VƯỜN CHIM

VƯỜN CHIM

– Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích –

Tôi đang lui cui lau sàn nhà, bất chợt tiếng thắng xe kêu rít lên phía trước sân.

Ném nùi giẻ vào sô nước, tôi vội vàng bước ra ngoài hiên xem ai đến. Anh bạn Chu Tăng Mạnh ngồi trên yên chiếc xe Honda Nữ Hoàng đời mới bóng loáng nhìn tôi cười rạng rỡ. Mạnh khóa cổ xe rồi bệ vệ bước vào nhà.

Nhìn đôi giày da bóng lộn với những con đỉa dưới đế giày nện cộp cộp xuống nền nhà tráng xi-măng, tôi đoán chừng tay này hiện giờ được cả thần lẫn thế. Mạnh niềm nở bắt tay tôi :

– Mình được tin cậu về đã hơn một tháng rồi, mà bận quá không vào thăm được. Hôm nay, nhân tiện vào khám bệnh cho ông Chủ Tịch Huyện, mình ghé vào thăm cậu, bà xã đâu mà cậu phải lau nhà ?

– Thấy bà ấy vất vả quá, trông đau lòng. Mình mới ra tù chưa có việc gì làm nên giúp vợ được chút nào hay chút đó. À, chị Mạnh vẫn khỏe chứ ?

– Ma-đam tôi thời nào lại không khỏe, có làm gì động móng tay đâu. Mạnh tự tin trả lời.

Nhìn toàn thân tôi rồi đưa tay lật mí mắt theo thói quen nghề nghiệp của ông thầy thuốc chẩn đoán con bệnh, Mạnh than:

– Thiếu máu trầm trọng. Trông cậu có vẻ mập nhưng là mập nước đấy, triệu chứng của cơ thể thiếu chất khoáng và vi-ta-min. Hãy ăn nhiều thịt cá vào mới tránh được tình trạng cơ thể suy kiệt.

Tôi nhếch mép cười, gục gặc đầu, nghĩ thầm: “ Mới trong tù ra, thiếu dinh dưỡng là cái chắc. Giờ đây, được ăn no bụng là quý rồi, lấy đâu mà thịt với cá, ông tướng nầy như ở trên trời rơi xuống”

– Này, mình vào đây thăm cậu, nhân tiện mời ông bà đến tham dự tiệc kỷ niệm 15 năm ngày cưới của vợ chồng mình vào ngày 25 tháng 3 tới đây. Xin nhớ một điều là không được mang quà cáp gì hết. Tụi mình sẽ không nhận của ai một món nào. Nếu cậu không nghe là buộc phải mang về đấy. Ngày đó, mình sẽ biếu cậu một số thuốc bổ tổng hợp. Gởi lời thăm ma-đam của cậu, ô-rơ-voa nhé.

Mạnh đưa bàn tay trắng muốt, những ngón tay búp măng no tròn mịn màng nắm bàn tay tôi sần sùi chai cứng. Lật ngửa bàn tay tôi lên, Mạnh sững sờ nhìn vào đó như nhìn một vật lạ, kinh ngạc hỏi :

– Nầy, cậu lao động chân tay khổ nhọc đến thế sao? Những cục u trên bàn tay cậu rất khó biến đi đấy. Mạnh lắc đầu , ngậm ngùi từ biệt tôi.

Hắn vừa phóng xe ra khỏi ngõ thì vợ tôi cũng vừa đạp xe về nhà. Nàng lên tiếng hỏi:

– Ai như thầy Mạnh vừa trong nhà mình mới ra ?

Xách chiếc giỏ đựng đầy khoai lang trên boóc ba-ga xe đạp giúp vợ, tôi trả lời:

– Anh ấy đi khám bệnh cho người ta, sẵn dịp ghé thăm tôi.

Vợ tôi tiếp :

– Giàu có và đầy thế lực lắm đấy. Bác sĩ cách mạng mà. Ở thị xã, từ ông to đến dân hèn, ai mà không biết bác sĩ Mạnh.

Tôi ngạc nhiên hỏi :

– Mạnh đậu bác sĩ hồi nào vậy?

Vợ tôi xách túi rau, dựng xe vào tường, nhìn chồng trả lời cụt ngủn:

-Bác sĩ tự phong.

***

Năm 1968, Chu Tăng Mạnh đang là sinh viên năm thứ 3 Y khoa Huế nhưng nằm trong nhóm sinh viên hoạt động bí mật của anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Qua hai mươi lăm ngày đêm VC đánh chiếm thành phố Huế trong Tết Mậu Thân , những hoạt động thiên tả của họ trở thành công khai. Khi tình hình ở Huế đã trở lại bình thường, Chu Tăng Mạnh bị loại ra khỏi trường Y. Anh trở về quê cưới vợ và xin giờ dạy môn Pháp văn cùng trường trung học tư thục với tôi. Ngày đó, Mạnh gắn trước cửa nhà cái tấm bảng nhỏ “ Chích thuốc theo toa Bác sĩ”. Vừa đi dạy vừa làm nghề chích thuốc tư, cuộc sống của gia đình Mạnh tương đối thong thả.

Trước ngày kỷ niệm 15 năm kết hôn, Mạnh cho người mang thư mời vợ chồng tôi. Ngày đó, chỉ mình tôi đến tham dự còn vợ tôi từ chối.

Chiếc xe lam cũ kỹ, chạy ọp ẹp trên con đường lở lói đến thị xã hơn mười cây số. Tôi xuống xe lội bộ đến nhà Mạnh. Trước 1975 nhà chỉ một căn, bây giờ mở rộng ra hai cánh tả hữu. Đập vào mắt của khách đi đường là tấm bảng nền xanh chữ trắng: “Bác Sĩ Chu Tăng Mạnh”. Có lẽ còn sớm nên phòng tiệc chưa có một ai. Mấy dãy bàn trải khăn nhựa in hoa, những đĩa chén mỏng loại đắt tiền được đặt bên trên bàn ngay hàng thẳng lối.

Nghe tôi đến, Mạnh từ trong phòng, hai tay còn đang thắt chiếc cà-vát đã vội vàng ra bắt tay tôi :

– Cậu thấy nhà mình khác xưa nhiều phải hông? Thân thế lắm mới mua liên tiếp được hai căn nhà hai bên. Căn bên trái là của một gia đình Tàu xuất cảnh chính thức, còn căn bên phải của một gia đình vượt biên.

Mạnh nắm tay tôi dẫn ra phía sau nhà. Một cảnh trí khiến tôi ngạc nhiên phải buột miệng ồ lên thích thú. Như một khu vườn bách thảo thu gọn giữa cái thành phố nghèo nàn nầy. Cây ăn quả xanh ngát một vùng. Đặc biệt là thú chơi chim của Mạnh.

Dọc theo bức tường ngăn cách với nhà hàng xóm từ trước ra đến tận cùng khu vườn đều có mái hiên che. Vô số các loại lồng chim treo bên dưới. Lồng to, lồng nhỏ, dưới thấp , trên cao , san sát, lủng lẳng. Chợt tiếng cu gáy nổi bật trong rừng chim đang hót líu lo. Tôi trực nhìn lên cây dừa cao thấy lồng chim cu cườm đang giương bẫy. Mạnh giải thích ngay :

– Nhà mình có đến chục con cu gáy nhưng con nầy quý nhất. Tiếng gáy của nó như có ma lực. Cậu để ý tiếng gáy có thể phân biệt làm năm âm tiết : Cúc – cù – cu – cú – cu… Mình có thể nói bất cứ con cu nào, dù đang có đôi bạn mà nghe được giọng “bổ ngũ”của nó là bỏ bầy tìm đến ngay. Mạnh ngưng một khắc, hít một hơi dài như để thưởng thức bầu không khí trong lành, mát rượi đầy bóng cây xanh của vườn nhà, rồi giải thích thêm:

– Điểm đặc biệt của con “bổ ngũ” nầy là gáy cả ban đêm (1). Tiếng gáy của nó đánh thức cả vườn chim của mình. Ngay cả lòng người cũng cảm thấy nao nao.

Tôi đi dọc theo khu nuôi chim như đi duyệt hàng quân. Phía sau có Mạnh như một cận vệ với sự niềm nở chân tình. Chim chóc nhiều vô kể. Con lớn, con nhỏ, con đen, con trắng, con vàng, con nâu chen chúc tíu tít. Nào chim cu gáy, sáo nghệ, sáo ngà, sáo sậu, kia là chích chòe, bìm bịp, chào mào, chèo bẻo, chim gi… Loại sang trọng và quý hiếm có họa mi, thiên thanh, công đất, chim trĩ đỏ.

Nghe nói loại trĩ đỏ nầy chỉ có ở Cao bằng, Lạng sơn và vùng thượng du Bắc Việt. Bộ lông của nó nhiều màu sắc rất đẹp, đầu và trước cổ xanh lục, thân mình màu nâu hung đỏ, nâu vàng với các chấm đen. Đuôi dài nhỏ, mắt nâu đỏ.

Mạnh húyt huýt vài tiếng sáo miệng, đưa tay búng nhẹ vào nan lồng, con trĩ quay đầu ngước nhìn về phía chúng tôi. Đôi mắt lóng lánh màu nâu đỏ, thoạt trông như hai viên hồng ngọc lồng trong mắt chim, Mạnh lên tiếng:

– Mình tậu được con trĩ đỏ nầy là cả một công trình khó nhọc trong chuyến đi tham quan với các cụ Cựu chiến sĩ. Mình chi đứt nửa chỉ vàng cho chủ nó. Như bất kỳ dân chơi nào cũng đều kiêu hãnh với cái thú của mình, Mạnh tỷ mẩn giới thiệu từng loại chim kể cả xuất xứ của nó :

– Đây, con két của ông Bí thư Huyện tặng. Nó đã bắt đầu bập bẹ vài ba tiếng người. Cái lồng nhốt con trĩ đỏ nầy là của Giám thị trưởng trại tù cải tạo Z do bàn tay khéo léo của tù nhân làm ra. Nhìn kỹ từng nan lồng cậu mới phục cái công khó của họ. Tất cả đều bằng loại nhôm của thân máy bay trực thăng rơi trong rừng rậm được cắt ra mài dũa, uốn cong thành vòm, đánh bóng rất công phu. Còn đây là con sáo nghệ chân đỏ, mỏ vàng của một bệnh nhân đem đến tạ ơn mình đã chữa lành bệnh lao. Nó bắt chước tiếng người rất chuẩn. Vừa nói, Mạnh vừa cho sáo trổ tài ngay: “ Mạnh, có khách ”.“Trộm vào nhà”. “Rượu, rượu Mạnh ơi”.

Tôi lập tức rời khỏi con sáo đang liến thoắng.

Tôi vốn dị ứng với loại chim lồng biết nói tiếng người từ khi xảy ra một vụ thương tâm tại trại tù cải tạo. Chuyện xảy ra như sau:

Anh em tù đi chặt lồ ô trên rừng cao bắt được con chim bách khứu mới chuyền cành. Loại chim nầy rất hiếm, chỉ sống trên những khu rừng già. Nó có nhiều giọng hót khác nhau, khi nhặt, khi khoan, khi trong, khi đục, lên bổng xuống trầm rất giàu nhạc điệu.

Vì không đủ điều kiện chăm sóc nên anh em giao cho nhà bếp nuôi. Loài chim khướu bắt chước tiếng người nhanh hơn loài sáo nghệ, chim két. Chỉ hơn một năm sau là khướu nói được nhiều từ dí dỏm. Đến giờ anh em tù đi lao động về, ùa xuống bếp lấy nước là từ trong lồng đã nổi lên tiếng khướu tía lia nhắc nhở : “Trật tự, trật tự…” “nước sôi, nước sôi…” Những lúc chỉ một vài người, khướu lịch sự : “Chào bạn, mạnh giỏi…” Vì là khu công cộng nên nhiều tù nhân đến nói chuyện với khứơu và dạy cho nó nói vài từ trêu chọc.

Khu trạm xá có chị cán bộ y tá mới đến nhận việc. Lần đầu tiên đến thăm khu nhà ăn, bất ngờ chị nghe giọng nói khàn khàn phát ra từ trong góc nhà :

– “Anh yêu em”.

Chị Cán bộ tưởng tù trêu ghẹo mình liền sừng sộ:

– Anh nào vừa nói đấy ?

Không ai trả lời, chỉ có tiếng lặp lại. Lần nầy với giọng lảnh lót :

– “Anh yêu em”.

Nữ cán bộ nhìn vào chiếc lồng mới phát hiện con chim khướu trêu mình. Bị hố, chị xấu hổ bỏ đi. Mấy anh tù nhà bếp bụm miệng cười. Con khướu còn biết huýt sáo, gọi tên con Vện, chó của cán bộ lẩn quẩn ở khu nhà bếp.

Một hôm, ông cán bộ Chính uỷ Sư đoàn ghé vào nhà bếp của tù kiểm tra. Bất chợt con khướu vừa đập cánh vừa hét to : “Vi xi, Vi xi”. Ông cán bộ kinh ngạc. Nhìn con chim, nhìn đám tù nhà bếp đang đứng nhìn nhau sau dãy chảo nấu cơm, người nào cũng sững sờ. Ông ra lệnh vệ binh mang lồng chim về ban chỉ huy trại.

Liên tiếp nhiều đêm, cả toán nấu bếp viết tờ kiểm điểm. Quản giáo buộc họ phải tìm cho ra người nào đã dạy con khướu nói những từ “phạm húy” đó. Cuối cùng không tìm được thủ phạm. Toán nhà bếp bị đuổi ra ngoài đi lao động sản xuất thay thế toán người mới. Lồng chim khướu bị vất trong chòi chất tranh không cho ăn, cho uống. Ba ngày sau khướu xủ cánh chết. Nhìn xác con khướu cắn mỏ vào nan lồng không chịu nhả ra cho đến chết, khiến lòng tôi quặn thắt.

***

Khách khứa, bè bạn đã bắt đầu tề tựu. Mạnh vào nhà tiếp khách, còn lại mình tôi đứng vẩn vơ giữa vườn chim. Tôi rưng rưng nước mắt nhớ về hình ảnh con chim khướu năm nào gục chết trong lồng, rồi liên tưởng đến các con tôi còn trong tuổi học ăn học nói. Tôi không dám nghĩ tiếp, bèn vội vàng bước vào nhà.

Tiệc bắt đầu, tôi chọn ngồi vào chiếc bàn khuất sau cây cột cùng với mấy người bạn láng giềng của chủ nhà. Mạnh lần lượt giới thiệu từng nhân vật danh dự trước khi vào tiệc. Toàn là chức sắc có uy quyền. Tôi thầm phục tay nầy thuộc loại “bắt mánh” vào hàng “thượng thừa”.

Gần mười năm, hôm nay tôi mới được ăn một bữa cơm thịt cá ê hề, có cả loại rượu mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và thuốc hút ngoại nhập. Tôi thật sự choáng váng trước lối sống vương giả giữa một xã hội khốn cùng.

Xong tiệc, Mạnh mời khách ra vườn thưởng thức khu nuôi chim. Vì không muốn gặp mặt mọi người nên tôi đứng chôn chân tại cuối góc vườn. Trước mặt tôi là lồng nhốt con cu cườm. Mạnh tưởng tôi thích con cu cườm nên đến vỗ vai tôi :

– Mình biết cậu “mết” chú cườm nầy rồi. Nó gù mồi độc đáo lắm, dai dẳng, lỳ đòn cho đến khi đối thủ vào bẫy. Biếu cậu đấy, nhớ mang nó về nhé.

Mạnh nào biết tôi rất ghét nuôi chim, chỉ thương hại chúng nó phải chịu thân phận chim lồng. Tôi nghĩ thầm : “Ừ thì cứu được con nào hay con nấy”. Tôi liền lên tiếng cảm ơn Mạnh .

Quan khách lớn nhỏ lần lượt ra về, người nào cũng được chủ nhà biếu một món quà kỷ niệm. Riêng tôi với chú chim cu gáy được người làm quây kín lồng bằng tấm vải đen. Ông cán bộ xã, chú vợ của Mạnh ở gần quê tôi được cháu rể tặng một đôi bìm bịp nhốt trong chiếc lồng khá lớn.

Mạnh xách lồng chim đồ sộ trao cho ông chú vợ :

– Khu chú ở có dòng sông, vườn cây và cánh đồng rất hợp phong thổ cho sự phát triển giọng hót của loại bìm bịp. Cặp chim nầy cháu nuôi từ lúc chưa mọc lông cánh. Cháu bảo đảm với chú không có cảnh nào thích thú hơn là vừa nhâm nhi ly rượu thuốc vừa nghe tiếng bìm bịp kêu khi chiều về trên dòng sông cuồn cuộn chảy trong mùa nước lên,.

Tôi mang lồng chim về đến nhà. Con tôi mở tấm vải ra, chú cu cườm sợ hãi chạy loanh quanh trong lồng, Vợ tôi lắc đầu bảo:

– Anh à, diện của mình mà chơi trò bẫy chim cu là bị ghép tội “Lười lao động, ngồi không ăn bám”. Biết đâu lại vào tù “cải tạo lao động”. Con tôi thì mừng rỡ vây quanh.

Không ai biết được thâm ý tôi là “phóng thích được con nào hay con nấy”.

Sáng sớm hôm sau, khi hừng đông chưa rựng đỏ, tôi mang lồng chim ra giữa đồng lúa đang chín tới. Tôi mở cửa lồng, chim đưa cặp mắt tròn xoe do dự. Một thoáng bất ngờ nó phóng ra khỏi lồng vỗ cánh bay bổng lên giữa khoảng trời xanh và cánh đồng lúa vàng mênh mông.

– Giã từ chim nhé, hãy vui với ngày tháng tự do.

Tôi nói vừa đủ cho chính mình nghe. Và tâm trạng của tôi chợt rộn ràng như ngày tôi cầm được giấy ra trại ung dung bước ra khỏi cổng nhà tù. Niềm hạnh phúc của nỗi vui đoàn tụ như nâng từng bước chân tôi, chẳng khác gì loài chim tung cánh bay lên giữa trời mây.

– Một tháng sau, tôi đạp xe vòng vòng tìm chòi đạp mía mua đường muỗng cho “mẹ bầy trẻ” nấu chè bán dạo. Bất ngờ, tôi gặp ông chú vợ của Mạnh trong lò đường của hợp tác xã Hiệp Phương. Nhận ra tôi hôm dự tiệc tại nhà cháu rể, ông vồn vã mời vào chòi uống nước chè hai (2). Ông tâm sư:

– Thằng cháu rể tôi, bác sĩ Mạnh theo Tây y nên dốt đặc cái món thuốc nam. Môn thuốc đã mấy mươi đời lưu truyền trong nhân gian. Cặp chim bìm bịp của nó cho tôi quý lắm. Đại loại, bìm bịp đạt đến mức mắt đỏ, tròng trắng, cổ cườm, đuôi xòe dải quạt là cực quý (3). Đâu phải dễ dàng bắt được đủ cặp trống mái. Bìm bịp mà ngâm rượu mạnh cả đôi, đúng một trăm ngày chôn dưới đất, xương sẽ tan ra trộn lẫn với thịt của nó, lọc lấy phần rượu trong uống mỗi ngày một ly là xương cốt cứng trở lại như tuổi hai mươi. Rượu bìm bịp thuộc loại trung tính chế được cả âm lẫn dương(4) Thằng Mạnh nó mê tiếng hót còn tôi thì quý cả thịt lẫn xương của giống chim bìm bịp.

Hai tháng, mười ngày nữa cậu ghé nhà tôi chơi, lúc đó hủ rượu ngâm bìm bịp đủ trăm ngày, tôi mời cậu dùng thử vài ly để chứng nghiệm món thần dược của ông bà ta để lại .

Tôi than thầm : “Thế là xong đời một đôi chim !”

Hai tháng sau đó, tôi vào đất Lâm Đồng làm công nhân gạch ngói trong tổ hợp của người anh cột chèo nên không có dịp đến nhà ông chú vợ của Mạnh để được uống rượu ngâm bìm bịp.

Những ngày tháng phải xa vợ, xa con vì sinh kế thật là ảm đạm nhưng tâm trí tôi lúc nào cũng thanh thản với cuộc sống tự do ngoài đời.

Vào cuối tháng chạp âm lịch, tôi về quê ăn Tết có mang theo một món quà đặc biệt tặng cho Chu Tăng Mạnh để gọi là tạ ơn người bạn dạy học cùng trường trước kia đã có tấm lòng hào hiệp biếu cho tôi mấy chục liều thuốc bổ và con chim cu cườm. Món quà là một pho tượng bằng đất sét nung mà tôi đã bỏ công mấy tháng trời nặn đi nặn lại theo bức hình chụp tượng trên một tấm bưu thiếp. Người lực sĩ hai tay nâng cao con chim bồ câu vươn đôi cánh chuẩn bị bay vút lên bầu trời. Bức tượng nói lên niềm khát vọng tự do và quyền sống.

Khách hàng đến mua gạch ngói nhận xét bức tượng có hồn. Xin được nói rõ ở đây, tôi chỉ là tay thợ làm gạch ngói bình thường nhưng tôi đã dành hết tâm lực và ước nguyện của mình trong khi nặn tượng. Niềm khao khát tự do tìm ẩn trong nội tâm đã truyền lực vào đôi tay tác động lên đường nét của tác phẩm. Tuy bức tượng còn nhiều chỗ ngây ngô thô kệch của người tay ngang nhưng không ngờ lại có thần như vậy.

Vừa đặt bức tượng lên bàn và nói với vợ tôi về ý định làm quà Tết cho Mạnh. Nàng lắc đầu bảo :

-Mạnh không còn ở đó nữa !

Tôi ngạc nhiên hỏi dồn :

-Chuyện gì đã xảy ra và anh ấy đi đâu ?

Vợ tôi trả lời gọn lỏn :

– Đi tù !

Tôi thật sự ngỡ ngàng. Chân tay tôi rịn ướt mồ hôi dù khí trời đang lạnh giá của tiết Đại hàn.

Rồi vợ tôi kể đầu đuôi câu chuyện mà nàng nghe được:

– Một hôm, thình lình toán công an kinh tế đến bao vây nhà Mạnh suốt đêm, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Sáng ngày, một phái đoàn thanh tra từ trung ương về lục soát nhà của Mạnh. Nghe nói một số thuốc tây ngoại nhập khổng lồ chứa bất hợp pháp trong nhà. Số thuốc giá trị nầy do Liên Hiệp quốc và các quốc gia Âu Mỹ viện trợ để phân phát cho các bệnh viện, trạm xá…Mạnh lại giả mạo bằng bác sĩ của chế độ cũ, hành nghề không giấy phép. Họ kết tội Mạnh hối lộ, móc ngoặc, âm mưu đầu độc cán bộ đảng viên bằng những cuộc chơi trác táng hầu làm mất dần phẩm chất đạo đức cách mạng. Đây là hình thức chiến tranh tâm lý của bọn làm gián điệp cho nước ngoài .

Nghe đến đây, cả người tôi nổi gai ốc. Vợ tôi tiếp:

– Ba căn nhà đều bị tịch thu. Vợ con anh ấy chỉ được ở tạm khu nhà bếp, theo lệnh tòa án.

Tôi thở dài ngao ngán :

“ Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”(5). Lời người xưa quả thật không sai. Bài học đầy nước mắt mà Mạnh đã nhận được ngày hôm nay đối với anh ta đã quá trễ, nhưng lại hữu dụng cho đời con cháu của anh sau nầy. Đó là gương trước mắt chúng cần phải tránh xa /.

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

(1)(3) (4)- Theo Phạm Ngọc Tiến TNVN
(2)-Nước mía nấu lần thứ hai trước khi thành mật
(5)-“Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí” = Vận may, phúc lành họa hoằn lắm mới có, không lặp lại nhiều lần, còn tai họa không chỉ đến một lần mà hay đến dồn dập,

Hình Như Là Định Mệnh…

Van Pham

TRUYỆN NGẮN – Phạm Ngọc

Hình Như Là Định Mệnh…

Tôi không tin ở tử vi bói toán. Nhưng mười mấy năm sống với mấy ông thần nửa người nửa ngợm bên nhà, tôi cũng như đa số bạn bè khác, không có gì bám víu để tin tưởng là sẽ có một tương lai tốt đẹp hơn, nên cứ nghe chỗ nào có ông bà thầy bói nào hay là đến xem. Để biết số mình có được một sự đổi đời nào không?

Qua Mỹ, mấy năm đầu tiên, năm nào tôi cũng đợi đến gần Tết móc túi đem “cúng” hai chục đô la cho mấy ông bà thầy bói để mua một cuốn lịch tử vi. Mua riết hai, ba năm gì đó, thấy mấy sư phụ đoán mò trật lất 100%, hình như năm nào cũng đổi lời bàn từ con giáp nầy sang con giáp khác, sau khi kê khai ra hàng loạt những sao, hạp và không hạp với tuổi mình trong năm đó! Đố ai nhớ hết và biết được mấy sư phụ muốn nói gì với những sao như vậy? Ít khi mấy ổng nói con giáp nào thật xấu, thật xui. Con giáp nào cũng có cái xui cũng có điều hên! Nói theo kiểu “bù trất” ấy mà! Nên tôi “nghỉ chơi”, không thèm mua lịch bói toán tử vi nữa!

Đúng là bói ra ma, quét nhà ra rác như các cụ ta ngày xưa thường nói! Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng phải chăng có một định mênh đang ở đâu đó quanh chúng ta và có dịp là bủa vây và cột chặt đời chúng ta lại với nhau, cho dù chúng ta muốn hay không muốn? Phải chăng mỗi một người chúng ta đều có một phần số, không ai tranh dành số phần của ai được cả? Câu chuyện sau đây của gia đình người bạn thân chúng tôi đã chứng minh điều nầy. Vì chuyện thật mà nghe cứ như là tiểu thuyết.

Khi tôi xin phép anh chị được ghi lại nguyên văn câu chuyện, chị nói: “Thôi mà, mấy anh chị có thương tụi nầy thì nghe xong rồi bỏ qua đi. Coi như là “mua vui cũng đưọc một vài trống canh” thôi! Viết ra nhiều người lại tưởng mình biện bạch cho cái nầy cái nọ, nói là tụi mình qua đến đây rồi mà còn mê tin dị đoan! Và lại còn nghĩ tụi mình đề cao tử vi bói toán, quảng cáo cho ông thầy nào nữa thì khổ! Mấy Cha mà biết mình lại còn phải đi xưng tội nữa đó!”.

Nhưng người viết bài nầy đành xin lỗi anh chị vậy, vì câu chuyện anh chị lạ quá.

Sau đây là câu chuyện chị Phương đã kể:

“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo nên phải vừa đi học vừa bán bánh cam và thuốc lá nuôi mấy đứa em. Mẹ mất sớm, bố tôi lại là sĩ quan vừa đi tù về, nên không có công ăn việc làm. Thế là bố dọn một tủ thuốc lá, tôi ngồi kế bên, vừa học bài vừa bán phụ bố, vừa ghi sổ mấy người cùng xóm mua thuốc lá thiếu! Ban ngày đi học ở Gia Long (sau 1975 đổi thành Trường Nguyễn thị Minh Khai), vừa đi học vừa đem mấy bịch me hay cóc, ổi vào lén bán cho mấy đứa bạn thân cùng lớp con nhà khá giả muốn giúp đở tôi. Chiều về, sau khi mấy cha con ăn uống xong, tôi lại phụ dọn tủ thuốc ra đầu đường Cao Thắng gần nhà để vừa học bài dưới ánh đèn đường vừa phụ bán thuốc lá. Thi tốt nghiệp cấp ba xong tôi nộp đơn hai, ba trường Đại Học với ước mơ là sẽ đi xa hơn để có thể giúp gia đình nhiều hơn.

Đại học nào cũng từ chối vì lý do… lý lịch tôi xấu quá! Bố là sĩ quan ngụy, lại xuất thân từ trường Cây Mai nữa! Tôi không nản chí, tiếp tục nộp đơn vào các trường cao đẳng, ít ra thì vấn đề xét lý lịch ở các trường nầy cũng nhẹ hơn. Tôi được nhận vào học Cao Đẳng Sư Phạm. Lúc vào phòng tổ chức trường Sư Phạm hỏi khi học xong thì sẽ được dạy ở đâu thì họ trả lời sẽ được “điều” lên dạy ở các vùng sâu vùng xa với đầy đủ lương bổng (mấy chục đồng một tháng!) và mười mấy kí gạo tiêu chuẩn.

Bố tôi nói: “Con là con gái mà lên mấy chỗ đó thì chỉ có nước nộp mạng, trước hết là cho muỗi mòng sốt rét, sau là cho mấy thằng bộ đội răng nanh mã tấu!” Tôi năn nỉ xin bố cho đi học, vì như thế mới có mười mấy kí gạo để nuôi gia đình bảy người và được thêm mấy chục đồng để phụ vào đi chợ! Nhưng Bố tôi nhất định không chịu.

Tôi lại nộp đơn thi nữa, và chuyển qua học Trung Cấp Ngân Hàng. Tốt nghiệp xong, họ bảo tôi lên môt ngân hàng ở Thủ Đức để trình diện. Tôi mượn bố chiếc xe đạp cà rịch cà tàng mà bố vẫn đi mua thuốc lá sĩ về bán để đạp lên Thủ Đức. Đi từ sáng sớm, đạp mấy chục cây số đường trường, ngược gió và bụi mù trời, tôi vừa đạp vừa khóc. “Chúa ơi sao con khổ quá thế này?”

Đến nơi, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thở không ra hơi, tôi vừa mới leo lên tầng thứ 10 của toà nhà gặp họ thì họ bảo đã tuyển đầy đủ nhân viên, nói tôi về Ngân Hàng Nhà Bè, có thể ở đó đang cần người. Đến Nhà Bè họ lại nói đã đủ người, nên đi tìm chỗ khác. Ngân Hàng cuối cùng nhận tôi vào làm là Ngân Hàng Quận 5 sau khi đạp chiếc xe cà khổ đi khắp các chi nhánh trong mấy tháng trời để xin việc. Tôi làm ở đó, được tất cả mọi người thương mến, có lẽ do tính cần cù chăm chỉ và ít nói của tôi.

Kế bên nhà tôi ở lúc đó có chị Bích người Đà Nẵng vào mua một căn nhà nhỏ trong cư xá Đô Thành để các cháu của chị ngoài Trung vào Sài gòn học Đại Học có nơi cư ngụ. Chị Bích rất thương tôi và hay kêu tôi cùng hai cô bạn nữa, qua nhà ăn uống mỗi khi chi bán được món hàng gì đó có lời kha khá. Tụi tôi thường chọc phá chị, nói:” Hôm nay chi Bích mình dzô mánh rồi nhen !”

Năm 1990 có gia đình người thân của chị ở Đà Nẵng vào chuẩn bị phỏng vấn đi Mỹ theo diện đoàn tụ. Tuần nào chị cũng kéo tụi tôi qua nhà ăn uống “để đến khi qua Mỹ rồi tụi nó sẽ không quên chị em mình bên nầy được”.

Lúc đó thật tình tôi cũng chẳng quan tâm đến vần đề đi Mỹ của vợ chồng anh Phan và hai cháu. Lúc gặp mặt ăn uống chung, tôi chỉ nói chuyện với vợ anh, chị Bích và hai cô bạn. Trước ngày gia đình anh Phan lên máy bay, chị Bích nhắn với chúng tôi: “Ngày mai mấy đứa xin nghĩ buổi sáng để ra phi trường Tân Sơn Nhất đưa vợ chồng con cái thằng Phan đi Mỹ nghe chưa? ” Tôi từ chối vì không thể nào xin nghỉ ở Ngân Hàng được vì đang mùa cao điểm của mấy tổ hợp đem tiền đến trả nợ. Chị Bích có vẽ giận: “ Mi mà không đi là tau từ mi luôn đó nghe chưa Phương?” Tôi nghe nói hoảng hồn, vì chưa bao giờ chị gọi tôi bằng mi cả! Phải biết là chị đang giận ghê gớm lắm.

Sáng hôm sau tôi đành phải năn nỉ mấy bà xếp ở ngân hàng xin nghĩ buổi sáng để tiễn gia đình một người bạn đi Mỹ. Giống những cuộc đưa tiễn khác, cũng có chụp hình, có chia tay bịn rịn… Tôi đứng nói chuyện với vợ con anh Phan cho đến lúc gia đình họ bước vào phòng cách ly để lên phi cơ.

Những năm tháng sau đó, thỉnh thoảng chị Bích có gọi tôi và mấy cô bạn qua nhà nhận mấy món quà nho nhỏ từ Mỹ gửi về. Liên lạc giữa chúng tôi chỉ có thế. Mười năm sau, tôi được tin chị Phan bị bệnh nan y, đã vô phương cứu chữa. Chị Bích gọi chúng tôi đến nhà và nói: “Tội nghiệp thằng Phan, mới qua Mỹ chưa được bao lâu…” Ngày được tin chị Phan qua đời, chị em chúng tôi có gọi phone qua chia buồn. Anh chỉ nói cám ơn rồi khóc.

Vài năm sau đến lượt hai cô bạn của tôi cũng được gia đình bảo lãnh. Cô bạn ở Cali, một hôm đi chợ tình cờ gặp anh Phan và hai đứa con. Mừng quá trước cuộc gặp gở bất ngờ, anh Phan mời cô bạn tôi về apartment của 3 cha con nói chuyên cho vui rồi sau đó cùng đi ăn. Trong câu chuyện rôm rả, cô bạn tôi bỗng hỏi: “Anh Phan còn nhớ nhỏ Phương, bạn cùng nhóm của tụi em mà anh đã gặp tại nhà chị Bích không? Bây giờ chỉ còn một mình nó ở lại Sàigòn. Em sẽ đưa địa chỉ nhà và email của nó để khi nào rãnh anh liên lạc với nó nói chuyên cho vui.”

Một hôm đi làm về tôi mở computer ra thấy một địa chỉ email lạ không biết là ai. Tôi đọc: “Một cô bạn của cô Phương vừa cho tôi địa chỉ email nầy nên liên lạc thử. Nếu đúng, và nếu không có gì trở ngại, xin cô Phương liên lạc với tôi cho vui. Tôi vẫn còn nhớ những lần họp mặt ăn uống tại nhà chị Bích, chị họ của tôi. Bà xã tôi mất cách đây ba năm, hai đứa con tôi, một đứa đã lên Đại Học, còn cô con gái đang học lớp 10. Từ hồi qua Mỹ đến giờ tôi làm đủ thứ nghề nhưng chẳng có nghề nào liên can đến chữ nghĩa cả! Bây giờ tôi đang vừa làm thợ, vừa đi học lại ở một trường Đại Học Cộng Đồng gần nhà. Học để đỡ buồn thôi, và để khỏi quên chữ nghĩa !”

Thế là chúng tôi liên lạc lại với nhau. Cho đến một hôm tôi gần như lặng người đi khi đọc những giòng chữ của anh: “ Cuộc sống bên nầy khó quá cho một người đàn ông góa vợ. Đi làm về lủi thủi một mình, lo cơm nước cho ba cha con ăn, tôi như muốn điên lên. Nếu Phương không cho là tôi quá già so với Phương và con cái đã quá lớn thì mong Phương chấp thuận cho tôi được bảo lãnh Phương qua Mỹ với cha con tôi để giúp tôi quán xuyến gia đình”

Cả tuần lể sau đó tôi không biết phải trả lời email cho anh như thế nào. Vào ngân hàng, tôi như người mất hồn. Một chị bạn, cũng là xếp lớn của tôi, hỏi lý do, và sau khi nghe tôi kể chuyện, nói: “Tau thấy mi cũng tội nghiệp. Mười mấy năm nay đi làm chỉ biết lo cho Bố và mấy đứa em của mi học Đại Học. Bây giờ Bố đã mất, mấy đứa em cũng đã học xong, có công ăn việc làm rồi thì mi cũng phải lo cho thân mi nữa chớ? Đâu, mai mốt mi đưa hình thằng chả tau coi xem sao! Có xứng với mi không? Rồi tụi tau sẽ cho mi ý kiến. Nhưng tau nói thật, và chỉ nói riêng với mi thôi nghe chưa? Mấy ổng mà biết được là tau bay chức đó! Mi cũng nên tìm đường đi qua đó cho rồi. Ở đây suốt đời mi cũng chỉ lên được cùng lắm là chức phó phòng thôi. Mi biết tại sao rồi đó.”

Tháng sau, tôi lại nhận được email cho biết là anh sẽ về thăm tôi trong dịp Tết. Tôi tá hỏa tam tinh, vì chưa kịp chuẩn bị tinh thần gì cả. Khi không từ chỗ hai người chẳng có liên hệ tình cảm gì bỗng nhiên đòi về thăm nhau! Và còn muốn tính chuyện xa hơn nữa!

Anh cho tôi biết ngày giờ anh đến phi trường và dặn tôi ra đón.

Cũng may là phi cơ đáp xuống phi trường vào buổi tối nên mặt mày tôi lúc đó chắc cũng không đến nổi nhợt nhạt lo sợ và khó coi cho lắm! Anh vẫn như ngày nào lúc chúng tôi đưa tiễn anh cùng gia đình ra đi. Chỉ hơi ốm, phong trần và buồn hơn. Anh lầm lũi đẩy hành lý ra cửa, đưa mắt tìm tôi. Tôi cũng định bụng là để xem “ người ta” có còn nhìn ra tôi sau hơn mười năm xa cách không mà “dám cả gan” đòi bảo lảnh tôi qua Mỹ lo cho anh và hai con?

Đi qua chỗ tôi đứng không thấy anh dừng lại, tôi thấy vừa buồn cười vừa giận. Vậy mà cũng đòi về thăm người ta! Tôi định quay đi thì nghe tiếng gọi sau lưng: “Phương, Phương! Anh đây cơ mà! Em tìm ở đâu vậy?” Lên taxi đưa anh về khách sạn mà tôi đã đặt chỗ trước xong, tôi đưa anh đi ăn ớ một quán nhỏ gần nơi anh ở rồi về nhà.

Hai tuần lễ đầu tiên anh ở Sài gòn, tôi vẫn đi làm bình thường vì thời điểm đó gần Tết không thể nào xin nghĩ được. Chỉ sau Tết tôi mới xin nghỉ hai tuần để đưa anh đi chơi đây đó. Chúng tôi chụp rất nhiều hình ảnh: “Để làm bằng chứng cho em sau nầy khi đi phỏng vấn. Anh còn về một lần nữa, có lẽ trong dịp Hè”

“Ông này tham ghê vậy đó. Chưa xong Tết đã lo đến Hè. Bộ không sợ chị ở trên đó buồn hay sao mà gấp rút dữ vậy ông anh ?”

Tháng 7 năm đó anh lại về một lần nữa, và đòi tôi đưa vào ngân hàng “để chào bạn bè và mấy xếp của em”. Sau nầy anh mới tiết lộ cho tôi biết là anh muốn vào để xem có ai đó “đổ lệ khi sắp đưa em sang sông qua Mỹ không?”

Sau chuyến về thăm tôi lần thứ hai đó, anh đem tất cả giấy tờ của tôi qua Mỹ để bắt đầu làm thủ tục bảo lãnh. Tôi vẫn nhẩn nha đi làm, vì cứ tưởng rằng sẽ lâu lắm, ít ra phải hai, ba năm! Nhưng chưa đầy một năm sau, tôi đã được gọi đi bổ túc hồ sơ, giấy tờ xin nghỉ việc và chờ đợi ngày được phỏng vấn. Lần nầy tôi như con lật đật, chạy hết chỗ nầy qua chỗ khác, từ văn phòng nầy đến văn phòng khác.

Ngày phỏng vấn, tôi kéo theo cả một vali nhỏ đầy hồ sơ, hình ảnh, giấy tờ. Trước tôi đã có gần cả chục người bị bác hồ sơ đang đứng xớ rớ trong phòng, mặt mày buồn xo. Tôi hoảng quá, đọc kinh thầm trong miệng để lấy lại bình tĩnh. Nhân viên phỏng vấn hỏi đủ điều về sự quen biết giữa hai chúng tôi và về gia đình anh.

Lúc đưa tấm hình chụp tôi đang nói chuyện với chị Phan và cô con gái, họ hỏi đây là ai? Tôi chỉ từng người một và trả lời rành rọt. Câu tiếp theo, nhân viên di trú hỏi “Cô còn nhớ ở thời điểm cô đưa gia đình nầy đi vào lúc tháng mấy không? Buổi sáng hay chiều, tối?” Tôi đáp đó là vào buổi trưa khoảng cuối tháng 5.

Sau đó họ hỏi thêm về công viêc làm của anh và của con cái anh bên Mỹ. Thời gian phỏng vấn kéo dài như vô tận! Mồ hôi tôi chảy ròng ròng trên trán và trên mặt! Tôi than thầm: “Chúa ơi, sao đi Mỹ khổ quá vầy nè?”

Cuối cùng rồi cũng xong! Nhân viên di trú bắt tay tôi, chúc mừng tôi đã đậu phỏng vấn. Họ còn dặn tôi về xúc tiến những công việc còn lại trước khi đi nhận Visa và mua vé máy bay. Tôi mừng quá, đưa tay làm dấu Thánh Giá cảm tạ Chúa rồi chào cám ơn nhân viên di trú. Tôi kéo chiếc va li nhỏ chạy như bay ra khỏi Tòa Lãnh Sự.

Lại mất thêm một tháng nữa để đi mua vé, vào Ngân Hàng xin giấy nghỉ việc để xuất cảnh. Hôm lên máy bay qua Mỹ, tôi chỉ còn cân nặng có 37 kg!

Nhưng đoạn trường vẫn chưa hết!

Gần hai chục tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay, thêm mấy tiếng quá cảnh ở Hồng Kông, tôi muốn ngất xỉu vì trên phi cơ tôi không ăn uống gì được cả! Bước xuống phi trường Los Angeles, kéo hành lý đi qua cưả khẩu để làm thủ tục nhập cảnh, một nhân viên di trú người Mỹ hỏi tôi bằng tiếng Việt: “Bà có biết bà qua đây theo diện gì không ?” Tôi tưởng là mình đang bị lùng bùng lổ tai nghe không rõ ông ta hỏi cái gì, nên hỏi lại: “Pardon?” Ông ta cười cười và lặp lại câu hỏi bằng tiếng Việt.

Tôi lại than thầm:” Trời đất! Mỹ mà nói tiếng Việt giỏi như thế nầy làm tui chuẩn bị trả lời bằng tiếng Anh cùng với động từ “tu quơ” chớ!” Tôi nói: “Thưa ông, tôi biết. Tôi qua đây theo diện Fiancée”. Nhân viên di trú tiếp: “Vậy trong vòng 90 ngày bà phải nói với ông tiến hành làm thủ tục kết hôn tại một tòa án hôn phối của Mỹ. Nếu không bà sẽ bị trục xuất về nguyên quán. Chúc bà may mắn trên đất Mỹ.”

Cung cách ăn nói quá lịch sự, cách tiếp xúc và cư xử với những người vừa nhập cư như tôi, kèm theo nụ cười luôn nở trên môi của các nhân viên Sở Di Trú từ Tòa Lãnh Sự ở Sàigòn cũng như tại phi trường Los Angeles đã để lại trong lòng tất cả chúng ta, những người di dân Việt Nam và các di dân khác một ấn tượng đẹp đẽ khó quên.

Nếu không có những buổi ăn uống tiễn đưa tại nhà chị Bích, nếu không có mặt tôi hôm đưa tiễn gia đình anh chị và hai cháu tại phi trường Tân Sơn Nhất vào buổi trưa cuối tháng 5 năm đó thì sẽ không có tấm hình tôi nói chuyện với chị Phan và cô con gái. Tấm hình mà nhân viên di trú đã căn cứ vào đó hỏi tôi lúc phỏng vấn, tôi cũng không biết là ai trong gia đình anh đã chụp và đã gửi cho anh từ khi nào để anh còn nhớ kèm vào hồ sơ xin bảo lãnh.

Và nếu anh Phan đi chợ không gặp cô bạn của tôi thì anh sẽ không có địa chỉ tôi để liên lạc email. Rồi cũng đã quên luôn tôi chứ đừng nói gì đến chuyện bảo lãnh.!

Những buổi ăn do chị Bích đãi, buổi tiễn đưa tại phi trường, buổi gặp gỡ thật tình cờ trước chợ giữa anh Phan và bạn tôi,và tấm hình đưa tiễn, tất cả đúng là những mắc xích đan vào nhau như một sự an bài của số mệnh để đưa tôi qua Mỹ, cột chặt đời anh Phan và tôi để tôi lo cho anh và hai cháu thay chị Phan!

Và hình như cũng đã có một sự sắp xếp nào đó của Ơn Trên để cho tôi được qua Mỹ chữa căn bệnh phụ khoa hiểm nghèo mà tôi đã vướng phải từ những năm tháng sống nghèo khổ và thiếu thốn cùng cực tại quê nhà.

Nếu không được qua Mỹ, nếu không có nền y khoa tuyệt vời cùng các Bác Sĩ tài hoa, những thiên thần áo trắng của bệnh viện UCI thì chắc chắn tôi không còn giữ được mạng sống mình cho đến ngày hôm nay.

Xin cám ơn đời, cám ơn người, cám ơn định mệnh, và nhất là cám ơn nền Y Khoa cùng các bác sĩ, những thiên thần áo trắng của Bệnh Viện UCI đã cứu tôi!

Và xin cám tạ Chúa đã ban cho con lại mạng sống hôm nay.”

Tôi Có Người Chồng Tuyệt Vời… TRUYỆN NGẮN – Hà Linh…

 TRUYỆN NGẮN – Hà Linh…

Tôi Có Người Chồng Tuyệt Vời…

Tôi đã ngẫm nghĩ rất lâu khi viết câu chuyện hạnh phúc bằng chính cuộc đời tôi, để những ai đang bất hạnh ở trên đời, xin mọi người hãy tin và chờ đợi. Hạnh phúc là cái có thật và luôn hiện hữu.

Tôi sinh ra bình thường như bao đứa trẻ an lành khác. Tôi là một cô bé hoàn thiện, xinh đẹp và thông minh. Nhưng số phận đã đem đến cho tôi những tai ương dữ dội. Mười hai tuổi, bố mẹ tôi ly hôn. Mẹ tôi đã đi ra nước ngoài theo tiếng gọi của tình yêu mới.

Mười hai tuổi, tôi đã trở thành một cô bé câm lặng trong nỗi đau ê chề của một người đàn ông bị bỏ rơi, bị phụ bạc là cha tôi. Tôi vô cảm, chai lỳ trong sự hành hạ về tinh thần và thể xác của một người cha yếu đuối không vượt qua được mặc cảm thân phận. Cha tôi chìm trong rượu, triền miên trong những cơn say. Cha bỏ bê công việc, suốt ngày quán xá nợ nần.

Tôi một buổi đi học, một buổi đi tìm cha lúc say khướt ở một xó xỉnh nào đó, khi thì lê la tơi tả trên đường làng. Khu dân cư nơi tôi ở không ai không ném ánh mắt thương hại nhìn cha con tôi. Những ánh mắt thương hại và ghẻ lạnh. Tôi đã lớn lên trong một mặc cảm chua xót.

Năm tôi tròn 18 tuổi, một bất hạnh khủng khiếp lần nữa giáng xuống số phận. Trước ngày tôi chuẩn bị đi thi đại học thì cha tôi vì say rượu ngã xuống chiếc giếng cổ đầu làng và bị chết đuối. Tôi nhận tin dữ khi đang làm thủ tục ở trường. Tôi chạy như điên dại trở về nhà. Tôi chạy trong một trạng thái gần như vô cảm, không hiểu, không hình dung được chuyện gì đang xảy ra bởi tai ương phía trước quá lớn, quá đột ngột.

Trong lúc hoảng tinh thần ấy, tai nạn khiếp đảm đã xảy ra. Tôi chạy qua đường tàu trong khi đoàn tàu đang lao tới ầm ầm. Tôi không nhìn thấy, không hề biết mặc cho người hai bên đường la lên cố ngăn cản tôi lại. Tôi chạy trong vô thức, và đôi chân của tôi đã bị đoàn tàu cán lìa.

Rất lâu sau đó tôi nằm im lìm và bất động trên giường bệnh. Ngay cả khi vết thương bị cưa hai chân đã liền sẹo, sức khỏe đã có thể hồi phục, tôi vẫn không nghĩ đến việc sẽ tiếp tục sống. Tôi suy sụp và trầm cảm nặng. Tôi gần như một người sống mà đã chết hoàn toàn về mặt ý thức trên giường bệnh, không đau khổ, không tuyệt vọng, không cảm xúc. Tôi muốn chết, muốn vĩnh viễn rời bỏ cuộc sống này.

Mẹ tôi từ nước ngoài về thăm tôi. Tôi nhìn bà ấy như nhìn một người xa lạ. Sau lần duy nhất cho phép mẹ vào thăm, tôi từ chối không gặp mẹ, không liên hệ với mẹ. Mẹ tôi quay trở lại cuộc sống của bà ở nước ngoài sau khi đã cạn khô nước mắt vì sám hối trước tôi. Thứ duy nhất níu giữ tôi lại như một sợi dây mong manh neo giữ con thuyền sắp quật vào bão tố đấy là bà nội tôi. Bà đã ở bên cạnh tôi, chăm sóc cho tôi trong nỗi đau tột cùng. Vì bà mà tôi không thể dứt bỏ bà để ra đi vĩnh viễn.

Tôi không còn nhớ tôi đã sống như thế nào cho đến ngày tôi gặp một phép nhiệm mầu. Ngày đó, một người con trai đã bước vào cuộc đời tôi vô cơn cớ. Ngày mà tôi không thể lý giải nổi, tại sao ông trời sau khi đã lấy đi của tôi tất cả lại mang đến cho tôi một báu vật. Anh không phải là người sinh ra ở quê tôi.

Sau này khi đã cởi mở lòng mình với anh, tôi mới biết anh chính là người có mặt trên chuyến tàu định mệnh đã nghiền nát đôi chân xinh đẹp của tôi.

Hôm đó anh lên Hà Nội chuẩn bị cho kỳ thi đại học. Ngồi bên cửa sổ toa tàu, anh chứng kiến từ đầu chí cuối cảnh tôi như một chú chim tuyệt vọng lao về phía trước. Anh đã la lên hốt hoảng khi nhìn thấy tôi bay vào gầm tàu, gương mặt chết sững, miệng mấp máy gọi cha ơi.

Tôi cũng không hề biết hôm ấy, anh đã xuống tàu, đã cùng với mọi người gọi xe ôm đưa tôi cấp cứu ở bệnh viện. Chính anh, một người xa lạ đã chạm vào cuộc đời bất hạnh của tôi từ những ký ức đầu tiên ấy. Và sau 1 năm tu nghiệp ở nước ngoài, lần đầu tiên về nước, anh đã về tận miền quê nơi tôi ở để tìm tôi.

Anh đã khóc khi nhìn thấy tôi sống mà như đã chết. Lần ấy đến thăm tôi, anh đã ở lại bên tôi một tuần. Anh đã vực tôi trở dậy với cuộc sống, mặc cho tôi phản kháng quyết liệt. Một tuần liền, anh kiên trì trò chuyện và thuyết phục tôi vui sống và học tập trở lại. Anh nói với tôi, em không thể trở thành người tàn phế, như thế là quá hèn. Tôi đã im lặng, đã chối từ, nhưng khi anh trở về nhà, tôi biết tôi đã sống lại một cuộc sống khác.

Lúc này tôi đã tạm quên đi cái chết trong một vài khoảnh khắc. Một vài khoảnh khắc nhỏ, tôi không chìm trong cảm giác u ám vô vị, tôi nghĩ đến anh. Anh mang cho tôi những cuốn sách dịch về những câu chuyện đời có thật trên thế giới. Những câu chuyện cảm động về những tấm gương vượt qua số phận. Tôi đã đọc những câu chuyện ấy trong những ngày u ám nhất của cuộc đời mình, đã ném nó vào góc nhà, xé bỏ nó trong nước mắt, và rồi lại tìm nhặt nó lên, ghép những trang sách rách nát lại để đọc. Tôi đã khóc rất nhiều, rất nhiều và luôn luôn muốn chết.

Sau lần gặp đó, anh trở lại nước Anh để tiếp tục học. Anh luôn viết thư động viên tôi vượt qua hoàn cảnh để sống có ích cho xã hội. Anh đã kiên trì vực tôi dậy, trao cho tôi tình yêu cuộc sống. Tôi đã gạt bỏ ý định kết thúc cuộc sống của mình. Tôi đã tự học và thi vào trường cao đẳng sư phạm nơi phố huyện. Tôi đã kiên trì học tập trong 3 năm liền và tốt nghiệp xuất sắc. Tôi được về dạy học ở trường dành cho trẻ em khuyết tật ở tỉnh nhà.

Ngày tôi về nhận công tác cũng là lúc anh lấy xong bằng thạc sỹ kinh tế ở Anh. Trở về nước, anh đã một mạch về quê tìm tôi. Anh ngỏ lời yêu tôi và xin được cưới tôi làm vợ. Anh nói số phận của anh đã thuộc về tôi kể từ ngày anh nhìn thấy tôi như con chim nhỏ tuyệt vọng lao về phía trước. Tôi đã khóc rất nhiều, và thêm một lần nữa tôi thấy mình rơi vào tuyệt vọng và đau khổ. Tôi không thể không rung động trước sự chân thành của anh. Tôi không thể không yêu anh, mơ tưởng tới anh từng giờ từng phút kể từ khi anh đến tìm tôi. Anh đẹp trai, trẻ trung và quá hoàn hảo. Anh là niềm mơ ước, nỗi khát khao của bao nhiêu người con gái khác. Anh đâu thể sinh ra để dành cho đứa con gái khiếm khuyết và bất hạnh như tôi. Tôi bàng hoàng trước lời cầu hôn của anh và tôi đã chạy trốn.

Tôi, người con gái tật nguyền, suốt ngày đi lại bằng xe lăn, chân giả, sao có thể làm vợ một người con trai hoàn hảo như anh. Tôi đã trốn chạy anh, trốn chạy mối tình lớn nhất của đời mình bằng cách gật đầu một lời cầu hôn khác. Tôi đồng ý đi đến hôn nhân với người đàn ông cũng bị cụt hai chân trong một tai nạn lao động. Anh là giáo viên dạy nghề mộc ở cùng trường.

Tôi không nói cho anh biết chuyện tôi sẽ làm đám cưới trong nay mai. Cuối tuần nào anh cũng vượt mấy chục cây số đi ôtô về quê thăm tôi. Lần ấy, anh biết chuyện tôi có ý định đi lấy chồng, lấy một người đàn ông tật nguyền khác. Không thể tưởng tượng được là anh đã làm tất cả để bảo vệ tình yêu của mình. Anh đã ôm chặt lấy tôi, đã cầu xin tôi suy nghĩ lại. Anh nói rằng tôi không yêu cái người tôi định lấy làm chồng, và anh đã đến gặp chồng sắp cưới của tôi để nói chuyện sòng phẳng về tôi. Anh không biết rằng sau những mất mát, bất hạnh và nếm trải, tôi biết tôi cần điều gì, tôi cần phải làm gì để được bình yên. Nhưng tôi đã không thể làm theo ý tôi được vì anh là người đàn ông quá tuyệt vời. Anh biết cách giành lấy người anh yêu, giành lấy hạnh phúc mà không để tuột mất.

Tôi đã mặc nhiên cho cổ tích đậu xuống cuộc đời mình, mặc nhiên hưởng những phép nhiệm mầu. Sau này, khi cưới nhau xong rồi, tôi mới biết bố mẹ anh vì phản đối cuộc hôn nhân của anh mà từ mặt anh. Đám cưới của chúng tôi, bố mẹ anh không có mặt. Nhưng điều đó không làm cản trở anh đi đến hạnh phúc với tôi. Cuộc đời tôi là cả một câu chuyện cổ tích, mà phần đẹp đẽ nhất, có hậu nhất là do anh viết nên. Sau đám cưới, anh đưa tôi ra nước ngoài sinh sống trong thời gian anh tu nghiệp lấy bằng tiến sỹ. Lấy bằng xong, anh tiếp tục làm việc ở nước ngoài. Tôi sinh cho anh hai cô con gái xinh đẹp. Chúng tôi đã có một cuộc hôn nhân hơn cả hạnh phúc.

Hai con gái tôi lớn lên ở nước ngoài. Ngày các con tôi vào đại học và đã tự lập được cuộc sống phía trước, tôi và anh quyết định trở về quê hương sinh sống. Nhưng cuộc đời luôn trớ trêu, số phận luôn trớ trêu khi một lần nữa thử thách lòng kiên nhẫn của tôi. Trên chuyến bay trở về Việt Nam, một cơn đột qụy đã mang anh đi khỏi cuộc sống này, mang anh đi khỏi cuộc đời tôi khi anh mới 43 tuổi. Tôi tưởng như mình lại chết thêm một lần nữa.

Giờ đây cuộc sống của tôi bình yên và lặng lẽ. Tôi trở lại nước ngoài để cố quên đi những kỷ niệm đau buồn, để giữ những ký ức về anh luôn xanh mãi trong ngôi nhà hạnh phúc của tôi. Dù anh không còn nữa, nhưng tôi đã rất hạnh phúc. Tôi đã hàm ơn số phận đã mang anh đến cho tôi như mang một phép nhiệm mầu. Dù tôi và anh chỉ được sống bên nhau hạnh phúc 20 năm, nhưng tôi nghĩ, 20 năm là khoảng thời gian quá dài cho một hạnh phúc vĩnh cửu.

Tôi không buồn đau vì mất anh. Trái lại tôi nhớ anh nhiều hơn, sống có ý nghĩa hơn bên các con, và không lúc nào tôi không nhớ đến anh với những cảm giác hạnh phúc quá dịu ngọt.

Hạnh phúc thường rất ngắn ngủi nhưng với tôi, hạnh phúc mà anh mang đến cho tôi kéo dài trong suốt cả cuộc đời này.

May be an image of 1 person and standing

XIN MẸ ĐỪNG BỎ CON

XIN MẸ ĐỪNG BỎ CON

Tháng 2/1994, ở phía Bắc nước Đức tuyết trắng phủ dầy đặc, trại trẻ mồ côi Yite Luo nằm bên ven sông Rhine, tĩnh lặng trong gió tuyết. Sáng sớm hôm ấy, nữ tu sĩ Terri, 50 tuổi ra ngoài làm việc. Lúc vừa ra đến cổng, bà nghe thấy có tiếng trẻ con khóc. Bà liền tìm theo tiếng khóc thì phát hiện một bé trai tóc vàng được đặt trong một bụi cây ở cạnh cổng trại. Nữ tu sĩ này đã đưa cậu bé về trại trẻ nuôi dưỡng và đặt tên cho cậu là Derby.

Bảy năm ở cô nhi viện, cậu bé Derby lớn lên khỏe mạnh và ngoan ngoãn. Cậu bé có tấm lòng lương thiện, nhưng tính cách lại có chút u buồn. Một ngày thời tiết nắng ráo, các nữ tu sĩ đã dẫn bọn trẻ đi qua một rừng cây để đến một đồng cỏ xanh ở ven bờ sông dạo chơi. Những người ở trong thị trấn gần rừng cây đều chỉ vào những đứa trẻ này và nói: “Những đứa trẻ này đều là bị cha mẹ bỏ rơi, nếu con mà không nghe lời, mẹ cũng sẽ đem bỏ con vào cô nhi viện đấy!”

Nghe thấy những lời nói này, Derby cảm thấy vô cùng đau lòng. Cậu bé không nhịn được liền hỏi nữ tu sĩ:“Mẹ ơi! Tại sao cha mẹ con lại không cần con? Có phải là họ ghét con không?” Giọng nói của cậu bé tràn đầy bi thương không hề giống với lời nói của những đứa trẻ khác cùng độ tuổi.

Nữ tu sĩ nghe xong giật mình hỏi Derby: “Tại sao con lại nghĩ như vậy?”

Derby trả lời: “Tại vì con nghe thấy mọi người đều nói như vậy, chúng con đều là những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi!”

Nữ tu sĩ an ủi cậu bé: “Mặc dù mẹ chưa từng gặp mặt mẹ của con, nhưng mẹ tin rằng nhất định mẹ của con rất yêu thương con. Trên đời này không có người mẹ nào là không yêu thương con của mình cả. Năm đó mẹ của con để con lại, chắc chắn là vì một lý do bất đắc dĩ nào đó thôi”.

Derby nghe xong lặng im không nói lời nào, nhưng từ đó trở đi cậu bé thay đổi rất nhiều. Cậu thường xuyên đứng bên cửa sổ của cô nhi viện nhìn ra dòng sông Rhine. Cậu hy vọng những dòng nước đang chảy trên sông Rhine có thể đem tình cảm của cậu đến với mẹ.

Vào “ngày của mẹ” năm 2003, không khí ấm áp của ngày lễ lại một lần nữa dấy lên khát vọng mãnh liệt được gặp mẹ của Derby. Ngày hôm đó, các kênh truyền hình đều đưa tin về các hoạt động ăn mừng, đăng tải những hình ảnh về tình mẹ con. Có một cậu bé 6 tuổi, mồ hôi chảy đầm đìa trên người đang giúp mẹ cắt cỏ. Mẹ của cậu bé nhìn cậu bé mà cảm động rơi nước mắt. Derby khi xem tới hình ảnh này đã nói với nữ tu sĩ: “Con cũng muốn được làm việc giúp mẹ! Mẹ ơi! Mẹ có biết cha mẹ của con đang ở đâu không ạ?”

Nữ tu sĩ trầm tư, không nói được lời nào, bởi vì suốt mấy năm qua bà không hề nhận được tin tức gì của cha mẹ cậu bé cả. Đột nhiên, Derby chạy ra ngoài đường, cậu cứ chạy, trên đường có rất nhiều người mẹ nhưng lại không có ai là mẹ của cậu bé cả. Derby đau khổ và gào khóc.

Mấy tháng sau, khi Derby được 9 tuổi, cậu bé rời khỏi cô nhi viện để đến học tập ở một ngôi trường gần đó. Một lần lên lớp, thầy giáo kể cho học sinh nghe một câu chuyện: “Thời xưa, có một vị hoàng đế rất yêu thích chơi cờ vây, vì vậy ông liền quyết định ban thưởng cho người phát minh ra trò chơi này. Kết quả, người phát minh này lại mong muốn ban thưởng cho anh ta mấy hạt gạo. Tại ô thứ nhất trên bàn cờ đặt một hạt gạo, ô thứ hai đặt hai hạt gạo, tại ô thứ 3 số hạt gạo gấp lên 4 lần…Theo đó suy ra, đến khi bỏ đầy bàn cờ thì số hạt gạo đã là 18 triệu tỷ hạt”.

Cậu chuyện này làm cho hai con mắt của Derby lập tức sáng lên. Cậu nghĩ nếu như cậu giúp một người, sau đó yêu cầu người đó giúp 10 người khác…Với cách này, Derby hy vọng một ngày nào đó biết đâu người được yêu cầu trợ giúp lại là mẹ cậu. Ý nghĩ này đã khiến Derby vui mừng khôn tả. Từ đó về sau, mỗi lần cậu làm một việc tốt giúp một người nào đó, lúc người đó cảm ơn cậu, cậu đều nói: “Xin cô (chú…) hãy giúp đỡ 10 người khác ạ! Đó là cách cảm ơn lớn nhất đối với cháu!”. Những người này sau khi nghe xong, đều vô cùng cảm kích trước tấm lòng lương thiện của cậu bé. Tất cả họ đều thực hiện lời hứa của mình, mỗi khi họ giúp ai đó họ lại đề nghị người kia giúp đỡ 10 người khác. Cứ như vậy, toàn bộ người dân ở thành phố đó đều âm thầm thực hiện lời hứa của mình.

Sức mạnh của “10 việc tốt”

Derby không thể ngờ mình lại có thể giúp đỡ ông Rick, một người dẫn chương trình nổi tiếng của Đức.

Rick là một người dẫn chương trình nổi tiếng của Đức. Mặc dù ông đã 50 tuổi nhưng với ngôn ngữ hài hước hóm hỉnh của mình, ông vẫn thu hút sự yêu mến của khán giả. Các chương trình của ông gần như đều vạch trần hết những bí mật của những người nổi tiếng. Tuy nhiên, có lẽ là do áp lực từ hãng truyền hình và sự cạnh tranh trong công việc, hơn nữa phải chứng kiến quá nhiều mảng tối của xã hội nên vào năm 2003, ông mắc bệnh trầm cảm và không thể tiếp tục được công việc.

Tháng 10/2003, ông đã xin đài truyền hình cho ông được nghỉ dưỡng một năm. Ông hy vọng trong thời gian nghỉ ngơi, ông có thể thả lỏng để sức khỏe được tốt hơn lên. Một thời gian ngắn sau, ông Rick đã tới thành phố mà Derby đang sinh sống để tham quan. Ông đã bị vẻ đẹp của dòng sông Rhine thu hút. Một lần khi trời chạng vạng tối, đang đi trên bờ sông dạo chơi thì bệnh tim của ông đột nhiên tái phát. Ông chưa kịp lấy thuốc từ trong túi ra uống thì đã ngã ngất xỉu trên mặt đất. Cậu bé Derby lúc ấy đang câu cá trên bờ sông phát hiện ra ông bị ngất xỉu nên đã gọi điện cho xe bệnh viện đến đưa ông đi cấp cứu.

Nhờ được cấp cứu kịp thời, ông Rick đã qua khỏi, ông nắm lấy đôi tay của Derby và nói: “Cháu bé, ông phải làm sao để cảm ơn cháu đây? Nếu như cháu cần tiền, ông có thể cho cháu rất nhiều tiền!”.

Derby nghe xong liền lắc đầu nói: “Nếu như ông có thể giúp đỡ 10 người khác khi họ cần sự giúp đỡ, như vậy chính là ông đã cảm ơn cháu rồi ạ!”.

Ông Rick cảm thấy khó hiểu liền hỏi cậu bé: “Cháu cái gì cũng đều không cần sao?”. Derby cười và lắc đầu.

Ông Rick liền bị cậu bé kỳ lạ này thu hút. Ông đã để lại cách liên lạc cho Derby và đưa cậu bé trở về trường. Trước khi ông Rick rời đi, Derby lại dặn dò ông một lần nữa: “Cháu xin ông nhất định hãy làm đủ “10 việc tốt” ạ!” Ông Rick nhìn qua đôi mắt đang rực sáng của cậu bé, trong lòng ông cảm thấy ấm áp thế là ông nghiêm túc gật đầu.

Từ đó về sau, ông Rick cảm thấy sống vui vẻ hơn và chăm chú giúp đỡ 10 người khác. Mỗi lần giúp đỡ được một người, trong lòng ông lại cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Nhất là những lúc họ nói lời “cảm ơn” với ông, ông cảm thấy bản thân mình có giá trị hơn rất nhiều.

Chưa đến nửa kỳ nghỉ phép, ông Rick đã trở lại đài truyền hình làm việc. Khi ông quay lại làm việc, tất cả mọi người đều ngạc nhiên vì sự thay đổi chóng mặt của ông. Ông trở nên vui tươi, lạc quan và hòa đồng với mọi người hơn.

Ngày 01/12/2003, ông Rick lần đầu tiên lên sóng truyền hình sau kỳ nghỉ dài. Tại đây ông đã nói với khán giả: “Trước đây, tôi đã nói rất nhiều những câu chuyện của người khác, hôm nay tôi sẽ kể câu chuyện của chính mình”. Ông xúc động kể về sức mạnh của “10 việc tốt” trong vòng một tiếng đồng hồ. Cuối cùng, ông nói: “Có lẽ, không ai tin đây là chuyện thật, nhưng chuyện này đã tiếp thêm rất nhiều động lực sống cho tôi. Xin các bạn cũng hãy giúp đỡ 10 người khác khi họ cần giúp, tôi tin rằng bạn cũng sẽ cảm nhận được loại cảm giác kỳ diệu này!”

Thông qua truyền hình, chương trình của ông Rick được phát sóng trên khắp nước Đức. Mọi người đều rất xúc động về câu chuyện này. Đã có rất nhiều người gọi điện cho ông Rick nói rằng họ sẵn lòng làm “10 việc tốt” này. Thậm chí còn rất nhiều khán giả yêu cầu được nghe Derby nói chuyện trên truyền hình bởi vì họ muốn gặp cậu bé lương thiện này.

Tháng 1/2004, Derby đã đến đài truyền hình chia sẻ về câu chuyện của mình. Tại hiện trường, có người đã hỏi cậu: “Tại sao cậu lại có suy nghĩ như vậy?”. Derby cảm thấy do dự, cậu cắn môi đứng lặng một lúc, rồi mới cất tiếng kể rõ chuyện đời mình. Rất nhiều người đã vô cùng xúc động và bật khóc trước tình yêu vô bờ bến của cậu bé dành cho mẹ mình.

Ông Rick đã ôm chặt lấy thân thể gầy yếu của Derby và nói: “Mẹ của cháu nhất định yêu cháu vô cùng, cháu nhất định sẽ tìm được mẹ!”

Tình yêu của hàng ngàn người mẹ

Sau lần phỏng vấn ấy, toàn bộ người dân biết chuyện này đã đề ra chiến dịch “10 việc tốt”. Trước đây, mọi người đều lạnh lùng thì giờ đây lại đối xử với nhau rất có tình. Mọi người đều mong rằng người mà mình đang giúp chính là mẹ của cậu bé Derby kia.

Derby đã trở nên rất nổi tiếng và đài truyền hình cũng giúp cậu tìm mẹ, nhưng mẹ của Derby mãi vẫn không thấy xuất hiện…

Tháng 2/2004, một sự việc bất hạnh và đau lòng đã xảy ra với Derby. Nơi Derby sinh sống là một khu phố nghèo. Sau khi Derby nổi tiếng, các tay xã hội đen nghĩ rằng cậu bé có nhiều tiền. Đêm ngày 16/02/2004, trên đường trở về trường học, Derby đã bị một nhóm lưu manh vây quanh, nhưng bọn họ không tìm thấy tiền trên người cậu bé, nên đã đâm trọng thương cậu bé.

Cậu bé Derby bị đâm thủng bụng và gan, cậu nằm trên vũng máu mãi đến hai tiếng đồng hồ sau mới được cảnh sát tuần tra phát hiện. Họ đưa cậu bé vào bệnh viện cấp cứu. Tại bệnh viện, trong lúc hôn mê, Derby một mực gọi “Mẹ! Mẹ! Mẹ!…” mãi không thôi.

Đài truyền hình tiếp sóng trực tiếp tình trạng của Derby. Tất cả mọi người đều cầu nguyện cho cậu. Mấy chục sinh viên đến quảng trường Alexanderplatz, nắm tay nhau thành một vòng tròn và kêu gọi: “Mẹ! Mẹ!…” Những tiếng gọi này làm cảm động những người qua đường, họ liền gia nhập vào nhóm đứng xếp thành hình trái tim. Số người tham gia càng lúc càng đông lên, trái tim cũng càng lúc càng lớn hơn.

Điều cảm động hơn nữa là có hàng trăm người mẹ đã gọi điện đến đài truyền hình xin được giả làm mẹ của Derby. Cô Rita, một giáo sư tại trường đại học Munich đã khóc nức nở và nói: “Derby là một đứa trẻ tốt như vậy, được giả làm mẹ của cậu bé, tôi cảm thấy vô cùng tự hào”. Một phụ nữ khác 35 tuổi gọi điện đến nói: “Tôi từ nhỏ đã không có mẹ. Tôi cũng vô cùng khát khao được gặp mẹ. Tôi có thể hiểu được tâm tình của Derby”.

Có hàng trăm người mẹ đã gọi điện đến để xin được làm mẹ của Derby, nhưng mẹ của Derby thì chỉ có một. Cho nên, đài truyền hình đã thảo luận và chọn cô Judy làm mẹ của Derby. Bởi vì cô ấy sống cùng thành phố với cậu bé, hơn nữa giọng nói của cô ấy cũng giống với giọng của cậu bé, như vậy sẽ càng có cảm giác thân thiết hơn.

Sáng sớm ngày 17/02/2004, sau một thời gian dài bị hôn mê, cậu bé Derby đã mở mắt. Cô Judy đã ôm một bó hoa loa kèn đẹp xuất hiện ở đầu giường của Derby. Cô nắm lấy bàn tay nhỏ bé của Derby và nói: “Con trai Derby yêu quý! Mẹ chính là mẹ của con đây!”. Derby dường như nhìn thấy ánh mặt trời, đôi mắt cậu đột nhiên sáng rực lên, cậu đã rất ngạc nhiên và hỏi:“Mẹ thực sự là mẹ của con sao?”. Cô Judy dùng hết sức ngậm lấy nước mắt và gật gật đầu. Tất cả mọi người có mặt ở đây cũng mỉm cười nhìn Derby và gật đầu. Hai dòng nước mắt nóng chảy ra từ đôi mắt của Derby: “Mẹ ơi, con đã tìm mẹ từ rất lâu lắm rồi! Con xin mẹ đừng bỏ con nữa, được không mẹ?”

Cô Judy gật đầu và nghẹn ngào nói: “Con trai yêu quý của mẹ, con hãy yên tâm đi, mẹ sẽ không bao giờ rời xa con nữa…!”. Trên khuôn mặt tái nhợt của Derby nở một nụ cười. Cậu còn muốn nói nhiều hơn nữa nhưng đã không còn sức lực nữa rồi…

Đây là ngày cuối cùng của Derby ở trên cõi đời này, cậu bé luôn nắm thật chặt bàn tay của mẹ mà không buông ra, cậu cũng không muốn nhắm mắt lại vì muốn được nhìn thấy mẹ nhiều hơn… Tất cả mọi người đều òa khóc, cảm thấy như trái tim mình đang vỡ tan ra.

Hai giờ sáng ngày 18/02/2004, Derby đã nhắm mắt lại, vĩnh viên rời xa thế gian nhưng đôi bàn tay của cậu bé vẫn còn nắm chặt bàn tay của mẹ.

Nguồn : Sưu Tầm

ĐẠO ĐỨC RẤT KHÓ ĐỂ ĐÁNH GIÁ BẤT CỨ AI…

Minh Hoàng  

Một bác sĩ vào bệnh viện vội vàng sau khi nhận được gọi cho một cuộc phẫu thuật khẩn cấp. Ông nhanh chóng thay trang phục và đi thẳng vào phòng phẫu thuật. Ông đã gặp cha của cậu bé sẽ được phẫu thuật đang đứng đợi. Khi nhìn thấy ông, cha cậu bé hét lên:

“Tại sao ông lại đi lâu vậy? Ông có biết rằng cuộc sống của con trai tôi đang gặp nguy hiểm không? Ông không có bất kỳ ý thức trách nhiệm nào à?”

Bác sĩ mỉm cười và nói:

-“Tôi xin lỗi, tôi không ở trong bệnh viện và tôi đã đi nhanh nhất có thể sau khi nhận được cuộc gọi. Và bây giờ, tôi muốn anh bình tĩnh lại để tôi có thể làm công việc của tôi …”

-“Bình tĩnh thế nào được nếu là con trai của ông đang nằm trong căn phòng này, ông sẽ bình tĩnh được không? Nếu con trai của ông sắp chết ông có bình tĩnh nổi không?” – Cha cậu bé nói một cách giận dữ.

Bác sĩ mỉm cười một lần nữa và trả lời:

– “Tôi sẽ nói lại những gì trong Sách Thánh viết “Chúng ta đến từ cát bụi và sẽ trở về cát bụi, may mắn là tên của Thiên Chúa” Các bác sĩ không thể kéo dài cuộc sống. Hãy đi và cầu nguyện cho con trai của anh, chúng tôi sẽ làm những gì tốt nhất nhờ ân điển của Đức Chúa Trời “

– “Đưa ra lời khuyên khi ông không quan tâm luôn dễ dàng như vậy” – Cha cậu bé nghĩ thầm .

Ca phẫu thuật mất khoảng vài tiếng đồng hồ, sau đó các bác sĩ bước ra khỏi phòng phẫu thuật với những nụ cười rạng rỡ.

“Cám ơn Chúa, con trai của anh đã được cứu!”

Không chờ đợi câu trả lời của người cha, vị bác sĩ đã chạy như bay ra thang máy và không quên nói vọng lại: “Nếu anh có bất kỳ câu hỏi nào, hãy hỏi các y tá!”

“Tại sao ông ta lại ngạo mạn thế chứ? Ông ta không thể chờ đợi một vài phút để tôi hỏi về tình trạng của con trai tôi sao?” – Cha cậu bé nói hằn học khi nhìn các y bác sĩ còn lại.

Y tá trả lời, nước mắt rớt xuống khuôn mặt của cô:

– “Con trai ông ấy qua đời hôm qua trong một tai nạn giao thông, ông ấy đang bận mai táng cho con trai khi chúng tôi gọi ông tới bệnh viện phẫu thuật cho con trai anh. Ông ấy đã cứu được cuộc sống của con trai anh và bây giờ ông ấy lại chạy đi để hoàn thành nốt việc chôn cất con trai mình.”

Cha cậu bé : Trời ơi…!

ĐẠO ĐỨC RẤT KHÓ ĐỂ ĐÁNH GIÁ BẤT CỨ AI … bởi vì bạn không bao giờ biết cuộc sống của họ như thế nào và những gì họ đang trải qua.

(Sưu tầm)

May be an image of standing and indoor

Từ Cô Bé “Ở Đợ” tới Nước Mỹ Ngày Ấy

Từ Cô Bé “Ở Đợ” tới Nước Mỹ Ngày Ấy

Tự truyện: Trương Thị Thu Huyền

Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả là tự truyện của một bé gái nhà nghèo, từ 8 tuổi đã phải đi ở đợ, được người tốt dạy chữ, giúp học đánh máy, làm sở Mỹ ở Chu Lai, kết hôn, theo chồng định cư tại Mỹ từ 1972, nuôi dạy hai con ăn học thành bác sĩ, mang được 30 thân nhân từ Việt Nam sang Mỹ… Dù đã thành công, tác giả không chối bỏ quá khứ nghèo khó. Phần đầu là một tự sự ngắn nhờ Việt Báo đăng từ ba năm trước giúp tìm lại được hai người thầy ơn nghĩa từ thời nhỏ.

Phần 2, “Nước Mỹ Ngày Ấy”, là chuyện kể của cô dâu Việt Nam bơ vơ tại một miền quê nghèo vùng Đông Băc nước Mỹ hơn 60 năm trước.

*******

Cô dâu Huyền,1972.

  1. Về Những Người Thầy…

Hôm nay đọc bài “Thầy Tôi” trên báo, tôi chạnh nhớ lại mình cũng có một vị Thầy không phải dạy ở nhà trường, vì tại Việt Nam từ tuổi ấu thơ, tôi chưa bao giờ được cắp sách đến trường.

Tôi vốn sinh ra trong gia đình nghèo ở làng Bến Lá, tỉnh Quảng Trị. Năm lên 8 tuổi tôi đã rời xa gia đình vào Huế ở giúp việc (gọi là ở đợ) cho gia đình ông Đỗ Trí, Trung úy Trưởng Ty An ninh ở Thành Nội Huế cho đến năm 1962. Trong nhà có một cậu Gia sư tên là Phú, đến ở trọ dạy kèm để chờ ngày thi Tú tài. Châu là cô bé 11 tuổi con gái đầu lòng của ông bà Trí, nhỏ thua tôi ba tuổi.

Một bữa nọ, Châu không thuộc bài, tôi bồng đứa em nhỏ của Châu ngồi chơi trước thềm, tôi trả bài dùm cho Châu. Cậu Phú nhìn ra thấy tôi và hỏi rằng “Hoa ơi, làm sao em thuộc bài?”- Thì em nghe Cậu giảng đêm hôm qua mà. Thế là từ dạo ấy cậu Phú thương tình âm thầm đưa bài vở của Châu học cho tôi sao chép.

Để đáp lại công ơn cậu Phú, tôi giặt áo dùm, đôi lúc thấy bữa ăn còn lại ít quá, tôi nhường lại phần ăn của mình cho cậu ấy.

Ngày tháng trôi qua tôi không nhớ rõ là bao. Nhưng một ngày buồn lại đến! Cậu nói là cậu đi nhập ngũ, chúc Hoa dùng chút vốn liếng chữ nghĩa ấy mà tiến lên với đời nhé. Cậu còn dặn là hãy đọc truyện nhiều là em biết chữ thôi! Rất tiếc ngày ấy tôi không xin địa chỉ Cậu, và hỏi quê quán Cậu ở đâu. Cậu dáng người cao, da ngăm, hơi rỗ một tí.

Cậu ơi, hiện giờ Cậu ở đâu? Có còn sống không, hay đã bỏ mình ngoài chiến trận như bao anh hùng khác? Cậu là bậc Thầy rất vĩ đại của em, Cậu có biết không? Em mang theo hình bóng Cậu suốt cả cuộc đời mình. Khi Cậu đi rồi em cũng thôi ở nhà ông Trí, về quê học may. Năm 1966 quê em lại chiến tranh khói lửa. Ba em lúc ấy ở Tiểu Đoàn 22 Pháo Binh, nên gia đình em vào Tam Kỳ.

Ở đó, em gặp được người Thầy thứ hai là Chị Lý Thị Bích Thuỷ.

Quán may em ở gần trường dạy đánh máy chữ. Không có hàng may, em thường đứng trước trường nhìn vào mà ước mơ… mình cũng được như họ.

Vài ngày như thế trôi qua, một hôm em đang mơ màng thì một bàn tay đặt nhẹ trên vai em, “Ê bồ, sao ngày nào cũng đứng nhìn vậy? Em mắc cỡ bỏ chạy, thì Chị Thuỷ níu lại hỏi cho rõ chuyện. Tủi thân, em oà khóc… Từ đó Thuỷ làm bạn, và trả tiền cho em đi học. Vài tháng sau em được Thuỷ xin cho đi làm Thơ Ký đánh máy cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại Chu Lai. Trước khi đi làm, Thuỷ dạy cho em, thuộc hết vần ABC và đếm từ One đến One hundred.

Năm 1968, Chị Thuỷ và Huyền (tức là Hoa, tên em hồi đó) mất liên lạc! Năm 2000, khi từ Mỹ về thăm Việt Nam, Huyền có vào Chu Lai và tìm được Chị Toàn. Chị cho địa chỉ Thuỷ ở Fort Lauderdale. Về lại Mỹ, Huyền hết sức vất vả mà cũng không tìm ra được Thuỷ!

Với tâm nguyện của Huyền, ước mong một phép lạ, cho Huyền gặp được hai người Thầy mà Huyền đã mang theo hình bóng từ 40-50 năm nay. Mỗi lần đi đâu đông người Việt, Huyền không quên hỏi tên của hai vị, nếu không gặp được hai vị trong những ngày còn lại cuối cuộc đời, Huyền vẫn mãi mang theo hình bóng hai vị Thầy khả ái đến kiếp hậu lai. Hiện tại, nếu còn thở Huyền vẫn còn hy vọng…

Ngoài ra, nhắn tin:

“Em Đỗ Thị Minh Châu, bây giờ em và gia đình ở đâu? Chị không biết tên của Mẹ em, chỉ biết tên và cấp bậc của Ba em mà thôi! Châu rất đẹp, ông bà Đỗ Trí, người Bắc di cư 1954, cũng rất đẹp và rất phúc hậu. Đọc câu chuyện nầy, ai có biết tin, xin cho Huyền tin để được liên lạc.”

Tự truyện này cũng là lời nhắn tin rất tha thiết, mong được hồi âm.

Trương Thị Thu Huyền (tức Hoa) – 724.667.2345 (cell)

***

Và bà mẹ thành công, với hai con là bác sĩ.

  1. Và “Nước Mỹ Ngày Ấy”

Ngày ấy là ngày 15 tháng 2 năm 1972, tôi ôm hai đứa con thơ, theo chồng về Mỹ.

Vùng đông bắc Hoa Kỳ lúc ấy đang cuối mùa Đông, chưa sang Xuân nên trời vẫn còn lạnh, mà từ quê nhà mới qua, tôi đâu có biết nó lạnh đến cỡ nào.

Chỉ mấy ngày sau khi ngủ đủ sức rồi là tôi háo hức đòi chồng tôi đưa đi chợ. Sửa soạn thật đẹp, với quần ống bát, áo vải mỏng, bông hoa loè lẹt, guốc Việt Nam cao gót… Vừa từ trên gác bước xuống gặp bà mẹ chồng ngay dưới cầu thang, bà la lên hoảng hốt, – “Ôi! Chúa ơi! Con tưởng là con đang ở Việt Nam ư? Con có biết ngoài trời chỉ có 10 độ F thôi không?”

Không hiểu hết điều bà nói, thấy anh chồng gãi đầu gãi tai lúng túng, tôi vội kéo tay anh ra khỏi nhà cho gấp kẻo đụng lỡ hai đứa con nhỏ khóc lên thì sợ mẹ chồng đổi ý, không cho đi.

Anh bảo tôi đứng tại cửa để anh đi lấy xe, khi xe đến trước cửa, tôi vội chạy ra, không may té một cái đau quá trời đất nhưng cũng gượng đứng dậy bước tới xe được. Anh chồng lo bật máy sưởi trong xe không thấy tôi bị té. Khi vào trong xe rồi nó lạnh run lập cập, chồng tôi phải cởi áo ấm của anh ấy choàng cho tôi, lại tới phiên anh ấy run lập cập.

Xe ra đến phố rồi anh bảo tôi ngồi trong xe để anh vào trong Sear mua áo lạnh cho tôi. Khoảng mười lăm phút sau, thấy anh đi ra với cái áo ấm, tôi chê bai đủ điều nhưng anh bảo thì mặc cho đỡ đi rồi mai mốt đi mua áo đẹp hơn.

Anh chạy xe một vòng quanh phố. Tôi hỏi sao anh đi đâu mà không đưa em đi phố? Anh bảo đây là phố. Ôi, Trời đất ơi, phố xá chi lạ vậy? Sao không thấy người đi, sao không thấy phố mở cửa, sao vắng hoe vậy, sao nghèo nàn quá vậy? Anh có đùa với em không? Anh nhìn tôi với vẻ thất vọng. Cuối cùng tôi làm mặt giận, tôi nói thôi đưa em đi chợ.

Lại nữa, tôi cảm thấy hụt hẫng vô cùng khi bước chân vào siêu thị. Toàn là đồ hộp, cá thì không thấy, chỉ thấy toàn là thịt bò, thịt heo, thịt gà, gói gói lại hết, và cũng rất ít, không phải như siêu thị bây giờ, rau rợ thì cũng chỉ vài bó loe hoe, thấy buồn hiu buồn hắt! Thế thì hình ảnh mà tôi thường xem trong phim ở đâu? Hay tôi đang lạc vào quê hương xứ sở nghèo nàn của nước nào? Đang thất vọng não nề, chân cẳng thì lạnh tê buốt vì đi đôi guốc vụng về mà người ta ai đi ngang qua cũng nhìn mình một cách quái gở.

Trong lúcđang tức bực thất vọng thì một bà lão mỉm cười và hỏi:

– Cô từ đâu đến?

– Thưa bà tôi đến từ Việt Nam.

Bà ấy nhìn tôi rồi mỉm cười hỏi lại:

– Việt Nam ở đâu?

Ôi, đúng lúc cho tôi xả bỏ cơn tức bực tức vô lối ấy. Bà không biết Việt Nam ư? Tôi huơ tay múa may nói thật to, với số vốn tiếng Anh ít ỏi, lại phát âm theo giọng Quảng Trị cho mọi người đang vây quanh nghe: Việt Nam mà bà không biết, Việt Nam của tôi lớn lắm bà biết không, ai mà không biết Việt Nam, sao bà không biết vậy hả? Thế là chồng tôi cuống lên, kéo tay tôi đi thật nhanh, ra ngoài cửa rồi anh ấy nhấc bổng tôi lên, liệng vào xe và cho nổ máy xe chạy thật nhanh về nhà, không nói lời nào hết.

Còn tôi thì tức tối quá nên khóc bù loa, và đòi anh hãy đưa tôi về lại Việt Nam, ngay bây giờ, tôi không muốn ở đây nữa. Anh tấp xe vào đoạn đường vắng và dỗ dành. Tôi vẫn trách móc anh đủ thứ, cuối cùng thì anh nói rằng, thôi được em không muốn ở đây thì 4 tháng sau khi anh mãn hạn công tác tại Việt Nam rồi, chúng ta đi xứ khác. Ở Mỹ có nhiều nơi cũng đẹp lắm. Thôi em nín đi đừng khóc nữa kẻo về nhà Ba Mẹ thấy thế ba mẹ buồn. Nghe thế tôi cũng yên tâm, lau nước mắt bước vào nhà.

Mẹ chồng hỏi sao, con có thích không? Tôi bỏ chạy lên gác nằm khóc. Anh phải lo cho hai đứa nhỏ, và nói gì với Mẹ tôi cũng không biết, nhưng khi tôi đói bụng xuống nhà lục đồ ăn thì thấy mẹ chồng mặt mày buồn hiu. Tôi ân hận lắm, nên lại ôm bà, và bà cũng ôm tôi thật chặt. Bà nói chi nhiều lắm tôi không hiểu hết được.

Ngày hôm sau chồng tôi đưa cho xem quả địa cầu và chỉ cho tôi thấy vị trí của Việt Nam trên đó. Anh chỉ tay, nói đây là nước Mỹ, đây là nước Tàu, đây là nước Nga… và đây là Việt Nam của em nè. Tôi lại nổi cơn điên lên, cái tự ái lại cao hơn bình thường và thầm nghĩ, anh xỉ nhục tôi, nên tôi liệng quả địa cầu cái rầm trong phòng khách. May cho tôi khi ấy chỉ có hai đứa em và mẹ chồng ở nhà thôi. Bà mẹ chồng tưởng đâu tôi sẩy tay, chứ không biết đứa con dâu của bà hung dữ như quỷ sứ.

Sau đó, có những lúc cả nhà đi vắng tôi lấy quả địa cầu ra xem lại. So với nước Mỹ thì VN ta chỉ tương đương với tiểu bang Texas. So với nhiều nước thì… mà thôi, tôi mỉm cười và tự bào chữa cho mình: Ừ, thì quê hương tôi nhỏ bé như thế đấy, nhưng ở đó có tới bốn ngàn năm văn hiến chứ bộ. Bây giờ đôi khi nghĩ lại ngày ấy, tôi thấy mình hồ đồ mà tự thẹn với mình.

Tuy ở Mỹ tại Tiểu bang Pennsylvania nhưng nhà chồng tôi chỉ là một gia đình gốc Tiệp Khắc di dân rất nghèo, lại sống tại vùng quê, nhà này cách nhà kia rất xa. Trong nhà chỉ có một buồng tắm, một toilet thôi, nên 8 người mà một buồng tắm thì rất bất tiện. Ngoài vườn cũng có một cái nhà vệ sinh như bên Việt Nam mình vậy, mùa hè thì đàn ông đi ngoài đó nhiều hơn. Áo quần giặt xong những ngày có nắng cũng phơi bên ngoài như ở quê nhà, nhìn ra bên ngoài thì chỉ thấy bò và bò, ôi chao là buồn!

Thế rồi một tháng trôi qua, chồng tôi phải trở lại Việt Nam, bởi với công tra làm việc đã ký, anh ấy còn bốn tháng nữa mới hết hạn. Tôi và hai con ở lại với nhà chồng. Trước ngày rời nướcMỹ, anh nói với mẹ chồng tôi là nhờ mẹ thường ngày đừng để vợ con đi lấy thư, kẻo có chuyện nguy hiểm.

Số là bên kia đường của nhà chồng tôi là một gia đình hàng xóm có người con trai tử trận tại Việt Nam. Chồng tôi người hàng xóm biết tôi đến từ Việt Nam, ông ta có thể giết tôi để trả thù cho con họ. Vì thế, hàng ngày cha chồng tôi thường ra lấy thư.

Sau nhiều ngày lo sợ khi nhìn sang nhà hàng xóm, tôi nghĩ rằng mình phải đối diện với sự thật một lần. Tôi bỏ công lôi cuốn tự điển Anh Việt – Việt Anh của Lê Bá Kông mà tôi mang theo khi về Mỹ, ghép lại thành từng câu và học thuộc lòng. Sau đó, tôi lấy hết can đảm tự mình sang nhà hàng xóm, xin gặp bà chủ nhà. Tôi tỏ bày với họ như vầy:

“Thưa bà, tôi xin chia sẻ niềm đau mất mát với bà. Xin bà đừng ghét tôi, vì tôi cũng có cha và em trai đang đánh giặc ngoài chiến trường. Cha và em trai của tôi cũng có thể chết sống trong tích tắc bất cứ lúc nào. Mẹ tôi và biết bao bà mẹ Việt Nam khác nữa cũng chỉ là nạn nhân trong cuộc chiến nầy như bà. Quê hương tôi cũng khổ đau lắm, riêng tôi rất yêu thương và quý trọng người Mỹ, đã nhân danh tự do, giúp đất nước tôi chận đứng làn sóng đỏ từ phương Bắc đổ xuống. Nếu không vì cộng sản Nga Tàu thì quê hương tôi không có chiến tranh, nhân dân tôi sống yên bình và người Mỹ đến đó chỉ là khách du lich…

Tôi chưa kịp nói hết những gì mình đã học và muốn bày tỏ nỗi lòng, thì hai ông bà đều sang ôm tôi vào lòng khóc nức nở, tôi cũng khóc với nỗi đau của họ và nỗi đau của chính mình !

Vậy mà, không hiểu sao, ngày hôm sau nhiều người đến gõ cửa nhà mẹ chồng tôi để gặp thăm tôi, họ là những người của xóm Mount Jackson này đến để đón chào người con dâu Việt Nam đến với xóm làng họ. Thế là từ đấy tôi không còn lo sợ và lẻ loi nữa, khi thì người này đến chở đi ăn kem, khi thì người khác mang chút quà lại cho hai con nhỏ của tôi. Mỗi khi có ai đưa đi đâu thì nhiều người xúm lại hỏi han thân thiện. Với khu xóm vậy là tôi yên ổn, nhưng với chính mình và gia đình nhà chông thì còn nhiều sóng gió.

Khi còn ở Việt Nam, công ty của anh ấy cho biết rằng ai có vợ Việt hãy đưa gia đình rời khỏi trước Tết âm lịch, đó là tin “mật”. Sau đó là trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa xảy ra ngay trên quê hương tôi. Sau này, khi đã tới nước Mỹ, tôi mới hiểu vì sao… Thì ra chính phủ Mỹ đã sắp đặt bỏ rơi miền Nam Việt Nam. Ôi còn đau đớn nào bằng. Quê hương tôi giờ đây là Đại Lộ Kinh Hoàng, là Mùa Hè Đỏ Lửa… Khi hiểu ra điều này, tôi oán trách nước Mỹ. Tôi ghét luôn cả người chồng của tôi, cả gia đình dòng họ, xóm làng của họ luôn.

Cũng cùng thời gian này, cha chồng tôi thấy tôi, lúc nào cũng như gây chiến tranh với ông. Ông đã không thích tôi từ đầu, bây giờ lại càng khó chịu hơn. Tôi cũng không vừa gì với ông, hai bên cứ căng thẳng như thế. Hàng ngày cha chồng tôi phải ra thùng thư lấy thư.

Một hôm, ông cầm thư vào không chịu đưa cho tôi, mà còn la lối um sùm, nào là thằng con bất hiếu, nó xem vợ lớn hơn cha mẹ nó, gửi thư cho vợ hàng ngày mà không gửi cho cha mẹ. Tôi thì cũng hỗn với Ông. Tôi nói thẳng rằng, ông độc tài quá, ông đã bỏ xứ Tiệp Khắc cộng sản sang đây rồi mà ông cũng không bỏ được máu cộng sản trong ông, là ích kỷ và độc tài.

Thì mày cũng thế, mày là con cháu Hồ Chí Minh tàn tệ đấy thôi, ông đáp lại. Thế là trận chiến bùng nổ dữ dội, tới mức có lúc tôi đã phải gọi người bạn bên Dayton, Ohio sang chở tôi về bên đó cho đến ngày chồng tôi về lại Mỹ. Câu chuyện nầy dài dòng không thể kể hết. Nhưng cũng may là tôi có được bà mẹ chồng tuyệt vời, bà luôn coi tôi như là đứa bé không hơn không kém nên hết lòng che chở.

Chuyện “chiến tranh” giữa cha chồng và tôi sau cùng được thu xếp tốt đẹp. Tôi là người đứng ra xin lỗi ông, bởi lúc nầy tiếng Mỹ của tôi cũng tạm được đề giải bày uẩn ức của mình với ông, và cũng cám ơn ông bà đã sinh ra người con trai mà hôm nay là người chồng tốt của tôi, người cha mẫu mực của hai đứa con của tôi. Sau khi biết nói lời xin lỗi, tôi đã được ông tha thứ. Dần dà, tôi còn được ông đặc biệt thương yêu còn hơn hai nàng dâu bản xứ của ông.

Cũng từ đấy, tôi bắt đầu vào đời với công việc làm ăn bận rộn vất vả để tự nuôi sống cho chính gia đình nhỏ bé của mình, nuôi hai con một gái một trai, ăn học, rồi lo cho chúng vào đại học, vào y khoa. Cả hai đều học hành đến nơi đến chốn và tốt nghiệp bác sĩ.

Ngoài việc lo làm ăn nuôi con, tôi còn lo giúp đỡ gia đình bên quê nhà, nào là lo nào là lo cho mẹ tôi bịnh bán thân bất toại, rồi lo cho các em đi vượt biên, bao nhiêu lần không được, lại lo cho cuộc sống trong thời gian chờ đợi bảo lãnh đoàn tụ…

Rồi một ngày, các em và gia đình của chúng cũng được sang Mỹ đoàn tụ, tất cả 15 người giờ thì hơn 30 rồi. Kế tiếp là những đứa cháu ngoại như thiên thần xuất hiện. Thế là tôi chẳng còn thời gian để dời đi xứ đẹp, xứ ấm, phố phường đồ sộ nữa, mà lạ thay hạnh phúc từ đó vững mạnh và vươn cao.

Quảng Trị vẫn in dấu trong tôi, tôi vẫn nhớ thương nơi chôn nhau cắt rún… Nhưng tại quê hương mới, gia đình chúng tôi đã như cây cổ thụ, gốc rễ đã mọc ra chằng chịt bám vào mảnh đất này. Mẹ chồng tôi năm nay 91 tuổi vẩn khỏe và rất minh mẫn, vẫn thương yêu tôi như ngày nào. Người chồng quê mùa chất phác, mà khi qua chiến đấu tại chiến trường Việt Nam khi chỉ mới học xong high school năm xưa bị tôi hờn trách, hôm nay vẫn còn bên cạnh cuộc đời như chuyện tình “đôi dép”. Con gái mở phòng mạch tại đây. Thằng con trai hơn 40 tuổi không lấy vợ vì bận rộn với công việc và không thích ràng buộc.

Gần 10 năm nay vùng quê Mỹ nghèo của tôi nay đã có được Walmart và Highway 376. Trong nhà đã có microwave để hâm nóng thức ăn, mà hồi đó, 43 năm trước không có.

Kể từ 1972 khi đứa con gái từ quê nhà Quảng Trị một mình phiêu bạt qua đất Mỹ, lòng ngổn ngang trăm mối. Thời ấy, số người Á Đông tại nước Mỹ còn rất nhỏ, đâu được như ngày nay, riêng cộng đồng người Việt đã có tới hơn một triệu bảy trăm ngàn người.

Viết đến đây tâm hồn tôi cảm thấy tràn ngập tình thương và biết ơn với nguời chồng khác chủng tộc, cũng như với người Mỹ, nước Mỹ quê hương thứ hai của mình. Xin đa tạ anh, nguời bạn đời yêu quý, và xin tạ lỗi với nước Mỹ ngày ấy bị tôi trách móc, hận thù.

Trương Thị Thu Huyền

Người Con Lai và Chiếc Vỏ Ốc

Người Con Lai và Chiếc Vỏ Ốc

Tác giả tên thật Võ Ngọc Thanh, một dược sĩ thuộc lớp tuổi 30, cư dân Westminster, Orange County, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2010 với bài viết về Lễ Tạ Ơn mang tựa đề “Chỉ với một nụ cười…” Sau đây là bài viết mới của Hoàng Thanh, với lời đề tặng nhân vật có thật của câu chuyện “Thân tặng chị Amy – người con gái da đen có tấm lòng vàng.”

Bước vào tiệm food to go, tôi thoáng thấy một phụ nữ da đen – mà tôi nghĩ ngay là người Mỹ đen hay Phi châu, đứng trước quầy thức ăn dường như đang lựa chọn. Như thường lệ, tôi đứng đợi tới phiên mình. Bỗng dưng nghe cô ta nói rất rõ ràng bằng tiếng Việt “Bán cho tui một phần cơm chiên nhỏ”, làm tôi ngạc nhiên quay lại nhìn, vì không ngờ cô ta nói tiếng Việt rành thế. Da cô này rất đen, đúng điệu là dân lai Mỹ đen chính hiệu. Khi tôi ra bàn ngồi ăn, cô gái bước đến rụt rè chỉ vào chiếc ghế bên cạnh tôi và hỏi “Tui ngồi đây được không?” Tôi gật đầu.

Trời Cali vào đông lành lạnh, ngồi gắp từng đũa mì Nam vang nóng mà nghe ấm cả lòng. Đang múc muỗng nước lèo thì chị da đen lên tiếng “Trời lạnh quá, ăn cái này ngon lắm mà không chắc bụng”. Tôi quay sang nhìn thì bắt gặp cô đen vừa đưa tay chỉ chỉ vào tô mì tôi đang ăn, vừa nói với ánh mắt có vẻ thèm thuồng. Chị đen nói với cái giọng chân chất rất nhà quê “Cơm chiên nó hổng ngon bằng nhưng nó chắc cái bụng, tui mới khiêng đồ nặng nổi”. Thấy ái ngại, tôi nói ngay “Chị ăn không, tôi kêu tặng chị một tô”. Chị đen lắc đầu “Giờ ăn hổng kịp đâu, trễ xe bus là cả tiếng nữa mới có chuyến sau”. Tôi hỏi “Chị làm gì mà phải khiêng nặng?”. Chị đáp “Tui lau chùi cầu tiêu, lau sàn nhà, chùi rửa hết tất cả phòng, sắp xếp đồ đạc lại ngay ngắn, khiêng bàn ghế, nhiều bàn ghế nặng lắm, cái gì tui cũng làm hết đó, để mười giờ người ta vô thì mọi thứ phải sạch sẽ đâu vô đó”. Rồi chị tiếp “Tui ở xa, nên 7 giờ phải dậy rồi, đi xe bus tới đây thì phải đổi xe bus khác mới tới. Nhưng đói quá nên tui phải xuống mua đồ ăn cho no bụng cái đã rồi mới lấy bus đi tiếp đến chỗ làm”. Tôi cứ nghĩ chắc chị đen này đi làm thêm overtime ngày cuối tuần, nên tôi nói “Chị làm thêm cuối tuần vậy, họ trả chị khá không?” Chị nói ngay “Tôi đâu có lãnh lương, làm cho nhà thờ mà, cái này là tui tự nguyện làm, tui làm là cho Chúa, mà tui làm nhiều năm nay rồi…”.

Vừa thấy tội nghiệp cho chị đen, tôi vừa thầm khâm phục chị đã có can đảm mà đứng chờ hai chuyến bus từ 7 giờ sáng, ngày chủ nhật – là lúc mà ai nấy đều đang ngon giấc với khí trời rất lạnh ở bên ngoài. Chị không những đã làm được điều phi thường đó, không có lương, một cách vui vẻ, mà lại từ nhiều năm qua…

Bỗng dưng tôi muốn làm quen “Chị tên gì? Mà tại sao chị lại tự nguyện làm công việc này từ bao lâu nay, nhà thờ không có người nào phụ chị sao?”. Thấy có người quan tâm, chị đen có vẻ xúc động, nỗi xúc động mà tôi linh cảm như của một con người thường bị hất hủi bỏ rơi. Chị nói nhỏ lại “Tui tên Amy, là tên Mỹ đó, còn tên Việt nam, tui không thích nó…”. Chị có tên Việt nam? “Ừa, mà tui ghét nó lắm…”. Tôi ngạc nhiên “Tại sao chị lại ghét tên mình?” Chị đen im lặng, và rồi chị kể, bằng cái giọng quê mùa một mạc ….

… ” Khi Má sinh ra tui thì mọi người ai cũng đã ghét tui rồi. Chỉ vì tui ra đời dưới ngôi sao xấu, bởi vì cái màu da đen đúa không sao che dấu được của tui. Tui đâu có quyền được chọn màu da gì để sinh ra, cả Má tui cũng không chọn được cho tui. Nhà tui nghèo lắm, ở ven bờ một con sông. Gia đình tui gồm có sáu người: Má và năm chị em, chị Hai, chị Ba, chị Tư , tui, rồi đến em trai Út. Mấy chị và em trai là da vàng, chỉ có tui là đen thui thôi. Nhà tui nghèo mạt rệp, cả căn nhà dột nát không có cả cái bàn hay cái giường, cái ghế. Một mình Má đi mò ốc cả ngày để bán lấy tiền mua đồ ăn cho sáu miệng ăn. Mới ba, bốn tuổi là tụi con nít đã ghét tui. Tui tên Tí, họ Mai là họ của Má, vì Ba bỏ Má từ khi Má mới có bầu tui. Tụi con nít cả đám cứ đi theo sau tui hát nhạo là “Cút về Mỹ đi con Tí đen”. Có đứa còn lấy que tre vít cứt chim, cứt gà rồi kêu cả bọn xúm lại đè tôi xuống, trét vô miệng tui, tới khi nào tui lạy, tui khóc thì tụi nó mới tha. Năm sáu tuổi, Má cho tui với mấy chị đi học trường làng, nhưng tụi học trò khinh ghét tui lắm. Có lần tụi nó hè hội đồng tống một đống cứt gà vô miệng, tui không chống cự được nên nuốt vô cổ họng, nghe thúi ình và chua loét. Tui oẹ ra, tụi nó bóc nhét vô lại. Tui vùng vẫy, la hét. Thấy tui khóc dữ quá, mấy chị và em trai xúm lại binh, thì tụi nó đánh mấy chị, vừa đánh tụi nó vừa chửi ” Đồ Mỹ đen không cha cút về nước đen mà sống “. Lần đó tui chạy về khóc với Má sưng cả mắt. Má cứ im lặng và rồi bà cho tui nghỉ học luôn. Nhiều lúc tui thèm được đi học, thèm được chơi chung, bất cứ trò chơi nào với chúng bạn, vậy mà đứa nào cũng chê là tui đen, tui dơ, tui thúi… hổng ai thèm chơi.

Tui tủi thân lắm nên hỏi Má. Má bảo là “Ba bỏ Má từ lúc tui chưa sinh ra nữa”. Tôi ức lắm, hỏi lại “Thế Ba tên gì? Sao Má không đi tìm?”. Má im lặng, rồi Má khóc. Tui thương Má quá, và tui ghét Ba lắm. Tui thề sẽ có một ngày tui tìm gặp Ba và hỏi Ba cho ra lẽ…”. Im lặng. Chị đen tiếp “Tại Ba mà giờ này tui vẫn chưa biết đọc, biết viết. Người ta nói là tui mù chữ. Mắt tui sáng mà, tui thấy đường, nhìn tờ báo thì tui chỉ thấy hình, chớ không biết đọc”…

Rồi từ đó tui thui thủi chơi một mình. Nhà nghèo quá làm gì có tiền mua đồ chơi, nên tui cứ quanh quẩn bên bờ biển mà lượm mấy cái vỏ ốc, hốt cát bỏ vô đó, rồi đổ đi, rồi lại hốt vào. Hễ có lượm được cái vỏ ốc nào đẹp đẹp, tui để dành vô cái thùng giấy, lâu ngày có nhiều, tui đem ra ngắm một mình , thích lắm. Tui nhớ lần nọ tui đem ra khoe con bạn, nó lại kêu mấy đứa khác tới coi. Tui khoái lắm, trong bụng chắc mẫm thế nào bọn nó cũng khen cho coi. Ai dè, tự dưng thằng Tọc giựt mạnh một cái làm rách thùng giấy, rồi nó quăng tung tóe hết cả chục cái vỏ ốc của tui ra biển. Tui hoảng hốt giơ hai tay chụp lại nhưng không kịp, thế là mất hết đống vỏ ốc ” gia tài ” mà tui gom góp gần cả năm trời. Tui đứng đó khóc ròng, cúi xuống nhìn thì chỉ còn sót lại trên cát một cái vỏ ốc to bằng nửa bàn tay, một bên màu đen còn nửa bên kia màu trắng. Tui lật đật lượm lên, dấu vào túi áo. Đám trẻ xúm quanh la to “Cút về Mỹ mà lượm vỏ ốc. Ở đây không có thứ gì cho mầy đâu, đồ da đen”. Tui tủi thân quá chạy về nhà khóc với Má. Lần đó Má cũng khóc. Hôm đó Má nói “Làm cái vỏ ốc mà còn sướng hơn Má con mình, bởi nó không biết buồn, không biết khóc, nó tự do khi thì nằm trên cát, lúc lại nhập vào biển cả bao la. Còn Má con mình, suốt đời chỉ sống nhục mãi ở đây thôi”. Tui quý cái vỏ ốc trắng đen này lắm, cứ lâu lâu đem ra nhìn. Phần nửa màu đen, sao mà đen thủi đen thui giống da của tui, còn bên kia màu trắng lại óng ánh như có pha lê. Nhớ có lần Má tui dạy “Con người ta giống cái vỏ ốc này vậy, có đen có trắng, có tốt có xấu. Da con dù có đen như bên này, nhưng con phải sống tốt, sao cho cuộc đời mình có ý nghĩa mà óng ánh như nửa bên kia”…

Một hôm bỗng dưng Má nói “Tí đen ơi, đúng là Trời thương Má con mình, mình sắp hết khổ rồi…”. Thì ra là chính phủ nước của Ba tui (chính phủ Mỹ) cho nhà tui đi theo diện con đen (con lai). Má và tui mừng hơn bắt được vàng. Lúc vô phỏng vấn, tui run quá nên cứ khóc, mà tay chân thì lạnh ngắt. Tui cứ sợ ông Bill – tên ông hỏi chuyện Má tui, mà thấy tui đen, tui xấu, tui hôi, tui dơ… ổng không cho đi thì tui phải ở đây suốt đời tui khổ lắm. Má tui cũng khóc, năn nỉ cô thông dịch xin ông Bill cho đi Mỹ. Lúc đó tui nghe ai cũng nói ở Mỹ sướng lắm, con nít được đi học, dù mình đen cũng không ai đánh mình, không ai nhét cứt vô miệng mình… Khi đó chị Hai và chị Ba có chồng rồi, còn chị Tư và em trai thì chưa. Má định nếu được đi Mỹ rồi thì Má sẽ nhờ người làm đơn xin chính phủ cho chị Tư và em tui đi sau. Đêm trước hôm phỏng vấn, Má lo quá không ngủ được, mấy mẹ con cứ ngồi ôm nhau khóc cả đêm. Với gia đình tui, thì nước Mỹ là thiên đàng, chỉ tới Mỹ thì chúng tui mới hết khổ. Khi ông Bill biết rằng chị Tư và em trai còn độc thân, ông nói “Chiến tranh đã làm cho Bà và các con cực khổ, nên nay vì nhân đạo, chúng tôi cho Bà, cô con gái lai và cả hai người con độc thân cùng đi để qua Mỹ đùm bọc nhau mà sống”. Cả nhà tui khóc, vì mừng quá, đến nỗi quên cả nói lời cám ơn ông Bill…

Đặt chân đến “thiên đàng” Virginia, bốn Má con tui không biết một chữ tiếng Anh, nói không được câu nào, mà đọc cũng rặn không ra, còn viết thì một chữ bẻ đôi cũng không biết. Một người quen cùng làng ngày xưa nhận ra Má nên giúp tìm dùm cho chúng tôi thuê một căn appartment nhỏ xíu một phòng ngủ để cả nhà ở chung.

Cả nhà tui đi làm đủ thứ nghề nặng nhọc đễ đắp đỗi qua ngày. Tui còn nhớ lần thi vô quốc tịch, tui lo quá chừng, cứ học thuộc lòng những câu hỏi như con vẹt, vì tui có đọc và hiểu được chữ nào đâu. Có một chị người Việt đọc cho tui nghe các câu hỏi rồi biểu tui học cho thuộc, hễ người ta hỏi câu nào thì trả lời y như đã thuộc. Vậy mà may mắn ghê, tui đậu. Khi họ hỏi tui muốn có tên Mỹ không, hay vẫn muốn giữ cái tên Việt nam là Tí Mai, thì tui khóc. Không biết nói tiếng, tui nhờ cô thông dịch nói dùm với ổng là “Tui ghét lắm cái tên Tí đen, vì nó đen như màu da tui, đen như tuổi thơ nghèo hèn của tui”. Ông Mỹ trắng hỏi tui muốn tên gì. Lúc đó tui chỉ nhớ đến đứa cháu họ xa, đi lính cho quân đội Mỹ. Có một lần về thăm Má con tui ở Virginia, nó nói lý do nó đi lính là vì nó muốn đền ơn chính phủ. Tui nhớ mang máng nó có nói quân đội Mỹ gọi là… “AMI”… gì đó thì phải. Thiệt tình khi đó tui không biết chữ “AMI” viết làm sao nữa, nên tui nói đại với cô thông dịch là “Tui muốn cám ơn chính phủ Mỹ, cám ơn ông Bill đã thương mà cho Má con tui đi, nên tui muốn có tên Mỹ là AMI, có nghĩa là quân đội”. Tui còn nhớ khi nghe tui nói vậy thì cô này cười, dễ thương lắm, và cô viết tên tôi lên tờ giấy đưa cho ông Mỹ. Thế là passport của tui có cái tên Amy Mai từ đó. Mãi sau này tui mới biết là cô đã quên chữ e rờ (R), vì quân đội viết là “army”, nhưng sao có người lại nói với tui là cô ta cố tình quên…?

Sau đó vài năm thì phát hiện ra là Má tui bị có nước trong phổi. Bác sĩ sau khi hỏi cặn kẽ thì giải thích rằng “Do Má ngâm nước lạnh hằng mấy chục năm liền khi đi mò ốc, nên giờ phổi Má yếu lắm”. Mấy chị em sợ quá, đứa nào cũng đi làm quần quật mà không sao đủ tiền mua thuốc cho Má. May mà Trời thương, nên lại có người hàng xóm ngày xưa biết chuyện, bảo chị em tui qua Cali ở đi thì khí hậu ấm sẽ tốt hơn cho sức khỏe của Má. Nhưng tiền đâu mà mua vé máy bay? Cô Anh bảo “Khi xưa lúc chồng cô mới chết, cô một mình với con nhỏ, sức khỏe yếu nên không sao ngâm nước nổi, nhờ Má cho cô bữa bịch ốc, khi mấy con tôm mà sống qua ngày, nên cô muốn đền ơn Má bằng cách mua bốn vé máy bay cho chúng tôi qua Cali, cô cũng đã thuê sẵn một appartment nhỏ (cô Anh đã trả trước một tháng tiền nhà) cho Má con tui.

Thế là cả nhà kéo nhau qua Cali. Cả tháng trời không ai xin được việc làm. Khi chỉ còn vài ngày là hết tháng, tụi tui lo lắm vì tiền đâu để trả cho tháng tới? Gọi phone cho cô Anh thì cô và gia đình đi đâu rồi nên không sao liên lạc được. Một buổi tối trước ngày Giáng sinh, mấy Má con đứng đón bus về nhà. Trời lại lạnh , bụng ai cũng đói, nên không còn sức để mà đi, cứ đứng mà run. Chúng tôi thấy nhiều người đi vào một nhà thờ nhỏ. Vì lạnh quá, nên chúng tôi cũng đi vô đại định tìm một chỗ trú cho ấm chút rồi sẽ về. Đó là buổi tối đánh dấu một bước ngoặc lớn trong cuộc đời chúng tui. Trên kia, mục sư Bảo đang giảng về tình yêu của Chúa. Ông nói “Chúa luôn dang rộng vòng tay yêu thương cho mọi người”. Có lẽ lúc ấy, vì quá buồn, mỏi mệt và tủi thân, nên bốn Má con đứng khóc ròng. Một người đàn bà bước lại hỏi thăm ( sau này tui mới được biết làvợ mục sư Bảo). Má con tui thật lòng kể hết. Vợ chồng mục sư cùng một vài cô chú ở nhà thờ thấy tội nghiệp nên chở dùm mấy Má con về nhà, rồi hôm sau người ta đem đồ đến cho, bàn ghế, quần áo, tiền bạc, thức ăn. Rồi đích thân vợ chồng mục sư giúp điền đơn dùm Má con tui để xin tiền bệnh, tiền trợ cấp. Cũng chính nhờ sự động viên, nâng đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần mà má con tui mới sống nổi qua ngày…

Và từ đó chúng tui đi nhà thờ mỗi chủ nhật. Cám ơn Chúa. Cầu nguyện cho Má mau hết bệnh. Cầu nguyện cho mấy chị em có công ăn việc làm. Các cô chú trong nhà thờ đối xử rất tốt với tui, không ai nhìn màu da tui mà khinh khi hết. Tui vui lắm khi mọi người cứ kêu “Amy, đến phụ cô làm cái này đi!”, “Amy, ăn chút gì cho có sức rồi hẵng làm chứ cháu ..”. Và tui biết là ở nơi nào có Chúa, thì tui có tình thương…

Mang ơn vợ chồng mục sư Bảo và các cô chú trong nhà thờ, nên mấy chị em tui tình nguyện làm bất cứ việc gì nhà thờ cần. Tiền thì không có, nên chúng tui đóng góp bằng công sức và thời gian. Tui không bao giờ buồn vì công việc mình làm hết. Mà cầu tiêu ở Mỹ sạch sẽ lắm kìa, không có dơ, không có thúi như mấy đống cứt gà mà hồi nhỏ tui phải nuốt đâu. Tui vui lắm, dù công việc có cực nhọc cách mấy, vì tui biết mình làm là đền đáp công ơn Chúa…

Và rồi một ngày Chúa gọi Má tôi về với Ngài. Bà chết khi trong túi mấy chị em cộng lại hết vẫn chưa được một đồng. Lúc còn sống, Má cứ ước có tiền về Việt nam thăm chị Hai, chị Ba và các cháu. Vậy mà mơ ước chưa thành, Má đã ra đi. Tui còn nhớ lúc biết mình sẽ không qua khỏi, Má nói với các chị em tui “Ngày xưa Má cứ ước ao cả nhà mình qua đến được thiên đàng, nhưng nếu như Má có mất thì mấy con ráng lo cho Má về Việt nam mà chôn cất, dù gì nằm bên bờ sông ngày xưa với mấy con ốc, Má vẫn thấy ấm lòng hơn…”. Cả nhà ai cũng đều biết ước nguyện cuối cùng của Má là được chôn nơi miền quê cha đất tổ, mà đào đâu ra tiền để chở xác Má về Việt nam? Tụi tui chỉ biết khóc, vì không mua nổi một quan tài cho Má. Vợ chồng mục sư Bảo biết rõ ước nguyện của Má, nên tối nào mục sư cũng lên đài kêu gọi mọi người giúp một tay. Đêm nào mấy chị em cũng ngồi trên đài với mục sư Bảo và tụi tui cứ khóc, thương Má, mang ơn vợ chồng mục sư và tất cả những người hảo tâm. Nhiều người mang tiền đến tận nhà giúp. Cuối cùng quyên góp được 16 ngàn đồng – cả một gia tài mà mấy chị em tui không bao giờ dám mơ tới. Phải, 16 ngàn đồng – con số này suốt đời tui không thể nào quên. Đó là công ơn của hằng trăm người, mà nhiều nhất là vợ chồng mục sư Bảo và bác sĩ Nguyễn Hùng. Anh Tuấn ở nhà quàn biết hoàn cảnh nhà tui, nên anh bớt cho hai ngàn tiền chi phí chuyên chở xác Má về Việt nam. Em trai tui được mua vé đi cùng về Việt nam với Má. Rồi số tiền còn lại thì mục sư đưa cho em tui về mua đất và lo chôn cất Má. Thế là cuối cùng Má cũng được về yên nghĩ vĩnh viễn bên vùng ven biển ngày nào với những con ốc nhỏ ngày xưa. Tạ ơn Chúa. Tạ ơn những tấm lòng…

Hôm đưa em trai ra phi trường, tui đưa nó gói giấy trong đó có cái vỏ ốc trắng đen. Tui dặn nó nhớ thảy xuống huyệt khi chôn Má. Nó không chịu, hỏi lại là ” Chị quý nó lắm mà ? “. Tui gật đầu. Nhưng tui biết Má thích biển, và đặc biệt là cái vỏ ốc này, Má cũng quý nó như tui. Lời Má dạy con ghi nhớ, con không tiền, không có gì tặng Má. Thôi con gửi Má cái vỏ ốc này, Má mang theo mà về với Chúa. Mong Má nói với Ngài rằng ” Con Tí đen vẫn luôn cố gắng sống tốt, sao cho cuộc đời đẹp và có ý nghĩa nhưng nửa trắng óng ánh bên kia của vỏ ốc…

Chị Amy ngừng kể. Tôi im lặng, vì tôi biết có nói gì cũng sẽ là rất thừa thãi vào giây phút này. Bất chợt chị nói ” Tui không biết tên Ba, phải chi tui được gặp lại ông Bill năm nào phỏng vấn, có thể tui nhờ ổng tìm ra Ba tui… “

– Chị mong gặp lại Ba chị à? Chị không giận Ba sao ?

– Ngày xưa tui ghét Ba lắm. Nhưng Chúa dạy rằng “Mình phải biết tha thứ và yêu thương. Tui chỉ mong gặp Ba, để nhìn ông và kêu một tiếng “BA” một lần trong đời”. Ngừng một chút, chị tiếp “Và tui sẽ nói rằng “Ba đã làm Má khổ và con buồn. Vậy thôi…”

Gió ngoài trời lành lạnh, báo hiệu một mùa Giáng sinh nữa lại sắp đến. Tôi hỏi “Năm nay Giáng sinh, chị sẽ làm gì?”. Chị Amy buồn buồn đáp “Tui đến nhà thờ dọn nhà cầu, khiêng bàn ghế, lau chùi các phòng, dự Thánh lễ rồi về nhà… nhớ Má. Má mới mất năm ngoái thôi, nên tui nhớ bả lắm, nhớ cả cái vỏ ốc trắng đen ngày xưa…”. Chị lại tiếp “Năm nào tui cũng đâu có tiền mà mua gì dâng tặng nhà thờ, hay tặng vợ chồng mục sư – người mà gia đình tui mang ơn cả đời, nên tui chỉ biết cầu nguyện cho mọi người. Nhiều lúc tui buồn lắm, vì không năm nào có tiền mua món quà gì dâng Chúa…”

– Những gì chị làm, chắc chắn là Ngài sẽ biết mà. Tôi tin chắc là thời gian, công sức và tấm lòng của chị, sẽ là một trong những món quà mà Ngài ưng ý nhất…

Chị Amy chỉ cười, không nói. Tự dưng chị hỏi “Khi nào cuộc đời tui đăng lên báo, chị cho tui xin ba tờ được không?”

– Được chứ. Tôi đáp ngay.

– Tui sẽ mang biếu vợ chồng mục sư Bảo một tờ, bác sĩ Nguyễn Hùng một tờ, còn một tờ tui sẽ nhờ ai đó đọc cho tui nghe, tại tui không biết chữ, rồi thì tui sẽ giữ nó mãi suốt đời. Phải chi Má còn sống, nghe đọc tờ báo này, chắc Má tui vui lắm…”.

Chị Amy nhờ tôi gửi bài viết này kính tặng vợ chồng Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, bác sĩ Nguyễn Hùng cùng tất cả những tấm lòng nơi Thánh đường Sàigòn. Chị nói “Đây là món quà – từ trái tim, chị dâng tặng mọi người nhân mùa lễ Giáng Sinh “.

Trước khi chia tay, tôi hứa sẽ mang tặng chị Amy ba tờ báo, và sẽ đọc cho chị nghe. Chị nói “Cám ơn người đẹp”. Tôi ngượng ngùng “Chị đừng gọi tôi là người đẹp, kỳ lắm”. Amy đáp “Đẹp chứ, bởi vì chị trắng hơn tui..”…

Tôi quay đi. Chạnh cả lòng. Nhìn xuống làn da mình, tôi tự hỏi “Cuộc đời này có được bao người thật sự “trắng da” hơn chị?”

Hoàng Thanh

NỬA CUỐN SÁCH CUỘI

Rất hay, nên đọc và suy nghĩ

Ông Tràm Cà Mau viết truyện này hay đến đọc xong nhập tâm tin rằng cội nguồn cộng sản là do “Nửa cuốn sách cuội”.

NỬA CUỐN SÁCH CUỘI

Tâm là một thanh niên mới lớn.  Trong đầu anh ngùn ngụt lý tưởng cao đẹp. Anh thèm khát lý tưởng, mà không biết lý tưởng ở nơi đâu, lý tưởng là cái gì.  Bấy giờ là đầu thập niên 60 tại miền Nam Việt Nam, đời sống tương đối thanh bình, không hoàn toàn no ấm, nhưng cũng không đói khát.  Có tự do dân chủ phần nào, nhân dân không bị o ép ức chế qúa đáng.  Nhưng điều nầy ít người thấy được, nếu không biết so sánh với các chế độ độc tài tại các miền khác.

Vì lý tưởng nên cầu toàn. Tâm thấy chung quanh anh không có điều gì hoàn hảo cả.  Cái nào cũng có thiếu sót, sai trái, chưa vẹn toàn như anh mong mỏi. Bởi vậy, anh thấy bất mãn với chế độ, không bằng lòng với xã hội đang sống, muốn có sự thay đổi hoàn toàn, một cuộc cách mạng triệt để, may ra có được một xã hội lý tưởng mong muốn.

Khi đứng núi nầy, trông qua núi bên kia, thấy màu sắc long lanh tuyệt đẹp, tưởng núi bên kia rực rỡ thần tiên.  Y như Tâm đứng ở miền nam vĩ tuyến 17, ngóng về phía bắc, nghe bên kia vĩ tuyến đang xây dựng một xã hội tuyệt đối công bằng, không có người bóc lột người, không có chênh lệch giàu nghèo, mọi công dân đều được hưởng ấm no hạnh phúc.  Chỉ chừng đó thôi, cũng đã đủ hấp dẫn cái đầu óc cầu toàn lý tưởng của anh con trai mới lớn.  Bên dưới xã hội đó, còn được chiếu sáng bởi cái hào quang kháng chiến giành độc lập, đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước.  Tâm hoàn toàn không biết những sự thực của con người sống trong cái xã hội đó.  Anh cũng có đọc báo, có nghe thiên hạ nói về những điều vô cùng xấu xa đã và đang xảy ra  trong xã hội tại miền Bắc. Nhưng Tâm không tin, cho đó là những tuyên truyền ấu trỉ rẻ tiền, nói những điều quá đáng mà trẻ con  cũng không tin được. Hơn mười lăm năm sau, Tâm giật mình thấy sự thực còn tệ hơn nhiều lần những điều Tâm đã nghe được vào thời trước, mà tưởng là tuyên truyền lếu láo.

Tâm mơ ước được đi vào dòng cách mạng, đem tâm huyết, đem tuổi trẻ hiến dâng cho cái lý tưởng cao đẹp, phục vụ công bằng, bác ái, xây dựng đất nước cho được rạng rỡ hơn.

Tâm được một anh lớn tuổi hơn móc nối, đưa tài liệu kín cho Tâm đọc, đưa sách viết về triết lý cộng sản để Tâm nghiền ngẫm.  Càng đọc, càng thấm thía và Tâm muốn dấn thân ngay, càng sớm càng tốt.

Tâm đem lòng mình thổ lộ với An, một người bạn rất thân, để rủ rê An tham gia cùng hoạt động bí mật.  An khuyên Tâm nên để thì giờ học hành cho thành tài trước, và sau đó suy nghĩ chín chắn hơn, rồi chọn lựa và hành động.

An không thuyết phục được bạn, và biết rằng, khi tuổi trẻ say mê lý tưởng, thì còn hơn là say mê tình yêu. Yêu là mù quáng, không mù quáng thì không yêu. Kẻ say mê lý tưởng, còn mù quáng nhiều hơn. Thương bạn, An muốn Tâm đi thỉnh ý một bậc trưởng thượng, một người đã từng đi khắp năm châu bốn biển, đã lớn lên và sinh sống tại Nga Sô trước thời cách mạng 1917, và cả sau thời cách mạng, cho đến hết đệ nhị thế chiến.

 Đó là cụ Long, năm nay đã 95 tuổi, phiêu bạt sang Nga từ năm 1880, khi Việt Nam chưa bị Pháp hoàn toàn đô hộ.  Khi đó, cả hồ chí minh cũng chưa sinh.   Tâm cần gặp ông cụ Long, để biết nhiều hơn về cái lý thuyết và thực và tế của cái nôi cộng sản, xứ Nga Sô.

An hăng hái hướng dẫn Tâm đi.  Từ miền Trung lấy xe lửa về Nam, chuyển xe đò xuống miệt Long Xuyên, rồi chèo ghe nhỏ qua sông lạch, vào đến quận lỵ xa xôi vắng vẻ, đi bộ thêm vài cây số đường đất đến nhà ông cụ Long.

Tâm được dẫn vào bái kiến cụ Long, một ông già gầy gò,  ngồi co ro nửa thức nữa ngủ.  Râu cụ lưa thưa, tóc có nhiều cọng còn đen, hai hàm răng gần như nguyên vẹn, đóng bợn nâu vàng. Nhìn thấy dáng dấp bên ngoài của cụ, không có vẻ gì là tiên phong đạo cốt như Tâm đã vẽ vời trong trí, Tâm cũng hơi thất vọng trong lòng. Tự nhiên, niềm trân trọng trong lòng cũng hao hớt rất nhiều.  Cái náo nức đi tìm lời khuyên dạy vàng ngọc cũng nguội bớt đi.

Cụ kêu trẻ pha trà đãi khách, và mời ăn trái cây mới hái trong vườn. Tâm ngần ngại, định không bày tỏ cái tâm tình riêng tư của một kẻ tha thiết đi tìm chân lý cho cụ nghe. E rằng, chẳng đến đâu mà còn có thể bị hiểu lầm và di lụy về sau.

Nhưng Tâm cũng tò mò, muốn biết vài sự thực và chi tiết về những bước chân lãng tử giang hồ của cụ Long.  Trong một buổi mạn đàm uống trà, ăn bánh ngọt. Tâm do dự thưa:

“Cháu nghe nói cụ đã từng mòn gót chân lãng du khắp năm châu bốn biển.  Đã từng gặp gỡ và là bằng hữu của những nhân vật làm nên lịch sử hiện đại. Xin cụ vui lòng cho cháu biết cơ duyên nào đưa đẩy bước chân của cụ đi xa quê hương vạn dặm, đi ra xứ người trong một thời gian dài như vậy không?”

Cụ già hất tay lắc đầu nói:

“Thôi, thôi, đừng nhắc những chuyện xa xôi đó nữa, không ích lợi gì, thêm bận lòng già.  Nay ta cũng đã gần trăm tuổi, thời gian còn thấy bóng mặt trời không lâu nữa. Ta muốn vùi chôn quá khứ.  Nhiều lúc ta cũng mãi ân hận không nguôi, có lẽ ta cũng đã góp phần không ít, làm đau khổ di lụy đến hàng trăm triệu sinh linh trên thế giới nầy”.”

Tâm nghĩ ông già đã lẫn, nói chuyện mê sảng trong mơ.  Con người tầm thường như ông, làm sao mà di lụy đến hàng trăm sinh linh được.  Tâm nói:

“Thưa cụ, làm sao mà cụ lại lưu lạc trôi dạt qua tận nước Nga xa xôi lạnh lẽo đó. Khi ra khỏi nước, cụ đã bao nhiêu tuổi. Ở bên Nga, cụ đã làm gì?,

Im lặng một lát như không muốn thổ lộ tâm sự.  Nhưng rồi cụ cũng bắt đầu  tâm sự.

Cụ Long nhìn Tâm với ánh mắt thương xót mà nói:

“Tôi nghe cháu An nói anh đang đi tìm lý tưởng, và muốn chết cho lý tưởng anh đang tôn thờ.  Đáng ra tôi không nói, nhưng phảỉ nói để anh biết, và sáng suốt hơn, khỏi đi lạc đường, nguy hiểm lắm.

Tôi ra khỏi nước do một sự tình cờ.  Nguyên ông cụ thân sinh tôi làm quan võ dưới triều vua Tự Đức, bị hàm oan phải bỏ xứ ra đi. Khi đó tôi vừa 15 tuổi, nhưng đã làu thông kinh sử, đang chuẩn bị về kinh đô tham dự kỳ thi hội. Sợ bị bắt tội, ông cụ tôi hốt cả kho đụn công khố, lấy tiền vàng trả cho chủ tàu Hòa Lan, đem vợ con đi ra khỏi xứ, chưa biết đi đến đâu.  

Trên tàu, nhờ có võ nghệ, ông cụ tôi đã khóa tay, và giựt được con dao của một người say rượu, cứu mạng và bảo vệ  cho một thương gia người Nga khỏi bị thương tích.  

Ông nầy có cơ sở kinh doanh tại thành phố Saint Petersburg.  Vị thương gia người Nga nầy đề nghị cho cụ tôi hợp tác kinh doanh, trông nom một cửa hàng bách hoá tại thành phố nầy.

  Nhờ có đem theo nhiều vàng ngọc, của cải nên chẳng bao lâu, ông cụ tôi đã làm chủ riêng được  một cơ sở kinh doanh tại Kazan.  Cụ làm ăn rất mau phát đạt nhờ cần cù, chăm chỉ, lương thiện, nên có được uy tín.  

Sau đó, bắt chước đám Do Thái, mở thêm tiệm cho vay, cầm đồ.  Dân nghèo địa phương kháo nhau về nơi cho vay không cắt cổ quá đáng, không bóc lột như các nơi khác. 

Chính nơi đây, nhiều nhà cách mạng Nga khi còn hàn vi đói rách, đã là thân chủ trung thành của tiệm cầm đồ, hoặc vay non tiền lương để vợ con bớt nheo nhóc, dài cổ trông chờ bánh mì hẩm nguội. Cũng tại đây, mà tôi quen ông Vladimir Ulianov, tức ông Lê Nin. 

 Một hôm ông  đến cầm đồ, và nhận ra tôi là bạn chung trường tại đại học Kazan, học trên ông hai lớp ở phân khoa Luật học.  Dạo đó vào khoảng năm 1887, khi đó tôi đã 22 tuổi, và ở nước Nga đã được bảy năm. 

 Khi đã nhận ra bạn chung trường, tôi thường cho ông nầy mượn chút tiền lẻ, mà ít khi thấy ông trả lại sòng phẳng.  Nhưng tôi không cần đòi nợ, vì tiền do cha mẹ làm ra, không phải là mồ hôi nước mắt của riêng mình nên không tiếc. 

 Bẵng đi một thời gian chừng hơn một năm, tôi mới gặp lại ông  Vladimir nầy, trông bộ gầy gò xơ xác.  Ông cho biết đã bị đuổi học, và bị phát lưu đến Kokushino.  Ông hỏi mượn tiền, và đưa một cuốn sách cũ nát làm của thế chấp. 

 Được biết cuốn sách nầy là vật gia bảo truyền đời từ hơn nhiều ngàn năm. Không biết ông nầy có thấy tôi là người sang nên bắt quàng làm họ hay không.  Ông nói rằng, tổ tiên bốn đời trước của ông cũng là người An-Nam, họ phò tá một vị vua mất ngôi chạy sang Tàu.  Mưu sự không thành,  rồi trôi dạt lên miền Ngoại Mông, Tây Bá Lợi Á, cuối cùng qua Nga lập nghiệp, lấy vợ bản xứ, sinh sản con cái. Ông Vladimir cho biết tên An Nam của ông là Lê Nin.  

Tổ tiên nguyên họ khác, nhưng vì có công giúp vua Lê Lợi khởi nghĩa, nên được đặc ân đổi thành họ Lê. Tôi nghĩ là ông nầy túng bấn, muốn mượn tiền, nên bày đặt câu chuyện làm quà mua vui. Nhưng có điều khó hiểu, là làm sao ông nầy biết được một phần của lịch sử nước Nam mình mà nói như thật. Khi mở lớp da bao bên ngoài cuốn sách thì tôi giật mình vì thấy mấy dòng chữ Nôm ghi: 

‘Đừng mở và đọc tập sách nầy, vì có thể gây đại họa cho bách tính’

Bên trên cuốn sách, cũng có một câu phiên dịch bằng tiếng Nga, với ý nghĩa tương tự.  Sau nầy truy cứu, tôi mới biết đây là nửa cuốn sách còn lại của ông Cuội trong truyện cổ tích, khi bà vợ Cuội đem sách nói dối ra đốt.  Ông Cuội về kịp dập tắt, còn lại nửa cuốn.

Tôi bằng lòng cho ông Vladimir mượn tiền, nhưng không giữ cuốn sách lại.  Thấy tôi đọc được phần chữ Nôm bên ngoài, ông Vladimir hớn hở muốn biết nội dung của cuốn sách gia bảo truyền đời.

 Tôi cũng tò mò, giở ra xem, thì thấy sách nguyên thủy viết bằng loại chữ loăng quăng như giun bò, nhưng bên cạnh có chua bằng chữ Nôm, chữ li ti rất nhỏ. Có nơi nét  đã nhòe, nếu không vững về Hán tự, thì khó mà đọc được. 

Tôi phiên dịch cho ông nghe vài đọan, ông thích thú la hoảng lên như bắt được vàng. Thế là từ đó, ông cứ quấy rầy tôi mãi, đến nhờ tôi phiên dịch từng trang, và cẩn thận trân trọng ghi chú vào cuốn sách riêng của ông. 

Tôi cũng khá bực mình, vì nội dung cuốn sách toàn những mánh khóe nói dối, lừa gạt, gian xảo. Thế mà ông Lê Nin mê say như tìm được chân lý chói lòa. 

Bây giờ tôi cứ gọi ông Lê cho tiện, không Vladimir, Vladi-miếc gì nữa.  Tôi cũng tức cười vì cái câu ghi ngoài cuốn sách, mánh khóe nói dối bịp thiên hạ, thì làm sao mà gây đại họa cho bách tính được?

Ông Lê nầy khá thông minh và láu lỉnh, là một người đầy tham vọng, mưu mô. Vì bị đuổi học, ông mượn tôi mớ sách vở, tài liệu cũ của trường Luật mà tự học, và nhờ tôi cho đề thi cũ, nhiều đề đã làm sẵn như bài tủ, mà thi đậu như thí sinh tự do.

Khi tôi chuyển về Saint Petersburg làm việc cho một văn phòng luật sư, thì ông Lê xin đi theo. Tôi cho ông làm phụ tá pháp lý. Chuyên thu thập tài liệu, tin tức lặt vặt, như đánh ghen, tranh chấp hàng rào, đất đai, của cải nho nhỏ, mà ngày nay báo chí thường gọi là tin xe cán chó.

Lúc nầy, tôi có một người bạn gái đeo riết mà gỡ không ra, đó là nàng Na-Đê. Cô ta hiền lành, dễ thương và rất lý tưởng. Dù tôi đã có vợ và hai con, nhưng cũng không gỡ ra được mối oan tình nầy. May mắn cho tôi, ông Lê thầm yêu cô nầy mê mệt. Chúng tôi thường cùng uống cà phê bên vỉa hè và kháo chuyện trời đất.  Tôi tìm cách gán cô Na Đê qua cho ông Lê, và hai người dính nhau. Tôi thường mời cả hai đi ăn chung, và giúp đỡ tiền bạc, tài chánh cho họ.

Khoảng cuối năm 1895 ông Lê lại bị bắt, và sau đó bị đưa đi đày tận miền đông bắc buốt giá của nước Nga.  Sau ba năm đi đày về, ông Lê viết được nhiều cuốn sách, đem cho tôi xem thử. Đọc xong, tôi ngẩn ngơ, vì nội dung sách ông viết, bàng bạc ý tưởng trong nửa cuốn sách Cuội mà tôi đã dịch cho ông ghi lại.  Tôi bảo ông nên  đem đốt hết đi, đừng nên phổ biến những tư tưởng dóc lác nầy, làm hư cái chân thiện của loài người.  Ông không giận tôi, mà còn cười, cái cười đểu lắm.  Bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in cái nụ cười đểu giả đó.

Tôi vẫn ngấm ngầm giúp đỡ tài chánh cho hai vợ chồng ông. Dù sao, bà Lê cũng là bạn cũ thân thiết của tôi. Sau nầy, ông viết thêm được nhiều tập sách khác nữa. Nội dung cũng không ra ngoài nửa cuốn sách Cuội mà ông có. 

 Nghĩa là bịp, bịp bợm. Ông bẻ cong một triết lý tào lao, không tưởng, ác độc khác, và nhuần nhuyễn kết hợp với tư tưởng ông Cuội để làm căn bản cho những sách của ông viết, và những điều ông nói.

Tôi làm ăn càng ngày càng khấm khá. Ông Lê cứ bị truy lùng, và phiêu dạt nay đây, mai đó, khi ra ngoại quốc, khi lẻn về nước Nga. Tôi thường an ủi bà Na-Đê, vợ ông, vì số  phận hẩm hiu.

Thế giới chiến tranh lần thứ nhất bùng nổ, tình hình nước Nga dạo nầy rối ren khủng khiếp. Thực phẩm khan hiếm, đã lạnh mà còn đói nữa, thì khổ lắm. Lòng dân như một cái nồi nước sôi bí hơi căng cứng, chờ dịp bùng nổ. 

Ông Lê biết vậy, và nói với tôi rằng, cứ la toáng lên, hứa hẹn đại rằng, sẽ có công ăn việc làm, có cơm ăn, áo mặc, công bằng.  Có đủ thứ, thì thợ thuyền, dân nghèo ùn ùn chạy theo. Thanh niên mới lớn, lòng đầy lý tưởng bác ái, nhân đạo, nghe được những điều đó, thì mê tơi củ kiệu.

 Có chết cho lý tưởng, cũng hãnh diện, cam lòng. Nhiều người cho tôi biết rằng, nước Đức đã chi tiền, đưa ông Lê về để quấy động làm suy yếu nước Nga. Ông Lê cũng biết vậy, nhưng cơ hội đến, thì cứ nắm bắt và lợi dụng.

Thỉnh thoảng ông Lê cũng có mời tôi tham gia các buổi họp kín trong nội bộ của đảng ông.  Ông muốn quyến dụ tôi.  Tôi đi họp vì tò mò, chứ tôi vốn không ưa chuyện chính trị. Có lẽ vì tôi chịu chi tiền, mua bánh trái, trà nước cho các buổi họp thêm phần hấp dẫn, và có lẽ nhờ có ăn uống chút chút, mà thu hút được đông đảo người đi họp hơn. Sau buổi họp, tôi thường đi uống cà phê với họ. 

Do đó, mà tôi quen biết nhiều với các tay gộc trong nhóm cầm quyền nước Nga sau nầy. Các tay gộc nầy, sau khi nắm được chính quyền, xâu xé tranh giành nhau dữ dội. Đa số bị giết chết vì nội bộ thanh toán, một số nhỏ chạy thoát ra ngọai quốc ẩn mình, thế mà cũng bị truy lùng tận diệt.

Sau khi hoàng gia Nga bị xử bắn, và ông Lê nắm được chính quyền và lên làm lãnh tụ, ông cho thanh toán và khủng bố dữ dội. Nước Nga bao trùm trong sợ hãi.  Tịch thu tài sản của người giàu. Nhà cửa bị sung công cho dân nghèo chia nhau trú ngụ.

 Bọn đồ điếu tha hồ tung hoành, tác oai tác quái.  Trí thức bị trù dập, bắt bớ, tù đày.  Nạn đói còn khủng khiếp hơn trước thời chiến tranh. Sau đó, lương thực được phân phối theo khẩu phần, thành ra ai cũng đói cả.

Trong lúc cả nước đều khốn khó, vì đói khát, khủng bố, lo lắng, bắt bớ, tù đày, thì gia đình tôi vẫn sung túc, nguyên vẹn, nhà cửa không bị tịch thu, trưng dụng, của cải không hề bị đụng chạm mảy may. Bởi tôi đã có quen biết, ân nghĩa nhiều với các Ủy Viên trong toàn Bộ Chính Trị đang cầm quyền.  Có mấy ông đảng ủy địa phương không biết cái thế của tôi, đòi tịch thu nhà cửa, của cải, tài sản. Mấy ông nầy đều bị bắt, và đưa đi đày ở miền Tây Bá Lợi Á cả.  Tôi không biết họ bị đi đày, tưởng đâu họ chỉ bị chuyển công tác qua vùng khác mà thôi.

Khi nước Nga chìm đắm trong sợ hãi, ngột ngạt, khủng bố trắng, khủng bố đen Một hôm tôi tìm gặp ông Lê, hai người nằm chung giường, gác chân lên nhau mà tâm sự chuyện đời đến khuya. 

Tôi nói cho ông biết tình hình thực sự trong xã hội, vì e rằng, ông ở chức vụ cao, nghe báo cáo sai lạc, không đi sát thực tế.  

Thì ra ông biết rõ hết.  Tôi hỏi ông, tại sao không đoàn kết toàn xã hội mà xây dựng đất nước.  Bày chi việc phân chia và đấu tranh giai cấp, lấy thợ thuyền làm chủ và lãnh đạo. 

Ông cười và bảo rằng tôi mới biết một, mà không biết hai. Vì thợ thuyền đa số đều ngu dốt, cho một chút quyền hành, thoả mãn cái thèm khát thấp hèn trong lòng họ, thì bảo gì, cũng nghe theo, nói gì cũng tin tưởng.  Hăng hái làm theo mệnh lệnh.  Có thế mới củng cố được địa vị của ông và đảng ông. 

Tôi hỏi ông về chính sách khủng bố, thanh toán, có nên chấm dứt sớm, để cho nhân dân bớt sợ hãi, bớt lo lắng mà yên lòng làm ăn không? 

Ông cười lớn, vỗ vai tôi, nói rằng, thế thì tôi chưa hiểu được cái ý nghĩa của mấy chữ “bạo lực cách mạng” do ông bày ra.  Phải khủng bố, và khủng bố nhiều hơn nữa, càng nhiều càng tốt, khủng bố cho đến khi dân chúng sợ hãi cực độ, hoàn toàn mềm nhũn ra, không còn một sức đối kháng nào, thì đảng ông, nhà nước ông và địa vị của ông thêm bền vững, chắc chắn. 

Tôi hỏi thêm, liệu các chính sách kinh tế, xã hội của ông có cơ may nào đem no ấm hạnh phúc cho dân chúng như ông đã từng hứa hẹn, lặp đi lặp lại thường ngày hay không?

 Ông nói rằng, hứa hẹn thì cứ hứa hẹn, dân chúng có ấm no hạnh phúc hay không thì mặc họ.  Dân càng đói, càng dễ trị.  Cứ nắm chặt cái bao tử dân, cho ăn lưng lửng bụng, thì mọi người đều khuất phục, vì họ sợ mất cái phần ăn ít ỏi kia đi, khổ lắm. 

Mình cứ hứa hẹn tương lai cho họ nghe sướng lỗ tai là đủ.  Chứ cho dân ăn no, thì cũng dễ sinh ra loạn lạc.  Tôi nghe mà buồn và thở dài. Ông nói rằng, lòng dạ tôi còn yếu đuối như đàn bà.  

Tôi hỏi thêm tại sao nhiều người bị thanh toán, bị đi đày oan ức tội nghiệp. 

Ông bảo, muốn được yên ổn, thì hy sinh chừng bấy nhiêu người, cũng chẳng đáng là bao. 

Tôi đem điều lo lắng nhất trong lòng ra tâm sự cùng ông, là nhiều năm qua, nhân tâm suy đồi lắm.  Con người cứ lấy dối trá ra mà cư xử nhau, nhà nước cũng nói toàn điều không thật.   Đó là điều nguy hại cho nhiều thế hệ mai sau. 

Ông Lê dậy bật đèn lên, lấy cuốn sổ tay cũ kỹ trên kệ, phất phất trước mặt tôi, và hỏi có nhớ cuốn nầy không?  Ông cười toe toét thỏa mãn lắm.  Tôi nhận ra đó là cuốn sách ghi lời dịch của tôi từ nửa cuốn sách Cuội.  Ông Lê nói lớn thêm rằng, ông sẽ thống trị thế giới nhờ cuốn sổ tay nầy.

Mấy năm sau, ông Lê  bị tai biến mạch máu não, nữa người tê liệt, nằm trên ghế dựa, thế mà vẫn hung hăng.  Bà vợ tận tâm, không quản ngại mệt nhọc, chăm sóc ngày đêm.  Ông vẫn đưa mệnh lệnh, vẫn thanh toán người này, cất nhắc người kia qua trung gian của ông Stalin.  Đáng ra trong tình trạng bệnh hoạn đó, con người phải biết cái lẽ sai đúng của trời đất mà tỉnh ngộ, thôi làm điều ác.  Tôi có đến thăm ông Lê mấy lần, ông nói ngọng, khó khăn, thế mà vẫn còn nhắc đến chuyện ngày xưa cùng đi đến chỗ yêu hoa, mắt ông rực sáng lên khoái trá.

Người ta xầm xì rằng, một hôm bà vợ ông Lê có công chuyện đi vắng.  Ông Stalin vào trình báo công việc, thấy ông Lê đang há hốc miệng nằm ngáy, cuốn sổ tay rơi nằm trên sàn nhà.  Ông Stalin mở ra xem, càng xem ông càng hớn hở.  Rồi động tâm cơ, ông Stalin dấu cuốn sổ vào túi áo vét, và lấy chiếc gối đè ghịt lên mặt ông Lê.  

Ông Lê vùng vẫy yếu ớt, dẫy dẫy chân tay, vãi phân, vãi tiểu ra cả quần mà băng hà. Đồng chí gái phục vụ thấy được, nhưng không dám nói ra vì sợ mất mạng.  

Dạo đó vào mùa xuân năm 1924, ông Lê được 54 tuổi, và tôi xấp xỉ tuổi sáu mươi. 

Ông Stalin chớp được bản dịch sơ luợc nữa cuốn sách Cuội từ ông Lê, và đem ra áp dụng triệt để.  Quyền hành càng vững chắc hơn bao giờ cả.  Ông phát huy tối đa lý thuyết Cuội, và đem truyền bá đi khắp năm châu bốn biển.  Nhiều tỉ người mê sảng trong dối gian, láo khoét mà rất nhiều khi chính ngay bản thân họ, cũng không biết là họ đang nói dối hay nói thật.

Bạn bè cũ của tôi trong Bộ Chính Trị, thuộc giới cầm quyền, bị thanh toán, bị hành quyết dần dần, ông nào trước khi chết cũng có bản tự khai, thú tội là phản cách mạng, là tay sai tư bản đế quốc.

 Dù tôi cũng có quen biết, có chút ân tình với ông Stalin, vì đã che dấu, cho ông trú ngụ, cơm ăn, áo mặc vào thời kỳ ông vừa vượt ngục trốn trại tù khổ sai từ Siberia về. 

Và cả về sau, khi ông còn vất vưởng không nhà, thỉnh thoảng cũng dúi cho một ít tiền còm mua bánh mì ăn qua bữa. Nhưng tôi cũng ngán và sợ tiếp xúc với ông.  Ông nầy như con thú ác hiểm. 

Ngay cả những vị trong Chính Trị Bộ được ông mời ăn cơm thân mật, buổi tối khi ra về, cũng hồi hộp không biết sẽ được về đâu, ra nghĩa địa hay đi đày Siberia, hay được thực sự về nhà với vợ con.  Chỉ khi đóng cửa nhà, mới hú hồn mừng rỡ.  Đó, tôi không ngại sao được. Tôi nghĩ, càng thu mình lại, càng lu mờ càng tốt.  Thời gian nầy, tôi rất muốn di cư ra khỏi nước Nga, mà sợ, không dám xin đi.

Một lần tình cờ gặp ông Stalin, tôi hỏi bao giờ thì nước Mỹ trở thành cộng sản.  

Ông lắc đầu nói rằng, không bao giờ cả, vì Mỹ mà thành cộng sản thì ai bán lúa mì cho chúng ta ăn.  Khi đó thì Mỹ cũng đói dài dài. 

Có lần gặp một uỷ viên trong bộ chính trị, tôi dò ý, muốn nhờ ông nầy vận động cho tôi được đi ra khỏi nước Nga.  Tôi thăm dò và hỏi ông tại sao có nhiều người muốn đi ra khỏi xứ nầy, và làm sao mà họ xin đi được, ai là cấp thẩm quyền chấp thuận cho họ được ra đi.  Ông trả lời rằng, những người không muốn sống trong xã hội chủ nghĩa nữa, thì cần gởi họ đi lao động ở miền Siberia cho họ biết giá trị của đời sống hiện nay. 

Ông nói rằng, trong xứ xã hội chủ nghĩa có bảy điều siêu việt, mà các xứ tư bản không thể có được. 

Thứ nhất, tất cả mọi công dân đều có công ăn việc làm. 

Thứ hai là có công ăn việc làm, nhưng ai cũng không cần làm  việc chi cả. 

 Thứ ba, dù không ai làm việc cả, nhưng tất cả mọi kế hoạch đều đạt được chỉ tiêu mỹ mãn. 

Thứ tư, dù mọi chỉ tiêu đều đạt, nhưng hàng hóa tiêu dùng vẫn thiếu hụt. 

Thứ năm, dù hàng hóa thiếu hụt nhưng mọi người vẫn có đủ mọi thứ. 

Thứ sáu, dù đã có đủ mọi thứ, mà tất cả mọi người đều cứ thuổng thêm của công.  

Thứ bảy, dù mọi ngưòi đều thuổng của công, nhưng không có  báo cáo bị mất gì cả. 

Ông ấy tiếp lời rằng, nếu không là xã hội chủ nghĩa, thì làm sao có được những điều ưu việt như thế (*).  Nghe được vậy, tôi cũng lặng người mà thôi.

Tôi cũng có gặp gỡ một số người Việt Nam đi qua Nga Sô để huấn luyện nghề cộng sản.  Tôi gọi là nghề, vì theo cộng sản là một cách kiếm ăn mà khỏi lao động cực nhọc. 

Những người nầy, họ có nghe đến tôi, và tìm gặp.  Họ lả những người như ông Phú, ông Thành, cô Khai, tôi đều có mời ăn vài ba lần, và lâu lâu cũng có giúp đỡ một ít tiền bạc, hoặc một cái vé xe lửa đi đường xa. 

Tôi cũng có khuyên họ rằng, sau nầy nếu có thành công trong việc tranh đoạt chính quyền, cũng nên lấy nhân ái làm gốc, đừng khủng bố, áp bức kềm kẹp nhân dân trong gọng kềm chuyên chính, đừng làm suy đồi xã hội bởi lý thuyết dối trá ông Cuội. 

Than ôi, lời khuyên của tôi cũng chẳng khác chi nước xối đầu vịt. Nhưng tôi phải nói, phải dặn dò, dù biết trước mười mươi rằng, sau nầy họ không nghe, không làm theo.

Tôi cũng có gặp và quen biết nhiều, cả ông Lưu Thiếu Kỳ, chủ tịch nhà nước Trung Hoa khi qua Nga học nghe cộng sản.  Tôi cũng có nhắn nhủ ông nầy nhiều lần về đạo làm người, lòng nhân ái.  Bên ngoài, thì ông nầy lễ phép, dễ thương, nhưng làm sao mà đọc được lòng người.

Sau khi thế giới đại chiến lần thứ hai chấm dứt, nhiều quốc gia Âu Châu trở thành cộng sản, và sống trong tai họa tầy đình của sự hà khắc, áp bức ngu xuẩn đó. 

Và về sau, ở bên Trung Hoa, ông Mao, ông Lưu, vớ được vài trang bản sao sách Cuội học được từ đàn anh Liên Xô, mà nắm được chính quyền trong tay.  Cả gần một nửa nhân loại trên hành tinh nầy chịu áp bức, đày đọa, hăm dọa ngày đêm, từ tinh thần đến vật chất. 

Tôi cảm thấy có phần trách nhiệm, tội lỗi đã gây ra khi dịch nửa cuốn sách Cuội cho ông Lê ghi chép lại. Bởi thế cho nên tôi sợ chết, vì chết sẽ bị về địa ngục hành hình. Tôi ráng sống, cố kéo dài ngày đi đền tội ác đã gây ra.  Tội của tôi, tuy gián tiếp, nhưng cũng có thể nặng hơn tội các ông lãnh tụ trực tiếp vấy máu trên tay. 

Nhiều năm tôi ân hận, mất ngủ, và thương xót nhiều trăm triệu người đang bị chủ thuyết Cuội xéo dày”.

Cụ Long nghỉ một lát, chiêu thêm hớp trà, rồi từ tốn nói tiếp: 

“Này anh bạn.  Khi tuổi còn trẻ, thì có một lý tưởng là tốt.  Không có lý tưởng thì như con thuyền không lái, lênh đênh, bơ vơ không biết về bến bờ nào.   Cứ mơ mộng đi, mộng to, mộng nhỏ, mộng nào cũng tốt cả.  Có lý tưởng, để đem mộng vào thực, và đem thực vào mộng. Nhưng đa số những người nuôi mộng, phải cố gắng, đấu tranh cực lực với ngoại cảnh, với bản thân, và sau khi mộng đã thành, thì họ cảm thấy hụt hẫng, như không có gì cả, như phí phạm cả một đời để được cái ‘không’, Mà phải hy sinh không biết bao nhiêu là sức lực, xương máu, và thời gian sống của đời người.  

Bởi vậy, có nhiều kẻ xem những người trẻ có lý tưởng là một lũ ngu ngơ, dại khờ.  Và vì ngu ngơ, khờ dại nên rất dễ bị lợi dụng, bị cho ăn phân gà mà cứ vênh mặt lên hãnh diện.  Đã có rất nhiều người trẻ chết cho lý tưởng, chết vì lý tưởng, và sung sướng đem mạng mình ra để làm một viên gạch xây dựng lý tưởng. Họ cũng không ngờ, cái viên gạch là sinh mạng họ, đem ra để xây nhà tù, giam hãm, nhốt những kẻ hiền lương vào trong đó. Hoặc cái lý tưởng đó, quay lại gây nên khổ đau cho nhân quần xã hội. Kẻ lớn tuổi mà còn hăng say lý tưởng, thì có thể xem như gàn, cứng đầu, khó thỏa hiệp”.

Nghe cụ Long kể chuyện, Tâm chán nản trong lòng, nghĩ rằng, có lẽ ông già đã hoá khùng, lẩm cẩm, kể chuyện hoang đường, không tưởng.

Mấy năm sau, chiến tranh lan tràn khắp đất nước, bom đạn, chết chóc. Tâm được giao phó trách nhiệm làm công tác trí vận tại thành phố Sài gòn.  Tâm hăng say hoạt động trong bí mật, mơ một ngày tươi sáng, toàn dân được sống trong công bằng, no ấm và hạnh phúc.

Năm 1975, chiến tranh chấm dứt.  Tâm được đi thăm trái tim tổ quốc Hà Nội.  Được thực sự thấy và sống trong thiên đàng xã hội chủ nghĩa mà bao năm nay anh hằng mơ ước.

Tâm đã tìm về mộ cụ Long, thắp hương và nước mắt dầm dề ân hận. Mấy năm sau, Tâm đã cùng bạn là An lén lút dong thuyền ra khơi

Trước khi nhắm mắt vì đói và khát trên biển, Tâm đã thì thầm cùng An: “TÔI TƯỞNG NỮA CUỐN SÁCH CUỘI LÀ CHUYỆN HOANG ĐƯỜNG, KHÔNG NGỜ CÓ THẬT” ./.

TramCaMau

(*)  theo truyện tiếu lâm Ba Lan

ĐÊM KỊCH TẤT NIÊN

ĐÊM KỊCH TẤT NIÊN

Đoàn Dự

HỒI NHỎ, học xong tiểu học tôi thi vào lớp Đệ Thất (lớp 6 bây giờ) trường Nguyễn Trãi Sài Gòn. Hai năm sau, bắt đầu lên Đệ Ngũ thì tôi đi học tư thêm lớp Đệ Tứ ở trường Cộng Hòa đường Pasteur và mua sách về nhà tự học để đi thi Trung học. Đậu xong trung học, tôi thi vào lớp Đệ Tam (lớp 10) trường Hồ Ngọc Cẩn đặng quay trở lại trường công nhưng nhanh hơn được một năm.

Đang học Đệ Tam trường Hồ Ngọc Cẩn vừa được đúng một tuần lễ thì tôi thấy người ta phát quảng cáo là trường Trung học tư thục Tân Phương của ông Phan Ngô cho thi học bổng vào lớp Đệ Nhị (lớp 11). Người hạng nhất và người hạng nhì sẽ được miễn học phí, người đậu hạng ba chỉ phải đóng một nửa còn các học sinh khác nghèo thì sẽ được nhà trường cứu xét.

Đây là một hình thức quảng cáo nhưng tôi cũng nộp đơn, xách bút đi thi thử xem sức mình ra sao, nếu may ra đậu hạng cao, được miễn hay giảm học phí là tôi sẽ bỏ Hồ Ngọc Cẩn, nhảy thẳng lên lớp Đệ Nhị, đi thi Tú tài phần I, nhanh thêm được một năm nữa.

Đúng là chó ngáp phải ruồi, may sao tôi đậu hạng nhì còn một người tên Trần Thị Phi Vân thì đậu hạng nhất, vậy là được miễn học phí. Tôi bỏ Hồ Ngọc Cẩn, học trường Tân Phương.

o0o

Hồi ấy các trường trung học công lập như Petrus Ký, Trần Lục, Võ Trường Toản, Nguyễn Trãi, Chu Văn An…là trường nam sinh, gồm toàn con trai, còn con gái thì thi vào trường Trưng Vương hoặc Gia Long tức nữ trung học.

Tiểu học tôi học trường con trai, thi vào Nguyễn Trãi cũng trường con trai, bây giờ ra trường tư, học chung với con gái tôi thấy hay hay, lạ lạ nhưng cũng thú vị.

Từ nhỏ đi học tôi thường ngồi đầu bàn thứ ba ở phía giữa lớp ngay chỗ lối đi. Ngồi bàn thứ ba là vừa vặn nhất, không xa đến nỗi không nghe rõ lời thầy giảng mà cũng không gần đến nỗi bị bụi phấn bay vào mặt. Còn ngồi đầu bàn ở phía giữa lớp thì tiện, ra vô không phải leo qua lưng các bạn, và thầy cũng hay đi tới đi lui, có gì không hiểu mình dễ hỏi thầy.

Vào trường Tân Phương tôi cũng “tranh thủ” ngồi đúng như thế. Cách tôi lối đi, ở phía bên kia là các dãy bàn con gái, mỗi bàn ngồi sáu người. Người ngồi ngoài cùng, cũng đầu dẫy bàn thứ ba ngang với tôi trông rất xinh, đôi mắt đen lay láy và nụ cười thật tươi. Tôi bí mật coi trộm trong bản đồ lớp thì thấy “nàng” tên Ngọc Điệp – Nguyễn Thị Ngọc Điệp – một cái tên rất đáng mơ mộng!

Chị Điệp xinh lắm, cặp mắt đen, ướt át nhưng chắc chắn học không bằng tôi. Tôi biết. Bởi vì ở trường tư học sinh thường học theo kiểu thụ động, không chịu giơ tay xung phong lên bảng mà cũng ít khi tự mình làm bài thêm ở nhà trong khi nhà trường rất chiều học sinh, không dám đụng tới, “hễ lười là chết” như trong trường công. Riêng tôi, tôi quen lối học trong trường công, ra trường tư tôi vẫn giữ lối học chủ động, hễ có bài toán nào khó là tôi giơ tay lên bảng, kể cả tiếng Anh hoặc toán lý hoá, các thầy thích lắm, coi tôi như một học sinh đặc biệt và các bạn cũng nể, nhất là chị Điệp, chị phục tôi lắm.

Chẳng những ham học mà tôi còn ham hoạt động thể dục thể thao, như đánh bóng chuyền ở trong sân trường trong giờ ra chơi và thích văn nghệ. Tôi hay làm thơ, mặc dầu thơ thẩn của tôi có lẽ thuộc loại thơ… con cóc:

Chàng trai gối mộng trên trang sách

Cô gái bên song gắng đợi chờ

Mây trời lững thững mà vương vấn

Vương cả lòng ta lẫn ước mơ…

Có lần chị Điệp với tay sang mượn tôi quyển vở. Thấy mấy câu thơ, chị chăm chú đọc, có vẻ ngạc nhiên:

– Thơ ai làm vậy?

– Tui.

– Thiệt không? Anh làm được thơ?

Thiệt chứ, thiếu gì, cứ hứng là làm. Đây này…

Tôi mở mấy trang phía sau cuốn tập chỉ cho chị thấy. Chị Điệp tấm tắc:

Hay quá ta, chép tặng tui đi. Anh chép tặng tui làm kỷ niệm.

Tôi viết những câu thơ ra giấy, chị Điệp coi lại, cám ơn rồi mở cặp táp bỏ sang cho tôi mấy cục kẹo:

– Mần thơ hay tui thưởng cho đó.

Lại một lần khác, chị thấy mấy câu tôi viết trong tập :

“Em đi rừng núi vào xuân

Áo thiên thanh dệt trắng ngần hoa lan”

– Thơ của ai vậy?

– Tui không nhớ, viết thì viết vậy thôi, không phải của tui.

Chép cho tui đi!

Tôi lại chép và nàng lại tặng tôi mấy cục kẹo. Cứ như thế hai đứa chúng tôi chơi với nhau rất thân qua những câu thơ tôi ghi trong tập. Mãi sau này tôi mới biế đó là hai câu thơ của thi sĩ Đinh Hùng.

Tôi quên chưa kể là trong lớp tôi, ở khu “xóm nhà lá” tức mấy bàn cuối có một anh tên Thạnh, chơi đàn ghi-ta rất giỏi, được thầy hiệu trưởng Phan Ngô cho làm trưởng ban văn nghệ của lớp. Ngày trước anh Thạnh học ở trường Tân Thịnh, tiền thân của trường Tân Phương ở trên Tân Định. Hai anh em giáo sư Phan Ngô, Phan Thuyết mở trường này, làm ăn hết sức phát đạt. Đùng một cái, hai vị chia rẽ, không thể hàn gắn lại được, bèn bán trường, ông Phan Thuyết sang Gia Định mở trường Đạt Đức, còn thầy Phan Ngô mở trường Tân Phương cũng ở Gia Định. Giáo sư Phan Ngô là người ăn nói giỏi, làm hiệu trưởng nhưng cư xử rất thân thiết với học sinh nên khi ông chuyển trường sang Gia Định, đa số các học sinh cũ ở Tân Thịnh đều đi theo, trong đó có anh Thạnh, chị Ngọc Điệp, chị Phi Vân và nhiều người khác nữa. Đối với những người này thầy Phan Ngô có nhiều ưu ái, luôn luôn hỏi han, gần như biết rõ từng người nên họ rất thích.

o0o

Quay đi quay vậy mà đã gần tới tết. Nhà trường ra thông báo chuẩn bị kế hoạch liên hoan, văn nghệ, cắm trại ở trong sân trường và mời tất cả các trưởng ban văn nghệ lên họp để phổ biến cho lớp.

Họp xong, trong giờ ra chơi, anh Thạnh lên mời các bạn ngồi lại, giữ trật tự để anh phổ biến kế hoạch:

“Thưa các bạn, mùa xuân sắp tới. Mỗi khi mùa xuân tới hoa xuân lại nở trên cành…”.

Tụi tôi cười, nhiều anh vừa cười vừa suỵt : “Nói gì thì nói đại đi cho rồi…”

“Theo thông lệ hàng năm như các bạn đã biết, trước khi nghỉ tết nhà trường sẽ tổ chức một đêm văn nghệ tất niên. Thầy hiệu trưởng ra lệnh cho mỗi lớp đóng góp một số tiết mục. Riêng lớp ta, vì là lớp lớn đứng đầu trong trường nên thầy đề nghị ngoài các tiết mục đơn ca, song ca, hợp ca, chúng ta nên diễn một vở kịch cho chương trình văn nghệ thêm phần đặc sắc …”.

– “Không có vở thì lấy gì mà diễn?”.

– “Có, ban văn nghệ sẽ kiếm”.

Tuy hứa sẽ kiếm nhưng anh Thạnh là người làm việc lộn xộn, không có phương pháp, cứ đến giờ ra chơi là lo đệm đàn cho nhóm này hát, nhóm kia hát nên rất bận rộn, quên việc tìm kịch bản. Thầy Phan Ngô nhắc nhở dữ lắm. Thầy là người Trung, thích kịch thơ. Nhân được người bạn thân là thi sĩ Vũ Hoàng Chương cho người đem đến tận trường tặng tập thơ “Say” vừa mới xuất bản, thầy cao hứng mở ra, vừa làm điệu bộ vừa nhắm mắt nhắm mũi đọc những câu thơ mà thầy cho là xuất sắc:

Lui đôi vai, tiến đôi chân

Sàn mờ nhạt, chập chờn như ảo ảnh

– “Đó, các em thấy không, tuyệt diệu! Hết sức tuyệt diệu! Thơ là nhứt, chúng ta phải diễn kịch thơ mới được…”

Tôi về nhà tìm kiếm, lục ra được vở kịch thơ “Trai Thời Loạn” của Giang Quân đăng trên báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn từ năm 1942, bèn chép nguyên văn, đem đến lớp đưa cho chị Điệp coi trước.

– Chị thấy hay không?

Hay, tụi mình diễn đi.

Chị biết diễn kịch?

Biết.

Nếu vậy thì tốt. Trong này có vai ông Đồ Trần, bà Đồ Trần với vai Khóa Vũ, ba người tất cả. Tôi giữ vai ông Đồ Trần, chị giữ vai bà Đồ Trần, chỉ còn kiếm thêm một người nữa là đủ.

Chị Điệp bàn nên rủ anh Thạnh, vì hồi trước anh Thạnh vẫn quen diễn với chị ở trường Tân Thiïnh. Tôi mừng lắm, bàn với Thạnh, anh ấy rất thích, nhận lời liền. Vậy là chúng tôi bèn đem vở kịch lên cho thầy Phan Ngô kiểm duyệt rồi bắt đầu tập. Thầy khen vở kịch hay, có nhiều ý nghĩa, khuyến khích chúng tôi tập dượt.

Vở “Trai Thời Loạn” không dài lắm, nội dung gồm ông Đồ Trần sống trong thời loạn, muốn vào Phú Xuân theo Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ chống lại quân Tàu, bèn gửi vợ con cho người bạn tên Khóa Vũ để đi cho được yên tâm. Nhưng Khóa Vũ là người hèn nhát, không dám nhận lời, bất đắc dĩ Đồ Trần phải nghĩ đến việc giết vợ con để ra đi giết giặc:

Giết vợ con

Ha ha ha

Giết vợ con để mưu đồ đại sự

Cũng là thường khí phách kẻ nam nhi!…

Khoá Vũ :

Thôi bác ạ cuộc đời này ngắn ngủi

Sức thư sinh sao lấp nổi biển Đông?

Bác nén giận, Vũ này xin phân tỏ…

Khoá Vũ không dám nhận trông nom giùm vợ con cho Đồ Trần. Đúng lúc Đồ Trần vung gươm định giết vợ con thì tiếng chiêng trống nổi lên dồn dập. Khóa Vũ xách kiếm chạy ra báo tin vua Quang Trung đã ra tới Thăng Long, đại phá quân Thanh ở đồn Hà Hồi. Nhiều người cũng chạy đến nữa báo tin thắng trận. Đồ Trần mừng rỡ dừng tay, thôi không giết vợ con nữa. Tất cả chạy đi tiếp ứng, làm hậu thuẫn cho quân vua Quang Trung. Màn hạ.

Tất nhiên tôi đóng vai Đồ Trần, còn Thạnh đóng vai Khóa Vũ. Chị Điệp thân với tôi lắm, những buổi chiều sau giờ tập dượt, chị rủ tôi đi uống nước. Tôi đã chiếm được cảm tình của chị trong vai Đồ Trần anh hùng và lại càng được dịp mơ mộng, làm thơ…con cóc:

Ta mơ thấy em hong suối tóc

Ta mơ thấy ta có hai bàn tay

Mắt em xao xuyến tình hoang dại

Và tóc em mềm theo gió bay…

Hôm tổng dượt, thầy Phan Ngô hân hoan bắt tay chúng tôi:

Vở kịch rất hay, các em diễn rất xuất sắc!

Sau đó, ông tiếp:

– Nhưng có điều thầy có ý kiến như thế này…

Ông nhận xét rằng tôi là người Bắc, nói tiếng Bắc vậy nên đóng vai người bạn tức Khoá Vũ, còn chị Điệp với anh Thạnh đều là người Nam, nói giọng Nam, đóng vai vợ chồng thì hạp hơn.

– Thưa thầy…

– Không, thầy đã nghĩ kỹ, các giáo sư cũng nhận xét như vậy. Chúng ta nên thay đổi lại.

– Nhưng thưa thầy tụi con đã học thuộc, lại sắp tới ngày trình diễn…

– Không sao, còn mười ngày nữa mới tới ngày trình diễn. Vai của Ngọc Điệp không có gì thay đổi, còn vai của em với Thạnh cứ chịu khó học lại sẽ thuộc. Chúng ta làm việc một cách lôgích kẻo thiên hạ lại cười là thầy trò không biết bảo nhau. Em hiểu không nào?

– Dạ hiểu.

Mặt tôi tiu nguỷu. Từ hôm ấy tôi bắt đầu học lại vở, đóng vai người bạn hèn nhát còn Thạnh thì đóng vai người chồng anh hùng. Tính Thạnh bơ bơ, muốn đóng vai nào cũng được và anh ta tự nhiên lắm, rất thân với Ngọc Điệp. Nhiều khi Thạnh nửa đùa nửa thật gọi Ngọc Điệp là bà đồ, xưng mình là ông đồ chứ không giữ gìn như tôi. Xem ra, tôi thua rõ rệt và “bà đồ” không thèm để ý đến tôi nữa. Sau những buổi tập dượt, họ thường rủ nhau đi uống nước :

– Bà đồ ơi, lợi đây qua biểu…

– Ơi, bà đồ đây, ông đồ kêu chi?

– Tập xong rồi, ông đồ mời bà đồ đi uống nước, ông đồ trả tiền.

– Ừa, đi liền.

Họ nắm tay nhau, vui vẻ, thân mật, bỏ lại mình tôi sớ rớ nhìn theo, trong lòng trống trải. Văn nghệ, văn nghệ, mi đã phụ ta rồi! Và tôi bắt đầu làm những câu thơ yếm thế khác với bản tính “quyết chiến quyết thắng” của tôi:

Sầu mỗi ngày một đọng

Tóc mỗi ngày một dài

Tóc dài còn cắt được

Sầu dài bỏ cho ai

o0o

Nên mắt khơi vực thẳm

Nên hồn nhuộm đêm đen

Nên lòng như sa mạc

Nên cắn răng chịu “hèn”!

“Hèn” quá đi mất ấy chứ! “Kịch” là như thế, tôi đóng vai hèn, càng hèn bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu và bà đồ lại càng lãnh đạm với tôi, chỉ biết có “ông đồ”. Đau không chịu nổi!

Đêm liên hoan. Mẹ tôi và em gái tôi biết tôi được đóng kịch trong nhà trường thì mừng lắm, suốt ngày cứ tính toán xem nên mượn ở đâu, mượn của ai chiếc áo the dài cho tôi mặc thật vừa vặn, chiếc khăn xếp kiểu Bắc cho tôi đội trên đầu. Mẹ tôi còn mượn được cả đôi giày Gia Định, chiếc quần đàn ông trắng và một giải khăn đỏ cho tôi cột ngang bụng để đeo kiếm nữa. Kiếm thì nhà trường đã mượn tại các đoàn cải lương nhỏ.

Suốt ngày hôm ấy chúng tôi dự hội chợ trong sân trường. Buổi chiều về, ăn cơm xong lại mau mau đi.

Ôi chao, đèn màu lấp lánh, tiếng nhạc xập xình, đèn chiếu sáng rực. Vào cửa tự do nên khán giả đông lắm, cả khu sân trường Tân Phương rộng như thế mà đầy ắp toàn người là người, họ đứng cả ra đến ngoài lề đường.

Tôi không biết gì hết. Người tôi như ngây như say. Người ta lôi tôi ra đánh phấn, thoa son, vẽ mày vẽ mặt và cài kiếm vào cạnh sườn tôi. Tôi thấy “ông đồ” oai hơn tôi, đứng bên cạnh, hết sức đẹp trai, đang âu yếm trang điểm thêm cho “bà đồ”!

– “Đây, vở kịch nòng cốt ‘Trai Thời Loạn’ của học sinh lớp Đệ Nhị trường Tân Phương bắt đầu!”.

“Cọc, cọc, cọc…”, ba tiếng búa long trọng gõ xuống mặt sàn. Màn từ từ mở. Chị Điệp ăn mặc theo kiểu Bắc, ngồi trên chiếc chõng tre nhỏ, ru con ạ ời cũng theo lối Bắc. Chị người Nam, bắt chước giọng Bắc rất giỏi khiến các bạn bè vỗ tay vang dội. Rồi anh Thạnh ra. Sau đó tôi ra. Thầy Phan Ngô đích thân đứng chỉ huy phía sau cánh gà, nét mặt hân hoan thấy rõ. Rồi tiếng trống trận đùng đùng, vua Quang Trung kéo quân ra Bắc, đại phá quân Thanh…

– “Hay quá, hay quá! Tuyệt diệu, tuyệt diệu!”

Các giáo sư đứng dậy, vào tận hậu trường bắt tay chúng tôi. Cả thầy Thiên Giang già và cao lớn cũng vào bắt tay nữa.

Đêm kịch tất niên chấm dứt, khán giả ra về hể hả. Mọi người và toàn ban giáo sư ở lại dự tiệc liên hoan ăn mừng “chiến thắng”. Cháo gà, gỏi gà bày ra la liệt trên những dãy bàn trải khăn trắng trên lối đi ở phía sân sau. Đến lúc sắp ăn thì không thấy “ông đồ, bà đồ” đâu cả, thầy Phan Ngô bảo tôi:

– Em chạy đi kiếm coi hai đứa tụi nó đâu…

– Dạ

Tôi ra tới gốc cây vú sữa thì thấy “bà đồ” đang ngồi ru con tưởng tượng trên chiếc ghế đá góc vườn, còn “ông đồ” thì đã thay đổi y phục nhưng vẫn say men “chiến thắng”, tuốt gươm tưởng tượng, đặt tay lên vai bà đồ. Họ áp mặt lên nhau và…và… họ “hun” nhau, cái này không hề có trong kịch bản!

Nghỉ tết xong tôi bắt đầu lao đầu vào học. Phải học nếu không sẽ bị thi rớt. Tôi không thích rớt, tôi muốn chiến thắng. Thôi kệ ông đồ bà đồ, muốn đồ muốn đạc gì cũng được. Và tôi cũng không thèm làm thơ nữa. Thơ với thẩn là thứ xa hoa, không đúng sự thật, chẳng có người con gái nào cư xử đẹp với mình.

“Em đi rừng núi vào xuân

Áo thiên thanh dệt trắng ngần hoa lan”

Vào xuân cái con mẹ! Vào xuân, đi diễn kịch, hoạt động liên hoan, văn nghệ chỉ tổ người ta đá đít, nếu thi rớt nữa thì nhục nhã lắm, tức như bò đá!

Vào lớp, tôi vẫn ngồi đầu bàn ba nhưng “bà đồ” thì đã tự ý đổi xuống phía mấy bàn dưới, gần với “ông đồ”. Bà không còn biết trên đời này có một thằng ngu, rất hay làm thơ mà hồi trước bà rất thân, cứ mỗi lần bảo nó chép thơ thì lại tặng cho nó mấy cục kẹo.

Thời gian lặng lẽ trôi đi, dần dần lại tới thi Đệ nhị lục cá nguyệt. Tôi vượt lên trên, được xếp hạng nhất trong cả năm học đồng hạng với chị Phi Vân, sau này chị đậu thủ khoa vào trường Nữ Hộ sinh Quốc gia, được phần thưởng của Bộ Y tế do chính ông Bộ trưởng đích thân trao tặng.

Hôm nhà trường làm lễ phát thưởng rất lớn tại rạp Văn Hoa Đa Kao có phần phụ diễn văn nghệ. “Ông đồ bà đồ” và thêm hai người nữa có lẽ học lớp Đệ Tam, tập tành cả tháng, diễn vở Lưu Bình Dương Lễ. Bạn bè ngạc nhiên lắm, nhiều người hỏi tôi sao, bị cho ra rìa rồi hả, nhưng cũng người thông cảm, bảo tôi khôn như con chồn, bây giờ lo học. Trong lễ phát thưởng, thầy Phan Ngô đặt thêm giải thưởng cho ban văn nghệ. Anh Thạnh với chị Ngọc Điệp ở trong hậu trường bước ra lãnh, họ còn mặc nguyên bộ đồ đã mướn của rạp cải lương, mũ cao áo dài trong vở Lưu Bình Dương Lễ.

Đúng một tuần lễ sau thì chúng tôi đi thi Tú tài phần I. Hôm có kết quả, nhà trường theo dõi danh sách và đem kết quả về giùm: lớp có 83 người, đậu 12 người. Tỉ lệ thi đậu như vậy cũng đỡ bởi vì trường tư thường thường chỉ đậu vào khoảng mười phần trăm, ngoại trừ những trường danh tiếng nhất, học đắt tiền nhất. Tất nhiên “ông đồ bà đồ” không đậu, họ bỏ dở ngay sau khi chỉ mới”thử lửa” ngày đầu tiên!

Mười hai người thi đậu chúng tôi một số xin vào lớp Đệ Nhất trường Chu Văn An, một số vào Petrus Ký còn một số thì do hoàn cảnh gia đình thiếu thốn, gặp ngành gì thi ngành nấy, đi làm. Chúng tôi còn phải qua kỳ thi Tú tài phần II, nếu đậu bấy giờ mới được thi vô các trường Đại học.

Một hôm, gặp Phong, người bạn bây giờ đang học bên Petrus Ký, anh ta hỏi tôi:

– Ê, sao bữa hổm mày không đi dự đám cưới thằng Thạnh với con gì diễn kịch? Hồi tất niên tụi nó diễn với mày mà?

– Ủa, họ lấy nhau rồi hả? Sao lập gia đình sớm quá vậy? Học hành chưa đâu vào đâu…

– Thì tại hai đứa tụi nó thương nhau. Nghe nói ông già bà già tụi nó không bằng lòng nhưng nó cứ nhứt định định lấy nhau nên phải chìu.

Tụi bay đi có đông không?

Không, có mấy đứa thôi. Đứa nào biết thì đi, đem quà tới mừng gọi là chỗ bạn bè chớ tụi nó cũng làm nhỏ xíu, không đưa thiệp mời.

Ừ, tội nghiệp!

Không hiểu sao tôi lại thốt ra hai tiếng tội nghiệp. Theo tôi nghĩ, cuộc sống quá nhiều khó khăn, phức tạp, cái tuổi mười bảy, mười tám và ngay cả mười chín, đôi mươi nữa của Thạnh và Điệp cũng chưa phải là tuổi lấy vợ lấy chồng, có con có cái.

Năm sau, tôi đậu Tú tài II rồi thi vào Đại học Sư Phạm, bốn năm sau ra trường. Lúc ấy tôi 22 tuổi, vẫn chưa phải cái tuổi đủ khả năng và đủ bản lãnh cá nhân để tính tới chuyện lập gia đình.

Tám năm sau, tôi ba mươi tuổi. Một lần, ngày tết, tôi đến đường Trương Minh Giảng, vào hẻm Chuồng Bò để tìm địa chỉ một người bạn. Kỳ lạ, anh ta ghi địa chỉ đàng hoàng mà ngõ này lại cứ ngoắt ngoéo, ăn thông sang ngõ khác và các số nhà loạn xà ngầu tìm không sao thấy.

Những người thanh niên ở trần ngồi đánh bài cào hay binh xập xám gì đó ngay trên đầu ngõ chật hẹp. Những chiếc pháo xì vứt trên rãnh nước đen ngòm, bẩn thỉu. Những con ruồi bu trên các đống xác mía nằm rải rác lẫn với những chiếc vỏ dưa. Một người đàn bà ngồi bán hàng đang cho con bú bên cạnh một chiếc tủ nhỏ đựng thuốc lá và chiếc mẹt kê trên chiếc ghế đẩu, bày sơ sài vài băng pháo tép, vài miếng dưa hấu, vài chiếc bánh ú, bánh tét. Kỳ lạ thật, ngày tết ngày nhất mà bán những thứ này thì ai mua? Có lẽ họ bán cho những người thanh niên đánh bài, đói bụng ăn ẩu ăn tả không cần biết đến vệ sinh. Đằng sau lưng chị có hai đứa trẻ con trai cũng ở trần, đứng bám trên vai chị, thân hình lem luốc.

– Xin lỗi, chị làm ơn chỉ giùm tôi cái số nhà này…

Người đàn bà ngửng lên, tay cầm lấy mảnh giấy ghi địa chỉ, nhíu mày coi qua một cách thành thạo. À thì ra chị này cũng có học, không phải mù chữ.

Chợt, chị ngạc nhiên:

– Ủa, xin lỗi, ông là… anh Dự, hồi trước học trường Tân Phương của thầy Phan Ngô phải không?

Tôi cũng ngạc nhiên :

– Vâng, xin lỗi, chị là…?

Người đàn bà mỉm cười, có vẻ hơi ngượng:

– Tui là Ngọc Điệp, hồi đó đóng kịch anh không nhớ sao? Anh đi đâu lại lạc tới đây?

– Tôi đi kiếm nhà người quen. Tại mười mấy năm nay rồi không gặp nhau. Sao, anh Thạnh khoẻ không chị?

Chị Điệp nhíu mày, nét mặt hơi buồn:

Cũng không khỏe lắm đâu anh. Tại ảnh phụ chạy xe đò, tiền bạc kiếm hổng bao nhiêu mà cứ phải ở lợï tỉnh hoài, gặp gỡ ba thứ trời ơi đất hỡi, có đồng nào nó bòn hết trơn. Chúng tôi lấy nhau sớm quá…

Anh chị được mấy cháu?

Năm. Năm đứa con trai. Đứa nầy nhỏ nhứt, lúc có bầu cứ tưởng sẽ sanh con gái không ngờ vẫn sanh con trai. Năm đứa, “ngũ quỷ” anh biểu hổng nghèo sao được? Phải chi sanh đứa con gái cho đỡ xui.

Tôi im lặng. Năm nay chị cỡ hăm chín hay ba mươi tuổi, bằng với tuổi tôi, nếu muốn sanh thì còn có thể sanh thêm hàng chục đứa nữa.

– Anh lập gia đình chưa? Được mấy cháu?

Tôi cười, hơi mắc cỡ:

– Dạ, chưa đâu chị, tôi hơi trễ.

– Trễ chưa lập gia đình hay chưa có con?

– Cả hai.

– Vậy cũng đỡ chớ như tui với anh Thạnh…

Ngay lúc ấy một đứa trẻ ở trần mặc quần xà lỏn, theo sau lại một đứa khác chạy tới có vẻ vội vã:

– Má, ba biểu má có tiền đưa ba mượn đỡ vài ngàn, trưa gỡ được dìa ba trả!…

– Bài bạc mà gỡ cái gì? Tao đâu có đồng nào!…

– Ba binh xập xám, đang đỏ, mới ăn được hai cây lợi thua lợi, hết tiền phải mượn chú Ba Đực hết mười mấy ngàn.

– Má không có tiền! Nói ba dìa ngay, nhà có khách!…

– Thôi chị ạ, cũng gần trưa rồi có lẽ tôi cũng phải đi, lúc khác sẽ đến thăm anh chị.

– Dạ, cám ơn anh. Đó, anh coi, ảnh mần không ra tiền nhưng máu mê cờ bạc đủ thứ. Hễ thua là cho con về đòi tui phải đưa. Mà tui hổng có là chết với ảnh, gia đình lại lộn xộn, gây gổ um xùm điếc tai hàng xóm.

– Thôi tôi đi chị nhé.

– Dạ, anh đi. Tụi tui ở căn nhà tôn đàng kia, cách đây ba căn. Lúc nào rảnh mời anh tới chơi…

Tôi nhìn theo tay chị. Căn nhà bé tí, lụp xụp, vách đóng bằng gỗ, khóa cửa.

– Vâng, lúc khác tôi tới.

Thằng bé đứng bụng xịu, ngón tay gạy gạy những vôi vữa trên bức tường ở bên cạnh:

– Má, ba kiu má cho ba mượn tiền. Ba đang đỏ, má hổng chịu đưa cho ba gỡ…

Người mẹ hơi ngượng, mở chiếc gói nylông cất trong túi áo:

– Đây, còn mấy ngàn, biểu ba mày xài hết đi rồi nhịn đói!

Hai đứa trẻ hí hửng kéo nhau đi. Đợi chúng chạy khỏi, tôi móc bóp lì xì cho hai đứa đứng bám vai mẹ và đứa còn ẵm ngửa:

– Năm mới bác lì xì hai cháu…

– Thôi anh, ba nó lại lấy đánh bạc chớ đâu có giữ được.

– Không sao đâu chị, chút đỉnh mà!

Và tôi nhắc lại một kỷ niệm nay đã xa xưa:

– Không bằng cái ơn ngày trước thỉnh thoảng chị lại liệng cho tôi mấy cục kẹo!

Người bạn học cũ bật cười:

– Anh còn nhớ mấy câu trong vở kịch thơ Trai Thời Loạn không?

– Câu gì hả chị? Nhiều quá tôi không nhớ hết…

– “Ha ha ha… Giết vợ con để mưu đồ đại sự, cũng là thường khí phách kẻ nam nhi…”

– Có, tôi nhớ.

– Anh Thạnh đang giết vợ con đó anh. Nhưng đáng tiếc là cái “đại sự” ảnh mưu đồ quá nhỏ, không lớn như trong vở kịch.

Tôi cười, chào từ giã lần nữa rồi dắt xe đi.

Sau tết, tôi có chút việc phải trở lại, đến nhà gặp người bạn. Lúc về, đi ngang qua phía trước căn nhà tôn tôi nghe có tiếng võng đưa kẽo kẹt và một giọng đàn bà hát ru trầm trầm, xa vắng:

“Ầu ơ… Bướm vàng đậu trái mù u

Lấy chồng càng sớm lời ru thêm buồn…”

Lúc ấy là ba giờ chiều, trời nắng chang chang mà trong lòng tôi giá lạnh như người chết rồi. Phải chăng từ đáy tâm hồn, tôi vẫn còn yêu một cái gì đó đã mất?

May be an image of flower, body of water and nature

Khoảng trống cuối đời  

Khoảng trống cuối đời  

Lưu An- Vũ Ngọc Ruẩn

Một nén hương cho những người mẹ bất hạnh mà tôi quen biết.

Vài hàng phi lộ

Bất cứ người Việt Nam nào đã trưởng thành và sống qua thời kỳ từ năm 1975 đến nay đều chứng kiến biết bao nhiêu hiện tượng buồn đau, xuống dốc đạo đức trong gia đình, tập thể người Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Những cảnh anh em chém giết, thưa kiện nhau vì tranh dành tài sản, đất đai; bỏ bê, đày đoạ, bất hiếu với cha mẹ khi về già. Vợ chồng tan vỡ chỉ vì tham bạc bỏ tình, bạn bè thì lừa đảo, đổi trắng thay đen không trừ thủ đoạn nào để dành quyền lợi cho mình, như một kẻ ăn cướp,.v.v… Riêng cá nhân tôi, sau hơn 45 năm sống và làm việc tại hải ngoại, đã có biết bao nhiêu dịp du hành vui chơi, thăm viếng người thân quen hay công tác tại nhiều quốc gia trên thế giới, đã chứng kiến bao nhiêu chuyện đau buồn trong tập thể người Việt Nam tại những nơi chốn đi qua mà ngẩn ngơ vì nó ra ngoài sự tưởng tượng của mình. Nhiều khi tôi tự hỏi tại sao con người Việt Nam chúng ta đã đổi thay đến mức kinh hoàng như vậy.

Mà cũng rất lạ lùng, nơi mà tôi chứng kiến những cảnh buồn đau đó lại phần lớn xảy ra các các quốc gia giàu có, thịnh vượng tại Âu châu, Bắc Mỹ, những nơi mà tôi tưởng rằng với cuộc sống cao sang, luật lệ đàng hoàng con người ta sẽ ý thức, lòng ngay thẳng và trong sáng tâm hồn hơn. Nhưng tôi đã lầm, sự ngay ngắn, đàng hoàng, đạo đức không phải chỉ sinh ra từ những nơi vật chất dư dả, luật lệ khắt khe… Mà đôi khi còn ngược lại, trong những xã hội văn minh, tân tiến đó con người ta tinh khôn hơn, lòn lách cao cấp hơn trong lừa đảo nữa là khác. Nhờ văn minh, kiến thức, người ta biết tính toán, biết xếp đặt sao cho hợp với luật pháp để lừa đảo mà nạn nhân chỉ còn biết khóc than, chịu thiệt. Hãy ngoái nhìn lại Việt Nam ngày xưa lúc còn đối diện với khó khăn, nghèo túng thì cha mẹ, anh em vợ chồng, cha mẹ hoà thuận, thương yêu nhau, chia cho nhau từng nắm cơm, con cá… Nhưng ngày nay vật chất thừa mứa, nhà cao cửa rộng thì coi nhau như kẻ thù, sẵn sàng làm những chuyện vô luân, bất đạo để chiếm đoạt hay kéo nhau ra toà với mọi thủ thuật miễn là giành được mối lợi về mình, v.v…

Sinh ra, trưởng thành trong tao loạn, có thể nói tôi đã nếm đủ những mùi vị, đắng cay, chua ngọt của nhân sinh, nhưng đã bao lần ngẩn ngơ, ngao ngán thở dài khi phải chứng kiến biết bao nhiêu những cảnh tượng không vui trong tập thể người Việt Nam của chúng ta mà buồn bã. Hôm nay, trong cái không gian vắng vẻ, buồn chán, tôi đã để cho ký ức mình lang thang về một hoàn cảnh rất buồn của một bà mẹ gốc Tây học. Một gia đình quý phái ngày xưa tôi đã quen biết để viết ra câu truyện xót đau của đời bà, như môt nén hương dành cho bà và cũng để tưởng nhớ đến một vài bà mẹ khác mà tôi cũng rất thân thiết, mang ơn họ với những bữa cơm hay những bát bún, tô canh… họ đã cho tôi vào những năm tháng nghèo đói của đời tôi khi còn đi học tại Viêt Nam. Những bà mẹ ân tình của tôi ở trong nước cũng như hải ngoại, họ cũng đã vướng vào một dạng thức khổ đau nào đó trước khi vĩnh viễn rời xa trần thế.

Tôi đã dùng kỹ thuật văn chương để chuyển đổi tí chút về thời gian, về địa phương và cả về nhân vật trong câu truyện để tránh đi những tác động không tốt cho sự giao tế của tôi với những người thân của bà. Nhưng cứu cánh mà tôi muốn đem vào câu truyện vẫn là những tiếng thở dài, thương xót như một nén hương lòng với mồi lửa tâm hồn, lòng biết ơn mà tôi muốn dành cho những bà mẹ bất hạnh, những bà mẹ mà tôi đã từng quen biết, mang ơn họ trong quá khứ xa xưa, thời mà tôi còn là một học sinh, sinh viên trong tình trạng đói nghèo.

(Lưu An, Vũ Ngọc Ruẩn)

Vào truyện

Qua người bạn thân cùng lớp, tôi quen với gia đình bác Chấn, một gia đình gốc Tây học, giàu có và thế lực của miền Nam trước năm 1975. Bác có hai người con, một trai, anh Quang hơn tôi 3 tuổi. Một gái, chị Yến hơn tôi 1 tuổi. Hai người con của bác đều theo học chương trình Tây. Sự quen biết của tôi với gia đình bác rất sơ sài, không bước xa hơn những lời chào hỏi xã giao thông thường hay vài câu hỏi tò mò về thân thế tôi trong những lần tôi theo người bạn đến nhà bác chơi.

Sau này tôi được biết hai người con của bác Chấn đã đi du học tại Thụy Sĩ ngay sau khi tốt nghiệp bậc trung học Pháp. Còn tôi không có điều kiện nên học đại học trong nước. Năm 1971 tôi tốt nghiệp rồi xuống Cần thơ dạy học. Từ ngày lên đại học rồi đi làm tôi không có dịp nào đến chơi nhà bác Chấn nữa. Đầu năm 1974 trước khi nhận học bổng di du học ở Nhật bản, tôi được người bạn cho biết bác Chấn trai đã bị mất vì ung thư. Bác gái vẫn sống với vài người cháu họ xa ở căn khá nhà lớn, sang trọng ngày xưa ở đường Ngô Tùng Châu.

Rồi với bao nhiêu đưa đẩy của thời cuộc, cuối năm 1979 tôi rời bỏ Nhật Bản vì tìm được việc làm đúng với chuyên môn ở thành phố Zürich, vùng nói tiếng Đức ở miền bắc Thụy Sĩ. Sang Thụy Sĩ được khoảng một năm tôi lập gia đình với người bạn gái người Nhật mà tôi đã quen biết nhiều năm trong thời du học tại đó.

Một lần vào năm 1983 gia đình tôi xuống Genève thăm người bạn, ngẫu nhiên tôi gặp được chị Yến, cô con gái của bác Chấn. Chị cho biết chị và anh Quang đã tốt nghiệp xong đại học Genève từ lâu, cả hai đang đi làm, vẫn sống ở Genève, nhưng kẻ ở đầu tỉnh, người ở cuối tỉnh, lại bận rộn với công việc làm cho nên cũng rất ít gặp nhau. Chị cũng cho biết cả hai vẫn chưa lập gia đình nhưng sống chung với người yêu đều là người Thụy Sĩ. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì cả hai đều đã xấp xỉ 40 tuổi mà vẫn độc thân, nhưng không dám thắc mắc vì có lẽ lối sống Tây phương là thế.

Trong lần gặp nhau đó, tôi cho chị địa chỉ, số điện thoại của gia đình, ân cần mời chị và anh Quang đến chơi, coi như tìm được người bạn xa xưa nơi xứ lạ quê người. Nhưng tôi có cảm tưởng chị không có vẻ hồ hởi với lời mời vồn vã, chân thành của tôi lắm. Vô tình hay cố ý, chị cũng không cho tôi biết địa chỉ! Tuy nhiên tôi cũng chẳng bận lòng vì nghĩ họ đã sống với nền văn hóa Tây Phương từ ngày bé, sự lạnh lùng, cách biệt với những người không cần thiết là lẽ tự nhiên như thế mà thôi.

Chỉ có vậy, lần gặp nhau như thoáng qua, được quên đi dễ dàng. Bất thình lình, khoảng gần 2 năm sau ngày chúng tôi gặp chị, tôi nhận được điện thoại của chị cho biết bác Chấn gái đã được anh em chị bảo lãnh sang đoàn tụ, hiện đang sống với chị ở Genève đã được khoảng một tháng rồi. Chị có nói với bác Chấn về gia đình chúng tôi, bác mong muốn mời gia đình tôi đến chơi để tâm sự. Đặc biệt trong cuộc điện thoại này chị rất thân thiện, thân thiện đến nỗi tôi có cảm tưởng chị năn nỉ chúng tôi đến chơi với mẹ chị, giúp bà vui mà quên đi nỗi nhớ quê hương khi chưa quen biết ai ở Genève.

Ngay sáng sớm thứ bảy cuối tuần, vợ chồng tôi lái xe xuống Genève đến tạm trú nhà một người bạn cũng ở trong Genève, nghỉ ngơi một lúc, khoảng 2 giờ chiều chúng tôi mới đến nhà chị Yến thăm bác Chấn. Trong lần gặp gỡ này có cả anh Quang cùng với hai người Thụy Sĩ là bạn trai và bạn gái của chị Yến và anh Quang.

Ngay khi bước vào nhà, sau vài câu chào hỏi thông thường, vợ chồng tôi đã nhận thấy ngay bầu không khí nặng nề giữa bác Chấn với hai người con của bác cùng với 2 người bạn của họ. Bác Chấn hoàn toàn bị tách xa trong cuộc sinh hoạt của hai người con và bạn của họ, dù ngôn ngữ Pháp với bác không thành vấn đề. Sau vài câu xã giao bình thường, nói chuyện vu vơ với chúng tôi, nhóm con của bác Chấn cũng tự tách rời. Họ nói chuyện, cười đùa, âu yếm nhau trước mặt chúng tôi, chẳng có tí ngại ngần rồi dẫn nhau vào phòng bên cạnh đùa giỡn trong âm thanh của âm nhạc khá ồn ào.

Bác Chấn có vẻ ngượng ngùng, nhưng chúng tôi cố làm ra vẻ không để ý, coi như chuyện bình thường của giới trẻ Tây phương. Chúng tôi cũng ân cần mời bác lên nhà chúng tôi chơi bất cứ lúc nào, bác có thể ở với chúng tôi hàng tháng cũng chẳng sao vì nhà khá rộng lại có vườn riêng nên rất thoải mái. Bác tỏ vẻ rất cảm động với nhiệt tình của chúng tôi, lại càng thích hơn khi thấy vợ tôi cầm chiếc áo len mà bác đang đan nửa chừng, tò mò xem ra chiều hiểu biết và đồng sở thích thêu thùa. Lúc sửa soạn ra về, vợ chồng tôi có ý gặp hai người con để chào từ giã, đưa mắt nhìn chúng tôi với tí ngần ngừ, trong vẻ ngượng ngùng bác nói:

– Thôi, các cháu cứ về đi, bác sẽ nói với chúng nó sau.

Thông hiểu sự khó nói của bác, chúng tôi thân thiết quàng tay ôm bác trước khi chia tay bác ra về.

***

Sáng hôm sau, ngày chủ nhật, sau khi ăn sáng với gia đình người bạn xong chúng tôi từ giã để về lại Zürich. Tôi định lái xe đi một vài vòng thành phố Genève trước khi về lại Zürich. Đang lúc chạy xe tôi thoáng thấy bác Chấn ngồi ở chiếc ghế của một trạm xe bus. Dừng xe vào lề đường tôi chạy vội đến nói với bác:

– Bác Chấn, bác đi đâu vậy? Bác lên xe cháu chở đi.

Bác giật mình khi nhìn thấy tôi, nhưng ngay lúc đó cảm giác ngượng ngùng buồn bã hiện rõ trên khuôn mặt, ánh mắt của bác. Chẳng đợi cho bác trả lời tôi nói tiếp:

– Cháu đang định chạy lòng vòng xem thành phố đây, bác đừng ngại gì cả, cứ lên cháu chở đi mà.

Nói xong tôi cầm tay, kéo bác về hướng chiếc xe, nơi đó vợ tôi đang mở cửa xe chờ đợi. Ngần ngừ tí chút, nhìn tôi như gửi gấm nỗi buồn kín đáo, bác nói như muốn khóc:

– Bác có muốn đi đâu đâu! Ở nhà buồn và cô đơn quá cháu ạ, chịu không được, ngày nào bác cũng ra ngồi ở các trạm xe bus, xe điện để nhìn người ta lên xe, xuống xe cho đỡ buồn đó mà thôi!

Tôi ngẩn ngơ, nhìn bác trân trối, câu trả lời của bác xót đau quá! Tôi cảm nhận người đàn bà xấp xỉ tuổi 70 đang đứng tước mặt tôi có rất nhiều tâm sự buồn đau khó nói. Hình ảnh cuộc gặp mặt chiều hôm qua ở nhà cô Yến, con gái bác lại hiện ra, trở về trong ký ức tôi! Tôi thoáng hiểu một phần nào nỗi buồn, cô đơn của bác. Nhân dịp gặp lại trong ngẫu nhiên này tôi muốn được nghe bác tâm sự, biết đâu tôi có thể tìm được điều gì đó giúp bác giảm được nỗi buồn mà bác đang chất chứa trong lòng? Nghĩ như vậy, tôi thân thiện khoác tay lên vai bác, khẩn khoản nói:

– Bác lên xe với cháu, chúng ta tìm một quán nước nào đó nói chuyện, bác đừng ngại gì cả, ngày hôm qua cháu muốn nói chuyện với bác nhiều mà chưa hết.

Hình như sự nhiệt tình của tôi, cũng có lẽ vì quá buồn, bác im lặng đi theo tôi lên xe. Sau một lúc chạy lung tung, chúng tôi vào một quán nước bên ngoài hành lang của một khách sạn trên đại lộ Quai du Mont Blanc, bên kia đường là hồ Lehmann. Bầu trời trong xanh, ánh sáng ban mai chiếu rọi lên mặt hồ nhấp nhô tạo ra những dải sáng lấp lánh tuyệt đẹp của một buổi sáng nắng tốt. Bác Chấn đã khóc gần như suốt thời gian ngồi kể cho tôi nghe về lý do của bác khi lựa chọn rời xa Việt Nam, sang Thụy Sĩ định cư. Một lựa chọn mà bác nghĩ rằng đã sai lầm, đang làm cho bác buồn đau vì cô đơn.

Bác cho biết, với lời khuyên nhủ rất hợp lý, chân tình của hai con. Bác đã bán căn nhà của mình ở trong nước, gom vào với tất cả nữ trang, tiền bạc mà bác đã dành dụm từ khi mới kết hôn để giúp hai con, mua cho mỗi người một căn hộ ở Genève. Căn hộ mà chúng tôi đến thăm hôm qua là của Yến. Một căn khác cho Quang, đến nay dù đã hơn một tháng ở Thụy Sĩ nhưng bác vẫn chưa có dịp đến xem nó to nhỏ, xấu đẹp ra sao.

Trước khi rời bỏ quê hương sang Thụy Sĩ, bác nghĩ rằng, tuổi đã già, bệnh hoạn, sống chết không biết lúc nào, vì vậy nếu được sống với chính con của mình là một điều rất hợp lý, vẫn hơn sống với những đứa cháu họ ở Việt Nam. Đã thế với khả năng thông thạo tiếng Pháp của bác, có lẽ chẳng khó khăn trong việc giao tế với người địa phương, ngoài ra với sở thích đọc sách báo, thêu thùa cũng sẽ giúp bác che lấp được những lúc nhà rỗi, cô đơn khi các con đi làm. Với ý nghĩ lạc quan như vậy bác đã chờ đợi từng ngày cho việc ra đi đoàn tụ với hai con. Nhưng khi đến Thụy Sĩ, chỉ sau một tuần lễ đầu tiên bác đã nhận thấy mình sai lầm, cái sai lầm ra ngoài tưởng tượng, tính toán của bác. Dù thích đọc sách, thích thêu thùa nhưng bác chẳng có được hứng thú mà làm được như mong muốn!

Bác được Yến, người con gái mà bác thương yêu nhất đón về sống chung. Mấy ngày đầu tiên Yến nghỉ làm việc, dẫn bác đi lo giấy tờ hành chánh, bảo hiểm sức khỏe đồng thời chỉ dẫn bác cách mua vé, xử dụng các phương tiện giao thông công cộng như xe bus, xe tram của thành phố. Yến cũng không quên hướng dẫn bác sử dụng các máy móc trong nhà như máy giặt, máy sưởi cùng với những việc làm trong tập thể chung cư.

Mấy ngày đầu tiên còn bận rộn với những học hỏi, làm quen với cuộc sống mới nơi xứ lạ quê người, bác không có thời gian để cảm thấy cô đơn. Nhưng chỉ một tuần sau, mọi hoạt động đã được đưa vào thứ tự và đều đặn. Buổi sáng Yến vội vàng đi làm, chiều tối về nhà, mệt mỏi cô ta chẳng có thì giờ và hứng thú để nói chuyện với bác ngoài vài câu hỏi sức khỏe vu vơ. Đã thế Yến thường về với người bạn trai, họ lại quây quần với nhau trong phòng riêng, chẳng thèm để ý đến bác. Bác sống im lìm như một chiếc bóng thừa thãi trong căn hộ.

Mấy ngày đầu tiên, có lẽ vì món ăn lạ hay nể nang công lao nấu nướng của bác, Yến và người bạn trai còn về nhà ăn cơm tối. Nhưng chỉ được vài ngày, họ chẳng còn thú vị với món ăn của bác nữa, Yến nói với bác đừng nấu cơm cho họ, họ tự lo được. Từ đó Yến và bạn trai thường ăn cơm ở đâu đó trước khi về nhà khá muộn. Thỉnh thoảng Yến mua đồ ăn nguội, rượu bia mang về bày ra bàn, ăn uống với bạn trai, nói chuyện cho đến khuya rồi chẳng thèm thu dọn…. Sáng hôm sau khi thức dậy, nhìn thấy đống bát đĩa bác lại phải lau chùi, thu dọn… Không nói ra nhưng bác Chấn đã có cảm tưởng mình là người hầu hạ trong nhà, không còn là người mẹ được con đón sang để phụng dưỡng nữa. Còn Quang thỉnh thoảng cùng cô bạn gái đến chơi, nói chuyện vu vơ với bác rồi quây quần ăn uống với Yến và bạn trai một vài giờ đồng hồ rồi ra về và cuối cùng việc thu dọn lại cũng là bác!

Đôi lần thấy bác buồn, than van cô đơn không bạn bè… Yến khuyên bác hãy làm theo lối giải trí, tìm vui của người Thụy Sĩ khi về già, không có việc gì làm, để tránh thời gian rảnh rỗi, cô đơn họ mua vé tháng của thành phố cho xe bus, xe tram… Rồi sáng đi, tối về, ngày ngày dùng phương tiện giao thông đi từ phố này, sang phố kia ngắm nhìn người ta buôn bán ở các siêu thị. Buổi trưa hay lúc mệt mỏi thì tạt vào những nhà ăn bình dân rẻ tiền trong các siêu thị uống cà phê hay ăn trưa.

Nghe lời đề nghị của cô con gái, bác hình dung khá rõ con đường sống của mình sẽ ra sao nếu còn sống nơi đây. Bác chợt hiểu ra rằng hai đứa con của bác thật sự đã là dân Thụy Sĩ rồi, chúng sống, chúng suy nghĩ và giải quyết theo xã hội, con người Thụy Sĩ. Chúng không thể nào nhìn thấy hay cảm thấy nỗi buồn, cô đơn của bác được nữa. Nói đến đây, bác Chấn ngước nhìn tôi với đôi mắt nhòa lệ, buông tiếng thở dài buồn bã bác than thở:

– Có lẽ bác phải về lại Việt Nam cháu ạ, sống ở đây chắc bác sẽ chết vì cô tịch mà thôi. Mấy ngày trước bác có liên lạc với tòa lãnh sự Việt Nam ở Genève để hỏi về việc hồi hương. Theo bác không khó khăn lắm, nhưng cần nhiều thủ tục để lấy lại hộ khẩu của bác ở Việt Nam và nhất là chứng minh được sự bảo đảm về tài chánh cho sự sinh sống của bác khi hồi hương.

Thấy tôi im lặng, bác buồn rầu nói tiếp:

– Hiện nay bác chẳng có gì ở Việt Nam nữa, nhà cửa đã bán, tiền bạc, nữ trang cũng không còn nữa. Bác đúng nghĩa một người nghèo, già lão đơn độc nếu về lại quê hương thì sống làm sao đây?

Tôi buột miệng hỏi:

– Tại sao bác không nói với anh Quang, chị Yến trả lại bác một ít tiền để có thể về Việt Nam sinh sống?

Lắc đầu ra vẻ thất vọng, bác cho biết tiền bán nhà, bán nữ trang vừa rồi rất lớn so với xã hội Việt Nam nhưng có đáng bao nhiêu so với Thụy Sĩ đâu. Bác đã chia cho hai con để giúp chúng mua nhà, theo bác biết thì hai người con cũng phải mượn ngân hàng hơn một nửa mới có đủ tiền để mua hai căn hộ. Hiện nay tiền lời ngân hàng cùng với chi phí dịch vụ cho chung cư như thang máy, điện nước, lau chùi, cắt cỏ, xúc tuyết, làm vườn… tất cả không phải nhỏ, chẳng thua gì tiền đi thuê nhà. Bác đã bàn với hai con để đưa trả lại bác một số tiền cho bác mua một căn nhà nhỏ ở Việt Nam, nhưng coi vẻ không được vì chúng vẫn phải trả nợ ngân hàng mỗi tháng, chẳng dư dả để đưa cho bác được. Đã thế khi về Việt Nam tiền sinh sống, thuốc thang, bệnh viện khi ốm đau cũng không thể coi là nhỏ được!

Nhẩm tính lại cuộc sống ở Việt Nam, tôi nói với bác:

– Theo cháu nghĩ nếu hai người con của bác giúp bác mỗi tháng 200 quan Thụy Sĩ (thời điểm 1986) chắc bác sống không khó khăn lắm đâu!

Bác Chấn mỉm cười trả lời:

– Cháu tưởng đơn giản như thế sao? Giả dụ mà chúng nó gửi cho bác 200 quan mỗi tháng thì cũng chỉ đủ cho sinh sống bình thường mà thôi. Còn lúc ốm đau, chi dụng cho việc thuê nhà, cho người quen, họ hàng để người ta vui vẻ mà săn sóc cho mình làm sao mà đủ? Tuổi già của bác đâu có thể sống độc lập được, mà phải dựa vào người khác, nhất là lúc ốm đau, dù là họ hàng, quen biết cũng phải có tiền, không dễ dàng như cháu nghĩ đâu!

Nghe bác tâm sự, tôi đã đã tạm hiểu hoàn cảnh của bác. Đúng như vậy, cái sai lầm là bác đã bán nhà, thu dọn tài sản để gửi cho con mong được sống gần con. Điều này nghe ra đơn giản và hợp lý như thói thường của gia đình văn hoá Việt Nam, nhưng với hai người con của bác, sự việc đã xảy ra khác hoàn toàn. Tìm một giải quyết cho bác không dễ dàng, họa chăng một hay cả hai người con bác biết cảm thông nỗi cô đơn, buồn bã của mẹ mà tìm cách giúp đỡ mà thôi. Bác không nói ra, nhưng tôi có cảm tưởng hai người con bác không như bác chờ mong.

Trước khi chia tay tôi ân cần nhắc lại lời mời của gia đình tôi, bất cứ lúc nào bác có ý muốn đến nhà tôi chơi nhiều tuần, vài tháng hoàn toàn không có gì khó khăn. Hình như nhìn rõ sự chân thành của tôi, bác vuốt nhẹ bàn tay vợ tôi mỉm cười và hỏi vợ tôi:

– Cháu có phiền lòng nếu bác đến nhà cháu chơi không?

Dù ngôn ngữ Việt Nam chỉ hiểu lõm bõm, nhưng vợ tôi cảm nhận hoàn toàn ý nghĩa lời nói của bác qua ánh mắt, khuôn mặt và cả dáng điệu chân thành trong giọng nói, nụ cười của bác. Vợ tôi đưa tay ra dấu thêu đan, lõm bõm câu tiếng Việt:

– Bác cứ đến chơi đi… có nhiều việc làm với nhau lắm, bác đừng lo!

Nghe vợ tôi nói, không giấu được niềm vui ngỡ ngàng hiện lồ lộ trên khuôn mặt, ánh mắt, bác cầm lấy bàn tay vợ tôi vuốt ve:

– Bác cám ơn cháu lắm lắm, cháu là người vợ hiền, dâu thảo.

Có lẽ đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc gặp gỡ bác, hôm qua và hôm nay tôi đã nhìn thấy bác cười, vẻ buồn bã biến mất, thay vào đó là niềm vui hiện trên khuôn mặt, trong ánh mắt của người đàn bà xấp xỉ 70 tuổi mà tôi cũng chỉ quen biết thoáng qua trong quá khứ.

***

Trở về Zürich đã cả tháng trời, vì bận rộn với sinh nhai tôi cũng chẳng có dịp liên lạc với bác nữa. Đôi lúc trong trí nhớ tôi cũng nghĩ đến bác, nhưng cho rằng với thời gian bác sẽ làm quen với những người Việt Nam khác, rồi cũng giống như mọi người, đâu vào đó mà thôi. Nhưng bất thình lình vào buổi tối khi tôi đang ăn dở bữa cơm thì bác gọi đến. Với giọng nói thều thào, chứa đầy buồn bã, chán nản bác cho biết hiện đang ở bịnh viện đã gần một tuần lễ nay. Tôi hỏi lý do, bác không nói rõ ràng lắm nhưng có lẽ liên quan đến tim mạch lại thêm bị trầm uất vì buồn bã, cô đơn mà ra. Bác khóc qua điện thoại cho biết hai người con chỉ đến thăm bác một lần duy nhất vào ngày đầu tiên, sau đó vì bận rộn họ chỉ điện thoại hỏi thăm mà thôi. Tôi buông tiếng thở dài, nói vài câu an ủi bác, hứa sẽ chở vợ đến thăm bác vào ngày mai hay ngày kia! Có lẽ cảm nhận được ý nghĩa tiếng thở dài của tôi trong điện thoại, bác nói rất nhẹ:

– Cám ơn vợ chồng cháu, biết là làm phiền cháu nhưng bác muốn gặp lại các cháu lắm. Cháu cố đến với bác lần nữa nhé. (Rồi một tiếng thở dài, bác nói tiếp) chắc bác không có dịp gặp lại vợ chồng cháu nữa đâu.

Tôi nghe mà rụng rời, tưởng như bác muốn gặp để nói lời trối trăn! Tôi nói vài câu an ủi, nâng đỡ tinh thần rồi hứa chắc ngay ngày mai sẽ xin nghỉ làm một ngày đến thăm bác.

Xế chiều hôm sau chúng tôi đến bệnh viện của tỉnh, căn phòng khá rộng có 4 bệnh nhân. Chúng tôi đã giật mình đến độ nghi ngờ thị giác của mình khi nhìn thấy bác nằm như đang ngủ. Chỉ hơn một tháng trời mà sắc diện của bác thay đổi quá mau! Khuôn mặt tái xanh, hốc hác như người bệnh lâu năm, cơ thể như bị thu nhỏ lại nằm ép dính xuống tấm nệm của chiếc giường! Cánh tay trái khẳng khiu, tái xanh thò ra ngoài chiếc chăn, được nối với sợi dây truyền serum treo lủng lẳng trên chiếc giá bằng alumin trắng. Tôi nhẹ nhàng nắm lấy cổ tay xương xẩu làm bác giật mình tỉnh dậy. Nhìn thấy chúng tôi, sự vui mừng, cảm động hiện rõ trên khuôn mặt già nua trắng bệch, bác gật đầu nhẹ, đáp lại lời chào hỏi của vợ chồng tôi, rồi thều thào:

– Cám ơn hai cháu đã đến thăm bác, mời hai cháu ngồi!

Bác cho biết mấy ngày trước tự nhiên bị mệt mỏi, chóng mặt rồi bị xỉu, ngã ngay ở bếp vào ban đêm. Yến nghe tiếng động của chiếc ghế bị đổ, chạy ra mới biết và chở bác đến bệnh viện. Qua kiểm nghiệm bác sĩ cho biết do chứng suy tim đã có từ trước kèm theo thận và gan hoạt động không bình thường gây tắc trách sự tuần hoàn dẫn đến chứng lậm độc máu.

Sau vài giờ đồng hồ tâm sự, bác kể cho chúng nghe những ngày tháng cô độc, buồn chán càng lúc càng đè nặng lên bác vừa qua. Tôi cũng chỉ biết khuyên nhủ để nâng đỡ tinh thần bác mà thôi. Trước khi từ giã, bác nói với vợ chồng tôi trong nước mắt:

– Chắc bác và vợ chồng cháu không có dịp gặp lại nhau nữa đâu! Dù thế nào thì bác rất cảm động với lòng tốt của các cháu đã vì thương bác mà nghe tất cả những lời tâm sự của bác. Bác cũng không ngờ cuối đời mình lại cô độc và buồn đau như thế này. Con của bác vì bận rộn hay vì vô tâm mà chúng quên săn sóc bác, nhưng biết làm sao ngoài sự im lặng, tủi thân! Nhưng ít ra vào lúc cuối đời bác cũng có một niềm vui đó là có hai cháu để hàn huyên, tâm sự ….

Dù rất mệt, tiếng nói thều thào nhưng bác nói với chúng tôi khá nhiều, toàn là những câu nói đượm buồn và kín đáo than van! Tôi có cảm tưởng tinh thần bác hoàn toàn suy sụp, buông xuôi. Nỗi chán nản cùng cực của bác không những thể hiện trên khuôn mặt mà còn trong những lời nói như muốn gửi những lời trăn trối với vợ chồng tôi. Tôi cố gieo vào bác lòng tin về tài năng của y học Thụy Sĩ, họ sẽ mang lại cho bác sức khoẻ và niềm vui. Tôi hứa chắc chắn khi bác khỏe mạnh tôi sẽ xuống chở bác lên chơi với gia đình tôi vài tháng. Bác nghe lời hứa của tôi trong trạng thái bâng quơ hình như kín đáo che dấu sự thất vọng ở trong lòng.

Sau khi từ giã ra về, tôi tạt vào phòng y tá trực của dãy phòng bác nằm, ý định gặp người y tá nào đó nói với họ vài lời cám ơn, nhân tiện nhờ họ thông báo cho tôi biết ngay nếu có gì cần thiết. Thật may, tôi gặp được cô y tá trưởng, biết nói tiếng Đức, nhờ vậy mà vấn đề giao tiếp, nhờ vả của tôi dễ dàng hơn. Tôi cũng chẳng ngần ngại nói rõ với cô ta sự thật về hoàn cảnh không vui của bác cùng với sự nhạt tình, thiếu săn sóc của hai người con. Tôi mong cô ta cảm thương nỗi cô tịch của bác mà đặc biệt quan tâm. Tôi cũng không quên đưa cho cô ta số điện thoại, ân cần xin cô ta báo tin cho tôi biết ngay, bất cứ giờ nào, ban đêm hay ban ngày nếu có gì bất trắc, để tôi kịp đến thăm viếng hay giúp đỡ bác nếu cần.

Trở về nhà, vừa được 2 ngày, vào buổi sáng khi đang sửa soạn đi làm thì cô y tá trưởng từ bệnh viện Genève gọi đến. Tôi giật mình, linh cảm có gì không may xảy đến cho bác rồi. Cô ta cho biết bác hiện đang ở khoa cấp cứu, trong tình trạng tuyệt vọng! Với tí chút ngập ngừng cô ta cho biết đêm hôm qua vào khoảng nửa đêm, khi mọi người an ngủ, bác đã dùng kéo cắt đứt sợi dây chuyền serum, rồi để nguyên mũi kim trong mạch máu ở khủy tay cho máu chẩy ra ngấm vào chăn, đệm! Khi người y tá trực đêm biết thì bác đã rơi vào hôn mê. Bác sĩ khoa cấp cứu cho biết rất khó hy vọng cứu chữa vì bệnh nhân đã bị sẵn bệnh về tim mạch lại cơ thể rất yếu. Theo cô ta, nếu tôi đến bệnh viện trước buổi trưa hy vọng có thể gặp được bác lần cuối cùng.

Dù bị vướng bận với việc làm, nhưng tôi cũng xin nghỉ, lái xe một mình xuống Genève hy vọng gặp được bác thêm một lần nữa. Trên đường đi, tôi cầu mong sự kiện không phải quá bi đát như lời cô y tá nói.

Đến Genève, người đầu tiên tôi tìm gặp là cô y tá ,cô ta cho biết bác đã mất ngay sau khi cô ta điện thoại cho tôi, hiện đang nằm ở một phòng riêng gần khu nhà xác của bệnh viện để làm thủ tục cần thiết trước khi đưa vào nhà xác của bệnh viện. Tôi thẩn thờ khi biết mình đến quá chậm để không gặp được bác lần cuối cùng!

Mở cửa bước vào căn phòng nhỏ ở cuối hành lang của dãy nhà phụ được tách biệt với khu vực chính của bệnh viện. Chỉ có một chiếc giường duy nhất trên đó bác Chấn đang nằm. Cặp mắt của bác nhắm lại, bình thản như đang trong giấc ngủ! Chỉ có khác là khuôn mặt của bác hốc hác làm cho đôi gò má nổi hẳn lên giữa màu xám, tái xanh xấu xí của làn da mặt. Tôi im lặng đặt nhẹ bàn tay lên thân thể, lên cánh tay xương xẩu của bác như muốn cảm nhận rõ hơn cái lạnh lẽo của cơ thể cũng như nỗi buồn đau, cô độc của tâm hồn bác lúc ra đi.

Cũng chính lúc đó, lời tâm sự của bác mấy ngày trước khi vợ chồng tôi đến thăm bác ở bệnh viện hình như vang nhẹ bên tai tôi: “Bác đã lầm lẫn chọn lựa! cái lầm lẫn đã làm cho bác mất tất cả! Mất nhà cửa, mất tiền bạc nữ trang và có lẽ mất cả hai đứa con của bác nữa! Bác đã không thể hình dung ra cuộc sống xa quê hương lại mang đến cho bác thất vọng và buồn đau đến như thế! Nhưng ân hận cũng đã muộn, chẳng còn giải quyết nào khác hơn là phải chấp nhận những ngày tháng cô liêu đang đến. Nhưng bác tự hỏi bác có can đảm để chấp nhận nó suốt cuộc đời còn lại của bác hay không?”

Tôi đưa mắt nhìn qua khung cửa sổ, bên ngoài ánh nắng hoàng hôn đổ dài trên con đường trải đá sỏi trong khung viên của bệnh viện. Vài con chim nho nhỏ chuyền nhẩy trên cành cây làm rung động những bông hoa cuối mùa đã khô vì nắng gió còn sót trên những ngọn cây… Không gian thật vô tư, im lặng, chẳng có gì khác lạ để cảm thương cho một người mẹ đã vượt xa biết bao nhiêu khoảng cách trời đất, rời bỏ quê hương đến nơi đây với hy vọng được sống gần những đứa con, tìm cho mình một niềm vui đoàn tụ. Nhưng cuối cùng phải mang lấy nỗi buồn đau, cô tịch mà về với hư vô!

Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn
(Switzerland, Zuerich)

Nguồn: https://www.rongmotamhon.net/xem-sach_Khoang-trong-cuoi-doi_gmlmsgqs_show.html

From:TU-PHUNG

THƯ TÌNH VIẾT MUỘN!

THƯ TÌNH VIẾT MUỘN!

 Cụ Nguyễn Văn Tuyết
(cụ vừa mới từ trần ở Paris , hưởng thọ 91 tuổi)

Paris ngày 14 tháng 10 năm 20xx
 
Bà nó à!
À mà thôi, gọi là EM đi cho tình tứ như ngày xưa chúng mình cùng chung giường chung gối, chung cả đường đi lẫn lối về em nhá. Dù rằng nay đôi ta mỗi người một ngả, lại đông con nhiều cháu mà còn xưng hô “anh em” thì e rằng con cháu nó cười. Nhưng đây là tình thư của anh gửi tới em, lá thư đầu tiên và cũng là lá thư cuối cùng. Anh viết thư này từ ngày 14/10/20xx, mỗi ngày vài dòng, khổ nỗi mỗi khi viết đến tên em là như có hơi nước che mờ cặp kính nên anh đành phải buông bút, dụi mắt thở dài! Viết lâu rồi đấy mà chưa nói được gì với em! Chuyện tình trong 60 năm dễ gì nói trong vài trang giấy, kể trong vài ngày.


Thôi thì thế này nhá, nếu không xong để gửi qua đường bưu điện thì anh sẽ mang đến nơi em đang ở để trao tận tay. Anh biết nơi em ở rồi, kể từ khi em dọn về bên ấy, anh đã rất nhiều lần đi vòng quanh bên ngoài để ngắm một căn nhà 2 tầng(*) nhỏ-nhắn, xinh-xắn, mà nghe đâu em khoe với hàng xóm rằng:
– “Tôi ở tầng dưới, còn tầng trên để dành cho nhà tôi”…

 
***
Em à!
Nhớ lại ngày nào em là thiếu nữ 16 tuổi xinh tươi làng Vạn, hoa khôi huyện Yên Phong, còn anh là trai làng Đại Lâm, chúng mình cùng tỉnh Bắc Ninh, nhưng anh theo gia đình ra Hà Nội học nên không có dịp “thả thơ”
Em còn nhớ những vụ “thả thơ” này không? Dì Phách, cô em gái của em nói rằng em đẹp lắm lại là con nhà có của nên trai huyện trai làng nhiều người ngấp nghé, mỗi khi em đi chợ thì họ len lén bỏ thư vào cái làn mây em xách tay, khi về nhà mới biết, thế là mấy chị em đọc thư tỏ tình của các chàng nhát gái mà cười bò ra, nghe cũng vui đấy nhỉ. Nhưng anh thì chưa có dịp thả thơ như thế.
Khi bố anh cần người giúp ông trong việc kinh doanh nên đã bắt anh lập gia đình sớm, anh có quen biết nhiều cô gái ở Hà Nội nhưng không thương ai. Thế rồi một hôm bố anh bảo diện vào rồi đi chợ huyện Yên Phong với ông, anh hỏi bố rằng con đi chợ làm gì thì bố nói:
– Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
Khi đến chợ rồi mới biết ngày đó em cũng đi chợ, có lẽ người lớn đã sắp xếp cho chúng mình trông thấy nhau. Nghĩ lại cũng buồn cười nhỉ, bây giờ khác xưa rồi, trai gái quen biết và yêu rồi mới dẫn cha mẹ hai bên gặp nhau.
“Anh trông thấy em đi chợ anh thương”. Bố chưa kịp hỏi ý kiến anh có bằng lòng “cô ấy” hay không thì anh vội nói trước:
– Chưa gặp đã bén hơi. Tại duyên số rồi bố ơi!
Thế là bố khuyên anh “cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” nên anh vội nhờ người đem tặng em “một thúng xôi vò, một con lợn béo một vò rượu tăm. Tặng em đôi gối em nằm, cái chăn em đắp..” năm đó chúng mình vừa tròn 17.
Họ hàng nhà trai khen em xinh gái và có duyên, nhưng bố anh thì nói: “vợ chồng cùng tuổi nằm duỗi mà ăn”, và để cho con đừng có ỷ lại nằm duỗi mà ăn nên ông cụ đã giao cho vợ chồng mình xưởng sửa chữa và cho thuê xe xích-lô.

 
Yêu em mãi mãi  
   Nhạc Từ Công Phụng – Cố NT/KQ Vũ Văn Ước trình bầy
 
Khởi đầu là thế, mình sống đầm ấm bên nhau, không vất vả về kinh tế nên năm 1941 em sinh con gái đầu lòng, anh đặt tên con là Trinh. Rồi lần lượt có thêm con Thục, con Thuý, cả ba xinh gái giống mẹ. Sau 3 cô con gái là em sinh liền cho anh 4 cậu con trai, tên các con là Phong, Tuấn, Quang, Anh. Đời sống gia đình đang thanh bình ấm êm, các con đi học có xích lô đưa đón thì bỗng “trời đất nổi cơn gió bụi”, em má hồng chịu nỗi chuân chuyên, bụng mang dạ chửa mà phải cùng gia đình di cư vào Nam. Vừa đến Hải Phòng thì em sinh con gái thứ tư nên mình đặt tên con là Nguyễn Thị Hải, và Hải là đứa con thứ tám cùng theo bố mẹ di cư 1954 vào vùng đất lạ.
Cưới năm 1939 tới 1954 khi di cư mới được có 8 con nên em nói còn ít. Nhớ hôm dẫn em vào bảo sanh viện, anh nắm tay em an ủi thì em mỉm cười nói:
– Anh còn phải đưa em vào bảo sanh viện tám lần nữa, vì thầy tướng số nói em sẽ có 16 người con tất cả”.
Nghe em nói xong anh cười to khiến mấy bà bầu ngồi ở phòng chờ đợi quay sang nhìn vợ chồng mình, chắc họ tưởng mình vui vì mới có con đầu lòng. Nghĩ vậy nên anh ghé vào tai em thì thầm:
– Bao nhiêu cũng được, chỉ sợ vất vả cho em thôi, còn anh thì …lo tất.

 
***
Vào tới Saigon, gia đình mình ở số nhà 247 đường Thành Thái, Chợ Lớn, gần ngã tư Trần Bình Trọng. Em vẫn tề gia nội trợ, còn anh, xoay đủ nghề. Từ mở trường dạy lái xe hơi lúc mới vào rồi làm tôm đông lạnh ở Rạch Giá, lập trại trồng nấm rơm ở suối Lồ Ồ Dĩ An, thầu xây dựng với anhThúc, làm cho USOM, và như em biết đấy, công việc cuối cùng của anh là làm việc ở tòa Lãnh Sự Pháp Saigon, nhờ đó mà sau 30/4/1975 gia đình ta đi định cư tại Paris.
Tuy nhiên anh đã không giúp em được toại nguyện theo như lời khuyên của thầy tướng số nên trong thời gian ở Saigon, vợ chồng mình chỉ thêm được có 4 “cậu” là Tiến, Thắng, Thụy, Xương và 2 “cô” Loan, Hà, vị chi là 14 mụn con gồm 6 gái, 8 trai, còn thiếu 2 vì thế em mới nuôi thêm 2 cháu ngoại là Yến và Việt, con của Thúy để cho đủ 16 đứa.

Nay tuy không được vuông tròn trọn vẹn nhưng tất cả đã ổn định cả rồi. Hiện tại ở Mỹ có 3 cô 2 cậu, ở Pháp có 4 cậu, 3 cô. Con nào cũng có gia đình hạnh phúc một vợ một chồng và đã tặng cho em rất đông cháu nội ngoại và đã hơn 10 chắt rồi đó. Duy chỉ còn cô út Thu Hà, đẹp, thông minh hoạt bát, nhiều chàng ngấp nghé lắm nhưng con gái út của chúng mình lơ là chuyện này mà lại siêng năng nghiên cứu kinh sách nhà Phật. Tại duyên số thôi.
 
Anh rất hài lòng vì các con, trai gái thì hiếu thảo con dâu nào cũng coi như con đẻ, nhất là Yến, vợ Quang, hiện là chị dâu trưởng, là gương mẫu cho các em. Còn con rể ư? Các cụ xưa gọi con rể là tế-tử nên anh thấy tế-tử nào cũng tử tế cả, các anh ấy là người biết điều, lo toan mọi bề cho vợ con, lại hiền lành. Duy chỉ có chồng của Thúy, tức bố của Yến-Việt là quân nhân nên vất vả và luôn phải xa gia đình, nghèo và hơi ngang. Em nhớ không, lần đầu tiên hắn đến nhà mình thăm con Thúy mà lại ngồi gác chân mang giầy nhà binh lên bàn! Anh giận quá! Nhưng bù lại, nay mỗi lần anh sang Mỹ thăm con cháu, thì bố Việt chở anh ra khu chợ ABC mua bánh ngọt, đi ăn hủ tíu Mỹ Tho, lại còn bảo vợ chồng Việt “niềng” răng cho ông ngoại, anh thấy vui vui nên nói:
– “Khỏi niềng, răng của ông còn rất tốt và đẹp nữa, con chỉ cần bỏ vào ly nước ngâm với thuốc sát trùng cho ông là được rồi.”
Anh nói tới đâu rồi nhỉ? Thế đấy, còn minh mẫn nhưng hơi lộn xộn nên thư viết cho em cứ chuyện nọ xọ sang chuyện kia. À nhớ ra rồi, tới chỗ vuông tròn.
Anh nói không được vuông tròn trọn vẹn là vì con gái đầu lòng đã ra đi khi vừa tới Mỹ, và hai con trai hy sinh cho Tổ Quốc, cậu cả Phong bị thương ở Ban-Mê-Thuột rồi hy sinh, cậu Tuấn thì tử trận trên biển, chìm theo hộ tống hạm HQ10 trong trận hải chiến để bảo vệ Hoàng Sa chống lại quân xâm lược Trung Cộng vào ngày 19 tháng 1 năm 1974.
Em à, anh không muốn nhắc chuyện xưa làm đau lòng em khi mất đi 2 đứa con trai tuổi còn quá trẻ, nhưng cũng là một đóng góp cho đất nước như biết bao các gia đình khác. Mới đây ông HQ Đặng Thanh Long đã thay mặt Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tổng Hội Hải Quân Hải Ngoại đem cuốn Hải Sử Tuyển Tập và Hải Sử HQVNCH đến tặng gia đình ta với bút tích ghi ở trang đầu như sau:
“Kính biếu gia đình liệt sĩ Hoàng Sa HQ Nguyễn Văn Tuấn”.

 
***
Thấm thoát thời gian mau thế đấy em nhỉ, chả cần nói nhiều thì các con cũng biết từ lúc có đứa con đầu lòng ở Hà Nội rồi có thêm cô Út Hà ở Saigon rồi gia đình ta di tản, bảo lãnh, vượt biển vượt biên mà được thế này cũng là tạ ơn trời đất lắm rồi. Nhưng bất hạnh thay, em lại bỏ anh mà đi! Dễ chừng gần chục năm rồi chứ ít sao? Lúc trước anh nhớ chính xác ngày giờ năm tháng em ra đi, nhưng sau lần anh bị té dập đầu thì trí nhớ không còn tốt. Thôi để anh mở sổ ra xem ngày nào em bỏ anh ra đi. Đây rồi, ngày 14 tháng 10 năm 2002, và anh viết lá thư này cho em cũng vào ngày 14 tháng 10, em đi đã được 8 năm rồi đó.

 
Em à! Anh nhớ rõ là em bị bệnh thận, đang lọc máu thì bị té dập xương chậu và sau một thời gian ngắn thì em ra đi! Ngày đó mắt anh đã khô, khi thấy con cháu vây quanh mẹ, quanh bà nức nở khóc làm anh nghẹn cổ họng.
Thôi thế cũng xong, vì hiện nay em luôn được mạnh khỏe, không còn lo lắng về bệnh tật, cuộc sống mới lại bình an, thảnh thơi mãi mãi. Nhưng cẩn thận nhá, mỗi lần “vân du” em nhớ mang theo áo ấm và gài dây an toàn kẻo gió mạnh lại thổi bay mất thôi.
Em nhớ không? Lúc sinh thời mỗi lần mang thuốc và nước đến cho em thì anh chỉ nói vắn tắt: “thuốc đây, bà uống đi”! Nay anh muốn gọi tiếng EM, nói thật nhiều lời thương yêu thì giọng anh đã khò khè, thở không ra hơi! Hối hận quá!
Khi em đi rồi mà đàn chim bồ câu cứ đúng giờ nó lại bay về đậu trên thành cửa sổ, cái của sổ của căn phòng trên tầng thứ 15 của tòa biu-dinh thuộc thị xã Alfort Ville, ngó ngay ra bờ sông Seine, từng đôi chim gù-gù sát cánh bên nhau chờ những miếng bánh mì mà em bẻ vụn ra rồi rắc cho chúng ăn.

 
Ngày đó anh cằn nhằn em hoài vì cái việc cho chim ăn, nó ăn rồi ị, sương mù và mưa phùn làm bánh mì thừa ướt nhão nhẹt ra rồi mốc xanh lên khiến anh lại phải dọn. Bực mình anh la thì em nhỏ nhẹ nói: “tội nghiệp chúng nó”. Thôi đành cứ để em cho chim ăn rồi anh dọn phân và thức ăn thừa kẻo gió lùa vào phòng mình hôi cứt chim. Khi em về trên đó rồi, mình anh ở lại mỗi ngày phải nhìn từng đôi chim gù gù tỉa cánh cho nhau mà nhớ em vô vàn. Đó là lý do thầm kín anh không muốn rời căn phòng này để về ở với con cháu.
 
***
Có những chiều Hè hoàng hôn nắng úa, đứng ngắm hình em treo trên tường, anh thì thầm: “sao em không nói với anh” rồi ngó qua cửa sổ anh bỗng thấy như có mưa phùn chiều Đông, thì ra mắt anh mờ và anh cảm thấy lạnh lẽo!
Tất cả đồ dùng của em còn để nguyên chỗ cũ, nhìn đâu cũng thấy em vì thế các con xin dọn cho gọn gàng thì anh không cho. Bẩy cô cậu thay nhau thuyết phục bố về ở với các con nhưng anh nhất định không muốn rời xa nơi này, tuy không còn là tổ ấm nhưng còn cái ghế em ngồi, còn cửa sổ mà em đứng rắc bánh mì cho chim ăn. Anh không thổ lộ những điều thầm kín đó mà chỉ nói:
– “Bố còn khỏe, tự lo cho mình được mà, các con cứ yên tâm”.
Mà anh còn khỏe thực, mỗi sáng không còn lái xe ra Paris 13 để ăn hủ tíu và mua báo Văn Nghệ Tiền Phong nữa thì anh đi bộ quanh phòng, đi dăm ba bước anh dừng lại nghỉ dăm phút, cứ như thế mỗi giờ cũng đi được hơn một vòng. Anh cũng vẫn ăn được, mỗi ngày cô Hải mang cơm nóng canh sốt sang cho bố rồi dọn dẹp nhà của, Hải về thì cô út Hà sang lo mọi việc giấy tờ về sức khỏe của bố. Cậu cả Quang tuy ít nói nhưng phân công đâu ra đó cho các em trai Thắng, Thụy, Xương luân phiên trực đêm bên bố và chở bố đi Paris 13, khu phố Việt, phố Tàu.

 
Tuy sống độc thân nhưng anh không cô độc, mỗi thứ Bẩy và Chúa Nhật là con trai gái dâu rể, cháu nội ngoại kéo nhau về tụ họp trong căn phòng nhỏ này. Khi trước còn khỏe thì anh nấu một nồi phở thật to, nay thì mỗi con mang theo một thứ, căn phòng không chỉ ấm cúng mà còn nóng lên nữa ấy chứ. Những lúc đó thì anh lại nghĩ đến em, để cho con cháu vui chơi, anh lẳng lặng đi nằm, ứa nước mắt vì sung sướng nghe tiếng cười của con cháu nhưng cũng ứa nước mắt khi thiếu tiếng em! Thì ra “con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”, ông nuôi bà.
Cách nay khá lâu, anh đang vịn tường để đi vào phòng tắm thì bị té, các con vội đưa đi cấp cứu, bệnh viện khám phá ra một mạch máu trong đầu bị nghẽn khiến anh té chứ không phải tại anh vô ý.
Nhớ mãi hôm ấy thấy em đến thăm anh trong bệnh viện, anh vội vàng ngồi dậy, ba chân bốn cẳng chạy ra đón em và anh bị vấp té, choàng mở mắt thì biết anh vừa nằm mơ và giận quá tại sao mình không cẩn thận để bị té rồi tỉnh lại mà không được nắm tay em. Vừa lúc đó anh nghe cô ý tá nói:
– Từ nay cụ phải dùng cái này.
Ngó xem thì ra là cái gậy chống, ở cuối có 4 chân bịt cao su. Nếu anh chống gậy này mà đi thăm em thì đúng là “ba chân bốn cẳng rồi”.! Anh không thích chống gậy, trông giống ông cụ quá! Đối với anh, em vẫn còn khỏe và còn trẻ, người cõi tiên thì “trẻ mãi không già” mà.

 
Nằm bệnh viện được mấy ngày thì anh đòi về nhà, nhớ căn phòng quá, nhưng các con không cho, lựa khi các con không có mặt, anh “ba chân bốn cẳng” vào phòng bác sĩ trực năn nỉ xin xuất viện và họ “đắc-co”
Về nhà được mấy ngày thì anh lại “ba chân bốn cẳng” mang hoa đến tặng em, nhưng gõ của hoài mà không nghe tiếng ai trả lời, hình như mấy cô tiên đưa em vân du trên cẩu Vồng hay du Nguyệt Điện thì phải. Rõ chán! Cả đời ở bên nhau, anh chưa bao giờ tặng em một cánh hoa, tại anh thấy em là hoa đẹp rồi. Anh mong sớm có ngày được đoàn tụ cùng em nắm tay nhau tung mây lướt gió.

 
Một mai tôi qua đời  
Nhạc Phạm Trọng Cầu – Mỹ Linh trình bầy
 
Sống với nhau hơn 60 năm, “sáu mươi năm cuộc đời” được 14 mặt con mà mình chưa bao giờ “to tiếng” với nhau, cằn nhằn thì có, nhưng chưa một lần em phải buồn phiền vì anh uống rượu, hút thuốc, đánh bạc và lăng nhăng, vì anh không thích những thứ đó, vì anh đã có em. Tính đến nay xa em đã 8 năm, thời gian cũng quá đủ suy ngẫm về thói đời hay coi thường hạnh phúc đang có sẵn trong tay mà không biết vun quén. Anh đang mong ngày tái ngộ.
Cầu được ước thấy, mới tuần trước đây anh đang đứng vịn tường tập thể dục thì tự động ngã, bệnh viện cho biết những mạch máu li ti trên đầu bị vỡ, các con bao quanh lo lắng và bác sĩ họ đang cố gắng nối lại, nhưng anh nói:
_ “Thôi”.
Sống với con cháu như vậy là quá đủ rồi, lo cho các con như vậy cũng tạm ổn, nhìn lên không bằng ai nhưng nhìn xuống thì không ai bằng. Tuy các con không giầu có gì, nhưng đủ ăn và hạnh phúc, nhất là các con một vợ một chồng, như đũa có đôi và anh chị em thương yêu nhau. Anh nói với các con:
_ “Các con như đũa có đôi, để ba về với mợ chứ, căn phòng trên lầu nơi mợ ở dành cho ba đã có sẵn tiện nghi rồi, các con đừng lo lắng và bịn rịn nữa. Chúc các con ở lại bình an, đùm bọc và thương yêu nhau như từ trước tới nay”.

 Em à! Hôm nay là ngày 14 tháng 9 năm 2010, chỉ còn đúng một tháng nữa là trùng vào ngày em đi, 14/10, bác sĩ cũng vừa báo cho biết họ sẽ “búc” vé cho anh. Như vậy là mọi việc đã sẵn sàng tốt đẹp, anh không mang theo gì cả. Khi nào có vé thì anh sẽ gọi phôn cho em biết để mở cửa cho anh vào. Nếu em nghe không rõ tiếng người mà chỉ thoáng phì phò tiếng gió thì biết đó là lúc anh đã cất cánh.
Hẹn gặp em một ngày rất gần.
Vĩnh biệt các con và các cháu cùng các chắt.
Nguyễn văn Tuyết
.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(*) Mộ 2 tầng, ai đi trước nằm tầng dưới, ai đi sau nằm tầng trên.

From: Tuyen – Ho Nguyen