PHIÊN PHIẾN TUỔI GÌA-TRÀM CÀ MAU….

Van Pham

CHUYỆN PHIẾM TRÀM CÀ MAU….

PHIÊN PHIẾN TUỔI GÌA

Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy. Ông thường nói rằng, ngày xưa còn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại. Bây giờ già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết….

Bởi già rồi, có nhiều kinh nghiệm, thấy được đúng, sai, có nhiều mặt khác nhau. Bà mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói câu:

– “Mai mốt tôi già rồi thì…” Mỗi lần nghe câu đó, ông vội cắt ngang lời mẹ, và hỏi lại:

– “Hơn chín mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế thì bao nhiêu tuổi mới là già?”

Bà cụ chỉ cười, không đáp lại. Vợ ông thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ cười bí mật. Người em ông nói:

– “Theo tôi, thì không có ai già, và cũng chẳng có ai trẻ. Già hay trẻ, là một khái niệm rất tương đối. Hồi tôi mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười bảy hay mười tám tuổi là đã già khú đế. Già như sắp mua hòm được rồi. Thế mà khi tôi sáu mươi tuổi, tôi thấy các bà năm mươi là trẻ, và các bà bốn chục tuổi là bọn con nít. Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ. “

Ông Hai nói, có một lúc nào đó, con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi ra đường, nếu chỉ thấy các bà già nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già rồi. Lại nữa, mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng nhiều, đừng tưởng mình trở nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già. Nếu mình thấy mọi người dường như trẻ lại, thì chính mình đã già đi, vì mình so sánh thiên hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày.

Ông nói, tuổi già báo hiệu khi sinh lý bắt đầu yếu. Nhịp độ “gần gũi” của vợ chồng thưa dần. Và đôi khi cố gắng làm vừa lòng bà vợ theo định kỳ, mà không có hứng khởi. Những khi đó, nếu bà vợ gạt ra, không cho gần gũi, thì trong lòng lại mừng húm, vì có cái cớ để không làm tròn “bổn phận” mà không áy náy. Ông nói, bực nhất là những lúc mình đang hăng, đang nóng máu, sắp xáp chiến, mà bà vợ cứ cằn nhằn về những chuyện không đâu, như cái hàng rào bị gió vật nghiêng, cây hoa hồng lá bị bạc mốc, con chó bị rận bọ chét. Thế là cả cái thân già nó xìu xuống như cọng bún thiu. Chẳng làm ăn chi được nữa cả. Đành bỏ cuộc vui nửa chừng. Khi còn trẻ, vào những lúc sắp gay cấn như thế nầy, thì dù cho sét nổ trên đầu, cũng không nghe, không biết.

Có người hỏi ông sao không dùng viên thuốc thần kỳ, làm cho vợ chồng vui như thuở ba mươi. Ông nói, đừng tin mà chết sớm, đau tim mà dùng thuốc nầy, thì lăn đùng ra mau lắm. Hồi trước, ông cũng xin ông bác sĩ cho toa thuốc nầy, bác sĩ ấy không chịu. ông cũng hơi giận, nhưng bây giờ thì cám ơn, vì biết được cái nguy hại của nó. Vui chốc lát, mà bỏ mạng, lãng nhách. Theo ông, thì vợ chồng già, ghiền cái hơi của nhau hơn là chuyện vật nhau lăn lộn trên giường. Chỉ cần luồn tay vào áo bà vợ già, mà tìm trái mướp, cũng đủ làm cho bà ấy vui rồi.

Nói về cái tai điếc, ông nói:

– “Có một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn hát hay như ngày xưa. Không phải vậy đâu. Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay. Nghe không hay vì cái tai mình đã nặng, lãng. Rồi cứ tưởng nhạc dở. Đó là dấu hiệu già. Nhất là khi nghe truyền thanh, truyền hình, thì con cái, hàng xóm, cứ than phiền mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà họ bảo oan cho mình là quá lớn.”

Ông Hai nói với một bạn già rằng, khi già, lãng tai, điếc tai cũng có cái lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu dàng, yêu thương, thì nghe cho sướng tai. Khi nào bà trở chứng trách móc, chê bai, than vãn, nói nặng lời, thì cứ nhè-nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy bà nhóp nhép cái miệng, trông tức cười lắm. Không nghe, thì không bực mình, không giận hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương nữa. Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn cười vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm, vì tưởng ông chồng khéo nhịn.

Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà vợ trách móc và thở than, thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức trong lòng. Bởi vậy, mỗi khi vợ ông than vãn, trách móc, thì ông mừng và lắng nghe. Nếu bà ngưng nói, thì hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh nghe đây. Thế là bà dịu xuống, và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi.

Ông Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn sách lên, là móc túi tìm cái kiếng. Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó, mình ít đọc sách hơn ngày xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách vở, báo chí họ in chữ nhỏ hơn, khó đọc. Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ không phải chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai nói rằng, việc chi mà bực?. Phải mừng chứ đừng bực. Mừng và cám ơn khoa học tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống mấy trăm năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy không rõ hoàn toàn, nhưng có thấy, có nghe, đã là quá quý rồi. Tuổi đã cao, mà còn thấy được người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem truyền hình, phim truyện, thì đã nhận được rất nhiều ân phước của trời ban cho. Phải biết cảm nhận và cám ơn trời.

Bây giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Đi du lịch, điều nghĩ đến trước tiên của nhiều người già như ông, không phải cảnh đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay không. Cứ vào quán xá, hội trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu nằm đâu. Quán nào mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước vào. Ông rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng giờ, phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm. Ông cũng rất ngại ngủ nhà lạ, cứ nửa đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào ào làm người khác mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm cửa phòng vợ con người ta, thì cũng bẽ bàng.

Một lần, bà vợ đè đầu ông xuống mà nhuộm tóc cho ông. Mấy hôm sau, lên xe công cộng, ngồi vào ghế dành cho người cao niên. Ông thấy có một “lão trượng” đứng nhìn ông chằm chằm, như ngầm hỏi, sao không nhường ghế ngồi cho người già cả. Ông đoán chắc, chín mươi phần là “lão trượng” kia còn nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì, làm lơ. Nhưng khi thấy hành khách chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ bằng ánh mắt khó chịu, thì ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng kia. Ông nghĩ, không lẽ phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải móc căn cước ra mà chứng minh? Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng ngùng. Rồi tự an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt.

Khi có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô cũng tự cộng thêm gần chục năm. Thế là thiên hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi làm sao mà giữ được trẻ trung như thế. Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời dạy vàng ngọc của người xưa để lại, là “đêm bảy, ngày ba” cho khí huyết lưu thông, điều hoà, thì cơ thể trẻ trung mãi. Ông nói rằng, nếu có khai trụt đi năm ba tuổi, cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh phục, tán tỉnh ai. Khai trụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước tuổi. Lại nữa, phong tục của mình, là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà, các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20 khai là 18, và lúc 23 khai là 20. Cứ khai trụt vài ba tuổi, và cảm thấy sướng khi được người khác tin. Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi hạ xuống cho các bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông không mất chi cả, cũng là làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho người khác vui, yêu đời hơn.

Dạo sau nầy, khi ông ăn uống, thường thức ăn bị đổ vung vãi. Nhiều lần ông tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh lệnh của cái đầu nữa. Đưa cơm vào miệng không gọn gàng, cứ rớt ra vài chút. Đôi khi tay run, mà ông không biết. Ông cho đó là dấu hiệu của tuổi già. Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó, la nạt, vì làm đổ thức ăn.

Một lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ, cha mẹ hỏi đẽo làm gì, nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn, như cha mẹ đã cho ông nội ăn chén gỗ. Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng, nhờ bà đẽo cho ông một cái chén gỗ, rồi mỗi bữa dọn cho ông ăn sau viả hè, bên thềm.

Nghe thế, bà vợ nhìn ông một lúc lâu, rồi rưng rưng nước mắt. Từ đó, bà hết cằn nhằn khi ông làm đổ thức ăn. Ông hay quên. Đôi khi đi xuống nhà kho, mà ngẩn ngơ không biết định xuống để làm gì. Quên trước, quên sau. Một bạn già của ông nói, nếu “cái đó” mà ông trời không bắt dính chặt vào người, thì có khối ông già để quên trên xe buýt, trên tàu điện, ngoài công viên, và khi cần đi tiểu, thì chạy quanh, quýnh lên, mà tìm không ra.

Còn triệu chứng khác nữa, là làm biếng tắm, đôi khi hai ba ngày ông chưa tắm. Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm. Nhưng rồi nhận ra, thì tuổi gìa sợ lạnh, nhạy cảm với cái lạnh, nên ngại tắm. Vì thế mà có nhiều cụ già có mùi, họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen, nóng lạnh chi cũng rán tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.

Bà mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm, cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn. Còn ông, thì ngay cả bánh mì mềm của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ ông, ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt quay, cá chiên, gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn tuốt. Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay. Cái đó cũng nhờ trời cho. Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho sướng cái miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy.

Nhiều ông bạn ông, kiêng khem kỹ lắm, kiêng đủ thứ. Họ xem ba thứ sau đây ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn và béo. Họ ăn lạt, không dám ăn đường, ăn béo. Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ ăn mãi quen miệng, và thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon. Bởi khi đói, thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí thức ngon của trời cho. Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội chi đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp.

Một ông bạn cho ông Tư biết rằng, theo nghiên cứu của đại học Rockefeller, thì có ba điều kiện để cho người già khỏe mạnh và ít bệnh là:

1) ăn bằng một nửa của bữa ăn bây giờ,

2) thể dục thường xuyên, và

3) làm tình đều đều.

Ông không tin, và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho người Mỹ mà thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ, mình có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây giờ, thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết.

Còn chuyện thể dục thường xuyên, thì đúng trăm phần trăm. Phần làm tình đều đều, có lẽ không ai chắc, vấn đề là còn làm được hay không, mà còn đòi đều đều. Mình cứ ăn bình thường, đừng ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái đạo trung dung của người xưa đã bày ra từ mấy trăm năm nay. Rượu chè, nếu uống được, thì uống vừa vừa, cũng tốt cho sức khoẻ. Đừng say sưa là được. Lâu lâu cũng rán vui vợ, vui chồng cho khỏi lạt lẽo. Ông Hai đã chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Đó là đừng ăn vặt, và chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn. Như vậy thì ăn gì cũng thấy ngon.

Ông có quan niệm phóng khoáng hơn về sự sống và cái chết. Ông cho rằng, chết là một tiến trình của đời sống, hợp với luật thiên nhiên của tạo hóa. Sợ chết là vô lý. Không ai tránh khỏi cái chết, không sớm thì muộn. Ai cũng sẽ chết cả. Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh cũng phải chết, huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới 33 tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ.

Cứ thử nghĩ, nếu già mà không chết, thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín mươi phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho hen, run rẩy, chậm chạp. Lấy ai làm lao động mà nuôi các cụ? Nhân loại sẽ đói cho vêu mỏ ra. Già thì phải chết để cho thế giới được trẻ trung hoá. Khi nào anh chị nghe tin một người già chết, mà lòng không buồn, không thương tiếc, thì anh chị được giác ngộ rồi đó. Có chi mà buồn?

Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia đình, một đàn con dại cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì mừng cho người ta thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc làm, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai thuế cho đúng hạn kỳ. Khoẻ ru.

Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm nằm một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với bao tử, nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là không biết điều. Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn nữa, rồi mới được chết sao? Nhiều khi, con cháu mừng cho thân nhân họ được chết, mà mình thì sụt sùi thương tiếc.

Ông thường nói, trong tuổi già, sức khoẻ là quý nhất. Nhưng nếu ai đó, có sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì cũng là một sự nhàm chán. Họ đâu biết họ đang có cái quý báu nhất trong đời. Lâu lâu, phải đau vài trận, để nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung sướng, là hạnh phúc lắm lắm. Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết được cái hạnh phúc, cái sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà thân thể không đau rêm, nhức nhối?

Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ kềm kẹp, hà khắc, thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên miền đất tự do? Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so sánh với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có. Được khoẻ nhiều thì sướng nhiều, khoẻ ít, cũng sướng hơn, vì chưa đến nỗi tệ hại lắm. Nhớ đi khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, kịp thời chạy chữa.

Một người bạn ông cho biết, không dám đi khám bệnh thường niên, vì sợ “bói ra ma, quét nhà ra rác”. Thế nào bác sĩ cũng tìm ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm lo. Cứ để thế, rồi khi bệnh nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng không thuyết phục ông được. Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh nầy, thì sinh ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường. Có người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất gây ra. Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở, và bác sĩ có lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm. Đừng vì một số trường hợp xấu, mà sợ đi khám bệnh. Khám bệnh, để biết trước mà đề phòng, để chữa trị khi bệnh mới chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Để ung thư ăn tràn lan ra rồi, thì chỉ có phép lạ, mới cứu được.

Người ta, có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Đó là trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là bất thường. Có một người than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá. Ông Hai bảo rằng, được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì có nhiều người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh. Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái thú vui riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn vàng son, nhớ đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và thích thú.

Ông Hai Hô tập thể dục đều đặn. Ông nói không ai chối bỏ được ích lợi của thể dục, dù già dù trẻ. Không bao giờ trễ để bắt đầu tập thể dục. Không thể dục, thì tấm thân nhão nhẹt ra, rất dễ làm mồi cho bệnh hoạn. Đi bộ trong tuổi già là tốt nhất. Còn khoẻ, thì đi nhanh, yếu thì đi chậm hơn, yếu hơn nữa, thì chống gậy mà đi. Có vận động là tốt. Đi bộ, xương đỡ rỗng, đỡ gãy tay chân khi vấp té. Đi bộ cũng làm cho mặt mày trẻ ra, lưng đỡ còng, thân thể đỡ đau đớn, mệt mỏi. Đi bộ cũng vui, nhất là đi với vợ, với chồng, nói đủ thứ chuyện vui buồn.

Nhưng khi bà vợ bắt đầu cằn nhằn vì những chuyện không đâu, thì phải giả vờ chạy, để bà lại phiá sau, cho bà nói với cột đèn, cằn nhằn với cây cỏ. Không có vợ đi cùng, thì đi với bà hàng xóm cũng vui. Bà sẽ không bao giờ dám cằn nhằn ông vì những chuyện không đâu. Bà sẽ lịch sự hơn. Đi với bà hàng xóm, ông bảo, đừng sợ thiên hạ hiểu lầm, cũng đừng sợ chính bà ấy hiều lầm. Không hiểu lầm thì tốt. Hiểu lầm thì càng tốt hơn, vì làm cho bà ấy vui, làm bà nghĩ là còn sáng giá, còn có người ngưỡng mộ đến cái nhan sắc mùa thu của bà. Bà sẽ yêu đời hơn, sẽ ăn ngon, ngủ được, thế thì ông cũng đã làm được một điều thiện nho nhỏ.

Ông nói, ông được nghe chuyện một bà cụ 88 tuổi, bà nói rằng, phải đi bộ, phải tập thể dục để chống lại bệnh hoạn. Mỗi ngày bà đi bộ hơn một giờ. Bà nói rằng: “Mình phải biết tự thương mình. Con cái có thương mình, chúng có thể cho tiền bạc, quà cáp, chứ không cho mình sức khỏe được. Mình phải tự lo lấy, để mà sống cho vui, sống cho có chất lượng.” Ông nói rằng, thể dục làm tăng tuổi thọ, chứ không làm giảm. Ngoại trừ ham tập, tập quá sức, thì lăn kềnh ra mà chết, mau lắm. Bơi lội là tốt nhất, vận động đủ các thứ bắp thịt. Nhưng tuổi già, thường sợ nước, sợ lạnh. Cái gì sợ thì không nên làm, hại cho sức khoẻ, hại thần kinh.

Mỗi lần nghe có người than là mất ngủ, ông thưòng nói say sưa về bệnh nầy. Theo ông thì những người nầy, đã ngủ đủ, ngủ thừa, nên không ngủ thêm được, mà tưởng là mất ngủ. Vì ban ngày, họ cứ thấy mệt, mắt ríu lại, là ngủ những giấc ngắn. Nên biết, ngủ một giấc chùng 15 phút lúc ban ngày, có thể tương đương với một giấc ngủ 1 hay 2 giờ ban đêm. Mỗi đêm, người bình thường, chỉ cần ngủ ngon chừng 3 hay 4 giờ là đủ mạnh như gấu bắc cực. Nếu không ngủ ngày, thì đêm về ngủ dễ lắm.

Không phải tuổi già là mất ngủ, bằng chứng cho thấy chó mèo già ngủ li bì, ngủ ngày, ngủ đêm, ngủ liên miên. Người già dư thì giờ, ban ngày ngủ rồi, thì ban khó ngủ là chuyện thường. Ông thường nói rằng, đừng sợ mất ngủ. Khi không ngủ được, thì dậy đọc sách, viết thư, làm thơ, xem truyền hình, gõ máy vi tính, đọc thư bạn bè, hãy tận hưởng cái thời gian quý báu đang có. Rồi chờ cho thật buồn ngủ, không thức nổi nữa, vào giường nằm, sẽ ngủ được ngay, và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng.

Đừng ép giấc ngủ, ép giấc ngủ sẽ khó ngủ hơn. Cũng đừng uống thuốc ngủ. Đại kỵ. Uống thuốc ngủ nhiều, làm hư hại hệ thống thần kinh. Đừng nằm nhắm mắt mà đếm cừu, nếu phải đếm, thì đếm những người tình cũ. Mau ngủ hơn. Nếu đời chỉ có một hai người tình thôi, thì đừng đếm một hai, một hai, không có lợi. Hoặc nằm mà hát trong trí những bài ca du dương, đẹp, gợi nhiều kỷ niệm êm ái, thân thương.

Bà chị ông, cứ than phiền là mất ngủ, nhưng khi đi chơi, cứ leo lên xe thì quẹo đầu ngáy khò khò, ngủ suốt buổi, suốt ngày, ngủ mà quên xem phong cảnh. Ngủ như thế thì no rồi, dư rồi, nên khi đến khách sạn, thì làm sao mà ngủ thêm được nữa. Bà chị nói, đi chơi xa sợ mất ngủ. Bà ấy thực sự ngủ nhiều hơn ai cả, mà bà tưởng là mất ngủ.

Một chị khác than là mất ngủ kinh niên, ghé nhà ông chơi. Ông nói là sẽ chữa bênh mất ngủ cho chị. Ông dẫn chị kia đi chơi, suốt ngày lội bộ, chị vừa đi vừa ngủ gật, ông không cho ngủ. Ông nhờ hết việc nầy qua việc nọ, không để chị có thì giờ mà ngủ gật. Đêm không cho đi ngủ sớm. Mới mười giờ đêm, mệt quá chị năn nỉ xin đi nằm, và đánh một giấc ngon lành dài đến sáng hôm sau. Trong mấy hôm liên tiếp đêm nào chị cũng ngủ li bì, ngủ ngon, không cần thuốc thang chi cả. Ông truyền bí quyết, là không ngủ ngày, mệt mấy cũng không ngủ, ban đêm đừng đi ngủ sớm, phải chờ cho mắt ríu lại, mở không ra, mới đi ngủ, thì ngủ rất ngon.”

Nhiều người già tự đặt cho họ một kỷ luật để sống. Theo ông, thì có kỷ luật cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng khỏe hơn. Nhiều người tính tình nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như quy định mới chịu. Tội chi vậy, nếu không răm rắp, mà không chết ai, hại ai, thì răm rắp làm chi cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với chính bản thân mình, kẻo tội nghiệp nó.

Khắc kỷ cũng là điều hay. Nhưng tội gì mà tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi. Nên cứ xem mọi sự như trò chơi. Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn. Ông không mong cái tuyệt đối, hoàn hảo. Trong một cuộc chơi, ông không hy vọng được tất cả mọi người tham gia, có ít vui ít, có nhiều vui nhiều. Hai ba chục người cũng vui, mà năm bảy bạn bè cũng vui luôn.

Nếu hụt một cuộc chơi, một cuộc gặp gỡ, ông cũng không tiếc, chẳng sao cả, ông về nhà mở nhạc, mở TV ra mà thưởng thức. Ông nghĩ, được thêm một dịp nghỉ ngơi, yên tĩnh. Có lần đi trể máy bay? Ông bình tĩnh xin đi chuyến sau mà không được. Ông cũng cười, không bực mình, quay về nhà, pha một bình trà, đem một tập thơ ra mà ngâm vịnh, nằm ngửa mà thưởng thức cuộc tranh tài thể thao. Ông nói, đôi khi nhờ trễ một chuyến may bay mà sống sót, nếu máy bay rớt. Chiều ra ngoài quán uống cá phê xem sinh hoạt phố phường. Nói chuyện tào lao với chủ quán.

Ông không bao giờ tranh luận gay gắt với ai. Ông nói, tranh luận làm chi cho mệt, rồi giận nhau? Trong tuổi già, khi có cuộc tranh luận, thì tránh là tốt nhất. Nếu không tránh được, thì chịu thua đi, thắng làm chi, để cho đời ngắn lại? Thắng tranh luận, làm thiên hạ ghét, làm mất lòng bạn bè, làm người bị thua tức giận, và nóng mặt, không ưa mình. Không ai ghét người thua trong cuộc tranh luận. Người thắng cuộc, dễ bị ghét hơn. Thử đánh một ván cờ xem, nhường cho đối phương thắng, làm họ vui hơn, không chừng mình được đãi đằng hậu hỉ hơn.

Đến nhà người ta, mà cãi nhau, tranh thắng, làm họ mất mặt với vợ con, với bạn bè, thì đừng mong chi được tiếp đãi thắm thiết. Khi thua, mình không thiệt thòi, mất mát chi cả, mà lại được thương, tại sao không chọn tình thương, mà chọn cái bị ghét. Thắng tranh luận, cũng chưa chắc mình đã giỏi hơn người, mà giỏi hơn để làm chi?

Và cũng chưa chắc ngưòi ta đã chịu cái lý của mình là đúng. Trong tình vợ chồng cũng vậy, nhiều ông nhiều bà tranh hơn thua từng ly, từng tí, cãi vả nhau tưng bừng về những điều không ích lợi chi cho ai cả. Rồi giận nhau, nói nặng nhau, làm nhau đau đớn vì lời nói thiếu tử tế, thiếu lịch sự. Có ích lợi gì đâu. Tranh nhau thắng thua, làm sứt mẻ hạnh phúc gia đình, làm mất đi thì giờ quý báu bên nhau, làm không khí gia đình nặng nề.

Đừng bao giờ nói là phải làm cho ra lẽ, không thì hoá “lừng”. Hãy cứ để cho chồng mình, vợ mình “lừng” đi, cho họ sướng. Tại sao đi ra ngoài, không dám “lừng” với thiên hạ, mà về nhà lại “lừng” nhau làm chi cho mất vui. Ông thường nói, cứ chịu thua đi là khoẻ nhất. Ông đã thua, thì không việc chi mà ai đó gây hấn thêm. Đúng hay sai, ông tự biết. Không cần tranh luận nhiều. Có tranh luận, thì cũng chưa chắc đã thuyết phục được đối phương mà không gây mất mát.

Mỗi lần phải tranh luận với ai, thì ông nhớ lại chuyện ông Pol Pot. Ông nầy đã giết chết hơn hai triệu dân vô tội, tức khoảng một phần ba dân số Kampuchia của ông thời đó. Thế mà cuối đời, khi sắp chết, ông Pol Pot nói với một phóng viên Tây phương rằng, những điều ông đã làm, là lợi ích cho dân tộc của ông. Nhớ chuyện đó, làm ông đỡ ngứa miệng xen vào những cuộc tranh luận.

Khi có ai chê bai ông, ông chẳng bực mình, không giận hờn, mà cứ cười, và xem như không. Ông tự nhủ, biết đâu ông cũng đáng chê, đáng trách. Nghe thiên hạ chê, để mà sửa mình, biết mình còn cái chưa hay, sai sót. Không phải ông là kẽ mặt dày không biết xấu hổ, nhưng thiên hạ chê, mà không phản ứng, thì như gió qua truông. Có một ông khác, bị vợ chê bai hoài, chê đủ thứ. Ông nầy chỉ cười, mà nói với bà vợ rằng, ông không ngờ bà xui xẻo đến thế, lấy phải một thằng chồng tệ hại như vậy, tội nghiệp cho bà quá. Bà vợ nghe mà chột dạ, và biết đã ăn nói quá trớn.

Khi nghe ai khoe khoang, ông cũng không bắt bẻ, không lật mặt thật của họ ra, sợ làm cho họ xấu hổ, bẽ bàng. Ông cứ giả vờ tin, để mà đãi họ vài phút vui sướng, cũng là làm được một việc thiện nho nhỏ. Ông không mất gì, và chẳng thiệt hại cho ai, mà cuộc đời nầy thêm vui, thêm tử tế. Bởi nghĩ thế mà ông làm.

Ông Hai Hô quan niệm rằng, trong tuổi già, có hoài bảo thì cũng tốt, mà không có hoài bảo chi cả, thì tốt hơn, và khôn ngoan hơn. Khi trẻ, nhiều thì giờ, nhiều năng lực, mà chưa có hoài bảo nào làm xong, thì khi già rồi, mong chi đạt được. Tội chi đeo vào thân cái hoài bảo cho khổ. Già rồi, đừng xem cái gì là quan trọng cả. Từ danh vọng, tiền tài, tình yêu. Ngay cả cái mạng sống của mình, cũng đừng xem là quá trọng.

Có lần, ông đến thăm một nhà văn đang nằm thoi thóp, miệng ngậm một cái que gỗ có thấm nước cho đỡ khát, sắp chết vì ung thư. Ông nhà văn còn thao thức vì một tác phẩm để đời chưa khởi đầu được. Chết chưa an lòng. Ông nói:

– Thôi bác ơi, chuyện gì mình chưa làm được, thì thế nào con cháu mình sau nầy cũng làm. Yên tâm mà dưỡng bệnh đi.”

Ông Hai Hô cho rằng, cứ năm ba ông bà bạn già gặp nhau, uống vài ly trà, cà phê mà nói chuyện nhảm cũng là một thứ hạnh phúc trong đời. Ông nói, dù đến để nghe thằng bạn già nó chửi mình, cũng cứ vui, được người ta chửi, tức còn có người để ý đến mình, còn hơn là không ai khen, ai chửi cả.

Những dịp ra mắt thơ, ra mắt sách, ông thường tham gia cho cuộc họp thêm xôm tụ. Cho tác giả sướng. Ông khoái các buổi ca nhạc cây nhà lá vườn, tài tử. Nó cũng có những cái hay của nó. Những buổi họp mặt anh em bạn cũ, ông không bao giờ bỏ qua, ông nói là không tham dự thì uổng lắm. Ông cho rằng, tuổi già, mà còn gặp lại được bạn xưa, thì không còn gì quý báu hơn. Nằm nhà xem sách, xem truyền hình, đá banh, đâu vui bằng gặp bạn cũ. Gặp dịp vui, thì cứ vui kẻo uổng, biết mình còn sống được bao lâu nữa mà mãi phí ngày giờ chạy theo lợi lộc.

Mỗi khi có ai mời đi đám cưới, tiệc tùng, ông đến đúng giờ, mà thiên hạ tà tà đến trể, ông cũng không bực mình. Bởi người ta quen giờ cao su rồi. Họ có cả trăm ngàn lý do để biện minh. Ông có đến sớm, thì cũng có cái lợi khác, được nói chuyện, gặp gỡ, tâm sự tào lao với những bạn bè mà từ lâu ít có dịp gặp nhau. Cũng vui và quý. Dễ chi có cơ hội thuận tiện để gặp nhau.

Đến khi dọn thức ăn ra, không còn cơ hội để nói chuyện nữa, vì ai nấy, lo gắp, lo nhai, không rảnh mà nói chuyện. Khi ăn xong, thì bạn bè vội vã ra về, vì đường xa, vì đêm khuya, vì mệt nhọc. Bởi vậy, ông cứ vui với cái bê bối của thiên hạ, và bằng lòng với câu “Không ăn đậu không phải Mễ, không đi trễ, không phải Việt Nam.”

Ông Tư Hô thường nói, tuổi già, cứ phiên phiến với mọi sự, cho khoẻ, cho sướng cái thân già của mình.

Mái Nhà Xưa-TRUYỆN NGẮN

TRUYỆN NGẮN LƯỢM TRÊN MẠNG….

Mái Nhà Xưa

Tôi qua Mỹ theo Chương Trình HO đầu năm 1990. Tôi đến đây một mình vì chồng chết trong trại cải tạo và chúng tôi không có con cái. Tội nghiệp ảnh, chúng tôi mới ăn ở với nhau chưa đầy nửa tháng thì ảnh bị tập trung. Nếu cái ngày đen tối ấy trễ hơn chừng nửa tháng, có thể ảnh đã có người nối dõi.

Hội USCC, sau này là IOM, thuê cho tôi một cái nhà chứa xe được sửa lại để tá túc. “Cái nhà” này ở gần trường tiểu học Howard thuộc thành phố Glendale, California. Mỗi buổi chiều tôi hay lang thang trên lề của một con đường có trồng hai hàng phượng tím. Những cây phượng tím ra hoa, làm tím cả con đường vắng lặng, tím cả không gian chung quanh và tím cả lòng tôi. Tôi biết đến đây tôi sẽ buồn lắm và cô đơn thêm, nhưng nếu thu mình trong cái nhà chứa xe đó, tôi sẽ chán đến thế nào. Đối với tôi, thà buồn hơn chán. Buồn không làm ai tự tử, nhưng khi chán ta thường không muốn sống.

Một hôm tôi đi lang thang xa hơn thường lệ. Tôi đến gần một ngôi nhà nhỏ kiểu cổ, xinh xắn. Trước nhà trồng toàn một loại hoa hồng màu đỏ thắm. Một bà cụ từ trong nhà bước ra, tay cầm một bình tưới, đến bên những khóm hoa hồng. Bà cụ trông thấy tôi, gật đầu chào. Tôi lễ phép cúi đầu chào lại. Sau khi bước đi vài bước tôi có cảm tưởng như bà cụ đang nhìn theo tôi, nên quay đầu lại. Quả nhiên như vậy. Tôi mỉm cười tiến về phía bà, đưa mắt nhìn bà và lấy tay ra dấu, có ý nói cho tôi xin một đóa hoa hồng. Bà cụ gật đầu. Tôi ngắt một đoá hoa hồng trao cho bà. Bà mỉm cười nhận đoá hoa, đưa lên môi hôn.

Chiều hôm sau, khi đi ngang qua ngôi nhà đó tôi thấy bà cụ đang ngồi trên chiếc ghế mây cạnh mấy khóm hoa. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ bà. Đó là một bà cụ người Mỹ trắng ngoài 80 tuổi, trông rất đẹp lão và hiền từ. Mặt bà cụ ửng hồng dưới mấy đoá hoa hồng đỏ thắm. Tôi nhớ đến bốn câu thơ rất nổi tiếng của Thôi Hộ mà chồng tôi thường ngâm nga:

Khứ niên kim nhật thử môn trung,

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng.

Nhân diện bất tri hà xứ khứ,

Đào hoa y cựu tiếu đông phong.

(Năm ngoái, ngày hôm nay tại cửa ngõ này,

Mặt người đẹp với hoa đào cùng một màu hồng.

Không biết mặt người đẹp bây giờ ở nơi đâu,

Mà hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ)

Tôi bật cười vì đã ví bà cụ với một cô gái đẹp; nhưng tôi lại nghĩ biết đâu sang năm đi ngang đây tôi sẽ không thấy bà cụ nữa. Bà cụ đã ngoài 80 rồi mà.

– “Cô ơi! Biết nói tiếng Anh không””*

Nghe tiếng bà cụ, tôi quay lui, đến gần bà:

– “Dạ biết. Con từng làm cho một hảng thầu Mỹ ở Việt Nam.”

– “Cô người Việt Nam hả” Thật là thú vị!”

Bà nói bà không thể nào phân biệt được người Việt Nam với người Tàu, Nhật hay Thái Lan v.v… Bà mời tôi vào xem căn nhà và khu vườn sau.

– “Cái nhà này đã chứa đựng biết bao nhiêu nhiêu kỷ niệm của ông nhà tôi, David Carter. Cô xem đây! Sàn nhà là cả một công trình của ổng trong suốt mấy năm. Ổng lụm cụm cưa gọt từng khúc gỗ, rồi sơn phết và ráp lại thành cái sàn nhà này. Mấy con thú giả phía sau vườn nữa, cô không tưởng tượng nổi đâu, chính ông nhà tôi đã nặn ra đó. Còn cây sồi sau vườn nữa. Hồi chúng tôi còn nằm chung một giường cho đến khi nằm riêng, nó vẫn y như vậy. Ước gì mình sống mãi với nó. Một ngày nào đó mình sẽ bỏ nó mà đi. Với tôi, chuyện ấy chẳng xa xôi gì”

– “Bà còn khoẻ quá mà. Cái nhà đẹp ghê, lại sạch sẽ ngăn nắp nữa. Bà tự mình săn sóc hả””

– “Tôi tự săn sóc. Thỉnh thoảng cũng có người giúp.”

– “Bà không sợ con là ăn cướp sao mà dám đưa con vào nhà như thế này.”* Tôi cười nói.

– “Vậy chớ cô không sợ tôi là mụ phù thủy ác độc sao mà dám vào đây.”* Bà cười, hàm răng trắng tinh như hàm răng của một cô gái biết chăm sóc sắc đẹp.

– “Ở Mỹ chỉ có trẻ con với người già là dễ thương và không nguy hiểm.”*Tôi nói đùa.

– “Không đâu, thanh niên cũng dễ thương lắm. Cô xem này.”

Bà đến kéo cái hộc tủ nhỏ ra nhưng nó đã bị khoá. Bà vào trong phòng ngủ nhưng rồi đi ra:

– “Tôi định cho cô xem hình con trai tôi nhưng tìm không ra chìa khoá. Nó mất tích ở Việt Nam. Tôi già cả lẩm cẩm mất rồi. Thời gian trôi qua nhanh thật. Mới là một cô gái, mà nay đã thành một bà già. Tôi thấy bà chị Jennifer của tôi mà sợ quá. Chị ấy nằm một chỗ suốt hai năm như vậy. Cô y tá phải nghiền đồ ăn bơm qua lỗ mũi; hạ bộ chị ấy luôn luôn ướt vì phân và nước tiểu, vài chục phút phải thay một cái tã lót, dù đã có cái quạt nhỏ hong khô từ dưới giường.

Hồi xưa chị ấy là một ca sĩ nổi tiếng. Khi chị đứng trên sân khấu hát, chắc không có chàng trai nào tưởng tượng nổi chị sẽ phải bị thay tã lót thường xuyên. Chị mất cách đây 3 năm. Làm sao bây giờ cô” Tôi không muốn giống chị tôi, nhưng tôi còn yêu đời lắm, không muốn chết trẻ đâu. Phải chi đến một lúc nào đó mình quá già và khoẻ mà Chúa gọi mình đi. Cái giây phút đó phải không đau đớn mới được. Nhưng mà tôi cũng không muốn chết đâu, dù bằng cách nào.”

– “Con nghĩ trong trường hợp bà thì Chúa chưa gọi bà đâu.”

– “Nhưng Chúa cũng sẽ gọi chứ! Mình sống trên đời biết bao năm, gắn bó với nào là người thân, bạn bè, khung trời rộng, hoa cỏ xanh tươi, căn nhà ấm cúng&Vậy rồi mình rời bỏ tất cả. Thật vô lý quá!”

– “Bà hãy nghĩ đến những người sắp chết còn khổ hơn những người như Jennifer; chẳng hạn như những tử tội chờ bị hành hình, họ đau khổ cả tâm hồn lẩn thể xác, nằm trong ngục thấp thỏm, không biết lúc nào ra pháp trường, và khi bị hành hình, bộ không đau đớn sao.”

– “Họ có tội, còn mình có tội gì đâu.”

– “Có khi họ bị oan. Còn tử tội chính trị ở một vài nước như nước con, liệu họ có tội thật không. Mà bà là con chiên của Chúa mà, sao lại sợ Chúa gọi””

– “Thiên Đàng hay Địa Ngục gì tôi cũng không muốn đến, khi chưa có tin tức chính xác về con tôi.”

– “Đến một trong hai nơi đó chắc chắn bà biết chính xác.”

– “Ừ, phải.”

Thấy chuyện trò như vậy cũng tạm đủ, tôi xin phép ra về. Bà nói lần sau bà sẽ cho xem ảnh con bà. Tôi cũng hứa sẽ đem hình chồng tôi cho bà xem.

Vì bận chút việc, ba hôm sau tôi mới qua nhà bà, tay cầm theo một tập ảnh. Mới trông thấy tôi, bà đã vào phòng trong đem ra một tập ảnh lớn:

– *”Hình nó chụp lúc học mẫu giáo nè. Còn đây là hình chụp lúc tốt nghiệp trung học. Đây là hình chụp lúc đi lính. Đây là hình chụp khi ở Việt Nam. Nó có cả bạn gái Việt Nam nữa đó. Phải chi nó có một đứa con.”

Bà trưng ra nhiều hình quá, tôi xem không kịp . Sau cùng bà đưa cho tôi xem một tấm hình con bà mặc quân phục tác chiến, đầu đội mũ lưỡi trai, mang súng trường:

– *”Đây là hình mới nhất của nó. Có khi nào cô gặp một người như vậy không”* Nó tên John Carter, cái tên rất dễ nhớ.”

Tôi nhìn John trong hình: cao lớn, khoẻ mạnh, đẹp trai, có hơi ngổ ngáo. Tôi đã gặp biết bao nhiêu quân nhân Mỹ như vậy ở Việt Nam. Hầu như họ đều giống nhau; hầu như họ chỉ là một người được phân ra thành nhiều người, dù đen, trắng, vàng hay đỏ. Tôi nói:

*- “Thật tình con không nhớ nổi.”

– “Có khi nào nó lấy vợ, có con rồi ẩn mình ở đâu bên đó không, như một truyện phiêu lưu tôi đã đọc. Có khi nào nó điên điên, khùng khùng trốn trong rừng rậm không” Nó điên khùng hay gì cũng được, miễn là còn sống.”*

Bà buồn bã nói tiếp:

*- “Tôi khô nước mắt rồi cô ơi, không khóc được nữa.”

Tôi lấy hình Thuận-chồng tôi- ra cho bà xem. Bà nói:

– “Họ mặc đồ giống nhau quá hả. Chồng cô đâu””

– “Chồng con chết trong trại cải tạo.”

– “Tôi có nghe nói đến những trại tù đó. Con tôi cũng có thể ở trong những trại như vậy. Cực nhọc, đói khát. À, cô có biết một món ăn gọi là “phở” không” Con tôi viết thư nói nó thích ăn phở lắm. Tôi có đi ăn mấy lần rồi. Hôm nào chúng ta đi ăn nghe. Tôi đãi cô.”

Lần thứ ba tôi đến, bà nói:

– “Gặp nhau nhiều lần mà tôi quên nói tên tôi cho cô biết. Tên hồi còn con gái của tôi là Julia. Cô tên gì””

– “Con tên Oanh”

– “Ồ, cái tên hơi khó gọi. Gọi là One được không””

– “Dạ được. One, number one.” Tôi cười nói.*

Sau đó tôi đưa bà qua thăm nơi ở của tôi. Vừa bước chân vào nhà, bà đã nói:

– “Đạm bạc quá. Cô có muốn qua ở với tôi không””

– “Xin cám ơn bà. Thật tình, con muốn tự do. Dù sao, bà với con cũng là hai người, không phải một.”

– “Nhưng cô cứ qua nhà tôi chơi, muốn ở lại, ngủ lại bao lâu cũng được.”

– “Dạ vâng, để hôm nào tiện.”

Thế rồi sau đó tôi qua nhà bà thường xuyên. Chúng tôi kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện về gia đình, bạn bè và chuyện Việt Nam trước cũng như sau 30-4-1975. Bà cho biết thân nhân gần nhất của bà hiện nay chỉ còn một người em gái tên là Cindy thua bà 10 tuổi và đứa con trai của bà ấy tên Richard, nhưng rất ít khi họ gặp nhau. Lần gặp nhau mới nhất cách đây chừng hai năm; còn thân nhân của ông cụ thì ở tận Tô Cách Lan, hầu như bặt tin. Tôi cũng nói hoàn cảnh tôi không khác gì bà.

Chúng tôi cùng ăn với nhau, cùng xem TV. Khi mỏi mệt tôi nằm trên sô-pha ngủ một cách tự nhiên thoải mái như trong nhà mình. Trong vòng sáu tháng như vậy, ngoại trừ nhà bà Julia, tôi không hề đi đâu cả.

Một hôm tôi nghe có tiếng xe cứu thương réo inh ỏi. Linh cảm cho tôi biết đang có chuyện chẳng lành xảy ra cho bà Julia. Tôi chạy vội qua nhà bà. Tôi đến nơi vừa lúc người ta dìu bà lên cáng để khiêng ra xe cứu thương. Mặt bà nhợt nhạt, miệng há ra, mắt lờ đờ. Tôi đến bên bà nhưng mấy người khiêng cáng ngăn tôi lại. Bà khoát tay ra dấu phản đối rồi chỉ tôi, nói thều thào:

– “Người…quen…của…tôi”

Một người khiên cáng nói:

– “Chị coi giùm nhà. Liên lạc Glendale Medical Center sau.”

Tôi vào nhà bà, thu dọn sơ qua, kiểm soát bếp núc, phòng tắm. Mãi đến chiều tối tôi mới được vào thăm bà. Bà nằm trong bệnh viện nguyên một tuần. Tôi nghỉ việc để săn sóc bà. Tôi làm tại một tiệm móng tay, người chủ ưu tiên cho tôi muốn nghỉ hay làm lúc nào cũng được, miễn là thông báo trước.

Đến ngày thứ tám bà được xuất viện nhưng phải ngồi trên xe lăn. Tôi đem theo một ít áo quần và vật dụng qua nhà bà ở. Nhìn bà nằm trên giường, mắt nhắm nghiền, hơi thở mệt nhọc, tôi thấy bà giống mẹ tôi một cách lạ kỳ, giống hồi mẹ tôi nằm trên giường bệnh trước khi mất. Rõ ràng bà khác mẹ tôi về vóc dáng, nước da, khuôn mặt…nhưng vẫn có cái gì đó mà tôi không thể đặt tên được, rất giống mẹ tôi. Không biết cái nhìn của tôi có gì khác thường không mà tôi thấy có một số người Mỹ, dù đen, trắng, vàng hay đỏ lại giống một số người Việt nào đó, thí dụ như giống cái liếc nhìn, nụ cười hay tính cách.

Hầu như tôi săn sóc bà từ A đến Z. Tôi dìu bà đi tiểu, đi tiêu, đi tắm rửa. Tôi nấu ăn, giặt quần áo, làm vệ sinh nhà cửa. Có lần bà nói muốn ăn phở. Tôi vội vàng lái xe đi mua một tô phở nhỏ chia làm hai, bà một nửa, tôi một nửa. Bà vừa ăn vừa nói:

– “Biết đâu thằng John đang ăn phở bên Việt Nam.”

Ăn xong bà viết một chi phiếu đưa cho tôi:

– “Con nghỉ làm thì tiền đâu mà tiêu. Cầm cái này đi.”

Thấy tờ chi phiếu 300 đô, tôi trả lui cho bà:

– “Cám ơn bà. Con không nhận đâu.”

Bà lắc đầu bảo tôi phải nhận. Tôi từ chối mãi không được, bèn cầm lấy chi phiếu.

Sau đó vài ngày bà Julia khỏe dần nhưng không ra ngồi ngoài hiên như trước. Tôi đi làm trở lại, nhưng tối nào cũng qua nhà bà ngủ. Vài tháng sau, vào một buổi tối, bỗng nhiên bà cụ nắm tay tôi nói:

– “Gọi tao bằng mẹ đi.”*

Tôi cảm động gọi:

– “Mẹ!”*

Bà cụ Julia ôm tôi khóc thút thít như một đứa trẻ.

Mùa đông năm đó bà cụ Julia lại bệnh giống y như lần trước và phải nằm bệnh viện. Tôi được biết, có thể má sẽ nằm đây cho đến khi không cần phải nằm nữa, nghĩa là cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Cái gì đến với bà Jennifer trước đây thì nay lại đến với má: – Má không thể tự mình ăn uống và tắm rửa được, cô y tá hay tôi phải thường xuyên thay tã lót cho má. Má thều thào nói với tôi:

– “Cái đó thật sự đã đến với mẹ.”

Tôi rơm rớm nước mắt hỏi:

– “Mẹ thấy trong người thế nào”

– “Người mẹ như đúc toàn bằng xi-măng, nhưng không đau đớn lắm, có lẽ nhờ thuốc. Dù sao tâm hồn mẹ thanh thản lắm.”

– “Mẹ có nghĩ ngợi gì không”

– “Mẹ nghĩ đến Chúa, nghĩ đến thằng John. Con nói phải, đến một trong hai nơi đó mẹ sẽ biết tin nó chính xác hơn. Nghĩ đến đây mẹ cảm thấy vui. Ôi chao, phải chi con là vợ thằng John thì mẹ sung sướng biết bao nhiêu. Con có muốn làm vợ nó không””*

Tôi nói cho má vui lòng:

– “Dạ muốn.”

– “Vậy con ở bên này chờ nó; còn mẹ qua bên kia…”

Má vừa nói vừa tháo chiếc nhẫn từ một ngón tay ra đưa cho tôi.

– “Nếu mẹ có thể giao cái nhà cho con thì mẹ cũng giao.. Giao nhà cho con thì mẹ an tâm hơn nhiều. Nhưng mà không được. Thôi, mẹ cho con chiếc nhẫn này. Đây là chiếc nhẫn mẹ sắm cho John cưới vợ. Thôi, con về ngủ kẻo khuya.”

Vì mỏi mệt, tôi về nhà ngủ mê man cho đến khi nghe tiếng chuông cửa reo liên tiếp, sau đó là mấy tiếng gõ cửa lớn. Tôi đến nhòm vào cái “lỗ an toàn” trên cửa. Một thanh niên chừng 25 tuổi đang đứng bên ngoài. Tôi hỏi anh ta là ai, anh ta nói là cháu của bà Julia. Sau khi vào nhà, anh ta tự nhiên đi tới đi lui khắp nhà, nhìn chỗ này một chút, chỗ kia một chút. Cuối cùng anh thanh niên nói:

– “Việc của chị đến đây là xong. Chị có thể nghỉ việc. Dì Julia của tôi còn thiếu của chị tiền công gì không” Tôi là Richard Carpenter, cháu gọi Julia bằng dì ruột.”

– “Anh gặp bà Julia chưa”” *Tôi bực mình nhưng vẫn thản nhiên hỏi.

– “Dì tôi đã mất lúc 2 giờ sáng hôm nay.”*

Tôi oà khóc và bảo anh ta lái xe đưa tôi đến bệnh viện.

– “Không cần đâu. Đã có bệnh viện và nhà quàng lo. Tôi cũng sẽ lo mọi việc còn lại.” Anh thanh niên nói.

Tôi vội vàng lái xe đến bệnh viện. Người ta cho tôi vào gặp má Julia một cách dễ dàng. Lát sau Richard cũng đến. Anh ta yêu cầu tôi đến lấy những áo quần và vật dụng còn để tại nhà má Julia, để anh ta thuê người chuyên môn về vệ sinh dọn dẹp, tẩy uế. Nhìn vẻ mặt Richard tôi lại thấy anh ta giống một người Việt Nam nào đó nơi quê nhà mà tôi không ưa. Tôi hôn má Julia và ra về.

Tôi bỏ ra ba ngày tìm mộ của má Julia nhưng không ai biết cả. Tôi đến ngôi nhà của má Julia tìm Richard nhưng không có anh ta ở đó. Tôi cảm thấy buồn và chán, muốn rời nơi đây để đi đâu đó thật xa.

Một hôm có người bạn rủ tôi qua Missouri mở tiệm nail.

– “Ở bên đó làm nail kiếm ăn dễ lắm.”

Tôi nói tôi không có tiền. Người bạn ngập ngừng một lát rồi nói:

– “Chị giao chiếc nhẫn cho tôi, xem như… cầm. Tôi với chị thì sao cũng được, nhưng còn chồng tôi nữa “

Tôi thật thà nói:

– “Nó đâu đáng giá bao nhiêu”

– “Hột xoàn thiệt mà. Theo tôi nghĩ, nó vừa đủ cho giá sang nửa cái tiệm nail.” Chị bạn cũng thật thà nói vậy.

– “Đây là vật kỷ niệm của tôi. Tuyệt đối không làm thất lạc. Với bất cứ giá nào, tôi cũng chuộc lại.”

Vậy là tôi theo người bạn qua Missouri. Nơi đây thấy có nhiều ngôi nhà kiểu cổ xinh xắn giống như nhà má Julia, tôi càng nhớ má hơn nữa.

Ở Missouri trong vòng 10 năm, chúng tôi lần lượt mở được 8 tiệm nail rải rác khắp tiểu bang và kiếm được một số tiền tương đối lớn. Tôi đã chuộc lại chiếc nhẫn từ lâu và luôn luôn đeo nó trên ngón tay áp út.

Qua năm thứ 11 ở Missouri tôi thấy mình có đủ điều kiện vật chất để an hưởng tuổi đời còn lại. Lúc ấy tôi vừa 46 tuổi. Tôi không có con cái, nên thấy mình không cần phải bon chen cực nhọc làm việc để lo tương lai cho chúng. Tôi nghĩ tôi nên trở về nơi tôi đã từng ở, khi mới vừa chân ướt chân ráo đến Mỹ bằng hai bàn tay trắng, nơi từng có má Julia thương yêu tôi và nhận tôi làm con dâu. Thế nên tôi bán ngôi nhà, cho bạn bè tất cả đồ đạc, sang lại cơ sở làm ăn , bán chiếc xe hơi và trở lại Cali.

Đến đây tôi thuê tạm một căn nhà nhỏ loại single để ở và mua ngay một chiếc xe hơi khác. Chiều nào tôi cũng lái xe đến đậu gần trường tiểu học Howard, rồi lang thang thả bộ trên lề con đường có hai hàng phượng tím. Không có gì thay đổi. Vẫn hai hàng phượng tím buồn, vẫn những ngôi nhà kiểu cổ xinh xắn.

Tôi đi như vậy để được nhìn lại cảnh vật từng lưu lại trong tôi nhiều kỷ niệm với má Julia. Tôi đi tới đi lui và tôi ước gì mua được một ngôi nhà nằm trong khu vực này. Thế rồi chân tôi tiến về phía ngôi nhà của má Julia lúc nào không hay. Ngôi nhà không có một dấu hiệu nào thay đổi, vẫn màu sơn đó, vẫn cây sồi lá xanh ngắt nhô lên ở phía sau, vẫn những khóm hoa hồng màu đỏ thắm. Và… tôi có hoa mắt không, má Julia từ trong nhà bước ra, tay cầm một bình tưới. Má chỉ tưới vài gốc hồng, rồi mệt mỏi, ngồi lên trên chiếc ghế gần đó. Nước mắt rưng rưng, tôi tiến về phía má, đưa hai tay ra, rồi lại bỏ tay xuống và ngắt một đoá hoa hồng trao cho má.

Tôi mơ hồ nghe tiếng nói:

– “Sao lại ngắt hoa như thế”.

– “Con là Oanh đây mà.”

– “Oanh hả” Tới đây làm gì vậy”

– “Con muốn thăm mẹ và hỏi thăm có ai bán nhà gần đây không.”

– “Nhà ở đây đắt lắm.”

– “Như cái nhà này thì bao nhiêu””

– “Đâu có bán mà nói bao nhiêu”*

Tôi lẩm bẩm:

– “Má Julia chưa chết và trở thành lú lẩn như thế này. Người ta đã lừa tôi.”

Tôi ôm bà cụ, khóc nức nở. Bà cụ cũng ôm lấy tôi:

– “Đã lâu rồi ta chưa được ai ôm như vậy. Phải chi ta có một đứa con gái hay con dâu hiếu thảo như thế này. Ta có một thằng con trai đi lính, rồi đào ngũ, bài bạc, hoang đàng. Thật vô phúc.”

Ngay lúc đó một người đàn ông từ trong nhà bước ra. Chính là Richard. Anh ta nói:

– “Chị muốn mua nhà hả” Mẹ tôi không bán đâu.”

Thì ra bà cụ này là dì Cindy, em của má Julia.

– “Mẹ tôi nói dì Julia không cho phép bán nhà. Mẹ tôi bây giờ lú lẫn lắm. Tôi không có cách gì thuyết phục mẹ tôi bán được, trừ phi… trừ phi mẹ tôi chết. Cô đợi được không” Tôi nghĩ cũng không lâu”

Anh ta lè nhè nói, mặt đỏ gay vì rượu. Anh ta không nhận ra tôi. Tôi sợ hãi chào anh ta và bà cụ, rồi bước nhanh ra xe.

Tối hôm ấy tôi nằm mơ thấy má Julia. Tôi nói đủ thứ chuyện với má, nào là chuyện chiếc nhẫn má cho, chuyện làm ăn, chuyện mua nhà. Sau cùng tôi hỏi:

“Sao mẹ không cho phép dì Cindy bán nhà cho con””

Má Julia cười nói:

– “Mẹ bảo đừng bán cho người khác, chứ không phải đừng bán cho con. Con cứ tới mua đi.”

Tôi cho đó chỉ là giấc mơ vớ vẩn nên không đế ý đến.

Một buổi sáng tôi lái xe ngang ngôi nhà của má Julia. Tôi định đi luôn, nhưng rồi như có một mãnh lực nào đó bảo tôi dừng lại. Tôi đã dừng lại và tiến về phía ngôi nhà.

– “Tôi đã thuyết phục được mẹ tôi bán nhà” Richard nói, nhìn tôi soi mói, nhưng vẫn không nhận ra tôi.

Thế là sau khi nhờ chồng của một người bạn rành về bất động sản trả giá và lo mọi thủ tục, tôi đã mua được ngôi nhà đó.

– “Tôi không ngờ chỉ trả có một tiếng là họ bán liền. Rẻ như cho.” Người chồng của bạn tôi nói.

Mấy tháng sau tôi dọn vào. Ngôi nhà hoàn toàn không được sửa sang tu bổ, mười năm trước thế nào thì nay nó cũng y như thế. Tôi kéo cái hộc tủ ra. Những tấm ảnh gia đình bụi bặm mà có lẽ 10 năm nay không có ai xem. Tôi cho sửa sang, tu bổ lại ngôi nhà, nhưng vẫn giữ nguyên kiểu cách ban đầu.

Theo phong tục Việt Nam, tôi lập một bàn thờ, trên đó đặt các tấm hình của ông bà nội tôi, ba má tôi, ông cụ David, má Julia, chồng tôi và John. Tôi phóng lớn một tấm hình của chồng và một tấm hình của John treo trên tường. Ai hỏi hai người đó là ai, tôi đều nói là chồng tôi, đời chồng trước và đời chồng sau. Tôi đã thay thế má Julia làm chủ ngôi nhà.

Nhưng rồi sẽ được bao lâu như vậy. Một ngày nào đó tôi cũng sẽ theo má Julia. Thế nên tôi thường bắc ghế ra ngồi ngoài hiên, mong có người đến ngắt tặng tôi một đoá hoa hồng.

May be an image of flower, tree and outdoors

Quyết định dời về … Tampa

Quyết định dời về …Tampa

Ngô Đình Châu

Gia đình tôi sinh sống trên đất Mỹ được 23 năm

Gia đình tôi đến Mỹ năm 1993 đến nay 2016 đã được 23 năm, vì hoàn cảnh sinh sống chúng tôi phải di chuyển qua nhiều nơi chốn, thế nên biết thêm được nhiều điều về nước Mỹ.

Thoạt đầu đến Mỹ chúng tôi cư ngụ tại thành phố Hawthorne – nam Cali vì do bà chị giúp đở sponsor cho. Ở đây chúng tôi share phòng với nhà chị, vợ chồng con cái dồn vào một phòng nhỏ tí thật bất tiện rồi dần dà cũng quen. Ở Hawthorne, vợ chồng tôi đi đến trường chuyên dạy nghề nail để học lấy cái bằng. Rồi kể từ năm 1995 chúng tôi sinh sống bằng nghề này, một nghề duy nhất cho đến bây giờ.

Cali là nơi sinh sống lý tưởng cho người Việt Nam khí hậu mát mẻ quanh năm như Đà Lạt. Ở VN có món ngon gì thì Cali cũng có đủ, có khi còn ngon tuyệt hơn nữa vả lại thực phẩm được kiểm tra rất nghiêm ngặt nên không sợ độc hại như bên nhà. Ra đường gặp toàn người Việt đi đâu cũng nói tiếng Việt thoải mái, sống trên đất Mỹ mà hoàn cảnh sống gần như VN.

Chỉ kẹt một điều nghề Nail ở Cali bị cạnh tranh rất dữ, nên giá “bèo” hơn các Tiểu bang khác nhiều lắm nhất là so với các Tiểu bang miền Bắc. Thứ hai nhà cửa Cali lại rất mắc mỏ, có người ví von bán một căn nhà ở Cali đem tiền qua Tiểu bang khác mua được hai, ba …. căn nhà. Vợ chồng tôi lúc đó đã trung niên e rằng khó lòng mua nổi một căn nhà cho dù trả góp.

Sau 4 năm ở Cali vợ chồng con cái lại đùm túm qua Tiểu bang khác, về thành phồ Joliet thuộc TB Illinois, một thành phố nhỏ gần Chicago cách đó khoảng 1 giờ lái xe. Chúng tôi đến Joliet vào mùa đông thấy tuyết bay đầy trời mà lòng kinh hãi. Tất cả cảnh vật đều phủ một màu trắng toát và lạnh kinh hồn. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi về Joliet đây là nơi chốn không thể sống lâu dài được, chỉ sống tạm bợ để kiếm tiền rồi chuồn thẳng.

Có lẽ hầu hết người VN đều rất sợ lạnh đồng thời lại rất sợ cái khung cảnh u buồn của mùa đông, cảnh buồn người có vui đâu bao giờ, bầu trời âm u màu chì kéo dài suốt 6 tháng khiến người ta cảm thấy chán chường, không còn cảm thấy muốn sống háo hức nữa cho dù nơi đây chúng tôi kiếm rất nhiều tiền. Sau 5 năm, chờ cho con gái học xong lớp 12 chúng tôi quyết định đi về miền nắng ấm tiểu bang Florida. Ngày đi, bao nhiều đồ đạc sắm sửa tạm bợ vất đi hết chỉ mang theo quần áo và đồ dùng cần thiết. Xong xuôi, chúng tôi lên xe bấm 3 hồi còi dài để giã từ Joliet, giã từ vùng tuyết trắng lạnh lùng. Sau đó giong ruổi qua một quãng đường dài 1200 miles để đến Jacksonville – Florida.

Tôi chọn Jacksonville vì muốn trốn cái lạnh cái buồn nơi miền Bắc và xuôi nam để hưởng nắng ấm mặt trời quanh năm. Ngoài ra, ở đây tôi còn có một người bạn rất thân từ hồi Trung học, muốn gần gủi bạn bè cho vui. Té ra không phải vậy chúng tội bận rộn tíu tít với công việc, đâu có thời gian mà gặp gỡ nhau nhiều. Lâu lâu tiệc tùng họp mặt uống vài chai bia và tán gẫu dăm ba câu chuyện, rồi chia tay ai về nhà nấy.

Chúng tôi ở Jacksonville thấm thoát được 13 năm một thời gian khá dài cho một nơi chốn. Trước nay chưa khi nào chúng tôi ở một chổ lâu đến như vậy. Hàng năm vào ngày Labor Day chúng tôi thường hay kéo xuống Tampa, thăm gia đình người em trai của tôi cách đó 4 giờ lái xe.

Có một lần không biết nghĩ sao, em tôi nói:” Khi nào anh chị về hưu, xuống đây mua một ngôi nhà, có mảnh vườn bao quanh, tha hồ mà trồng trọt vui với tuổi già. Tampa khí hậu nóng ẩm quanh năm, trồng cây gì cũng được.” Nghe nói như thế, giống như mọt tia chớp lóe lên trong đầu tôi:” nếu có thú vui này, sao không về Tampa sinh sống, càng sớm càng tốt !” Ở Jacksonville, mùa đông đôi khi lạnh dưới không độ C, trồng cây gì cũng chết, ngoại trừ cam bưởi.

Thế rồi một lần nữa và có lẽ lần cuối cùng, chúng tôi quyết định dời về Tampa. Sau đó, chúng tôi tiến hành hai công việc, mua ngay một căn nhà tại Tampa và sau đó bán căn nhà tại Jacksonville. Công việc mua bán không đơn giản, cũng may em dâu tôi làm nghề địa ốc, nên mọi chuyện rồi cũng suôn sẻ. Đồng thời đóng cửa tiệm Nail gọi người đến cho hết đồ đạc.

Rồi ngày dọn nhà cũng đã đến, công việc dọn nhà lần này nhọc nhằn hơn hai lần trước. Bởi lẽ các lần trước, chúng tôi chủ trương sống tạm bợ nên không sắm sửa gì nhiều bây giờ ngổn ngang trăm thứ. Suốt một tuần lễ, cả nhà tập trung cao độ đóng gói đồ đạc vào các thùng giấy, rồi bưng bê ra gara chất đống chờ người đến bốc dỡ. Có chuyện khôi hài khi dọn nhà, ngày nào vợ chồng cũng cãi nhau, ông muốn vất hết những đồ không dùng đến, còn bà thì cứ ôm theo hết, nhất quyết không buông bỏ. Có người ví von rằng, một lần cháy nhà bằng hai lần dọn nhà, để nhằm nói lên nỗi nhọc nhằn khiếp đảm của việc dọn nhà. Cho đến nỗi, có người dọn nhà chỉ một vài lần là đủ tởn, thề không bao giờ dọn nữa, trong đó có tôi.

Tampa nằm ở khoảng giữa và thuộc bên bờ Tây của Florida, nó nằm trên một vịnh nhỏ có tên là Tampa Bay, vịnh này thông ra vịnh Mexico khổng lồ. Tampa có dân số trên 1 triệu người, đứng hàng thứ 3 tại Florida, sau Miami và Orlando. Tuy có dân số cao nhưng diện tích lại nhỏ hơn các thành phố khác cho nên dân cư cảm thấy đông đúc hơn, luôn luôn lúc nào cũng thấy xe cộ chạy dày đặc trên đường. Thời tiết Tampa có bốn mùa rõ rệt, mùa Thu cũng quét lá mệt nghỉ, mùa Đông cũng hơi hơi lạnh khoảng 50 độ F (khoảng 10 độ C) mùa Hè nóng hừng hực trên 90 độ F (32 độC).

Căn nhà ở Tampa của chúng tôi đã trên 30 tuổi, nhà nhỏ chỉ có 1,100 sqf (khoảng 100 mét vuông), cũng có 3 phòng ngủ và 2 phòng tắm, giá mua là 129K. Căn nhà sơn 2 màu xanh trắng, mặt ngó thẳng ra hướng Đông, đúng cái hướng mà các Thầy Tử vi khuyên tôi nên chọn cho hạp tuổi, không biết có đúng như vậy không, thôi thì có kiêng thì có lành. Trước và sau nhà có 2 cây sồi (oak) cổ thụ tỏa bóng mát trông thật đẹp, nhưng ngặt một điều là không trồng trọt gì được dưới tàn cây của chúng. Cây sồi được coi là tài sản cảu Florida, tỉa nhánh mé cành thì không sao, còn muốn đốn bỏ phải xin phép.

Khi dọn nhà đi thì chứa đồ đạc ở trong thùng, khi đến chổ mới thì dỡ đồ đạc ra để xếp vào các nơi, cả nhà xúm lại làm suốt ngày, khoảng 2 tuần sau thì tạm ổn. Đến cuối tháng, có bửa nghe điện thoại reo, tôi nhấc lên thì được biết có người chủ tiệm Nail được bạn bè giới thiệu bèn gọi đến mời vợ chồng tôi đi làm. Thế là yên phận sống trong căn nhà mới.

Bước ra mảnh vườn, chủ trước họ trồng cây kiểng um tùm trông phát ớn. Tôi kêu một anh Mể tới dọn dẹp, anh chàng này ngơ ngác không biết nói tiếng Anh, muốn bàn công việc phải nói qua điện thoại với vợ hắn. Anh Mể ra giá tiền công là 500 đô, tôi chẳng biết gì nên cứ gật đầu bừa cho xong. Trước nay tôi có nghe nói đàn ông Mể có sức khỏe kinh người, bây giờ khi tận mắt chứng kiến cái cảnh anh Mể này làm việc mà kinh sợ, sợ anh ta ngã lăn ra chết bất tử. Anh ta làm việc dưới trời nắng như đổ lửa và ghê gớm ở chổ, suốt từ sáng tới chiều anh ta chớ hề nghỉ tay. Tới trưa tôi chạy đi mua cho anh một cái bánh hamburger, anh ta nhai nhồm nhàm xong nốc cạn lon Coca, rồi hì hục làm tiếp. Anh ta cứ làm như thế suốt 3 ngày trời, khuôn mặt bình thản, không than vắn thở dài gì hết, mọi chuyện đều bình thường đối với anh ta. Thiệt đáng nể.

Dọn dẹp mảnh vườn xong, tôi chưa biết chỗ nào bán cây ăn trái để mua về nhà trồng. Thời may con gái có người bạn giới thiệu cho Khu Chợ Trời bên thành phố St Petersburg. Nằm kề cận Tampa có 2 thành phố vệ tinh là St. Petersburg và Clearwater. Cả ba tạo thành một hình tam giác, từ nhà đi qua hai nơi này khoảng nửa tiếng.

Theo sự hiểu biết của tôi, thành phố St. Petersburg gọi tắt là St. Pete. (phe ta kêu là Săn Pí) tuy nhỏ hơn Tampa, nhưng không hiểu sao người Việt lại quần tụ đông hơn, chợ búa và nhà hàng Việt Nam đông hơn bên Tampa. Chợ tuy nhỏ cũng có bán đủ thứ hàng, cũng có quày thịt cá tươi sống, cũng có đủ các loại to go như bún mì phở… còn các loại ăn chơi thì ê hề. Nhà hàng VN cũng nho nhỏ, có nhiều nơi cũng có thức ăn ngon nổi tiếng. Tóm lại sinh hoạt của người Việt nơi St. Pete khá nhộn nhịp.

Từ Tampa qua St. Pete phải chạy qua cây cầu Howard dài 6 dặm, cây cầu rất đẹp, đẹp ở chỗ cầu chạy sát mặt biển, khiến ta có cảm giác sóng biển đang vờn bên má mình, đến giữa thì cầu nhô lên cao cho tàu thuyền qua lại. Sáng sớm chúng tôi chạy qua cây cầu này, rồi nhìn qua hai bên, mặt biển lặng im xanh ngắt và trải rộng mênh mông tới chân trời, có những chiếc thuyền rẽ sóng ở xa xa, đã tạo nên một khung cảnh kỳ thú tuyệt đẹp. Từ đó mỗi sáng sớm Chủ nhật, chúng tôi đi qua cây cầu để đến Chợ Trời, chưa bỏ qua một lần nào hết.

Khu Chợ Trời (Flea Market) St. Pete, nằm trên một khu đất rộng, khung cảnh nhộn nhịp bát nháo như bất cứ Khu Chợ Trời nào khác, tuy nhiên mọi nơi đều sạch sẽ, không hề thấy ai xả rác. Những người bán hàng, họ dựng lều hoặc che dù san sát nhau, người người đi lại tấp nập. Vợ chồng tôi khi lần đầu tiên đến đây, chỉ đi dạo một vòng là trong lòng bỗng nhiên cảm thấy vui thích lắm.

Theo tôi, Chợ Trời St. Pete là một nét văn hóa đặc sắc của vùng vịnh Tampa. Sau này khi có bạn bè đến thăm viếng, chúng tôi đều đưa đi thăm Chợ Trời và mọi người đều rất thích thú, kể cả người từ VN qua. Tôi thấy người mua kẻ bán ở đây rất đông người Việt và kỳ lạ một điều, những người Việt hiện diện tại đây đều có gốc gác từ miệt Đồng bằng sông Cửu Long, không hề thấy ai nói giọng Bắc giọng Trung ( hay là có nói mà tôi chưa gặp) Phần lớn những người này lại xuất thân từ vùng đồng quê chứ không ai xuất thân từ thành phố, cho nên giọng nói của họ nghe quê rặc và rất thiệt thà chơn chất, nói sao bán vậy, chứ không hề nói thách một tiếng nào.

Tôi hỏi cô bán hàng trái cây: “Nhãn này giá bao nhiêu tiền một pound vậy cô?” Cô cười đáp: “Dạ, 3 đồng “gửi” một pound”. Tôi nói giỡn: “Sao mắc vậy?” Cô ta cười lỏn lẻn: “Em bán “ghẻ ghề” mà anh chê mắc !” Tôi cười lớn: “Cha! cái giọng này sao nghe giống dân Rạch giá quá vậy ta?” Cô ta cũng cười theo: ” Dạ đúng vậy, em quê Giồng Riềng- Rạch Giá đây anh”.

Có một số người Việt lớn tuổi ở St. Pete không xin đi làm hãng được, bèn ở nhà trồng rau, nuôi gà vịt rồi mang ra chợ trời bán. Nhà cửa ở vùng này rất cũ kĩ và nhỏ xíu, nhưng được cái là có đất khá rộng chung quanh nhà, cho nên thoải mái trồng trọt. Ngoài những thứ thường thấy như rau cải, bầu bí, khổ qua… người ta còn thấy bày bán ở đây những thứ khó tìm như: rau càng cua, bông so đủa, bông điên điển, cọng bồn bồn, rau nhút, rau muống nước (loại rau này tôi chưa từng thấy ở những nơi khác)… Có nhà nuôi gà vịt “đi bộ”, hay ấp trứng vịt lộn cũng mang ra chợ bán. Trái cây thì tràn ngập các loại trái cây VN, vùng đất này trồng mãng cầu, nhãn, thanh long rất tốt, ngoài ra còn có ổi xá lị, trái li ki ma, mít, xoài…

Xoài ở St. Pete có loại trái mập ú, trông ô dề xấu xí, nhưng khi ăn thì có mùi vị thơm ngon, hột lại nhỏ xíu, rất đặc sắc. Vú sữa cũng có, nhưng trái nhỏ tí như trái chanh, ai cũng chê chẳng thấy ai mua. Hầu hết các loại cây trái VN đều trồng được ở vùng này, ngoại trừ sầu riêng, chôm chôm và măng cụt.

Chúng tôi đi dạo qua khu bán cây ăn trái. Anh chủ khu này tên Sang, khoảng 40 tuổi người quê Bạc Liêu, hiện làm chủ một nông trại khoảng 20 acres (acre – mẫu Anh, cở 4000 mét vuông). Anh Sang chuyên nghề ghép cây ăn trái. Mấy cây nhãn, bưởi, cam, quít… cây thấp lè tè mà trái treo lúc lỉu trông thật “đã” mắt. Anh chàng này bán cây nổi tiếng khắp vùng Tampa. Những cây ăn trái của Sang thuộc loại hàng “độc”. Anh ta có những loại xoài mà không chỗ nào có được, như một loại xoài lạ, khi trái còn xanh thì chua tê lưỡi, nhưng khi chín thì thơm ngon không thể tả, và lạ lùng không biết làm sao anh ta cũng có xoài cát Hòa Lộc của Mỹ Tho. Có loài mận VN, khi còn non trái có màu xanh, khi chín tới có màu hồng đào, cắn vào miệng nghe dòn tan ngọt lịm. Anh ta có đủ thứ cây ăn trái khác như hồng dòn, hồng mềm, cây bơ quả nhỏ mà béo ngậy, quít đường Cần thơ, bưởi Biên Hòa… tất cả đã được anh ta tuyển chọn công phu nên mua cây của anh ta chúng tôi đều rất yên tâm về chất lượng.

Đi dọc dài, người đi lại nhộn nhịp vui chưa từng thấy. Ngoài người Việt, còn có một sắc dân đặc biệt khác cũng chiếm số đông ở đây, đó là người H’mong, xuất phát từ vùng núi non của nước Lào ( lạ nhỉ ! không hiểu sao họ lại ở đây) Trong khi người Việt nói chuyện với nhau huyên thuyên bằng tiếng Việt, thì người H’mong cũng không kém ồn ào bằng tiếng nước họ.

Chỗ kia, có một anh người Việt chở nguyên một xe truck dừa xiêm đổ xuống một đống lớn, ai thích trái nào anh ta sẽ chặt dừa, xong cắm ống hút vào đưa cho khách, khách vừa đi vừa uống trông rất vui. Nơi khác người ta xúm xít quanh một cái bàn, chờ mua gỏi Thái Lan của hai vợ chồng người Thái, gỏi làm bằng đu đủ bào, cà pháo tươi, đậu phọng rang, trộn với nước chanh và mắm ba khía, mùi vị ngon khá lạ. Có người Việt kia đi chày tôm ngoài sông rồi đem ra chợ bán, tôm chứa trong thùng cooler, nghe anh ta rao hàng, tôm nhỏ giá 2 đô rưởi, tôm lớn 7 đô một pound. Có chỗ bán cá, bán hoa lan, bán nước mía tươi ép tại chỗ… Tất cả đã tạo nên một bức tranh hết sức sinh động và hấp dẫn của Chợ Trời St. Pete.

Lần hồi, tôi khuân về nhà lũ khủ các loại cây ăn trái, mỗi thứ một cây: xoài, nhãn, bơ, trái vải, quít đường, bưởi… rồi chạy ra chợ mua mấy bao phân bón vào gốc. Hàng ngày tôi ra vườn tưới tắm cho cây, cây lớn lên như thổi, đâm chồi ra lá xum xuê, một thời gian ngắn sau cây ra hoa kết trái, trái nhỏ tí trông dễ thương làm sao.

Trồng cây là một thú vui thanh tao, bởi vì không phải là mong tới ngày ăn quả, mà vì một niềm vui khác, khi trong lòng cảm thấy có một sợi dây tương thông thân ái với cây trái trong vườn nhà. “Cám ơn hoa đã vì ta nở. Thế giới vui từ mỗi lẻ loi”. (Tô Thùy Yên)

Thành phố vệ tinh thứ hai của Tampa là Clearwater, một thành phố du lịch, nhà cửa mắc mỏ nên dân Việt ít người dám sống ở đây. Con đường dẫn vào thành phố tuyệt đẹp cũng có một cây cầu dài khác chạy sát mặt biển băng qua vịnh Tampa, trên đường có những lối rẽ cho ai muốn câu cá thì ghé vào. Hai bên đường có trồng hai hàng cây cọ trông rất thơ mộng, con đường chạy thẳng ra vịnh Mexico. Ngày cuối tuần, người ta ở các nơi kéo đến tắm biển đông nghịt như ở Nha trang bên quê nhà. Lúc đầu chúng tôi cũng ngại ngần chuyện tắm biển, nhưng sau đó thấy người người thản nhiên xuống tắm, đủ sắc dân, đủ dạng người, đủ lứa tuổi… nên chúng tôi cũng kéo xuống tắm cho vui. Té ra biển ở đây rất tuyệt, nước biển trong xanh và phẳng lì chứ không hề có sóng dữ, nước biển lại ấm áp, chứ không lạnh cóng như biển Cali. Khi đã tắm được một lần là coi như vượt qua rào cản ngại ngùng, từ đó cứ dăm ba tuần chúng tôi lại kéo đi tắm biển, rất khoan khoái và thư giản.

Tôi về Tampa đến nay đã được gần hai năm. Không biết có phải vì đất trời phong thủy vận hợp với mình hay sao, mà từ khi về đây tôi thấy trong người sảng khoái lắm. Đêm về, lên giường là ngủ một mạch đến sáng, điều này trước kia chưa hề có nơi tôi. Trong thời gian ở Jacksonville vì nặng nợ cơm áo gạo tiền, đêm đến tôi trằn trọc mãi thuốc ngủ lúc nào cũng thủ trên đầu giường, cho nên có thời gian dài tôi mang bệnh anxiety (bịnh lo sợ). Tôi cũng có đọc nhiều bài viết khuyên người ta nên biết buông sả khi lớn tuổi, phải tu đạo này hay theo đạo nọ, theo vị Thầy này hay theo vị thiền sư kia. Nhưng theo tôi tất cả chỉ là vô ích, khi người ta chưa tìm được một hoàn cảnh sống thích hợp thì khó mà tìm được sự an lạc trong đời thường. Đêm về tôi lắng nghe toàn thân, nghe nỗi sung sướng khoan khoái lan tỏa khắp người mình, hình như Thiên đường ở ngay trong lòng mình chứ không phải đâu xa xôi. Cám ơn Nước Mỹ, đã tạo cho tôi điều kiện tìm thấy hạnh phúc đích thực ngay trong đời thường.

Tôi lại nghĩ lan man sang chuyện khác. Trên cõi đời này có hàng triệu triệu người mong ước được đến sinh sống trên đất Mỹ. Đồng thời cũng có triệu triệu người căm ghét nước Mỹ. Tôi còn nhớ biến cố 911 khủng bố tấn công nước Mỹ, phần lớn loài người đều sững sờ kinh ngạc và biểu lộ lòng thương xót đến nước Mỹ. Nhưng không phải là tất cả, trong những giờ phút đầu tiên của biến cố, người Palestine đã đổ ra đường hò reo mừng rỡ cho thắng lợi của những người tử vì đạo. Có một phái đoàn báo chí một nước Á Châu lúc đó được mời đến thăm viếng Mỹ. Khi biến cố xảy ra họ đang đứng trong Trung tâm Báo chí, và đã có thái độ hân hoan vui mừng trong khi đất nước này đang chìm trong đau khổ. Ngay lập tức họ đã bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ và vĩnh viễn những con người này không bao giờ được phép đặt chân đến Mỹ. Vui mừng trước nỗi đau của đồng loại là hành vi man rợ, cho nên họ rất xứng đáng nhận lãnh hình phạt này. Nước Mỹ không hề đụng chạm đến đất nước họ, chỉ vì nước Mỹ giàu mạnh hơn, và dân Mỹ sống sung sướng hơn dân nước họ, chỉ đơn giản vậy thôi. Nhà văn NNN đã viết một câu rất hay:”… Có những người không chịu nỗi sự thành công của người khác. Bởi vì họ cứ coi sự thành công của người khác là sự thất bại của chính mình.”

Người Việt cũng vậy, có rất nhiều người mê Mỹ và cũng có rất nhiều người ghét Mỹ. Từ sau biến cố 1975 người Việt đã tìm mọi cách để đến Mỹ. Sau khi phong trào vượt biên chấm dứt người ta tiếp tuc ra đi bằng nhiều cách, hợp pháp hay bất hợp pháp. Hợp pháp là đi theo con đường bảo lãnh thân nhân, cha mẹ, vợ con, hôn thê, hôn phu và sau này thêm diện đầu tư. Bất hợp pháp bằng cách du học du lịch rồi ở lại luôn, hay tìm cách kết hôn giả với người có quốc tịch. Giả thử có người mất vài chục ngàn đô cho công việc bất hợp pháp này, thì suy cho cùng họ còn quá lời. Cái lời trước mắt là con cái được hấp thụ một nền giáo dục ưu tú nhất thế giới, nếu còn ở trong nước mà muốn cho con đến Mỹ du học hàng năm phải tốn khoảng 20 ngàn đô. Còn nữa, món lời lớn nhất không thể tính bằng tiền bởi vì nó vô giá, đó là được sống trong môi trường xã hội quá lý tưởng, mà người Mỹ đã cố công gầy dựng từ hồi mới lập quốc cho đến bây giờ.

Một xã hội nề nếp, tất cả mọi đường lối chính sách đều rất minh bạch. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không có giai cấp nào, một thế lực hay đảng phái nào được đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Mọi người sinh ra đời đều được tôn trọng như nhau, đều có cùng một cơ hội tiến thân như nhau. Cho nên nếu anh nghèo, anh thất bại, anh học hành ngu dốt, là do anh chứ không phải do lỗi của xã hội, không hề có cảnh con quan thì được làm quan, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Một xã hội có tính ưu việt vượt trội quá xa những xã hội khác, tôi không dám kể ra đây nhiều nữa sợ nhiều người chạnh lòng.

Có người Việt chưa hề đặt chân đến nước Mỹ ngày nào, nhưng cũng ghét nước Mỹ thậm tệ. Hàng ngày họ xem phim ảnh, thời sự tin tức, họ thấy những cảnh bạo lực ghê rợn cướp của giết người hay sexy khêu gợi, hay mấy vụ cảnh sát bắn chết người da đen… xem riết rồi họ đâm ra ghê tởm nước Mỹ, và còn cho rằng những người Việt qua tới Mỹ rồi đi làm những chuyện xấu xa, là do:” Quít trồng ở Giang Nam thì ngọt, mang trồng ở Giang Bắc thì chua…” đúng là dạng người ếch ngồi đáy giếng.

Có người cứ mở miệng ra là chửi Mỹ như tạo ra cho mình một style lạ, hay chứng tỏ ta đây cũng có một thời “chống Mỹ cứu nước” nhưng thật ra không phải vậy, họ nói một đằng làm một nẻo. Đây là một trường hợp điển hình, hãy nghe nghệ sĩ Kim Tuyến nhận xét về nghệ sĩ Bạch Tuyết: “BT thù ghét nước Mỹ nhưng tại sao lại thích đi Mỹ. Cho con học ở Mỹ rồi lại lấy vợ Mỹ. Phải chăng BT muốn tìm một bãi đáp an toàn sau này ở Mỹ…”

Trong cộng đồng người Việt tại Mỹ có một hạng người không giống ai. Nếu họ là người homeless, hay cuộc đời gặp toàn thất bại thì không có gì đáng nói. Đàng này họ sống trên đất Mỹ đã vài chục năm, làm ăn sinh sống khá thành đạt cũng có của ăn của để, con cái học hành thành tài. Vậy mà hễ cứ có dịp là họ chửi Mỹ, nào là làm ra bao nhiêu tiền, bảo hiểm và sở thuế ăn hết, chủ tư bản bóc lột đến tận xương tủy (câu này sao nghe quen quen!) Có người thấy vậy chướng mắt bèn nói móc họng: “Nếu ông thấy sống ở Mỹ có quá nhiều điều không ưng ý, thì ông nên về Việt Nam sinh sống để khỏi vướng mắt đến những điều này”. Lặng thinh! không nghe câu trả lời, những người này rất xứng đáng mang cái tên là “ăn cháo đá bát”.

Suy cho cùng, để cảm nhận thật sự nước Mỹ phải có thời gian để cho cái “chất Mỹ” nó ngấm vào người. Chứ còn chỉ đi du lịch hay thăm thân nhân vài ba tháng, hay được bảo lãnh qua Mỹ sống vài năm, thì thật tình chưa biết gì nhiều về nước Mỹ. Những người đó cảm thấy nước Mỹ sao chán ngắt, vừa buồn hiu vừa lạnh lùng. Đi đâu cảnh vật cũng từa tựa như nhau, giống y như câu thơ của Nguyên Sa:” Trời trên đất khách buồn vô hạn. Trăng rất quen mà vẫn chẳng quen.”. Thời giờ lúc nào cũng eo hẹp, cặp mắt cứ láo liên ngó đồng hồ. Không hề có cảnh sáng cà phê cà pháo cả tiếng đồng hồ, chiều lai rai bia bọt, kiếm người tán gẫu không phải dễ. Cái xứ gì mà người ta phải ôm đồm đủ thứ nợ: nợ nhà, nợ xe, nợ thuế, nợ bảo hiểm, nợ thẻ tín dụng… Cho nên có rất nhiều người Việt qua Mỹ một thời gian rồi lại quay về cố quốc.

Muốn cái “chất Mỹ” nó ngấm vào người theo tôi nghĩ cũng phải mất cỡ 5 năm. Khi nào người ta thấy nỗi nhớ nhà nó dịu lại, nhìn cảnh vật chung quanh không còn thấy buồn như trước. Vào mùa Đông trời chớm lạnh ra đường thản nhiên vận áo T shirt, điều đó có nghĩa là không còn sợ lạnh như những năm tháng đầu đến Mỹ. Ra đường gặp ai bất kể lạ hay quen đều gật đầu chào:” Hello! How are you doing”. Nói chuyện với người Mỹ không còn dùng body language nữa. Ăn uống không còn thuần túy: bún bò Huế, hủ tíu, mì phở… mà còn thích hamburger, hog dog, pizza, sushi, pasta… Khi nào cảm thấy vui với cái vui của nước Mỹ và buồn với cái buồn của người Mỹ, là coi như không còn có thái độ bàng quang như trước kia, là biết con người mình đã đổi khác. Cuối cùng một điều quan trọng nhất, là khi ta quay về cố quốc, lòng chợt bàng hoàng thảng thốt, đất nước không còn giống như trong tâm tưởng nữa rồi, mọi chuyện đời đều đã thay đổi… và một ý nghĩa buồn rầu nẩy ra là mong sao sớm trở về nước Mỹ. Như ai đó đã nói một câu như là chân lý: “Nước Mỹ không phải là Thiên đường, nhưng là một nơi đáng sống nhất trên cõi đời này”.

Ngô Đình Châu

From: Tuyen Vu & Dai Bang Uong

Rã Rời Cánh Hạc – Truyện Ngắn – Từ Sơn…

Van Pham

Truyện Ngắn – Từ Sơn…

Rã Rời Cánh Hạc

1- Người ta nói mẹ luôn là nguồn sống muôn đời của con. Không có sự hy sinh nào của con có thể bù đắp được tình yêu thiêng liêng của mẹ. Riêng mẹ của con, dù là một phụ nữ không hoàn hảo, khi đối diện với bao nghịch cảnh, nhiều lần mẹ đã bị sa chân, vấp ngã, nhưng với tình thương vô bờ bến, mẹ sẵn sàng xả thân bảo vệ con yêu dù phải chịu đựng đớn đau oan trái của cuộc đời. Con là đứa con gái lớn lên trong sự nghèo khó, đã chứng kiến những thay đổi liên tiếp đến với gia đình con, nhanh chóng như trời hạn rồi mưa.

Hôm nay mẹ lại chạy xe máy ra quán cà phê Tango hẹn hò với chú Quang, người yêu của mẹ, chú là Việt Kiều ở Mỹ mới về. Con ở nhà một mình, tự ăn uống và cùng làm bài với bạn học trên điện thoại. Tango là tên một quán cà phê được dựng lên trên đường Kênh Tân Hoá. Con nghe nói chừng 10 năm trước, người ta đã đổ đất lên một con lạch nước hôi thối mà từ xưa người ta gọi là Kênh Tân Hoá, cải tạo nó đến ngày nay thành một con đường tráng nhựa khang trang, dài khoảng nửa cây số, không khí hoàn toàn trong lành. Con đường vẫn được đặt tên là Kênh Tân Hoá, hoà nhập vào hệ thống đường xá giao thông của quận Tân Phú, Saigon ngày nay.

Hai năm qua, mỗi năm mẹ đều có chở con ra quán đôi lần, nên con đã biết mặt chú Quang, rồi biết cả lịch sử của con đường Kênh Tân Hoá. Chú Quang rất tốt, đã nghỉ hưu, không thích bia rượu. Khi con có dịp tiếp chuyện với chú, chú hay khuyên con phải ráng học để ngày sau có tương lai. Chú cũng thường khuyên mẹ, hoàn cảnh mẹ còn rất khó khăn, phải cố gắng tiết kiệm, rồi tìm mọi cơ hội buôn bán kinh doanh để phát triển kinh tế gia đình. Những điều chú Quang khuyên mẹ, con không biết chừng nào mẹ mới thực hiện được.

Nhà con ở trong một khu nhà trọ cấp 4 rất gần ngã tư Thạch Lam – Luỹ Bán Bích, nơi đây có nhiều khu trọ nghèo, người trọ đa số là dân tứ xứ, làm nghề lao động phổ thông, hoặc chuyên đi làm mướn. Con chưa bao giờ biết được cảm giác sống trong một ngôi nhà riêng của mình sẽ như thế nào, vì từ khi lớn lên, con đã thấy mình chỉ ở trong nhà trọ. Ở cái xứ sở mà giá nhà bạc tỉ, người lao động mỗi tháng kiếm được chỉ vài triệu, ăn còn không đủ, lấy đâu mua nhà. Con nhìn các bạn cha mẹ có nhà cửa tươm tất mà đem lòng mơ ước.

Mẹ con không có nghề nghiệp gì ổn định, mỗi ngày, buổi sáng thức dậy, mẹ sửa soạn quần áo sách vở cho con, đưa con đi học, rồi ra chợ buôn bán lặt vặt, trưa về lo cơm nước, buổi chiều tối đi tìm việc làm, nay công việc này mai công việc khác, vất vả lắm mới kiếm đủ tiền để trả tiền trọ, tiền chợ, tiền học cho con và những chi tiêu khác trong gia đình.

Tiền trọ nhà con đang ở là hai triệu rưỡi một tháng, mẹ còn phải trả thêm chi phí điện nước nữa. Chỉ nội lo việc ăn ở, mẹ đã chật vật lắm rồi, vậy mà năm nay mẹ phải chạy vạy để đóng đủ 6 triệu tiền học phí và các phụ phí khác của lớp 8 cho con nữa, đó là chưa kể mẹ phải mua riêng đồng phục sách vở. Tiền học đã cao, sách học do bộ giáo dục đưa xuống bán với giá cũng không hề rẻ, từ vài chục ngàn đến vài trăm ngàn một cuốn. Sách học hàng năm thay đổi liên tục, học sinh buộc phải mua sách mới, mới có mà học.

Mẹ cho con đi học đã tốn rất nhiều tiền rồi, vậy mà nhà trường còn thường xuyên kêu gọi phụ huynh phải đóng góp thêm những thứ tiền khác, như là tiền mua cái quạt, cái chổi, khăn bàn, hộp phấn… có khi phải hỗ trợ đóng tiền đi tham quan, picnic dã ngoại… Cái gì cũng thu tiền, bất kể nghèo giàu gì ai cũng phải đóng, cứ một hai tháng là đã thấy có việc đóng tiền rồi. Mẹ con dù không đủ tiền chợ nhưng không thể không đóng tiền trường. Thiệt là khổ cho mẹ của con.

Nhìn thấy mẹ quá vất vả, có lúc con nói với mẹ con không đi học nữa, nhưng mẹ giải thích con còn nhỏ đâu làm được việc gì giúp mẹ, thôi thì ráng học, sau này nhờ tấm thân. Nghe lời mẹ con tiếp tục đi học, nhưng với bao nỗi buồn, nhìn thấy mẹ vất vả vì tiền sách tiền trường, thật sự con học không vô.

Con biết được một số các đại gia hay chủ các đại công ty lập ra rất nhiều loại quỹ từ thiện, giúp đỡ người tật nguyền, cứu trợ thiên tai, nhưng tại sao không có quỹ nào giúp cho con nít nhà nghèo, không đủ tiền mà muốn được đi học? Con không hiểu tại sao chính phủ có thể xây dựng những khu giải trí, khách sạn sang trọng, những khu thương mại thật đồ sộ, mà lại không chăm lo cho thế hệ mầm non, bắt con nít chúng con đi học phải đóng tiền quá cao?

Nghèo như con, chỉ mong đi học được ngày nào hay ngày nấy, mẹ con mà không kiếm được tiền thì con cũng phải đành nghỉ học thôi. Bởi vậy, làm sao con dám mơ ước đến khung trời đại học xa xôi, như các bạn học nhà cán bộ được?

Con mồ côi cha từ nhiều năm nay. Theo lời mẹ kể, ba con ngày xưa làm công nhân xưởng điện. Ba mẹ ở nhà trọ, lương ba không bao nhiêu mà phải nuôi mẹ không có việc làm, và rồi còn phải nuôi con. Ba con mất vì bệnh, từ khi con mới 13 tháng chưa biết gì. Mẹ con nách con đi buôn bán lặt vặt ngoài chợ để có tiền mua gạo. Rồi thì mẹ đi làm việc nhà, giữ em, nấu cơm cho người ta, để có tiền mua sữa cho con. Thời gian sung sướng nhất của gia đình con là lúc mẹ con nhận được việc vừa bưng cà phê vừa nấu ăn cho chủ. Mẹ và con được ăn ở ngay trong tiệm, không tốn tiền nhà, mà con lại còn có điều kiện bắt đầu được vô học lớp 1. Nhưng thời gian huy hoàng đó không kéo dài bao lâu thì mẹ con phải dẫn con ra ngoài tự đi mướn nhà trọ, tuồi thơ của con từ đó cũng vất vả theo.

2- Và chú Quang đã xuất hiện trong gia đình con, như là một vị thiên thần. Con không tiện hỏi mẹ con bằng cách nào mẹ quen được chú Quang, con chỉ biết, từ khi có chú, người ta dần bớt đi đòi nợ mẹ, những bữa cơm mẹ nấu được ngon hơn, quần áo con mặc được tươm tất hơn, và nhất là những khi con vụng về ham chơi, con cũng ít bị mẹ la rầy hơn.

Sau hơn một năm thân thiết với chú, gia đình con cũng được chú giúp mua cho những phương tiên phục vụ đời sống, như tủ lạnh và máy giặt như bao gia đình khác. Năm ngoái chú còn cho tiền mẹ mua máy lạnh gắn vào phòng trọ. Có máy lạnh rồi, không khí trong phòng không còn nóng bứt, con có những giấc ngủ êm đềm mà trước đây con chưa bao giờ có được, con được cười nhiều hơn và điểm học của con càng lúc càng tốt hơn.

Lần về Saigon năm rồi, Chú có mua cho mẹ một cái điện thoại thông minh mới tinh, và con cũng có một cái đời cũ, đã qua xử dụng. Con học không giỏi lắm, nhưng từ năm lên lớp 6, con đã tò mò theo chúng bạn, từng mò mẫm mấy cái điện thoại mà gia đình mua cho chúng nó, từ từ con đã trở nên rành rọt về điện thoại. Mấy cái vụ tải áp hay đăng xuất đăng nhập, sửa vài lỗi lặt vặt trên cấu hình điện thoại, đối với con dễ như trở bàn tay. Từ nay, với chiếc điện thoại trong tay, con có thể trò chuyện với bạn học trên Tik Tok, và các bạn mới ở các mạng xã hội khác, con hy vọng con sẽ được mở rộng tầm nhìn và mở mang kiến thức.

Thấu hiểu hoàn cảnh của mẹ, chú Quang thường xuyên gửi tiền về, giúp đỡ cho mẹ phần nào khó khăn trong cuộc sống, đỡ tiền nhà tiền trường. Chú còn gửi cho con một chút tiền để con làm vốn tập tành bán hàng trên mạng, kiếm tiền ăn sáng, và các chi phí cá nhân. Những mặt hàng đầu tiên con tập buôn bán là một số loại mỹ phẩm dành cho các bạn gái tuổi dậy thì đang bị mụn nám. Khách hàng của con hiện nay chính là các bạn trong lớp, các chị ở các lớp khác trong phạm vi trường con đang học.

Đã mấy năm nay, mỗi năm Chú Quang về Saigon một lần, mà hễ có chú về là mẹ con vui lắm, con cũng vui nữa. Vào những ngày thường, buổi sáng đến giờ con đi học, mẹ phải chạy xe đưa con đến trường, sau đó mẹ mới ra quán gặp chú Quang. Đi thăm chú chiều về, mẹ nấu nhiều món ăn thật ngon, có cả mấy ly trà sữa được mẹ đem về nữa. Hôm nay vì là chủ nhật con nghỉ học, mẹ nói mẹ đi thăm chú Quang đến tối mới về, con ở nhà một mình lo học bài, đến bữa ăn trưa con chỉ cần hâm nóng thức ăn có trong tủ lạnh. Con đã ngoan ngoãn nghe theo lời mẹ, ở nhà giặt giũ quần áo rồi học bài.

Đến trưa học bài xong rồi, con ngồi buồn lướt mạng một mình. Con ngạc nhiên thấy rất nhiều người khen đất nước Việt Nam là một trong những nơi đáng sống nhất trên thế giới. Người ta minh hoạ bằng nhiều hình ảnh nhà cửa nguy nga sang trọng, những tượng đài nghìn tỉ, người giàu vui chơi trên du thuyền… nhưng con không hiểu sao người ta ít đưa lên hình ảnh những mảnh đời khốn khó mà con nhìn thấy mỗi ngày, có những cụ già hàng ngày phải lặn lội bán từng củ khoai từng cọng hành, có những gia đình đói khổ phải chạy gạo từng bữa? Dường như trong xã hội này, ít có ai quan tâm đến đời sống người nghèo, mà người nghèo chung quanh con thì nhiều vô số kể.

Con nhớ có lần mẹ nói với con: “Chú Quang vừa gửi tiền tặng con mua áo mới ăn Tết nè”, rồi thì mẹ dẫn con vô siêu thị Aeon Tân Phú ăn gà rán uống trà sữa, và mua cho con được hai bộ quần áo thật đẹp, mà hồi đó tới giờ chưa có khi nào con dám mơ ước.

Ở trong siêu thị, mấy cô mấy chú đi mua hàng không ai ăn mặc xoàng xĩnh như mẹ của con, họ mặc đồ “mô đen” đủ kiểu trên đời, đẹp hết biết, chứng tỏ là ở Saigon này có rất nhiều người thật giàu có. Có lẽ những người giàu chỉ cư ngụ ở những nơi sang trọng, con không thể nào nhìn thấy họ trên các đường phố chung quanh nhà con. Mấy đứa con nít đi theo họ, ôi thôi quần áo đâu mà đẹp quá, màu sắc xanh đỏ sặc sở như trong các phim về thế giới thần tiên. Tự nhiên con hiểu ra, những người giàu có họ ăn mặc đẹp lắm, tơ lụa quần áo trên người họ, ngay trong siêu thị này cũng khó tìm thấy. Con chỉ có một chút thắc mắc, không hiểu vì sao, trong xã hội gạo châu củi quế này, mà họ lại giàu có quá chừng như vậy?

Từ khi nhận được sự giúp đỡ của chú Quang, con thấy mẹ có chút thay đổi về cách mưu sinh. Mẹ không còn ngày ngày đi năn nỉ xin việc làm, mà xoay sở cuộc sống bằng cách dùng tiền của chú cho, đem cho bạn hàng vay lấy lời. Chi phí trong gia đình con, mấy tháng nay, chỉ nhờ vào số tiền lời kiếm được từ tiền cho vay đó. Mỗi tháng tiền thu vào không nhiều nhưng đều đặn, dù có phải ăn tiêu dè xẻn, nhung cuộc sống của gia đình đã có phần dễ chịu hơn trước.

Dù sao thì nghề nghiệp của mẹ như thế này thật sự vẫn không ổn. Tình hình xã hội, giá cả biến đổi khó lường, nếu chỉ sống bằng tiền cho vay thôi, thi tương lai gia đình sẽ rất là mù mịt. Phải chi chú Quang và mẹ quyết định làm đám cưới, chú Quang sẽ chính thức bảo bọc mẹ và con, mẹ sẽ không còn cực khổ chạy vạy lo toan, và con cũng sẽ yên tâm học hành…

Lúc này trời đã về khuya, cảm giác trống trải làm con thấy lạnh hơn bình thường. Con mở cửa trông ra đường thì nghe gió thổi vù vù, mây giăng khắp trời, dường như có cơn mưa đang kéo đến. Mấy hôm trước đi gặp chú Quang, thường thì mẹ cũng về sớm, nhưng sao hôm nay lại về trễ như thế này? Con tự nhiên cảm thấy rất thương mẹ, bao ngày vất vả sương gió. không biết hôm nay mẹ có gặp nguy hiểm gì ngoài đường không. Nghĩ đến mẹ, trong lòng con cảm thấy xót xa.

Chợt điện thoại reo, chính là mẹ gọi. Mẹ dặn con ăn cơm trước, không phải chờ mẹ, khuya mẹ mới về. Nghe lời mẹ, con tự ăn uống tắm rửa và lên giường tìm giấc ngủ. Nằm mãi con vẫn không ngủ được. Đến khuya, sau cơn mưa, mẹ về đến nhà, bước vào cửa, thẩn thờ buông mình xuống nệm, tay không rời điện thoại. Dường như mẹ đang nói chuyện với chú Quang. Con nghe mẹ nói rất nhỏ, giọng lạc đi:

– Không còn hy vọng sao anh. Em không ngờ tình hình nghiêm trọng như vậy. Có cách nào giải quyết không anh?

Chú Quang nói gì đó con không nghe rõ, rồi nghe mẹ nói “em xin lỗi”. Mẹ nói chỉ một câu thôi mà nước mắt ràn rụa.

Đêm nay mẹ không hề ngủ, con giật mình mấy lần cũng vẫn thấy mẹ lục đục chuyện gì. Mới 3 giờ sáng mẹ lay con dậy:

– Hiền con cẩn thận coi chừng nhà, sáng nay con điện thoại cho bạn Ngọc đến chở dùm con đến trường. Bây giờ mẹ đi công chuyện.

Con mở cửa cho mẹ dắt xe ra ngõ, trong lòng bùi ngùi, có chút lo âu, khi lại một lần nữa nhìn thấy mẹ lao mình vào sương gió.

3- Con nghĩ tình yêu của mẹ đối với chú Quang rất sâu đậm, vì con thấy mẹ khóc nhiều từ sau ngày chú phải trở về Mỹ gấp, vì bệnh tim trở nặng. Con được biết do điều kiện sức khoẻ, chú không còn khả năng tiếp tục giúp đỡ, thăm viếng gia đình con nữa.

Chú Quang về Mỹ rồi, mẹ con đứng ngồi không yên, cứ tìm cách gọi qua Mỹ để hỏi thăm sức khoẻ chú, nhưng đường dây đã bị cắt. Mẹ buồn, cứ ra vào thờ thẩn. Có lẽ chú chưa có cơ hội, hoặc là do tình cảm hai người chưa đủ lớn, để chú chính thức công bố với con cái của chú ở bên Mỹ về quan hệ của chú và mẹ. Bây giờ thì mẹ không còn cơ hội. Mẹ nói với con, mẹ không thể quên kỷ niệm những ngày mẹ gần gủi với chú Quang. Chú đã mang đến cho mẹ rất nhiều hạnh phúc và tình yêu, dù hạnh phúc muộn màng và tình yêu cũng không thể trọn vẹn.

Cả năm nay, không có sự giúp đỡ của chú Quang, tiền bạc trong nhà dần cạn, nguồn vốn cho vay của mẹ cũng bị mòn dần. Hiện nay, mẹ chỉ lo được tiền trọ, tiền chợ mà thôi, còn tiền trường của con thì mẹ không lo nổi. Mẹ bảo con đã lớn, sắp bước lên lớp 9 rồi, con phải cố gắng tự lo đóng tiền học cho con. Nghe mẹ tính vậy, con cũng phải đồng ý. Nhưng muốn có tiền đóng tiền học, con cần phải nhờ người giúp tìm cách tăng số lần truy cập trang quảng cáo của con. Nếu bán được nhiều hàng hơn, con có thể có đủ tiền nộp cho trường để được tiếp tục đi học. Con chỉ biết làm hết sức, nhưng được tới đâu hay tới đó. Vì rủi như không kiếm đủ tiền, con phải nghỉ học thôi, không còn cách nào.

Con rất thương mẹ, nhưng con cũng trách mẹ sao không chịu khó tổ chức lại cuộc sống, để có thể tự mình đứng dậy, vượt khó khăn. Ở Saigon này, người lao động bay nhảy, buôn bán kiếm sống cùng khắp. Con có nhỏ bạn, ba bị bệnh, mẹ chỉ có gánh xôi sáng, chiều thau phá lấu vỉa hè, tiện tặn cũng nuôi được chồng và hai đứa con ăn học. Con không hiểu sao mẹ không chịu bước ra xã hội tìm cơ hội làm việc, chỉ biết ôm lấy mấy đồng tiền cho vay ít ỏi. Mẹ không nhớ các lời khuyên của chú Quang, mà cứ thản nhiên sống không nghĩ đến ngày mai, giao du nhiều bè bạn, ngày ngày cà phê, bia rượu… Con lo sợ có lúc nào đó, mẹ có thể bị sa chân, lầm lỡ.

Con vừa hoàn tất những buổi thi cuối cùng của học kỳ 2, hôm nay con bắt đầu được nghỉ mấy ngày trước khi trở lại trường nhận kết quả thi, sau đó sẽ chính thức nghỉ hè. Vừa sáng sớm mẹ đột nhiên bảo con sửa soạn ăn mặc đẹp, để cùng mẹ đi chơi Saigon. Con có hơi ngạc nhiên. Con đã từng ra Saigon bằng xe buýt với bạn bè trong lớp, cũng từng đi thăm viếng các di tích lịch sử, dinh thự của “đế quốc” để lại, từng tham dự các buổi du ngoạn Saigon – Suối Tiên do nhà trường tổ chức, nhưng chưa bao giờ nghe mẹ nói “đi chơi Saigon” cùng mẹ. Lời mời của mẹ con cảm thấy vui làm sao. Con thay một bộ đầm đẹp nhất, chải thẳng tóc, điểm thêm chiếc nơ trắng, để nhìn được sáng sủa hơn khi đi chơi với mẹ.

Mẹ chở con bằng xe máy chạy xuyên qua những con đường nội thành. Ngồi sau xe mẹ, con có dịp chiêm ngưỡng lại quang cảnh thành phố Saigon, đã được người ta xây dựng rất hiện đại và sang trọng. Nhìn cảnh vật, con chợt cảm thấy mẹ và con như những mảnh đời bọt bèo hèn mọn, đang lạc vào một thế giới giàu có xa hoa. Hôm nay trời rất đẹp, bầu trời có nhiều nắng, gió thổi hiu hiu nhè nhẹ. Thành phố dường như đang thở, nhưng rõ ràng không thở cùng nhịp với nhịp thở của dân nghèo.

Sau khi dạo phố cùng mẹ trên đường phố Lê Lợi, mua sắm ít quần áo trong siêu thị, rồi vòng qua nhà hát thành phố, cuối cùng, mẹ và con dừng lại trước cửa tiệm Mac Donald trên phố đi bộ Nguyễn Huệ. Buổi trưa tiệm rất nhiều khách. Mẹ chọn một bàn sát cửa ra vào, có thể nhìn thấy sinh hoạt bên ngoài. Con được ăn gà viên, khoai chiên với một cốc trà sữa. Dường như mẹ đang có điều gì ưu tư, khi mẹ trầm ngâm bên ly cà phê đá mô-ka rất đậm, mơ màng nhìn đường phố, nhìn bao người qua lại.

Được một lát, bất ngờ mẹ quay sang nói với con:

-Người mà mẹ thương nhất là chú Quang, nhưng vì sức khoẻ, chú không trở lại với mẹ. Mẹ vất vả bao ngày vẫn chưa tìm được lối thoát, chắc mẹ phải phụ lòng chú Quang, để chấp nhận mối quan hệ mới với bác Tường. Con nghĩ sao?

Nghe mẹ nói, con vô cùng thất vọng.

Con thật sự không tưởng tượng rằng có ngày mẹ chấp nhận quan hệ với bác Tường. Tư cách bác Tường rất tệ. Có lần con đã gặp bác khi mẹ ngồi uống cà phê trong quán với vài người bạn, có cả bác ở đấy. Hôm ấy bạn học chở con từ trường về, đưa con đi tìm mẹ lấy chìa khoá vì con lỡ để quên trong ngăn bàn. Ngay từ đầu, con không thể có cảm tình với bác Tường vì bác ấy ăn nói lớn tiếng, nhiều từ lỗ mãng, tục tằn.

Lời nói phản đối của con bây giờ còn có ích gì nữa không? Biết đâu rằng không chừng quan hệ của hai người đã vượt xa hơn mức có thể dừng lại.

Con mơ hồ cảm thấy gia đình mình chẳng còn chút hy vọng gì nữa cho tương lai, như mấy câu thơ con thấy trên báo:

“Và thêm chiếc lá bay cao,

Cuốn xoay trong gió rơi vào không gian,

Bao người hạnh phúc dâng tràn,

Sao em mãi chốn trần gian ngóng tìm” (T.S.)

Con không trả lời câu hỏi vừa rồi của mẹ. Nhìn thái độ con, chắc mẹ cũng đoán rằng con không vui lắm với quyết định này, nhưng mẹ lại không hỏi thêm. Đến nước này, tốt nhất con không nên nói gì, vì thế giới của mẹ đã đầy màu sắc rồi, dễ gì con xoay chuyển được nữa.

Trên đường trở về hai mẹ không ai nói với ai câu nào. Con cố đè nén cảm xúc thất vọng. Còn mẹ chắc cũng đang suy nghĩ để chuẩn bị cho tương lai của mẹ, với bác Tường.

4- Một điều thật kinh khủng, con không mong muốn nó xảy đến, nhưng nó thật sự đã xảy đến, ngay trong căn nhà trọ của mẹ và con. Hôm nay mẹ chính thức đưa bác Tường về ở chung trong nhà. Theo sự sắp đặt của mẹ, trong buổi sáng, con phải dọn sách vở đồ đạc lên căn gác lửng từ lâu đã bỏ trống, nhường chỗ ngủ thường ngày của hai mẹ con, để lại cho mẹ và bác Tường.

Con thật sự bất mãn với sự sắp đặt này của mẹ, nhưng con đâu có cơ hội để bày tỏ phản ứng của mình, vì vừa khi mẹ nói ra quyết định, thì con đã thấy bác Tường đã có mặt ở trong nhà mình rồi. Chờ con dọn đồ đạc lên gác xong, bác Tường vui vẻ, thản nhiên sắp đặt vài bộ quần áo của bác vào chiếc tủ gỗ nhỏ xíu mà trước đây con thường dùng. Mẹ thì loay hoay ở bếp. Con trốn trên gác nằm khóc một mình.

Bữa cơm trưa hôm ấy hoàn toàn không còn là bữa cơm gia đình êm ả đầm ấm như thường ngày nữa, thay vào đó, tràn ngập những âm thanh ồn ào, dung tục xuất phát từ cách ăn nói đặc trưng của bác Tường. Từ trước đến giờ, dù giận hờn thế nào, con cũng chưa hề nghe mẹ nói năng thô lỗ, nhưng hôm nay dường như mẹ đã biến thành một con người khác, vì chính mẹ cũng hoà nhập vào thế giới ngôn ngữ nhếch nhác của bác Tường. Trên bàn ăn, bác Tường lưng trần trùn trục, đáng lý ra bác phải để ý một chút, vì bên cạnh bác có một đứa con gái còn rất nhỏ tuổi như con. Lưng và vai bác xăm trổ cùng khắp, chứng tỏ bác từng có một quá khứ anh chị lẫy lừng. Hình ảnh trần trụi đó của bác làm con lợm giọng, không thể nào dùng cơm ngon miệng. Con chỉ lua vài đũa, rồi rời bàn ăn, đi rửa tay và từ giả trở lên gác.

Nằm trên gác một mình con chỉ biết khóc. Con lớn lên từ bầu sữa mẹ, hai mẹ con khắn khít bấy lâu. Mẹ đã phá vỡ khung trời đầm ấm mười mấy năm qua của hai mẹ con mình. Con không biết những ngày tháng sắp đến, con sẽ sống như thế nào.

Con tìm lý do để không dùng bữa cơm tối với gia đình. Bốn giờ chiều, tắm rửa xong, con xin mẹ qua nhà bạn Ngọc, để bàn bạc một số việc chuẩn bị cho kỳ thi vào lớp 10. Mẹ gật đầu, con rời khỏi nhà với nụ cười rất tươi của mẹ và tia mắt nhìn chằm chằm vào con của bác Tường. Con bắt đầu cảm thấy bất an trong lòng, khi bất ngờ con bắt gặp tia mắt cú vọ của bác.

Con đã dối mẹ, con chỉ muốn rời khỏi nhà chứ không hề ghé nhà bạn Ngọc. Con mãi miết chầm chậm bước đi, vừa đi vừa khóc. Con bước đi mà con chẳng biết mình đang đi đâu. Trời tối dần, và chuyển sang đêm rất nhanh. Đi loanh quanh một hồi, con ghé vào quán bán thức ăn nhanh tìm chai nước suối và chút bánh mì lót dạ. Đã tám giờ rồi, chắc con phải về nhà, chỉ mong mẹ không la rầy và mọi chuyện được bình yên.

Con mở khoá cửa bước vào nhà. Không thấy xe mẹ ở nhà, con giật mình nhìn thấy bác Tường, với quần short ở trần, đang ngồi chống tay trên bộ bàn ăn kê sát cửa ra vào. Con hỏi bác:

-Mẹ con đâu?

Bác Tường trả lời:

-Mẹ con mới nhận việc làm đêm rửa chén ở quán cơm, khuya sẽ về.

-Vậy con đi, lát con về với mẹ.

Con vừa định quay trở ra, thì bác Tường đã kéo then cài và đứng chặn cửa:

-Khuya rồi con không được đi đâu. Mẹ dặn phải giữ con ở nhà.

-Không được. Chỉ có bác, sao con ở nhà được?

Con xông tới, cố đẩy bác Tường qua một bên, để lấy đường thoát thân, nhưng bác đã nắm lấy hai cổ tay con, dùng sức mạnh đẩy con té ngữa xuống đất. Bác nằm đè lên người con và ôm con thật chặt.

Con ngộp thở vì mùi rượu nồng nặc từ hơi thở dồn dập của bác Tường. Con nhỏ người lại ốm yếu, nhất thời không thể vùng vẫy dưới sức mạnh ngàn cân của bác. Dường như thú tính của bác nổi lên, một tay bác chận miệng con không cho la lớn, tay kia bác lòn dưới áo ngực, nắn bóp không ngừng.

Con lấy hết sức bình sinh, vùng thoát khỏi bàn tay dơ bẩn của bác.

Khoảnh khắc ấy không biết từ đâu con lại có sức mạnh kỳ diệu, khi bác chồm tới ôm con lần nữa, lập tức con đạp mạnh vào bụng bác khiến bác loạng choạng ra phía sau, thừa cơ con đứng dậy, mở cửa và chạy ào ra ngoài thật nhanh. Con đường Luỹ Bán Bích lúc này vì trời đã tối, thiếu ánh sáng, nên cũng không có ai để ý đến một cô bé đang vừa chạy vừa khóc thất thểu trên đường.

Một lúc sau, tinh thần bình tĩnh hơn, con dừng lại ở trạm chờ xe buýt không có người, lấy điện thoại ra để gọi cho mẹ, vừa khóc vừa kể hết sự tình. Mẹ nói mẹ sẽ về ngay, mẹ hứa sẽ bảo vệ con và đưa con về nhà. Con nói với mẹ rằng con sẽ không về nhà khi còn bác Tường ở trong đó. Mẹ nói mẹ biết rồi.

Con không biết con đã ngồi ở trạm bao lâu. Đường phố lúc này trở nên rất vắng vẻ. Con co ro hai tay ôm trước ngực, vì càng về khuya gió thổi càng lạnh. Bất ngờ có một người đàn ông quần áo rách rưới, có lẽ là người vô gia cư, bước vô trạm. Dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn đường, con thấy ông ấy nhìn con mỉm cười và lẵng lặng ngồi xuống băng chờ, nhích lần, càng lúc càng gần chỗ con ngồi. Con đứng dậy ù té chạy ra khỏi trạm. Lúc này con vô cùng hoãng sợ, vừa sợ vắng vẻ, vừa sợ con người.

Con không biết hiện giờ mẹ ở đâu, con nghĩ có lẽ mẹ đã về nhà rồi, và tốt nhất là con nên trở về nhà với mẹ.

Con lập tức chạy thật nhanh ngược về hướng nhà mình. Chưa đến ngõ con đã nghe tiếng bác Tường quát tháo sỉ vả mẹ, chửi rủa rất tục tằn vì mẹ không lo đủ cho bác số tiền để bác mua xe máy. Mẹ mắng lại bác đã xàm xở với con gái. Lời qua tiếng lại rồi con nghe tiếng huỳnh huỵch dường như hai người đánh lộn. Con vội chạy vào nhà thì vừa kịp thấy bác Tường nắm tóc, đấm tới tấp vào đầu mẹ. Con xông tới đẩy bác Tường ra, giúp mẹ thoát ra khỏi bàn tay tàn bạo của bác Tường. Thật nhanh mẹ chạy vào bếp chụp con dao yếm lao lên. Vừa thoáng thấy mẹ cầm dao bác Tường đã vụt chạy ra khỏi cửa. Mẹ hét lớn “đồ khốn nạn” rồi cầm dao rượt theo. Mẹ chạy theo, vừa rời khỏi nhà được mươi bước thì một viên đá khá to không biết từ đâu bay tời trúng đầu mẹ. Con nghe mẹ la thất thanh một tiếng rồi gục xuống, nằm sóng soài trên mặt đường, đầu và mặt loang đầy máu. Con nhào tới ôm mẹ, khóc oà:

-Mẹ ơi, mẹ. Mẹ có sao không mẹ?

Toàn thân mẹ mềm nhũng, con cố lay nhưng mẹ không có cử động gì hết. Nhiều cô bác nhà gần đó túa ra đứng chung quanh con. Có một bác đã gọi một chiếc taxi đậu gần đó, bảo xe chở gấp mẹ và con vào bệnh viện, bác nói nếu gọi xe cấp cứu, mà xe đến trễ sợ không kịp.

5- Con đang ngồi chờ bên ngoài Phòng Cấp Cứu Bệnh Viện Đa Khoa Quận 11. Trên xe, con đã khóc suốt trên đường đưa mẹ đến đây. Hồi nãy, người ta bảo con khai báo tên tuổi mẹ, rồi người ta đẩy mẹ vào bên trong. Đứng bên ngoài, con vẫn khóc, trong lòng xót xa bàng hoàng. Mẹ ơi ráng khoẻ lại, đừng làm cho con lo lắng mẹ ơi.

Bệnh viện nửa đêm vẫn còn nhiều ngồi chờ kết quả sơ cứu cho thân nhân, cũng giống như con. Người ta lao xao nói chuyện với nhau, nhưng con không bận tâm, tâm trí con chỉ còn biết cầu nguyện sao cho mẹ con qua khỏi đêm nay. Hồi đó mẹ dạy con rằng, sau mỗi câu cầu nguyện phải niệm thầm câu thần chú “Nam Mô A Di Đà Phật”, thì lời cầu nguyện mới linh, bây giờ con cũng đang cầu nguyện y như vậy, để cầu cho mẹ sớm tai qua nạn khỏi.

Con chợt thấy có một cô y tá tay cầm một xấp giấy bệnh án, từ bên trong bước ra đứng ở cửa phòng cấp cứu.

-Ai là thân nhân của Lê Thuỳ Hương?

-Dạ là con – Con lên tiếng ngay.

-Con là gì của chị Hương?

-Dạ là con gái.

-Chị Hương có mua Bảo Hiểm Y Tế không?

-Dạ không có mua.

-Tình trạng của chị Hương cũng khá nguy kịch, máu bầm nhiều trong sọ, cần phẩu thuật mới có thể cứu chị. Con cầm phiếu đóng tiền này ra phòng thu ngân đóng trước 20 triệu, đem hoá đơn vô đây cho cô. Sau phẫu thuật, còn phải đóng tiền bao nhiêu nữa, cô sẽ báo.

Nước mắt con tự nhiên trào ra:

-Cô ơi, con không có tiền.

-Con không có tiền thì bệnh viện làm sao điều trị cho mẹ con? Trong 24 giờ mẹ con phải được phẫu thuật. Con về nhà nói với bà con, chú bác cô dì, cho con vay tiền cứu mẹ, nếu không ai có, thì nhờ bà con kêu gọi từ thiện. Nhanh lên con.

-Thưa cô, con không có bà con.

-Trời ơi, không có bà con, bệnh viện làm sao giúp con? Thôi thì con suy nghĩ đi nha, cô phải vô với bệnh nhân. Con phải đóng tiền, bệnh viện mới phẫu thuật cho mẹ được. Về tìm cách đem tiền vô đóng sớm nha con.

Cô y tá đi rồi, con ngồi sụp xuống ghế, ôm mặt khóc thành tiếng. Trời ơi, con kiếm đâu ra tiền cho mẹ con làm phẫu thuật? Ai là người thân của mẹ? Chú Quang đang ở rất xa, bác Tường thì lừa đảo, con không biết mẹ còn thân nhân nào khác không, mà nếu còn, thì dễ gì có ai giúp mẹ lúc này? Qua làn nước mắt, con thấy đất trời tối đen, sụp đổ.

Có một bàn tay đặt lên vai, con ngước nhìn lên, đó là một cô, chắc là thân nhân người bệnh, đang ngồi cạnh bên con từ lúc nãy tới giờ, cô từ tốn nói với con:

-Hy vọng mẹ con không sao đâu. Con về bán đồ đạc, có gì bán nấy, đem tiền cứu mẹ, đi con.

Con càng khóc nhiều hơn:

-Cô ơi, con cần đến 20 triệu lận cô ơi. Nhà con là nhà trọ. Đồ cũ trong nhà có giá trị gì đâu, đem bán ai mua? Cả con đem bán cũng không ai mua.

Câu nói vô tình của con làm loé lên cho con một tia hy vọng có thể cứu được mẹ. Hình ảnh mẹ tảo tần nuôi con bao nhiêu năm, khi con còn nhỏ, lần lượt hiện về trong ký ức con. Từng giọt sữa cọng rau, bao ngày thiếu thốn. Khó khăn gì mẹ vẫn luôn cố sức lo cho con ăn học. Con thương mẹ vô cùng mẹ ơi, con phải làm mọi chuyện để cứu mẹ.

-Cô ơi, cô biết có ai có tiền giúp con 20 triệu không cô, con hứa sẽ làm mọi chuyện để đền ơn cho người ta.

-Thấy con tội nghiệp nhưng cô không biết làm sao để giúp con. Con không có gì đem đi bán làm sao con có 20 triệu được con?

Không chần chờ, con vùng đúng dậy, nói trong nấc nghẹn, khoé mắt ướt đẫm:

-Có. Con bán con nè cô. Có người mua con không cô? Con muốn cứu mẹ con. Cô ơi làm sao tìm được người mua. Con bán thân con nè cô.

-Trời ơi, con còn quá nhỏ. Sao con có thể nghĩ đến chuyên đó?

-Không có 20 triệu mẹ con sẽ chết. Cô chỉ dùm con cách nào đi cô. Con sẽ bán thân con 20 triệu. Con muốn cứu mẹ….

Con quỳ sụp xuống nền gạch, hai tay ôm mặt khóc nức nở.

Con có cảm giác như có một cô nào đó kéo hai tay con đứng lên rồi đặt con vào ghế, con ngước nhìn lên, vừa kịp thấy cô ấy đưa tay quẹt vào hai mi mắt của chính cô. Giọng cô nghẹn ngào:

-Tội nghiệp con quá. Vậy thì con thử đến mấy tiệm gội đầu thanh nữ xem sao, may ra gặp môi giới.

-Thiệt hả cô. Tiệm đó ở đâu cô?

-Con hỏi thử chú taxi đi con.

-Dạ.

Không còn nhìn thấy gì chung quanh, con vụt chạy thật nhanh ra cửa bệnh viện. Trước cổng có vài chiếc taxi đậu chờ khách. Con chạy đến nói với một chú:

-Chở dùm con đi chú. Con muốn đi đến tiệm gội đầu thanh nữ gần nhất. Chú chở dùm con đi chú.

Con mở cửa, phóng nhanh vào xe, từ giờ phút này, con đã phó mặc cuộc đời.

-Đến tiệm gội đầu thanh nữ gần nhất, nhanh lên chú, tiệm gội đầu thanh nữ…

May be an image of bird and outdoors

Con Nợ Của Các Cô Trẻ Đẹp

    Con Nợ Của Các Cô Trẻ Đẹp

Đó là anh Danny, con bác Hai tôi, người được mệnh danh là “con nợ của các cô trẻ đẹp”.

Tội nghiệp, anh đã trả nợ gần hết cuộc đời anh mà coi bộ vẫn chưa hết nợ!

Giờ nầy, khi tôi ngồi tào lao, tỉ tê kể chuyện mê gái trẻ đẹp của anh cho mọi người nghe chơi, thì anh đang nằm trong phòng riêng, nước mắt lả chả ngắn dài, xen lẫn tiếng thở dài thườn thượt nghe não ruột quá trời! Khiến tôi đây, vốn dễ mau nước mắt, suýt khóc theo anh. Nhưng cảm xúc tôi chợt ngưng lại, khi nhớ ra rằng, chẳng bao lâu nữa, anh lại tiếp tục tìm kiếm những cô gái trẻ đẹp, bằng cách qua sự giới thiệu của người quen ở Việt Nam, hoặc lùng trên mạng… Rồi anh vẫn sẽ tiếp tục “đi cày”. Vẫn đêm đêm chạy cái xe truck cũ kỹ não nùng, đi bỏ bánh pizza. Vẫn mải mê ki cóp chắt bóp từng tờ $1 tiền tip nhàu nát, nâng niu dành dụm tiền lương hàng tháng để cung phụng cho các cô trẻ đẹp.

***

Anh Danny vừa trở về căn phòng mà anh vẫn share của vợ chồng tôi ba năm nay. Có nghĩa là khi Betty, Bé Tý của anh, bông hồng nhỏ của anh, người vợ bảy tháng hăm mốt ngày của anh, kéo mấy chiếc va ly căng phồng quần là áo lượt ra khỏi nhà anh và đời anh, chất lên chiếc xe Mercedes màu mận chín mới toanh, phóng đi mất, thì anh cũng trở về ở với chúng tôi cho đỡ tốn và đỡ buồn.

Thật ra, theo tôi, Betty đáng trách nhưng cũng đáng được thông cảm. Ở Việt Nam, cô bé chỉ nhìn thấy nước Mỹ qua những hình ảnh rực rỡ tráng lệ huy hoàng của những tòa nhà cao ốc, những khu vui chơi giải trí Disneyland, Hollywood, sòng bài Las Vegas… mà Danny gửi về cho cô. Ừ, thì người ta thường chụp hình khi đi chơi chứ mấy ai chụp hình khi đang làm việc” Cho nên khi qua đây, cô vỡ mộng. Những ngày đầu Danny cũng đã đưa cô đi chơi nhiều nơi, cô tha hồ được thưởng thức cuộc sống tươi đẹp của nước Mỹ. Danny cũng đưa cô đi shopping tưng bừng, cô tha hồ mua sắm những bộ quần áo, dày dép đẹp… nhưng đó chỉ là thoáng chốc trong cuộc sống. Còn đời thường thì khác nhiều. Dù sao cũng tội nghiệp cô, bởi cô còn quá trẻ con để hiểu rằng, bất kỳ ở đâu, con người ta cũng phải có làm mới có ăn, đất đai dù màu mỡ đến đâu, người ta cũng phải ra tay chăm bón thì mới đơm hoa kết quả tốt lành. Thêm nữa, hồi Danny về Việt Nam sao khác hẳn Danny ở đây. Ở Việt Nam, Betty tự hào với gia đình, bạn bè về Danny bao nhiêu thì khi ở Mỹ, Betty xấu hổ về Danny bấy nhiêu. Kỳ lạ thay! Hồi về Việt Nam, cái gì ở Danny sao cũng thơm “mùi Mỹ”, từ quần áo tới cái phong bì thư, từ đôi vớ tới cái khăn tắm… Và Danny, dù sáu chục tròn, trông vẫn rất “tây”, rất sang trọng, rất phong độ. Vậy mà khi qua đây, Betty thấy tất cả bỗng nhạt nhòa, thậm chí đảo ngược. 

Rồi tệ hại hơn nữa là khi đi học Tiếng Anh, Betty càng thấy mình thật trẻ trung, gần gũi, hòa đồng, líu lo với các bạn cùng trang lứa bao nhiêu thì cảm thấy xa lạ, cách biệt với Danny già cỗi bấy nhiêu.

Có lần Danny đưa Betty tới trường, vừa mở cửa ra khỏi xe, Betty gặp ngay nhỏ bạn cùng lớp đang tung tăng đi tới, nhỏ lễ phép kính cẩn chào Danny:

– Cháu chào ông ạ!

Và cái gì đến cũng sẽ đến, khi có nhiều lời ra tiếng vào quanh Betty, nhất là đám bạn trẻ vô tư:

– Mèng ơi! Mắc mớ gì mà mầy phải ở với ông già bỏ bánh pizza! 

– Betty, mầy có biết mầy rất đẹp không” Mầy còn nhiều cơ hội…

– Betty ơi, cha mầy tới rước mầy kìa!

Hồi còn ở Việt Nam, khi trở thành người yêu, rồi người vợ của Danny, hàng tháng, nhân viên dịch vụ gửi tiền tới tận nhà Betty. Cô chỉ cần ký tên là được nhận những tờ trăm đô mới toanh, thơm phức cùng những lời yêu thương mật ngọt. Tiền Mỹ mà! Tha hồ tiêu xài thoải mái. Và để chuẩn bị sang Mỹ, Betty chỉ việc đi mua sắm, đi học tiếng Anh, tập thể dục thẩm mỹ, bơi lội, đi học nhảy đầm… Dĩ nhiên cô đâu biết đó là công sức anh Danny đã hằng đêm chạy như ma rượt ngoài đường, nhiều khi leo lên hàng mấy chục bậc cầu thang, dù đêm đông giá rét.

Rồi khi qua đây, ngoài thời gian đầu, sau đó coi bộ Danny không còn ga- lăng, hào phóng như xưa khiến Betty càng thất vọng. Cuối tuần, Betty muốn đi ăn phở ở tiệm, Danny bảo : “ Để mai anh nấu cho cưng ăn.” Tối tối, Betty thích đi la cà ở mấy quán cà phê, Danny cười hề hề: “Em muốn loại cà phê nào anh pha cho. Anh pha cà phê còn ngon hơn ở quán nhiều!” Sáng chủ nhật, Betty thích đi chơi, Danny cứ nằm ườn trên giường, giọng ngái ngủ: “Tối qua anh về khuya quá, để anh ngủ thêm tí, chiều anh lại phải đi làm rồi!”

“Ôi! Sống như vầy thì đi Mỹ làm gì hở trời” Chán chết đi được!”Betty than thở với mấy đứa bạn như vậy.

***

Ôi thôi! Còn đâu hình ảnh một anh Danny cách đây không lâu, mắt sáng long lanh, hoan hỉ khi kể về người yêu bé nhỏ xinh đẹp ở Việt Nam. Luôn hớn hở nói cười khi khoe rằng giấy tờ bảo lãnh đã xong. Và anh đã nhảy dựng lên, suýt đụng trần nhà, khi bông hồng của anh đã vượt qua được cuộc phỏng vấn gay go tại văn phòng lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn!

Ôi thôi! Còn đâu hình ảnh một Danny, sau ngày về Việt Nam làm tiệc cưới trong nhà hàng lớn nhất của Sài Gòn, đi hưởng tuần trăng mật ở Nha Trang, Đà Lạt… Rồi trở lại Mỹ với phong độ của một chú rể tràn trề nhựa sống và thỏa thuê hạnh phúc.

Sau đó là những ngày anh háo hức đi tìm thuê nhà. Rồi anh tất bật sắm đồ nội thất. Rồi anh mua chiếc Mercedes mới toanh, màu mận chín sẵn sàng cho Betty yêu quý. Tất cả phải mới, phải sang mới xứng đáng với cô vợ nhỏ hơn con gái anh hai tuổi. Ừ, Betty mới hăm bốn tuổi.

Nhắc tới con gái anh, hẳn phải nhắc tới người vợ trước của anh, đó là chị Mộng Mơ, đã bỏ anh cách đây ba năm. Chị Mộng Mơ đương nhiên rất đẹp (không đẹp dễ gì anh thèm lấy). Nghe có lần chị Mộng Mơ tính đi thi hoa hậu phu nhân nhưng sau đó anh đã khôn ngoan tìm mưu kế cản trở, vì nghe bạn bè nói, mầy mà để bả thành hoa hậu phu nhân là mầy trắng tay. Thế là anh là anh đã giả đò bị đau bụng tiêu chảy. Anh rên hừ hừ, thảm thiết, năn nỉ van xin chị đừng bỏ anh ở nhà một mình. Khi chị phát hiện được mưu kế của anh, chửi anh một trận tơi bời hoa lá.

Nhưng rồi sau đó, dù không trở thành hoa hậu phu nhân, chị vẫn bye bye với anh. Chị đẹp, quá đẹp, chị biết mình đẹp. Và chị thích ngắm mình càng đẹp hơn trong những bộ quần áo đẹp, xe cộ sang, nữ trang xịn, mỹ phẩm đắt tiền… Mà anh, hằng đêm chạy đi bỏ bánh pizza thì làm sao cung cấp nổi nhu cầu cao cấp của chị. Thêm vào đó, bạn bè hỏi nhau, chồng mầy làm nghề gì” Lúc đầu chị nói dối, chồng tui kỹ sư computer. Ai ngờ, oái oăm sự đời, có lần người order anh đưa bánh pizza là bạn của chị. Thế là sau đó, anh phải xách cái valy nhẹ hều ra khỏi căn nhà ở New York lạnh lẽo, đáp máy bay về miền nam Cali nắng ấm, ở với chúng tôi, cho đến ngày anh chat chit trên mạng, gặp được “Bông hồng bé nhỏ”.

“Bông hồng bé nhỏ” là tên anh gọi yêu nàng. Mà quả là bông hồng đó bé nhỏ thật. Cô bé trông như một học sinh trung học, đẹp tuyệt, nhất là từ khi quen anh Danny, có nghĩa là tăng thêm những phụ tùng đẹp từ những tờ đô la anh gửi về hàng tháng. Nhìn những tấm hình cô bé gửi qua, ai cũng tấm tắt khen nhưng… kèm theo cái chép miệng: “ Không biết con bé làm vợ Danny được bao lâu”.

Cũng từ ngày trở thành tình nhân, rồi làm chồng của Betty, anh Danny “cày” nhiều hơn. Hàng tháng, anh vô cùng hạnh phúc đưa xấp tiền chẵn ít lẻ nhiều, nhờ tôi gửi tiền cho Betty (vì tôi làm việc trong một văn phòng gửi tiền về Việt Nam) cùng với những lời nhắn thấm đẫm tình tứ âu yếm. Nào là : “Bông hồng bé nhỏ của anh ơi, nhớ em lắm lắm lắm…” Nào: “Betty em ơi, đêm qua anh nằm mơ thấy em đang ở bên anh…”, “ Hun người yêu bé nhỏ của anh thật sâu…” Và còn nhiều câu nữa, sực nức yêu nhớ mà tôi thấy mắc cỡ cho anh nên không kể ra đây… Có lần tôi phải nhắc anh: “Thôi anh Đực, vừa vừa phai phải thôi, anh nhắn nhe gì mà nghe phát ớn, nghe muốn… nổi da gà!” Các bạn trong công ty tôi xuýt xoa, công nhận cái cô Nguyễn thị Bé Tý đó có phước thiệt! Tha hồ xài tiền. Đó, lấy Việt Kiều Mỹ sướng vậy, còn lấy Đài Loan, Hàn Quốc thì thê thảm cuộc đời.

Nhưng than ơi! Nàng Betty (tên Bé Tý tự chọn từ khi có người yêu là Việt Kiều Mỹ) đã bỏ anh mà đi rồi. Còn việc nàng đi với ai và đi đâu có trời mới biết!

Thật ra chuyện nầy đã cũ mèm cũ mẽm, nghe muốn nhàm tai trong cộng đồng người Việt ở đây. Và anh Danny, đã được tất cả mọi người trong gia đình cũng như họ hàng xa gần và bạn bè cảnh báo, nhưng anh không chịu nghe.

Mẹ tôi từng “tiên tri”:

– Mai mốt, nó nhai bắp rang được, còn thằng Đực phải trệu trạo bắp hầm, vậy là cãi nhau. Mai mốt, nó khoái nghe nhạc giựt gân, thằng Đực thì ưa bô- lê- rô, vậy là cãi nhau. Mai mốt nó thích đi chơi, thằng Đực, ngoài giờ đi làm, thích nằm nghỉ ngơi, vậy là cãi nhau…

Chị Hai của anh Đực, giọng hiu hắt buồn:

– Khéo bày lại thất tình nữa đó Đực ơi.

Chị Ba càm ràm:

– Cái thằng toàn làm chuyện ruồi bu.

Chị Tư đe nẹt:

– Mầy không chịu nghe lời cho mầy chết!

Em trai út tôi nháy mắt:

– Chị Betty nhí nhảnh nhảy chân sáo, anh Đực lụm cụm gối mỏi chân run, làm sao chạy theo kịp.

Ông xã tôi tủm tỉm nụ cười tinh ma quỷ quái:

– Cô đó đang xuân, anh Đực… tàn xuân… Ừm… Hổng biết ảnh… còn đủ sức…

Tôi cũng góp phần để can ngăn:

– Anh Đực ơi, chị ấy nhỏ tuổi quá so với anh, thấy kỳ quá! Eo ơi… thấy ghê ghê… giống như … ẹ ẹ… ông cháu… cha con…

Anh Đực phản ứng liền:

– Bộ mầy không đọc báo, coi tivi” Nhiều ông bảy tám chục còn lấy vợ hai mươi kìa.

– Nhưng đó là người nước ngoài. Còn mình là người Việt Nam. Phong tục, tập quán của người Việt mình không như vậy.

– Hồi xưa mấy ông vua già khú đế vẫn có hàng nghìn mỹ nhân tuổi đôi tám thì sao”

– Đó là chuyện đời xưa, đó là chuyện mấy ông vua. Còn chuyện anh Đực là chuyện đời nay, anh Đực cũng không phải là vua.

Ba tôi đề nghị:

– Đực nè, tao thấy ở đây single mom đẹp đẹp nhốc. Mầy kiếm một cô, tuổi chừng trên bốn mươi là OK rồi. Thôi, trẻ đẹp mà làm gì hả cháu” Chừng tuổi nầy, cháu nên suy nghĩ chín chắn, kiếm ai đó hiền lành, biết điều phải trái để nương tựa nhau mà đi tiếp phần đời còn lại, Đực à!

Anh Đực giẫy nẫy liền:

– Tội quá đi chú Tư! Trên bốn mươi còn xơ múi gì nữa”

Cho nên anh Danny, người đàn ông vừa chẵn sáu mươi, đang gục ngã một cách vô cùng bi đát trên chốn tình trường mà không ai thèm thương xót. “ Đáng đời nó, ai biểu ham sắc ham trẻ!” “ Thương cái nỗi gì thằng Đực, cái thằng suốt đời mê gái đẹp!” “Để nó bị quật tan tác bầm dập cho trắng mắt ra!”.

Và hình như chỉ có tôi đây, đứa em họ anh luôn tin cậy từ nhỏ giờ, thấy tội nghiệp, xót xa cho anh quá, bèn ngồi tẩn mẩn cà kê dê ngỗng kể chuyện mê gái trẻ đẹp của anh cho mọi người nghe chơi.

***

Trong trí nhớ của tôi, hình ảnh anh Danny luôn gắn liền với niềm si mê các cô gái đẹp.

Giờ kể chuyện ngày xưa của anh thì phải gọi anh bằng cái tên ngày xưa mới thuận miệng. Bác Hai sinh một hơi năm chị công chúa, tới hoàng tử là anh, vợ chồng bác Hai mừng húm, sợ khó nuôi, đặt tên xấu cho anh: Đực. Khi anh Đực cắp sách tới trường, cô giáo thấy cái tên hơi thô tục, bèn xin phép gia đình anh thêm chữ ơ vào sau chữ ư, ra chữ Được. Nhưng đó là trong giấy tờ. Còn thường ngày mọi người vẫn gọi anh là Đực.

Tôi và anh rất thân nhau vì anh hay mê say những đứa bạn học cùng lớp với tôi. Anh thường lui tới nhà tôi để có dịp làm quen với mấy nhỏ bạn đẹp gái của tôi. Cũng nhờ đó mà tôi rành cuộc đời anh hơn sáu câu vọng cổ.

Ngay từ thời trung học đệ nhất cấp, mới lớp đệ lục, hỉ mũi chưa sạch, anh Đực đã biết yêu! Yêu mê mẩn! Tôi còn nhớ hình ảnh anh mặc quần xà lỏn, những buổi trưa nắng chang chang, anh đạp cái xe đạp “đòn giông”, vì chưa đủ cao để ngồi lên yên xe, nên anh phải thọc một chân qua phía dưới khung xe, vẹo nghiêng người mà đạp ngang qua nhà cô bạn Thúy Kiều cùng lớp tôi, hàng trăm lần, chỉ cốt để nhìn nhỏ Kiều một chút. Suốt ngày tôi khốn khổ vì anh cứ theo hỏi tôi về Thúy Kiều. “Tâm ơi, Thúy Kiều có thích ô mai không”” “ Thúy Kiều thường kẹp tóc bằng cái kẹp màu hồng phải không”” “ Thúy Kiều cười coi đẹp ác chiến hen.” Dĩ nhiên tôi cũng thu lợi ít nhiều từ tình yêu của anh. Vì anh Đực là quý tử, nhà anh lại buôn bán, nên túi anh luôn rủng rỉnh tiền, cặp anh luôn căng phồng kẹo bánh. Gì chứ mỗi lần gặp tôi với mục đích hỏi han, nhờ đưa thư tỏ tình… anh rất hào phóng quà cáp cho tôi để tôi vui vẻ nhận lời.

Lên lớp đệ ngũ, anh Đực mê nhỏ Hằng Nga. Rồi chẳng bao lâu, bác Hai hỏi tôi: “ Con Giáng Tiên là đứa nào mà thằng Được ngủ mơ kêu ơi ới vậy Tâm”… Ôi thôi, kể những tên các cô gái mà anh Đực đã từng say mê chắc phải mấy trang dài như sớ táo quân. Dĩ nhiên, toàn những người đẹp.

Trong trí nhớ của tôi, hình ảnh anh Đực, thời phong trào mốt cao bồi, anh mặc quần ống túm; thời mốt hippy anh mặc quần ống loa, miệng thường nghêu ngao rên rỉ mấy bài hát em ơi em hỡi mùi mẫn. Và hễ khi anh mê cô nào, y như rằng cô ấy tha hồ nhận quà. Không lấy được tiền trong ngăn kéo của gia đình, thì anh Đực giả đò sà tới bên bác gái, ôm hôn bác, nịnh bác mấy câu rồi nhẹ nhàng cho tay vào túi áo bác gái mà rút tiền.

***

Chiều nay, 5 giờ, anh sẽ bắt đầu công việc của anh: Đi bỏ bánh pizza! Anh sẽ ki cóp những đồng tip, gom lại thành từng trăm, rồi cùng với tiền lương, góp lại thành tiền nghìn, để tiếp tục tìm cô gái đẹp, để trả món nợ đời anh. Tội nghiệp!

Mẹ tôi cứ chép miệng thở dài, nói, chắc kiếp trước thằng Đực lấy con gái người ta có chửa rồi bỏ rơi con gái người ta nên kiếp nầy nó phải trả. Đúng là nghiệp chướng!

Tịnh Tâm

From: Tu-Phung

  PHƯỚC ĐỨC…

  PHƯỚC ĐỨC…

Ngày xưa có ba ông thầy : một thầy xem tướng, một thầy tính số, và một thầy phong thủy cùng nhau đi chu du khắp nơi. Một ngày, các thầy tới thăm một nông trại.

Lúc đó trời đã tối nên cả ba xin được tá túc qua đêm. Thế là, ba ông thầy tướng số theo chân gia nhân vào trong nhà. Cả ba người được chủ nhà chào đón rất chân tình. Chủ nhà sai người dâng trà rồi lại làm cơm thịnh soạn thiết đãi. Sau đó, ba thầy được sắp xếp nghỉ ngơi trong một phòng khách bài trí hài hòa, đồ đạc giản dị, gọn gàng ngăn nắp.

Trước khi đi ngủ, thầy tướng nói với hai thầy còn lại: “Hai huynh đệ, tôi thấy vị chủ nhà này ngũ quan phá tướng không tốt chút nào. Trán hẹp, lệch, tướng yểu, nghèo khổ”.

Thầy xem số bàn thêm: “Ông này mệnh triệt, thân tuần. Ba cung tam hợp mệnh, tài, quan đều không tốt, lại có số không giữ được tiền của.”

Ông thầy phong thủy tổng kết: “Vậy là tướng không tốt, số cũng chẳng lành. Kỳ lạ thật, tại sao ông ta lại có thể giàu có được nhỉ ? Tôi thấy người gác cổng kia còn có tướng làm ông chủ hơn đấy. Phải chăng nhờ mồ mả gia tiên ở nơi âm trạch tốt nên ông ta mới được như vậy?”. Ba thầy nằm thao thức mãi không ngủ được, mong trời mau sáng.

Sáng hôm sau, ba thầy cùng ngỏ ý muốn đi xem âm trạch. Chủ nhà vui vẻ đồng ý và đích thân dẫn ba thầy đi xem phần mộ.

Đường đi khá vòng vèo và xa xôi lại còn phải đi qua suối. Nhưng khi quay về, chủ nhà lại dắt họ đi một đường khác. Đường về thì ngược lại rất gần, chẳng vòng vèo như lúc đi.

Ba thầy hỏi: “Sao khi đi ông không đi đường này mà đi vòng chi cho xa ?”.

Chủ nhà từ tốn đáp: “Khi dẫn ba thầy ra tới cổng, tôi thấy người hàng xóm đang cắt trộm lúa của tôi. Nếu tôi đi qua đó, thấy tôi họ sẽ bỏ lúa mà chạy. Tôi biết vì đói nên họ mới làm vậy chứ bản tính không phải phường trộm cắp, nên muốn đi đường vòng để tránh không làm họ tủi thân.”

Cả ba thầy đều gật đầu nói rằng:
“Ồ, vậy Ngài được chữ ĐỨC, chính ĐỨC đã thay đổi vận mệnh của Ngài. Chính Tâm hành thiện của Ngài đã tích được ĐỨC!

 TÌNH MẪU TỬ

 TÌNH MẪU TỬ

Bài cũ, thấy hay, xin gởi thêm lần nữa. Mời đọc, để rồi không cầm được nước mắt.

Phùng Văn Phụng

(Nhân ngày HIỀN MẪU xin gởi truyện ngắn này đọc xem có khóc không?)

– Anh về ngay đi, em hết chịu nổi rồi, mẹ anh phiền thật.

– Uhm, mẹ anh phiền thật, bây giờ anh đang có cuộc họp quan trọng, tối về anh sẽ giải quyết nha em.

Tiếng đầu dây bên kia dập máy nghe có vẻ rất tức tối, anh buông thõng người ra sau ghế, ở bên kia cô nhìn ra phía cửa như đang cố nuốt trôi một cái gì đó vào mình.

– Anh nhìn đi, đó, đây này, hôm nay em sắp, ngày mai em xếp, cứ một người dọn, một người lại bày ra như vậy, ai mà chịu nổi. Em sắp điên rồi đây. Cô vò đầu trong 1 trạng thái vô cùng tức giận, anh lại gần cô, lấy tay xoa xoa hai bờ vai gầy gầy, cô hất chúng ra.

– Em vào đây – Anh nhẹ nhàng nắm lấy tay cô kéo vào phòng, khép hờ cửa, anh lấy xuống một chiếc hộp được đặt trên nóc tủ, lấy tay phủi nhẹ, anh nhìn cô mỉm cười.

– Mẹ phiền thật, ngày mai mình đưa mẹ đến viện dưỡng lão em nhé, còn bây giờ để anh cho em biết mẹ chúng ta phiền đến mức nào.

Anh mở chiếc hộp ra, bên trong là một xấp hình, anh lấy ra một tấm đã cũ, nhưng chẳng hề dính tí bụi nào, cô tò mò nhìn vào tấm ảnh.

– Em thấy không, đây là tấm hình mà Dì anh đã chụp lúc anh sinh ra, Dì kể vì mẹ yếu nên sinh lâu lắm, mà sinh lâu chắc là đau lâu em nhỉ, mà mẹ phiền thật, cứ la hét ầm ĩ cả lên, ai mà chẳng sinh. Dì còn nói, mẹ yếu lắm, nếu cứ cố sinh thì sẽ nguy hiểm cho người mẹ, bác sĩ đã nói như vậy rồi vậy mà mẹ vẫn cố cãi: “Không, con tôi phải ra đời, tôi phải sinh,” mẹ anh phiền thật đó.

Cô nhìn tấm hình, bàn tay cô nhẹ bổng, rồi cô nhìn anh, trong mắt anh chứa một điều gì đó rất lạ. Anh cẩn thận bỏ tấm hình đó qua một bên, lấy một tấm khác cho cô xem.

– Em nhìn nè, đây là bức ảnh chụp lần đầu tiên anh bú mẹ, anh chẳng thấy ai phiền như mẹ cả. Bà nội, bà ngoại nói cả rồi, mẹ yếu, không đủ sữa để cho anh, uống sữa bình đi, ở đó mà dưỡng sức, nhưng một hai cứ khư khư giữ anh vào lòng “Không, con con nhẹ cân, phải bú sữa mẹ mới tốt.” Ai nói gì cũng cãi em nhỉ, nếu không anh được uống sữa bình rồi, sữa bình phải ngon hơn chứ, mẹ anh phiền thật.

Bàn tay cô run run, cô thấy ánh mắt của người mẹ trong bức ảnh ánh lên vẻ rất hạnh phúc, hai bàn tay cô ta cứ giữ chặt đứa bé. Cô nhìn anh không nói gì cả.

– Còn nữa đây này – Anh lại lôi ra một tấm khác nhìn vào đó.

– Em thấy mẹ anh phiền ghê chưa, con nít hơn một năm ai chẳng chập chững biết đi, mẹ cứ làm như chỉ có con mẹ mới làm được điều đó không bằng. Ba kể mẹ cứ gặp ai là cũng hí hởn khoe “Thằng cu Tin nhà tôi đi được rồi, nó biết đi rồi đó.” Bộ mẹ không thấy phiền hay sao em nhỉ? – Bờ môi cô như muốn nói một cái gì đó nhưng cổ họng thì ứ nghẹn lại, bức ảnh đứa trẻ con chập chững đi về phía mẹ trong tấm hình, cô nhìn mãi. Ba còn kể, từ ngày anh bắt đầu bi bô tập nói rồi gọi được tiếng mẹ là nguyên những ngày sau là một chuỗi điệp khúc “ Cu Tin gọi mẹ đi, gọi mẹ đi cu Tin,” mẹ phiền quá đi mẹ à, anh mỉm cười xoa nhẹ vào bức ảnh, mắt anh đang long lanh thì phải.

– Đây nữa, đây nữa này – Anh lôi ra nguyên một xấp, nhiều lắm, rất nhiều ảnh – Em thấy mẹ anh phiền ghê chưa, chụp làm gì mà lắm ảnh vậy không biết, lần đầu tiên anh vào mẫu giáo, có phiếu bé ngoan, rồi tiểu học, trung học, nhận bằng khen, em coi đi, đủ trò trên đời, coi hình của anh có mà đến tết mới xong, anh phì cười, “mẹ anh phiền nhỉ?”

Cô nhìn anh, anh không cười nữa, anh cầm một tấm hình lên nhìn vào đó rất lâu, cô thấy nó, một tấm hình rất đẹp, anh rất đẹp trong bộ áo tốt nghiệp cử nhân, anh lúc đó trông điển trai quá, cao ráo, nhưng…

– Em có thấy không? Tóc mẹ anh đó, rối em nhỉ? Còn áo quần nữa này, cũ mèm…- Cô nghe thấy giọng anh trở nên khác đi, không đều đều như lúc ban đầu nữa, đứt quãng. Cô nắm lấy tay anh.

– Năm 15 tuổi, ba bỏ mẹ con anh lại, rồi lúc đó, mọi thứ trong nhà trở nên không có điểm tựa, anh đi học, mẹ bắt anh phải học… Em không biết đâu, anh xin nghỉ nhưng mẹ không cho, phiền như vậy chứ. Mẹ cứ sáng sớm đi phụ quán cơm cho người ta, trưa ăn một chén cơm thừa trong quán để dư tiền cho anh học thêm ngoại ngữ, rồi chiều đến chạy đi giặt đồ cho những bà mẹ không phiền khác, để họ đi mua sắm, cà phê, giải trí…- Giọng anh lạc hẳn – Còn nữa em ạ, tối đến mẹ lại tiếp tục đi làm lao công đường phố, sáng sớm mới về chợp mắt được một tí thôi, vậy đó… Em thấy mẹ anh khỏe không?

“Tách”, một giọt nước rơi xuống trên tấm hình, mắt cô cũng nhòe đi, khác thật, một bà mẹ trẻ với gương mặt xinh đẹp lúc đứa con mới bi bô tập nói, và cũng với gương mặt phúc hậu đó nhưng giờ làn da đã nhăn đi, khuôn mặt gầy hẳn khi đứng cạnh cậu con trai lúc chuẩn bị ra trường.

– Anh à – Bàn tay cô nắm lấy bàn tay run run của anh.

– Em có thấy tay mẹ rất yếu không, anh chẳng bao giờ kể em nghe nhỉ. Khi năm tuổi, anh đùa nghịch chạy nhảy lung tung, lúc đuổi bắt cùng cô nhóc hàng xóm anh đã trượt chân ngã từ cầu thang xuống. Lúc đó, anh chẳng thấy đau một chút nào cả, chỉ nghe một tiếng kêu rất thân quen, em có đoán được không, anh đang nằm trên một thân thể rất quen…mẹ anh đó. – Cô sững người lại, nước mắt cô trào ra, rơi xuống ướt đẫm tay anh.

– Em à, mẹ anh phiền vậy đó, phiền từ khi anh chuẩn bị lọt lòng cho đến khi anh gần đón đứa con đầu tiên của mình, chưa hết đâu, mẹ sẽ còn phiền cả đời em ạ, bây giờ lớn rồi mẹ vẫn cứ lẽo đẽo theo anh dặn đủ thứ em không thấy sao, cơm phải ăn ba chén, đi xe phải chậm thôi, đừng có mà thức khuya quá. Mẹ anh phiền thật, ngày mai mình đưa mẹ đến viện dưỡng lão em nhé.

“Anh”, cô ôm chặt lấy anh, cô òa khóc nức nở, “em xin lỗi”, anh ôm lấy cô vỗ về, vỗ về như ngày xưa anh vẫn thường được làm như vậy.

“Choang” – Anh và cô chạy nhanh xuống bếp.

– Mẹ xin lỗi, mẹ nghe con thèm chè hạt sen nên mẹ đi nấu, nhưng… Giọng mẹ run run không dám nhìn về phía trước, cúi người nhặt những mảnh vỡ vừa rơi.

– Mẹ à – Cô chạy đến nắm lấy bàn tay xương xương của mẹ – Từ nay mẹ đừng phiền nữa nhé, để con phiền mẹ cho – Cô ôm chặt mẹ, nước mắt thấm đẫm vai áo mẹ, mẹ nhìn anh, anh nhìn cô trong lòng của mẹ.

“Mẹ đã không sinh lầm con và con cũng đã không chọn nhầm dâu cho mẹ, phải không ạ?”

Lung Việt (T.H)

Bạc tóc tuổi hai mươi- Phạm Thị Mai Hương

GIẢI NHẤT cuộc thi của tuần báo Saigon Nhỏ: – Phạm Thị Mai Hương

Bạc tóc tuổi hai mươi

Từ giã mái trường thân yêu (ngày 15 Tháng Ba, 1975)

Đà Lạt, Tháng Ba, 1975, thành phố tôi ở vốn bình yên, an lành trong các tỉnh thành miền Nam ngay cả những ngày chiến tranh khốc liệt nhất, bỗng trở nên xáo trộn. Người ta bàn tán, thì thầm to nhỏ về cuộc chiến, tính chuyện tản cư. Dù không hiểu hết điều gì sẽ xảy ra nhưng ai cũng cảm nhận không khí chiến tranh đang tới gần, tới rất gần. Để trấn an nỗi sợ hãi, người dân đổ tiền ra mua đồ dự trữ: gạo cơm, thuốc men, xăng dầu, nhất là mì ăn liền, phòng khi cuộc chiến xảy ra. Bề ngoài thành phố bình yên đến lặng lẽ, người ta giấu nỗi sợ hãi vào lòng. Dọc các con phố chính, các cửa hiệu lần lượt đóng cửa, báo hiệu chủ nhân đã đi tản cư. Người ta ra đi, không ồn ào sôi động.

Sáng nay, tôi và các bạn đồng nghiệp vẫn đến trường trên chiếc xe lam đưa rước hàng tháng. Ngôi trường tiểu học Đa Phước nằm tận Trại Mát, cách trung tâm thành phố 10 km, dưới chân ngọn đồi cao làm Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến. Đường đi rất thơ mộng, len qua những rặng thông xanh thẳm, vòng quanh những ngọn núi chập chùng. Mấy hôm nay, chúng tôi không cảm thấy vẻ đẹp của giọt sương mai ướt đẫm lá cây hay tia nắng sáng rọi qua tán lá. Dẫu không nói ra, nhưng mọi người đều e ngại nhìn hai bên sợ bóng những người mặc áo bà ba đen xuất hiện, lo lắng nhìn trên lòng mặt đường xem có cây cối chắn ngang đắp ụ.

Chiếc xe lam bỏ chúng tôi trước cổng trường rồi vội vàng quay về lại thành phố. Sân trường không bóng dáng học sinh. Chúng tôi hoang mang nhìn nhau, vội vàng vào văn phòng. Ông hiệu trưởng già dường như chờ chúng tôi từ lâu.

Ông nhỏ giọng:

-Tôi muốn liên lạc với các cô mà không được. Tình hình an ninh không xuôi lắm. Cha mẹ học sinh không cho con đến trường, họ sợ có chuyện gì, con họ còn nhỏ về nhà không kịp.

Giọng ông nhỏ hơn, lo âu:

-Với lại ở dưới này xa quá, tôi có nghe trong Tây Hồ, Trạm Hành, buổi tối V.C. đã về. Thôi các cô mau quay lại, khi nào tình hình sáng sủa hãy xuống. Giờ không còn xe lam, các cô qua đón xe đò nghe.

Chúng tôi nặng trĩu lòng, đứa nào cũng mới ra trường nên đối với ông như một người cha. Chúng tôi chào ông và băng qua bên kia đường. Chờ chúng tôi ra khỏi cổng, ông lấy chiếc xích lớn khóa cổng rồi đi về hướng chợ. Dáng ông nhỏ lại, hai vai trĩu xuống, như vác một gánh nặng trên lưng. Đứng chờ xe, tôi chưa hoàn hồn, tiếc nuối vì chưa một lời từ biệt học sinh, những em học sinh đầu tiên của tôi. Hình ảnh 28 em hiện rõ từng nét mặt, dáng người.

Võ Quang Nam nhỏ con nhưng chững chạc, ngồi ngay bàn đầu, em giỏi và ngoan nhất lớp, chẳng khi nào nói chuyện khi tôi giảng bài. Hôm Nam bị ốm, tôi rủ cả lớp đi thăm, cả lớp thưa:

-Cô ơi! Vào nhà trò ấy sợ lắm, ba trò chết rồi, mẹ trò hay nổi cơn điên cầm dao chém người. Mọi chuyện ở nhà, trò đều tự làm lấy.

Thảo nào khuôn mặt em mang vẻ cam phận, nhẫn nhục mỗi khi bạn bè tị nạnh bảo tôi thiên vị.

Nguyễn Mẹo thông minh, giỏi toán, chăm học nhưng viết chữ xấu, không chú ý nên bài làm ít được điểm cao. Mẹo tốt với bạn bè, lễ phép với tất cả thầy cô. Đôi khi em làm tôi bối rối vì những câu hỏi thông minh bất ngờ. Tôi thực sự thương em hơn, khi biết nửa năm ngoái, em phải nghỉ học đi làm thuê, vậy mà khi đi học lại vẫn không chịu kém ai.

Nguyễn Văn Mỹ mồ côi cha mẹ, ở với cậu mợ. Khi người chị ruột duy nhất của em chết vì bệnh thì khuôn mặt em tắt tiếng cười, học hành sút hẳn, người như ở trong mê.

Trần Phương có khuôn mặt luôn cười. Mấy ngày đầu vào nhận lớp, tôi cho bài tập, em không làm. Bực mình, tôi hỏi:

-Ba em làm gì?

-Thưa cô! Ba em đi lính ở xa.

-Má em làm gì?

-Thưa cô! Má em đi làm thuê.

-Em có anh chị không?

-Thưa cô, không. Em là anh đầu.

-Ba em đi lính biết sống chết ra sao, má em đi làm thuê cực khổ mà em không chịu học để buồn lòng ba má. Em là anh đầu sao không làm gương cho các em.

Tôi bất ngờ khi thấy em khóc, từ đó em học ngoan hơn. Danh sách 28 em học sinh nam được tôi viết trên những miếng bìa cứng treo sau lưng với bảng đen; trong đó ghi địa chỉ học sinh, tên học sinh được khen thưởng. 28 em đầy đủ cá tính. Có em ngoan hiền như Ngô Đình Vân, Nguyễn Tấn Đạo; nghịch ngợm như Kiều Phương, Bùi Đức Danh… Ở ngôi trường tiểu học nằm ven đô thành phố này, học sinh đều nghèo, rời cuốn vở là về phụ với cha mẹ làm vườn. 28 em tuổi mới lên 10 mà số mồ côi cha không ít. Một số ghi cha mất nhưng mẹ ở nhà vẫn sinh thêm em, có phải trong đêm tối cha đã về đâu đó.

Nhìn cổng trường bị khóa chặt, tôi xót xa, biết rằng không bao giờ còn được dạy hay nhìn lại đầy đủ các em. Buổi chia tay cuối cùng không học trò, không chiếc bánh liên hoan, cũng không có lễ phát thưởng. Giờ mới giữa Tháng Ba, còn hơn tháng nữa đến Tháng Năm nghỉ Hè. Tôi đi dạy chưa trọn năm, lương tháng vừa nhận hôm qua, biết còn tháng lương nào để được nhận nữa không? Tôi không thể hình dung mình sống ra sao khi không còn được đi dạy. 14 năm ăn học để có một nghề sinh sống, giờ không biết mình còn cơ hội nào đứng trên bục giảng nữa. Bỗng dưng tôi thấy mình thật nghèo nàn đáng thương. Buồn cười thật! Cuộc chiến sắp tới, ngày mai biết sống chết ra sao mà còn nghĩ chuyện dạy dỗ. Giờ mới giữa Tháng Ba, tôi chưa tròn tuổi hai mươi. Tháng sau mới đến sinh nhật.

Để lại thành phố phía sau (ngày 20 Tháng Ba, 1975)

Sự hoảng sợ của mọi người lên đỉnh điểm khi Đài BBC loan tin Buôn Mê Thuột thất thủ. Tin dữ lan nhanh như ngọn lửa giữa mùa Hè nóng bỏng. Buôn Mê Thuột cách Đà Lạt khoảng 200 cây số, tính theo đường chim bay còn ngắn hơn. Không khí cuộc chiến đã lởn vởn thành phố có lẽ yên bình nhất nước này. Chính quyền không thông báo về tình hình chiến sự. Người dân mù mờ tự tìm hiểu nên càng rối rắm, hoang mang.

Chị ruột tôi dạy học và lấy chồng, một sĩ quan bộ binh đóng quân trên Quảng Đức. Chị mới về ăn Tết với gia đình mà không có anh rể vì anh phải cấm trại. Chị vừa trở về trường nay phải quay lại Đà Lạt một mình. Anh rể hứa nếu tình hình khó khăn sẽ đón chị về Sài Gòn. Chị tôi vô tư lên trường Bùi Thị Xuân vào ngày 17 Tháng Ba, 1975, dự buổi cắm trại mừng kết thúc đệ nhị cá nguyệt và họp mặt cựu học sinh. Buổi lễ đang vui, nhà trường được lệnh cho bế mạc khi nghe tin V.C. về đến ngoại ô thành phố.

Người dân Đà Lạt sống trong nỗi sợ hãi. Ban ngày họ hạn chế ra khỏi nhà; đêm về thành phố im như chết. Viện Đại Học đóng cửa để sinh viên ở xa về với gia đình. Tất cả học sinh tiểu và trung học được lịnh nghỉ học vô thời hạn. Sĩ quan và khóa sinh các trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, Cảnh Sát Dã Chiến cấm trại 100%. Dân chúng đi tản cư khá nhiều, nhất là gia đình có thân nhân ở Sài Gòn, Nha Trang…

Buổi chiều, ba tôi từ công sở về. Khuôn mặt ba đăm chiêu, bồn chồn khi bạn bè đi tản cư gần hết. Ba lo lắng vì con cái đông đúc, tiền bạc không nhiều, nếu về Sài Gòn không biết tá túc ở đâu. Mọi người đồn đoán: có thể vĩ tuyến 17 sẽ dời đến Đà Nẵng. Vì vậy, ba quyết định cho gia đình về lánh nạn ở Nha Trang với cậu T., em ruột mạ tôi. Tuy trời đã tối, mạ tôi cũng thuê được một chiếc xe G.M.C. mui trần, dắt các con nhỏ ra đi. Ba và người anh trai đầu sẽ đi sau. Tác phong, nề nếp công chức ăn sâu vào nếp sống, suy nghĩ nên ba không thể bỏ nhiệm sở khi chưa có lệnh.

Mạ xếp một loạt bao gạo dự phòng trên sàn xe, cột chặt nệm, mùng mền. Chúng tôi xếp quần áo, sách vở vào trong túi sắc, ba lô, bao tải; đứa em ngây thơ xì xẹp quả banh da nhét giữa quần áo. Mỗi người một tay nải. Cơ nghiệp của ba mạ gầy dựng 25 năm trời chất được một góc xe. Ba vào bàn thờ, thắp nhang khấn vái tổ tiên, rồi lấy tấm di ảnh của ông bà nội cùng cuốn băng magnétophone lưu giọng ông nội tụng kinh khi còn sống, để vào chiếc cặp da trao cho đứa em tôi giữ. Chị gái của tôi gói ghém vài bộ quần áo đi cùng các em. Cả nhà như đang trải qua cơn mê.

Phút chốc gia đình tôi chia đàn xẻ nghé: bố mẹ, anh chị em chia tay nhau mà không chắc có ngày gặp mặt, đoàn tụ; còn anh trai thứ đóng quân ở Qui Nhơn không biết giờ này phiêu bạt nơi đâu. Chúng tôi chất xong đồ đạc lên xe khi trời còn mù sương. Các em chạy quanh xóm từ giã bạn bè. Tôi đi vòng quanh sân. Căn nhà nơi lưu dấu tiếng khóc chào đời của anh em chúng tôi trống trơn đến lạnh người. Mạ gởi nhà cho hàng xóm trông giùm vì nghĩ có ngày trở lại. Dân Lò Gạch thuộc xóm lao động nên nhiều người không có điều kiện ra đi phải ở lại. Ông Tư Mạnh, bác Lợi, o Liên… ra tiễn, nhìn theo gia đình chúng tôi nửa ao ước có cơ hội được đi, nửa thương xót vì đích đến thật mông lung. Tình cảm xóm giềng thật sâu đậm. Đêm qua tôi viết thư từ giã ba đứa bạn thân nhưng sáng ra lại xé bỏ. Kẻ đào tẩu biện minh đâu có giá trị. Tôi không biết mình còn được gặp lại các bạn, những người bạn chí cốt từ thuở bé, san sẻ với nhau biết bao buồn vui tuổi học trò.

Xe nổ máy, từ từ lăn bánh. Bóng người ở lại khuất dần trong khói xe. Xe chạy lên đường Duy Tân. Phố xá hai bên đường vắng vẻ cùng khu Hòa Bình bình yên trên con dốc cao của thành phố; rồi xuôi theo đường Lê Đại Hành. Hồ Xuân Hương lặng im in bóng nhà Thủy Tạ. Bên kia hồ, cỏ và thông đồi Cù xanh ngắt. Cảnh vật chung quanh không thay đổi, chỉ có lòng người là bất an.

Sáng nay, chúng tôi vội vã ra đi. Bỏ lại thành phố, nhà cửa, bạn bè, xóm giềng và muôn vàn kỷ niệm dấu yêu phía sau lưng.

Nha Trang, ngày hoảng loạn (ngày 1 Tháng Tư, 1975)

Chịu nửa ngày dưới cái nắng cháy người của miền Trung, chúng tôi đến Nha Trang với khuôn mặt đỏ bừng như tôm luộc. Nhà ông cậu không lớn, chúng tôi chỉ ăn uống tại đó, tối đi ngủ nhờ chỗ khác. Qua cơn mệt mỏi, các em tôi theo đám em họ háo hức xuống biển, tưởng như để lại mọi nguy hiểm trên Đà Lạt.

Sau khi Quảng Đức bỏ ngỏ, anh rể tôi đi đường bộ về Đà Lạt. Ba tôi bảo anh nghỉ ngơi vài hôm để ba đi đón chị lên, tiện thể thăm vợ con. Ba tôi xuống được một hôm, Nha Trang trở nên hỗn loạn hơn vì lính các nơi đổ dồn về. Dân Nha Trang cũng bắt đầu tản cư. Gia đình cậu tôi và người bạn cho gia đình tôi tá túc những ngày qua quyết định về Sài Gòn. Cậu rớm nước mắt khi ra đi vì chính bản thân cậu cũng khó có thể cưu mang nổi gia đình cậu, nói chi đem theo gia đình tôi. Sau khi tiễn cậu, ba mạ tôi đưa cả nhà quay lại Đà Lạt, bởi gia đình tôi thực sự không biết đi đâu khi mà đứa lớn nhất mới tròn hai mươi, đứa bé nhất chỉ lên mười. Giữa cái chết đói, chết vì súng đạn, dường như chọn cái chết trong nhà mình thì vẫn dễ hơn.

Mạ tôi cùng chị và các em lên trước với ít quần áo trong người. Ba và tôi thu dọn đồ đạc thuê xe lên sau. Mạ và các em đi rồi, tôi gói quần áo của mạ lại, chỉ lỏm loi vài bộ. Tôi nhớ bà ao ước có một chiếc áo dài nhung màu hạt say, và tôi tự hứa khi nào có tiền sẽ may cho mạ một chiếc áo dài nhung đủ màu. Dọn xong đồ đạc, trong lúc chờ ba thuê xe quay lại, như có linh tính, tôi lấy chiếc cặp da đen mà ba đựng tấm hình của ông bà nội, gói ghém thêm vài bộ quần áo. Tôi thay chiếc quần tây đen, áo chemise trắng, chân mang đôi giày Bata trắng; dưới lòng bàn chân, trong chiếc bít tất, tôi lót ba mươi ngàn đồng tiền lương vừa lãnh.

Đúng lúc ba tôi vừa về, bảo tìm xe không có. Hai cha con hốt hoảng chạy ra đường. Như một luồng bão thổi qua, thành phố vắng hoe, thay đổi đến không ngờ, không khí lặng ngắt, ngột thở. Ba và tôi chạy đến bến xe đi Cam Ranh. Chỉ thấy người chen nhau mà không có một chiếc xe. Hai cha con lại chạy về bến xe đi Đà Lạt nhưng ở đó cảnh tượng không khác. Đường phố thấp thoáng tù vượt ngục đầu trọc, cỡi trần, tay mang súng, bắn chỉ thiên, nổ vang trời. Ba và tôi hoảng sợ núp vào một chiếc xe đậu dọc đường. Ngớt tiếng súng, hai cha con chạy xuống bãi biển.

Bất ngờ ba đón được chiếc xe Minh Tâm của một người thuê đón gia đình về lại Đà Lạt. Hai cha con mừng rỡ leo lên. Tiếng súng nổ khắp nơi. Thành phố giờ thêm những người lính đeo ba lô, súng ống đầy đủ nhưng khuôn mặt hoang mang.

Ra khỏi Nha Trang vài chục cây số, xe không thể chạy tiếp vì phía trước ngổn ngang xe cộ. Tôi luôn miệng hỏi ông tài xế:

-Đà Lạt có gì không bác?

-Lúc bảy giờ tôi đi xuống đây thì Đà Lạt vẫn bình thường.

Xe chạy ngang qua Trung Tâm II. Con đường tràn ngập tân binh xả trại. Ai cũng tìm đường về nhà. Trong số đó có hai người quen của tài xế, họ mừng rỡ trèo lên xe. Những chiếc xe nhích từng mét một, xe nào tắt máy bị kéo bỏ sang hai bên đường. Chiếc xe chúng tôi đi cũng hết xăng. Ba tôi nóng lòng muốn xuống đi bộ, nhưng hành lý còn ở trên xe không thể mang theo. Chung quanh hỗn quân hỗn quan, khuôn mặt đằng đằng sát khí; tôi lại là con gái nên cuối cùng hai cha con đành ở lại trên xe.

Tôi thấp thỏm nguyện cầu cho mạ, chị và các em về Đà Lạt bình an. Nhìn cảnh loạn lạc, súng nổ rền trời, khó biết được chuyện gì xảy ra nếu mạ và các em còn ở đây. Một chị trên xe nấu được miếng cơm chia cho hai cha con. Bấy giờ tôi mới cảm thấy cái đói, nhớ hôm qua đến giờ không cái gì bỏ bụng.

Mười giờ đêm, ba tôi sốt ruột không chịu nổi, hai cha con bỏ lại hành lý lần mò đi bộ hướng về Đà Lạt.

Đường về nhà (ngày 2 Tháng Tư, 1975)

Hai cha con đi suốt đêm. Tôi ôm chiếc cặp như một đứa trẻ lạc nhà. Hết đêm qua sáng, Mặt trời xứ biển lên mau và nắng gay gắt nhưng hai cha con không cảm thấy khát. Chân tôi mỏi nhừ, tưởng chừng như bị bỏng thì ba vẫy được chiếc xe hồng thập tự quân đội. Hai cha con được quá giang, đứng trên hai chiếc bánh xe sơ cua. Tới một ngã ba, xe rẽ hướng khác, hai cha con đi bộ thêm vài cây số đến Cam Ranh. Thành phố đầy người đi hôi của, dân địa phương tản cư, lính lạc đơn vị, tù phá ngục phá kho… Họ vác gạo, sữa, đồ hộp quân tiếp vụ… Hỗn loạn kinh hoàng. Hai cha con tôi ngơ ngác nhìn, quên bẵng mình đang rất đói.

Hai cha con đón được chiếc G.M.C. chở người tản cư ở Qui Nhơn đến. Xe chạy đoạn đường khá xa, đến một chiếc cầu dài bị gãy mấy nhịp, có lẽ sau khi rút quân, quân đội bỏ bom cho sập cầu. Đoàn xe dân sự dừng lại. Người đứng, kẻ ngồi theo từng nhóm dọc hai bên cầu. Đồ đạc, quần áo, máy móc, gạo cơm, sách vở, thậm chí những tập album hình vương vãi khắp nơi; người ta vội vã bỏ đi trước khi kịp cúi xuống nhặt nhạnh. Hai cha con đứng lặng bên cầu, nhìn dòng nước chảy, cuối cùng xắn quần lội qua sông.

Qua bên kia cầu, chúng tôi đón được xe về Phan Rang. Trên xe, người ta bàn tán về tình hình chiến sự. Một người cho biết đoàn quân của các trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị, Cảnh Sát Dã Chiến di tản xong. Đà Lạt là thành phố chết, không chính quyền lẫn quân đội. Không ai biết điều gì đang xảy ra trong thành phố tôi ở; và sự tan rã lan dần đến Phan Rang. Tôi cố an ủi ba:

“Mới có một ngày thì không thể mất Đà Lạt mau như vậy được. Vả lại đâu thấy đánh nhau, mà không thể nào không có đánh nhau.”

Trung tâm thành phố Phan Rang tràn ngập người tản cư. Họ ngồi hai bên lề đường, trong chùa, trong trường học. Niềm vui tràn ngập khi tôi gặp được bác Hai Dĩ, một người hàng xóm. Bác cho biết:

-Mạ và các em con đã về đến Đà Lạt tối hôm trước, nhưng không biết sáng nay có di tản theo đoàn quân hay không. Chị con đã gặp được anh rể. Như vậy anh chị con và anh đầu chắc theo đoàn quân về Sài Gòn rồi.

Hoang mang, tôi để ba ngồi dựa vào gốc cây, còn mình chạy vào trường học, vào chùa để kiếm mạ và các em; tôi không trông mong thấy được anh chị, vì đoàn quân đã đi qua. Và tôi biết mình đang tự lừa dối vì mạ tôi không dám đưa đàn con còn nhỏ ra đi lần nữa; mạ sẽ chờ cha con tôi trở về. Một người đàn ông tốt bụng thấy tôi chạy loăng quăng, lên tiếng khuyên:

-Cháu tìm ai, giờ này sao không về nhà, còn cắp cặp đi đâu nữa. Về nhà đi cháu ơi! Coi chừng lạc bố mẹ đó.

Tôi không thể giải thích với ông lý do mình đi tìm mẹ. Ba tôi ngồi bên hiên chùa trông thảm hại. Ba như một cây cổ thụ bị đốn ngã. Trước đây ba luôn tự hào mình là người thành đạt: từ một cậu học trò nghèo ham học vươn dần lên thành người đứng đầu một cơ quan trong tỉnh. Ba muốn tìm lại mạ và các em nhưng đoán trước hậu quả khi bước chân về nhà. Ba chùn chân, suy nghĩ với trăm bề khổ đau.

Trước cổng chùa, có người dỗ dành một em bé ngồi khóc nức nở:

-Mẹ bảo cháu ngồi đây để mẹ đi tìm cha mà giờ này không thấy mẹ quay lại.

Chẳng biết người mẹ đó cuống cuồng chạy ngược xuôi tìm con hay nằm lại một góc đường nào đó. Không tìm thấy mẹ và các em, tôi tuyệt vọng. Hai cha con khóc ròng ở ngã ba Phan Rang. Bỗng một đoàn lính đi ngang chào ba tôi. Vài người đóng quân gần trường tôi dạy nhận ra tôi. Thành phố Đà Lạt quá nhỏ, mọi người hầu như biết nhau. Đó là những anh lính Địa Phương Quân được lệnh về đóng ở Ninh Thuận, hỗ trợ cho trường Võ Bị Quốc Gia, Chiến Tranh Chính Trị rút quân. Khi đoàn quân di tản đi qua, các anh không biết đơn vị mình đi đâu nên trở về Đà Lạt vì gia đình còn trên đó.

May mắn chợt đến, ba và tôi vững niềm tin. Chúng tôi hòa vào đoàn người. Một người lính bắt một chiếc xe tải dừng lại, may mà ông tài xế có ý định lên Đà Lạt. Mọi người trèo qua thành chiếc xe tải phủ kín mui. Người nào đó chìa chiếc bánh lương khô cho ba và tôi. Tôi cảm động biết ơn. Những người lính lạc đơn vị từ khắp nơi đổ về, không người chỉ huy. Ai có súng là có sức mạnh. Thành phố kinh hoàng bởi tiếng súng nổ rền trời, không có chính quyền, tù hình sự phá ngục thoát ra phá phách và hôi của.

Một toán lính khác lên cò súng bắn chỉ thiên, bắt chiếc xe tôi đang chạy dừng lại. Hai toán lính đối đầu nhau, cuối cùng toán lính đứng dưới bỏ đi, sau khi lột chiếc đồng hồ của ông tài xế. Sợ hãi không dám đi tiếp, ông tài xế bỏ xe lẫn vào dân. Mọi người xuống xe lại tiếp tục đi bộ đến gần tối thì đón được một chiếc xe chở thuốc tây cho pharmacie Đà Lạt ngay trung tâm thành phố. Ông tài xế rộng rãi cho tất cả mọi người lên xe.

Xe chạy ra khỏi Phan Rang, không khí yên tĩnh, người đi đường thưa thớt, không có đoàn người chạy ngược xuôi. Đêm buông dần xuống, xe dừng giữa đèo Song Pha trong không khí lặng đến ghê người. Một chiếc xe lambretta bỗng xuất hiện trong đêm tối mịt mùng. Khuôn mặt một người đàn ông vẫn còn nét hoang mang, ông nhận ra ngay ba tôi:

-Anh ơi! Quân đội rút đi hết rồi. Không còn chính quyền trên đó, nghe nói V.C về rồi. Họ đã đặt đại diện. Anh không nên lên, không nên…

Báo tin xong, ông hối hả chạy tiếp. Mọi người trên xe nửa tin nửa ngờ, còn đang bàn tán thì trong rừng, bóng hai người đàn ông khác xuất hiện. Họ là hai cha con, tay đeo nãi, khoác ruột tượng đựng gạo trên vai. Dáng người cha to lớn in trong rừng cây tối đen. Ba tôi nhận ra bác Ngãi, một công chức đồng sự với ông. Chỉ vài câu nói, bác xác nhận tin trên là đúng sự thật. Bác khuyên ba tôi không nên trở lại Đà Lạt. Ba tôi sụp xuống, giãy giụa. Bác Ngãi quay qua tôi nói nhỏ:

-Bác nói cho cháu nghe, cháu phải cản không để ba cháu lên Đà Lạt nữa, nguy hiểm lắm.

Tôi òa khóc, người như mê đi. Trong tiếng mọi người bàn tán, tôi nghe bác Ngãi an ủi, vỗ về.

Con đường phía trước không còn lối thoát. Đà Lạt không còn là đất cho ba tôi dung thân, không có cơ may sống sót hay thoát cảnh tù tội. Tôi không nghĩ có thể thoát chết trong cuộc chiến này nhưng không muốn tự mình đưa ba đến chỗ khốn khó. Ba tôi không biết quyết định ra sao. Ông khóc than, tự trách không lên chuyến xe cùng vợ con; nay gia đình ly tán, ông không cùng vợ chia sẻ nỗi nhọc nhằn, thậm chí không biết họ vất vưởng ở đâu. Tôi cũng khóc hết nước mắt giữa đèo Sông Pha vì không biết mình còn gặp lại mẹ và các em được không.

Tôi nhớ từng khuôn mặt mỗi đứa em. Hoành nhỏ nhất mới lên mười, ít nói có đôi mắt to buồn. Phương nhí nhảnh, lên xe về Đà Lạt mặc bộ đồ mới tôi vừa mới may trông thật dễ thương. Sâm chính là đứa em đặt trái banh giữa bộ quần áo để tôi không thấy bắt bỏ lại; em còn có tên Sâm Banh. Cẩn đi xe đạp đến trường xa hơn năm cây số mà không than thở. Ngày xưa còn bé, tôi bồng Chi suốt trên tay; mỗi khi em đòi tôi bế, giọng ngọng nghịu: Gương ơi! Gương! Lạc, Lâm tuy lớn nhưng ngoan. Gần nhà có một điểm bán bạch phiến mà các em không hề ghé mắt nhìn qua. Quyền chăm lo học hành, lúc nào sách vở cũng trên tay.

Một đêm hãi hùng giữa đèo Sông Pha! Bỗng nhiên tôi trở thành người tứ cố vô thân không một mái nhà, hay có một mái nhà mà không dám về; có người thân chờ đợi mà không dám ghé. Tôi không dám nghĩ ba tôi sẽ sống như thế nào nếu cha con thoát thân về đến Sài Gòn. Tôi cố tự nhủ: nếu lạc mạ và các em thì cố đưa ba tìm gặp các anh và chị, vì tôi tin họ đã về đến Sài Gòn. Tôi nghiến răng thầm bảo hãy để nước mắt ở lại giữa đèo. Với một con bé suốt tháng quanh năm chỉ biết ăn học, ra đời chưa được bao lăm, nay phải tự mình quyết định một việc như thế, tôi biết tóc mình đã bạc dẫu chưa qua tuổi hai mươi.

Con đường tìm sự sống (ngày 3 Tháng Tư, 1975)

Sáng sớm, ông tài xế e dè hỏi cha con tôi có muốn lên Đà Lạt nữa không. Mọi người đã xuống xe. Ba muốn trèo lên nhưng tôi níu lại. Xe chạy, hai cha con chạy theo một đoạn rồi đứng nhìn chiếc xe mất hút, đem theo niềm hy vọng trở về nhà. Toán người đi xuống đèo. Ngoài cha con tôi, hai cha con bác Ngãi, còn có ba người lính địa phương đóng trong trường tôi dạy; hai người tên Phụng và Tân, còn người kia thì tôi không biết. Ba người lính muốn về Sài Gòn để trình diện tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Trên đoạn đường đi, mỗi người một suy nghĩ. Cha con bác Ngãi hăng hái nhất, bởi gia đình bác đã về Sài Gòn mấy hôm, bác đi sau vì không dám bỏ nhiệm sở. Ba người lính tuy từng trải trong chiến trường nhưng không hình dung nỗi việc mình đang làm; không biết mình muốn và đang muốn cái gì.

Ba đi như người mộng du. Tôi nhìn mặt đường, lòng chỉ cầu nguyện: anh chị tôi thuyết phục mạ chạy theo đoàn quân và cũng về được Sài Gòn. Trong thâm tâm, tôi tự biết điều đó là không thể. Nước mắt đã cạn ở giữa đèo. Trong tôi có một sức cứng rắn đến tàn nhẫn; tôi kéo mũ sụp che khuất khuôn mặt, tay cầm cặp, tay dìu ba, đi nhanh cố theo kịp những người nam đồng hành để không bị bỏ lại phía sau. Cuối đèo có một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát nhỏ cạnh đường, mọi người đứng lặng, ba tôi chắp tay cầu xin Phật phò hộ. Tôi không biết mình ao ước điều gì vì mỗi bước chân là cách xa mạ và các em.

Đoàn người đón được chiếc xe đò từ Đơn Dương xuống. Đến ngã ba xe rẽ đường khác, chúng tôi lếch thếch đi bộ. Khác với hôm qua, con đường đi vào Phan Rang đầy nghịt người. Nhóm đi tới đụng đoàn đi lui: người muốn trở về nhà, kẻ ao ước đến Sài Gòn. Phan Rang thực sự là một thành phố kinh hoàng. Hôm qua chỉ là hôi của, giờ là sự thống trị của cướp bóc. Đoàn người chúng tôi không có hành lý. Tôi giấu tháng lương mới lãnh dưới bít tất, tay cầm chiếc cặp da nhỏ. Ba có mười ngàn đồng. Hai cha con bác Ngãi đeo tay nãi lương thực. Ba anh lính với chiếc ba lô. Chúng tôi đi giữa sự hỗn loạn và nắng nóng. Tưởng chừng không chịu nổi, chúng tôi đón được xe vào thành phố.

Lính tráng có mặt khắp nơi, đủ các binh chủng. Họ đi thành từng nhóm, mặt mày căng thẳng. Một toán lính đứng trên thành cầu, nhóm khác lố nhố hai bên vệ đường. Một người ra giữa đường chĩa súng lên trời bắn chỉ thiên buộc xe chúng tôi dừng lại; chiếc xe ngang ngạnh không chịu dừng, một tràng súng bắn ngang. Cuối cùng xe dừng, vì có người trúng đạn. Xác chết bị kéo xuống đặt dưới đường, không tiếng khóc, có lẽ là một người đi lẻ loi. Tội nghiệp!

Toán lính dưới đất trèo lên. Xe tiếp tục chạy. Ngồi giữa những người lính đầy súng ống, tôi sợ điếng vì đối mặt với bộ mặt tàn nhẫn của chiến tranh. Những người lính lạc đoàn quân từ miền Trung chạy vào. Họ không biết cấp chỉ huy ai còn ai mất và nay ở đâu. Cuộc phục kích khi lui quân khiến đơn vị tan tác. Những người lính bình tâm lại, hỏi thăm những người trên xe, tỏ ra thương hại cha con tôi. Tôi chẳng dám nhìn ai, không nói một lời. Mọi người chắc nghĩ tôi là một con bé trung học lạc nhà. Xe ngừng lại ở Phan Rí. Đoàn người đi từ đèo Song Pha giờ như gia đình nhỏ, tá túc dưới một mái hiên. Mấy anh lính Địa Phương Quân cho ba tôi mượn chiếc poncho, đưa tôi nắm cơm. Tôi bẻ nắm cơm với bàn tay mấy ngày không rửa nước, ăn đến hạt cuối cùng.

(Minh họa: Đinh Trường Chinh)

Đoạn đường kinh hoàng (ngày 4 Tháng Tư, 1975)

Sáng hôm sau, xe chạy ngang Phan Thiết. Xe chở đầy lính tráng không bị chặn lại nhưng đi rất chậm vì trên đường đủ các loại phương tiện: xe ba gác, xe đạp, xe gắn máy, xe tải, xe quân đội, người đi bộ gồng gánh… lấn ra cả lòng đường… Đến ngã ba vào Bình Tuy, đoàn người phải xuống đi bộ. Đoạn đường dài, nắng nóng, không nhà cửa, cây cối. Ba và tôi nhắm mắt cố uống nước đục ngầu ở những vũng lầy cho qua cơn khát.

Con đường đầy xác chết. Mới nhìn tưởng người ngoại quốc vì thân xác to lớn, nhưng nhìn lại đó là người lính, dân thường xấu số chết trương phình, đám ruồi xanh bay vo ve. Tôi cúi mặt sát đường hơn, nhìn kỹ từng bước chân, tránh đạp nhầm súng ống ngổn ngang. Ba cũng chẳng hơn, bởi vốn là công chức dân sự, thêm sự mơ mộng, nên ba sống không thực tế, tất cả mọi việc trong gia đình đều một tay mạ tôi lo toan. Thiếu mạ bên cạnh, ba hụt hẫng không quyết được việc gì. Hai cha con dìu nhau đi trên đoạn đường địa ngục. Sự sợ hãi quá sức khiến mọi xúc cảm không còn, tôi lẩn thẩn tự hỏi: chắc gì mình may mắn hơn những người nằm xuống.

Buổi tối bên hiên nhà trên con đường vào Bình Tuy, trời mưa, tôi nằm dưới đất, gối đầu trên chiếc cặp, mình mẩy lấm lem đất cát. Đoàn người chạy loạn nay chịu ướt càng thêm khốn khổ. Trên bầu trời, hỏa châu soi sáng, tiếng súng ầm ì. Tôi mong một trái đạn pháo rớt trúng. Nếu chết, hồn tôi linh thiêng, tôi sẽ phù hộ cho ba mạ và các em.

Miền đất hứa (ngày 5 Tháng Tư, 1975)

Tôi thức giấc khi bầu trời còn tinh tú và không ngờ mình vẫn còn sống. Tôi dẫn ba lầm lũi đi sau cha con bác Ngãi. Mấy lần ba thối chí muốn dừng lại bên lề đường nhưng tôi không cho. Tôi níu tay không cho ba dừng hỏi chuyện với ai, bởi một lần gặp, ông lại khóc. Có lúc ba bảo tôi ông mới thấy người nào đó mặc chiếc áo len của anh rể do chính tôi đan tặng. Tôi không cho ba hỏi thăm, bởi nếu đúng thì chỉ báo điềm không may mà thôi.

Giờ ba lại xem tôi là người có tội khi hai cha con lâm vào tình thế khó khăn này. Ba trách móc, kết tội tôi không cho ông lên đèo. Ba hỏi tại sao tôi lại là con gái mà không phải con trai! Người tản cư khắp miền Trung và Tây Nguyên dồn về đây. Ai nấy yên tâm, cảm giác mọi chuyện trở nên bình yên nếu về được Sài Gòn, thánh địa cuối cùng. Đường đi về bãi biển nóng, khá nguy hiểm vì đồ đạc lẫn súng ống ngổn ngang, còn lựu đạn nằm lăn lóc đến đáng sợ. Người ta chen lấn thuê ghe máy vào Long Hải.

Trời về chiều, ba người lính có lẽ tìm bạn bè cùng đơn vị đi mất. Cha con bác Ngãi ái ngại hoàn cảnh ba và tôi nên dọc đường có ý chăm sóc, thuê giùm ghe máy đến Long Hải. Chiếc ghe máy chật người, nước mấp máy vào mạn ghe. Miền đất hứa hiện ra trước mắt! Lòng tôi khô cứng lại, tôi biết không thể nào mình gặp mẹ và các em nữa. Ba tôi như một người điên. Ba ôm, đánh, cấu véo như thể tôi là nguyên nhân gây cho ông nỗi khổ này, rồi ba lại khóc ôm tôi, quay quắt gọi tên từng đứa con.

Ghe cập bến. Mọi người nhìn nhau cười. Chúng tôi xuống ghe với tâm hồn nặng trĩu. Bờ biển Long Hải đầy người. Không muốn nhìn niềm hạnh phúc của cha con bác Ngãi và ba tôi lại phát rồ nổi cơn khủng hoảng khi thấy bác sắp gặp lại gia đình, tôi kéo ba lẫn vào đám đông mà không cám ơn cha con bác.

Trời sập tối, tôi ra bể nước giặt cho ba tôi chiếc áo chemise của người chạy loạn cho. Hai cha con mua một dĩa cơm. Dĩa cơm đúng nghĩa sau mấy ngày chạy loạn khiến tôi ngạc nhiên về sự ngon miệng. Đêm đó, cha con tôi thuê ghế bố ngủ trên bãi biển. Chung quanh tôi rất đông người. Giờ nơi này là nơi hội tụ của trăm ngàn người tản cư khắp nơi. Tình cảnh thê lương như cha con tôi không là gì so với người chung quanh. Những người giàu có may mắn đi bằng máy bay; người đi bộ thất lạc, chết chóc dọc đường. Một ông đứng tuổi nằm gần bên ba tôi khóc nức nở: vợ con chết ngay trước mắt, ông thấy xe cán lên mà không thể dừng lại để chôn cất. Tiếng khóc, tiếng than, tiếng kể lể vang khắp nơi. Con xa cha mẹ, vợ lạc chồng. Tiếng người bàn luận về cuộc chiến, không biết vĩ tuyến 17 sẽ đặt lại ở đâu.

Tôi nhìn trên trời cao, tìm ngôi sao bản mệnh của mình. Ngày mai, hai cha con tôi sẽ thuê xe về Sài Gòn, tôi có gặp được các anh chị trong đoàn quân di tản? Anh trai tôi trong đoàn quân tan tác miền Trung có về kịp hay bị bắt, chết ở đâu? Hai cha con về Sài Gòn để làm gì khi anh chị không ai về được? Cuộc chiến sắp kết thúc hay chỉ bắt đầu? Sự trầm luân của hai cha con tôi mới khởi sự và bao giờ kết thúc? Tiếng khóc, tiếng cười ồn ào xung quanh mà không ai trả lời câu hỏi đó… Tôi ngậm ngùi nghĩ tháng ngày này thật khủng khiếp, khi tôi chỉ mới ở tuổi hai mươi…

Nhật ký Tháng Tư, 1975

Những trang nhật ký này nằm trong tủ rất lâu vì tôi không muốn khơi gợi những kỷ niệm đau lòng và tránh làm ba tôi tổn thương. Khi ba mất năm 2008, tôi mở ra xem lại, và dẫu thời gian trôi qua rất lâu, tôi vẫn cảm nhận những ngày của Tháng Tư, 1975 ấy thật đáng sợ, đủ để bạc cả mái tóc…

– Tác gỉa Phạm Thị Mai Hương cùng các em học trò. (Hình: Tác giả cung cấp)

– Gánh nặng non sông trên đôi vai gày của phụ nữ VN. Hình minh họa.

(Tác giả sinh năm 1954 tại Đà Lạt; trước là giáo viên tiểu học ở Đà Lạt; nay về hưu và sống ở Sài Gòn)

Chuyện trên chuyến bay-Gái Việt sau 1975

Gái Việt sau 1975

Chuyện trên chuyến bay

 Tôi không có thói quen giao lưu với người ngồi cạnh trên máy bay nhưng vẫn thường để ý một chút, lúc vừa ngồi xuống.

Trưa nay, cạnh tôi là một anh Tàu sồn sồn, bụng to, đầu hói. Anh đi với một cô gái trẻ, đẹp vô hồn, có lẽ người Việt. Tôi chẳng nghe họ trò chuyện gì.

Đang thiu thiu, tôi giật mình vì mấy cái vỗ nhẹ. Là cô gái. Nhìn qua, tôi thấy ghế cạnh mình đang trống. Với vẻ mặt căng cứng, em chồm qua đưa tôi cái gì đó giấu trong tay và thì thào:

_ Anh là Việt Nam phải hôn?

_ Đúng rồi em.

_ Anh làm ơn cầm giùm em cái này đi. Cầm lẹ đi anh.

Nhìn ánh mắt và nghe giọng nói khẩn cầu, tôi cầm. Là tiền. 200 đô Mỹ.

_ Cái gì vậy em?

_ Anh cất vô liền đi. Em đọc số điện thoại của má em. Anh nhớ rồi chuyển nó cho má em giùm nha anh.

Tôi lấy điện thoại ra và làm theo như một cái máy rồi quay sang em thắc mắc:

_ Sao không đợi qua đến Hong Kong rồi nhờ dịch vụ chuyển về.

_ Hổng được anh ơi, em khổ lắm. Em lấy thằng này là Tàu Mã Lai, nó đi đâu cũng bắt em theo. Ở nhà em cũng không ra ngoài được đâu, như ở tù vậy đó. Nó ghen lắm. Đánh đập em hoài. Nè, anh nhìn tay em còn bầm nè. Nó mới qua Saigon công tác rồi kêu má em lên, cho được có triệu bạc. Hai trăm này em mới ăn cắp của nó đó.

Tôi ngóng về phía restroom rồi quay sang em:

_Trời ơi, nó biết rồi làm sao?

_ Em liệu được anh ơi.

Kéo kỹ khoá chiếc túi xách, tôi hỏi em thêm một câu mà giờ ngồi lại thấy hối hận quá chừng:

_ Sao em không bỏ về Việt Nam đi?

Em nghèn nghẹn:

_ “Bỏ nó thì dễ nhưng em đâu bỏ con mình được anh? Nhiều lúc em muốn ôm con nhảy lầu luôn”.

_ Thôi em ơi, không được, không được nghĩ vậy. Em còn ba má.

Nói tới đây, thoáng thấy cái đầu hói vừa lú ra khỏi cửa buồng vệ sinh, tôi nhắm mắt lại.

Tôi vừa tiếp tay cho một vụ ăn cắp. Nhưng, hai trăm, hai ngàn hay hai chục ngàn cũng không bù đắp nổi những đòn roi và nhục nhằn em đã và đang gánh chịu. Em có thể đòi công bằng cho mình, bằng bất cứ cách nào.

Và tôi biết, hàng ngàn những cô gái Việt Nam cũng đang ngập ngụa trong những đắng chát này, như em. Không phải ai cũng có thể soi trước cái bến mình sắp cập vào, không phải cuộc hy vọng đổi đời hoặc báo hiếu cha mẹ nào cũng toại thành.

Trách ai đây?

Dương Đạt.

From: Tuyen Ho-Nguyen

ÂN HẬN MUỘN MÀNG

ÂN HẬN MUỘN MÀNG

Anh Hai là con trai duy nhất mà 30 tuổi vẫn độc thân nên ba má tôi sốt ruột lắm. Hồi đó, tới tuổi băm mà “chưa có gì” thì thế nào cũng xảy ra nhiều suy diễn kiểu như “chắc thằng đó kỹ tính quá”. Đàn ông con trai mà bị mang tiếng kỹ tính thì coi như… hết cứu.
Chị em tôi lần lượt “bấm còi” vượt mặt, anh Hai vẫn giậm chân tại chỗ, mặc kệ má tôi bồng bế cháu ngoại, nói gần nói xa, rồi hỏi thẳng: “Tới chừng nào con mới chịu cho má bế cháu nội?”. Anh Hai cười hì hì trốn sự thúc giục của má bằng cách xách cưa và búa lên chùa.
Ba má tôi là Phật tử, từ khi còn nhỏ, anh chị em tôi đã được ba má dắt tới chùa lễ Phật và tập làm công quả như quét sân, kết hoa vải, dọn dẹp trong những ngày lễ lớn… Nhà chùa đang chuẩn bị mở lớp học cho các em nhỏ lang thang. Bàn ghế thu gom từ các nơi cần được sửa chữa và anh Hai đảm nhận phần việc này.
Trong số các giáo viên tình nguyện đến dạy các em, có một cô dạy toán là người theo đạo Công giáo. Chuyện bắt đầu từ đây. Anh Hai tôi thường xuyên lên chùa nhưng không chỉ để làm công quả mà còn để đưa đón cô dạy toán.
Ba má tôi cắn răng thở dài, ông bà mong biết mấy được thấy con trai có đôi có cặp, nhưng khi có rồi thì vui không nổi. Con trai đầu có bổn phận cúng kính mà lấy vợ khác đạo thì làm sao?
Anh Hai biết tình yêu của mình gây khó cho ba má, nên chẳng dám nói năng gì, cũng không dám đưa chị về chào gia đình. Tôi hỏi nhỏ: “Anh đã tới chào ba má chị chưa?”. Anh Hai lắc đầu. Tôi hiểu là nhà bên đó cũng chẳng đồng tình.
Hai gia đình biết rõ con mình thương ai, nhưng làm như không biết. Thời đó, chuyện yêu đương mà chưa có tiếng nói của người lớn thì coi như chuyện ngoài đường. Giả vờ như không biết, nhưng ba má tôi âm thầm theo dõi, thấy anh đưa chị đi lễ nhà thờ. Và nhà bên ấy cũng thầm theo dõi, thấy chị theo anh lên chùa lễ Phật ngày rằm. Hai bên cùng thấy, cùng biết và cùng nín lặng chờ đợi.
Chờ đợi gì cũng không rõ, có lẽ, không bên nào muốn là phía đầu tiên thốt lời khiến con mình đau khổ.
Mối tình của anh Hai kéo dài đến năm thứ ba thì má tôi không kiên nhẫn được nữa. Con mình là con trai, lỡ có bề gì thì mang tiếng ác với con gái người ta. Má ra tối hậu thư “hoặc tình, hoặc hiếu”. Anh Hai cúi đầu chọn bên hiếu.
Lựa chọn của anh Hai khiến má mềm lòng, nhưng thật ra, do âm thầm theo dõi, má đã sinh lòng mến thương người con gái hiền ngoan, vừa đẹp vừa nhân hậu, biết đến với trẻ em khốn khó. Được con dâu như vậy thì cũng đáng để má chịu lùi một bước. Má thuyết phục ba cho phép anh Hai ngỏ lời với nhà bên đó, với điều kiện đạo ai nấy giữ.
Ba má chị lắc đầu, với lời phân tích ngọn ngành rành mạch là phải từ chối người con trai nghề nghiệp đàng hoàng, tính tình tử tế, hiền lành thì cũng tiếc lắm, nhưng mai này sinh con ra thì làm sao? Đứa nào theo cha lên chùa, đứa nào theo mẹ đi nhà thờ? Ừ thì cho phép chúng tự chọn đức tin, nhưng khi mới sinh ra chưa biết gì thì cha mẹ là người dìu dắt, lúc đó làm lễ rửa tội thì sao? Đã nhận lễ rồi thì dĩ nhiên là con của Chúa, ông bà nội có chịu không?
Câu trả lời của ba má tôi là không, cháu nội nhất định phải theo đạo nhà mình.
Vậy là anh chị chia tay. Để khỏi gặp gỡ, khỏi xao lòng, chị không đến chùa dạy lớp học tình thương nữa, người thay thế chị là anh Hai. Trước đó, anh chỉ làm những việc công quả cần sức vóc đàn ông, tới lúc ấy, anh nhận luôn việc dạy học. Bọn trẻ thắc mắc: “Sao cô không dạy tụi em nữa hả thày?”, anh Hai trả lời: “Tại các em làm cô buồn”. Bọn nhóc chẳng hiểu câu trả lời này, thường ngày đứa nào cũng có nhiều lần nói chuyện trong lớp, không làm bài tập về nhà, rồi cãi nhau chí chóe… Cô giáo buồn là đúng rồi.
Anh Hai gầy sọm đi. Cả nhà tôi thở dài, bệnh buồn tình chỉ có thầy thuốc thời gian chữa lành mà thôi. Chữa lành thật không, tôi tự hỏi khi thấy anh Hai vẫn đi về một mình, vẫn cười cười nói nói nhưng ánh mắt chẳng còn sáng lên lấp lánh.
Tai nạn xe cộ bất ngờ cướp đi mạng sống của anh Hai.
Đám tang anh, chị lặng lẽ đến vào buổi tối, khi khách viếng đã ra về hết. Chị lặng lẽ chảy nước mắt trước di ảnh của anh. Nén nhang chị thắp cũng như người, lặng lẽ tỏa làn khói mỏng mà làm cay mắt tất cả. Ba tôi lau nước mắt quay mặt đi, còn má tôi ôm lấy chị mà nức nở. Quá muộn màng!
Sư thầy nói tục lệ đốt quần áo cho người chết đem theo là mê tín dị đoan, lãng phí, thay vì vậy, hãy đem làm từ thiện để làm phước. Tôi rủ chị xếp áo quần của anh để đem đi cho. Những ngón tay chị run run vuốt từng nếp vải như đây mới đúng là lần cuối cùng chị được chạm vào anh. Tôi chọn cái áo màu xám tro anh hay mặc, muốn nói chị hãy đem về giữ cho riêng mình, nhưng cái đầu tỉnh táo của tôi lại nghĩ, nỗi nhớ đã đủ làm khổ chị rồi, tốt nhất là để chị quên anh đi.
Tục lệ quê tôi là người vừa nằm xuống sẽ cảm thấy lạnh lẽo nên hằng ngày sẽ đốt củi sưởi ấm ngôi mộ. Sáng sớm, tôi chở má xuống nghĩa trang, ngang qua cổng, ông bảo vệ hỏi thay lời chào: “Con dâu của dì là cô giáo hả?”. Má tôi chảy nước mắt nhìn chị và bọn nhỏ lớp tình thương xúm xít mỗi đứa một khúc củi xếp lên nhau. Rồi những bàn tay nhỏ bé khum khum nối nhau che gió cho chị mồi lửa.
Tôi và má đứng lại ở xa xa nhìn tới, để cho chị được tự do chăm sóc anh. Má tôi vừa khóc vừa nói: “Biết vậy thì hồi đó má đã gật đầu. Chúa và Phật đều dạy người ta thiện tâm mà”.
Không ai biết trước được điều gì, nếu biết trước thì chẳng ai nỡ làm đau người khác. Tôi thường nói vậy để an ủi ba má và cũng là tự nói với mình. Tới tận ngày giỗ lần thứ bảy của anh Hai, sáng sớm mang hoa xuống mộ, tôi vẫn gặp chị bên cạnh đống lửa; lứa học trò ngày đó đã phiêu bạt khắp nơi, chị ngồi một mình… 

(Sưu tầm qua Internet)

From: Tuyen Ho-Nguyen  

Trở Về Trên Chuyến Tàu Việt Nam Thương Tín.

*TRUYỆN NGẮN CÓ THẬT … – Nguyễn Ngọc Dung,

Trở Về Trên Chuyến Tàu Việt Nam Thương Tín.

Mùa Xuân đang về, thời tiết lý tưởng, với chồi non, nụ thắm… dễ làm người ta yêu đời hơn.

Ngày dài hơn, nắng vàng của những ngày đầu mùa Xuân làm cho tôi ngồi vào bàn, viết lại một quãng thời gian đầy biến động và thay đổi cho cả gia đình mình. Một công việc đã âm ỉ trong lòng, chưa được viết ra, như một gửi gấm đến các con cháu mình những gì đến với cuộc đời của tôi, và phần nào muốn chia sẻ với các bạn, như một lời tâm tình của một thành viên bé nhỏ trong cái tập thể “vợ những người tù cải tạo” quanh đây.

30 Tháng Tư, 1975, lịch sử Việt Nam sang một trang mới. Tôi lấy chồng trong những ngày cuộc chiến cao độ (1970), chàng là một người lính Hải Quân, nay đây mai đó, lúc ở căn cứ hải quân mãi tận Phú Quốc, lúc đi tàu biển, rồi có khi về ngay bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn và đơn vị cuối cùng, là giang đoàn ở Đồng Tâm, Mỹ Tho.

Tôi đi học, đi làm và không theo chân anh đi các vùng xa xôi như thế. Ngày 27 Tháng Tư, 1975, anh về thăm tôi 1 chút rồi trở về Long An, lúc đó là nơi anh được huy động về tiếp tay với các bạn giữ vùng 4 sông ngòi. Anh và tôi xa nhau, gặp nhau như chuyện thường ngày của các gia đình quân đội – nhất là hải quân – trong thời chiến, nào có biết rằng cũng là lần cuối gặp nhau mang hình ảnh anh trong bộ quần áo tác chiến hải quân.

Chúng tôi mất liên lạc từ đó, vài ngày sau, với lời tuyên bố đầu hàng sáng 30 Tháng Tư, 1975, tôi biết cuộc đời mình sẽ có những thay đổi rất lớn, mà chẳng biết nó sẽ như thế nào. Tôi chờ anh trở về Sài Gòn, chờ anh về nhà, tuy biết là không thể trở về với chiếc tàu, để đón gia đình hai bên và tôi.

Về sau này, tôi mới biết, giang đoàn của anh được biệt phái từ Đồng Tâm, tới Nhà Bè, rồi về Long An, nằm trong Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, gồm rất nhiều tàu bè, một mũi nhọn xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân miền Nam lúc bấy giờ.

Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 được thành lập để bảo vệ an ninh thủy trình sông Soài Rạp và sông Lòng Tào, và bảo vệ chính phủ rút về miền Tây, khi tình thế xấu.

Bến Bạch Đằng quen thuộc, gần nhà bố mẹ tôi, nay đã chẳng còn một chiếc tàu nào mang lá cờ xưa.

Chiều tối hôm 29 Tháng Tư, 1975, tôi cùng đoàn người gần nhà ra bến Bạch Đằng, mong có một cơ may nào lên được sà lan, tàu buôn hay cả ghe nhỏ để cứ đi vào một bến bờ vô định. Đi như trong giấc ngủ vật vờ, đêm xuống, bờ sông hỗn loạn, hàng kẽm gai kéo ngang, họng súng gờm sẵn sàng nhả đạn. Tên anh cũng chẳng ích gì trong việc xin 1 chỗ cho mình tôi lên tàu hải quân, ai thoát được, cứ lạnh lùng bỏ đi.

Thôi rồi, số phận mình ra sao, anh ở đâu và có an toàn?

Một đêm không ngủ nghe tiếng trực thăng bay liên tục, nhìn những chiến hạm không đèn trên sông Sài Gòn, tôi biết mọi hi vọng ra đi đã bị cắt đứt. Đi qua bộ tư lệnh Hải Quân, qua cầu tàu nơi có khi anh chỉ cho tôi, kia là con tàu anh đang làm việc trên đó, nay chỉ là một quãng sông đen ngòm, đe dọa và nhận chìm mọi hi vọng của chúng tôi.

Ngày qua ngày, qua lời 1 anh lính cận kề với anh ở giang đoàn, anh ta về nhà nhưng không muốn gặp mặt tôi, tôi biết anh đã dẫn đoàn ghe ra cửa biển, đón tàu khác để di tản.

Tôi vẫn phải đi làm, sáng ra phải dự các buổi gọi là “giao ban,” gặp tất cả các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ và ban quân quản bệnh viện. Không khí căm thù bàng bạc suốt buổi, nhiều đe dọa, chúng tôi chỉ biết nhìn nhau, im lặng, vì quanh mình chẳng biết ai là bạn ai là thù.

Bên cạnh đó, những buổi học tập tại chỗ, những bài tự khai thật nặng nề, những câu hỏi mơ hồ khiến câu trả lời nào của chúng tôi cũng không thỏa mãn được họ. Nhất là với tôi, khi tôi khai ông chồng tôi…mất tích… Thì đúng là mất tích chứ sao bây giờ, khi Tháng Năm, Sáu, Bảy, Tám 1975 không biết anh ở đâu. Họ đâu có chịu cho tôi yên với hai chữ mất tích kia, cái mất tích hàm nhiều ý nghĩa…có thể là đã chết, di tản, vô bưng hoạt động chống lại họ, hay trốn ở đâu. Họ bắt tôi lên họp, chỉ một với một, họ hạch hỏi quanh chữ “mất tích.” Tôi cũng hoang mang lắm, không biết anh sống chết thế nào.

Bức màn sắt đã trùm xuống toàn miền Nam, toàn vùng chỉ là đêm đen giữa ban ngày. Chỉ có một đường radio VOA, BBC để biết tin nước ngoài, được nghe trong sự trốn tránh che giấu. Sáng đi làm, nhìn những lá cờ đỏ trên đường, rùng mình như màu máu đang rút dần ra khỏi cơ thể tôi, ngủ dậy mới thấy đã qua được 1 ngày yên ấm, chưa bị bắt như các người lớn trong bệnh viện, nay ông bác sĩ bệnh viện trưởng, mai ông phụ tá hành chánh, mốt ông điều dưỡng trưởng.

Không khí trong bệnh viện đầy đe dọa, dò xét, ngay cả hộp đồ ăn trưa cũng được bà trưởng phòng về tiếp quản, đổ ra ngoài xem có dấu gì trong đó, hay xem bọn “ngụy” ăn uống cao lương mỹ vị gì.

Đến khoảng Tháng Tám 1975, tôi nhận được 1 điện tín gửi từ Pháp, như sau: sẽ hồi hương, cho biết ý kiến.

Bức điện tín ngắn gọn, mà thật là khó giải quyết. Tôi xin ý hai bên cha mẹ. Bố mẹ anh không biết nên bảo anh về lại Việt Nam hay bảo anh qua Mỹ, được sung sướng cho anh, thì lại khổ cho con dâu mà ông bà rất yêu quý. Bố mẹ tôi bảo anh trở về, thì thương anh bị ở tù khổ cực lắm. Ngay bản thân tôi, cũng chẳng biết sao là đúng.

Biết là anh đang rất cần câu trả lời để có quyết định, về hay ở?

Sau cùng, chúng tôi đành đánh điện tín qua: “Tùy ý quyết định.” Những ngày tháng sau đó, tôi sống như một người có tội, tội đẩy anh vào nơi lao lý, biết có ngày về ?

Sau đó các đài phát thanh, VOA, BBC báo tin cho biết sẽ có một chuyến tàu mang tên Việt Nam Thương Tín sẽ đưa một số người muốn hồi hương, khoảng Tháng Mười sẽ trở về. Thuở ấy, sau bức màn sắt là một thế giới khác, bít bùng, mọi tin tức đều không thể đến với người dân. Tôi đi làm, lòng đầy hoang mang, anh có về, nếu anh về, thì có phải ở tù không? Người ở đây, còn vào tù, huống gì người đã đi, nay trở lại, mang theo những câu nghi ngờ về các anh, có phải đã mang về những công việc dọ thám, đánh phá chế độ…

Rồi được tin nghe lén, chiếc tàu mang tên Việt Nam Thương Tín (VNTT) đã chở người di tản dạo 30 Tháng Tư, 1975, nay được dùng để đưa đoàn người hồi hương. Tôi tự hỏi, liệu có anh trong đó, nếu có thì anh sẽ ra sao. Ngay bản thân tôi ở Sài Gòn, còn bị đe dọa đi kinh tế mới, vì đã được đặt tên là vợ của ngụy quân, tội ác đầy mình, cần phải cải tạo cái đầu tư sản bằng con đường lao động.

Hai bàn tay một Nha Sĩ như tôi, thay vì điêu khắc lên miếng trám cho thật đẹp, thật giống những hình dáng thật của răng, nay có lúc phải cầm cuốc đi trồng dứa (thơm) ở nông trường, cầm cuốc trồng khoai mì sau khi đã cuốc hết sân cỏ xanh mướt tốn công biết bao, ở sân trước bệnh viện Chợ Rẫy nổi tiếng ở Sài Gòn.

Có lần chúng tôi phải đi đào kinh, giẫm chân trên dòng kinh lúp xúp nước, chuyền những miếng đất được các vị bác sĩ, các giáo sư đại học Y Khoa Sài Gòn trao cho, để tạo con kênh dẫn nước phèn vào ruộng. Dòng nước váng lên những phèn, cây nào sống nổi. Sau những lần khổ cực như thế, số bác sĩ quyết chí rời bỏ nước lại càng tăng lên. Họ đã không trọng vọng nhân tài, yêu quí những vị “cứu nhân, độ thế.”

Qua những sự việc hàng ngày như thế, tôi đã có thể hình dung cuộc sống trong tù “cải tạo” của các quân nhân chế độ cũ, và nhất là các anh đã về theo chuyến tàu VNTT sẽ khổ như thế nào.

Lá thư anh gửi từ trại tù Tuy Hòa đã xác định, anh đã trở về.

***

Tôi lên phòng nhân viên của bệnh viện tôi làm việc, xin điều chỉnh tình trạng chồng mình. Chữ “mất tích” nay đổi thành một địa chỉ lạ hoắc, ở một nơi rừng sâu núi thẳm nào đó miền Trung. Tưởng rằng đã yên cho mình, tưởng rằng không còn cái cảnh gọi lên làm lại lý lịch tôi đã thuộc lòng, với lời nghi ngờ là ông chồng tôi đang ở một nơi nào, đe dọa đến an ninh của chế độ mới.

Bây giờ họ đem chồng tôi để “dụ” tôi vào một công tác mới. Họ hỏi, tôi có muốn đi thăm nuôi anh, có muốn gặp anh? Dĩ nhiên là tôi muốn lắm chứ, nhưng tôi cũng biết dè chừng cái thâm ý của họ.

Đằng sau cái đề nghị ngọt ngào đó, hẳn là sẽ có điều kiện gì đây?

Thì ra, họ muốn tôi làm một thứ “ăng ten” để tìm hiểu về một nhân vật trong bệnh viện mà họ muốn bắt. Tôi tuy còn non trẻ, nhưng cũng đã biết lưu ý kịp thời, để không mắc mưu họ, giữ an toàn cho người ấy và cả cho mình. Cuộc sống bấy giờ, là một sự đối phó, là những cẩn thận và căng thẳng. Rồi cũng qua ngày, tôi tìm quên trong công việc. Trong bệnh viện, ngày ngày có tin người này đi thoát, bạn khác bị bắt. Tôi đã tìm cho mình một hướng đi, dứt khoát ở lại với anh. Chúng tôi chưa có con, tưởng như không có điều chi ràng buộc, nhưng tình nghĩa vợ chồng sâu nặng, nhất là sự trở về của anh, thì sự dứt khoát kia trở thành một điều không lay chuyển.

Chuyến tàu VNTT về đến hải phận Vũng Tàu từ Tháng Mười, 1975, thế mà chúng tôi chỉ biết đến tin nhau qua vài lá thư, thư đầu tiên từ Tuy Hòa, ngày gửi là Tháng Hai, 1976, thư thứ hai từ Nghệ Tĩnh.

Anh đã bị còng tay, giải đi thật xa, đến một nơi nghèo nhất nước, để đói khát, bệnh tật sẽ giết lần mòn nhóm sĩ quan ưu tú của quân đội. Những lá thư được rập khuôn, vài ba chữ hỏi thăm là đã hết, anh chẳng đả động gì đến chuyện đi thăm, sự cô lập trong rừng sâu, sự cô lập với dân quanh vùng và ghê sợ hơn cả là sự cách chia với gia đình.

Anh sống thế nào nhỉ?

Sự chờ đợi mỏi mòn cho đến cuối năm 1978, anh mới báo tin cho tôi đi thăm nuôi. Hai chữ “thăm nuôi” thật giản dị mà đầy ý nghĩa.

Nghĩa là có hai việc trong lần được gặp này: thăm và nuôi. Anh viết thư về, danh sách các thứ “nuôi” dài thậm thượt, với một người gọi là “khảnh ăn” như anh, mà phải liệt kê bao nhiêu món như thế, chắc chắn anh thiếu thốn ghê gớm.

Quãng đường Hà Nội vào Vinh bằng tàu chợ đã là một ám ảnh tôi cho đến bây giờ, xe lửa cho những con buôn đanh đá, cảnh hỗn loạn cho những tay cướp hoạt động, nơi những tay anh chị và đồng bọn hoành hành với những luật chơi riêng của họ. Những chị đi thăm nuôi cứ chết dí, né tránh và chịu đựng. Nói sao cho hết những nhục nhằn chịu đựng trên đường thăm nuôi.

Lần đầu tiên gặp lại sau 3 năm xa cách, anh đã trở thành một người khác, cả người sưng phù, khuôn mặt giữ nước trông như mập ra, anh như một người khác trong bộ bà ba đen có lần tôi gửi vào theo đường bưu điện.

Vợ chồng nhìn nhau qua 1 chiếc bàn lớn, xa cách như tội nhân. Chúng tôi tội tình gì nhỉ, muốn nói bao điều, mà chỉ nói bằng ánh mắt. Giờ được thăm loáng cái đã hết, chúng tôi bịn rịn, anh ngay đây mà như một người xa lạ, gặp nhau và chia tay, chỉ yên tâm là chúng tôi vẫn còn sống, ngày mai sẽ ra sao, chẳng ai biết.

Anh quay vào trại, sống kiếp tù đày, tôi trở về lại Hà Nội đợi máy bay vào Sài Gòn. Ra đến Hà Nội mới biết các chuyến bay tạm ngưng vì chiến tranh Tháng Mười Hai, 1978 giữa Việt Nam và Cambodia, tôi kẹt ở lại, tôi đánh điện tín về bệnh viện xin nghỉ, họ không tin, cứ nghĩ tôi đã vượt biên. Sau khi có máy bay trở lại, tôi đi làm và đã bị làm khó dễ không ít với sự việc này. Đất nước đã được rêu rao là “thống nhất,” là hạnh phúc, mà sao vẫn sợ dân mình bỏ nước ra đi?

Cuộc sống ngay cả ngoài tù còn đầy rẫy khó khăn, đói ăn, thiếu mặc, thiếu tự do. Thử hỏi trong tù, nhất là người tù luôn kèm theo bốn chữ Việt Nam Thương Tín, thì khổ thế nào. Bốn chữ ấy có nghĩa là luôn nằm trong sự nghi ngờ của chính quyền, sự thương cảm của bạn bè, sự tiếc nuối có khi tức giận của những người đang tìm đường vượt biên. Riêng tôi, bị nhìn như nguyên nhân chính của sự trở về của anh.

Tôi tự giận mình, quyết định để anh trở về, như đang ở thiên đường mà lại xuống địa ngục. Nhiều khi tôi phải tự tìm ra câu trả lời, là, quyết định lúc nào, là đúng nhất vào lúc ấy, không ân hận và không tiếc gì. Hỏi rằng có ai can đảm như anh, biết trở về là tù đày mà chỉ nghĩ đến một ngày sẽ trở về với gia đình và tôi.

Nhiều bạn anh lúc còn ở Guam, đã ngăn anh trở về, nhưng các bạn mạnh miệng vì họ đang ở trong sự đầy đủ của vợ, con, cha mẹ. Anh tâm sự, có những buổi chiều ở Guam, ngồi ở bãi biển, nhìn đôi chim bay cùng nhau trong nắng xế, nhìn người ta bên cạnh vợ con, tuy chưa biết ngày mai nhưng vẫn ánh lên hạnh phúc vui vầy. Anh đã về vì chẳng có ai trong gia đình anh, gia đình tôi di tản được.

Anh ra khỏi tù Tháng Mười, 1982, từ xứ Nghệ Tĩnh rất xa, vào đến miền Nam là cả một lòng thương yêu của dân chúng, họ giúp đỡ, trên đường di chuyển về Sài Gòn. Hai năm sau, chúng tôi có đứa con trai đầu tiên và 3 năm sau, một đứa con trai thứ ra đời khi tôi đã ở tuổi 40. Bạn bè của anh thường lui tới thăm hỏi, nựng nịu hai cháu nhỏ nhất khóa. Chúng tôi muốn sống yên bình, nhưng thấy luôn luôn có những phân biệt, ngăn cản bước tiến của con mình từ phía chính quyền mới. Và năm 1991 bốn người chúng tôi ra đi định cư ở Mỹ trong chương trình H.O., chúng tôi phải làm lại từ đầu, bắt đầu một cuộc đời mới ở một xứ sở mới đã dang tay đón nhận chúng tôi.

Chúng tôi với tuổi thanh xuân, với thời điểm đẹp nhất cho việc tạo dựng một cuộc đời tốt đẹp, lúc ấy, đã bị cướp đi, phải bắt đầu một cuộc đời mới bằng hai bàn tay trắng. Những mất mát ấy, chẳng cách gì lấy lại được. Thật là nhiều thua thiệt, chỉ còn những an ủi là những ngày tháng cuối đời được sống bình an nơi xứ sở này, nơi chúng tôi xin nhận làm quê hương.

Anh đã từ Mỹ, trở về Việt Nam, trải qua 7 năm gian khổ, và 9 năm sau gia đình chúng tôi đã cùng nhau trở lại “thiên đường” tưởng đã đánh mất, sau 19 năm tuổi trẻ, đã qua đi vô ích, tuổi đẹp nhất của một đời người.

Qua những gian khó ban đầu ai cũng phải sống như thế, chúng tôi đã hội nhập được với “dòng chính,” các cháu học hành nên người, cuộc sống không đến nỗi kham khổ.

Để đến bây giờ, chúng tôi vẫn hãnh diện trả lời, “Vâng, chúng tôi là người của chuyến tàu VNTT, con tàu mang tên Định Mệnh, từ Guam trở về Việt Nam Tháng Mười, 1975.”

HÌNH:

– Những ngày tháng yêu nhau…. gặp gỡ nhau trên chiến hạm trước 30-4-1975…

– Phi trường Tân Sơn Nhất, 4 Tháng Bảy, 1991. (Hình: Tác giả cung cấp)

– Tết đầu tiên ở Hoa Kỳ, 1992. (Hình: Tác giả cung cấp)

– Gia đình, năm 2015. (Hình: Tác giả cung cấp)*

NHỮNG NGÀY VUI

Chuong BK  is with Thuy Nguyen

 NHỮNG NGÀY VUI

luật sư Nguyễn Hữu Thụy

(Hình chân dung Pre.75)

Lại sắp đến 30/4 thôi lại nói đến chuyện tù cho hợp thời vụ. Sống trong tù cộng sản , sự tàn bạo kể sao cho xiết, nhưng muốn sống sót nên quên đi những điều mà Việt cộng đặt ra để hành tù mà chỉ nghĩ đến những điều vui tươi cho ngày tù ngắn lại. Những nhân vật tôi nhắc đến ở đây tôi thường kèm chức vụ của những vị này cho khỏi lẫn lộn với người khác, và phần lớn đã ra người thiên cổ nên không đối chứng được, nhưng tôi thề chỉ nói sự thật chỉ sự thật mà thôi, và…như thế là công lý.

Sau ngày 30/4 cộng sản ra thông cáo đi “học tập “ đem tiền ăn trong một tháng. Nhiều người cả tin là sẽ bị giữ trong một tháng rồi ra về. Tôi không tin như vậy vì đây không phải là lần đầu tôi gặp người bạn khó ưa này, cộng sản. Trước đây năm 1953, tôi cũng đã nếm mùi trại tù cải tạo một lần, trong một năm, vì là con điạ chủ. Tại đây tôi đã bị giam chung với một người tù mà sau này lại được ngộ cố tri trong trại tù Long Thành là luật sư Nguyễn Hữu Hiệu.

Ngày đi tù tuy là luật sư, nhưng đã đi lính và mang cấp bậc thiếu tá, thẩm phán quân sự. Tôi có thể nạp mạng với tư cách quân nhân với chức vụ thiếu tá. Tôi cũng có thể trà trộn vào đám tù dân sự với tư cách thẩm phán . Tôi chọn đi tù dân sự để tránh việc có thể những quân nhân trước đây đã chẳng may có dịp đáo tụng đình và đã gặp tôi với tư cách thẩm phán công tố, điều đó sẽ kém vui đi. Do đó tôi trình diện ở trường Gia Long, nơi gặp gỡ của người tù dân sự.

Vào trường Gia Long chúng tôi bị giải đến trại tù Long Thành. Trại tù Long Thành, trước đây là làng cô nhi Long Thành của sư trụ trì tên là Tư Sự. Trước ngày l30/4 không lâu, với tư cách thẩm phán công tố, tôi đã có dịp gặp Tư Sự vì tội hoạt động cho việt cộng và bị tòa án Quân Dự Mặt Trận vùng 3 bắt giữ. Sau này lên Long Thành tôi mới biết Tư Sự là đại tá việt cộng. Tôi muốn tránh gặp lại người cũ nhưng rốt cuộc lại ở nhà người bạn cũ là TS chủ làng cô nhi Long Thành. Cũng may, chắc Tư sự lúc này làm lớn lắm nên chẳng gặp tôi làm gì.

Tại nhà tù Long Thành, đời tôi chưa đến nỗi khắt khe lắm, vẫn còn mang một tên thơ mộng là trường cải tạo 15 NV. Tôi đã gặp cụ Lê Tài Triển , ngày tôi tuyên thệ luật sư thì cụ là Chánh nhất tòa thượng thẩm Sài Gòn, sau này giữ chức vụ gì bên bộ ngoại giao thì tôi không nhớ. Cụ Triển đi lao động vai vác cuốc nhưng vẫn giữ phong thái của một người trí thức chân mang giầy tây và áo bỏ trong quần. Cụ Lưu Đình Việp, Chửơng lý tòa Thượng thẩm Sài Gòn đi tù còn cố mang theo một cái đệm hơi để tối nằm cho êm.

Ngày đi tù, theo sắp xếp, tôi ở đội các thẩm phán. Lúc đó tôi chưa đến tuổi 40, còn trẻ chán, nhưng lại ở tổ toàn những vị cao niên, phần lớn là các vị thẩm phán tối cao. Ngày ngày đi làm vườn cụ Vũ Tiến Tuân chưởng lý tối cao pháp viện, vì đau chân không ngồi xổm để nhổ cỏ được cụ kiếm được một mảnh gỗ làm ghế ngồi. Vì mảnh gỗ này cụ Tuân bị bọn cán bộ quấy rầy hoài , “ đi lao động mà còn ngồi ghế kiểu phong kiến”. Cụ Nguyễn Mạnh Nhu chưởng lý được giao một đàn dê . Lúc nào trong túi cụ cũng chứa đầy đá. Dê chạy nhanh cụ đuổi không kịp nên phải dùng đá ném để gom chúng nó về.

Cụ Phạm Văn Hiền, chánh nhất tòa thượng thẩm Huế, người hiền lành nhưng cũng không kém phần dí dỏm. Một lần tôi đi đổ rác với cụ Rác đựng trên một cái cáng, cụ đi phía trước tôi khiêng phía sau. Tới chỗ rẽ, tôi nhắc, cụ nghiêm nghị quay lại bảo tôi: “ Con đường chính trị tôi có thể lầm, nhưng con đường đổ rác thì tôi biết ông ạ “

Cụ Trịnh Xuân Ngạn người có thể biết thiên kinh vạn quyển, nhưng những chuyện đời thường, rất đời thường thì có khi lại không biết. Một lần cụ hớn hở tìm tôi như Archimede tìm ra sức đẩy của nước và khoe rằng :” Cái dây thép bẻ đi bẻ lại một lúc thì nó gẫy ông ạ .”

Ở tù hơn một năm thì đến tết, tù được thăm nuôi, anh Vũ Mạnh dự thẩm, nhân vật này tôi biết là còn sống vì thấy tên trong hội ái hữu Luật khoa San Jose, có người chú làm tướng việt cộng đến thăm. Tôi thấy anh Mạnh có vẻ chuẩn bị tư tưởng dữ lắm, vì đây là cuộc gặp gỡ của những người từ hai bên chiến tuyến. Từ nhà thăm nuôi trở về, anh Mạnh báo cáo là sau khi hỏi thăm chuyện gia đình, ông chú anh đã nghiêm nghị trách:” Sao nhà cháu đi hết rồi mà cháu còn ở lại đây”

Ở tù thì phải hát những bài của việt cộng. Anh Trần Tấn Toan, Thựơng nghị sĩ, người phụ trách văn nghệ của đội, sáng tác bài “ Giữ vững niềm tin “ và đưa lên ban giám thị trại để kiểm duyệt. Bài hát được chấp nhận, nhưng đội tập tành hát chưa được bao lâu thì có lệnh xuống là cấm hát. Không biết chúng nó giữ vững niềm tin nhưng là tin cái gì tình ai?

Những năm còn đi học, tôi được moị người biết đến với cái tên ông táo trường luật. Năm học sau, mọi người bắt tôi làm ông táo nữa, tôi từ chối, làm mãi cũng nhàm. Tuy nhiên khi đi tù, để giúp vui mọi người đang độ buồn phiền, tôi đành làm Táo hai lần nữa, nhưng những lần sau này, tôi không tự viết sớ táo nữa mà để người khác viết. Tôi chỉ sửa lại cho hợp ý táo thôi. Lần đầu ở trại long Thành do dự thẩm Nguyễn Ý Nhạc viết và lần thứ hai ở trại Quảng Ninh do đại sứ Phạm Trọng Nhân viết. “Những màn trình diễn cũng “ Mua vui cũng được một vài trống canh” ( Nguyễn Du).

Bây giờ đi tù, không phải chỉnh trang sắc đẹp như hồi đi làm nữa, nên tôi để râu dài như ông đạo dừa và lại được anh em đặt cho một tên mới là ông đạo. Một ngày không biết là có đẹp trời hay không, tôi gặp một tên cán bộ có vẻ để ý đến tôi, tôi tránh lối khác, chẳng nên dây với hủi, nhưng y cũng chẳng tha. Y đi nhanh vòng lối khác và chặn lối tôi: “ Để râu chống cộng hả?” thế là y lôi tôi đi cạo bén hàm râu. Râu đi rồi nhưng cái tên ông đạo thì còn, cho đến bây giờ thỉnh thoảng vẫn có người gọi

Sau những buổi học tập chính trị trên hội trường, chúng tôi phải về họp tổ để kiểm điểm và viết bản thu hoạch xem tù học hành như thế nào. Trong chiếu ngồi họp tổ, tôi với Hội thẩm. Dương Thiệu được phân công mỗi người nhìn về một phía làm lính gác bọn cán bộ trại. Chúng tôi ngồi nói chuyện tầm phào nhưng bỗng nhiên thấy hội thẩm Sinh hoặc tôi đổi giọng thì mọi người lập tức chuyển sang chuyện thảo luận chính trị có vẻ hăng say, tạm gác sang bên chuyện trời, trăng , mây , gió.

Ở trại giam Long Thành hơn một năm thì tôi cùng một số lớn tù nhân khác chuyển về Thủ Đức giam trong một trại dành cho các nữ ngày trước. Những nữ phạm nhân ngày trước không còn, nhưng cảnh thì vẫn là cảnh cũ để nhớ lại những ngày còn làm luật sư đi thăm thân chủ ở đây. Tại trại trại Thủ Đức tôi nằm cạnh và ăn chung với hai vị là giáo sư Bùi Từơng Huân tổng trưởng quốc phòng của chính phủ Dương văn Minh và đại sứ Phạm Trọng Nhân, cuối cùng làm giám đốc nghi lễ phủ tổng thống. Những ngày ở Thủ Đức, thức ăn của chúng tôi còn nhiều vì nhà mới thăm nuôi . Hai người ăn chung với tôi đều đã du học ở Pháp nên thời sinh viên đã nấu nướng giỏi lắm, còn tôi ở Việt Nam, cả đời cơm bưng nước rót nên chẳng biết gì. Để người ta nấu ăn cho mình mãi cũng khó coi nên một ngày nọ tôi tình nguyện làm đầu bếp. Các tù nhân nấu ăn trong lon sữa Guigoz. Trại cung cấp một bếp than đá cho tù nhân. Tôi lóng ngóng đặt lon trên bếp. Đồ ăn sôi, nắp lon bật ra, tôi bị phỏng. Thế là từ đó hai vị kia tiếp tục nấu nướng, tôi chỉ có việc ăn thôi. Tôi lẩm bẩm tuyên bố:” Đời tôi chưa bao giờ huy hoàng đến thế, bồi tổng trưởng mà bếp đại sứ.”

Giáo sư Huân đánh cờ tướng cao hơn tôi nhiều. Tôi thuộc loại cờ thấp nhưng không gọi là cờ thấp mà là “ cờ lùn” Tôi vừa đánh cờ vừa lẩm bẩn chọc ghẹo nên giáo sư Huân thua tôi hoài.

Ở trại giam Thủ Đức một thời gian ngắn thì chúng tôi bị lùa xuống hầm tàu Hồng Hà đem ra ngoài Bắc lưu đày. Nơi ở mới là trại giam Quảng Ninh.

Đêm đầu tiên ở trại Quảng Ninh, trại đón tiếp những người tù chính trị mới tới bằng một đêm do đội văn nghệ hình sự, những người tù phụ trách. Chúng tôi mệt mỏi ngồi xem. Một nữ ca sĩ phấn son lên trình bầy bản :” Người ơi xin ở đừng về.” Tù khổ sai biệt xứ mà năn nỉ người ơi xin ở đừng về thì kẹt nhau quá.

Thời gian này là gần tết nên giám thị trại yêu cầu tù làm văn nghệ mừng xuân. Đêm văn nghệ nghe anh Trần Huỳnh Châu tổng thư ký nội bộ nội vụ, chơi mandolin bản The Blue Danube, bọn cán bộ xem ra đã không bằng lòng vì cho là nhạc ngụy, nhưng đến khi nghe trung tá cảnh sát Kiều Đắc Thời, nặng 150 ký trình bày bản “ Bé yêu bác Hồ” tay chấp lên má, đầu nghiêng nghiêng rất là ngây thơ, thì bọn cán bộ không chịu nổi, đuổi tất cả về phòng giam. Vẫn chưa hết, vào phòng giam thấy một bàn bầy biện đàng hoàng, cán bộ lại hét lên :” Ai cho các anh làm bàn thờ tổ quốc trong phòng giam mà lại cắm hoa cứt lợn!” Thế là văn nghệ cũng dẹp mà bàn thờ cũng dẹp luôn.

Hết văn nghệ lại học tập chính trị rồi yêu cầu tù xung phong viết chuyên đề. Trong chuyên đề, việt cộng muốn khai thác và thu lượm những kiến thức của người tù. Tôi tình nguyện viết với đề tài là: Địch muốn gì qua luật người cày có ruộng. Nghe tựa có vẻ kêu nên việt cộng chấp nhận. Tôi chưa bao giờ đọc luật người cày có ruộng, nhưng biết việt cộng dốt nên cứ viết lung tung. Bao nhiêu chữ hóc hiểm nhớ được là tuôn ra hết. Tên cán bộ quản giáo thỉnh thoảng vào đọc và bình phẩm :” sao tôi thấy anh viết văn chương thì rất chải chuốt mà tôi đọc chẳng hiểu gì cả. “ Tôi an ủi:” Đây Là những tài liệu chuyên môn nên cán bộ xem không hiểu, nhưng cán bộ trên bộ nội vụ xuống nghiên cứu thì họ sẽ biết. Tôi nghĩ thầm : tao viết mà còn chẳng biết là tao viết cái gì thì làm sao mày hiểu. Mỗi ngày tôi chỉ viết năm trang chữ to bằng con bò còn dành thì giờ để nghỉ ngơi chứ. Những ngày sau thấy tên cán bộ quản giáo thập thò, tôi dơ tay xin ngòi bút, xin giấy viết. Bị quấy rầy những lần sao y chỉ đứng ở cửa nhìn vào chẳng bao giờ đến tận nơi xem tôi viết lách nữa.

Trốn việc quan đi ở chùa trong việc viết chuyên đề được gần một năm rồi cũng đến lúc bị chúng nó lùa ra ngoài đi làm lao động khổ sai. Ở tù muốn sống sót phải tìm cách làm càng ít càng tốt. Nứơc sông công tù mà. Trồng ngô thì một người đi trước, cầm cọc nhọn chọc một lỗ, người đi sau bỏ một hạt ngô xuống và lấp đất lại. Mỗi lỗ như thế tôi bỏ một nắm ngô cho chống hết. Cuốc đất thì phải cuốc từng lát mỏng mới có thể làm đất mịn để trồng trọt. Mỗi nhát cuốc của tôi chừng hai gang tay cho chóng đạt chỉ tiêu.

Thời gian này tù bắt đầu đói thê thảm. Đói ăn và đói cả thuốc hút nữa. Bây giờ ở đây no đủ rồi, việc bỏ thuốc có vẻ dễ dàng nhưng trong tù thì khó lắm. Đói ăn mà lại đói cả thuốc hút nữa thì chịu không nổi. Riêng tôi đã có lần nhịn cả phần ăn ít ỏi để đổi lấy thuốc hút. Đến giai đoạn này thuốc điếu đã thành xa xỉ phẩm vì thuốc đắt và hút chóng hết nên mọi người chuyển sang hút thuốc lào.

Giường tủ có hai từng, sàn trên và sàn dưới. Tôi nằm ở sàn trên bên dưới là anh Nguyễn Cao Quyền. Anh Quyền góc đại tá quân Pháp nhưng đã sang ngoại giao và nhiệm sở là tòa đại sứ ở anh nhưng tham bằng tiến sĩ nên mò về Việt Nam trình luận án. Kẹt lại đành đi tù với mọi người cho có anh có em. Một đêm thèm thuốc quá mà chẳng còn tí thuốc nào tôi lấy cái điếu cày ra kéo khan một hơi cho đỡ nhớ thuốc. Nghe tiếng điếu kêu lọc sọc anh Quyền ngốc đầu lên :” Có gì vui không toa (toi)”. thấy chẳng có khói và mặt tôi cũng chẳng hấp dẫn gì nên đành buồn rầu nằm xuống.

Mỗi lần có thuốc lào hút , sợ say ngã từ sàn

trên xuống đất có thể vỡ đầu , tôi đều leo xuống ngồi giữa nhà hút. Bao giờ tôi hút cũng có đại sứ Phạm Trọng Nhân đứng canh chừng. Thấy tôi say nằm giữa sàn nhà , có người thương hại chạy lại đỡ dậy vì sợ tôi trúng gió, thì người canh cho tôi cản lại và dõng dạc tuyên bố rằng: “ Hắn đang sướng đừng có đụng vào”

Kỹ sư Dương Kích Nhữơng, tổng trưởng giao thông công chính, cũng đói lắm, đi làm gặp con gì cũng bắt bỏ vào túi áo chờ khi về phòng giam sẽ hóa kiếp cho chúng để thêm thắt vào bữa ăn. Tuy nhiên ngày tổng trưởng rất ham đọc sách về đến phòng giam là chúi mũi vào đọc và đọc. Lũ cóc nhái tự do bò ra khỏi miệng túi áo và nhảy nhót tung tăng.

Tàu cộng và việt cộng chuẩn bị chỏang nhau nên chúng tôi lại được ưu ái chuyển về trại 5 Thanh hóa. Tại Thanh hóa điều kiện sinh hoạt còn tồi tệ hơn nữa nên đã nổ ra một cuộc tuyệt thực toàn trại mà anh bạn đồng nghiệp luật sư Ngô Văn Tiệp đã tường trình. Tôi không được cái hân hạnh ở bộ ba biệt giam “ Lạc, Chí, Tiệp” nhưng cũng được ưu ái xếp vào đội trừng giới.

Chế độ ăn uống của tù chia ra làm ba giai cấp: những người làm vựơt hơn tiêu chuẩn mà việt cộng quy định thì ăn 18kg thực phẩm, người làm mức trung bình 15 ký, còn ở mức kỷ luật là 13 kg. Một lần bị kỷ luật là ăn 13kg trong ba tháng. Tôi là khách hàng hầu như là thường xuyên của cơm kỷ luật. Chẳng phải tôi chống đối gì ghê gớm mà chẳng qua vì chỉ vì vạ miệng. Bọn chỉ điểm thì đội nào cũng có, do cán bộ trại chọn trong số những anh em tù tinh thần bị chao đảo để làm việc cho chúng rồi cài vào mỗi đội để theo dõi và báo cho cán bộ trại. Tôi rất ưu ái được bọn này chiếu cố.

Một lần tôi có lon Guigoz đường bị kiến vào vừa ngồi lắc lon cho kiến đi vừa lẩm bẩm một mình:” bác đang cùng chúng cháu hành quân” thế là đến tai cán bộ trại và lãnh 13kg kỷ lụât.

Một lần khác, tôi làm mấy cái khoen để đêm về có thể mắc mùng ngủ nhanh chóng, khỏi phải buộc dây lôi thôi. Vừa làm vừa nhắc lời “đồng chí “!Lê Duẫn để tự khen mình:” khoa học kĩ thuật là then chốt.” lại đến tai cán bộ trại và lại ăn 13kg

Những chuyện lẩm cẩm như thế xảy ra cho tôi không biết bao nhiêu lần.

Sau bao năm lưu đầy, chuyến xe lửa chở tù xuôi Nam rồi cũng xảy ra. Bọn Việt cộng muốn đưa những bộ xương cách trí từ những nhà tù miền Bắc về Nam cho gần để gia đình tù vỗ béo cho thân nhân tù trước khi thả ra trông cho được một chút. Trong chuyến xe lửa xuôi Nam, những nhân viên hoả xa vẫn phải giữ nét mặt lạnh lùng cho phải phép, nhưng những gói xôi, những trái chuối, những gói thuốc lá đã được kín đáo ném ra cho tù.

Về nam ở trại Long Khánh đời sống dễ chịu hẳn. Gần gia đình nên phần lớn tù được nhà thăm nuôi. Thái độ của bọn cán bộ trại cũng thay đổi hẳn. Chúng nịnh tù để được cho quà. Tên cán bộ trực trại anh em tù gọi đùa là đại tá. Một hôm trời đã khuya mà anh em trong phòng giam còn tụ tập. Tên cán bộ trực trại đứng lại hỏi:” Giờ này mà mấy ông tướng còn thức làm gì đây. “. Trả lời:” đại tá đi chỗ khác chơi, để các tướng làm việc.” Tên cán bộ trực trại bỏ đi, không nói một lời.

Nhốt mãi rồi cũng phải thả. Tôi đã nhận lệnh tha nhưng ngày hôm đó còn chờ cho các đội xuất trại đi lao động rồi mới đến được thả tù. Trong lúc ngồi đợi, tôi lấy đàn ra gẩy từng tưng. Biện lý Nguyễn Hồng Nhuận Tâm đi qua cằn nhằn :” về không lo chuẩn bị về còn ngồi đó mà đàn với địch.

Rồi nhà tù cũng mở cổng cho tôi ra. Tôi lóng ngóng không biết đường về nhà. Gặp được một bà cũng có vẻ đứng tuổi rồi, bụng mang bầu, để hỏi thăm bến xe đò về Sài Gòn. Người chỉ đường cho tôi, gọi tôi bằng bác và xưng con. Mình đã khám phá ra một điều là những năm tù đã biến mình từ một ngừơi trai trẻ thành một ông già.

Từ nhà tù nhỏ sang nhà tù lớn, chuyện quản chế, chuyện công an khu vực, và còn nhiều chuyện vui khác, nhưng đây chỉ nói chuyện tù, nói nữa là lạc đề nên đành chấm dứt.

luật sư Nguyễn Hữu Thụy

From: Truong Le