

(1957)

 

Chống tham ô lãng phí

 Tôi đã đi qua

Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt

Tôi đã gặp

Những bà mẹ quấn giẻ rách

Da đen như củi cháy giữa rừng

Kéo dây thép gai tay máu ròng ròng

Bởi đồn giặc, trồng ngô trỉa lúa…

Tôi đã đi qua

Những xóm làng vùng Kiến An, Hồng Quảng

Nước biển dâng cao ướp muối các cánh đồng

Hai mùa rồi, lúa không có một bông

Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ;

Tôi đã gặp

Những em thơ còm cõi

Lên năm lên sáu tuổi đầu

Cơm thòm thèm độn cám và rau

Mới tháng ba đã ngóng mau ra Tết!

Để được ăn no có thịt

Một ngày…một ngày…

Tôi đã đi giữa Hà Nội

Những đêm mưa lất phất

Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm

Chị em công nhân đổ thùng

Run lẩy bẩy chui hầm xí tối

Vác những thùng phân…

Thuê một vạn một thùng

Mấy ai dám vác ?

Các chị suốt đêm quần quật

Sáng ngày vừa đủ nuôi con…

Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn

Của nhân dân lao động

Đang buộc bụng, thắt lưng để sống

Để dựng xây, kiến thiết nước nhà

Để yêu thương, nuôi nấng chúng ta

Vì lẽ đó

Tôi quyết tâm từ bỏ

Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa

Những vần thơ trang kim vàng mã

dán lên quân trang đẫm mồ hôi và máu tươi Cách Mạng!

Như công nhân

Tôi quyết đúc thơ thành đạn

Bắn vào tim những kẻ làm càn

Vào lũ người tiêu máu của dân

Như tiêu giấy bạc giả!

Các đồng chí ơi

Tôi không nói quá

Về Nam Đinh mà xem

“Đài xem lễ” họ cao hứng dựng lên

Nửa chừng bỏ dở

Mười một triệu đồng dầm mưa giãi gió

Mồ hôi máu đỏ mốc rêu

Những con chó sói quan liêu

Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng!

Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng

Nhớ “Đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu

Đất nước đêm nay không đếm hết người nghèo

Thiếu cơm thiếu áo…

Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu

Đảng đã phê bình trên báo

Còn bao tên chưa ai biết ai hay?

Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gầy…

Chúng nảy nòi, sinh sôi như dòi bọ!

Khắp đất nước đâu đâu chẳng có!

Đến một ngày Đảng muốn phê bình tất cả

E phải nghìn số báo Nhân dân!

Tôi đã dự những phiên toà xử tội

Những con chuột mặc áo quần bộ đội

Đục cơm khoét áo chúng ta

Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ

Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói

Những mẹ già, em trai, em gái…

Còng lưng rỏ mát lấn vành đai!

Trung ương Đảng ơi!

Lũ chuột mặt người chưa hết.

Đảng cần phải lập những đội quân trừ diệt

Có tôi!

Đi trong hàng ngũ tiên phong.

 

Phùng Quán in cả hai bài trên báo “ Nhân Văn” năm 1956 và 1957.

Hoàng Văn Hoan, lúc ấy giống như vai trò phó vương, là tay mặt của ông Hồ, dưới bút danh “Trúc Chi” đã viết một bài trên báo “:Nhân Dân” chửi rủa, lên án, thóa mạ Phùng Quán hết lời. Tiếp đó, hàng mấy chục bài báo của đám văn nô bồi bút nguyền rủa đề nghị xử bắn tên “biểu tượng hai mặt”, đểu giả phản động Phùng Quán.

“Lời mẹ dặn” của Phùng Quán là một bài thơ hay, không hề có ý xỏ xiên nói xấu đảng.

Bài thơ chỉ khuyên con người sống tử tế, thật thà :“Yêu thì nói là yêu / Ghét thì nói là ghét” sao lại quy lên phản động chống đảng là sao?

Hóa ra làm người thật thà tử tế là trái ý đảng, là phản động à?

Hèn gì ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ông nghỉ hưu để làm người tử tế. Cho nên ngày nay, bói không còn ai tử tế trong hàng ngũ cầm quyền cũng vì đảng từng cấm nói thật, chỉ thích bọn nói điêu, bọn nịnh nên đất nước mới thê thảm dường này !

Còn bài “Chống tham ô lãng phí” là bài yêu đảng tận cùng, yêu vượt chỉ tiêu đảng giao, sao đảng lại bắt tội Phùng Quán mà đầy đọa cả đời ông, đầy đọa vợ con ông đến dường này…?

 … Đêm Phùng Quán mở lòng với tôi trên “Chòi ngắm sóng” cuối năm 1994 đầu năm 1995 là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau…

Hảo ơi, đời này mình chỉ thèm được làm người. Bội Trâm ơi, anh làm khổ em, Quyên và Quân ơi, bố làm khổ hai con. Không ai cho bố làm người, không ai cho anh làm người. Anh thèm lắm, thèm được làm người với Bội Trâm chỉ một ngày, có một phòng riêng cho đêm tân hôn, không phải động phòng ngoài công viên như cầm thú…

Hảo ơi, Quán chỉ thèm làm người.

Phùng Quán khóc…Đêm ấy gió mùa đông bắc thổi, như tiếng hú đòi được sống, đòi quyền làm người của âm binh ngàn xưa đói khổ vật vờ ngủ đường ngủ bãi kéo về lôi Phùng Quán đi…

 Trần Mạnh Hảo,

Sài Gòn ngày 24-3-2020

From: Nghia Truong

Chiếc Lá Cuối Cùng

Chiếc Lá Cuối Cùng

“Ông vua truyện ngắn” người Mỹ, O. Henry (1862-1910), đã để lại cho hậu thế gần 400 truyện ngắn. Điểm đặc sắc trong truyện ngắn của ông là những tình tiết bất ngờ, có lúc khắc nghiệt hoặc oái oăm. Nhiều lúc lại khôi hài, dở khóc dở cười, để rồi kết thúc khiến người đọc hoặc thích thú nhưng không quá sướng thỏa, hoặc bâng khuâng nhưng không quá nặng nề.

  1. Henry (1862-1910)

Chúng tôi chọn truyện “The Last Leaf” được tác giả viết từ năm 1907 vì nhiều lý do. Quan trọng hơn cả là tính cách thời sự của truyện với bệnh viêm phổi cũng tựa như dịch COVID-19 mà chúng ta đang phải gánh chịu. O. Henry viết về bệnh viêm phổi tại Greenwich Village ngày đó:

“Vào tháng mười một thì Trời phái một ông khách lạnh lùng mà các ngài bác sĩ thường gọi là Bệnh Viêm Phổi đến khủng bố khu Greenwich. Ông thò cái bàn tay lạnh ngắt, sờ chỗ này một chút, vỗ chỗ kia một phát. Khu vực phía đông bị ảnh hưởng nặng nề với khá nhiều người bệnh, nhưng bước chân của ông khách chậm dần khi bước vào cái mê cung chật hẹp rêu phong của khu Greenwich…”

Khu Greenwich Village, Manhattan, thuộc thành phố New York, là một khu phố cổ theo kiểu Hòa Lan từ thế kỷ thứ 18. Nơi đây hội tụ nhiều họa sĩ nghèo như Sue và Johnsy sống trong một khu nhà trọ.

“Ông khách Viêm Phổi” không phải là hạng người mà bạn thường gọi là “ông bạn già hào hiệp”. Cô Johnsy liễu yếu đó thật ra không phải là đối thủ xứng tay của lão già thô bạo, nhưng lão vẫn đập cô ta tận tình. Vì vậy cô gái nằm xụi lơ, bất động trên chiếc giường sắt, mắt nhìn vào bức tường gạch của căn nhà kế cận xuyên qua khung cửa sổ nhỏ.

Ông bác sĩ đã từng nói với Sue: “Tôi sẽ ráng hết sức làm những gì mà khoa học có thể làm được. Nhưng hễ khi nào bệnh nhân của tôi bắt đầu nghĩ tới chiếc xe chở quan tài và đám đô tùy thì tôi trừ đi một nửa cái hiệu quả của thuốc men”.

Hàng ngày nằm trên giường bệnh nhìn qua khung cửa sổ Johnsy chứng kiến những chiếc lá “thường xuân” (ivy) ngày một rụng nhiều. Cô nhủ thầm, khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống là sẽ là lúc cô lìa đời.

Ở Greenwich còn có lão Behrman là một họa sĩ già ngoài 60 với bốn mươi năm cầm cọ mà chẳng vẽ được một bức tranh nào cho ra hồn. Cả đời lão khao khát vẽ được một kiệt tác. Biết chuyện Johnsy bị bệnh viêm phổi rất nặng và bệnh tật khiến cô tuyệt vọng nên lão quyết định âm thầm thức suốt đêm mưa gió bão bùng để vẽ chiếc lá trên tường.

Chiếc lá giống như thật. Và ngày hôm sau, khi nhìn qua cửa sổ, chiếc lá cuối cùng, tác phẩm của Behrman, vẫn đang ngạo nghễ sau một đêm mưa gió. Johnsy bắt đầu nghĩ lại, cô bắt đầu hi vọng và muốn được sống, được sáng tạo.

Johnsy đã trở về từ cõi chết nhưng lão Behrman lại chết vì bệnh viêm phổi sau đêm sáng tạo kiệt tác chiếc lá cuối cùng để cứu Johnsy.  Sue lặng lẽ đến bên Johnsy báo cho bạn về cái chết của Behrman và tiết lộ bí mật về chiếc lá cuối cùng. 

Giày dép, quần áo Behrman ướt sũng và lạnh như đá. Không tưởng tượng ra được ông ấy đi đâu, làm gì trong một đêm gió mưa khủng khiếp như vậy. Sau đó họ tìm thấy chiếc đèn lồng vẫn còn cháy sáng, một chiếc thang được kéo lê ra từ trong kho, mấy chiếc cọ còn dính sơn và một hộp sơn pha trộn hai thứ màu xanh và vàng.

“Và Johnsy à, bạn thử nhìn ra ngoài cửa sổ kia, nhìn vào chiếc lá cuối cùng trên bức tường đó. Bạn không cảm thấy ngạc nhiên là tại sao nó chẳng lung lay động đậy gì trong cơn gió? Bạn ơi, nó chính là cái tác phẩm lớn của lão Behrman trong đêm chiếc lá cuối cùng lìa cành!”.

(“Look out the window, dear, at the last leaf on the wall. Didn’t you wonder why it never moved when the wind was blowing? Oh, dear, it is Behrman’s great masterpiece—he painted it there the night that the last leaf fell.”) 

Chuyện chỉ có vậy nhưng sao đọc đến đoạn kết người ta cảm thấy ngỡ ngàng pha lẫn tiếc nuối!

From: TU-PHUNG

Những Điều Ghi Nhớ Mãi Trên Đất Bắc

Những Điều Ghi Nhớ Mãi Trên Đất Bắc
 

“Nhớ Đào Quốc Đương, Hiến và Tiến”

– Phần cuối –

Mạc Thiên

Mấy ngày nay trời đã bắt đầu lác đác những trận mưa đầu mùa, nhưng trận mưa buổi sáng hôm nay quá lớn. Nước từ núi cao tràn xuống ào ào như thác vỡ, mực nước hồ Thác Bà dâng lên cao tràn vào cả sân trại, ngập đến gần đầu gối. Cả trại được nghỉ, nhưng được triển khai thành buổi sinh hoạt học tập. Khởi đầu buổi sinh hoạt nào cũng giống nhau: quản giáo chủ tọa, đội trưởng khai mạc buổi sinh hoạt bằng ba bài hát của tập thể đội do một anh trại viên được chỉ định “cầm càng” (chữ của thiếu úy quản giáo Đặng Quang Ba: “Anh Ích đứng dậy cầm càng cho tập thể đội làm vài bài…”). Sau này, không biết do ai khởi xướng mà “làm vài bài” đã biến thành “làm vài bãi…” Sinh hoạt đội có nghĩa là phê bình, bới móc nhau, rồi tự bới móc mình, nhận khuyết điểm, ưu điểm, tự đánh giá thái độ cải tạo, đồng thời hạ quyết tâm định “phương hướng tới”. Tôi được Đặng Quang Ba chỉ định phát biểu đầu tiên:

– Thưa cán bộ, thưa tập thể đội, tuần vừa qua, tôi phạm nhiều khuyết điểm, một là tôi đã làm thơ ủy mị khiến cán bộ trên đoàn phải xuống “làm việc”. Cán bộ đoàn đã chỉ vẽ cho tôi những sai phạm. Tôi hoàn toàn thành khẩn nhận lỗi và được cán bộ ghi nhận những nhận thức mới của tôi là có tiến bộ. Khuyết điểm thứ hai là phải nghỉ mất ba ngày để “làm việc”, nên không đảm bảo ngày công trong tháng, trong tuần. Tôi thành khẩn nhận khuyết điểm trước đội và rút kinh nghiệm để sửa chữa. Tôi xin hết!”. Đặng Quang Ba can thiệp liền:

– Không được nhận khuyết điểm chung chung như vậy! Thơ phải đọc lên, chỉ rõ những nhận thức sai trái của mình trước đội, có như thế mới nhận ra những sai lầm. Riêng phần kỷ luật là do trên quyết định sau.

Tôi nhẫn nhịn:

– Vâng, tôi cũng muốn đọc lên, nhận khuyết điểm trước cán bộ và tập thể, nhưng vị cán bộ đoàn cấm tôi không được nhớ, không được đọc những bài thơ sai trái đó, giờ quản giáo ra lệnh, tôi xin tuân theo!

Đặng Quang Ba nghe tôi nói như vậy, vội vã giơ tay ngăn:

– Thôi, đồng chí cán bộ cấp trên đã chỉ thị như thế thì chúng ta phải tuân hành thông qua, các anh đồng ý không?

Như những chiếc máy, 50 cái miệng gào lên thật lớn: “Đồng ý!” để khỏi bị bắt gào đi, gào lại mấy lần.

Cũng chiều hôm ấy, tôi lên cơn sốt, có lẽ vì thấm mưa chiều hôm trước, và do hơi đất ngột ngạt bốc lên. Cũng tối hôm đó, tối thứ 5, toàn trại phải lên hội trường học hát, trời vẫn mưa lác đác, nước rút đi để trơ lại bùn lầy, tôi cáo bệnh, xin đội trưởng ở lại lán. Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, trại có lệnh cho tất cả phải lên hội trường, dẫu đau ốm, miễn là còn sống. Tôi thấy Đặng Quang Ba gọi “Bẩy Xe Lửa” và Lữ Văn S, tổ trưởng tổ 3, và đội phó Nguyễn Văn X ra nhỏ to, chắc là có chỉ thị gì đặc biệt.

Đến 9 giờ 30 tối, tất cả về lán, lán tối đen và lầy lội những bùn. Bỗng có 7 người bỗng dưng hô hoán là mất đồ để trên “dàn giá ba lô”. Cuộc điều tra khởi đầu ngay tức khắc, phát hiện ra 7 chiếc ba lô “quân từ trang” của 7 anh em bị mất. Hàng rào tre nứa bị vẹt ra, vết giày ba ta còn in trên nền đất. Kết luận được đưa ra là nhân lúc toàn đội lên học hát, kẻ gian đã xâm nhập, ăn cắp đồ của trại viên. Tất cả thật rõ ràng. Sáng hôm sau, đội trưởng, đội phó và 5 tổ trưởng được lệnh ở lại trại để “sinh hoạt lãnh đạo đội.” Tối hôm đó, trời lại đổ mưa, sinh hoạt đội được triển khai rất sớm. Dưới ánh đèn dầu tù mù, mọi thủ tục được lập lại, Đặng Quang Ba đứng giữa lán, vẻ mặt gian ác. Trong lán không một tiếng động, chỉ còn lại âm thanh của những giọt mưa gõ trên mái nứa. Gã nhìn từng người, ánh mắt chứa đựng vẻ uy hiếp và cất cao giọng, hai hàm răng xít lại làm tôi nhớ đến tấm bia trên bãi tác xạ ngày mới vào quân trường:

– Sự việc xẩy ra tối hôm qua, bẩy trại viên đã bị “âm mưu đen tối của thế lực thù địch” ăn cắp với mưu đồ nghiêm trọng. Làm thế nào người ngoài biết được trong các ba lô để trên “sự nghiệp dàn giá ba lô” chứa quần “gan”, quần “tẹc”, vậy thì phải có sự tiếp tay “nội bộ tổ chức”, ý đồ thâm độc là móc ngoặc với dân để “âm mưu trốn trại”. Sự việc ấy đã rõ ràng. Hôm nay ta phải tìm ra kẻ địch “trong lòng dân tộc, tổ chức” để “ngăn chận kịp thời âm mưu đen tối phát sinh từ những ý đồ xấu xa.” Ban chỉ huy trại và hội đồng cán bộ dưới ánh sáng vinh quang của đảng, đã tìm ra kẻ đó là ai. Tuy nhiên, để thực hiện tính dân chủ, tổ chức đội lấy biểu quyết, nếu quá bán thì kẻ đó có tội và bị thi hành kỷ luật, nếu không đủ quá bán, kẻ đó vô tội. Thủ phạm gian tham phản động hôm nay được đưa ra trước tòa án của tập thể đội, đó chính là tên “Mạc Thiên”, và hắn phải đền tội.

Tôi đã dự đoán được âm mưu này, vì chiều nay, ánh mắt của tên Bẩy nhìn tôi khác lạ. Tôi biết số mạng của tôi đã được quyết định thông qua bàn tay của anh em. Tôi giơ tay xin phát biểụ Đặng Quang Ba chặn lại:

– Không cho phép mày phát biểu!

Tôi phản ứng quyết liệt:

– Tôi xin phát biểu để thể hiện tính dân chủ mà cán bộ vừa nói!

Tôi nhìn thẳng vào mắt y, y có vẻ bối rối:

– Cho phép mày nói 5 phút!

– Tôi chỉ cần 2 phút!

– Được, cho phép!

Tôi vẫn ngồi im tại chỗ, nhìn khắp lượt anh em. Nhiều người cúi đầu hoặc rút vào bóng tối. Giọng tôi đanh lại nhưng chứa đầy tình cảm. Tôi biết sự sống chết của tôi là lúc này:

– Thưa anh em toàn đội! Các anh, tất cả chúng ta đều có học, biết phán đoán đúng, sai. Tôi chấp nhận sự phán quyết của anh em, và sinh mạng tôi đặt trong tay anh em. Các anh phán quyết tôi theo lương tâm của mình. “Các ngươi đong cho ai bằng đấu nào, ta sẽ đong cho các ngươi bằng đấu đó!” Lời của Thượng Đế đã phán truyền, máu của kẻ vô tội sẽ chảy trên đầu con cái chúng ta. Tôi xin hết!

Cuộc biểu quyết lập đi lập lại câu hỏi “ai cho rằng tên Mạc Thiên có tội hãy giơ tay biểu quyết!”. Cả đội im phăng phắc. Một vài cánh tay ngập ngừng rồi bỏ xuống, trừ tên Bẩy, tên Xuân là giơ thẳng cánh. Đặng Quang Ba tím mặt, giọng hắn rít lên:

– Ai cho thằng Thiên không có tội, giơ tay lên!

Tất cả những cánh tay giơ cao, trừ hai tên Bẩy và tên Xuân.

Tên quản giáo hùng hổ hét lớn:

– À, thì ra chúng mày toa rập! Ông cho mục xương, mục xương!

Nói xong, y vội vã bước ra khỏi lán.

Bỗng dưng tôi cảm thấy một khoảng không mở ra trong lòng tôi, một cơn mệt lạ lùng dìm tôi xuống trong một cảm giác mơ hồ.

Cùng lúc đó, ngoài trời đêm, nhiều ánh đuốc bập bùng, một đoàn người khá đông tiến vào trại áp giải theo một người bị trói thúc ké, thủ phạm ăn cắp đã bị bắt ở chợ, khi y đem quần áo, tư trang ăn cắp của 7 trại viên ra chợ bán và bị công an tóm giải về trại.

Hắn chính là tên bộ đội quản chế trêu chọc Mận hôm trước, và hắn cũng chính là tên gác đêm hôm qua lúc chúng tôi lên hội trường học hát. Sự việc vỡ lở, cả trại xôn xao, ban chỉ huy trại không thể dấu nhẹm được. Ba ngày sau, tên Bẩy bỗng thổ huyết. Ôi, “Chúa có bàn tay của Chúa!”…

*

Lần đầu tiên tôi nếm mùi “kỷ luật” cũng do một bài thơ. Để chào mừng “quốc khánh” 2975, tất cả mọi trại viên phải tham gia “viết báo tường” với chủ đề “học tập tốt, lao động tốt”. Thời hạn nộp bài là ba ngày. Ngày ấy mới vào Long Giao, lao động chỉ quẩn quanh trong khu vực doanh trại, dọn dẹp vệ sinh, tu sửa nơi ăn chốn ở, làm cỏ và trồng tỉa. Mùa mưa đã đến được trên ba tháng, đám lau sậy đã cao hơn đầu người, mà cuốc xẻng chỉ là những cọc sắt đập dẹp đầu và uốn cong lại, do đó, những bàn tay phồng rộp, xây xát, cả đội cũng đã khẩn hoang được một khu đất rộng gần chừng một mẫu, chia cho 5 tổ đảm trách việc trồng trọt, ai muốn trồng gì cũng được, miễn là cho kín khu đất. Từ cảm hứng ngậm ngùi ấy, tôi đã viết bài thơ “Một ngày lao động tốt”:

Này luống khoai xanh, luống đất hồng

Đây vòm sắn mượt cụm rau non

Mồ hôi nhỏ xuống từng vuông cỏ

Ý đất, lòng khoai có biết không?

Mạch sống nhen theo mạch núi rừng

Chòm cây lối cỏ nhớ sương trong

Mưa nguồn chớp bể đêm qua đó

Chắc hẳn chưa tàn nụ hướng dương.

Nhát cuốc ta phăng bụi cỏ này

Ngại gì không mạnh sức đôi tay

Mai kia nắng dạt chiều đông xám

Và gió hừng đông lả bóng cây.

Ôi, đó đời ta, mảnh đất này

Bụi cà chen chúc cụm rau đay

Vui buồn trộn lẫn vài công đất

Ý lá, lòng hoa, hương cỏ may.

Bẩy ngày kỷ luật hưởng theo tiêu chuẩn trại giam. “Trại giam” là một cái thùng conex được chôn trong lòng đất, chằng chịt kẽm gai bao quanh. Trời nắng thì van trời, đêm mưa thì lạy đất.

Lần thứ hai, tai họa đến từ buổi học tập “nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là ưu việt”. Mọi người phải phát biểu ý kiến, triển khai ca ngợi đảng và xã hội chủ nghĩa, sau đó viết bài thu hoạch. Tôi ngồi khuất vào góc phòng, lơ đãng nghe anh em moi óc tìm cho ra những từ ngữ có thể tìm được để ca tụng “xã hội chủ nghĩa ưu việt”. Vẻ lơ đãng của tôi lọt vào mắt cú vọ của tên quản giáo Đặng Quang Ba, và hắn yêu cầu tôi đứng lên phát biểu. Hắn bảo:

– Anh hãy nhận xét những ưu và khuyết điểm của nền kinh tế ưu việt của xã hội chủ nghĩa!

Không lẽ tôi lập lại những “lời hay ý đẹp” mà anh em trong đội nặn óc nghĩ ra, và sẽ bị đánh giá là không chịu “động não”, là chung chung, là thiếu sâu sắc. Thôi vậy, tôi phải nói những điều tôi đã nghĩ, đã được đọc:

– Thưa cán bộ quản giáo, thưa anh em, trong tác phẩm vĩ đại “Công cuộc cách mạng nhân dân” của “cụ” Tổng Bí Thư Lê Duẩn, trang 506, dòng 14 có một đoạn viết rằng, “nhân một lần về thăm một xã nghèo thuộc tỉnh Nam Hà, “cụ” Tổng Bí Thư đã nói với lãnh đạo của xã ấy như sau:

“Nếu xã viên không có trên 3 sào ruộng đất, thì không nên vào hợp tác xã, cứ để cho họ làm ăn riêng lẻ, như vậy thành quả sẽ cao hơn, mới đủ sống.” Tại sao như thế? Tại sao làm ăn riêng lẻ lại có kết quả tốt hơn vào hợp tác xã? Chúng ta vẫn thường nghe các cụ, tổ tiên chúng ta nhắc đi nhắc lại câu nói “cha chung không ai khóc”, vì vào hợp tác xã, chẳng ai muốn tận lực ra sức làm việc, do dó thành quả sẽ thấp hơn canh tác cá nhân. Chẳng ai vạ gì đổ mồ hôi tận lực, trong khi những người khác lơ là, làm chiếu lệ. Tuy nhiên, tôi được biết, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng con người chủ nghĩa xã hội.” Cái khuyết điểm về yếu tố tâm lý dựa dẫm ấy, đã được Hồ Chủ Tịch nhìn thấy, nên mới quan tâm đến nhân sự, đến “con người chủ nghĩa xã hội”. Do đó, tôi xét thấy rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng có mặt hạn chế của nó!”

Gương mặt tên quản giáo xạm lại, mọi người nín thở, và tôi tự trách mình dại dột, dù đã mang hai nhân vật “vĩ đại” ra làm cái khiên che chắn, thế nhưng, chỉ ba ngày sau, tôi lại phải vào trại kỷ luật.

Chưa đầy hai năm, kể từ lần cùm đầu tiên, lần này là lần thứ ba, và cũng như lần đầu, tai họa đến từ những vần thơ. Theo tử vi, cặp văn xương, văn khúc, gọi tắt là văn khúc, là cát tinh riêng đối với tôi, nó đúng là hung tinh số một (và 14 năm sau, tôi lại bị “hạn” xương khúc lần nữa, và lần này nặng hơn nhiều).

Lần thứ 3 xẩy ra hơn một tháng sau ngày chấm dứt buổi “làm việc” với viên đại tá. Không một ai trong trại biết tôi bị kỷ luật. Lần này không hề đọc lệnh bắt giam, lệnh thi hành kỷ luật đối với trại viên phạm lỗi, bởi vì cái tội của tôi khó viết thành văn tự.

“Con ạ, từ khi bố vắng nhà

Đến nay, thắm thoát mấy năm qua

Khi đi con hãy còn măng sữa

Thơ dại nào hay buổi thiếu cha

Người ta bảo bố phải yên lòng

Hài tội mình ra giữa đám đông

Con ơi, tội bố nhiều ghê lắm

Nặng nhất là vì tội nhớ con!

Tôi bị cùm hai chân trong nhà ngục chìm một nửa trong lòng đất, tường xây bằng đá tảng với muối, không một chút ánh sáng, buổi trưa ngày nắng dội, trong ngục cũng chỉ lờ mờ một thứ ánh sáng như đêm trăng suông. Hai bên bệ xi măng cao chừng 30 cm (hoàn toàn giống như một ngôi mộ) là hai trụ đá, xuyên qua hai trụ đá là một thanh sắt lớn. Hai chiếc cùm chữ U lồng vào hai cổ chân, và thanh sắt dài xuyên qua hai vòng khuy của mỗi thanh sắt chữ U, xiết hai cổ chân rồi xuyên qua bức tường khóa cứng ở bên ngoài.

Viên cán bộ có cặp chân mày sâu róm và ánh mắt hung bạo lấy làm thú vị khi hai thanh sắt chữ U nịt chặt lấy cổ chân của tôi. Y cười gằn, vung vẫy chùm chìa khóa:

– Chết cha mày nghe con, đây là mồ chôn của mày, mày sẽ cạp cứt mà chết, chuyên chính sẽ nghiền nát mày như cám bụi!

Nói xong, y vung chùm chìa khóa quật vào mặt tôi, cũng may, tôi tránh kịp, nhưng tôi lại không thể tránh được những cú đạp túi bụi vào người, tôi phải gồng mình lên mà chịu đựng. Khi cửa hầm sập lại, căn hầm tối đen. Tôi ngồi im trong bóng tối mịt mùng, đầu óc trống rỗng. Bầy muỗi đói ào ra, trong im lìm, tiếng muỗi bay lớn dị thường. Cũng may, bộ đồ tù tôi mặc trên người là bộ đồ trận của Biệt Động Quân, tuy thế, cũng không cản được những cái vòi như kim châm của bầy muỗi đói. Đó là ngày 19/5/1977, ngày sinh của ông Hồ (?). Đó là ngày thứ nhất và ngày sau cùng, làm sao biết được là bao giờ, vì lần này không có lệnh kỷ luật, nên không có thời hạn.

Tôi ngồi im như thế không biết là bao lâu. Khi hai nhượng chân gác đè lên thanh sắt, đôi chân từ cảm giác tê dại đã chuyển thành nhức buốt. Cũng may, đôi dép râu của tôi y đã quên không tịch thu, do đó, tôi dùng nó đỡ cho hai gót chân hổng lên, để khỏi đè lên thanh sắt. Cũng nhờ thế mà sau này tôi còn đi lại được. (Ôi, đôi dép sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!)

Dẫu trong hoàn cảnh nào cũng phải sửa soạn cho cuộc đầy ải, bằng tất cả những gì có thể có được. Tôi cởi áo lót trùm kín lên đầu, xé chiếc quần đùi đang mặc bao lấy đôi bàn chân, phòng thủ cuộc tấn công hung bạo của bầy muỗi. Tôi ngả lưng xuống và thiếp đi. Mỗi một ngày, cửa hầm chỉ mở một lần vào buổi chiều để mang cơm cho tù. Trong phòng, ngoài trừ một ống vầu để tiểu tiện, một để đại tiện, còn một ống vầu cắt ngắn để đựng vừa đủ hai giá cơm, khoảng hơn một chén, và một ống vầu chứa một lít nước uống. Gọi là cơm, thật ra, từ ngày ra Bắc, lương thực của chúng tôi quẩn quanh chỉ toàn là bo bo, sắn lát, và cao cấp nhất là bắp xay. Tội thay, có hôm nhà bếp quên muối, có hôm lại bỏ muối mặn chát, phải bốc mà ăn, hai bàn tay lép nhép chùi đại vào quần áo, mùi hôi kết hợp từ mọi thứ, nồng nặc, song rồi mãi cũng quen.

Tôi đã qua đi được mùa hè, một mùa hè lửa đổ trong căn hầm đá được xây bằng muối, ban ngày nóng đến độ “lè lưỡi như chó tháng sáu”, ban đêm lạnh buốt như cứa da. Bộ quần áo đã dày cứng như mo nang, do hai bàn tay lép nhép. Sau đó, tôi đã thầm cám ơn Thượng Đế đã cho ta mái tóc. Tóc dài xòa xuống cổ, hai bàn tay được “chùi rửa” trên mái tóc. Ôi, cảm giác sạch sẽ của bàn tay được tóc lau đi sung sướng làm sao! Rồi mái tóc cũng bết lại, xòa xuống, che được cần cổ, phòng chống hữu hiệu bầy muỗi bạo tàn…

Chỉ sau khoảng một tháng, vòng sắt chữ U đã rộng ra do hai cổ chân teo lại. Sang tháng thứ ba, chỉ còn bị cùm một chân. Hạnh phúc thật vô ngần khi một chân được tự do!

Hàng ngày, để giết thì giờ, tôi kể cho tôi nghe tất cả những bộ truyện mà tôi đọc được như Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xa Điêu, Lục Mạch Thần Kiếm, Cô Gái Đồ Long, Tiếu Ngạo Giang Hồ, kể cả bộ Lộc Đỉnh Ký. Tôi cố nặn óc, cố nhớ lại. Kỳ lạ thay, trong cơn đói khổ tận cùng, trí nhớ của tôi dường như lại tốt hơn lên. Những nhân vật trong toàn bộ tác phẩm của Kim Dung tôi nhớ gần như nguyên vẹn, nhờ đó mà sau này tôi được tấn phong ngôi Giáo chủ, Lệnh Hồ Công Tử…

Tôi tự nhủ tôi không được nhớ thương, không được buồn khổ…, nhưng rồi, cho đến một ngày, tôi biết mình sắp chết, cái chết lảng vảng quanh tôi. Nhiều lần tôi đã phải cố gắng vùng vẫy để thoát ra khỏi cái hố thăm thẳm của cái chết, và tôi cũng biết rằng sự cố gắng ấy chẳng còn kéo dài được bao lâu nữa.

Đã qua một mùa đông phải phấn đấu chống chọi với cái lạnh, tôi mơ hồ cảm thấy trái tim tôi như đứng lại, ngập ngừng từng nhịp rã rời. Tôi phải dùng tay mình xoa nóng cho nó, vỗ về nó, van xin nó đừng ngừng lại. Rồi một mùa hè nóng ngộp lại tới. Tôi há miệng thở dốc từng cơn. Tôi không thể, vâng, tôi biết tôi không thể vùng vẫy ra khỏi cái hố tối tăm đang mở lớn, từng lúc, từng lúc nhận chìm tôi xuống cõi miên viễn. Cho đến một hôm, tôi không thể nào nuốt trôi được hai củ sắn luộc đã có mùi thiu và trơn nhợt. Miệng tôi đắng ngắt, khô lại, cùng một lúc tôi nghe tiếng gió thổi lạnh buốt từ đốt xương sống dâng lên. Tôi nghe ở xa lắm tiếng gọi mơ hồ trong chính thân thể mình, và trong óc tôi, sự lịm tắt của sự sống dường như đã khởi đầu, mù mờ, sương khói trong đôi mắt nặng nề, và bóng tối kỳ dị của sự chết đang bước tới. Tôi cố gắng vùng vẫy để thoát ra. Tôi không sợ hãi, không kinh hoàng, nhưng thoáng chút ngậm ngùi hình ảnh mơ hồ của đứa con chưa biết mặt. Đứa bé ấy là trai hay gái, vì khi nó được sinh ra, tôi không được tin tức mảy may nào của Mẹ con nó…

… Con ra đời giữa lúc đời tan tác

Mà đau thương còn quặn đến hôm nay

Trời tháng Tư lấp đầy cơn ác mộng

Biển nghìn năm còn vọng nỗi đau này.

Không! Ta không thể nào chết được! Không! Lạy Chúa! Và tôi chìm đi trong hố sâu thăm thẳm của vô cùng. Tôi thấy một vùng sáng như sữa bao bọc quanh tôi, một cảm giác nhẹ nhàng như sương khói…

Bỗng dưng tôi cảm thấy giá buốt. Tôi nghe thấy có tiếng động xào xạt, tôi mở mắt, ánh lửa bập bùng hắt lên tàng cây cao, dường như tôi cất tiếng rên… Tôi bỗng nghe có tiếng người nói lớn:

– Báo cáo anh bộ đội, anh T còn sống! Hãy còn sống…

Có tiếng hỏi vọng tới, dường như từ phía dưới ngọn đồi:

– Sao? Cái gì? Khẩn trương lên mà về!

– Anh T còn sống!

– Sống đếch gì được mà sống, cùng lắm là sáng mai nó cũng chết, chôn mẹ nó đi, khỏi mất công khiêng đi khiêng lại!

Thì ra lịm đi. Họ nghĩ rằng tôi đã chết và mang đi chôn, nhưng giữa chừng, tôi đã tỉnh lại. Ôi, tỉnh lại mà làm gì! Nỗi cay đắng đầy ắp trong tôi. Tôi sẽ bị chôn sống!? Cuộc đời tôi đến thế này sao?

Bỗng có tiếng gọi thất thanh từ phía dưới:

– Chết mẹ rồi, trại cháy! Bỏ mẹ nó đấy, về chữa cháy, mau lên!

Hai người tù tự giác, là những tù biệt kích bị bắt năm xưa, quẳng xẻng cuốc lao đi. Cảnh vật yên tĩnh, tôi cố gắng, sự cố gắng lạ thường, và tôi đã ngồi dậy được. Bó đuốc còn cắm gần đó, huyệt mộ đã đào gần xong. Tự nhiên, như một thôi thúc bí mật của sự sống, tôi cố gắng bò lết và đã bò chui vào được một bụi rậm. Tôi dựa lưng vào một tảng đá và thiếp đi… Không biết bao lâu, tôi lại nghe tiếng chân đi lạo xạo, và một giọng hốt hoảng:

– Chết mẹ, thằng chả biến đâu mất rồi?!

Một giọng khác thì thầm:

– Hay là chả trốn rồi?

– Trốn sao được, ngáp ngáp rồi còn trốn với chạy thế đếch nào được!

– Hay là… bị cọp tha mất xác rồi!

– Bây giờ làm sao?

– Hay là mình báo cáo cho thằng cớm nhí?

– Báo cáo lại mang khổ vào thân, thôi cứ coi như mình đã chôn rồi, cọp xơi cũng vậy, đất nuốt cũng vậy!

Tiếng động của một tảng đá được lăn xuống, tiếng lấp đất. Một lúc sau có tiếng vọng từ xa:

– Xong chưa?

– Xong rồi!

– Thôi về! Mất mẹ nó một đêm!

Ánh đuốc mờ dần dưới triền đồi, và tôi lại thiếp đi. Tôi bỗng mơ thấy một người, một lão ông râu tóc bạc, vỗ vào vai tôi:

– Dậy đi con, ráng bò lại bên ánh lửa, con sẽ tìm được sự sống!

Tôi giật mình mở mắt, qua tàn lá rợp, tôi thấy có ánh lửa thoắt bùng lên, thoắt tắt ngấm, ở một nơi cách chỗ tôi nằm chừng vài chục mét. Trong đêm sương lạnh, ánh lửa nồng ấm có một sức mạnh kỳ lạ lôi kéo tôi, dựng tôi lên. Tôi bò lết từng tấc đất về hướng lửa. Khoảng vài chục mét, với tôi lúc này như ngàn dậm, một sự phấn đấu vượt qua sức còn lại của tôi. Tôi ngừng lại nghỉ. Không khí trong lành của đêm khuya trên đồi cao đã giúp tôi tỉnh táo. Tôi tự thúc giục mình: “Ráng đi! Ráng đi! Phải sống! Cuộc đời còn phía trước, kẻ thù còn phía trước, ráng lên!…” Tôi tự khuyến khích mình trong sự rã rời của chân tay, và tiếp tục lết bò đi từng chút một. Cỏ gai cứa lên mặt tôi, đất sỏi xiết chà trên thân thể rã mục. Tôi lết đi, cho đến một lúc thể xác không thể tuân theo mệnh lệnh của ý chí… thì tôi đụng phải một vật, rồi tôi nhận ra tôi đang bò lết trong khu nương rẫy của người Dao, và cái vật mà tôi vừa đụng phải là một trái bí đỏ còn non. Trong suốt cuộc đời tôi, từ quá khứ cho đến khi nhắm mắt, sẽ không có một loại trái cây nào có thể sánh bằng với trái bí đỏ non đêm hôm đó. Tôi không thể tả được nó ngon đến dường nào, và cũng từ đó, tôi không hề muốn ăn bất cứ loại trái cây nào khác. Và cho đến hôm nay, trên đất Mỹ này, những người thân yêu thường cho tôi là kẻ dại dột, không biết ăn trái cây. Tôi không biết nói làm sao cho phải, thường cười mà đùa rằng “Tôi tuổi Tỵ, mà lại là Tân Tỵ, cầm tinh Mãng Xà Vương, các vị có thấy con rắn nào ăn trái cây bao giờ không”. Có ai biết đâu rằng, đối với tôi, ngay cả loại đào tiên trong truyền thuyết của Tây Vương Mẫu cũng chẳng thể sánh bằng được “trái bí đỏ non” đã cứu mạng tôi đêm đó.

Tôi ăn hết ba trái bí non bằng nắm tay. Kỳ diệu thay, một nguồn sống mới đã nhen nhúm lại trong tôi, và tôi đã bò đến được bên đống lửa trong một chòi lá giữa rừng núi hoang dại. Đây là chòi lửa của dân tộc Dao dựng lên giữa khu nương rẫy để canh phòng thú rừng phá hoại hoa mầu… Mỗi lần cơn gió thổi qua, tàn tro tung bay, và ngọn lửa lại bùng lên. Lửa âm ỉ ngày đêm ngúm mãi trong những thân gỗ lớn. Tôi bỗng chợt phát hiện một trái bí già vùi giữa đống than tro, có lẽ của chủ nhân khu rẫy này nướng sẵn và bỏ quên. Tôi ăn hết trái bí đỏ nướng, ngọt như mật, cho đến khi bao tử không còn chỗ nào nhét thêm được, mà miệng thì vẫn cứ muốn ăn, tôi hiểu được tại sao trong trận đói tháng Ba năm Ất Dậu, người ta chết vì đói, và sau đó lại chết vì quá no!

Trời đã gần sáng, tôi bò vào một lùm rậm, cạnh một thân cây lớn, ngả mình giữa hai chiếc rễ khổng lồ và ngủ thiếp đi.

Tôi bừng mắt dậy, tuy không phải là ánh nắng, lần đầu tiên sau 419 ngày trong hầm tối, tôi chạm phải ánh sáng ban ngày, đôi mắt tôi nhức buốt như kim châm, nhưng theo tiếng động, tôi cũng kịp nhìn thấy nòng súng chĩa vào đầu tôi. Hai người Dao, người đàn ông cầm súng săn có lẽ nghĩ rằng tôi là một con quái thú, toan bóp cò, và nhanh tay hơn, người đàn bà đã kịp đẩy nòng súng lên cao, súng nổ, viên đạn cắm vào thân cây sát trên đỉnh đầu tôi. Tôi lấy hai tay ôm mặt, che bớt ánh sáng ban ngày của ngày tàn hạ. Tôi không hiểu được hai người Dao đã trao đổi gì với nhau. Sau đó, người đàn ông lấy một cành khô gạt bàn tay tôi ra, vén mớ tóc dài lòa xòa phủ trên mặt tôi và quan sát. Ông ta gật gù như nhận ra tôi là một con người, một con người khốn khổ.

Có lẽ mùi hôi thối từ người tôi tỏa ra khiến ông ta nhăn mặt, mũi ông ta chun lại và hắt hơi. Người đàn bà, áng chừng là người vợ, đưa cho chồng chiếc khăn quàng. Ông ta bịt khăn quanh mũi, đưa súng cho vợ và xốc tôi lên, cõng tôi trên vai. Tôi xúc dộng đến trào nước mắt. Lòng thương xót của một con người với một con người, và đó là bản năng không chỉ của con người với nhau, mà cả đến loài ác thú cũng có trong đồng loại. Tôi tự hỏi, lòng nhân ái của con người đối với đồng loại mình. Đôi khi không bằng loài cầm thú, chẳng lẽ những người cộng sản đã không còn bản chất người, bản chất của các loài động vật? Tôi thiết tha hy vọng là tôi đã nghĩ sai, nhưng ý nghĩ ấy không lúc nào rời bỏ tôi từ ấy… Tôi ngủ thiếp trên vai người chồng, lên dốc, xuống đèo, không biết bao lâu thì tôi được đặt xuống. Ánh nắng đã lên cao. Đôi mắt tôi nhức buốt khi mở ra. Tôi được đặt nhẹ nhàng xuống bên một tảng đá. Người vợ đưa cho chồng chai dầu mùi ngãi cứu, đổ lên đầu tôi. Một thoáng sau đó, mùi hắc đã không còn, chỉ còn lại mùi thơm tỏa quanh người. Ông chồng lấy chiếc kéo cắt mớ tóc của tôi, những bệt tóc hơn một năm không được tắm gội rơi xuống lả chả như vỏ cây. Ông ta cắt tóc như một người nhà nghề, dĩ nhiên là “cắt bốc” theo kiểu “tiền văn minh – hậu sư cụ”. Sau đó, người vợ đưa cho tôi một nắm xôi bắp nếp đã nguội và ra dấu cho tôi ăn. Tôi gọi là xôi bắp, thật ra, đó chỉ là loại cơm ngô dẻo quánh. Tôi ăn thoáng đã hết. Tôi liếm sạch sẽ mảnh lá chuối khô cho đến khi không còn hạt bắp nào dính lại. Người chồng trao cho tôi ly nước nóng, nước chát quánh như trà quặn. Một lúc sau, ông chồng đỡ tôi đến một vòi nước; nước được truyền xuống từ một dòng suối trên cao, chảy theo những chiếc máng làm bằng thân cây vồi được bổ đôi, từ cao hạ thấp từ từ và chuyền đến tận nhà. Nước trong vắt và mát lạnh, nước xối xả lên đầu, lên vai, lên cổ tôi. Bộ quần áo mục rách ngấm nước mủn ra khỏi thân thể, và nước từ trong vắt biến dần thành đen sậm khi chảy qua người tôi. Tôi chà xát, kỳ cọ và da tôi hiện ra trắng nhợt như xác chết, người còn da bọc xương với những đường gân xanh nổi lên chằng chịt.

Người đàn ông, sau một lúc tần ngần, đã lấy ra một cục sà bông “đế” được bọc cẩn thận trong tấm giấy dầu, chà lên đầu, lên cổ tôi, giúp tôi kỳ cọ sau lưng. Ông nhìn thân hình tôi và lắc đầu ái ngại, rồi ông đem cho tôi một bộ quần áo màu xanh lam với nhiều chỗ vá. Dù trong suốt thời gian bị cùm, tôi vẫn thường xuyên luyện tập đôi chân, vậy mà tôi không thể tự mình đứng dậy nổi. Ông chồng đưa cho tôi cây gậy chống, khuyến khích tôi tập đi. Tôi đi run rẩy và loạng choạng như một ông già trăm tuổi. Nếu cứ tính “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” thì ít ra tôi đã có tuổi hàng triệu năm, vậy thì có gì làm lạ khi tôi như một ông già trăm tuổi!

(Tôi ở trong tù trước sau gần tròn 20 năm, tức là 7 ngàn đêm lẻ chốn lao lung, nhân với thiên thu, là nhân với một ngàn, tính ra tôi đã thọ được 7 triệu tuổi! Xin cám ơn người anh em “vô sản”!)

***

Tôi được vợ chồng người Dao cưu mang khoảng một tuần lễ, tuy nhiên, tôi không được xuống “dưới nhà”. Trong suốt tuần lễ ấy, họ dấu tôi trên gác. Gác thật ra chỉ là những tấm ván được gác ngang qua hai đà ngang. Tôi chỉ được xuống nhà dưới khi đêm xuống để làm vệ sinh cá nhân. Ngày hai lần, cơm là bắp nếp được xay ra và nấu như gạo, ngon ngọt vô cùng, đôi lúc được ăn với mật ong. Sức khỏe của tôi dần dần hồi phục. Tôi cố gắng xoa bóp đôi chân bằng loại thuốc nước của rễ cây nào đó mà ông người Dao đưa cho. Gân cốt cứng cáp trở lại và tôi đi được không cần đến gậy chống, dù còn yếu…

Một hôm, hai vợ chồng người Dao nhỏ to với nhau và chỉ chỏ lên chỗ tôi nằm. Rồi một buổi sáng sớm, họ đưa tôi xuống và dìu tôi đi. Họ đưa tôi trở lại chốn cũ, nơi chòi lửa và bảo tôi ngồi đợi… Khoảng hơn một giờ sau, một viên thượng úy và hai vệ binh đi tới. Tôi nói với viên Thượng úy:

– Xin cứ việc giết tôi, tôi không hề oán trách, trước sau gì tôi cũng chết!

Tôi hình dung đến căn hầm kỷ luật và quả thật, cái chết chính là một ân huệ. Gã thượng úy cười hiền lành, nhưng nụ cười lại làm tôi rợn tóc gáy. Tôi bỗng nhớ đến viên đại tá đã làm việc với tôi ngày trước. Gã bảo:

– Sao anh lại nói thế? Chúng tôi rất tiếc vì sự lầm lẫn của đồng chí y sĩ khám nghiệm nói rằng anh đã chết. Chúc mừng anh đã hồi sinh! À này! Làm sao anh ra khỏi huyệt mộ?

– Thưa ông, huyệt đào rất cạn, tôi moi đất chui lên và sau đó được vợ chồng người Dao cứu vớt.

Tôi được dẫn về trại, cách ly với các phạm nhân khác và được bồi dưỡng 3 ngày (mỗi ngày 2 chén cơm độn bắp và một chén canh rau, tiêu chuẩn của vệ binh). Ngày thứ ba, tôi được đưa đi cân. Viên y sĩ (?) bảo tôi:

– Cho anh ba mươi bẩy ký! (Có nghĩa là tôi chưa được 37 kg)

– Xin cám ơn tấm lòng rộng lượng của cán bộ!

Tôi nhìn y. Y thản nhiên nhận lời cám ơn châm biếm của tôi. Ba ngày sau, tôi được chuyển về trại Nam Hà (tức trại Ba Sao). Tôi được dặn đi nhắc lại là không được nhắc đến bất cứ điều gì về những ngày tôi được “an dưõng”.

Cho đến hôm nay, tôi cũng không biết nơi tôi đã được “an dưỡng” suốt 419 ngày đêm là đâu, và điều ray rức nhất là tôi chẳng biết tên vợ chồng người Dao đã cứu tôi ngày đó. Hình ảnh cặp vợ chồng đầy lòng từ tâm ấy mãi mãi không phai mờ trong lòng tôi, cho đến lúc lìa đời…

Bao nhiêu đêm muộn bấy nhiêu ngày

Ta sống hay là đang chết đây

Ngục tối khác chi lòng huyệt tối

Nghìn trùng ngay tự lúc chia tay.

(Trần Thúc Vũ)

Tám trăm trại tù được đánh số từ AH.1 đến AH.800 thống thuộc đoàn 776, chia thành nhiều liên trại, nằm rải rác trong rừng sâu suốt một giải biên thùy Hoa – Việt. Những Cổng Trời, Nghĩa Lộ, Văn Bàng, Sơn La, Yên Bái… Con số 800 trại tù chỉ được tính bằng ký hiệu AH, đó là ký hiệu thuộc thẩm quyền quản lý của quân đội, chưa kể đến các trại thuộc Trung Ương do công an quản lý, hay đúng hơn, đó chỉ là các trại tù dọc theo biên giới cực Bắc.

Trên toàn quốc Việt Nam, còn vô số những trại tù của từng địa phương mang những ám số khác nhau, dưới quyền sinh sát của các bạo chúa khác nhau. Đoàn 776 dưới tay bạo chúa Đàm Quang Trung, trung tướng tư lệnh quân khu Tả Ngạn. Mỗi trại thuộc đoàn 776, số tù nhân xê dịch từ 400 đến 500, tính đổ đồng tổng cộng chừng 35 ngàn người. Nếu tính theo số thì tù nhân hiện nay trên toàn cõi Việt Nam có khoảng chừng 2 triệu người (Đây là con số mà một viên thiếu tá công an vô tình nói với tôi vào cuối năm 1997). Đây là một con số khủng khiếp, tỷ lệ 1/35 người dân Việt Nam bị đày trong ngục tối, ấy là chưa kể đến số dân còn lại, cuộc sống cũng chẳng khá gì hơn số phận của những tù nhân.

Tôi đã làm một con tính nhẩm, chỉ riêng với số tù nhân 2 triệu với mỗi ngày nửa ký lô gạo lương thực và nửa ký lô qui ra tiền thực phẩm không thôi, thì mỗi ngày phải tiêu phí 2.000 tấn gạo, chưa kể đến ngân sách nuôi dưỡng, cung cấp cho hệ thống kềm kẹp này, cùng những chi phí điều hành cho 2 cục quản lý trại giam… thì con số có thể lên tới 720 ngàn tấn gạo hàng năm, tính đổ đồng tiền gạo đổ ra để duy trì, điều hành toàn bộ hệ thống nhà tù ở Việt Nam… Tất cả chi phí này đều do nhân dân Việt Nam è cổ ra gánh vác để tạo điều kiện cho sư thu nhập của đảng. Thành quả sức lao động của hai triệu tù nhân là một món béo bở, vô tội vạ. Mỗi tù nhân phải lao động mỗi ngày 8 giờ chật vật, chưa kể những ngày Chúa nhật bị trưng dụng cho cái gọi là “ngày lao động xã hội chủ nghĩa”. Con số ấy vẫn chưa dừng tại đó, vì rằng, những mánh khóe bóc lột tù nhân một cách tinh vi chưa đề cập tới. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên gì khi nhà tù càng ngày càng đông thì đảng càng béo bở, càng giầu xụ, và luật pháp càng ngày càng khắt khe, tạo cho xã hội càng ngày càng băng hoại. Bề ngoài đảng cộng sản khoe khoang đang cải tiến chế độ lao tù, cho thăm nuôi, cho tự túc, song thực chất chỉ là để tạo điều kiện vơ vét, bóc lột xương máu của thân nhân những người tù. Và việc “chống tham nhũng” cũng nằm trong mục đích ấy. Tôi xin nói rõ để minh chứng điều này:

Trong mỗi trại, cán bộ thăm nuôi, “giáo dục” và điều tra hoàn cảnh của từng tù nhân, khuyến khích các tù nhân thuộc gia đình khá giả ra “tự túc”, và những thành phần này được ưu đãi, nghĩa là được tự do tương đối. Diện “tự túc” được chia làm nhiều loại. Mỗi trại viên muốn ra tự túc phải nộp cho trại hàng tháng 200.000$ (hai trăm ngàn đồng), chưa kể những món tiền dấu mặt đút lót riêng cho cán bộ quản giáo, cán bộ thăm nuôi, cán bộ giáo dục và bày tỏ lòng tri ơn bằng những giá trị vật chất khác mỗi lần thăm gặp gia đình. Cán bộ trực trại cũng không được lãng quên, rồi đến cán bộ quản giáo, quản chế phải cung phụng hàng ngày, kể cả việc chưa kể nếu muốn được thăm nuôi “24” hay “48”, nghĩa là gia đình được ở lại với tù nhân trong khu vực thăm nuôi, thiết kế từng phòng như “nhà chứa”. Muốn được ở lại, thân nhân phải trả tiền phòng, tiền đủ thứ, ủng hộ cái này, đóng góp cái khác, và nếu muốn ở lại lâu hơn, cứ có tiền bỏ ra là được. Tuy nhiên, đối tượng phạm nhân phải được đánh giá là tiến bộ, và việc đánh giá này hoàn toàn nằm trong tay cán bộ quản giáo. “Tiền là tiên, là Phật, là sức bật con người, là nụ cười của tuổi trẻ… Tiền hết ý!” Tù nhân bình thường là thế, còn tù nhân kinh tế thì sao? Và điều này khiến cho tham nhũng càng ngày càng nhiều, càng chống càng đông.

Một gã tù kinh tế với án tù chung thân, vốn là giám đốc một đại công ty, đã nói với tôi: “miễn là đừng bị án tử hình là đủ!”. Y ở trong một cơ ngơi riêng cách trại khoảng 500 mét, bên cạnh một hồ nước lớn, có TV, tủ lạnh, kể cả máy lạnh và những tiện nghi rất hiện đại khác. Vợ con y, người tình nhí, với xế hộp bóng lộn, muốn đến lúc nào thì đến, muốn ở bao lâu thì ở, ăn uống như một ông hoàng, hàng tuần cưỡi xế hộp về Sài Gòn dong chơi, không bao giờ mặc đồ tù, thong thả ra vào, không bị chi phối bởi những điều nội qui trại, nghênh ngang, láo xược. Y cho biết, nếu biết điều thì dù tù chung thân khổ sai, cũng chỉ sau 10 đến 13 năm là được ân xá. Và những dịp ân xá hàng năm là cơ hội thu nhập khổng lồ cho đảng.

Y bị kết án vì tội biển thủ 40 tỷ đồng Việt Nam, đó chỉ là con số bề ngoài, thực chất thì có thể nhiều hơn thế. Sau một thời gian giam giữ để điều tra, trong khi giam giữ, phòng giam của y có giường nệm, quạt máy, ăn uống, thăm gặp gia đình thả dàn nếu biết tung tiền ra. Khi tòa tuyên án xong, gia đình y đi “mua đất”, nghĩa là mua nơi giam giữ, mua trại – hoàn toàn đúng với nghĩa đen của nó – bỏ tiền ra xây nhà. Tiền càng nhiều, tự do càng mở rộng. Và dĩ nhiên, sau một thời gian, khi hắn ra khỏi tù, cơ ngơi và mọi thứ xây dựng trên đất của trại đều thành tài sản của trại. Khi y được chuyển đến trại giam thì mọi thứ đã sẵn sàng. Y được giao cho một cái ao mênh mông, để “lao động tự túc”, y thả cá tùy ý, mỗi năm phải đóng góp cho trại 100 triệu đồng Việt Nam, y phải bỏ vào ao vài chục ngàn con cá giống, phải mua thực phẩm cho cá và giao cho trại toàn quyền thu hoạch lợi tức. Những cam kết ấy, y phải tự động ngầm dâng hiến. Trại cho y 2,3 tù nhân làm việc nuôi cá, cắt cỏ, bỏ mồi và hầu hạ y, bù lại, y phải trả cho trại hàng tháng 200.000 đồng Việt Nam cho mỗi tù nhân phục dịch, và phải nuôi ăn cho những người phục dịch này. Y phải gánh vác những chi phí đột xuất cho trại, tuyệt đối giữ kín, đồng thời cũng phải quà cáp, tiền bạc, biếu xén cho những “yếu nhân” trong trại. Đối với cán bộ cấp thấp hơn, y phải là một người rộng rãi về ăn uống, hút sách, trà lá. Hàng tháng sinh hoạt đội bình bầu, y phải lấy được điểm “tốt”, hay tệ nhất cũng phải loại “khá”. Nếu bị điểm “trung bình” hoặc xấu, có nghĩa là y không biết phải quấy, là “vứt đi”, là bị đưa vào trại, và mọi thứ thành trắng tay.

Sau 7 năm đầu, y được “vỡ án”, và nếu biết lo 2 cây vàng cho một năm ở trại, 3 cây cho tào án, y sẽ được giảm 2 năm, nhưng tối đa cho hạn ân giảm là 5 năm. Vậy là khi “vỡ án” vào năm thứ bẩy, y đã được coi như ở tù 12 năm, qua năm sau thứ 8, giảm thêm 4 năm nữa, rồi năm sau kế là y coi như y đã “chấp hành xong án phạt tù” với toàn bộ chi phí chừng 10 tỷ đồng. Khi ra về, sau 9, 10 năm “buôn bán”, y lời đứt 30 tỷ đồng và thảnh thơi phủi tay, xóa hết ân oán, giang hồ.

Do đó, chúng ta hiểu tại sao, đảng càng chống tham nhũng, tham nhũng càng nở rộ, và tại sao nhà tù càng rộng mở, đảng cộng sản Việt Nam lại càng béo bở giàu to. Nhà tù là một phương tiện bắt nhân dân gánh vác mọi chi phí, còn đảng thì ních cho đầy túi tham một cách tinh vi. Tuy nhiên, xin nói rõ là những “ưu đãi” này rất khó mà “ban cho” những tù nhân chính trị. Trong thời gian tù cải tạo trước đây, sức lao động đảng vắt cho kiệt lực là nguồn thu nhập của đảng, bởi đó mà số trại viên dần dần giảm hẳn…

“… Sáng ra chỉ có dăm người chết

Chẳng biết bao lâu đến lượt mình

Căm uất sinh ly thà tử biệt

Oán hờn thấu tận mấy trời xanh…”

Có hàng chục nỗi chết uất ức khác nhau: tai nạn lao động, cây đè, đá nghiến, vực sâu nát thân, đáy hồ chìm khuất, đói khát, bệnh tật, hành hạ, đánh đập, bọn vệ binh háo sát, lấy cái chết của tù nhân làm trò giải trí, trả thù… Không biết hàng bao nhiêu nỗi chết cay đắng, nhục hình.

*

Mùa đông năm 1977, nhiệt độ xuống thấp 1 độ 7, mặt hồ Thác Bà se lại như muốn đóng băng, gió Bấc thổi thấu xương, tên quản giáo đội 4 bắt hai tù nhân uống 2 tô nuớc muối để lặn xuống nước mò cá trong “đăng”, cả hai đều vỡ tim, hộc máu mà chết. Vậy mà vẫn chưa yên, xác bị bỏ lại bên hồ qua đêm, sáng sớm hôm sau, tập họp trại viên, tên trưởng trại đọc lệnh cảnh cáo đối với hai xác chết vì “đã thiếu an toàn lao động” rồi sau đó mới cho đi chôn. Tất cả mọi xác chết đều để lại qua đêm, đều giống nhau ở một điểm: hai con ngươi bị móc, tai, mũi, môi biến mất, cả đến tay và chân, lũ chuột đói cũng không từ. Chúng chui vào quần gậm nhấm, rút rỉa. Trên khuôn mặt nát bét, hai hố mắt sâu thẳm, đọng máu khô, chập chờn bóng tối.

“Từ giã từng nỗi sầu trong mắt anh

Ngậm ngùi đời đưa anh về theo đất

Sương đẫm những đêm ru anh ngủ vùi

Từ đây rừng ôm ấp anh ngàn năm

Bao nhiêu những oan hồn


Giờ đã về mãi đâu

Vực sâu xót thân lưu đày


… Mắt nhắm còn đắng cay

Những ngày đói rét bầm tím thân

Từng chiều mưa gió căm căm

Buồn đau đến bao lâu

Ôi đời! Giá buốt đắng chát

Ôi! Hồn chất chứa uất ức

Hãy xin nguôi dần đi

Nhớ thương thêm đau lòng… mà thôi

Đêm nay rừng khuya hiu hắt

Thương ôi! Từng cơn giá buốt

Đưa anh vào canh khuya

Ngấn nước mắt bao ngày

Còn vương lối đi

Vàng võ hồn anh

Sầu vỡ hồn anh đêm đêm…”

Bài hát ấy, tôi thường hát, như lời kinh chiêu hồn, những lần vuốt mắt cho những người anh em bất hạnh… và ôi, máu tươi ộc ra từ chiếc – miệng – không môi, tôi nghe như có tiếng nấc từ lồng ngực, từ hốc mắt hun hút những nghìn thu, máu tươi cũng ứa ra, từ đó, ôi, những dòng huyết lệ!….

Nhìn những cái chết thê lương ấy, ngẫm dến phận mình, và trong giấc ngủ, những cơn ác mộng kinh hoàng kéo dài suốt đời người còn lại.

“… Cả đến chiêm bao cũng hãi hùng

Tỉnh ra còn thảng thốt hư không..”

Ấy thế mà trong tất cả những nhục hình đày dọa thân xác, nếu đem so với thủ đoạn đày đọa tinh thần thì nào có thấm vào đâu! Cho đến tận hôm nay, những đêm “sinh hoạt”, “phê bình, kiểm điểm” diễn ra thường xuyên mỗi tối, đã làm cho thần kinh người tù như lịm tắt, rã rời hơn cả một ngày cực nhọc. Cho mãi đến tận sau này, được thả ra, rời Việt Nam sang đến đất người, mà nó còn theo đuổi khiến cho một số anh em HO… vẫn còn như nửa khùng, nửa điên, nửa ngơ ngẩn, nửa dại khờ… và không ít anh em đã bị chết dần mòn bởi những ám ảnh từ quá khứ kinh hoàng không thể khuây lãng được. Nỗi đau thương ấy gậm nhấm hao mòn anh em suốt quãng đời còn lại. Khi chiến tranh nổ ra giữa cộng sản Việt Nam và người anh em Trung quốc vĩ đại của họ, lần lượt hàng ngàn trại viên từ những trại dọc theo biên giới Hoa Việt đều được di chuyển, phân tán về các trại Trung Ương do công an Bộ Nội Vụ quản lý. Tôi là một trong số 500 tù nhân trong số những thành phần được coi là nguy hiểm, có nợ máu với nhân dân… như tình báo, chiến tranh chính trị, cảnh sát đặc biệt gom lại từ các trại thuộc đoàn 776 áp giải về trại Nam Hà.

Từ đoàn xe Molotova bịt bùng, khởi hành từ Tuyên Quang, bỏ lại sau lưng núi rừng, bỏ lại những tháng ngày rét mướt, đói khát… và những con vắt rằn ri khủng khiếp. Thiếu tá Nguyễn Thanh Hải, SQ /CTCT Cục Công Binh, người anh em đôi con Dì của tôi, mấy năm trước tóc còn xanh, mà nay, mái tóc trở thành xác xơ, bạc trắng như cước… thở dài:

– Thế nào cũng được! Đi đâu thì đi! Miễn là rời khỏi vùng độc hại này! Muỗi hút máu người, vắt hút máu ngưòi, người hút máu người! Trời ơi!

Tiếng kêu than xé ruột. Bây giờ, ở bên kia thế giới, liệu linh hồn anh có còn bị ám ảnh những tháng ngày trong cõi a tỳ của trần thế hay không?

Đoàn xe chở chúng tôi đi ngang Hà Nội. Hà Nội của tôi năm xưa mà nỗi nhớ quặn thắt trong suốt hơn hai mươi năm chia lìa, những lần Sài Gòn chớm lạnh… Hà Nội đó, cột đồng hồ năm xưa còn kia, phố xá vẫn còn đấy, rêu xanh, hoang phế, điêu tàn, già nua và tệ hại hơn ngày tôi rời bỏ Hà Nội năm nào. Những khung cửa sổ không còn cửa kính được bít bùng lại bằng những miếng ván chấp vá, những đôi mắt ngơ ngác, thẩn thờ trên đường phố loang lổ và rác rưởi… Lòng tôi ngậm ngùi, đắng chát như kẻ bỗng dưng gặp lại người tình ngày niên thiếu, tả tơi vàng võ trong nhà chứa; cùng một lúc, nỗi căm hận bùng lên làm tôi nghẹt thở. Thủ đô của nước “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” đã xuất hiện như thế qua khe hở của tấm vải bạt bít bùng…

Mạc Thiên

From: BS Hanh Van Phung

CHUYỆN SUY NGẨM 

CHUYỆN SUY NGẨM 

Phiên dịch: ĐÔNG QUYÊN

Đây là một câu chuyện có thật, xảy ra trong thế chiến thứ hai, một câu chuyện đầy tình người, đáng cho chúng ta đọc và suy ngẩm.

Trung uý Charlie Brown 21 tuổi, trưởng phi cơ chiếc B17F Flying Fortress tên phi cơ (Ye Olde Pub) thuộc phi đoàn 527th United States Army Air Force (USAA) đồn trú tại Kimbolton England

Ngày 20 tháng 12 năm 1943. Trung uý Charlie Brown cất cánh từ Kimbolton cùng phi hành đoàn 10 người, trong một phi vụ đánh bom khu kỷ nghệ gần thành phố Bremen Đức Quốc, thành phố được bảo vệ dầy đặc phòng không và 250 chiến đấu cơ gồm Bf 109, Fw 190 và GJ 11.

Trên vòm trời Bremen chiếc B17 của Charlie Brown bį phòng không của Đức bắn gần gãy lìa đuôi, mủi phi cơ bị hư hại nặng, phi cụ không còn hoạt động, điện, thủy điều hoàn toàn hư hỏng. Ba trong bốn động cơ không còn hoạt động được. Sau đó chiếc B17 bị các chiến đấu cơ Đức vây quanh, bắn nát như tổ ong, chiếc phi cơ B17 mất cao độ chúi xuống, trong lúc hỗn loạn không còn phi cụ, phi cơ lạc hướng bay sâu vào nội địa nước Đức. Trung uý Charlie Brown hồi tưởng:Phi cơ trong tình trạng tuyệt vọng nhưng anh không thể ra lệnh cho phi hành đoàn nhảy dù được, vì trên tàu còn 4 phi hành đoàn bị thương, một rất nặng, nên anh quyết định bay tiếp cho đến khi nào không còn bay được, anh sẽ đáp ép buộc, và tất cả phải chịu chung số phận với con tàu.

Anh Franz Stigler, người phi công lái chiếc Bf 109. Một anh hùng không chiến của không lực Luftwaffe (Đức Quốc) từng hạ 27 phi cơ của đồng minh, đang tiếp tế nhiên liệu, nạp đạn cho phi cơ dưới đất, được lệnh cất cánh khẩn cấp, bắn hạ chiếc B17, đang lảo đảo bay trong không gian vô định

Trung uý Charlie hồi tưởng: tôi phải vất vã lắm mới kéo được con tàu trở lại bình phi, thì lù lù bên trái của tôi một chiếc Bf109 của Đức kèm sát cánh

Trong giây phút kinh hoàng, tôi nhắm mắt lại, hy vọng đây chỉ là giấc mơ. Khi mở mắt ra chiếc Bf109 vẫn còn đó, và người phi công ra lệnh cho tôi phải đáp ép buộc xuống phi trường Đức, hay phi trường nước trung lập Sweden, tôi không đồng ý. Cuối cùng tôi thấy người phi công lái chiếc Bf109 bay nhanh phía trước, lắc cánh ra hiệu cho tôi theo, không còn lựa chọn tôi bay theo, độ hơn một giờ sau tôi nhìn thấy biển Bắc. Chiếc phi cơ Bf109 bay chậm lại song song với tôi, đưa tay chào, rồi lắc cánh nhẹ vài cái, dấu hiệu tạm biệt của người phi công, rồi mất dạng trong sương chiều.

Như một phép lạ, anh Charlie Brown bay được 250 miles(400 km) qua biển Bắc. Sau cùng đáp ép buộc xuống phi trường của hoàng gia Anh ở Seething, nơi đồn trú của phi đoàn 440th bomber group, chỉ có một người chết, còn tất cả những người bị thương đều được cứu. Sau đó tất cả phi hành đoàn báo cáo với sỉ quan chỉ huy ở đây, họ được chỉ thị giữ kín chuyện này, vì nói ra sự thật có vẽ phản tuyên truyền, vì không thể có một phi công Đức nào hào hùng và độ lượng với kẻ thù như vậy

Sau chiến tranh Charlie Brown ở lại phục vụ trong không lực Hoa Kỳ cho đến năm 1972 giải ngũ với cấp bậc trung tá sống tại Florida

Câu chuyện không chấm dứt ở đây. Trở về lại quê hương, anh Charlie Brown viết rất nhiều thư để mong tìm ra tông tích người phi công Đức đã không cướp đi mạng sống của cả phi hành đoàn chiếc B17 của anh.Tìm một người phi công sau một cuộc chiến tranh tàn khốc, không tên họ, chỉ có một câu chuyện, đâu phải dể tìm. Không nản lòng anh vẫn tiếp tục. Cuối cùng vào năm 1989, sau 46 năm tìm kiếm, anh Charlie Brown đã tìm ra được người phi công bí mật, lái chiếc Bf109. Một anh hùng không chiến của không lực Luftwaffe (Đức) cũng là một thiên thần độ lượng trên vòm trời Bremen vào những ngày cận giáng sinh năm 1943. Đó là anh Franz Stigler

Sau khi chiến tranh chấm dứt anh Franz Stigler di dân sang sống ở Vancouver Canada.Trong bức thư đầu tiên anh Franz Stigler viết cho Charlie Brown “suốt bao nhiêu năm dài tôi luôn tự hỏi, không biết chiếc B17 đó có đưa phi hành đoàn về đáp an toàn hay không “

Họ gặp nhau sau 46 năm tìm kiếm diễn ra rất cảm động. Anh Franz Stigler hồi tưởng: tôi được lệnh cất cánh rượt đuổi bắn hạ chiếc B17, tống ga đuổi kịp, thì tàu của tôi báo hiệu máy đã nóng vượt bực, tôi đến từ phía sau quan sát chiếc B17. Một cảnh tượng thật tang thương, phần đuôi của con tàu gần như tan nát, một lổ hổng lớn có thể nhìn từ đuôi cho đến cockpit, người xạ thủ tail gun turret nằm chết đong đưa,nửa trong nửa ngoài trên pháo tháp. Tôi bay lên quan sát bên thân tàu, cả một vùng thân đầy lổ đạn to lớn, tôi có thể thấy cả phi hành đoàn bị thương nằm la liệt bên trong, người trưởng phi cơ đang vật lộn với con tàu mong giữ được bình phi, tôi ra hiệu cho anh ta theo tôi đáp xuống một căn cứ gần đó, để cứu những phi hành đoàn bị thương, anh ta nhìn tôi chăm chăm rồi nhè nhẹ lắc đầu, tôi không có can đảm giết những người anh hùng không còn vũ khí để tự vệ, tôi là một người phi công hào hùng, tôi chém giết để bảo vệ quê hương tôi, nhưng không hề có thù hận, khi còn chiến đấu ở Bắc Phi, người chỉ huy của tôi đã nói, nếu tụi mầy bắn một người phi công đã nhảy dù ra khỏi phi cơ, đó là một hành động tồi tệ, tao sẽ là người bắn rơi tụi mầy, trong trường hợp nầy cũng vậy, chiếc B17 nầy không còn tự vệ được, tôi phải để cho họ có một cơ hội, ngày mai tôi sẽ bắn họ khi họ ngang ngửa với tôi. Biết là không thể thuyết phục được người trưởng phi cơ B17 tôi bay ra phía trước lắc cánh, tôi cũng mừng khi thấy anh đã bay theo tôi, hướng dẫn chiếc B17 độ một giờ sau thì tôi thấy biển Bắc, tôi bay chậm lại song song, chào anh ta rồi quay trở về đáp, dĩ nhiên là tôi phải báo cáo với cấp trên, là tôi đã bắn hạ chiếc B17 trên biển.

Anh Charlie Brown và Anh Franz Stigler trở nên đôi bạn thân, họ đã gặp lại nhau nhiều lần, sau đó họ đã được không lực Hoa Kỳ bạn tặng những huy chương cao quý

Anh Charlie Brown mất ngày 24 tháng 11 năm 2008

Anh Franz Stigler mất ngày 22 tháng 3 năm 2008

Những người anh hùng trên một đất nước anh hùng, dù thắng hay bại vẫn được coi trọng,”luận anh hùng không dựa theo thành bại”.Người Nhật người Đức, sau khi bại trận vẫn được người Mỹ kính trọng. Còn Việt nam mình thế nào? Những người lính miền nam bại trận được đối xử ra sao? nếu không có người Mỹ và thế giới tạo áp lực, chắc chắn người Nga, đã để cho Cộng Sản việt nam giết chết hết hai triệu Quân Cán Chính của miền Nam trong tù, mà họ gọi là trại cải tạo, giống như họ đã làm ở Tiệp khắc, Ba Lan, và ngay tại Liên bang sô-viết. Thật là xấu hổ cho bọn Cộng sản hèn hạ.

From: Duong, Paul H

Mỗi пgày đềᴜ пấᴜ cháo tɾắпg cho vợ, пhiềᴜ пăm sɑᴜ chồпg mới пhậп ɾɑ sự thật cɑy mắt

Mỗi пgày đềᴜ пấᴜ cháo tɾắпg cho vợ, пhiềᴜ пăm sɑᴜ chồпg mới пhậп ɾɑ sự thật cɑy mắt

Hạпh ρhúc là khi bạп khóc có пgười xót xɑ, khi bạп mệt có пgười để tựɑ vɑi. Hơп пữɑ, hạпh ρhúc là có một пgười hiểᴜ mìпh, yêᴜ mìпh, khôпg cầп biết пgười đó có bɑo пhiêᴜ пhưпg vẫп lᴜôп dàпh cho bạп пhữпg thứ tốt пhất, пhiềᴜ пhất có thể.

Câu chuyện của người chồng ngày nào cũng nấu cháo trắng cho vợ…

Gạo là gạo nếp, nồi là nồi nung từ đất sét, bếp là bếp than. Mỗi ngày, cứ 4h20’ sáng là anh trở dậy, chuẩn bị nhóm bếp, đổ nước vào nồi, vo đãi lại gạo đã được ngâm sẵn trong nước từ trước. Đợi nước sôi, anh cho gạo vào nồi, đun to lửa 10 phút rồi để lửa liu riu. Nước trong nồi thỉnh thoảng lại trào ra, anh đứng cạnh khom lưng, dùng muôi quấy nhẹ…

30 phút sau, anh một tay bưng bát cháo nóng hổi, một tay bưng đĩa rau xào thái chỉ thơm phức vào phòng ngủ, gọi cô dậy. Cô xoay người lại, lẩm bẩm câu gì đó rồi lại quay vào ngủ tiếp. Anh không nỡ gọi tiếp.

Anh nhìn đồng hồ rồi lại nhìn cô, rồi lại nhìn đồng hồ. Cô đột nhiên đang nằm liền bật dậy như lò xo nhìn đồng hồ, vội vã mặc quần áo rồi ra khỏi giường, trách móc: “Muộn mất rồi, sao anh không gọi em dậy?” Anh lại đưa bát cháo về phía trước: “Không phải vội, vẫn còn thời gian, em cứ ăn hết bát cháo này trước đi đã.”

Cháo chỉ có gạo nấu thành, không cho thêm bất cứ thứ gì. Những bát cháo như thế, cô đã ăn suốt 5 năm nay. Khi anh và cô kết hôn, nhà không có tiền để tổ chức tiệc mừng, hai người về ở với nhau, thế là thành một nhà. Đêm tân hôn, anh mang một bát cháo trắng cho vợ và nói: “Dạ dày em không tốt, ăn nhiều cháo trắng một chút, có lợi cho dạ dày.”

Kỳ thực, bát cháo trắng thanh đạm không chỉ làm ấm dạ dày mà còn làm sưởi ấm cả trái tim cô.

Họ cùng làm việc trong một nhà máy, cô là nhân viên ca sáng thường niên, anh là nhân viên ca đêm thường niên. 4h sáng anh hết giờ làm, 5h30 sáng cô đi làm, thời gian họ ở cùng nhau chỉ có hơn một tiếng đồng hồ. Việc đầu tiên khi anh đi làm về là nhóm bếp, nấu cháo. Anh chỉ biết nấu cháo trắng.

Điều kiện kinh tế của họ có lẽ cũng chỉ cho phép anh nấu được cháo trắng mà thôi. Cứ mỗi ngày một bát cháo trắng như thế, anh làm cho nét mặt vợ ngày càng nhuận sắc, lúc nào cũng tươi đẹp như hoa.

Sau này, tình hình kinh tế của nhà máy không được tốt, anh nghỉ việc nhưng sống thì vẫn phải sống. Anh rút tiền tiết kiệm, cô bán chiếc nhẫn mà mẹ cho khi cưới, gom góp lại mở một tiệm tạp hóa nhỏ bán nồi niêu bát đĩa. Lợi nhuận không đáng là bao nhưng anh vẫn cần mẫn làm việc. Cô tan làm cũng ra phụ anh bán hàng. Những lúc không có khách, hai vợ chồng ngồi cạnh đống đồ, nhìn nhau hạnh phúc.

“Đợi anh có tiền, chúng ta sẽ mở hẳn một chuỗi cửa hàng, ở đâu cũng có.”, anh nói.

Cô nghe vậy liền nói: “Đến lúc đó, em sẽ không đi làm nữa, ngày ngày ở nhà làm đồ ăn ngon cho anh.”

“Cần gì em phải nấu, muốn ăn gì chúng ta cứ ra thẳng nhà hàng thôi”, anh nói.

Tuy nhiên, cô gạt phắt: “Không, em chỉ thích ăn cháo trắng anh nấu…”

Anh liền ôm lấy vai cô, ánh mắt họ nhìn nhau đầy ấm áp và trìu mến. Anh vẫn giữ thói quen cũ, đúng 4h20’ dậy nhóm bếp, vừa nấu cháo vừa nhẩm tính hàng hóa. Có những lúc phân tâm, nồi cháo cạn đến gần đáy nồi; có những lúc mệt quá ngủ gật, cháo tràn hết cả ra ngoài.

Đến một hôm, cô dậy khá sớm, thấy nồi cháo trên bếp đang sôi sùng sục, chuẩn bị trào ra ngoài. Anh đang gục đầu trên gối, ngủ ngon lành. Cô nhẹ nhàng ôm đầu chồng, trong lòng xót xa. Từ đó về sau, cô quyết định không cho anh nấu cháo cho mình nữa. Người đàn ông của cô quả thực đã quá vất vả rồi.

… và thói quen bị quên lãng

Công việc của anh ngày càng thuận lợi, đến đầu năm thứ 7, chuỗi siêu thị của anh đã được mở khắp nơi. Cô cũng đã nghỉ việc, ở nhà chuyên trách làm vợ. Họ đã mua được nhà, bếp cũng được sửa rất đẹp, thứ còn thiếu chỉ là mùi vị của cái bếp than ngày xưa.

Thời gian anh ở nhà ăn cơm càng lúc càng ít, anh bận lắm, có những hôm một buổi tối phải tham dự 3, 4 bữa cơm khách. Ban đầu, cô cũng trách nhưng anh nói: “Chẳng phải là vì gia đình này sao, chẳng phải là muốn em sống tốt hơn một chút sao?”

Cô cũng mệt mỏi, dần cũng thành quen. Lâu lắm rồi, cô không ăn cháo trắng do anh nấu. Một hôm, anh đột nhiên được thông báo đi dự đám tang của một người bạn. Lòng anh u sầu, ủ dột. Vài ngày trước còn khỏe mạnh, sao hôm nay đã đi rồi.

Tại nhà tang lễ, nhìn thấy vợ bạn, đó là một người phụ nữ nho nhã xinh đẹp, chỉ một đêm đã tiều tụy vì thương chồng. Cô khóc như chết đi sống lại, luôn miệng nói: “Sau này ai đưa đón em đi làm, ai buộc dây giày cho em…” Bất giác, anh nghĩ đến vợ, nhớ đến những buổi sáng nấu cháo trắng cho cô, nhớ đến cảm giác hạnh phúc và mãn nguyện khi ngày ngày cô nhận bát cháo trắng từ tay mình.

Dự tang lễ xong, anh lái xe như bay về nhà. Mở cửa, anh thấy cô đang nằm cuộn tròn người trên sofa ngủ quên. Ti vi vẫn mở, rạp chiếu phim trong nhà cũng mở, các loại tạp chí để la liệt trên mặt bàn trà. Anh quỳ xuống cạnh sofa, tay vuốt nhẹ những sợi tóc của vợ.

Nét mặt cô nhợt nhạt quá, trên những nếp nhăn nhỏ hiện rõ sự cô đơn. Anh xót xa, kéo chăn đắp cho vợ, cô chợt tỉnh ngủ. Thấy anh, cô dụi dụi mắt, biết chắc là chồng, cô nở một nụ cười ấm áp rồi vội vã trở dậy: “Anh chưa ăn gì phải không, để em đi nấu.”

Quàng tay ôm lấy cô từ phía sau. Anh nói: “Không, để anh làm, anh sẽ nấu cháo cho em.”

Lúc này, cô im lặng một hồi không nói gì, hai hàng nước mắt nóng hổi trào ra, rơi xuống tay anh. Hôm đó, anh mới nhận ra một sự thật, rằng giờ đây, đã có không biết có bao nhiêu loại cháo được tạo ra nhưng loại nào cũng phải lấy cháo trắng làm cốt. Hạnh phúc gia đình cũng vậy, phải có cái cốt là sự vun vén của cả hai phía vợ và chồng.

Hạnh phúc là gì?

Kỳ thực, hạnh phúc không phải là ăn sung mặc sướng, ăn ngon mặc đẹp, không phải là vinh hoa phú quý, ở nhà lầu đi xe hơi.

Mà hạnh phúc là lúc bạn khóc có người xót xa, khi bạn mệt có người để tựa nhờ. Hạnh phúc là có một người hiểu mình, yêu mình, không cần biết anh ta có bao nhiêu nhưng vẫn luôn dành cho bạn những thứ tốt nhất, nhiều nhất có thể. Hạnh phúc là chỉ cần trong tim người đó có bạn, dù anh ta có phải là người giàu có hay nghèo khó.

Hạnh phúc rất đơn giản, chỉ cần vui vẻ là đủ!

Hơn nữa, cảm động thực ra cũng là một dạng hạnh phúc. Trong cuộc sống, mỗi người rồi cũng sẽ có lúc mệt mỏi, muốn thu mình lại. Nhưng chỉ cần bạn còn được người khác nghĩ đến, còn có người quan tâm, đó cũng là một niềm vui quá lớn!

Trong mắt nhiều người có lẽ hạnh phúc như thế quá bình thường, nhưng đó có thể lại là niềm mơ ước của rất nhiều người khác…

Lụm trên mạng…