Có ÔNG TRỜI, Niềm Tin Của Dân Việt 

 Có ÔNG TRỜI, Niềm Tin Của Dân Việt 

Nguyễn Hy Vọng

Bàn thờ ông trời ngoài sân trước

  1. Bạn trẻ thắc mắc:

Người ở từ đâu đến địa cầu?

Rồi khi mãn kiếp lại về đâu?

Mênh mông chỉ thấy bầu trời rộng!

Mù mịt như ngồi đáy giếng sâu!

Hỡi ơi sống để làm chi vậy?

Mà cứ đua nhau chuốc việc sầu?

Người già suy tư:

Ngồi mà ngẫm nghĩ thân tôi,

Đâu là ý nghĩa cuộc đời chóng qua?

Nơi đây ai dựng tôi ra?

Nơi đây tôi sống để mà làm chi?

Đời qua còn lại những gì?

Xuôi tay nhắm măt tôi thì đi đâu?

Hai bài thơ trên của một trẻ, một già, nhưng cùng một nỗi khắc khoải: Tôi từ đâu đến? Cuộc đời này có ý nghĩa gì? Tôi sẽ về đâu, khi vĩnh biệt cõi tạm trần gian? Mấy câu hỏi đó bộc lộ con người có linh hồn.

Súc vật không có linh hồn, chúng có nhu cầu ăn, uống, đòi hỏi của thân xác. Súc vật không có tôn giáo, không có khoa học, văn chương, hội họa, âm nhạc… Mỗi loài vật có bản năng khác nhau, do Trời ban cho chúng, và suốt đời chúng sống theo bản năng. Từ khi có loài vật trên mặt đất, cho đến tận thế, chúng không có sự tiến bộ: cá lớn vẫn nuốt cá bé; cọp, sư tử vẫn vồ nai, dê, bò..; ngựa vẫn kéo xe; trâu, bò kéo cầy; chim làm tổ bằng rơm, rạ; loài khỉ vẫn chỉ biết kêu en éc và hái trái trên cây để ăn v.v.. Loài vật là rôbô của Trời.

Loài người có linh hồn, có tình yêu, có giận hờn, có tôn giáo, có khoa học, âm nhạc, hội họa, văn chương… Loài người là sinh vật siêu đẳng, hơn rất xa loài vật và cỏ cây.

  1. Người Việt tin có Ông TRỜI

Khi Khổng, Lão, Phật giáo… chưa du nhập nước ta, người Việt đã tin có ÔNG TRỜI là Đấng Chí Cao bảo tồn vạn vật; ban ơn cho người lành, phạt kẻ gian ác. Người Việt còn gọi Ông Trời là Ông Thiên, Thượng Đế, Đức Chúa Trời, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, Đấng Sáng Tạo….

Nhiều gia đình có bàn thờ tổ tiên trong nhà để tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ đã khuất; và một bàn thờ ngoài sân để cầu khẩn với Trời. Các vua cũng bày tỏ sự tôn kính, biết ơn và cầu khẩn với Trời, như Lễ Tế Trời (Lễ Nam Giao) để tạ ơn Trời khi đất nước thịnh vượng, bình an. Tạ lỗi với Trời, xin mưa khi hạn hán. Ca dao, thơ văn, chuyện tích nói lên niềm tin này:

*Trời cao có mắt

*Trời sinh voi, Trời sinh cỏ

*Trời sinh, Trời dưỡng

*Trời đánh còn tránh miếng ăn.

*Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính.

*Trời cho ai nấy hưởng; Trời gọi ai, nấy dạ

*Sống nhờ ơn Trời, chết về chầu Trời.

*Trời cho không ai thấy, Trời lấy không ai hay.

*Trời nào có phụ ai đâu; Hay làm thì giàu, có chí thì nên.

*Trời cho hơn lo làm. Chỉ có Trời cứu.

*Mong đèn Trời soi xét. Có Trời chứng giám.

*Không có Trời, ai ở với ai?

*Trời quả báo, ăn cháo gẫy răng,

Ăn cơm gẫy đũa, xỉa răng gẫy hàm.

*Phí của Trời, mười đời chẳng có,

Biết ơn Trời, mười đời chẳng khó.

*Chê của nào, Trời trao của ấy.

*Trời đánh còn tránh miếng ăn.

*Trời sinh con mắt là gương,

Người ghét ít ngó, người thương ngó hoài.

*Trời cao đất rộng, em vọng lời nguyền:

Đất trời còn đó, em nguyện giữ tròn thủy chung.

*Lưới Trời lồng lộng, thưa mà không lọt.

*Thiên bất dung gian. (Trời không dung thứ kẻ gian ác)

*Thiên sinh vạn vật, duy nhân tối linh (Trời sinh ra muôn loài, loài người là khôn hơn hết)

*Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần (Giàu to do Trời cho, giàu nhỏ do cần kiệm)

*Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên. (Người mưu kế, thành bại do Trời định đoạt)

*Thuận Thiên giã tồn, nghịch Thiên giã vong (Theo Trời thì sinh tồn, nghịch Trời thì diệt vong)

*Ở hiền thì lại gặp lành, những người nhân đức Trời dành phúc cho.

*Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân (Trời không phụ người có lòng tốt)

*Duyên ba sinh Trời đã dành sẵn (duyên vợ chồng do Trời sắp đặt)

*Trên rừng có cây bong kiểng,

Dưới biển có cá hóa long,

Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong,

Anh đi Lục tỉnh giáp vòng,

Tới đây, Trời khiến cho lòng thương em.

*Ơn Trời mưa nắng phải thì,

Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu,

Công lênh chẳng quản dài lâu,

Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.

*Lạy Trời mưa xuống,

Lấy nước tôi uống,

Lấy ruộng tôi cầy,

Lấy đầy bát cơm…

*Nhờ Trời mưa thuận gió hòa,

Nào cầy, nào cấy trẻ già đua nhau;

Lạy Trời mưa thuận gió đều,

Cho đồng lúa tốt, cho chìu lòng em.

*Làm trai quyết chí tu thân,

Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.

Khi nên, Trời giúp công cho,

Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào,

Trời sinh Trời chẳng phụ nào,

Phong vân gặp hội anh hào ra tay,

Trí khôn rắp để dạ này,

Có công mài sắt, có ngày nên kim.

*Con chim nó hót trên cành,

nếu Trời không có, có mình làm sao?

Con chim nó hót trên cao,

nếu Trời không có, làm sao có mình?

*Ngẫm hay muôn sự tại Trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân,

bắt phong trần phải phong trần,

cho thanh cao mới được phần thanh cao…

*Duy nhất Thiên Chủ hữu Tam Vị,

Thánh Phụ, Thánh Tử, Thánh Thần Thị,

Tạo thành vạn vật, Tể càn khôn,

Toàn tri, toàn năng, toàn thiện mỹ.

*Dù ai nói ngược nói xuôi,

Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng,

Dù ai chác lợi mua danh,

Miễn ta, ta được đạo lành thì thôi

*Lòng Trời lượng cả bao dung

Biêt rồi không lẽ mà không trở về

Xưa kia chỉ biết kêu ‘Trời’

Ngày nay lại biết rằng: ‘Trời là Cha’

Trần gian chưa phải là nhà

Thiên đàng vĩnh phúc mới là chính quê.

*Chữ rằng sinh ký tử quy

Nghiã là sống gửi thác về đời sau.

Biết Trời thưởng phạt sau này

Muốn sau được thưởng thì rầy phải lo

Gắng công, Trời giúp công cho

Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.

*Mọi sự ở trên đời

Rồi mai rồi cũng hết

Việc lành dữ mà thôi

Sẽ theo ta khi chết.

*Thiên đàng địa ngục hai bên

Ai khôn thì nhờ, ai dại thì sa

Đêm ngày nhớ Chúa là Cha

Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn

Linh hồn phải giữ linh hồn

Đến khi lià xác được lên Thiên đàng…

An Tiêm là một người thông minh lanh lợi, được Vua Hùng Vương thương mến và gã con gái nuôi. An Tiêm khéo trang hoàng nhà cửa xinh đẹp. Các quan khen thì An Tiêm khiêm tốn nói là do ơn Trời ban. Các quan có lòng ganh tị, nên trình với Vua: “An Tiêm là kẻ vô ơn, được Vua ban cho nhiều của cải, bổng lộc mà không biết ơn, lúc nào cũng bảo là ơn Trời ban.”

Vua nghe được thì nổi giận và đày vợ chồng An Tiêm ra đảo hoang. Đến đảo, vợ An Tiêm nói với chồng: “Thức ăn Vua cho chỉ đủ trong vài tháng, sau đó thì làm sao mà sống?”

An Tiêm đáp: “Trời sinh, Trời dưỡng”.

Một ngày nọ nghe tiếng chim kêu, An Tiêm chạy đến thì chúng bay đi và nhả lại những hạt đen. An Tiêm đem vùi xuống đất và tưới nước. Thời gian sau chúng mọc thành những dây bò lan xanh tốt và có những trái lớn. An Tiêm bổ ra, thấy trong ruột đỏ; ăn thì thấy ngon ngọt. An Tiêm nói với vợ: “Đây là của Trời cho”.

Từ đó, vợ chồng trồng nhiều để làm của ăn.

Một hôm có thuyền đánh cá vì gió lớn phải tấp vào đảo. An Tiêm cho người trên thuyền ăn những trái họ trồng. Vì thích trái cây của An Tiêm, nhiều người đã mang gạo, thịt, vật dụng… ra đổi. Vợ An Tiêm nói với chồng, “Trời nuôi chúng ta”.

Ít năm sau, Vua sai người ra hoang đảo để xem vợ chồng An Tiêm sống chết ra sao, thì được biết: vợ chồng An Tiêm sống sung túc. Vua cho là chuyện lạ, bèn cho hai vợ chồng trở về thuật lại những gì đã xảy ra. Nghe xong, Vua nói: “Trời đã nuôi chúng nó thật”.

Trong lúc khát nước, Vua ăn trái cây do vợ chồng An Tiêm mang từ đảo về thì thích lắm. Vua cho là trái cây qúy, nên truyền trồng ở nhiều nơi. Trái cây đó là qủa Dưa Hấu mà chúng ta được hưởng ngày nay, đặc biệt là món ăn không thể thiếu trong mấy ngày Tết.

Nguyễn Hy Vọng

May be an image of tree and outdoors

THANK YOU AUSTRALIA

THANK YOU AUSTRALIA

Mary Reibey là một cô gái sinh năm 1777 ở Anh. Mới hai tuổi đã mất cả cha lẫn mẹ rồi lớn lên trong trại mồ côi. Trốn chạy cuộc sống khắc nghiệt đói khát và cực khổ, Mary trở thành đứa trẻ bụi đời bất hảo, chẳng bao lâu cũng sa lưới pháp luật. Năm 1791, Mary mới 14 tuổi bị bắt vì tội trộm ngựa, cộng với nhân thân lắm tiền sự, Mary bị xử án 7 năm lưu đày sang Úc, lúc bấy giờ là đảo nhà tù của Anh. Sau một năm lênh đênh trên chuyến tàu biệt xứ, Mary cập bến Sydney năm 1792 khi mới 15 tuổi.

Mary cùng các bạn tù trở thành nhân công ở nơi ‘hoang đảo’ đất rộng mà ít người, nên tù nhân được tự do đi làm thuê để nuôi thân và được khuyến khích ở lại định cư khi mãn hạn tù. Trong một lần làm bốc vác cho tàu chở hàng Britannia của Anh cập bến Sydney, cô gái 17 tuổi dán mắt nhìn chàng sĩ quan trẻ hào hoa trong bộ cánh hải quân màu trắng, như nhìn thấy hoàng tử hiện ra từ cổ tích. Thomas Reibey cũng không thể không thấy ánh mắt ngưỡng mộ, nồng nàn say mê của cô gái trẻ khỏe mạnh đầy vẻ hoạt bát tự tin mà cũng rất xinh xắn. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, tình yêu nảy nở giữa hai người trẻ xa quê và việc thành hôn với Mary cũng là bước ngoặt để Thomas quyết định rời tầu ở lại thành phố cảng Sydney chung sống với nàng.

Nhờ chính sách khuyến khích định cư và tăng trưởng dân số ở xứ thuộc địa xa xôi của Anh quốc, đôi vợ chồng trẻ được chính phủ cấp đất ở vùng Hawkesbury lúc đó còn hoang vắng làm nhà ở và trang trại. Với kinh nghiệm chạy tầu, lại có nhà ngay vùng cửa sông, Thomas mở đường tàu thủy chạy đường sông từ Hawkesbury tới Sydney. Làm ăn khấm khá, họ mua đất đai mở rộng trang trại, kinh doanh bất động sản, xây cất nhà cửa ở Sydney. Trở nên giàu có, ông bà đóng được chiếc tàu hàng Mercury kinh doanh đường tàu chạy viễn dương chở hàng từ Australia tới các đảo trên biển Thái Bình dương.

Sau khi chồng mất, Mary một tay cáng đáng gia đình 7 đứa con, một tay cai quản mở rộng hoạt động kinh doanh còn lớn mạnh hơn trước. Mary nổi tiếng là một doanh nhân thành đạt nhờ khả năng nhậy bén và các quyết định khôn ngoan. Bà cũng là người dấn thân làm việc thiện nguyện cho nhà thờ và đóng góp tiền bạc cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt cho phụ nữ và trẻ em. Bà tham gia hội đồng quản trị và trực tiếp dạy học các trường nữ để động viên các cô gái trẻ vươn lên giành lấy cơ hội thành công. Bà không bao giờ trở về Anh mà sống ở Sydney cho tới ngày bà mất vào năm 1855, thọ 78 tuổi. Ngày nay người ta vẫn bảo phụ nữ ở Australia được trọng vọng vào hàng số một, cũng là nhờ tấm gương của những người đi tiên phong như Mary Reibey.

Mary Reibey là người có công mở mang xây dựng và doanh thương, làm lợi cho gia đình và làm lợi cho quốc gia còn có công lao đóng góp cho sự nghiệp giáo dục nước nhà. Hình ảnh bà được trang trọng in trên tờ tiền $20 với họ tên bà ở dưới ảnh và chữ ký của bà bên phải ảnh. Như nhắc nhở tới sự thành đạt của bà, bên trái khung ảnh là chiếc thuyền buồm Mercury và bên phải khung ảnh là tòa nhà do bà làm chủ tọa lạc trên đường George Street (ngày nay là con đường trục chính đắt giá nhất ở trung tâm thành phố Sydney).

Nhân ngày Australia Day hôm qua. Xin cảm ơn nước Úc rất đỗi nhân từ và vô cùng bao dung cho người nhập cư, dù là ai, dù lý lịch ra sao, đều được xây dựng sự nghiệp và đóng góp cho xã hội, lại còn có cả cơ hội vô song là có mặt trên tờ tiền nơi quê hương mới.

– Sưu tầm

O Lựu – Hương Thủy

O Lựu – Hương Thủy

truyện ngắn

Trích trong trang web” QUẢNG TRỊ BẮC CALI”

Năm tôi lên chín tuổi, mẹ mất. Chị Cả đi lấy chồng xa, chị Hai còn dại lại đang cắp sách đến trường, Ba tôi nhờ người bác tìm hộ một người giúp việc. Và o Lựu xuất hiện trong gia đình.

O Lựu người làng Bồ Bản, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nhà nghèo lại đông con, mẹ o quyết định cho o lên tỉnh “đi ở ” kiếm chút vốn và cũng để bớt một miệng ăn. Năm ấy o vừa mười sáu tuổi.

Không giống những người làm ruộng vất vả khác, o Lựu có nước da trắng xanh, đuôi mắt dài, tóc chấm vai được cặp lại bằng một cái kẹp ba lá. Vào nhà được mươi lăm phút, o đã tất tả tìm cái chổi que quét dọn bếp núc.

Có o Lựu, tôi khỏi phải ăn những bát cơm nửa sống nửa chín do chị Hai nấu, anh tôi không còn nhăn mặt trước dĩa chả trứng khét lẹt và ba tôi đã có ấm nước sôi pha trà buổi sáng. O dạy chị tôi “xuốc cươi thì phải khom người xuống”, dặn tôi “đừng leo cây ổi mà bổ lọi tay.”

Mất mẹ lúc còn quá nhỏ, ba luôn nghiêm nghị, ít khi biểu hiện tình cảm ra bên ngoài, tôi chỉ còn o Lựu để nhỏng nhẽo. “ O Lựu rửa chân cho em…O Lựu cõng em đi chợ…O Lựu con mèo cào em”…Tai quái hơn, tôi còn bắt o làm bò cho mình cởi và khi muốn “bò ” ngừng lại, tôi đấm thình thịch vào lưng. O lẵng lặng chiều theo ý tôi, không một lời phàn nàn.

Đêm đêm khi gãi lưng cho tôi ngủ, o hay kể chuyện làng mình. Chuyện đền thờ Thần Hoàng có cây đa cao vút với con tinh áo trắng chuyên dọa người đi qua; chuyện bà lão hiền lành nhặt được cục vàng khi mò cua ngoài ruộng…Thỉnh thoảng, o lại đọc những câu ca dao mang âm điệu buồn bã “Gió đưa cây cải về trời. Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” hoặc “Chèo đò bẻ bắp bên sông. Bắp chưa có trái bẻ bông chèo về”…Tất cả ru tôi vào giấc ngủ êm đềm không mộng mị.

An phận thủ thường như những người giúp việc khác nhưng o Lựu lại có một sở thích kỳ lạ: thích chụp ảnh. Hè năm đó, cậu tôi ở Huế ra chơi đem theo cái máy ảnh Canon và chụp cho hầu hết các thành viên trong gia đình nhằm mục đích trau dồi tay nghề tài tử.Thấy sự hiền lành của o Lựu, cậu có nhã ý chụp cho o một tấm hình dưới gốc cây ổi. Ảnh sang ra, o trang trọng đón nhận bằng cả hai tay.

O mua cho tôi một đồng kẹo Gia Địa và năn nỉ tôi viết cho hai chữ “Kỷ niệm” ngòng ngoèo đằng sau ảnh. Những ngày tiếp , o thể hiện sự biết ơn của mình một cách thầm lặng: giặt sạch bộ đồ nhà binh dày cộp , cắm cúi đánh bóng đôi giày “ trấn thủ lưu đồn” của cậu. O xin tờ giấy bóng kính, bao tấm ảnh và cẩn thận xếp nó vào đáy rương. Những buổi trưa rổi rãnh, ngồi sau hiên nhà bếp, o lôi ra ngắm nghía say sưa .

Dưới đôi mắt một đứa con nít như tôi, tấm ảnh chẳng có chi xuất sắc nếu không nói là xấu bởi vì o Lựu trong hình bị xén mất một chân. O nói dưới làng chỉ có nhà giàu mới dám lên tỉnh chụp bóng để sau này có ảnh mà thờ. O ao ước phải chi có nhiều tiền sẽ ra chụp một cái hình màu ở tiệm LIDO ngoài chợ tỉnh.

Mỗi năm o Lựu được về thăm nhà một lần vào ngày hai bảy tháng Chạp. Khi đó o mặc chiếc áo dài xanh của chị Cả tôi cho, đi đôi guốc mộc, đầu đội nón lá. Tiền công xá ba tôi đưa, o gói trong chiếc khăn mùi xoa và lận vào lưng quần. O xin anh tôi mấy cuốn tạp chí Thế giới tự do về cho em dán trên vách nhà. Vắng o, tôi bần thần cả mấy ngày Tết. Năm nào o lên muộn, ngồi trong lớp tôi sốt ruột sốt gan. Và thật sung sướng khi đi học về đã thấy o Lựu trong nhà bếp. O đem lên làm quà những củ khoai từ đầy bột, mớ khoai lang tươm mật và những trái khế vàng ươm.Trước vẻ mặt phụng phịu của tôi, o hứa lần sau sẽ lên nhanh, sẽ xin cho tôi về Bồ Bản, một làng quê nghèo có lũy tre xanh, có động cát trắng với bao nhiêu là sim, móc và những bông hoa chạc chìu thơm ngát.

Một hôm, tôi nằm ở nhà trên, say sưa dán mắt vào cuốn “Lửa cháy thành Phiên Ngung” thì o Lựu đi chợ về. Đã hơi trưa, o gọi vọng lên nhờ tôi lấy giúp cái kéo cắt râu tôm kịp nấu canh cho ba tôi về ăn. Mê mải với chàng trai Hoàng Anh Kiệt hào hùng, o giục giã vài ba lượt tôi mới nhỏm dậy làu bàu rồi vơ cây kéo chạy vội xuống nhà bếp ném đại về phía o đang lúi húi. Cây kéo không rơi xuống đất mà lại phi thẳng một đường vào trán, dòng máu đỏ tuôn ra. O cúi xuống, gục mặt vào đầu gối để cầm máu.Tôi hoảng hồn đứng lặng. Anh tôi vội vã lấy bông và thuốc đỏ rịt vết thương.Trưa hôm ấy khi thấy trán o bị băng, ba tôi hỏi nguyên do, o nói trớ là bị va đầu vào cột nhà. O đã giúp tôi thoát khỏi trận đòn chắc chắn sẽ xảy ra. Sau đó trên trán o có một vết sẹo khoảng ba phân vắt ngang.

O Lựu ở với chúng tôi được 4 năm. Khi tôi vừa lên lớp đệ lục thì mạ o lên xin cho o về làng để “lấy dôông”. Ở nhà quê, hai mươi mà chưa có “dôông”là coi như ế. Tôi nằng nặc không cho o về. Mặc kệ cây roi mây và lời dậm dọa của ba, mặc kệ lời dụ dỗ và những trái khế ngọt của mạ o, tôi ôm o chặt cứng. Đêm ấy, trước khi đi ngủ tôi lấy cái khăn buộc chặt tay tôi vào tay o nhưng sáng mai thức dậy o đã đi từ lúc nào. O để lại cho tôi năm đồng bạc mới trên gối. Tôi khóc tỉ tê suốt cả buổi và nhất định sẽ nhờ ai đó chở về làng tìm o. Chị Hai cứ chế diễu tôi vô duyên, không để o Lựu đi lấy chồng.

Nhưng đứa bé 12 tuổi không dễ dàng thực hiện được dự tính. Làng Bồ Bản quá xa so với đôi chân bé nhỏ của tôi. Chiều chiều tôi ngẩn ngơ ra sân ngóng đợi. Có lần, chị tôi đi sinh hoạt Hội Hồng Thập Tự Thị xã đem về tập san Đan Tay, trong đó có một bài thơ của thầy Lê Văn Mãn dạy Sử Địa nói về Bồ Bản. Bài thơ có lẽ không có chi xuất sắc nhưng tôi thuộc nằm lòng vì nó nhắc đến làng o Lựu:

Đường về Bồ Bản không xa

Cách một trái núi với ba quãng đồng

Chưa đi những ngóng cùng trông

Khi về chỉ thấy đồng không tre già

***

Đường về Bồ Bản xa không

Muốn về nơi ấy mà lòng phân vân

Quê nhà vắng vẻ. Trong sân

Hàng cây không lá muôn phần nhớ thương

Phải chi có o Lựu ở đây, nghe tôi đọc chắc o thích lắm.

Rồi thời gian qua… Trường lớp, bạn bè và những cuộc vui cuốn hút tôi. Tôi đã lớn, đã biết đi xe đạp rồi Honda nhưng làng o Lựu trở thành vùng xôi đậu, mất an ninh. Đôi lần nhớ về o Lựu tôi ngậm ngùi. Chắc o đã có một gia đình êm ấm.

Năm 1972 mùa hè chinh chiến, gia đình tôi cũng bỏ Quảng Trị mà đi. Và từ đó tôi không còn dịp quay lại tỉnh lỵ nhỏ bé này.

***

Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm nhưng với cái lý lịch không mấy “sạch sẽ”: Ba “ngụy quyền”; anh trai, anh rể đi “cải tạo”; với cái nhìn không mấy thiện cảm của loại Sinh viên “Cách mạng 30”về một cô gái trước 75 hay mặc váy lên giảng đường; đi “lao động Xã hội chủ nghĩa ”vẫn áo Pull quần Jean “tàn dư Mỹ Ngụy ”, tôi không được bổ nhiệm. Buồn tình tôi bỏ về Đà Lạt.

Thành phố cao nguyên. Những ngày nằm dài ủ ê nghe thông reo. Chị Cả tôi, từ một mệnh phụ đã bước xuống cuộc đời. Đồ đạc trong nhà bán dần hết. Một nách ba con với gánh hàng trên vai, chị tôi vào bán trong Hồ Than Thở. Đây là một thắng cảnh của Đà Lạt. Cạnh đó là Trường Võ Bị Quốc Gia nay đã đổi tên thành Học Viện Lục Quân. Hàng ngày tôi nhìn sang mà lòng ngậm ngùi. Anh rể và anh trai tôi đều xuất thân từ ngôi trường quân sự danh giá này và bây giờ cả hai đều bị lưu đày ở nơi thâm sơn cùng cốc. Cả hai anh đều bị xếp vào loại “ác ôn” khi chọn lựa binh chủng Biệt Động quân với chiếc mũ nâu, cháu tôi khi chơi đánh nhau vẫn quen mồm “Ranger ranger, kill…kill ”…Khách hàng phần đông là những bộ đội “ cách mạng” các miền; thỉnh thoảng có những chuyến xe Saigon của các du khách lãng mạn đi tìm dấu tích của Đồi thông hai mộ một thuở . Sang hơn hết là xe của những cán bộ cao cấp, những đoàn chuyên gia nước ngoài đi ngoạn cảnh mà họ dùng bằng hai từ tối nghĩa “ Thăm quan”. Hàng họ ngoài thuốc lá, bánh kẹo thông thường, chị tôi bày thêm tranh khắc bút lửa, những con cù lần bằng gốc cây… Mặt hàng này du khách hay mua làm kỷ niệm.Tôi thường giúp chị trong khâu bán hàng.

Buổi trưa, úp mặt vào cuốn “Người xa lạ” của A.Camus, tôi lơ mơ buồn bã. Đang miên man nhớ câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Đời tàn trong ngõ hẹp”, tôi giật mình với tiếng reo hớn hở của người bán hàng bên cạnh: “A, khách Tây, khách Tây”. Hầu như các quán hàng đều tỉnh ngủ. Mối “sộp” đây rồi!

Tính sĩ diện vẫn còn khiến tôi không thể chạy theo chèo kéo khách như những người khác.Thôi thì ngồi yên ngâm nga thơ Nguyễn Công Trứ: “ Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất. Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn”. Các cháu ơi! Dì chịu thôi. Chiều nay chúng ta ăn khoai tây vừa mót được dưới Trại Hầm hôm qua chấm với muối vậy.

Gạt những người xúm quanh, một ông Tây bước về gian hàng bé nhỏ của tôi, chăm chú nhìn những bức tranh rồi cúi xuống chọn lựa…

Lạy Chúa, lạy Phật phù hộ! Chị tôi đang đi thăm nuôi anh rể ở trại cải tạo Sông Mao. Gạo trong nhà đã hết. Trống ngực tôi đập nhanh. Bất ngờ, ông Tây hướng về phía nhóm du khách và reo vang như vừa phát hiện một điều gì kỳ thú:

-Honey, come here. I saw your village in the picture…

Người phụ nữ tóc vàng váy đỏ, dáng dấp Á Đông bước tới. Bà ta có vẻ bồi hồi khi ngắm bức tranh có mái tranh với đụn rơm, cánh đồng, con trâu đang gặm cỏ. Bà ngước lên nhìn tôi chăm chú rồi thảng thốt kêu lên…bằng tiếng Việt:

-Bé Ti, bé Ti phải không? O Lựu nì!

Tôi há hốc miệng. O Lựu, người giúp việc năm xưa? Như sợ tôi không tin, người phụ nữ vén tóc trán:

-Vết sẹo nì. O đây, o đây…

Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Sự nhớ thương pha chút tủi hổ làm tôi nghẹn ngào.Tôi gục đầu vào mái tóc o như muốn tìm lại mùi hương thời thơ ấu…

Phút xúc động lắng xuống, o giới thiệu: “Đây là Tim John, chồng o.”

Để mặc ông chồng đứng cười hiền ngơ ngác, o kéo tôi ngồi xuống kể chuyện tháng ngày qua…

Từ giã nhà tôi, o Lựu về làng lấy chồng theo sự sắp xếp của cha mẹ. Chồng o là một anh nông dân hiền lành và chăm chỉ làm ăn. Được hai năm, chưa kịp có con, anh đã chết do một phát đạn ngu ngơ không biết của phe nào khi đang cày bừa trên mảnh ruộng nhà. Rồi làng Bồ Bản chìm ngập trong lửa đạn. Ban ngày lính cộng hòa hành quân bố ráp, ban đêm du kích bò ra hoạt động, dân chúng toàn phải chui hầm.

Trong một trận pháo kích của Cộng quân, nhà o bị sập. Gia đình chết hết, o bị thương nặng được máy bay trực thăng của tổ chức Hồng thập tự đưa ra Hạm đội cứu chữa. Không còn gia đình, làng mạc tan hoang sau trận chiến mùa hè 1972, o Lựu không còn nơi để trở về. Số phận đưa đẩy, Tim John là người phụ tá bác sỹ điều trị cho o đưa o qua Mỹ và họ trở thành vợ chồng…Năm nay,Tim đại diện cho một tổ chức nhân đạo sang giúp đỡ trẻ em khuyết tật Việt Nam do chiến tranh, o theo chồng về thăm quê hương và tình cờ gặp tôi.

Vẫn là sự thương yêu chân tình đối với “ cô chủ nhỏ” của mười năm trước, o Lựu vuốt ve mái tóc tôi, xuýt xoa khi nắn bóp cơ thể gầy guộc thiếu ăn của “bé Ti ” , chảy nước mắt khi nghe anh tôi đi “cải tạo” tận miền núi Hoàng Liên Sơn rừng sâu nước độc và thở dài khi biết chị tôi đang lặn lội đi thăm chồng tù tội. Ôi! Vẫn là một o Lựu chơn chất, hiền lành của ngôi làng Bồ Bản xa xưa.

Lúc chia tay, o tế nhị dúi vào túi áo tôi một cuộn tiền rồi tất tả lên xe. Vẫy tay chào theo tôi không biết là mình đang mơ hay tỉnh. Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy những tờ 100 đô la Mỹ.

Nhờ số tiền của o Lựu , chị tôi từ giã nghề buôn gánh bán bưng. Chị sang một sạp hàng tạp hóa ở chợ Đa lạt, nuôi 3 đứa con ăn học chờ chồng trở về từ trại giam.

Sáu năm sau anh chị cũng ra nước ngoài theo diện HO.Trên đất khách quê người những ngày đầu tiên, anh chị được vợ chồng o Lựu tận tình giúp đỡ.Tiếc rằng do vết thương chiến tranh, o Lựu không thể có con. Vợ chồng o nhận đứa con trai của anh chị tôi làm con đỡ đầu.

Năm ngoái tôi lặng người khi nghe chị tôi gọi điện thoại báo tin o Lựu đã qua đời sau một cơn đột quỵ. Ôi ! O Lựu, bóng mát trên thiên đường ký ức của tôi, ân nhân của gia đình tôi trong cơn khốn cùng…Tôi khóc o như khóc một người thân yêu nhất.

Hương Thủy

  • Xuốc cươi: Quét sân
  • Bổ : Té
  • Lọi tay: Gãy tay

From: Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh

Đêm Nằm Soi Bóng … TRUYỆN NGẮN….Trần Quang Thiệu,

TRUYỆN NGẮN….Trần Quang Thiệu,

***

Đêm Nằm Soi Bóng ….

Trí viết vội cho xong báo cáo cuối tuần, tắt máy PC, vẫy tay chào đồng nghiệp ngồi gần:

– Về nhé anh Tiến. Have a nice weekend, and see you next week.

Tiến ngẩng lên, nhướng mắt nhìn:

– Sao hôm nay về sớm thế? Có mục gì hả?

Trí mim cười:

– Yes sir! Về chuẩn bị sớm mai đi D.C. xem hoa anh đào.

– Thế hả? Nhưng đi một mình buồn chết.

Trí ngần ngừ:

– Đi với người bạn anh ạ.

Tiến bỗng dưng trở nên ngập ngừng:

– Bạn gái hả? Phải cô Ngân không?

Trí có vẻ ngạc nhiên:

– Anh biết cô ấy hả? Vâng, Ngân chưa tới D.C. bao giờ, tháng Tư hoa đào nở bên bờ sông Potomac đẹp vô cùng. Tôi đã tới đó một lần, vẫn còn nhớ mãi.

Tiến xô ghế đứng dậy, tần ngần vỗ vai Trí:

– Tôi gặp anh và Ngân vài lần tại chùa Sư Nữ, anh và cô ấy thường ngồi ngoài vườn chuyện trò, hầu như không chú ý tới ai nên không thấy tôi.

Trí có vẻ ngượng:

– Hoá ra là vậy! Anh biết tên của Ngân nên có lẽ cũng quen cô ấy.

– Không, tôi không quen nhưng biết rất rõ về Ngân vì cô ấy cùng làm một chỗ với nhà tôi. Có điều tôi muốn nói với anh …

Thấy Tiến có vẻ ngần ngừ, Trí dục:

– Có gì anh cứ nói.

Tiến thở dài:

– Anh biết nhiều về gia cảnh của Ngân không?

Trí gật đầu:

– Chúng tôi quen nhau đã vài tháng, cũng biết được ít nhiều.

– Vậy anh biết gì về chồng của Ngân?

– Ngân nói nhiều về đứa con gái đang theo học đại học ở gần đây nhưng hầu như không bao giờ nhắc tới ông chồng. Khi mới quen tôi có hỏi, chi thấy Ngân buồn bã lắc đầu, nước mắt lưng tròng nên tôi đoán là hai vợ chồng đã chia tay trong buồn phiền. Tôi không bao giờ nhắc tới chuyện đó nữa vì sợ làm cô ta buồn thêm, nhất là từ khi tình bạn đã chuyển thành tình yêu.

Tiến lắc đầu, giọng thật ngậm ngùi:

– Không phải vậy đâu. Vợ chồng Ngân vẫn còn sống với nhau. Anh Văn bị stroke, liệt nửa người, miệng méo và một cánh tay co quắp không cử động được, đi lại cũng rất khó khăn, phải chống gậy, dù chỉ quanh quẩn trong nhà. Anh ấy cũng là cựu quân nhân như chúng mình. Tội nghiệp lắm anh ạ!

Mặc cho Trí đứng thẫn thờ, Tiến trở lại ghế ngồi, đưa mắt buồn bã nhìn màn hình PC nhưng hình như không thấy gì trên đó. Biết là mình không nên dính vào chuyện của người khác, Tiến nghĩ thầm, thế nhưng cũng không đành lòng nhìn một người có thời là chiến hữu bây giờ đã mang nỗi đau tàn tật lại còn bị dày vò cho đau thêm. Có nỗi bất hạnh nào lớn hơn thế không hả anh Văn? Nước mắt Tiến muốn trào ra khi nghĩ tới niềm đau xót của một kiếp người.

******

Hôm nay là ngày lễ Vu Lan, xe đậu kín sân chùa Sư Nữ, và khó khăn lắm Trí mới len vào được chính điện, nhưng không tìm được một chỗ trên bàn thờ để đặt giỏ trái cây cúng Phật. Cũng hơn ba năm rồi từ ngày Thúy qua đời, và cũng kể từ ngày đó Trí mới biết tới kinh kệ và chùa chiền. Gần đây bố lại mới mãn phần, Trí lại càng gắn bó với nơi đặt di ảnh của vợ và cha nên thỉnh thoảng Trí vẫn lên chùa thắp nhang cho bố, cho Thúy, và cho lòng mình bớt cô đơn.

Nhìn người đàn ông lúng túng với giỏ trái cây, Ngân nhanh nhẹn tiến lại gần:

– Ông để tôi giúp cho.

Ngân sắp xếp lại những bình hoa và cây trái của khách thập phương bày hỗn độn trên bàn thờ, đỡ giỏ trái cây từ tay Trí, đặt gần lư hương đang nghi ngút khói, và đốt một nén nhang đưa cho Trí:

– Mời ông.

Trí gật đầu cảm ơn người đàn bà, cầm nén nhang, chắp tay nhìn tượng phật Quan Thế Âm khấn thầm. Ngân đứng tránh sang một bên, kín đáo nhìn người đàn ông. Mắt ông ta nhắm hờ, như quên hết những người xung quanh. Chính điện ồn ào thế nhưng ông ta trông sao cô đơn. Không biết ông ta có tìm được niềm thanh thản ở nơi này hay không, Ngân nghĩ thầm, hay là cũng như mình tới đây để tìm quên nhưng khi ra về lại thấy trống vắng với cuộc đời.

Người đàn bà mặc áo dài màu tro, đồng phục của những người tới làm công quả trong chùa, nhưng vẫn đẹp mặn mà với son môi màu cánh sen và làn da trắng phớt nhẹ lớp phấn hồng. Trí nghĩ chắc chắn là người đàn bà ấy phải hãnh diện về nhan sắc của mình, thế nhưng đôi mắt sâu thăm thẳm đó sao lại rất buồn. Chả nhẽ là em cũng như tôi, cũng cô đơn vì vắng bóng những người thân yêu trên đời?

Trí cám ơn người đàn bà thêm một lần nữa trước khi đi vào hậu viện, nơi bày di ảnh của những người đã khuất, để thắp nhang cho vợ, và cho bố. Trí đứng thẫn thờ trong hương khói nhạt nhòa một lúc thật lâu trước khi buồn bã ra về.

Trí gặp lại Ngân ngay tại sân chùa. Ngân đang tiễn một cặp vợ chồng già ra xe, thấy Trí, Ngân mỉm cười:

– Ông không ở lại ăn cơm chay nhà chùa sao?

Trí cười buồn:

– Có một mình thấy lạc lõng trong phòng ăn nên không muốn ở lại.

Ngân nhíu mày:

– Sao lại thế. Đều là tín hữu cả mà. Ông ở lại dùng cơm chay với nhà chùa. Ngân cũng ăn trưa với các anh chị giúp việc ở đây.

Trí tần ngần:

– Thế cho tôi … ngồi chung được không?

Ngân bật cười:

– Dạ được, nhưng ông phải chờ. Bao giờ khách dùng cơm xong mới tới lượt chúng tôi. Chỉ sợ ông đói, chờ không được.

Trí cũng cười:

– Tôi chờ được. Tôi sẽ ngồi ở ghế đá ngoài vườn, khi nào chị Ngân tiếp khách xong cho tôi biết nhé. By the way, tên tôi là Trí.

Ngân mỉm cười gật đầu, giơ tay vẫn chào Trí trước khi trở vào chùa. Trí thẫn thờ nhìn theo, và tự nhiên trong lòng cảm thấy vui vui.

Đã lâu lắm, từ ngày vợ qua đời, hôm nay Trí mới lại ngồi ăn với một người đàn bà. Ngân tự nhiên và tháo vát cứ y như Thúy ngày xưa, tự động đi lấy nước uống và thức ăn cho Trí trong lúc Trí lúng túng ngồi yên tại bàn vì xa lạ. Thấy Trí bối rối, Ngân mỉm cười trấn an:

– Ông không quen ở đây nên không cần “galant”. Ở đây Ngân quen như ở nhà, cuối tuần nào cũng tới chùa giúp việc vì sư cô cũng là người thân.

Trí chỉ biết mỉm cười cám ơn. Ngân ân cần hỏi thăm:

– Ông Trí có hay tới chùa không?

Trí ngừng đũa, gật đầu:

– Cũng thỉnh thoảng vì di ảnh của ông cụ tôi và của nhà tôi đều để ở chùa này.

– Thì ra vậy! Thảo nào trông anh buồn và cô đơn trong đám đông ồn ào. Ngân nhẹ thở dài:

– Đời vô thường, ông nhỉ?

– Có lần sư cô cũng nói với tôi như vậy. Còn đọc cho nghe cả một câu kinh nhưng tôi không nhớ vì chẳng hiểu gì.

Ngân bật cười:

– Như vậy ông Trí phải tới chùa thường hơn, và chịu khó ngồi nghe kinh chứ không được chỉ thắp nhang rồi ra về.

Trí lúng túng đưa tay vuốt tóc, nói như người phạm tội:

– Quả tình trước đây tôi … gần như vô thần. Khi còn nhỏ có theo mẹ lên chùa vài lần, lớn lên bận với cơm áo đời thường, thì giờ đâu mà nghĩ tới Phật pháp. Chỉ từ ngày nhà tôi mất tôi mới biết tới lễ nghi, chùa chiền và kinh kệ. Trừ những bậc chân tu, mọi người chỉ tìm đến tôn giáo vì những bất hạnh của cuộc đời. Tôi nói thế không biết là có thiển cận quá không.

– Có lẽ là thế thật đó ông. Nhưng thôi, tới chùa lễ phật, học được Phật pháp là điều tốt, nhưng chùa chiền cũng là nơi gặp gỡ bạn bè, nơi nẩy sinh tình tương thân tương ái. Ông Trí có tin như thế không?

Trí cười nhẹ:

– Bây giờ thì tôi tin. Hôm nay gặp được chị Ngân, tôi … tôi phải cám ơn cái chùa này!

Ngân dịu dàng:

– Thế chủ nhật tới ông nhớ lên chùa nhé.

– Vâng! Chủ nhật tới, và … chủ nhật tới nữa!

Ngân và Trí cùng nhìn nhau mỉm cuời. Một thoáng vui trong ánh mắt Ngân nhưng chỉ một giây đã trở lại u buồn, cúi xuống nhìn đĩa thức ăn hầu như còn nguyên.

******

Văn ngồi lặng lẽ trong phòng khách, chỉ khẽ nhấc bàn tay như chào hỏi khi thấy Ngân mở cửa, từ chùa trở về. Ngân nhẹ thở dài, đến bên chồng:

– Anh ngồi đây làm gì, sao không nằm nghỉ cho khỏe.

Văn cười buồn:

– Anh mới thức dậy, cũng hơn ba giờ chiều rồi em.

Nhìn mái tóc còn ướt và vài khuy áo chưa cài hết, Ngân dịu dàng:

– Anh mới tắm xong hả? Để em cài lại khuy áo cho anh.

– Ừ. Mấy cái nút chặt quá, chỉ có một tay nên anh cài không được.

Ngân ngậm ngùi ngồi xuống bên chồng, đưa tay vuốt tà áo Văn cho thẳng. Ngày xưa, không cũng chỉ mới vài năm trước đây thôi, nhiều lần Văn tắm xong Ngân thường ngăn không cho Văn cài khuy áo để Ngân có thể úp mặt vào bô ngực nở nang của chồng, hít hà mùi da thịt đàn ông, khúc khích cười hôn nhẹ lên cổ, lên vành tai của Văn để được vòng tay Văn siết chặt, nhấc bổng thân hình đã mềm ra vì ham muốn của Ngân.

Nghĩ tới những giây phút ái ân nồng nàn và cuồng nhiệt của ngày tháng cũ làm hơi thở của Ngân ngắn lại, thế nhưng khi ngước ngước nhìn khuôn mặt Văn, thấy cái miệng méo mó và dòng nước rãi chảy dài từ mép, Ngân bỗng thấy nguội lạnh, chỉ còn biết kín đáo nhẹ thở dài.

Cánh tay co quắp của Văn buông thõng bên mình, cánh tay còn lại để hờ trên vai Ngân. Ước gì, ừ ước gì, anh có thể ôm em trong vòng tay như xưa, rúc đầu trên khuôn ngực trắng hồng, để cho thân xác em run rẩy trong tình yêu lứa đôi.

Tội nghiệp em, em còn quá trẻ, còn yêu đời thế nhưng anh làm gì được cho em? Em biết không, có nhiều lúc anh đã muốn tự kết liễu đời mình, để anh không còn đau khổ, và để em được tự do như chim trời, tình hạnh phúc ở một nơi nào không có anh. Anh chẳng còn gì để lại cho em, cho đứa con gái độc nhất của chúng mình ngoài cái hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.

Nhờ nó em sẽ bớt đi phần nào những lo lắng về cuộc đời, thế nhưng nếu anh tự kết liễu đời mình thì hợp đồng trở thành vô giá trị. Giá mà anh chết đi khi đột qụy thì em không có gánh nặng này. Anh yêu em, nhưng bây giờ anh làm gì được cho em!

Cài xong khua áo cuối cùng cho chồng, Ngân dục:

– Để em đưa anh ra sân sau ngồi chơi. Florida mùa này gió mát. Anh uống gì không để em lấy cho?

Văn vịn tay vào thành coffee table, cố gắng đứng dậy:

– Anh đi một mình được. Cũng mới uống xong tách trà. Thế hôm nay trên chùa có gì lạ không em?

Ngân lắc đầu:

– Cũng không có gì lạ, chỉ đông hơn ngày thường thôi anh.

Ngân nhớ tới khuôn viên nhộn nhịp của chùa, và chợt nhớ tới người đàn ông cô đơn vừa gặp. Chắc ông ta cũng chỉ bằng tuổi Văn, Ngân nghĩ thầm, nhưng thân hình thẳng băng và bờ vai rộng như đang che chở cho người đi cùng. Không biết bây giờ có mái tóc nào ngả trên bờ vai đó, và có cánh tay nào quấn quít ngang lưng. Chắc là không, vì trông ông ấy cũng thật là cô đơn. Như mình! Ngân lại nhẹ thở dài, nhìn theo dáng đi xiêu vẹo của Văn đang cố gắng bước từng bước một với cánh tay co quắp đong đưa bên mình.

*******

Sáng thứ Sáu hãy còn sớm nhưng Ngân đã đi làm còn Văn vẫn nằm trên giường suy nghĩ vẩn vơ, mắt nhìn lên trần nhà trắng xóa như cuộc đời buồn. Có tiếng chuông điện thoại reo. Văn nhìn sang bàn ngủ cạnh giuờng. Không phải điện thoại nhà mà là cell phone của Ngân.

Sáng nay vì vội vàng nên Ngân đã quên điện thoại ở nhà. Điện thoại reo vài lần nhưng Văn không nhấc máy. Văn vẫn tôn trọng những gì riêng tư của vợ, nhất là khi thấy chữ “Private” trên màn hình. Tiếng chuông điện thoại tắt, và Văn lại trở về với những suy nghĩ vẩn vơ, nhưng chỉ vài phút sau tiếng chuông lại reo, cắt đứt dòng suy tư làm Văn hơi bực mình. Vẫn là “private call” nên Văn mặc kệ, tiếng chuông reo mãi rồi cũng thôi, nhưng Văn không còn cảm thấy thoải mái nằm trên giường nên trở dậy làm vệ sinh cá nhân.

Khi trở lại phòng ngủ Văn lại nghe thấy tiếng chuông điện thoại, nhưng chỉ là một tiếng ngắn, báo tin là vừa nhận được “text message”. Văn nghĩ thầm, không biết là có gì quan trọng cần gọi vào sở cho Ngân không nên lóng ngóng nhấc điện thọai mở xem message nhắn gì.

Đọc xong tin nhắn, Văn thừ người ngồi trên mép giuờng, đầu cúi gập. Lại có tiếng chuông điện thoại báo tin là vừa nhận thêm một text message. Văn vẫn ngồi lặng lẽ, mãi một lúc sau mới lê bước chân nặng nề sang phòng ăn.

Bữa ăn sáng Ngân làm sẵn cho Văn nằm chơ vơ trên bàn. Văn đưa mắt nhìn nhưng không đụng tới, vươn tay với chai cognac trên kệ, rót cho mình một ly đầy. Ngồi xuống bàn, Văn run run đưa ly rượu lên môi, nhắm mắt ngửa cổ nốc cạn ly rượu cay đắng như đời mình, nước mắt trào ra và gục đầu trên bàn, nấc nhẹ: “Ta làm gì cho hết nửa đời sau”. [1]

*******

Chiều thứ Sáu Ngân đi làm về chỉ kịp gật đầu chào Văn đang ngồi suy tư tại sofa phòng khách tước khi vội vã vào phòng ngủ tìm điện thoại của mình. Có hai “missed calls” và tin nhắn mới. Tin nhắn cuối cùng do Trí gửi sáng nay, Ngân đưa mắt đọc vội:

“Anh gọi em hai lần nhưng em không bắt máy. Anh không biết điện thoại nào của em khác hơn là số này. Gửi tin nhắn này nữa là hai. Liên lạc với anh ngay nhé, em yêu.”

Ngân thở nhẹ, mở xem tin nhắn trước đó:

“Vé máy bay và khách sạn đã sẵn sàng. 8 giờ sáng mai gặp anh ở phi trường. Nhớ mang theo áo ấm, tháng Tư trời D.C. còn lạnh. Mong em.”

Ngân xóa vội hai tin nhắn, thừ người ngồi xuống giường. Mới đó mà đã mấy tháng từ lần gặp gở đầu tiên trên chùa. Trí lúc nào cũng nhã nhặn và coi trọng Ngân nên tình bạn của hai người mau chóng trở lên đằm thắm, nhưng niềm cô đơn đã mang họ lại gần nhau hơn nên khi Trí tỏ tình, Ngân đã đã không cầm lòng được, gục đầu lên bờ vai rắn chắc, và run rẩy trong vòng tay của người đàn ông.

Trí không biết gì về hoàn cảnh gia đình của Ngân vì có lần hỏi tới Ngân chỉ lắc đầu, rơi nước buồn phiền. Trí không nhắc tới nữa vì sợ chỉ làm Ngân thêm đau, hơn thế nữa tình yêu mới đã làm mắt Trí mờ đi vì hạnh phúc, không nghĩ và không thấy gì ngoài vành môi gợi cảm và vòng tay thiết tha, mặc dù hai người chưa một lần đi tới tận cùng đam mê.

Ngân đã nhiều lần băn khoăn suy nghĩ, nhất là những phút giây qùy gối trước tượng Phật Bà Quan Thế Âm, thế nhưng nghĩ tới bờ vai ấm áp của Trí và căn nhà vắng lặng với bóng dáng nhạt nhoà của Văn, Ngân lại thấy mềm lòng. Tuần rồi gặp nhau tại một quán café vắng vẻ Trí đã ngồi sát vào Ngân, vuốt ve bờ vai thon nhỏ, thủ thỉ những lời êm ái, mong mỏi hai người được sống với nhau một ngày, cho nhau hết những dạt dào nhớ thương, Ngân đã không suy nghĩ mà ngây ngất gật đầu.

Văn vẫn ngồi yên trên ghế xem tin tức buổi chiều như mọi ngày. Bữa cơm tối vẫn xảy ra như thường lệ nhưng Văn ăn ít hơn và vào phòng ngủ sớm hơn. Ngân loay hoay lau rửa bát đĩa, nghĩ ngợi thật nhiều nhưng vẫn chưa biết nói sao với Văn để có lý do vắng mặt cuối tuần. Một lúc lâu lắm Ngân mới bước chân vào phòng ngủ. Văn đã nằm trên giường, quay mặt vào vách nhưng chưa ngủ. Ngân nằm xuống cạnh chồng, gọi nhẹ:

– Anh.

Văn vẫn quay mặt vào tường:

– Chuyện gì vậy Ngân?

Ngân rụt rè:

– Anh … Em muốn đi cùng với chị Tiến cuối tuần này lên D.C. xem hoa anh đào. Được không anh?

Văn vẫn nằm yên, Ngân hồi hộp đợi chờ, và tưởng như là thời gian ngừng trôi. Ngân nuốt nước bọt nói thêm:

– Mai con về nhà, con sẽ “take care” anh khi em đi vắng.

Tiếng Văn vẫn bình thường như mọi ngày:

– Ừ, em đi chơi cho vui. Đã lâu lắm rồi em không đi đâu xa. Thật là tội nghiệp.

Ngân thở ra một hơi dài nhẹ mhõm:

– Cám ơn anh.

Văn xoay người nhìn lên trần nhà, nói một cách từ tốn:

– Nhớ mang theo áo ấm, tháng Tư trời D.C. còn lạnh.

Ngân như thấy một cơn gió lạnh buốt luồn vào sống lưng. “Nhớ mang theo áo ấm, tháng Tư trời D.C. còn lạnh”, như vậy là anh đã đọc tin nhắn của Trí gửi em rồi ư? Anh biết em sắp đi chơi xa với một người đàn ông lạ mà sao anh vẫn bình thản như thể là không có gì xảy ra. Anh khinh em tới độ không đáng nói hay là anh cam chịu làm người tình thua? Tội nghiệp cho em hay là đau xót cho anh? Ngân nằm vật xuống giường, quay mặt vào tường, nước mắt trào ra thấm xuống gối.

Văn vẫn nhắm mắt nằm im lìm. Anh muốn im lặng làm người tình thua, đến một lúc nào đó khi em đã có người nương tựa thì anh sẽ lặng lẽ từ giã thế gian này mà không ân hận vì bỏ lại em bơ vơ với cuộc đời, nhưng anh cũng không muốn em băn khoăn vì đang lừa dối anh nên anh gián tiếp cho em biết là anh bằng lòng để em đi chơi với người em yêu. Bao nhiêu năm rồi em không có một ngày nào vui, tội nghiệp em. Anh biết em có nhu cầu của một người đàn bà mà anh không mang lại được cho em. Em cứ yên tâm, dù thế nào đi nữa anh cũng vẫn yêu em.

Ngân vẫn nằm im khóc âm thầm. Giá mà anh mắng chửi em thì có lẽ em sẽ không đau đớn như lúc này. Em biết anh không phải là người yếu hèn. Từ ngày tàn tật chưa bao giờ anh nói một lời than van. Anh im lìm nhưng em biết là anh rất yêu em. Có những đêm chợt thức giấc thấy anh vuốt tóc em âu yếm, nhưng ánh mắt anh cũng thật là xót xa. Những lúc đó em nghĩ là anh thương cho thân phận mình, nhưng bây giờ thì em biết là anh chỉ tội nghiệp cho em hơn là cho anh.

Ngân nghiêng mình khẽ gọi:

– Anh.

Không có tiếng trả lời. Có lẽ là Văn đã ngủ hay là anh chìm vào trong cơn mê của những ngày chinh chiến cũ như là anh thường kể với em. Ngân nhẹ nhàng ngồi dậy, cầm cell phone đi vào phòng tắm. Mở điện thoại, Ngân nhắn tin cho Trí:

“Xin lỗi anh em sẽ không tới được… Cám ơn anh đã cho em những ngày vui. Vĩnh biệt anh.”

******

Gần 8 giờ vẫn không thấy Ngân ra khỏi nhà, Văn nhắc:

– Muộn rồi đó em.

Ngân mang cho Văn ly cà phê:

– Em đổi ý. Sợ trời lạnh lắm, sống ở Florida nắng ấm bao nhiêu năm em đã quen rồi.

Văn nhìn Ngân đăm đăm không nói. Tội nghiệp anh, mắt anh trũng sâu, chắc là đêm qua anh không ngủ được nhiều. Ngân ngồi xuống sofa cạnh chồng:

– Chút nữa nắng lên em đẩy xe cho anh ra công viên chơi. Dạo này anh xanh xao quá.

Văn vẫn im lặng. Ngân bùi ngùi:

– Anh biết không, sư cô thường hỏi thăm anh. Chủ nhật tuần tới em sẽ đưa anh lên chùa. Nghe kinh kệ như lời ru, dù mình không hiểu nhưng ngửi mùi trầm hương cũng thấy lòng êm ả anh à.

Văn e dè:

– Em không thấy … bất tiện sao?

Ngân biết là Văn định hỏi là em không thấy mắc cở sao nên thở dài, cúi đầu nói nhỏ:

– Em xin lỗi anh. Em đã hiểu …

Và không để cho Văn trả lời, Ngân nói tiếp vội vàng:

– Cuối tháng này mình đổi cái xe nhỏ lấy chiếc xe van để anh lên xuống cho thuận tiện. Rồi chúng mình sẽ có dịp đi chơi xa. Năm tới em sẽ đưa anh sang Cali họp khoá. Bao nhiêu năm rồi anh không gặp bạn bè đồng đội cũ. Kẻ mất người còn, gặp nhau không biết được mấy lần nữa đâu anh.

Văn không nói, chỉ lặng lẽ gật đầu, run run nắm nhẹ bàn tay Ngân. Không biết làm gì cho hết nửa đời sau, nhưng lâu lâu “ông” được gặp “chúng mày” thì có chết cũng vẫn vui.

Văn reo lên trong lòng khi nghĩ tới bạn bè đồng ngũ ngày xưa.

“Giao thừa”

Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư

***

“Giao thừa”

Đã thấy mấy vạt hoa vàng loè xoè, đã thấy những trái dưa hấu bóng mẫy thẫm xanh chất tầng tầng trên chợ. Thế là Tết thật rồi. Tết cứ làm người ta nao lên nôn nóng ngóng chờ, rồi lại nuối tiếc cho tuổi xuân qua. Chợ Tết chạy dọc theo các vỉa hè quanh ngã năm, bán toàn dưa với hoa. Vô tình chỗ Đậm bán đối diện với khu nhà đẹp nhất, cao nhất và sầm uất nhất thị xã.

Sau lưng, cách một lớp chì gai oặt quẹo là một bãi cát trống, cỏ xanh theo gió chạy líu ríu từng triền, từng triền mải miết. Cánh bán dưa ra chợ từ 20 tháng chạp, chở từ sáng tới khuya, hịch hụi. Lúc nghỉ mệt tay chống hông ngó qua. Những ngôi nhà cao. Những bảng hiệu sặc sỡ. Đèn đủ thứ mầu. Sang quá. Người ta đợi tết để trang hoàng cho thật đẹp, mà càng đẹp thì cánh bán dưa trong ruộng ra càng buồn.

– « Biết chừng nào mình xây được cái nhà cỡ đó hen? ».

– « Bán dưa, làm ruộng cỡ 40 năm ».

– «Giỡn hoài, cỡ đó thì xuống lỗ rồi còn gì ».

– « Ừ »…

Chỗ Đậm ngồi dưới tán cây còng bị tỉa nhánh chỏng chơ như bàn tay cụt. Bên trái là vạt bông của ông Chín từ miệt Sa Đéc xuống. Và chỉ Đậm là ngồi bán một mình chứ người ta chồng vợ đùm đề, xoong nồi lủ khủ.

Ngày đầu cô chất dưa chưa khéo, dưa cứ ỷ mình tròn, lăn long lóc ra đường. Dưa lăn, người hì hục đuổi theo. Xe cộ giáp Tết đông nghẹt, người ta cười, người ta cằn nhằn. Tủi cực trào lên như người ta nhận cái thùng vô lu nước đầy. Đậm lầm lũi khóc nghẹn.

Đậm 29 tuổi, hơi đen, trên khuôn mặt lam lũ còn sót lại chút duyên ngầm. Chưa thấy chanh chua như đã từng quen chợ. Lúc chở dưa ra, có anh chàng trẻ tuổi cao lỏng khỏng, nước da đen lùi, lúc cười chỉ thấy hơi hới hàm răng, chạy tới làm giúp. Kéo tấm ni-lông che nắng, chặt mấy cây chuối đem ra bao lại cho dưa khỏi lăn, anh chàng cũng giúp. Đậm nằng nặc bảo thôi đi, anh chàng cãi cố: « Tôi tiếp cho, có sao đâu ». Quần anh chàng lấm nhớt, tóc bù xù đỏ quạch như rễ vú sữa.

Già Chín bán bông thắc mắc:

_ Con gái ơi! Bác thấy thằng đó hiền khô hà, ai vậy?

Đậm bảo:

_ Tên Quí, chạy xe lam, ở xóm thôi, bác à.

_ Chà, giỏi, tốt thiệt. Làm hăng vậy tính kiếm tiền để cưới vợ hả?

Anh chàng nghe lóm, cười chéo mắt:

_ Có ai đâu mà cưới, bác.

Ông Chín cười khà khà, vuốt chòm râu cụt ngủn.

Cái nắng xuân kỳ lạ, không gay gắt đỏ, không nhàn nhạt như nắng chiều hè mà vàng thắm thiết như mầu bông sao nhái. Bấc lồng lộng lẫy qua từng ngọn cỏ sau chợ, mang theo mù mịt cát. Mặt mũi đầu tóc Đậm lúc nào cũng nham nhám như hột me rang cát. Người ta quần là áo lượt kìn kìn chạy qua mà chợ dưa với hoa vẫn chưa sôi động. Năm nay dưa trúng mùa cả núi vầy ăn gì cho hết. Người ta nán đợi tới ngày rước ông bà, lúc đó coi dưa có rẻ hơn bây giờ không. Những người bán ngồi chéo queo, buồn teo. Bông vạn thọ, bông cúc trái nết nở bung từng khóm, lái bông than như bọng: « Năm nay chắc thua rồi ».

Đậm bắt chước cánh lái dưa xóm Vàm Xáng, đi chợ mua xấp liễn dán dưa cho bắt mắt khách, tiện thể mua cho bé Lý bộ đồ. Mứt gừng, mứt dừa ở nhà má làm rồi để coi mua gì thêm. Má thì thích bánh ngọt. Con út thích cắn hột dưa, Đậm mua mỗi thứ vài trăm gam. Về khui ra thấy bộ đồ bé Lý hơi lớn, nhưng không sao, lớn thì mặc tới năm sau.

Già Chín hỏi:

– « Đồ ai mà bây ôm ấp vậy? » .

Đậm bảo của con gái con. Hỏi thêm một chút về ba của đứa nhỏ, Đậm cúi mặt thưa:

– « Không có ». Nghĩa là không có.

Ông Chín không phăng tới nữa. Ông già rồi, lăn lộn trên đời, ông biết chắc có chi lầm lỡ.

– « Con lầm lỡ tới mức phải bỏ nhà đi luôn đó, bác Chín à. Tới lúc ba con buồn rồi chết, má mới rước con về. Bây giờ, có cực khổ thế nào con cũng ráng chịu, miễn sao năm tháng cuối đời má con vui. Mà, chắc bù bi nhiêu cũng không đủ ». Sau này, Đậm mở lời. Giọng Đậm khao khao. Cô thấy mình giống như cỏ ven đường, người ta đi qua đạp, đi lại đạp vẫn ngoi lên sống, sống cỗi cằn.

Những mùa lam lũ. Những mùa cực nhọc. Một mình chống chọi. Đàn ông con trai coi được một chút mới lòng vòng ở ngoài đã nghe thiên hạ rần lên: « Thứ gái hư đâm đầu vô làm gì ».

Ai mà muốn, chỉ tại còn nhỏ, thấy gió yêu gió, thấy hoa yêu hoa, đam mê bồng bột. Nghĩ mình học chưa tới đâu nhưng là học những bài học bự nhất, đắt nhất. Đếm đi đếm lại chỉ còn Quí, khi biết được còn mỗi Quí thì Đậm đã sắp 30. Nhà Quí ở Lung Giữa, Quí gửi xe sân nhà cô. Làm một vài chuyện nhỏ như chở Đậm đi chợ không lấy tiền, tiếp Đậm cất cái nhà củi… thì cho là có qua có lại đi.

Nhưng ánh mắt Quí ngày càng nồng nàn trói buộc, bắt Đậm phải day dứt giữa nỗi khát khao và tủi hổ. Quí trai tơ, chưa vợ, lại nhỏ hơn Đậm gần 4 tuổi. Nhưng Quí tốt quá, rất tốt. Má Quí già rồi, than với Đậm hoài, có một mối trong Nhà Phấn Ngọn, coi được lắm, vậy mà biểu thằng Quí cưới vợ mà nó hổng nghe, làm như nó còn chờ ai đâu.

Thời gian bị người ta chở kĩu kịt đi. Khiếp, mới đó đã 29 Tết. Bánh mứt, dưa hành, quần mới, áo mới như nước tràn lên phố. Đây là một thời điểm rộn rịp nhất, phơi phới nhất trong năm. Tết này không có 30, 29 rồi tới mùng một, như người ta bước hụt, thấy thiếu một ngày.

Những khóm vàng hoa của ông Chín nở sớm từ 24, 25 đã ngả mầu vàng sậm. 4 giờ sáng, ông đi qua bên kia đường gánh nước về tưới, than:

– « Thời tiết năm nay kỳ cục quá »

Ông vấn điếu thuốc, phà khói bảo:

– « Con biết không, nghề bán bông tết cũng như bán lồng đèn Trung thu, qua rằm tháng 8 có cho người ta cũng không thèm lấy. Buôn bán kiểu vậy như con gái có thì, qua rồi, khó lắm… »

Ông nói tới đây, thấy Đậm ngẩng đầu ngó sao muộn, ông thôi không nói nữa. Đậm nhớ con gái quá. Nghe Quí đem đồ về lại đem tin ra bảo:

– « Bộ đồ bé Lý mặc vừa lắm, nó đòi ra với Đậm. Buôn bán như vầy cực quá, chở nó ra đây, tội nghiệp… ».

Rồi Quí bảo mớ bông mồng gà Đậm gieo sao mà khéo quá, bông đỏ bông vàng trổ ngay Tết.

Đó là lúc chờ sáng, còn rỗi rãi xẻ dưa mời nhau, chứ ngày 29 là một ngày tất bật, nói theo dân đá banh là thắng với thua. Người mua xúm xa xúm xít. Mới một buổi đã lử lả, Đậm một mình phải coi trước coi sau. Tưởng dưa hấu đắp đập ngăn sông mà đã vợi đi quá nửa. Nhưng chắc phải đợi cho tới giao thừa. Người ta chờ tới đó sẽ rẻ nữa.

Chạy xong mấy chuyến xe buổi sáng, chiều Quí lại giúp. Từ bến xe lam lại đằng chợ chừng 100 m. Quí kêu:

– « Có ai mua nhiều, Đậm hứa đi, tôi chở tới nhà cho ».

Đậm thấy vui, phần thì bớt lo dưa ế, phần thấy nao nao trong lòng. Cái không khí đẹp thế này, ấm thế này, không vui sao được. Quí hỏi: – « Nhà Đậm có gói bánh tét không? ».

Đậm hỏi lại:

– « Có, mà chỉ ».

– « Tôi cho, má tôi gói nhiều lắm ».

Quí mặc áo đứt mất tiêu cái nút trên, lồ lộ ra mảng ngực ráp nắng. Trong Đậm nhiều khi dậy lên một cái gì rưng rức khó tả, chỉ mong nép đầu vào đó để quên nhọc nhằn, để quên nỗi cô độc lùi lũi trong đời.

Lúc ngẩng lên được đã năm mới mất rồi. Nghe được tiếng trống giao thừa vọng về từ trung tâm thị xã. Ở đó có một lễ hội thật tưng bừng. Ông Chín đốt 6 nén nhang, chia cho Đậm nửa, biểu:

– « Con cúng giao thừa đi. Cầu an khang, sức khỏe, cầu năm tới giàu hơn năm nay ».

Mùi nhang thơm trong gió sực lên mũi Đậm một nỗi nhớ nhà. Dù đây về đấy chưa tới một tiếng đi xe. Ở chợ, người muốn về trước giao thừa thì đã bán thốc tháo để về. Những người còn lại cũng cố dọn dẹp làm sao mùng một có mặt ở nhà, pha bình trà cúng tổ tiên.

Ông Chín đứng chỉ huy cho con trai ông bưng mươi chậu hoa còn lại lên xe hàng, quyến luyến:

– « Hồi nãy con tặng bác dưa ăn, giờ bác tặng lại cho con với cậu nhỏ hai chậu cúc đại đóa này. Năm tới, bác có xuống không biết được ngồi gần cháu như vầy không. Cha, đây về Sa Đéc chắc phải nhâm nhi dài dài cho đỡ buồn quá ».

_ Dạ, bác về mạnh giỏi, ăn Tết cho thiệt vui.

Đậm vén tóc, cười, thấy thương ông quá. Ông Chín leo lên xe còn ngoắc Quí lại nói thì thào:

– « Ê cậu nhỏ, tôi nói cậu nghe, ông bà mình có câu:

Ra đường thấy cánh hoa rơi.

Hai tay nâng lấy, cũ người mới ta

Mạnh dạn lên, cậu thương con gái người ta mà cà lơ phất phơ thấy rầu quá. Cháu Đậm, thấy vậy mà như trái dưa, xanh vỏ đỏ lòng ».

Nói rồi xe vọt đi, mấy người nữa lên xe vỗ vào thùng xe thùm thùm như gửi lại lời chào tạm biệt. Khói xe xoắn ra từng ngọn tròn tròn như con cúi. Đậm lui cui quét dọn chỗ của mình, hỏi:

_ Ông Chín nói gì vậy?

_ Đâu có gì _ Quí cười bối rối.

_ Về nghen, chạy xe chất đồ chở về. Biểu Quí đứng chờ mà không nghe, vì tôi mà ngày nay Quí bỏ mấy mối xe, uổng quá.

_ Đâu có gì còn 31 trái dưa…

_ Tôi tặng Quí chục trái ăn dài dài.

Quí cười:

_ Nhà tôi đơn chiếc, có mấy người đâu, ăn gì nhiều vậy.

Những chiếc xe vẫn nối đuôi nhau chạy về phía đại lộ. Lễ hội giao thừa vẫn chưa tan, chưa muốn tan. Người ta vẫn muốn cùng nhau đi hết Tết này. Một vài anh bạn trẻ chạy xe qua, gọi Đậm:

– Nhanh lên chế ơi, trễ rồi. Tết đâu có đợi ».

Lúc Đậm lên xe thì đã qua lâu giao thừa, Đậm ngồi đằng trước ngang với Quí. Xe ra khỏi thị xã, con đường nhỏ lại, vắng hoe. Đậm ngoái lại nơi cô từng nếm sương, nếm nắng, nghe gió. Những đóa cúc sau sàn xe rung rinh những sắc mầu rực rỡ. Quí bảo:

_ Đậm biết cúc đẹp gì không?

Đậm lắc đầu. Quí cười:

_ Lòng chung thủy. « Diệp bất ly chi, hoa bất ly đài ».

_ Ai nói với Quí vậy?

_ Bác Chín. Năm tới, tôi trồng cúc đi bán với Đậm nghen.

Đậm muốn cười, rất muốn cười mà sao nghẹn lại. Làm sao vượt qua những trở ngại trong lòng người. Hai bên đường rập rờn hoa dại. Những đống lửa rơm còn nghi ngút khói, bọn trẻ cơi lên khoe áo mới rồi mỏi mòn đi ngủ.

Quí cho xe chạy thật chậm, nghe gió thổi qua lỗ tai lạnh quánh. Lạnh như khoảng chiếu nửa đêm Quí chạm tay vào, tượng lên một nỗi nhớ rờn rờn lúc mờ lúc tỏ. Những nỗi nhớ phơ phất mái tóc một người, đôi mắt một người, dáng dấp một người. Đến tỉnh dậy vẫn còn bồng bềnh như khói.

Quí nhìn Đậm, ánh nhìn rất lạ. Anh không biết vì một nỗi gì mà tới bây giờ anh chưa nói lời thương với người ta. Anh không ngại đứa con, anh không ngại chuyện lỡ lầm xưa cũ, tuổi tác cũng không thèm nghĩ đến. Cô luống cuống khi thấy chiếc xe chạy chậm dần:

_ À… Ờ… Tết này nữa, Quí bao nhiều tuổi rồi ha?

Quí im lặng, dừng xe hẳn. Lúc này anh thấy cần nắm lấy bàn tay lạnh tái của Đậm, rất cần. Khi ấy giao thừa đã đi qua lâu, lâu lắm rồi nhưng rõ ràng vẫn chưa hết Tết. Mai là mùng một.

Giọt Lệ Đêm Giao Thừa


Van Pham

TRUYỆN NGẮN

Giọt Lệ Đêm Giao Thừa

Bảo trả tiền bác xe ôm. Cậu móc túi lấy tờ giấy ghi địa chỉ, theo cầu thang chung cư Nguyễn Kim lên lầu 1. Dân trong chung cư, người lau chùi lư hương, kẻ quét dọn nhà cửa chuẩn bị đón Tết.

Thoáng trông những khuôn mặt hân hoan chờ đón ngày thiêng liêng nhất trong năm của các ông già bà lão đến lũ trẻ em, Bảo nghĩ có lẽ tại chính quê nhà mới có hiện tượng và bầu không khí đặc biệt này. Bảo hòa mình với niềm vui nhộn chưa bao giờ xảy ra với cậu. Những cái Tết tại Mỹ, nơi cậu ở, là những ngày tẻ nhạt với thời tiết rét buốt âm 0 độ C, tuyết ngập phố phường…

Nhìn vào căn phòng tối om om, Bảo đưa tay gõ nhẹ lên cánh cửa sắt. Một cô gái ngoài hai mươi tuổi bước ra cúi đầu chào. Bảo hỏi:

– Xin lỗi, có phải đây là nhà chú Tường, lúc trước làm ở Liên Ðoàn 83 Quân Cụ không?

Cô gái nhìn Bảo một lúc. Cô hỏi:

– Có chuyện chi không anh?

– Ba tôi là người quen với chú Tường, có quà biếu chú nhân dịp Tết Nguyên Ðán.

Ngần ngừ một chút, cô gái mời khách ngồi trên tấm phản gỗ. Cô vào buồng trong. Lát sau, cô dìu một ông già ngoài sáu mươi, thân hình tiều tụy, mặt mày hốc hác, chầm chậm bước ra. Cô đỡ ông ngồi trên ghế nhựa ọp ẹp.

Bảo đứng dậy cúi đầu chào. Cậu chậm rãi nói:

– Thưa chú, ba cháu tên Nguyễn Văn X.Y., làm ở xưởng Vũ Khí Tiểu Ðoàn 230, đường Trần Quốc Toản Sài-gòn. Sau khi LÐ 83 YTQC dời về Long Bình, ba cháu thuyên chuyển đến đơn vị khác.

Mặt chú Tường lộ vẻ vui vui:

– Ờ… ờ… Sao chú quên ba cháu được. Hồi đó ba cháu là sếp của chú mà… Sau năm 1975, chú có dò hỏi bạn bè nhưng không ai biết ba cháu và gia đình ở đâu.

Chú Tường ngừng nói, ngồi thở. Cô gái vuốt ngực ông…

Bảo trả lời:

– Khi ra tù năm 1979, ba cháu và gia đình hồi hương về quê ngoại ở Vĩnh Long. Năm 1980, lúc đó cháu mới 1 tuổi, gia đình vượt biên và được định cư tại Mỹ.

Nhìn cô gái, Bảo hỏi:

– Chú bị bịnh sao vậy cô?

Cô gái cúi xuống nhìn cha, không trả lời. Nét mặt thoáng buồn.

Chú Tường chầm chậm kể:

– Cách nay hơn bảy năm, má sắp nhỏ bị tai nạn giao thông mất. Chú phải làm việc quá nhiều để nuôi bốn anh chị em tụi nó. Năm ngoái, đang chạy xe ba gác ngoài chợ Nguyễn Tri Phương, chú bị xỉu. Bạn hàng ngoài chợ xúm nhau giúp chuyển chú vào bệnh viện Bình Dân cấp cứu. Hai con trai lớn của chú đã lập gia đình và sống dưới miền Tây. Ở nhà chỉ còn con Loan đây và em trai nó thay phiên túc trực chăm sóc chú trong nhà thương. Con Loan làm ca ba tại một xí nghiệp giày da Ðài Loan ở Gò Vấp, vừa lo cơm nước cho thằng Mạnh học ôn thi vào Ðại Học Sư Phạm nên nó cũng khá cực nhọc. Sau ngày xuất viện, chú muốn đi làm cũng không đủ sức, càng ngày càng yếu, thêm gánh nặng cho hai chị em nó…

Bảo lặng lẽ nhìn quanh nhà. Loan rót nước mời khách.

Hai tay cầm phong bì, Bảo đưa chú Tường và nói quà của ba cậu biếu. Chú Tường từ chối mãi không được, sau vài lời cám ơn, chú đưa phong bì cho Loan cất. Chú Tường mời Bảo chiều mốt – chiều Ba Mươi Tết – chú cúng ông bà, Bảo ghé nhà dùng bữa cơm gia đình. Bảo nhận lời.

******

Tối 28 Tết, Bảo rời khách sạn, lân la đến các phòng trà ca nhạc để tìm sinh khí sinh hoạt đêm của Saigon, thủ đô cũ miền Nam Việt Nam. Qua báo chí hải ngoại, cậu biết tuổi trẻ Việt Nam bây giờ – nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Ðà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ và Saigon – tiêu tiền như nước.

Dĩ nhiên giữa những tầng lớp có tiền và kẻ có nhu cầu cần tiền nẩy sinh biết bao hoàn cảnh oái oăm. Tình cảm con người với con người biến dạng từ từ. Tình yêu trong sáng của thế kỷ trước – như ba Bảo thường nói – nhường chỗ cho yêu cuồng, sống thử trước hôn nhân.

Bảo có dịp đọc bài báo của một phóng viên trong nước đăng trên tuần báo ở Mỹ, viết về việc phá thai của giới nữ. Càng ngày, người đến bệnh viện càng nhỏ tuổi dần chứng tỏ nhà trường, cha mẹ và xã hội đã không quan tâm đến con cái để cho giới trẻ tự do luyến ái, tự do sống buông thả. Trong giới lao động, cha mẹ đầu tắt mặt tối kiếm sống không kịp thở để lo cái ăn, cái mặc, tiền sách vở, tiền trường cho con cái. Trong thành phần giàu có, cha mẹ chạy theo vật chất để hưởng thụ cho bõ thuở hàn vi, con cái cũng “ăn theo” sa đọa, xài tiền không tiếc…

Saigon dường như không ngủ hoặc ngủ rất ít. Chỉ nhìn dòng lưu thông cuồn cuộn theo đuôi nhau, xe gắn máy nối tiếp xe hơi, Bảo cảm tưởng như say sóng. Muốn băng qua đường – đối với Bảo – không phải là chuyện dễ dàng vì không còn quãng hở nào trên đường để cậu bước đi. Xe cộ không biết từ đâu cứ nườm nượp, nườm nượp từ nửa đêm hôm trước đến nửa đêm hôm sau trên các trục lộ chính…

Bảo tạt vào một quán trên đường Phạm Hồng Thái, quận 1. Hai người bảo vệ nhìn Bảo thoáng qua, đoạn mở cánh cửa nặng trình trịch để cậu bước vào. Bên trong, các cô tiếp viên, lờ mờ dưới ánh đèn màu, dắt Bảo đến một ghế trống cạnh sàn nhảy. Từ ngoài sáng lần mò giữa vùng âm u, phải vài phút sau cậu mới nhận định cảnh vật bên trong, dù tai cậu muốn vỡ tung với âm thanh xập xình của điệu Lambada sóng nhồi hết lượt này đến lượt khác. Thanh niên nam nữ ôm eo ếch nhau, lắc lư theo nhịp điệu dồn dập, thỉnh thoảng rú lên như bị ma ám quỉ đuổi.

Bàn bên cạnh, ba cặp lim dim khóe mắt khi phê vài hơi thuốc trắng. Những chai rượu nặng ngoại quốc đắt tiền cạn nhẵn, nằm lăn lóc bên cạnh những đĩa thức ăn nguội ngắt, có đĩa còn nguyên vẹn chưa đụng đũa. Liếc thoáng, Bảo biết chúng là con các đại gia hoặc con giới có quyền có chức, ăn chơi sa đọa, bất cần đời.

Một đứa trong bọn khoác tay, tất cả lảo đảo đứng dậy. Ðứa con gái tóc nhuộm vàng khè, móc bóp trải ra bàn năm tờ giấy xanh xanh loại một trăm đô-la. Cô hầu bàn từ góc khuất vội vàng chạy ra, gom tiền. Trước khi rời quán, chúng dúi vào tay cô hầu bàn tờ giấy mười đô.

Bảo gọi một chai Heineken. Cô chiêu đãi đem bia ra và sà xuống ngồi bên cạnh Bảo. Cô cất giọng õng ẹo:

– Anh cần mồi gì, em gọi.

Bảo cười ỡm ờ:

– Chút nữa, em. Anh chưa nóng máy mà…

– Anh cho em một chai há?

Không đợi Bảo trả lời, tự động cô vào quầy đem ra một chai và mở nắp nghe một tiếng “bộp.” Cô cụng vào chai của Bảo, cười ỏn ẻn, tu một hơi cạn tận đáy. Tự nhiên Bảo chợt nghĩ đến Loan, đến xóm chung cư nghèo hôm nay cậu ghé thăm. Hình ảnh người con gái gầy gò, ăn uống thiếu thốn, lo chăm sóc cha già đau yếu, người em học thi vào đại học, bất giác anh thở dài. Hai cảnh đời xã hội: một ăn chơi phè phỡn, vung tiền như nước – một còng lưng vất vả suốt ngày vẫn không đủ sống. Bất công nơi nào cũng có nhưng trước mắt Bảo, ngay tại quê hương mình, giai cấp giàu nghèo chênh lệch quá xa…

Bảo kêu cô gái tính tiền. Cô gái ngạc nhiên nhìn ông khách khác thường này, lẩm bẩm:

– Lại thêm một thằng khùng. Cứ tưởng vớ được khách bở mời đi “vui vẻ”, ai dè…

Sau khi lấy tiền hai chai bia, cô gái xòe tay xin “bo.” Bảo dúi vào tay cô tờ giấy bạc hai mươi ngàn Việt Nam và lặng lẽ rút lui. Trong tiếng nhạc đinh tai, Bảo nghe cô gái vói theo:

– Ðúng là “Hai Lúa” mới lên thành phố.

*******

Hai Mươi Chín Tết, Bảo thuê xe ôm lên đường Thích Quảng Ðức gần ngã ba Nguyễn Kiệm Phú Nhuận, trao tiền cho một viện mồ côi mà ba cậu cùng bạn bè ông quyên tặng. Viện do một Việt kiều ở Cali bảo trợ, gồm ba dãy nhà tạo hình chữ U, một trệt một lầu. Bảo vào viện, gặp người đại diện, ông Dương, là người bà con bên ngoại Bảo, trông nom khoảng 20 trẻ mồ côi. Ngoài bảy mươi nhưng ông Dương còn rất khỏe. Sau khi đọc thơ và nhận tiền của ba Bảo, ông dẫn Bảo thăm các nơi.

Ông nói:

– Hầu hết các cháu này, dượng xin ở bệnh viện Từ Dũ. Từ Dũ cũng có viện mồ côi gọi là Làng Hòa Bình. Làng dành cho các cháu tàn tật từ lúc chào đời, đứa mất tay, đứa sứt môi, đứa không thấy đường… Mấy cháu vô phước đó cần ở trong bệnh viện để tiện chăm sóc hàng ngày. Ở đó không đủ chỗ nuôi dưỡng nên dượng đón các cháu khỏe mạnh về đây như san sẻ phần nào sự mất mát tình thương của trẻ thơ vô tội. Khoảng sáu, bảy tuổi, ban tổ chức sẽ chuyển các cháu đến viện khác đủ tiện nghi và phương tiện hơn để các cháu học văn hóa tại nhà trường.

Theo dượng biết, các cô gái trẻ người non dạ, sau khi sanh, bỏ con chạy lấy người, trốn tránh trách nhiệm và tội lỗi. Cũng may, mẹ các cháu bé ít có đứa bị vướng bệnh Sida, nếu không may bị bệnh chết người này, tội nghiệp cho một kiếp sanh linh nhỏ bé. Cũng có một số bà mẹ quá nghèo, đông con nhưng lỡ có bầu, khi sanh xong cũng bỏ con lại…

Ði ngang nhà bếp, đến một sân rộng, Bảo thấy hai cô gái đang giặt giũ quần áo cho các cháu. Ông Dương dừng lại giới thiệu hai cô tình nguyện mỗi ngày vài giờ, giúp viện điều hành một cách suôn sẻ. Bảo trố mắt nhìn cô gái đứng e thẹn, hai tay đầy xà-bong xoa xoa vào nhau:

– Loan…

Ông Dương hỏi:

– Ủa, cháu quen Loan à?

– Dà… Ba cháu với ba Loan cùng chung đơn vị trước năm 75. Hôm qua ghé thăm gia đình Loan nên cháu mới biết Loan.

Bảo chào hai cô gái, tiếp tục lên lầu. Ông Dương cho biết Loan làm ca đêm, sáng nào cũng ghé viện giặt giũ quần áo, mền mùng cho các trẻ, sau đó mới về nhà. Hôm nay là ngày cuối năm, Loan cố gắng giặt xong tất cả quần áo dơ và chăn màn của các cháu. Biết Loan có lòng nhân ái, thương xót trẻ em mồ côi mà không nghĩ đến sức khỏe của mình, Bảo thấy lòng se lại. Bảo không thể so sánh tấm lòng bác ái của Loan với các cô gái ích kỷ khác. So sánh như vậy vô tình hạ thấp phẩm giá cao thượng của một người biết hy sinh thời gian, sức khỏe cho xã hội, mặc dù sự hy sinh chưa phải là vĩ đại.

Tuy nhiên, tấm lòng này không ít thì nhiều cũng gây cho Bảo một ấn tượng sâu đậm mà càng nghĩ, Bảo càng thấy tôn trọng người con gái mới biết mặt.

Trong một căn phòng lớn, hai người đàn bà đứng tuổi đang chăm sóc các cháu mồ côi. Tiếng cười, tiếng khóc trẻ em vang từng chặp.

Ðến dãy nôi giữa phòng, những đôi mắt tròn xoe ngây thơ nhìn ông Dương và Bảo. Một cháu buột miệng “Ba… ba…” khi Bảo cúi xuống ẵm cháu. Bảo lấy tay vỗ nhè nhẹ vào chiếc lưng nhỏ xíu, tự dưng niềm đau xót tràn ngập tâm hồn. Ông Dương nói với Bảo:

– Có nhiều khách đến viếng, họ thường xưng là ba má hoặc ông bà khi nựng nịu các cháu. Có lẽ cách xưng hô này ăn sâu vào tâm hồn thiếu thốn, thèm khát tình thương của những trẻ bất hạnh theo thời gian. Vì vậy, cháu đây gọi cháu là ba cũng không lấy gì làm lạ.

Bảo siết chặt cháu bé, tự nhủ không biết phải làm gì để bù đắp tình thương mất mát của những trẻ không may này. Những tâm hồn thơ dại, những tấm thân bé nhỏ rất cần sự che chở, bảo bọc của ông bà cha mẹ như bóng cây che mát cuộc sống non nớt mới hiện diện trên thế gian. Vậy mà cha mẹ chúng lại nhẫn tâm thả trôi các thân xác sơ sinh cho dòng đời đầy bụi bặm…

Trên đường về khách sạn, Bảo ghé chợ Phú Nhuận mua những thứ cậu cần phải mua.

******

Trời càng về chiều, dường như mọi người càng thêm hấp tấp. Xe hơi, xe gắn máy, người đi bộ, người dân sinh hoạt nhanh nhẹn hơn, vội vàng hơn. Ai cũng muốn trở về nhà sớm để bày biện thêm nhánh mai mua rẻ, cặp dưa hấu bán hạ giá hoặc những chậu bông nở tòe loe. Ai cũng nấu nướng, dù nhà nghèo, vài món ăn đơn giản cúng ông bà và đón giao thừa, khi con cháu từ xa về, sum họp bên gia đình đón Xuân. Không khí này khiến Bảo liên tưởng đến những người không nhà, sống đầu đường xó chợ, những trẻ em bị bỏ rơi không nơi nương tựa, những ông già bà lão bệnh tật không có con cháu phụng dưỡng.

Bảo xóa bỏ bi quan khi đến nhà chú Tường. Ít ra trong lúc này, Bảo cũng có một nơi để chia sẻ bầu không khí thiêng liêng khi xa gia đình. Thực tế tại Mỹ, Tết Nguyên Ðán chỉ nhộn nhịp và ra vẻ ngày Tết ở những nơi có đông người Việt như Cali, Texas, Atlanta Georgia hoặc khu Eden, miền Ðông Hoa Kỳ…

Chú Tường hôm nay trông khỏe hơn. Khi Bảo đến nhà, mâm cơm trên bàn thờ đã cúng xong, Loan và em trai chuyển xuống bàn ăn. Mùi nhang thoang thoảng trong căn phòng được dọn dẹp tươm tất.

Bảo trao cho Loan cây mai đầy búp để cắm vào bình hoa bên cạnh bàn thờ. Cậu mở hộp giấy, trịnh trọng tặng chú Tường bộ âu phục mua trong tiệm An Phú tại ngã sáu Saigon, tặng Mạnh chiếc cà vạt màu rượu chát, tặng Loan mấy xấp vải may áo dài và chiếc điện thoại di động đời mới nhất.

Bảo nói:

– Loan à. Ði làm ca ba, Loan rất cần điện thoại này để phòng thân.

Việc chi phí sử dụng, anh đã trả tiền cho dịch vụ trọn một năm rồi.

Quay qua chú Tường, cậu cười:

– Ở Mỹ ba con sẽ dễ dàng liên lạc với chú. Chú và các em đừng gọi qua Mỹ vì mắc tiền lắm, cứ để ba con gọi về. Thỉnh thoảng chú cho phép con hỏi thăm chú và các em.

Bảo trải lòng mình, mong mỏi giúp gia đình bạn của ba Bảo những phút giây vui vẻ và thoải mái trong ngày cận Tết, dù các món quà không nói lên được hết chân tình của Bảo với những người mới biết mặt. Chú Tường thay mặt gia đình cám ơn Bảo. Chú nói Bảo và hai con ngồi vào bàn. Ðã lâu Bảo mới thấy tô canh măng hầm giò heo, khổ qua nhồi thịt băm với nấm mèo và đĩa giò thủ cắt chéo cạnh. Bảo lấy chai rượu chát từ trong bọc to đặt góc nhà mà cậu khệ nệ vác khi tới lúc nãy. Mạnh vào bếp lấy ba cái ly “xây chừng”, loại ly uống cà phê ngoài các tiệm ăn Tàu.

Bảo cười:

– Em lấy thêm một ly nữa cho chị Loan. Thời buổi bây giờ nam nữ bình đẳng mà em.

Loan xua tay từ chối. Mạnh nhìn ba. Chú Tường gật đầu.

Bảo mở chai rượu rót ra bốn ly. Cậu vừa nói vừa chỉ cái bọc to:

– Thưa chú, cháu rất cảm động được hưởng một cái Tết ấm cúng tại quê nhà với gia đình chú. Sáng nay cháu có ghé viện mồ côi, cháu cũng đã mua hai mươi bộ quần áo trẻ con để tặng các em trong đó. Sáng mai mồng một, xin chú, Loan và Mạnh đến thăm viện và trao quà cho các trẻ. Quà này là của gia đình chú tặng cho viện.

Chú Tường từ chối:

– Ðâu có được, cháu.

– Dà, cháu đã đại diện ba cháu và bạn bè bên Mỹ có tặng quà cho viện rồi. Phần này của chú và hai em. Sáng mai gia đình chú và cháu sẽ đi taxi đến đó. Có hai em và cháu, chú yên tâm xuất hành đầu Xuân…

Tiếng chuông reo. Bảo móc túi lấy máy di động ra nghe. Ðầu bên kia văng vẳng giọng nói đàn ông. Nghe nửa chừng, mặt Bảo bừng bừng dù chưa hớp ngụm rượu nào. Bảo trả lời đứt quãng:

– Dạ chưa lập gia đình… Dạ đang ngồi trước mặt con… Dạ tùy ba và chú Tường quyết định… Con… Con…

Bảo đưa điện thoại cho chú Tường:

– Thưa chú, ba cháu muốn nói chuyện với chú…

Chú Tường vui vẻ chào hỏi người quen thân cũ. Sau khi nghe câu chuyện, chú Tường nói:

– Cám ơn ông thầy nghĩ tới đàn em và có nhã ý với cháu Loan. Chuyện đó… chắc tùy cháu Bảo và Loan quyết định…

Bảo đưa mắt nhìn Loan. Loan cúi gằm, im lặng. Loan thừa thông minh biết hai ông già đang đề cập đến chuyện gì. Cả nhà vui vẻ bên mâm cơm cuối năm.

Bảo nói với chú Tường:

– “Con” mong một ngày rất gần, Loan không còn chịu cực nhọc nữa. Tuy con mới về Việt Nam lần đầu nhưng con cũng nhận định được toàn cảnh xã hội ngày nay. Cái quý nhất của con người là lòng bác ái, tính chân thật và biết an phận. Tâm hồn cao thượng, sự giúp đỡ xã hội của Loan ở viện mồ côi khiến con rất cảm kích. Con rất vui mừng được ngồi ăn uống đêm nay với chú và hai em. Mấy bạn về Việt Nam chung với con, giờ này chắc đã chui vào các quán bia ôm hoặc vũ trường rồi…

Nghe Bảo xưng “con” với ba mình, Loan len lén nhìn Bảo nhưng cô vội quay mặt đi để che giấu hai giọt lệ lăn dài trên đôi gò má xanh xao. Chính Loan cũng không hiểu tại sao mình lại khóc. Giọt lệ bắt nguồn từ niềm buồn tủi cho thân phận nghèo nàn hay vui mừng vì một căn nguyên nào khác, cô bối rối không kịp phân tách được tâm trạng mình.

May be an image of 1 person and indoor

Chuyện hết sức ngắn, nên đọc và suy gẫm.

Chuyện hết sức ngắn, nên đọc và suy gẫm.
May be a cartoon of 1 person

 Vào buổi tối, trong một nhà hàng ăn nhanh nhỏ, có ba thực khách: một ông già, một chàng trai trẻ và tôi.

Có lẽ vì không có nhiều thực khách, ánh sáng trong nhà hàng không được bật hoàn toàn, nên trông hơi mờ. Tôi ngồi một góc cạnh cửa sổ và ăn tối một mình. Chàng trai cầm bát mì xào và ngồi gần cửa, ngay cạnh ông già.

Tôi thấy rằng ánh mắt của chàng trai trẻ này thỉnh thoảng lại nhìn về chiếc điện thoại di động đang để trên bàn của ông lão.

Sự thật đã chứng minh phán đoán của tôi là đúng. Tôi thấy khi ông lão quay sang châm điếm thuốc một lần nữa, anh chàng này nhanh tay lấy đi chiếc điện thoại di động, nhét nó vào túi áo khoác, sau đó anh ta cố gắng rời khỏi nhà hàng.

Ông lão đã sớm phát hiện rằng điện thoại của mình bị mất tích, ông lập tức bình tĩnh và nhìn xung quanh.

Lúc này, chàng trai kia tay vừa chạm vào nắm cửa ra vào của nhà hàng, ông lão dường như hiểu được điều gì đó, ông lập tức đứng dậy và đi về phía chàng trai trẻ đang đứng ở cửa.

Tôi lo lắng cho ông lão, tôi nghĩ ông lão sẽ rất khó khăn để đối phó với một thanh niên khỏe mạnh như vậy.

Thật bất ngờ ông nói: “Con trai xin hãy đợi đã.” Chàng trai này dật mình nói: “Có chuyện gì đấy!”

“Đó là, hôm qua là sinh nhật 70 tuổi của tôi, con gái tôi đã cho tôi một chiếc điện thoại di động, mặc dù tôi không thích nó, nhưng đó là lòng hiếu thảo của con bé. Tôi vừa để nó trên bàn giờ nó đã biến mất, tôi nghĩ rằng nó đã vô tình bị va vào và rơi xuống đất.”

Tôi lại có vấn đề về xương khớp ở lưng, hơn nữa mắt lại kém, tôi rất khó khăn để tìm kiếm chiếc điện thoại. Chàng trai trẻ, anh có thể giúp tôi tìm nó được không? Chàng trai này nghe vậy thì lo lắng liền biến mất. Anh ta lau mồ hôi trên trán và nói với ông lão: “Ồ đừng lo lắng, cháu sẽ giúp ông tìm nó.”

Chàng trai cúi xuống, xoay quanh bàn của ông lão tìm kiếm, chỉ một lát sau, anh ta đưa chiếc điện thoại cho ông lão và nói, cái này có đúng của ông không? Ông lão nắm chặt tay chàng trai và vui mừng nói: “Cảm ơn anh! Cảm ơn anh! Anh thật tốt, anh có thể đi!” Chàng trai trẻ nghe thấy vậy bàn tay liền run run, anh ta quay mặt đi và nhanh chóng rời khỏi cửa hàng.

Tôi sững sờ trước cảnh tượng trước mặt. Sau khi chàng trai trẻ ra khỏi nhà hàng, tôi lại gần ông lão và hỏi: Ông lão, ông đã xác định được rằng điện thoại của ông đã bị đánh cắp nhưng tại sao ông không báo cảnh sát?”

Câu trả lời của ông lão khiến tôi nhớ rất lâu, ông nói: Nếu tôi báo cảnh sát, tôi sẽ mất đi một thứ có giá trị gấp hàng nghìn lần so với điện thoại di động, đó là sự khoan dung.

Trong cuộc sống, khi xử những việc khó xử càng nên khoan dung; xử người khó xử, càng nên trung hậu…Khoan dung thể hiện sự tu dưỡng đạo đức và lối sống đẹp của con người, khoan dung không có nghĩa là bản thân yếu đuối, mà là sự độ lượng cần có trong cuộc sống.

Khi con người có thể bao dung, yêu thương nhau và thôi nhìn vào những khuyết điểm, sai lầm của người khác, lúc ấy cuộc sống này, thế giới này sẽ đẹp tuyệt vời…

-st-

Kiếp người

Kiếp người

Tôi đang ngồi xem tin tức thế giới trên màn hình chiếc máy tính Bảng hiệu Apple, cái máy ấy tuy là thứ vô tri vô giác, thế nhưng bây giờ lại chính là bạn, là con, là cháu của tôi trong những tháng ngày còn lại, của cuộc đời trong cái Viện dưỡng lão Club Health care này đây, tôi sống trong một phòng riêng vì là còn tự chăm sóc bản thân được, không như những người khác lú lẫn, mất tự chủ thì phải sống chung phòng lớn 2-3 người, để còn tiện hổ trợ nhau trong việc bấm chuông gọi điều dưỡng khi cần giúp.
Bổng chuông điện thoại reo vang :
– Hello.
Đầu dây bên kia giọng cô con gái thứ của tôi lên tiếng :
– Con chào Ba, Ba có khoẻ không ?
– Ba khoẻ, ăn uống ngon miệng, ngũ tốt, nói chung là Ba khoẻ tụi con đừng lo lắn , ở đây Ba sống thấy rất thoải mái.
– Ba ơi ! Ba còn nhớ câu chuyện về đứa bé lai Mỹ đen, mà khi xưa Ba kể Ba tính nhận nuôi, khi người Mẹ muốn bỏ ở Quân Y Viện Nha Trang , nhưng Mẹ không chịu vì thằng bé là lại Mỹ đen, nên Mẹ sợ người đời dị nghị đó không Ba .
– Ừ Ba nhớ, nhưng sau hả con ?
– Hôm nay, con có khám mắt cho một người, khi đọc hồ sơ thì con khá ngạc nhiên là anh ta có ngày tháng năm sinh trùng với con và cả nơi sinh luôn. Cho đến khi gặp anh, thì Ba biết không anh ấy là người Việt lai Mỹ đen luôn, thật quá trùng hợp phải không Ba.
– Trời, không lẽ quả đất tròn đến vậy sao?
– Trong khi thăm khám mắt, chúng con có hỏi chuyện nhau, thì anh ấy cũng rất ngạc nhiên và muốn được gặp Ba, nên con gọi điện để hỏi ý Ba đây.
– Ồ tốt thôi, con cứ nói anh ấy có thể đến gặp Ba bất cứ lúc nào nha.
– Dạ, để con thông báo lại cho anh ấy.
– Nè con, thằng Kevin và con Tina tụi nó vẫn chơi đùa khoẻ chứ?
– Dạ , hai cháu khoẻ và quậy phá lắm Ba à, để con sắp xếp cuối tuần nào đó sẽ chở hai cháu vào thăm Ba nghen.
– Ừ, vậy đi, chớ Ba nhớ tụi nó lắm rồi.
– Vậy thôi con tiếp tục làm việc đây, Ba nhớ giữ gìn sức khoẻ đó nghen, con chào tạm biệt Ba.
– Ừ.
Tiếng đặt máy đánh “cộc“ khô khan từ phía bên kia vọng lại , như tiếng gõ của vị quan toà khi kết án một người, nó gọi bằng điện thoại bàn của Bệnh Viện Mắt đó mà. 

Tôi năm nay mới 67 vừa mới đúng tuổi về hưu năm ngoái, vợ của tôi đã mất cách đây 5 năm Năm ngoái sau khi về hưu, đêm đó bị tôi bị tai biến mạch máu não, nên đưa vào Bệnh Viện nằm điều trị , sau một thời gian tôi phục hồi hẳn, chỉ bị liệt nhẹ một bên cơ mặt , nhưng không hiểu sao .. sau đó tôi lại được chuyển thẳng vào cái Viện dưỡng lão này , chứ không được về nhà … thật là tủi thân! Sau đó tôi có hỏi nhân viên Văn phòng tại đây để biết lý do, thì mọi sự mới vớ lẽ… đến bẽ bàng cho đời tôi.

Số là tất cả mọi người già được người thân gởi vào đây, chủ yếu là do nguyên nhân lú lẫn, hay quên hoặc mất tự chủ trong vấn đề vệ sinh cá nhân. Họ vào đây từ nhà của họ và sau khi họ đã trò chuyện với con cái, rồi thống nhất đi đến quyết định.. vậy họ đỡ tủi hơn tôi rồi, vì họ được một phần quyền quyết định.

Riêng tôi, khi ở Bệnh Viện chuẩn bị xuất viện, thì con cái tôi đã nói chuyện với Bác Sĩ và than phiền rằng tôi hay lú lẫn, quên trước quên sau .. ôi trời ! tụi nó còn trẻ mà đôi khi còn quên tắt bếp nấu , quên nồi nước đang sôi, chứ huống hồ tôi .. luật ở Mỹ nó thế, Đất mước văn minh mà, nghe vậy là hợp lệ rồi , đây là người cần sự chăm sóc và theo dõi thường xuyên, vậy thì các cơ sở Viện dưỡng lão mới mọc như nấm , ăn nên làm ra được chớ và rồi con được tiếng là Đất nước có chế độ chăm sóc người già tốt nhất nhì thế giới nửa chứ .. ôi ! cái sự đời đầy nghịch cảnh chát .. chua .
Tôi có đến ba đứa con, 2 trai, 1 gái… con trai đầu là kỹ sư đang làm việc cho NASA , đưa con gái thứ hai là Bác Sĩ Mắt và thằng con trai út CEO của tập đoàn Dầu khí ESSO MOBIL và hai cháu ngoại , bốn cháu nội tất cả còn nhỏ , đứa lớn nhất chỉ 7 tuổi … một gia thế khủng , được chăm lo nuôi nấng ăn học từ đôi tay của người Ba già nua này , nhưng già mà sức khoẻ tôi còn rất tốt , đi đứng nhanh nhạy , đầu óc minh mẫm … thế mà thật cay nghiệt .
Ba ngày sau , tôi được thông báo có người muốn gặp , đã biết trước nên tôi đồng ý .
Bước ra , tôi trông thấy một người đàn ông trung niên , ừ tuổi bằng con gái tôi là 39 đúng rồi , anh ta là Mỹ lai đen , thân hình khá phốp pháp , cao to như di truyền của Cha anh ta vậy .
Gặp tôi anh đứng dậy bắt tay :
– Con chào Bác , rất mừng vì Bác đã cho phép con được gặp mặt .
– Chào Cậu , Cậu có muốn uống cafe , hút thuốc để nói chuyện được lâu và thoải mái không ?
– Ôi quí quá , mới gặp Bác lần đầu mà con đã cảm thấy nhẹ nhõm , thoải mái với sự ân cần của Bác rồi đấy . Dạ như vậy cũng được ạ .
– Vậy để tôi thông báo với người chịu trách nhiệm ở đây , về yêu cầu của mình nha .
Tôi đi vào trong nói chuyện với nhân viên, để họ cho phép khách của tôi bào phòng riêng và sau đó ra vườn đi dạo .
Tôi dẫn chàng trai đi vào phòng mình , để pha cafe xong :
– Bác cháu mình đem cafe ra ngoài sân vườn uống và nói chuyện nha .
– Dạ .
Chúng tôi song bước ra ngoài vườn , đi trong im lặng như để cho đối phương đủ thời gian để cảm nhận về nhau và suy nghĩ về những gì cần nói .. ra đến nơi có bàn ghế đá và bóng râm , gió mát , chủng toii ngồi xuống , đốt điếu thuốc tôi hỏi :
– Sao ? bây giờ tôi có thể giúp anh điều gì nào ?
– Bác có thể kể cho cháu nghe về tất cả những gì Bác biết không ạ .
Nhìn về xa xăm , như một cuộc phim quay chậm đang được tua lại cách đây 39 năm …
– Sáng hôm ấy vào thăm vợ của tôi đang nằm ở Bệnh Viện Quân Y Nha Trang , nghe vợ kể đêm qua có một người phụ nữ vừa sanh một bé trai lai Mỹ đen , đang muốn cho .. tôi đi qua nhìn thấy một đứa bé da ngâm đen nhưng thật dễ thương , trông nó còn đẹp hơn cả đứa con gái mà vợ tôi mới sinh, trán có ba nếp nhăn giống tôi , trán vồ , mũi gãy .. tôi nói với vợ hay xin nó về nuôi luôn một thể, có gì thuê người trông nom phụ, nhưng vợ tôi không chịu vì sợ người ngoài đàm tiếu sanh đôi mà một đứa đen, một đứa trắng , vậy là đi lang chạ sao? thế nên chịu .. Mẹ cậu là một người đàn bà cao đẹp , nghe nói có chồng thường xuyên đi công tác xa , có lẽ bà có cuộc sống phóng túng nên khi sanh, phải từ Đà Nẳng vào tận Nha Trang để sanh , nếu là đứa con thuần Việt thì bế về nuôi , còn không thì … chứ làm sao ăn nói với chồng đây , lúc đó thời chiến nên những đứa trẻ như cậu sẽ được đưa vào Trại cô nhi viện chăm nuôi , nếu có ai nhận làm con nuôi thì cho … Tôi chỉ biết có vậy thôi, không biết còn giúp gì được cho cậu nữa không ?
– Thưa Bác, suốt thời gian qua cháu chỉ thắt mắc về lý do tại sao Mẹ lại bỏ cháu mà thôi. Bây giờ qua chuyện Bác kể cháu đã biết lý do rồi… cháu cũng vì thắc mắc lý do đó, mà đem lòng thù hận đàn bà và chấp nhận sống độc thân cho tới tận bây giờ.
Bổng bất ngờ không kiềm chế được, tôi bật cười vang … ha … ha … ha … tiếng cười chất chứa một sự chua chát, khinh thường cái sự đời, như luôn chớ trêu phận người.
– Có gì mà Bác cười nghe cảm giác chua chát đến vậy ạ.
– Tôi cười vì chợt nhận ra anh suy nghĩ ấu trĩ và tôi thì ngu muội đến phũ phàng .. anh thử nghĩ mà xem, sau giải phóng tôi vượt biên sang Mỹ , một thân một mình đi cày bán mạng để dành dụm tiền bạc gởi về phụ vợ nuôi con và lo mua nhà để bảo lãnh vợ con sang đoàn tụ .. bảo lãnh vợ con sang, thì phải cày bán mạng hơn nửa để lo cho con ăn học … nay ba đứa con đã lo cho yên bề gia thất, học vị kỹ sư, Bác Sĩ, Tổng gián đốc … nhưng rồi sao? tụi nó thông đồng quyết định tống khứ Ba của tụi nó vô đây, mặc dù tôi tỉnh táo không lú lẫn, khoẻ mạnh nhanh nhẹn không mất tự chủ trong sinh hoạt cá nhân, mặc kệ người Ba đã tận tuỵ dầy công , hy sinh nuôi chúng khôn lớn thành đạt như hôm nay .. nhưng cũng lỗi ở tôi , vì đi làm nhiều quá không có thời gian để dạy bảo chúng thành người trước .. thay vì thành danh .
Thế nên , anh hãy quẳng cái suy nghĩ hận thù đàn bà ấy đi , cho tâm trí nó nhẹ nhàng và vui vẽ sống những năm tháng còn lại của cuộc đời , đừng quá đau đầu về nó mà uổng phí tuổi trẻ , nghe không ?
Tôi mà biết trước cái sự đời như thế vậy, tôi đã mặc kệ vợ con ở Việt Nam , mà ăn chơi bay nhảy cho khỏi uổng phí tuổi trẻ của tôi rồi.
Tiếng cười chua chát lại vang lên nghe thắt ruột , nhưng lần này là kèm theo hai dòng lệ tuôn rơi đầy đau xót.
Anh cám ơn và từ giã Bác ấy ra về, anh thầm cảm ơn buổi nói chuyện nay , chẳng những giúp anh biết rõ lý do vì sao Mẹ bỏ mình, mà còn chứng kiến và hiểu hơn về mãng đời còn tăm tối hơn cả mình, thế mà chính người đang mang mãng đời đầy cay nghiệt đó , vẫn cố tiếp sức cho anh đi tiếp quãng đời còn lại bằng chính câu chuyện của đời mình . Nhưng Bác ấy đâu biết rằng, anh đã không kể hết về đời mình… rằng anh đi ghép với một GĐ cũng có ba con nhỏ , khi qua Mỹ anh xem họ như GĐ mình, vì là anh lớn .. anh không đi học mà đi làm luôn để phụ giúp GĐ nuôi các em, cho đến khi các em học xong Bác Sĩ, kỹ sư và sắp chuẩn bị kết hôn, thì Cha Mẹ bảo anh ra riêng sống .. chỉ vì sợ mang tiếng với thông gia … thế là anh đành xách valy ra đi, với vốn tiếng Anh ít ỏi lụm lặt từ cuộc sống khi đã gần 40.
Bỗng anh chợt bật cười khanh khách một mình… mắt cay nồng, tim đau nhói… cho kiếp người của Bác ấy và cho cả anh.

From: Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh gởi

Người mẹ vẽ vết bớt lớn lên mặt để giống với con trai của mình

 

Enzo Cestari có mẹ là chị Carolina Giraldelli (26 tuổi) sống tại Cáceres, Brazil. Cậu bé sinh ra vào tháng 5/2017 theo phương pháp sinh mổ sau khi bác sĩ phát hiện ra Enzo đang bị dây rốn quấn cổ 2 vòng. Nhưng đó vẫn chưa phải là điều khiến chị Carolina bất ngờ và lo sợ nhất. Ngay khi bác sĩ đưa con cho chị xem mặt, chị đã giật mình khi thấy diện mạo của con.

Một vết bớt màu xám đen chiếm diện tích khá lớn trên gương mặt của Enzo, che phủ gần hết trán và kéo xuống một bên mũi. Nó khiến Carolina “giật mình và thấy sợ”.

Sau đó, khi Enzo được 5 ngày tuổi, cậu bé phải trải qua cuộc phẫu thuật để kiểm tra vết bớt. Cuối cùng, bác sĩ kết luận Enzo mắc phải bớt sắc tố bẩm sinh lành tính.

Thở phào nhẹ nhõm vì sức khỏe con vẫn bình thường. Chị nói: “Kết quả đến và chúng tôi biết rằng đó chỉ là một vết bớt, không gì khác hơn với một vết sơn trên mặt con”. Cũng từ đây, chị nảy ra một ý định đặc biệt: vẽ lên mặt vết bớt giống con. Tháng trước, chị đã nhờ một người bạn tên Elaine Ricci vẽ lên mặt mình và chị đã để gương mặt ấy đến công ty làm việc.

Lý do của chị là muốn có thể hiểu rõ hơn những định kiến mà con đang phải đối mặt. Chị nói: “Tôi thừa nhận rằng đôi khi thật buồn khi thấy và cảm nhận những ánh mắt dò xét về diện mạo của con trai tôi, vẻ đáng tiếc, khinh miệt, sợ hãi và đôi khi là ghê tởm. Vợ chồng tôi vẫn cư xử bình thường với con và giúp con cảm nhận điều đó”.

Nhìn thấy lớp trang điểm trên mặt mẹ, Enzo đã rất bất ngờ. “Khi tôi về nhà từ nơi trang điểm, phản ứng của Enzo là vui sướng vô cùng, dù cho con không thực sự hiểu. Tôi chắc chắn rằng con yêu việc tôi làm. Chúng tôi đã chụp rất nhiều bức ảnh và ngày hôm đó thật tuyệt vời. Sau khi chụp ảnh xong, tôi đã để lớp trang điểm đó đi làm. Vài người nhìn tôi với ánh mắt khác lạ nhưng tôi vẫn bình tĩnh vì tôi là một người mẹ đầy niềm tự hào nhất trên thế giới. Tôi đã để lớp trang điểm trên mặt cho đến khi đi ngủ vào ngày hôm đó nhưng tôi cảm nhận được rằng nó sẽ ở bên tôi từ thời điểm đó”, chị Carolina kết luận.

Việc làm của chị Carolina đã nhận được sự khen ngợi, ủng hộ từ nhiều người mẹ khác. Tất cả mọi người đều cảm nhận rằng việc làm đó thực sự vô cùng có ý nghĩa với Enzo bé nhỏ, sẽ giúp bé tự tin hơn trong cuộc sống.

S.T.

Image may contain: 1 person, text that says 'NGƯỜI MẸ VE VẾT BỚT LỚN LÊN MẶT ĐỂ GIỐNG VỚI CON TRAI CỦA MÌNH'

BÍ MẬT CHIẾC ĐỒNG HỒ KHÁCH ĐỂ QUÊN

 

BÍ MẬT CHIẾC ĐỒNG HỒ KHÁCH ĐỂ QUÊN

Trong một con phố ở thành phố Hoschton, có một tiệm giặt là “Diana”. Bà chủ của tiệm giặt là là bà Henry đã 72 tuổi. Chồng bà, ông Henry mới qua đời chưa được bao lâu, bỏ lại mình bà cô đơn trong căn nhà trống vắng.

Việc kinh doanh đã dừng lại từ lâu song bên ngoài, tấm biển hiệu “Diana” vẫn được treo như trước. Tiệm giặt là nằm ở vị trí trung tâm, rất thuận lợi cho việc làm ăn nhưng bà Henry nhất quyết không bán hay cho thuê lại.

Sau một trận bệnh nặng, biết mình không còn sống được bao lâu nữa nên cuối cùng, bà cũng nhờ công ty đấu giá đăng quảng cáo bán đấu giá ngôi nhà của mình.

Chỉ có điều khó hiểu là: Gắn liền với nhà đất để bán đấu giá còn có một chiếc đồng hồ quả quýt rất bình thường, không chỉ vậy, bà cụ ra giá khởi điểm cho chiếc đồng hồ này còn cao hơn nhiều so với giá nhà đất. Trên thông tin quảng cáo còn ghi rõ: Ai biết về lai lịch của chiếc đồng hồ sẽ tặng không nhà đất cho người đó.

Thông tin quảng cáo này quá hấp dẫn nên đã thu hút rất nhiều người muốn tìm kiếm vận may.

Hội trường nơi diễn ra buổi tổng duyệt cho buổi bán đấu giá chật kín người, điện thoại reo không ngớt nhưng không một ai có thể nói đúng lai lịch của chiếc đồng hồ.

Robert bí ẩn

Bà Henry đợi bên cạnh điện thoại, thần sắc đăm chiêu, trầm ngâm. Bà rất mong trước khi mình qua đời có thể hoàn thành được tâm nguyện cuối cùng của mình. Thì ra, chiếc điện thoại đó có ý nghĩa rất lớn đối với bà. Hơn 50 năm trước, bà Henry và ông Henry kết hôn không lâu, họ đã dùng tên mình là “Diana” để mở một tiệm giặt là. Công việc kinh doanh diễn ra rất thuận lợi. Vào một buổi chiều tối, khi bà định đóng cửa tiệm thì một thanh niên bước vào. Vài ngày trước, bà đã chào hỏi người này ngay cửa tiệm.

Hôm đó, người thanh niên ấy đi qua cửa tiệm, nhìn thấy bà, anh ta tỏ ra vô cùng kinh ngạc, dường như có điều gì đó thầm kín. Hôm đó trời có mưa nhỏ, bà Henry đã chủ động mời anh ta vào trong tiệm tránh mưa và mới biết anh ta tên Robert, là một thanh niên thất nghiệp.

Nhìn dáng vẻ nghèo khổ của đối phương, trước khi đi, bà Henry đã cho anh ta 10 đồng và còn đưa cho anh ta một chiếc ô.

Hôm đó Robert đã đến để trả ô và còn để lại một bộ đồ, nhờ bà Henry giặt và nói 3 ngày sau sẽ đến lấy.

Sau khi Robert đi, theo thói quen thông thường, bà kiểm tra xem khách có vô ý để quên đồ gì trong túi hay không.

Đột nhiên, tay bà chạm phải một vật bằng kim loại, lấy ra xem, đó là một chiếc đồng hồ quả quýt. Tiếp tục kiểm tra, bà phát hiện thêm trong túi còn có một bức thư. Tò mò, bà mở chiếc đồng hồ ra xem và lặng người, kinh ngạc: Trên vỏ ngoài của chiếc đồng hồ có kẹp một tấm ảnh thiếu nữ rất xinh đẹp, cô gái đang cười tươi như hoa ấy chính là bà hồi trẻ.

Bà kêu lên thất thanh: “Smith!” và sau đó, nước mắt cứ thế tuôn trào.

Chiếc đồng hồ bí ẩn

Smith là mối tình đầu của bà Henry. Năm 1950, bà và ông Smith đã đính hôn, chiếc đồng hồ kia chính là vật đính ước giữa hai người.

Không lâu sau đó, chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Smith là một thượng úy của quân đội Hoàng gia Anh nên phải sang Triều Tiên tham chiến.

Mặc dù không ngày nào bà không cầu nguyện cho Smith nhưng thông tin bất hạnh vẫn được chuyển về quê nhà, Smith đã qua đời trên chiến trường.

Dẫu vậy, bà vẫn không tin vào sự thật tàn khốc này, bởi Smith đã hứa với bà nhất định sẽ trở về và cưới bà. Mang theo hy vọng cuối cùng đó, bà đã cố gắng sống và chịu đựng nỗi đau đến năm 1953 khi chiến tranh kết thúc. Thế nhưng trong đoàn lính từ Triều Tiên trở về, bà tìm mỏi mắt cũng không thấy bóng dáng người yêu đâu.

Sau một trận bệnh nặng, bà nghe theo sự sắp xếp của gia đình, vội vã kết hôn với ông Henry và mở tiệm giặt là “Diana”.

Bà không thể ngờ rằng, Thượng đế vẫn chiếu cố mình, cho mình nhìn thấy vật đính ước giữa mình và Smith năm đó. Sau một hồi kinh ngạc, bà bắt đầu đặt câu hỏi:

“Vậy Robert là ai? Tại sao anh ta lại có chiếc đồng hồ quả quýt này?

Anh ta cố tình đưa nó cho mình hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, bức thư kia có liên quan gì đến chiếc đồng hồ hay không?

Bức thư là của một người có tên Weber gửi cho Robert. Trong thư, người này nói anh ta mắc bệnh nặng, cần một khoản tiền để chữa bệnh, mong Robert niệm tình bạn bè mà cho anh ta vay 1000 bảng anh…”

Bà Henry thận trọng cất giữ chiếc đồng hồ, muốn đợi Robert quay lại lấy để hỏi mọi chuyện. Thế nhưng 3 ngày trôi qua, rồi đến 1 tháng trôi qua, Robert “bốc hơi” không để lại dấu vết.

Người đàn ông tên Weber bí ẩn

Nhớ ra người đàn ông tên Weber đang mắc bệnh nặng cầu cứu Robert giúp đỡ, lòng bà Henry bất giác cảm thấy bất an. Robert một đi không trở lại, là người biết chuyện, cảm thấy nếu khoanh tay ngồi nhìn người đàn ông tên Web gặp nạn mà không giúp, bà cảm thấy tội lỗi.

Nghĩ vậy, bà Henry liền gửi 1000 bảng Anh đến địa chỉ ghi trên thư. Đó là toàn bộ tài sản riêng của bà trước khi kết hôn.

Đồng thời, bà cũng gửi kèm một lá thư, nói rõ mọi chuyện và nhờ Weber nếu thấy Robert, hãy nhắn anh ta đến tiệm giặt là lấy đồ của anh ta về. Thư gửi đi nhưng chẳng nhận được hồi âm. Song bà Henry không vì thế mà bỏ cuộc. Bà quyết định vượt đường xá xa xôi đi tìm Weber nhưng tìm đến địa chỉ trên thư, bà chỉ nghe được những thông tin khiến mình kinh ngạc. Người trong thôn nói Weber là một người mồ côi không bà con thân thích. Anh ta rong ruổi kháp nơi không làm ăn gì, chẳng ai biết hành tung của anh ta, thậm chí họ cũng chưa từng nghe nói anh ta mắc bệnh nặng…

Một cảm giác tê tái xuất hiện trong lòng bà, thậm chí bà đã nghĩ mình đã rơi vào bẫy lừa đảo của một ai đó. Còn may là chiếc đồng hồ vẫn còn nên bà vẫn tìm tấy được một chút hi vọng và nguồn động viên to lớn.

Vài năm trôi qua, người giải mã những thắc mắc trong lòng bà vẫn chưa xuất hiện. Đột nhiên một hôm, bà nhận được một tờ hóa đơn chuyển tiền, số tiền trên hóa đơn là 2000 bảng.

Cũng kể từ đó, mỗi năm bà nhận được một khoản tiền tương tự vào những khoảng thời gian không cố định. Người gửi và địa chỉ liên tục thay đổi khiến bà không thể tìm ra.

Khoản tiền này trở thành tâm bệnh lớn nhất của bà Henry, bà không biết nên xử lý thế nào, đành phải cố duy trì tiệm giặt là với hy vọng một ngày nào đó, người có tên Robert kia từ trên trời rơi xuống, giải mã tất cả những điều còn chưa được làm sáng tỏ.

Cứ như thế, vài chục năm qua đi, xem ra sức khỏe của bản thân ngày một đi xuống, cuối cùng, bà quyết định thông qua cách bán đấu giá đặc biệt này để “người giấu mặt” xuất hiện, để tài sản của bà và chiếc đồng hồ có chỗ để gửi gắm.

Khi hoạt động tổng duyệt cho buổi triển lãm chuẩn bị kết thúc, bất ngờ có một người đàn ông lớn tuổi xuất hiện. Ông ta nhìn kỹ chiếc đồng hồ, nước mắt chảy thành dòng, sống chết đòi gặp bằng được người ủy thác bán chiếc đồng hồ này, đồng thời nói rằng chiếc đồng hồ là của ông ta.

Bà Henry vội vã nhờ người mời người đàn ông lớn tuổi kia đến. Nhìn thấy bà Henry, người đàn ông buột miệng nói:

“Diana? Bà có đúng là Diana trong bức ảnh kẹp trong chiếc đồng hồ?”

Bà Henry lặng người. “Diana” – cái tên này bao nhiêu năm qua không có ai biết đến, hai người đặt câu hỏi cho nhau cùng lúc:

“Sao ông biết tên tôi?”;

“Sao bà lại có được chiếc đồng hồ này?

Người đàn ông lớn tuổi nghẹn ngào giới thiệu mình là Brian, để tìm chiếc đồng hồ này, ông đã dành một nửa thời gian nửa cuộc đời cùng với tài sản tích cóp được, chạy đôn chạy đáo khắp các hãng đấu giá và nhà sưu tập, thật không ngờ chiếc đồng hồ mà ông nhọc công tìm kiếm bao lâu nay đã sớm trở về với chủ của nó.

Người đàn ông lớn tuổi khi đã bình tĩnh trở lại mới chầm chậm kể lại:

“Năm đó, tôi với vai trò là “quân liên hợp quốc” đến chiến trường Triều Tiên. Trong một chiến dịch, tôi trở thành tù binh. Trong trại tù binh, tôi gặp Smith khi đó đang bị trọng thương và viêm phổi.

Smith biết mình không còn sống được lâu nên đã đưa chiếc đồng hồ lại cho tôi, nhờ tôi sau khi về nước thì đưa cho cô gái có tên Diana và gửi lời xin lỗi của anh ấy đến cô ấy vì đã không thể cùng người mình yêu sống đến hết đời.”

Nghe đến đây, bà Henry khóc không thành tiếng. Bao nhiêu năm qua, cuối cùng bà cũng đã biết được thông tin xác thực về Smith. Bà lau nước mắt và hỏi tiếp:

“Về sau thì sao?”

“Về sau, có một tối, hai chiến sĩ quân y đến và khiêng Smith đi, nói là phải điều trị cách ly. Smith rưng rưng nước mắt vẫy tay cáo biệt và không ngừng nhắc tôi nhất định phải đưa món đồ anh ấy gửi cho Diana.

Từ đó về sau, tôi không gặp lại Smith. Sau khi về nước, tôi mang chiếc đồng hồ đi tìm Diana nhưng thật không ngờ, trên tàu hỏa, tôi đã bị kẻ cắp ăn trộm mất.

“Khi đó tôi đã vô cùng rối bời, đó có thể là một sự ủy thác nặng nề của người quá cố! Tôi bắt đầu tìm kiếm chiếc đồng hồ đó trong suốt mấy chục năm qua. Trong những năm quá, chiếc đồng hộ cũng đã trở thành nút thắt không thể tháo gỡ trong lòng tôi. Cho đến hôm nay, khi nhìn thấy nó và gặp được bà, tôi mới thấy nhẹ nhõm trong lòng.”

Bà Henry bất giác nhớ ra khoản tiền bà nhận được hàng năm, vội hỏi:

“Vậy số tiền là do ông gửi đến đúng không?”

“Tiền?” Brian lắc đầu: “Những năm qua, để có thể đi khắp nơi tìm kiếm chiếc đồng hồ nên tôi hầu như không có tiền tích lũy. Tôi vẫn muốn hỏi bà, làm sao bà có được chiếc đồng hồ này?”

Robert và Weber

Đúng lúc bà Henry muốn nói cho Brian chuyện ly kỳ liên quan đến chiếc đồng hồ thì điện thoại đổ chuông.

Trong điện thoại là giọng một thanh niên, người đó nói:

“Có một người tên là Robert, chắc chắn bà còn nhớ chứ ạ?”

Nghe đến cái tên Robert, bà Henry căng thẳng đến mức tim muốn nhảy ra ngoài, vội vã nói:

“Tôi nhớ, tất nhiên tôi nhớ! Ông ta vẫn còn sống chứ?”

Người kia trả lời:

“Ông ấy là bố cháu, đã qua đời rồi. Trước khi chết, ông dặn cháu nhất định phải báo đáp bà, nói là bà đã cứu ông ấy.”

“Chắc cậu nhầm rồi, tôi cứu bố cậu ư? Tôi không làm chuyện này!” Cảm giác khó hiểu biểu lộ ra ngoài khuôn mặt bà Henry.

“Không nhầm đâu ạ, chính là bà đã cứu bố cháu. Thực ra hồi còn trẻ bố cháu tên là Weber, làm nhiều việc xấu.

Ông ấy nói với cháu là có một hôm, gặp được bà ở bên ngoài tiệm giặt là, ông ấy đã giật mình vì bà và người con gái trong bức ảnh kẹp trong chiếc đồng hồ quả quýt giống hệt nhau. Chiếc đồng hồ đó là bố cháu ăn trộm và chuẩn bị mang đi bán.

Hôm trời mưa đó, bà mời bố cháu vào tiệm tránh mưa, còn cho 10 dồng và tặng thêm một cái ô. Bố cháu nói, đó là lần đầu tiên ông cảm nhận được sự tôn trọng và ấm áp, nên quyết định tặng chiếc đòng hồ cho bà.

Nhưng khi đó vì quá nghèo đói nên ông đã cố tình nhét một bức ‘thư cầu cứu’ trong túi quần cùng với chiếc đồng hồ, không ngờ bà thực sự tốt bụng, đã chuyển cho người có tên Weber kia 1000 bảng Anh.

Bố cháu nhận được tiền thì vô cùng cảm động, ông thề là sẽ làm lại cuộc đời. Kể từ đó, bố cháu đổi hẳn tên thành Robert, không dùng tên cũ nữa. Đợi cháu tích cóp được 2000 bảng, cháu sẽ gửi cho bà.

Bố cháu ra đi quá đột ngột, khi đó cháu đã thề sau này có một ngày phát đạt, nhất định sẽ đến gặp và thay bố cháu xin lỗi bà.

Hôm nay, đọc báo thấy thông tin quảng cáo, cháu biết người bà đang tìm nhất định là bố cháu. Qua đây, cháu xin bà hãy chấp nhận lời xin lỗi của cháu và cảm ơn bà một lần nữa đã giúp đỡ bố cháu.”

Khoản tiền bí ẩn

Nghe đến đây, bà Henry như có cảm giác giải tỏa được gánh nặng trong lòng. Bao nhiêu điều chất chứa, đèn nặng trong lòng bà mấy chục năm qua cuối cùng cũng có đáp án.

Chỉ có điều bà không ngờ được rằng, một hành động lương thiện nhỏ bé của mình lại có thể thay đổi được cuộc đời của một con người, có thể khiến anh ta dùng cả đời để báo đáp, cảm ơn.

Bà Henry vội vã nói với người trong điện thoại:

“Tiền bố con cháu gửi cho tôi, tôi chưa động đến một đồng, có hơn 100.000 bảng anh, dù thế nào cũng mời cháu đến chỗ ta một chuyến.”

Bên kia điện thoại vọng lại câu trả lời đầy kinh ngạc:

“Bà ơi, không thể nào, mặc dù chúng cháu luôn muốn tích cóp 2000 bảng anh cho bà nhưng vì cuộc sống khó khăn quá, chúng cháu không có nhiều tiền đến vậy chứ chưa nói đến việc gửi cho bà, chắc bà nhầm rồi ạ.”

Nói xong, người thanh niên gác máy.

Dù vậy, bà Henry vẫn vui, chỉ cần có số điện thoại, bà không lo không tìm ra địa chỉ của người đó.

Ngày hôm sau, buổi bán đấu giá diễn ra đúng kế hoạch. Sảnh lớn chật kín người, mọi người đều muốn biết kết quả của buổi bán đấu giá cũng như bí mật của chiếc đồng hồ.

Khi người bán đấu giá đang kể lại lai lịch của chiếc đồng hồ, những tràng pháo tay trong hội trường vang lên giòn giã, ai nấy đều cảm động.

Và đúng lúc người bán đấu giá tuyên bố bất động sản của bà Henry, như lời hứa ban đầu, sẽ được trao tặng cho ông Brian, một sự việc không ai ngờ đến đã xảy ra.

Hãng đấu giá nhận được điện thoại của tòa án, nói là có một ông cụ gọi điện đến nói rằng, chiếc đồng hồ có tranh chấp về quyền sở hữu, yêu cầu hoãn bán đấu giá. Người bên tòa án còn nói, ông cụ đó đang trên đường đến nơi diễn ra sự kiện.

Ông cụ bí ẩn

Hội trường bỗng chốc trở nên ồn ào, bà Henry và Brian vô cùng kinh ngạc, nhìn nhau thắc mắc: Người đó là ai? Tại sao lại có liên quan đến chiếc đồng hồ này?

Thời gian trôi qua chậm như hàng thế kỷ, rồi cuối cùng người đàn ông lớn tuổi bí hiểm ấy cũng xuất hiện. Ông cụ ngồi trên xe lăn tiến vào hội trường.

Bà Henry kinh ngạc, bà biết, chủ nhân thực sự của chiếc đồng hồ đã đến. Bà kêu lên một tiếng “Smith” rồi ngất đi.

Brian vội chạy lại phía người đàn ông ngồi xe lăn: “Trời ơi, Smith, ông vẫn còn sống!”

Người vừa đến đó chính là ông Smith, người đã “chết” hơn 50 năm qua.

Thì ra, trong đêm ở trại tù binh, Smith đã được chuyển đến một bệnh viên dã chiến cách chiến trường rất xa. Bác sĩ trong viện đã phải tiêm cho ông 10 lọ Penicillin mới có thể cứu ông khỏi tay tử thần. Mặc dù giữ được mạng sống nhưng Smith phải cắt bỏ 2 chân.

Ý định muốn chết đi đã nhiều lần xuất hiện trong đầu ông nhưng nhờ niềm khát khao mãnh liệt được thấy người mình yêu, ông đã ngoan cường sống tiếp.

Khi về nước, trên danh sách binh lính trở về, ông dùng tên giả, cấp trên của ông cũng đã bố trí riêng một bệnh viện để chữa trị, tránh gặp người quen. Vì biết rằng chỉ khi mình “chết” đi, người yêu mới có được cuộc sống hạnh phúc.

Smith không lấy vợ, sống cuộc đời độc thân nhưng không lúc nào không nhớ về Diana. Tất cả những thông tin về bà, ông đều tìm hiểu được. Tiền nhà nước bù đắp cho những tổn thất mà ông phải chịu, ông đều dồn lại và gửi cho Diana.

Khi biết ông Henry qua đời, lại thấy quảng cáo bán đấu giá của người yêu cũ, ông cuối cùng đã không thể ngồi yên, vội vã tìm đến.

Dù sao thì cũng đã đến tuổi gần đất xa trời, cho dù gặp được người yêu cũ một lần rồi chết, ông cũng cam tâm.

Bà Henry cảm thấy mình như vừa đang nằm mơ, chỉ có điều giấc mơ ấy quá dài và quá ly kỳ. Vừa tỉnh dậy, người trong mơ đã đổi hình thù dáng vẻ.

Vậy là khoản tiền lớn mà bà nhận được suốt mấy chục năm qua là do người bà yêu thương nhất gửi đến, bà đã cất giữ bao nhiêu năm mà không hề hay biết.

Nước mắt tuôn rơi vì hạnh phúc, bà Henry quyết định để lại toàn bộ nhà đất cho Brian, không phải ai cũng có thể dành hơn nửa đời người cũng như tài sản tích lũy được để thực hiện cho bằng được một lời hứa.

Bà cũng quyết định gửi một phần tiền cho con của Robert, dù sao thì ông ta cũng đã tặng chiếc đồng hồ lại cho bà và cuối cùng nó đã trở về tay của chủ nhân đích thực.

Còn với mình, bà quyết định về sống cạnh ông Smith, sống nốt quãng thời gian còn lại…

Từ fb Tuấn Mai SG

Mùa Thu Cuộc Tình-TRUYỆN NGẮN TIỂU TỬ…

TRUYỆN NGẮN TIỂU TỬ…

Mùa Thu Cuộc Tình

Bữa ăn trưa đó của ông Năm thật giản dị : một trái cà tô-mát không dầu không dấm và một miếng thịt bò nhỏ bằng bàn tay nướng trên vỉ sắt không muối không bơ. Quá giản dị ! Nhứt là hôm nay thứ bảy, không phải đi làm. Nghĩa là có dư dả thì giờ để làm một món gì đó cho có vẻ một bữa ăn cuối tuần. Cho nó khác với ngày thường ăn vội ăn vàng cái gì cũng được. Thật quá giản dị ! Nhứt là ông Năm sống một mình, không bị phiền toái bởi những chuyện vụn vặt lỉnh-kỉnh phải làm vào cuối tuần của người có gia đình. Ở Paris này mà sống một mình như ông Năm thì thời gian không biết phải làm gì cho hết chớ đừng nói không có thì giờ để làm một bữa ăn cho tươm tất vào trưa thứ bảy.

Nói rằng ông Năm không biết làm bếp cũng không đúng. Hồi xưa, hồi còn ở bên nhà, thật tình ông Năm không biết chiên một cái trứng gà. Ông chỉ biết đi làm ngày hai buổi, còn việc bếp núc có bà Năm lo hết. Bây giờ thì khác. Ông cũng biết nấu vài món thông thường và lâu lâu cũng biết ” làm ” một nồi phở để đãi đôi ba ông bạn già cùng lứa tuổi và cùng thân phận lưu vong…

Như bình thường thì trưa thứ bảy, ông hay thả xuống khu 13 la-cà ở nhà sách Khai Trí một lúc rồi sang qua mấy cửa hàng nho nhỏ trên lầu Paris Stores để coi có gì lạ không. Sau đó, ông mới tấp vô tiệm phở để ăn trưa, có khi một mình,nhưng thường thì với một vài người bạn gặp nhau ngoài phố. Ở khu 13 vào trưa thứ bảy, không gặp người này cũng gặp người nọ, bởi vì ai cũng đến đó để mua đồ, nói là ” đi chợ Tàu ” chớ thật ra là để tìm lại một chút gì hơi hướm của quê hương : những khuôn mặt gần gũi (gặp ai cũng thấy quen quen !), những món hàng còn giữ nguyên nét cũ (đòn chả lụa vẫn phải có màu xanh của lá, con vịt quay vẫn phải đỏ ao màu mật…) và những cái tên chỉ cần đọc lên là đủ để gợi nhớ…

Hồi sáng này, ông Năm cũng đã đóng bộ để đi khu 13. Trời đã sang thu, nhưng nắng còn thật ấm. Cây marronnier nhà hàng xóm nằm ngay dưới cửa sổ nhà ông Năm đã trở màu vàng. “Chắc lá đã rụng đầy”, ông Năm nghĩ vậy khi đứng thắt cravate gần khung cửa sổ. Chỗ ông cư ngụ là một studio nhỏ ở lầu ba khu nhà cũ nằm sâu phía sau nhà thờ Sacré Coeur.

Cây marronnier che hết phía dưới thành ra từ cửa sổ nhà ông Năm nhìn thẳng ra chỉ thấy bức tường cao của khu nhà đối diện chắn ngang, chừa phía trên bầu trời bị đóng khung hình chữ nhựt bởi hai dẫy nhà dài. Trên nền trời đó, tuốt phía xa, là nóc nhà thờ với cây thánh giá. Thành ra, thế giới bên ngoài nhìn từ phòng ông Năm chỉ còn lại vỏn vẹn có cây thánh giá để cái nhìn còn có một điểm tựa ! Ông Năm theo đạo Phật, nhưng từ ngày dọn về đây – năm sáu năm gì rồi – cứ nhìn cây thánh giá riết mà ông có cảm tưởng như mình đã thành con chiên của Chúa ! Nhiều khi ông thấy cây thánh giá thật là sinh động. Ông không hay rằng niềm suy tư của ông đã gởi trên đó từ lâu…

Có lần, trong thư gởi về Việt Nam cho bà Năm, ông viết : “Anh thừơng nhìn cây thánh giá đứng cao vòi vọi một mình trên kia mà tự hỏi không biết anh và cây thánh giá, ai cô đơn hơn ai ? Nhưng cây thánh giá hãy còn giang tay ngạo-nghễ chớ anh thì từ lâu rồi anh đã buông tay đầu hàng số mệnh ! Tuy nhiên, ở đây anh còn có cây thánh giá trứơc mắt để hứơng về đó mà cầu nguyện, chớ ở bên nhà giờ đây muốn cầu nguyện em phải hứơng về đâu hả em ? Anh bỗng ứa nứơc mắt thương em vô cùng… Ở ngay trong lòng quê hương mà thiếu thốn đủ thứ, đến nỗi điểm tựa cho niềm tin mà còn không có thì em sống ra sao, em hả ?” Đối với ông Năm, cây thánh giá trên chót nhà thờ Sacré Coeur mặc nhiên đã trở thành một vật gì thật gần gũi, thật trần gian, thật ngừơi, và là động cơ khơi nguồn kỷ niệm…

Hồi xưa, ông làm việc cho Air France ở Sàigòn. Đời sống rất thoải mái, nhưng hai vợ chồng lại không có con. Chạy thầy chạy thuốc mãi rồi mới biết tại vì tử cung của bà Năm nằm lệch. Điều này làm bà Năm khóc hết nứơc mắt. Tuy nhiên, hồi đó còn trẻ nên cũng dễ nguôi, hai vợ chồng chẳng quan tâm cho lắm. Lần hồi, tuổi đời chồng chất, sự không có con đã trở thành một vấn đề cho hai vợ chồng. Mặc dù ông Năm không bao giờ nhắc đến chuyện đó, bà Năm vẫn khơi ra để nhận lỗi về mình. Mặc cảm đó làm cho bà lúc nào cũng ân hận, áy náy. Rồi cái gì hư, cái gì trật, cái gì bậy ở trong nhà dù là do lỗi những ngừơi giúp việc, bà cũng nhận hết. Ông Năm phải mất một thời gian dài để giải thích, khuyên lơn, an ủi bà Năm mới lấy lại đựơc quân bình.

Có hôm, trong lúc hai vợ chồng đi dạo trên bãi biển Vũng Tàu, nhìn thấy mấy gia đình đông con đùa giỡn vui vẻ, bà Năm chợt thở dài than : “Nếu không phải tại em thì bây giờ hai đứa mình đâu có bơ vơ như vầy !”. Ông Năm choàng tay ôm vai vợ xoay ngừơi lại để nhìn sâu vào mắt : “Em à! Mình không có con, nhưng mình còn có nhau. Đó là Trời thương lắm rồi, em còn đòi hỏi gì nữa ? Thử tưởng tượng một ngày nào đó không còn có nhau nữa thì sao ?”. Bà Năm gật gật đầu nhưng chẳng bao giờ tưởng tượng đến “cái ngày không còn có nhau” đó.

Vậy mà cái ngày đó đã đến cho ông bà Năm. Hai năm sau ngày mất nước, trong chuyến vượt biên ở Cà Mau, ông Năm đi thoát, bà Năm bị bắt lại với một số người không may khác ! Ông Năm sang Pháp, làm việc lại cho hãng Air France. Bà Năm nằm tù hết mấy tháng. Được thả ra thì nhà cửa đã bị tịch thu, đành về quê ở Gò Công làm công nhân cho nhà máy xay lúa của gia đình mà trong đợt đánh tư sản đầu tiên, Nhà Nước đã tịch thu để biến thành hợp tác xã. Từ đó, là những chuỗi dài thương nhớ, là những lo âu dằn vặt, là những lá thư nhiều ẩn nghĩa cho đúng “văn phạm Nhà Nước”.

Còn chuyện vượt biên lần nữa là chuyện mà bà Năm không bao giờ dám nghĩ đến ! Bên này, ông Năm chạy mãi rồi cũng được nhập cảnh gởi về, nhưng phía bà Năm thì gặp quá nhiều khó khăn trong hồ sơ xin xuất cảnh, cứ bị kéo dài, kéo dài bằng những chầu chực, bằng những lời hứa hẹn suông và bằng mấy lần bị lường gạt…

Để cuối cùng, mấy năm sau, mới biết là hồ sơ đã bị bác từ lâu ! Tin đó đến với ông Năm bằng tờ giấy tập học trò vàng như giấy súc mà trên đó bà Năm chỉ còn đủ sức viết có mấy hàng… Vậy là vĩnh viễn không còn có nhau nữa ! Ông Năm mất tinh thần hết một thời gian dài. Sau đó, dọn về khu phố này tình cờ cửa sổ mở về hướng nhà thờ Sacré Coeur, để mỗi sáng trước khi đi làm ông nhìn cây thánh giá một lúc, giống như một tín đồ ngoan đạo…

Khi ông Năm mặc xong quần áo thì trời cũng đã gần trưa. Đốt điếu thuốc để lên môi, ông đóng cửa bước chậm rãi xuống cầu thang, giống như đo từng nấc thang một ! Thật ra, tại tánh ông Năm vốn đã trầm thêm tuổi đã gần sáu mươi bắt ông phải cẩn thận khi bước lên bước xuống. Ngoài ra, có gì phải vội phải gấp khi mà chẳng có ai đợi ai chờ ?

Đi khu 13 vào trưa thứ bảy đã thành một thói quen, chẳng có gì phải náo nức. Bỗng nhiên, ông Năm nhận thấy cuộc đời mình sao thật vô vị. Giống như tờ giấy trắng mênh mông trải dài, thẳng băng, chẳng có một dòng mực, chẳng có một đốm màu, cũng chẳng có một vết hoen ố. Hình ảnh đó làm cho ông Năm dừng lại ở giữa cầu thang, ngẩn ngơ một lúc như vừa khám phá ra một điều gì quá rõ-rệt nằm ngay trước mắt mà sao lâu nay ông không nhận thấy !

“Mình đi làm đều đặn. Mỗi tuần xuống khu 13 cũng đều đặn vào trưa thứ bảy. Mỗi tối thứ hai đi ciné một lần vì giá vé hạ. Đêm nào cũng coi télé vào 8 giờ tối để theo dõi tin tức, rồi đọc sách đọc báo đến 11 giờ rưỡi là tắt đèn ngủ. Đều đặn. Đều đặn. Đến như cái cầu thang này, mình cũng đều đặn trèo xuống trèo lên đến nỗi biết nó có bốn mươi tám nấc ! Vậy rồi thôi ! Rồi cứ như vậy cho tới về hưu,tới chết !”. Ông Năm hít hơi thuốc thật sâu để thở khói ra thật dài. Ông làm mấy lần như vậy, giống như đang tìm một đáp số ! Rồi ông vỗ nhẹ bàn tay lên thành lan can gỗ, tự nhủ “Thôi ! Đừng nghĩ tới nữa” Ông tiếp tục bước xuống, nhưng bây giờ sao thấy bước chân nặng hơn hồi nãy nhiều…

Khi đi qua trước phòng gác-dang, có tiếng gọi :

– Ông Georges ! Ông Georges !

Georges cũng là tên của ông Năm. Người Pháp phát âm Năm thành Nam, nghe lơ lớ chói lỗ tai, nên ông lấy đại tên Georges cho dễ gọi dễ kêu. Bà gác-dang bước ra trao cho ông một điện tín, nói :

– Vừa mới tới. Tôi định lên nhà đưa cho ông thì ông xuống đây.

Ông Năm run tay mở bức điện tín. Giòng chữ ngắn ngủn hiện lên nhảy múa : “Đã có xuất cảnh. Lo vé máy bay cho em. Mai”. Điếu thuốc trên môi bỗng rơi xuống đất. Ông Năm có cảm giác như mình đang lên cơn sốt. Ông đọc lại điện tín một lần nữa, hai tay phải gồng cứng lại mới kềm được tờ giấy đứng yên căng thẳng dưới mắt. Ông nói cho mình nghe : “Đúng rồi ! Bả được xuất cảnh rồi !”.

Bà gác-dang nghiêng đầu lo lắng :

– Có sao không ? Có chuyện gì không ? Ông Georges ?

Tiếng bà ta lôi ông Năm về thực tại. Ông nhìn bà ta, mỉm cười, rồi nắm lấy tay bà ta lắc mạnh :

– Cám ơn bà ! Cám ơn bà nhiều ! Tôi thật không biết nói gì cho phải. Bà thật tốt bụng ! Quá tốt bụng ! Cám ơn ! Cám ơn !

Giọng ông thật thành khẩn, làm như chính bà đã cho giấy xuất cảnh ! Bà ta không hiểu gì cả, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười trước thái độ của ông Năm. Bà ấp úng “Nhưng mà… Nhưng mà…” trong lúc ông Năm buông bà ra để chạy lên cầu thang. Nữa chừng, sực nhớ ra, ông dừng lại nghiêng người nói vói xuống :

– Điện tín của vợ tôi ở Việt Nam. Bả nói bả sẽ qua đây ở với tôi ! Cám ơn ! Cám ơn nhiều !

Rồi ông phóng lên cầu thang, nhảy hai bậc một, nhanh như sóc, nhẹ như hưu. Làm như ông mới có hai mươi tuổi !

Vào phòng, ông ngã người lên giường, thở hổn hển. Cái tuổi hai mươi bất thần tìm lại chỉ đủ giúp ông trèo hết bốn mươi tám nấc thang thôi ! Một lúc sau, ông cầm điện tín lên, đọc lại một lần nữa. Thật rõ ràng mà ! Đây nè, hàng chữ không bỏ dấu “Da co xuat canh. Lo ve may bay cho em. Mai” Đọc là hiểu ngay ! Còn Mai là tên của bả rồi, chớ còn ai vô đây nữa ! Cái tên dễ thương mà mình đã thương từ mấy chục năm, không còn lộn với ai được. Vậy là chỉ còn có vé máy bay nữa là xong. Ông nhỏm người lên nhìn tấm lịch tháng treo gần đó để thấy rằng mình bỗng quên mất hôm nay là thứ bảy ! Vậy phải đợi thứ hai mới vào sở lo vụ này được. Ông lại nằm xuống. Dễ thôi ! Nhờ thằng Durand đánh cái télex là xong ngay. Ờ… nhưng mình cũng phải gởi cái điện tín về cho bả mừng.

Tội nghiệp ! Không biết ai chạy lo cho bả cái xuất cảnh, chớ bả thì lo khỉ gì được với cái tánh hiền khô và nhát hít của bả. Nghĩ đến đó, ông Năm bỗng thấy thương vợ vô cùng. Cái người đàn bà hiền khô và nhát hít đó đã về làm vợ ông từ hơn ba mươi năm, trước sau như một, theo chồng như một cái bóng. Ngoài chuyện không có con, chẳng thấy bao giờ bà làm bận tâm ông. Con nhà giàu ở Gò Công, học ở Marie Curie, vậy mà cô gái có cái tên Trần thị Lệ Mai đó đã có một quan niệm sống thật cổ điển, thật Á đông. Và khi trở thành bà Trần văn Năm, luôn luôn bà đối xử với bên chồng thật vuông tròn và xem việc nội trợ như một thiên chức ! Hồi xưa, bạn bè vẫn nói là “thằng Năm trúng số độc đắc” hoặc “đẻ bọc điều mới có người vợ như vậy”. Ông thì nghĩ rằng tại vợ mình hiền khô và nhát hít nên chẳng dám làm phiền ai bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà ai cũng thương…

Ông lại nhỏm dậy nhìn tấm lịch. Trên đó ông có ghi bằng marker đỏ con số 10 to bằng nửa bàn tay ở gốc trái. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mỗi năm mua lịch, mình ngồi nắn nót viết con số lên đó giống như người tù bị lưu đày ghi số năm mà mình biệt xứ. Có khác là người tù còn biết ngày được thả chớ còn mình thì mù tịt. Đã tưởng vĩnh viễn sống một mình rồi… chết cũng một mình trên đất lưu vong này, nào ngờ Trời còn thương mình nhiều quá !

Ông ngồi hẳn dậy đốt điếu thuốc, khói thuốc thật thơm thật ngọt. Vậy mà cũng đã mười năm xa nhau ! Mười năm… lâu lắm chớ ! Vậy mà sao vẫn thấy còn thương còn nhớ. Lạ quá ! Có phải như vậy người ta gọi là chung thủy hay không ! Rồi ông nhìn quanh. Nhà cửa thiệt là lượm thượm, phải dọn dẹp laị coi cho nó được một chút. Vậy là ông đứng lên đẩy ghế, đẩy bàn, quên mất là mình còn mặc bộ đồ lớn để đi khu 13 và làm như bà Năm sắp qua tới bây giờ ! Vừa làm vừa nói một mình, lâu lâu ông ngừng lại hít một hơi thuốc thật sảng khoái. Hai cái fauteuils này cho sát vào tường, kê gần nhau để cùng ngồi coi télé. Cái télé nằm đó được rồi. Cái bàn ăn nhích qua một chút để có chỗ kéo cái nệm dưới gầm giường ra.

Bả trên giường, mình dưới đất, tạm ổn trong khi chờ đợi kiếm nhà khác rộng hơn. Cái tủ búp-phê đẩy tới một chút là nằm ngang với bàn ăn. Mẹ nó ! Coi vậy mà cũng nặng ớn ! Ông đứng lên thở hổn hển, nhìn quanh. Bây giờ coi có nét rồi đó. À ! Cái màn cửa sổ, phải tháo xuống đem giặt, cho nó “sáng” ra mới được.

Rồi ông vào buồng tắm thay đồ. Đồ đạc ở đây thì sạch sẽ rồi, khỏi lo. À ! Còn cái tủ quần áo ở bên phòng ngoài nữa. Phải thu gọn lại cho có chỗ để bả để quần áo chớ ! Ông bỗng phì cười. Làm như mình sắp cưới vợ vậy ! Mà thiệt ! Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau cũng giống như cưới nhau lần nữa chớ gì ! Ông soi gương chải lại tóc. Tóc mình mới có mấy sợi bạc thôi. Mặt mũi hãy còn “nét” lắm, ai mà nói mình sắp sáu mươi ? Cô dâu qua đây thấy chú rể như vầy là nhìn… rớt con mắt ! Ông Năm bỗng nghe lòng vui rộn rã, giống như tâm trạng ngày xưa, thuở còn trẻ, lúc sửa soạn đi đến nơi hẹn với người con gái tên Trần thị Lệ Mai…

…Vậy là trưa thứ bảy này ông Năm không thấy đói ! Tuy vậy, cũng phải “bỏ bụng” một cái gì,vì thói quen hơn là vì nhu cầu. Ông mở tủ lạnh lấy một trái cà tô-mát và một miếng thịt bò. Cà xắt khoanh, không dầu không dấm, thịt nướng trần trên vỉ sắt không muối không bơ. Làm cho “lấy có” và ăn cũng cho “lấy có”. Bởi vì tâm hồn ông đang mãi phiêu bồng ở đâu đâu xa lắm, hình như là ở Gò Công quê vợ, ở Gia Định quê mình, ở những ngày đầu “hai đứa gặp nhau” (Tiếng nói của tình yêu là một chuỗi dài im lặng !),ở rạp hát bóng Đại Nam là nơi “hai đứa hẹn hò” (Dù trời mưa anh cũng tới. Em nghe không ?), ở Đà Lạt ít lâu sau đó. Chao ôi ! Đẹp quá ! Dễ thương quá ! Tình yêu là cái gì mà sao mãi mãi vẫn còn nguyên, như mới hôm qua hôm kia…

-oOo-

Ông Năm lái xe lên phi trường Charles de Gaulle lần này là lần thứ hai. Hồi sáng, đã lên đó một lần, đợi cả tiếng đồng hồ để được thông báo là chuyến bay Air France từ Thái Lan qua sẽ đến trễ gần tám tiếng. Nhờ là nhân viên của hãng nên ông Năm được biết là máy bay bị trục trặc kỹ thuật ở Karachi.

Trở về sở làm, ông ngồi đứng không yên, lâu lâu cứ nhìn đồng hồ. Bạn bè trong sở thấy vậy thương hại, mỗi người một câu an ủi trấn an. Có người ngồi lại gợi chuyện tán dóc cho ông đỡ thấy sốt ruột.

Có người đặt tay lên vai ông bóp mạnh:

– Georges ! Đợi chờ nhau mười năm mà mày còn chịu nỗi huống gì chỉ có mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Can đảm lên chớ !

Vậy rồi thời gian cũng qua, chiều cũng xuống, để ông Năm lái xe đi phi trường, lòng náo nức xôn xao trong sự đợi chờ kỳ diệu.

Vào phi trường, ông gắn thẻ nhân viên lên ngực áo rồi đến quầy Air France hỏi thăm. Mô phật ! Lần này máy bay sẽ đến đúng giờ. Hai cô tiếp viên trong quầy không quen ông Năm nhưng thấy đeo thẻ Air France, nên cũng hỏi đẩy đưa :

– Ông chờ đón bạn à ?

Ông mỉm cười, vừa bước đi vừa trả lời :

– Không ! Tôi đón nhà tôi. Chào hai cô.

Phi trường giờ này nhiều chuyến bay cùng đến một lúc nên người đi kẻ lại tấp nập. Ông Năm ngồi uống cà phê, hút thuốc, nhìn thiên hạ. Ông thấy ai cũng dễ thương hết ! Ông muốn họ uống với ông một tách cà phê, hút với ông một điếu thuốc lá. Cà phê expresso thật ngon. Khói thuốc Dunhill thật ngọt. Tâm hồn ông Năm được trải rộng mênh mông…

Lại nghĩ đến bà Năm. Bả điệu” lắm ! Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Tóc lúc nào cũng chải gọn về phía sau rồi cuốn thành một vòng kẹp lại phía trên ót, thành ra khuôn mặt trái soan và cái cổ tròn lúc nào nhìn cũng rõ nét. Còn về quần áo thì bả chẳng bao giờ mặc loại có màu sắc sặc sỡ loè loẹt, luôn luôn hoặc đen hoặc xanh đậm và nếu có bông thì cũng phải tiệp màu với nền vải và hình dáng phải nhã nhặn, nho nhỏ tương xứng với tầm vóc của bả. Hà ! Bả hiền khô và nhát hít vậy mà về vấn đề ăn mặc bả khó dàng trời ! Người ta nói bả có “gout”. Mình cũng nghĩ như vậy, nhưng nếu bả không có thân hình đều đặn cân đối thì không biết cái “gout” để vào đâu cho nó nổi !

Ông hít một hơi thuốc dài sảng khoái. Hồi đó sao mà mình mê bả quá, nhứt là đôi bàn tay có ngón thon dài sang trọng và cặp mắt đen to như mắt đầm làm cho cái nhìn của bả lúc nào cũng có vẻ như ngạc nhiên. Điều lạ là sau này khi đã đứng tuổi, bả vẫn còn giữ nguyên đường nét thời con gái. Thành ra lắm khi nhìn bả, mình muốn trêu chọc bằng câu “Gái không con mà nom cũng mòn con mắt”, nhưng vì sợ bả buồn nên mình nín thinh luôn !

Ông Năm ngừng suy tư trên hình ảnh đẹp của bà vợ, mỉm cười vu vơ. Lại hút thuốc, lại nhìn thiên hạ. Hớp cà phê cuối cùng đã nguội ngắt mà sao vẫn còn thấy ngon lạ lùng. Bỗng ông bật cười. Sau bảy mươi lăm, sống với Việt Cộng mà bả vẫn tiếp tục “điệu” như thường ! Trong lúc người ta lôi quần áo cũ rách ra bận và để mặt mũi tóc tai lôi thôi lếch thếch cho có “tác phong cách mạng” thì bả vẫn gọn ghẽ sạch sẽ như thường, vẫn chút đỉnh má hồng, chút đỉnh son, vẫn quần dài áo ngắn tươm tất, mặc dù phải đạp xe đi làm công nhân ở tổ may thêu xa bảy tám cây số. Mình hay trêu chọc bả bằng câu nói của Việt Cộng “Song chân lý ấy vẫn không bao giờ thay đổi”, bả cười không nói. Vậy mà có hôm, bả trả lời bằng một câu… xanh dờn : “Đàn bà phải biết tự trọng. Làm như mấy bà cách mạng tóc tai xủ xộp, quần áo xốc xếch rộng rinh hoặc ngắn ngủn như mặt đồ khín, em làm không được”…

Có tiếng nhạc chuông dìu dặt, tiếp theo là giọng bổng trầm của cô tiếp viên thông báo chuyến bay Air France số AF 199 đến từ Thái Lan đã đáp xuống sân bay. Ông Năm đứng lên trả tiền, xong đi vào phía trong qua ngã văn phòng trực của hãng. Ông nghe lòng vừa náo nức vừa hồi hộp giống như ngày xưa khi đứng chờ xem kết quả thi tú tài ! Ông ra đón tận cổng vào. Có hai chuyến bay đến từ hai nơi khác nhau nhưng đổ hành khách xuống cùng một lúc, nên sân bay đầy người. Giữa cái lao xao lộn xộn đó, ông Năm nghểnh cổ tìm vợ trong luồng người thoát ra từ cổng F, cổng của chuyến bay Air France.

Ông nhìn từng khuôn mặt, từng người. Ông nhìn, ông chớp mắt để nhìn cho rõ hơn. Những gương mặt Á đông phờ phạc. Những gương mặt Á đông hốc hác. Những gương mặt Á đông xanh xao. Ông nhìn, ông chờm tới, nhích tới để nhìn. Bả dễ nhìn lắm. Lúc nào cũng sạch sẽ gọn ghẽ. Lúc nào cũng điệu. Trong đám đông, bả nổi hơn người ta nhờ nước da trắng hồng của gương mặt trái soan và đôi mắt lớn, cho nên dễ nhận ra lắm. Không phải bà này. Bà này già quá cũng không phải. Bà này coi ngờ ngợ nhưng đi chung với bầy con nít, không phải bả. Ông nhón chân lên để cái nhìn được đưa ra xa thì tai thoáng nghe hình như có tiếng người gọi nhỏ : “Ông Năm !” Ông vẫn tiếp tục nhìn từng người, từng khuôn mặt. Lại có tiếng người gọi nhỏ, lần này tiếng gọi lạc đi : “Ông Năm…”

Nghe rõ có tiếng ai gọi mình, ông nhìn lại. Ngay phía trước, đứng cách ông chỉ mấy bước, người gọi ông là một bà già tóc muối tiêu hớt bom bê ngắn như mấy bà Tàu Chợ Lớn, mặc áo len nâu rộng thùng thình, ống tay dài phủ mất hai bàn tay đang xách mỗi bên một túi vải. Chỉ mới nhìn tới đó thôi, linh tánh bắt ông nhìn lại gương mặt : khuôn mặt gầy xạm nắng với những nếp nhăn trăng trắng ở khoé môi và đuôi mắt. Ngần đó thứ giống như miếng cau khô, chỉ trừ có hai con mắt là sinh động, là mở to như có vẻ ngạc nhiên, là nói lên, là nhắc nhở, là… là… Trời ơi ! Là vợ tôi đây mà !

Ông Năm nghẹn ngào bước tới, hai tay đưa về phía bà già và chỉ còn đủ sức gọi có một tiếng : “Mai !” Ông ôm lấy vợ mắt nhắm nghiền đau đớn. Tội nghiệp ! Người vợ chỉ dám gọi chồng bằng hai tiếng “Ông Năm” như người xa lạ, và chỉ dám gọi có hai lần. Và khi chồng nhìn ra mình, ôm chầm lấy mình, người vợ đó chỉ còn nói được bằng nước mắt !

Ông Năm buông vợ ra để nhìn lại lần nữa. Ông nghe nghẹn lời và nghẹn cả lòng. Ông chỉ còn nói được bằng hai bàn tay… Hai bàn tay vuốt làn tóc bạc bây giờ sao quá thẳng quá ngắn. Hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt bây giờ sao không lấp đầy hai lòng bàn tay. Hai bàn tay đặt xuống bờ vai bóp nhẹ. Dưới lớp áo len, ông cảm rõ nét gầy của bờ vai bây giờ. Bây giờ… Hồi đó… Từ trong sâu thẳm của lòng ông, nỗi đau khổ tột cùng bỗng bật lên thành tiếng, một thứ tiếng nói lệch lạc méo mó vì uất nghẹn : “Sao vầy nè ?”. Rồi, không kềm chế nổi nữa, không cần giữ gìn ý tứ gì nữa, trong cái rừng người xào xạc đó, ông ôm lấy vợ, ngửa mặt lên trời thét lên một cách thống thiết : “Sao vầy nè… Trời ?”. Tiếng “Trời” nặng trĩu thoát ra từ lòng ngực ông như tất cả sinh lực trong người được trút ra hết… Rồi ông ôm lấy vợ, nước mắt ràn rụa. Bà Năm cũng khóc nhưng vẫn không buông rời hai cái túi vải. Hơn mười năm sống với Việt Cộng, đã trở thành một bản năng : nắm chặt, giữ chặt những gì còn thuộc về mình, những gì mà “tụi nó” chưa kịp chiếm lấy, cướp lấy !

Một lúc lâu sau, phải một lúc lâu sau, ông Năm mới lấy lại bình tĩnh. Ông nói :

– Thôi mình về đi em !

Tiếng “em” thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng. Tiếng “em” mà đã mười năm, bà không còn nghe thấy ! Bà cắn môi để kềm xúc động, nhìn chồng mà đuôi mắt nheo lại mỉm cười. Bà nghe một cái gì mát rượi đang len vào lòng, một cái gì đã làm rơi mất từ hơn mười năm, bây giờ mới tìm gặp lại. Mãi đến bây giờ, ông Năm mới thấy trong đôi mắt vợ, nét cũ ngày xưa : to tròn như mắt đầm, trồng đen lay láy.

Đôi mắt đó đang nhìn ông, cái nhìn ngời lên như muốn nói thật nhiều… Ông cúi xuống định xách hai túi vải. Bà Năm lắc đầu :

– Để em xách !

Tiếng “em cũng thật tự nhiên thật nhẹ nhàng. Giọng nói thật dịu dàng, trong trẻo. Làm như nước mắt đã tẩy sạch dấu vết của mười năm…

Ông vói tay cầm lấy quai túi :

– Để anh xách cho.

Bà Năm vừa bước đi, vừa nói, tay vẫn nắm chặt hai túi vải :

– Không sao. Em xách được. Ở bển, em gánh lúa mỗi ngày cho nhà máy, có sao đâu.

Ông Năm bỗng nghe lòng quặn thắt. Thì ra “tụi nó” đày đọa bả đến nước đó ! Bả tội gì ? Tội gì ? Tội vượt biên ? Thì đã ở tù trên ba tháng rồi còn gì nữa ? Vậy tội gì ? Ông Năm nghiến cái căm thù trong răng để đừng chửi đổng, nhưng rồi ông cũng bật ra : “Quân khốn nạn !”

-oOo-

Về đến nhà thì trời đã xâm xẩm tối. Lần này thì chính ông Năm xách hai túi vải, đi trước dẫn đường, lòng vui như mở hội. Đến chân cầu thang, ông nói :

– Ở từng lầu ba lận. Em leo nổi không ?

Bà Năm trả lời, giọng vẫn trong trẻo :

– Gì không nổi ? Bây giờ em làm cái gì cũng nổi hết.

Rồi bà bước lên cầu thang, bước đều đặn. Ông Năm theo sau, nhìn dáng dấp nhỏ thó với mái tóc bạc hớt bom-bê cao ông bỗng thương vợ vô cùng. Mười năm… Mái tóc huyền mà ngày xưa hay kéo sát về phía sau để cuốn tròn kẹp gọn một vòng trên ót… bây giờ chỉ còn là như vầy ! Cái cổ tròn dẫn xuống bờ vai thon thon của hồi đó… bây giờ gầy nhom như vầy ! Mười năm… Chắc bả phải khổ ghê lắm, phải chịu đựng ghê lắm mới ra nông nỗi này ! Tội nghiệp !

Người đàn bà hiền khô và nhát hít đó chưa làm phiền lụy ai bao giờ, vậy mà Việt Cộng vẫn moi ra một cái cớ nào đó để hành hạ. Và như vậy suốt mười năm. Lam lũ quá nên bả già trước tuổi, chớ bả cũng còn giữ được cái nhìn, giọng nói và tâm hồn… những thứ mà Việt Cộng không cưỡng chiếm được !

Vào nhà, ông Năm bật đèn lên, bà Năm nhìn quanh mỉm cười, không nói. Ông Năm đặt hai túi lên bàn ăn, rồi cũng nhìn quanh :

– Nhà của anh đó. Nhỏ như cái lỗ mũi. Tạm một thời gian rồi mình sẽ kiếm nhà khác rộng hơn.

Bà Năm dịu dàng :

– Như vầy cũng được. Có hai đứa mà gì…

Bỗng nhiên hai người nhìn nhau. Tiếng “hai đứa” nhắc cho họ nhớ tới hoàn cảnh bây giờ, một hoàn cảnh mà từ lúc gặp lại nhau bao nhiêu thống hận dập dồn đã làm họ quên đi : bây giờ “hai đứa” vẫn còn có nhau, thật sự còn có nhau. Rồi sẽ không còn gì chia cách. Rồi sẽ đi bên nhau, đi hết đoạn đường còn lại, một đoạn đường không còn bao nhiêu xa… Bởi vì họ biết : họ đang bước vào mùa thu của cuộc đời… Cho nên họ nhìn nhau mà yêu thương dâng đầy trong mắt.

Bà Năm bước lại cửa sổ. Ngoài xa trên nền trời trắng đục, hiện lên thật rõ cây thánh giá và nóc nhà thờ Sacré Coeur. Bà Năm hỏi :

– Cây thánh giá này đây ?

Câu hỏi trống không nhưng hai người cùng hiểu : cây thánh giá mà ông Năm viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần trong thư gởi về Việt Nam. Ông bước lại khoác vai vợ, gật gật đầu. Hai người yên lặng nhìn cây thánh giá như đang tạ ơn, giống như đang rước lễ, giống như cô dâu chú rể sau khi được kết hợp thành vợ chồng…

Thời gian bỗng như dừng lại, để hình ảnh trở thành bất diệt, nói lên cái cao cả của tình yêu, cái huyền diệu của niềm tin… những thứ mà Việt Cộng muốn xoá bỏ để biến con người thành gỗ đá.

Một lúc lâu sao, bà Năm như sực tỉnh :

– Để em soạn đồ ra.

Rồi bà bước lại bàn mở hai túi vải. Ông Năm đốt điếu thuốc, khói thuốc lâng lâng nhẹ. Ông ngồi cạnh giường nhìn vợ soạn đồ bằng đôi bàn tay xạm nắng với những đường gân nổi lên ngoằn ngoèo. Đôi bàn tay đã từng có ngón tay thon dài khéo léo từ đường kim mũi chỉ… bây giờ là như vậy ! Ông thấy thương vợ vô cùng.

Bà Năm soạn đồ ra để trên bàn : vài bộ quần áo, mấy cái khăn lông, một cái mền nhỏ…

Vừa làm bà vừa nói :

– Có bao nhiêu, em đem theo hết. Nói là đi chánh thức chớ không biết lúc nào tụi nó bắt mình lại. Có nhiều người lên máy bay rồi mà còn bị lôi xuống, không biết vì cớ gì. Rồi khi được thả ra là trắng tay.

Bà lấy trong túi ra một khuôn hình, trao cho ông Năm :

– Em đem hình ông già bà già qua để lâu lâu mình thắp một cây nhang.

Ông Năm nhìn hình cha mẹ, lòng bồi hồi xúc động. Hình này, hồi đó, để trên bàn thờ nhà cũ. Nhà bị tịch thu, không hiểu bả làm sao lấy được để mang qua đây ? Ông đứng lên nhìn quanh, rồi treo khuôn hình lên cây đinh trên tường đối diện.

Có tiếng bà Năm nói :

– Em có đem qua cho anh chai rượu nếp than nữa. Nhớ hồi đó anh ưa lắm.

Ông quay lại, cầm chai lên mở nút. Chưa đặt miệng chai lên mũi mà mùi rượu ngọt ngào thơm phức tỏa ra thật nồng nàn. Ông hít một hơi dài, đóng nút lại, rồi nhìn chai rượu mà ứa nước mắt. Nỗi nhớ quê hương nằm sâu trong tìm thức, bây giờ, mùi rượu nếp than, màu rượu nếp than đã làm bật dậy, vô cùng mãnh liệt. Ông tưởng chừng như vừa hưởi thấy mùi thơm quê hương. Có mùi ngọt ngọt của lúa chín, có mùi nồng nồng của rơm của rạ, có mùi hăng hăng của đống un đốt cạnh chuồng trâu chuồng bò… Ông tưởng chừng như đang giữ trong tay một mảnh trời quen thuộc. Ở đó có màu tím lờn lợt của hoa bằng lăng, có màu tím nâu nâu của vỏ măng cụt, có màu tím học trò của trái mồng tơi, và những tà áo tím phất phơ theo gió qua cầu, với những chiều tím quê ngoại, đứng ngẩn ngơ bên sông Vàm Cỏ khi tuổi vừa mới lớn… Chao ơi ! Ngần đó thứ, tưởng quên nhưng vẫn nhớ. Ngần đó thứ bây giờ xa thật xa. Xa, không phải vì cách biệt, mà xa vì không còn thuộc về mình nữa !

Ông Năm cầm chai lắc lắc, bột nếp than tím ngát dợn lên trong lòng chai. Ông mở nút rót thẳng vào miệng một hớp. Chất rượu béo ngậy ngọt ngào cay cay nhắc ông nhớ những quán nhậu ở Hóc Môn, những món thịt rừng ở Biên Hoà, những con cá mú sửa kho tộ ở Vũng Tàu bãi sau bãi trước… Ông ngậm lấy hớp rượu để nghe rõ chất rượu đang thấm vào nướu răng, đang thấm vào các thớ thịt cổ, đang thấm lên nóc giọng, đang nồng lên mũi. Ôi ! Mùi vị quê hương là đây… ông không cầm được nước mắt !

Bà Năm vẫn âm thầm soạn đồ đạc. Bà hiểu ông Năm lắm và nghe thương chồng vô cùng. Tội nghiệp ! Mười năm xa quê hương…

Ông Năm vào phòng tắm rửa mặt rồi ra chỉ chỗ cho vợ xếp quần áo. Xong ông bảo :

– Anh đã làm sẵn mấy món ăn cho hai đứa. Để anh đem ra hâm. Em đặt bàn đi. Đồ đạc trong tủ búp-phê đó.

Bà Năm nghi ngờ :

– Anh mà làm bếp cái nỗi gì ? Mua ở tiệm thì có.

Ông Năm cười sảng khoái :

– Em lầm rồi ! Bây giờ, anh làm cái gì cũng được hết. Nấu bếp, giặt đồ, làm ménage … đủ thứ. Rồi em coi ! À… đặt bàn em nhớ để một dĩa sâu cho món súp légume và một dĩa trẹt cho món gà nấu rượu, nghe !

Bà Năm mỉm cười, thấy chồng sung sướng mà lòng cũng thênh thang trải rộng.

Một lúc sau, hai vợ chồng ngồi vào bàn ăn. Trên bàn cũng có hai cây nến. Cũng khăn trải bàn trắng phau, cũng khăn ăn màu xám lợt, cũng dĩa trắng chạy chỉ vàng, cũng nĩa dao cáng gỗ có nét vẽ cong cong nhè nhẹ. Và không quên hai ly rượu có chân, đựng chút rượu nếp than có màu tím đậm đà và hương thơm mời mọc.

Ông vui vẻ :

– Như vầy mới đúng là nuit de noces chứ, phải không em ?

Bà Năm nhìn chồng không nói, nhưng vành tai bỗng đỏ bừng. Bà nói lảng :

– Súp ngon chớ ! Anh học nấu ở đâu vậy ?

Ông để ngón tay trỏ lên môi, vẻ bí mật :

– Hùm… Không nói đâu ! Ông Tiên người Tàu chuyên nấu đồ Tây chỉ đó, dặn anh đừng nói cho ai biết !

Rồi cả hai cùng cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh đó, cái cười hồn nhiên tìm lại sau mười năm xa nhau…

Bữa ăn kéo dài bằng những chuyện kể cho nhau nghe, nhớ đâu kể đó, không mạch lạc đầu đuôi, bởi vì trong thời gian mười năm có biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra để mà nhớ cặn kẽ cái nào sau cái nào trước ! Dọn dẹp xong thì trời đã khuya. Hai vợ chồng chia nhau, bà nằm trên giường, ông nằm trên nệm dưới đất.

Tắt đèn đã lâu mà hai người vẫn còn trằn trọc. Làm như còn thèm nói chuyện với nhau nữa ! Bóng tối dầy đặc vây quanh. Không khí trong nhà êm êm mát mát. Mùi rượu nếp than và mùi thuốc lá Dunhill còn phản phất thơm thơm. Bỗng bà Năm nghe một bàn tay của chồng đặt lên mình mình. Toàn thân bà run lên nhè nhẹ. Hơi thở của bà bỗng trở nên phập phồng. Một cảm giác dường như thật cũ, mà cũng dường như thật mới, dìu dịu ngây ngây… Bà không biết nữa ! Rồi, không tự chủ được, bà cầm bàn tay chồng áp lên má, lên mũi, lên môi. Bàn tay này tưởng đã vĩnh viễn không còn nhìn thấy, cầm lấy. Da thịt này tưởng đã vĩnh viễn không còn đụng chạm sờ mó được. Mười năm… Mười năm… Nước mắt bỗng chảy dài xuống hai bên tai, bà Năm thốt lên nho nhỏ : “Mình !”. Chỉ có một âm đơn độc, nhưng sao tiếng “mình” nói lên thật nhiều, diễn tả thật nhiều.

Tiếng “mình” mà mười năm nay ông Năm không còn nghe. Tiếng “mình” gợi lên tình nghĩa vợ chồng, nỗi niềm chia xẻ. Tiếng “mình” cũng là tiếng nói của yêu đương, của hài hoà sum họp. Và tiếng “mình” ở đây, trong hoàn cảnh này, sao nghe thật mời mọc dâng hiến… Người đàn bà mười năm khổ hận đó, vợ ông, cần được yêu thương thật nhiều để bù lại. Tiếng “mình” gọi nhỏ trong đêm bỗng nghe tiếp nối… Bồi hồi xúc động, ông Năm chồm lên ôm xóc lấy vợ, hôn tràn lên tóc, lên má, lên môi. Ông nghe trong tay, run lên như đang cơn sốt, thân xác gầy còm của vợ. Và tai ông còn nghe những tiếng “mình” đứt quãng ú ớ như tiếng nói trong chiêm bao…

Cuộc tình của tuổi vào thu âm thầm như lá rụng bên ngoài nhưng cũng nồng nàn ngọt lịm như hớp rượu nếp than cùng chia nhau khi nãy. Có mùa chớm thu nào mà không thấy còn sót lại vài tia nắng hạ?

-oOo-

Tôi muốn câu chuyện này chấm dứt ở đây cho cuộc tình được đẹp như bài thơ, được vuông tròn như trong tiểu thuyết. Nhưng trên thật tế không phải như vậy. Bởi vì…

…Một tháng sau đó, bà Năm ngã bịnh, phải vào nằm nhà thương. Bà bị ung thư phổi, ở thời kỳ chót. Bà đã giấu ông Năm, lâu nay, bây giờ bà mới cho biết : hồi còn ở Việt Nam, nhờ khám thấy ung thư nên bà mới xin được chiếu khán xuất cảnh. “Nhà nước Cách Mạng vốn khoan hồng nhân đạo, nên cho phép chị sang thăm chồng đấy ! Chớ chị không nằm trong diện được cứu xét nào cả. Rõ chưa ?”. Gã cán bộ trao giấy phép cho bà Năm, mà nói như thật ! Tụi nó dư biết rằng có giữ bà lại cũng chỉ tốn gạo tốn khoai thêm vài tháng nữa và là một miệng ăn phi sản xuất, chẳng lợi lộc gì cho “nhân dân”. Thà tống đi gấp để khỏi phải chôn thêm một người, chật đất !

Ông Năm đã ngồi bên giường vợ suốt thời gian cuối cùng. Ông đã cầm bàn tay còn mang tỳ vết của mưòi năm gian khổ. Ông đã ôm gương mặt phong trần chưa kịp đổi hồng sau mấy tuần sống đầy hạnh phúc. Và cuối cùng, ông đã chải lại mái tóc bạc chưa kịp dài để được cuốn tròn kẹp lên sau ót, như ngày xưa…

Ông đã gục lên thân xác gầy khô, khóc với tất cả nước mắt còn lại.

Mùa thu đó lá rụng thật nhiều…

Con Người Có Số-TRUYỆN NGẮN – ALAN PHAN…

TRUYỆN NGẮN – ALAN PHAN…

Con Người Có Số

Năm 1983, trong một dịp về thăm nhà ở California, tôi đang loay hoay sửa lại hệ thống tưới nước cho khu vườn trước nhà, áo quần mặt mày lem luốc như một anh lao công Mỹ chính hiệu; thì một người phụ nữ lạ mặt xuất hiện ngoài cổng, cao tiếng, “Ông Tổng; Ông Tổng”. Đã lâu lắm tôi mới nghe lại danh từ này.

Ngạc nhiên, tôi ra mở cửa mời khách vào nhà. Chị giải thích, “Con là nhân viên cắt thịt của nhà máy Dona Foods ở Biên Hòa ngày xưa. Chắc ông không nhớ?” Tôi lắc đầu. Nhà máy có hơn 3.000 nhân viên, ngoài các cán bộ trong ban quản lý, tôi thực sự không biết ai. Chị đưa ra tấm thẻ ID cũ của công ty, đã bạc màu, nhưng vẫn còn nhận rõ tên Dương Thị Gấm, với tấm hình đen trắng ngày xưa rất quê mùa, có cả tên và chức vụ của anh quản lý trong khu vực sản xuất.

Chị tiếp tục kể, “Sau khi chính quyền tiếp thu, con làm thêm bốn tháng rồi bị cho nghỉ vì nhà máy không đủ nguyên liệu để điều hành. Con lên thành phố làm ô sin cho một gia đình vừa ở ngoài Bắc vô. Sau một năm, ông chủ được thăng chức điều về Hà Nội. Vì con làm việc tốt, ông đem con đi luôn và con ở ngoài đó đến hai năm.

Trong thời gian làm thuê, có ông nhân viên ngoại giao người Đức cạnh nhà. Ông ta lớn tuổi, nhưng ngỏ ý muốn cưới con và đem về Đức khi mãn nhiệm. Muốn giúp gia đình nên con đồng ý, dù con chỉ mới 22 tuổi trong khi ông ta đã hơn 60. “Tôi nhìn chị kỹ hơn. Năm 1975, chị mới 19, thì năm nay, có lẽ chị chỉ mới 27, nhưng xem chị già và phong trần nhiều. Chị thuộc loại đàn bà xấu, dưới trung bình, lại thêm đôi chân bị khập khễnh. Có lẽ những bệnh tật, bất hạnh và mặc cảm đã làm chị già trước tuổi?”

“Con theo chồng về Đức được ba năm thì phải bỏ trốn, rồi ly hôn, vì ông này mỗi lần say rượu là đánh đập con tàn nhẫn. Con phải vào nhà thương cả chục lần mỗi năm. Không có tiền bạc hay của cải, làm bồi bàn khổ cực, nên con nghe lời rủ rê của bạn bè chạy qua Mỹ tìm đường sống. Con đến Los Angeles được 6 tháng nay.” Đại khái, chị đang làm nhân viên thoa bóp (masseuse) cho một tiệm trên San Bernadino. Thu nhập cũng tạm đủ sống, nhưng có cơ hội, người chủ muốn sang tiệm, nên chị tìm cách mua lại.

“Con dành dụm được hơn 12 ngàn đô la, nhưng còn thiếu năm ngàn nữa. Nghe tin ông Tổng ở đây, con hy vọng ông giúp cho con số tiền này để con có cơ hội vươn lên”.

Tôi đính chính với chị, tôi đã hết là ông Tổng, hiện nay chỉ là một nhân viên xoàng của một ngân hàng nhỏ ở Wall Street, sống đời trung lưu bình dị như hàng triệu người Mỹ khác. Nhưng may cho chị là hôm ấy, gần ngày Giáng Sinh, tôi thấy rộng lượng và nhất là vừa nhận được tấm chi phiếu khá lớn của ngân hàng cho tiền thưởng cuối năm. Tôi cho chị mượn năm ngàn và thực sự, không nghĩ rằng mình sẽ thấy lại số tiền này, như nhiều trường hợp vẫn luôn xảy ra với bà con bạn bè.

Nhưng chỉ sáu tháng sau, chị lại tìm đến nhà trả lại số tiền năm ngàn và còn muốn đưa thêm ba ngàn tiền lãi. Tôi không có nhà, vợ tôi chỉ nhận lại năm ngàn không lấy lãi và chúng tôi đều đồng ý là số tiến năm ngàn khứ hồi này quả là chuyện thần thoại của Hollywood. Chị còn khoe với vợ tôi là đã mua thêm một tiệm massage khác.

Bẵng đi năm năm, tôi không gặp lại chị và cũng không liên lạc gì. Tình cờ, tôi và bạn bè vào một quán ăn khá sang trọng ở Bolsa (quận Cam) và người chủ tiệm đứng đón tiếp chúng tôi là chị Gấm ngày nào. Chị huyên thuyên câu chuyện, “Làm massage có tiền nhưng nhức đầu với nhân viên, khách hàng và cơ quan công lực, nên con bán hết năm tiệm và quay ra kinh doanh nhà hàng. Ngoài tiệm này, con còn hai tiệm nữa ở khu phố Tàu và khu đại học UCLA.” Chị cũng khác hẳn lúc xưa. Áo quần thời trang bảnh bao, ăn nói lịch thiệp hơn, cư xử đúng như một bà chủ, và chiếc xe Mercedes đời mới đậu ngay cạnh cửa nói lên sự “thành công” của chị.

Sau bữa ăn miễn phí, tôi cũng không liên lạc gì với chị, vì công việc làm ăn của tôi lúc này đem tôi đi khắp thế giới, không mấy khi về lại California. Cho đến năm 1997, khi tôi đi dự một hội thảo và triển lãm về ngành ngân hàng ở Chicago, chị lại xuất hiện. Tôi đang nghiêm túc ngồi trên bàn làm phối hợp viên (moderator), còn chị thì tươi cười chào tôi trong bộ âu phục của một nhân viên cao cấp (executive), với một thẻ bài đeo trên người có tên rất Mỹ là Christina Spencer.

Trong bữa ăn chiều sau hội thảo, chị đưa tấm hình chồng chị và đứa con đã lên 3, rồi tiếp tục, “Trong khi kinh doanh, con đi học thêm vào buổi tối và cuối tuần, cuối cùng cũng lấy được mảnh bằng Cử nhân (Bachelor) về Tài chính (Finance). Sau đó con đi làm cho Wells Fargo (ngân hàng lớn ở California), gặp chồng con là Phó Giám Đốc R&D cho Xerox nên đời sống hai đứa cũng tốt đẹp. Chúng con đang sống ở Palo Alto (một khu giàu của Bắc California cạnh đại học Stanford)”.

Một nhân công nghèo hèn, thất học với một nhan sắc kém cỏi, lại gặp nhiều gian truân, chị đã lên tới đỉnh sung túc của một xã hội có sự cạnh tranh khắc nghiệt giữa nhiều loại dân tứ xứ. Tôi nhìn lại chị thêm lần nữa, một biểu tượng đáng khâm phục cho ý chí cầu tiến và sự hy sinh vô bờ để đạt đến giấc mộng của mình.

Dĩ nhiên là chị không nói ra, nhưng tôi tin là trong cuộc hành trình 22 năm vừa qua của chị, đã không thiếu những tình huống hiểm nghèo, cay đắng và tuyệt vọng chị phải đối diện. Sức mạnh nội tại nào đã giúp chị vượt qua và bay cao mới thực sự là “cú đấm thép” mà cộng động chúng ta hay bàn luận.

Không thiếu những trường hợp như chị trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Rời quê hương với hai bàn tay trắng, thiếu sót mọi kiến thức, kinh nghiệm và quan hệ trên xứ người, những người Việt như chị đã vượt lên mọi rào cản, trở ngại để dành cho mình một chỗ đứng dưới ánh mặt trời (a place in the sun).

Tôi muốn nói với các doanh nhân trẻ và nhỏ của Việt Nam, trong hay ngoài nước, là nếu những con người như chị Gấm đã làm được, chúng ta cũng sẽ làm được.

Điều thú vị nhất là lần ăn tối ở Chicago với chị Gấm, tôi bốc được một lời khuyên trong chiếc bánh may mắn (gọi là fortune cookies mà các nhà hàng Tàu ở Mỹ thường mời khách free. Bánh kèm bên trong một lời bói toán hay một câu nói của doanh nhân). Tôi còn giữ tờ giấy này, “Thua cuộc chỉ là một tình trạng tạm thời. Bỏ cuộc biến nó thành một sự kiện thường trực”. (Being defeated is often a temporary condition. Giving up is what makes it permanent Marlene vos Savant).

Chúng ta không tiên đoán về tương lai, chúng ta đang tạo dựng nó hàng ngày.

 

Image may contain: text that says 'Phạt Giáo GIÀU NGHÈO CÓ SỐ SƯỚNG KHỔ” DO TRỜI...'