Lấy yêu thương xóa bỏ hận thù

Lấy yêu thương xóa bỏ hận thù

(Câu chuyện có thật)

Tại một nơi sâu hun hút trong khu rừng Hürtgen, một phụ nữ Đức tên Elisabeth Vincken dẫn theo cậu con trai 12 tuổi Frisbey lánh đến đây dựng một căn nhà gỗ ở tạm, bởi tiệm bánh của họ trong thành phố đã bị những trận oanh tạc trên không của quân đồng minh phá hủy tan tành.

Đêm giáng sinh, hai mẹ con Frisbey rất mong chồng và cha của họ đang làm việc trên thị trấn về nhà đoàn tụ, cùng đón Chúa sinh ra đời. Thế nhưng hôm đó tuyết rơi nhiều bao trùm cả ngọn núi nên có thể bố của Frisbey khó trở về nhà.

Đột nhiên, tiếng gõ cửa dồn dập vang lên. Cậu bé Frisbey ngỡ rằng cha về, vội chạy ra mở cửa song mẹ cậu đã nhanh hơn. Elisabeth vừa hé cửa thì thấy có 2 binh sĩ đội mũ cối sắt đứng ngoài, còn 1 người khác đang nằm trên tuyết nhìn như đã chết.

Elisabeth ý thức ngay được rằng đó là lính Mỹ – đối thủ không đội trời chung của quân Đức thời điểm đó.

Họ thuộc sư đoàn 8 binh đoàn bộ binh 121, bị lạc mất đội và loanh quanh trong rừng sâu suốt 3 ngày, vừa phải tìm cách tránh quân Đức, vừa phải tìm lối thoát. Vừa đói vừa rét, người họ thâm tím, trong đó 1 người bị trúng đạn ở chân, mất rất nhiều máu, có thể sống được hay không chẳng ai có thể nói được vào lúc đó.

Mặc dù có súng trong tay song họ vẫn gõ cửa nhà Elisabeth một cách lịch sự.

Người mẹ dù không hiểu họ nói gì những cô hiểu ý của những binh sĩ Mỹ. Trầm ngâm một lúc, cô mời họ vào nhà và đưa người bị thương lên giường của Frisbey nghỉ ngơi, giúp anh ta làm ấm tay, đồng thời sai con đi bắt gà, lấy thêm vài củ khoai tây để làm cơm giáng sinh.

Không lâu sau, mùi gà nướng thơm phức đã bay ngào ngạt khắp nhà. Cùng lúc đó, Elisabeth nhận ra cô có thể nói chuyện với một lính mỹ bằng tiếng Pháp, không khí căng thẳng trong nhà lập tức giảm đi rất nhiều.

Một lúc sau, lại có tiếng gõ cửa dồn dập vang lên. Frisbey chạy ra mở cửa. Thấy 4 lính Đức đứng ngay trước cửa, cậu bé quá đỗi sợ hãy, người như bị đóng băng. Dù là trẻ con, Frisbey cũng biết rõ quy định của Đức quốc xã khi đó, rằng cứ chứa chấp quân địch là giết ngay, không cần giải thích.

Elisabeth điềm tĩnh bước ra, nói với viên sĩ quan chỉ huy trong nhóm: “Giáng sinh an lành!”

Viên sĩ quan nói anh ta và cấp dưới của mình bị lạc đường, muốn ở nhờ trong nhà Elisabeth một đêm.

Người phụ nữ này vẫn bình tĩnh trả lời: “Mời các anh vào nhà cho ấm, và cũng mời các anh ăn cơm giáng sinh với chúng tôi. Tuy nhiên, chúng tôi cũng có những vị khách khác, họ không phải là bạn của các anh, hi vọng các anh có thể chấp nhận họ.”

Viên sĩ quan người Đức lập tức cảnh giác và hỏi dồn: “Ở trong nhà có người? Chúng là người Mỹ?”

Elisabeth đáp: “Vâng, hôm nay là đêm giáng sinh, không ai được phép động thủ, mời các anh để vũ khí ở bên ngoài.”

Viên sĩ quan Đức nhìn Elisabeth một cái, rồi ra hiệu cho những người khác để vũ khí ngoài cửa trước khi bước vào nhà.

Những viên lính Mỹ trong phòng bỗng chốc trở lên căng thẳng, vội vã cầm chắc súng trong tay. Một người thậm chí còn rút súng lục, chuẩn bị bắn lính Đức đang tiến vào. Thế nhưng Elisabeth đã ngăn cản anh ta và lặp lại những câu nói mà cô vừa nói với lính Đức: “Hôm nay là đêm giáng sinh, không được phép tàn sát, hãy đưa súng cho tôi.”

Và như thế, người phụ nữ thu hồi cây súng trong tay viên lính Mỹ đang lo lắng hơn là chủ động.

Elisabeth sắp xếp để khách ngồi quanh một cái bàn. Vì ngôi nhà khá chật hẹp nên lính Mỹ, lính Đức phải ngồi sát cạnh nhau, không khí rất căng thẳng. Hai bên, ai cũng nâng cao cảnh giác, đề phòng vì không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Chỉ có nữ chủ nhà là vừa cười nói, vừa bận rộn chuẩn bị bữa tối giáng sinh.

Vài phút sau, mùi thức ăn hấp dẫn cộng thêm thái độ nhiệt tình của chủ nhà nên trạng thái căng thẳng dần dần được thả lỏng.

Một lính Mỹ lấy ra một hộp thuốc lá mời những viên lính Đức, trong khi một viên lính Đức lại rút ra một bình rượu vang và một cái bánh mỳ trong chiếc ba lô trên lưng ra chia cho mọi người. Một viên lính Đức thậm chí khi thấy viên lính Mỹ bị thương còn lại gần kiểm tra vết và xử lý lại vết thương cho người mà nếu ở chỗ khác, anh ta sẽ là kẻ thù không đội trời chung.

Vì được học qua trường y nên viên lính này có chút kinh nghiệm về y tế, lại có thể nói được tiếng Anh nên anh ta nói với viên lính Mỹ rằng vì trời lạnh, vết thương không bị nhiễm trùng nên không nguy hiểm đến tính mạng.

Đến lúc này, sự hoài nghi lẫn nhau giữa hai nhóm lính mới bắt đầu tan biến.

Đồ ăn được đưa ra bàn. Elisabeth bắt đầu cầu nguyện trước bữa ăn. Cô cầu nguyện trong nước mắt:

“Cảm ơn Chúa đã ban ơn để mọi người có thể ngồi ăn chung một bữa trong trận chiến khủng khiếp này. Trong đêm giáng sinh hôm nay, chúng con đã hứa sẽ không coi nhau là kẻ thù mà sẽ đối xử hữu hảo với nhau, cùng thưởng thức bữa cơm giáng sinh đơn giản; chúng con cầu mong cuộc chiến đáng sợ này sẽ kết thúc trong thời gian sớm nhất để mọi người có thể bình an trở về quê hương của mình.”

Elisabeth nói xong cũng là lúc nước mắt lăn dài trên má những người lính. Họ bị những lời cầu nguyện của nữ chủ nhà lay động, thù hận trên chiến trường bỗng chốc tiêu tan, lòng họ hướng về quê nhà, về người thân, ai nấy cũng đang mong hòa bình sẽ lập lại.

Dùng xong bữa tối cũng là 12h đêm, mọi người ra ngoài đi dạo. Lúc này, tuyết ngừng rơi và gió cũng đã ngừng thổi, trên trời sao sáng lấp lánh.

Sau đó, 7 viên lính vốn không đội trời chung vào nhà cùng ngủ một giấc thoải mái cho đến sáng hôm sau.

Chủ nhà làm một ít canh trứng gà cho viên lính Mỹ bị thương. Viên sĩ quan Đức thì lấy bản đồ ra chỉ cho lính Mỹ sơ đồ trận mạc và nhắc họ những nơi không nên đi tới. Thậm chí những viên lính Đức còn làm tặng cho viên lính Mỹ bị thương một cái cáng.

Hai bên cảm kích chào tạm biệt mẹ con Elisabeth rồi đường ai nấy đi.

Vào năm 1958, cậu bé Frisbey đã 26 tuổi, sau khi kết hôn và di dân sang Mỹ, anh đã cư trú tại Hawaii và mở một tiệm bánh Pizza. Nhờ có bạn bè cổ vũ động viên, Frisbey đã viết lại câu chuyện trên và gửi cho nhà xuất bản “Reader’s Digest”.

Năm 1995, chương trình truyền hình “Unsolved mysteries” đã đem câu chuyện của Frisbey quay thành phim.

Không lâu sau, một nhân viên dưỡng lão viện ở thị trấn vùng Maryland gọi điện thoại cho người phụ trách tiết mục, nói rằng ở chỗ họ có một người lính già hay kể chuyện hệt như vậy.

Người lính đó là một trong ba người lính Mỹ đêm hôm đó, ông tên là Ralph. Rất nhanh, họ bố trí cho hai người gặp mặt.

Sau 52 năm xa cách, vào năm 1996, Frisbey và Ralph lại gặp nhau, hai người ôm nhau cảm động đến phát khóc. Ralph nức nở:” Mẹ cậu đã cứu sống chúng tôi”.

Về sau, Frisbey lại tìm được thêm một người lính Mỹ, nhưng chưa tìm lại được ai trong số những lính Đức năm xưa.

Năm 2002, Frisbey qua đời, cùng năm ấy, Hollywood đã sản xuất bộ phim có tên “The Silent Night” dựa trên chính câu chuyên đầy chất nhân văn này.

Cố tổng thống Mỹ Ronald Reagan đã dùng câu chuyện trên để tổng kết lại những gì ông có thể cảm nhận từ thế chiến thứ II, rằng “Cái thiện nhất định sẽ đẩy lùi cái ác, tự do nhất định sẽ đẩy lùi bá quyền!”. Câu nói cho đến nay vẫn còn giữ nguyên ý nghĩa và giá trị của nó.

Con người chúng ta ai cũng lấy thiện làm gốc, để đẩy lùi hiểm ác.

Lòng Tự Trọng Của Chú Bé Đánh Giày.

Lòng Tự Trọng Của Chú Bé Đánh Giày.

Chiều đi làm về, trời nóng, anh tạt vào quán ngay gần công ty uống một ly cafe, chờ cho vãn người rồi về cho đỡ đông. Nhìn người đi trên đường ai nấy đều mồ hôi nhễ nhại, anh chẳng muốn chen chúc làm gì cho mệt.
– Chú ơi đánh giầy không chú?
– ưmmm… Anh vùa cúi ngậm ống hút vừa lắc đầu.
– Rẻ mà chú, con chỉ xin cái bánh mì ăn cho đỡ đói thôi…
– Giầy chú sắp cho vào bảo tàng đến nơi rồi, thử hỏi người khác xem nhé!
Anh cười nhìn nó, nó xị mặt nhìn anh, buông thõng 2 vai có vẻ mệt mỏi rồi thất thểu đi ra mé cửa ngồi.
Bà chủ quán ngồi ngay đó cất giọng chua ngoa:
-Đi chỗ khác kiếm ăn đi 2 cái thằng kia! Chúng mày ngồi đó án ngữ thì ai dám vào hàng nhà tao nữa. Hãm tài vừa chứ!!! Đúng là cái miệng xinh không đồng nghĩa với những lời nói đẹp.
Sao có thể hắt hủi thân phận của một chú bé như vậy chứ. Anh với tay lấy chùm chìa khoá trên bàn gọi thanh toán, “từ giờ mình sẽ không bao giờ quay lại cái quán này nữa”, anh lầm bầm.
Lao xe theo hướng 2 đứa nhỏ đi để tìm mà mãi không thấy. Bỗng anh nghe thấy tiếng thất thểu:
-Chú ơi… Anh giật mình, quay lại thấy thằng bé con đang ngồi sát ngay sau vách tường lúc nãy chìa tay ra.
-Sao lại ngồi đây? Anh cháu đâu?
– Anh đi kiếm đồ ăn rồi, chú ơi…đói…!!!
Tội nghiệp, thằng bé còm nhom, chắc chỉ tầm 3 – 4 tuổi, bằng đứa cháu con ông anh trai anh là cùng.
Đáng lẽ ra bây giờ nó phải đang được chăm sóc, ăn uống đầy đủ, được đi mẫu giáo, có bố và có mẹ bên cạnh như bao đứa trẻ khác.
Thế mà… Anh lần túi quần ra được hơn 30k đưa cho nó:
-Này cháu, cầm bảo anh đi mua đồ ăn cho nhé!
-KHÔNGGG!!!…
Chưa kip đưa đến tay thằng bé thì thằng anh từ đâu chạy lại giật tay thằng em vào.
– Con cám ơn chú nhưng anh em con đâu phải ăn xin. Chú có lòng tốt thì để con đánh giầy cho chú.
Giọng nó có vẻ dứt khoát.
– Thế mày định để cho em nó đói chết à???
Nó cúi gằm mặt xuống không nói gì. Thằng em thì cứ cầm lấy tay anh giật giật. Anh bước gần đến ấn tiền vào tay thì nó lại hẩy ra, rồi nó quay ra ôm lấy đứa em.
– Thôi được rồi, thế qua quán nước mía kia ngồi chú trả công đánh giầy và mời 2 thằng nước mía. Được chưa?
Nó lí nhí:
_ Vâng, thế thì được ạ.
Vừa đặt cốc nước mía xuống bàn 2 đứa nó hút 1 mạch hết sạch, còn toàn đá. Anh quay qua chị bán nước giơ 2 ngón tay ý ra hiệu thêm 2 cốc nữa, chị hiểu ý, gật lia lịa.
Đơi 2 cốc nước nữa đến, anh bắt đầu chuyện.
_ Uống từ từ thôi không lạnh cổ, về đau họng đấy. Ngon không?
_ Dạ ngon ạ! Thằng bé con mút chùn chụt rồi quay sang anh.
_ Nước mía ngon quá anh hai, thế mà hôm trước anh bảo đắng lắm!
Nó cười hề hề rồi xoa đầu em. Thấy cốc thằng em đã gần hết, nó lấy cốc của mình đổ sang cho em.
_ Ơ, anh hai không uống à?
_ Không, anh không thích uống nước mía. Em uống nốt đi.
Nó nhìn xuống chân anh.
_ Giầy chú bẩn quá rồi, con đánh giầy cho chú nha.
_ OK! hy vọng nó còn đánh được. Không cần sạch quá đâu.
Anh vừa tụt đôi giầy vừa xỏ đôi dép tổ ong nó đưa. Mặt nó đen nhẻm, nhưng nhìn kỹ khá sáng sủa.

_ Cháu bao nhiêu tuổi?
_ Tám tuổi chú ạ.
_ Tám?
_ Dạ
_ Quá nhỏ!

Nó cười trừ: Con lớn rồi mà.
_ Mà sao cháu cứ xưng con với chú thế? Chú đâu quen cháu nhỉ.
_ Mẹ con bảo ra đường gặp người lớn phải xưng con hết, phải lễ phép với người lớn tuổi, mình không có gì thì cũng không để người ta coi thường được. Xưng con để thấy con người gần gũi nhau hơn chú ạ.
Anh lấy tay chống cằm thở dài. Mình còn cố chấp hơn một đứa con nít.
_ Thế mẹ cháu… à con đâu? Nhà ở đâu?
_ Mẹ con mất rồi ạ, gần 2 năm nay rồi. Nhà con ở đằng kia, nhưng bị phá rồi chú ơi. Người ta giải toả rồi, giờ tụi con ngủ ở sau chợ.
_ Thế bố của con ở đâu?
_ Con không có bố. Lúc sinh ra đến giờ con chỉ biết có mẹ thôi.
Con không được đến trường, mẹ dạy con viết, dạy con làm toán, cái gì mẹ cũng dạy con hết.
Nó vừa nói, 1 tay luồn vào trong giầy, 1 tay quệt xi thoăn thoắt, mặt chùng xuống. Anh cũng thôi không hỏi thêm nữa, quá khứ của mẹ chắc nó cũng chẳng biết đâu mà hỏi làm gì… Nhưng có điều, anh chắc chắn đó là một bà mẹ tốt. Cứ nhìn cách thằng bé ăn nói và đối xử với người khác thì biết, hẳn nó đã học rất nhiều từ mẹ.
Anh bế thằng bé con lên cho ngồi lên đùi, nó cười, nụ cười như chưa từng được một lần như thế. Nó còn bé quá, còn chưa biết điều gì đang đợi chờ ở phía trước.
_ Con định tích góp tiền để bữa nào nó lớn cho nó đến trường chú ạ, con không muốn nó giống như con. Nhưng mà sao giờ người ta khó quá, trước 1 ngày con đánh được 20 chục đôi giầy mà giờ chỉ được năm, sáu… Hôm mưa thì có khi chẳng có đôi nào. Không có cái cho nó ăn nên nó còm nhom.
_ Mà sao nhìn 2 đứa chả giống nhau nhỉ?
_ Dạ con nhặt được nó ở góc chợ, nó khóc to lắm, con không biết ai để nó ở đấy nữa.
_ Sao không đem nó trả lại, con có nuôi nổi nó đâu.
_ Biết người ta ở đâu mà trả chú? Người ta đâu có thương nó, bỏ nó giữa chợ thế kia còn gì. Ít ra con còn có chỗ ngủ, kiếm được cái ăn cho nó. Nó chẳng có gì.
_ Xong rồi. Có mấy chỗ con chà mãi không sạch.
_ Ừ, nó nát rồi thì sạch sao được, thế này là tốt lắm rồi, chú cảm ơn.
Hết bao nhiêu chú gửi tiền nào?
_ Dạ, 7 ngàn chú. Nhưng thôi ạ, chú cho anh em con uống nước mía coi như hoà rồi ạ.
_ Hoà là hoà thế nào, nước mía là chú mời bọn con. Đây, ví chú còn có ngần này, cầm lấy đưa em đi ăn cơm đi. Tối rồi.
_ Sao nhiều thế chú, con không dám cầm đâu. Mẹ con mắng đấy!
_ Sao con bảo mẹ con mất rồi? Không được nói dối nha, xấu lắm đấy.
_ Con không nói dối, mẹ con vẫn ở đây mà.
Nói rồi nó thò tay vào túi áo lôi ra cái ảnh be bé đen trắng có hình người phụ nữ tóc dài, đôi mắt buồn nhìn rất hiền.
Lần đầu tiên anh thấy những tia nắng vàng cuối ngày nặng trĩu trên khoé mắt đến thế… Anh xoa đầu nó:
_ Cầm lấy, coi như chú đặt trước cả tháng, mai lại đánh giầy cho chú nhé.
Nó lưỡng lự một hồi, cuối cùng chịu cầm rồi lí nhí:
_ Thế mai con sẽ đánh giầy cho chú nữa. Con cảm ơn chú!
_ Ừa…
Thằng anh cầm tay thằng em lững thững đi theo.
_ Bữa nào mình kiếm được tiền mình đi uống nước mía nữa nha anh hai, ngon lắm!!!
Anh nghe mà chẳng nhấc chân đươc lên. Giá mà ngay lúc này chú có thể làm được điều gí đó tốt hơn cho 2 đứa.

Cảm ơn con, hôm nay là ngày may mắn của chú, con đã chỉ lại cho chú một con đường mà chú dường như đang mất dần niềm tin vào cái xã hội này. Chú vẫn tin là có điều kỳ diệu trên thế giới này, và con là một ví vụ. Cố gắng lên nhé! Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi…

From: TU-PHUNG

Phi Châu Đến Thương về Nhớ

Phi Châu Đến Thương về Nhớ

(Hình ảnh của Ánh, Trâm và Frank)

Khi cô cháu rủ đi Phi Châu với nhóm bạn của cô, tôi rất ngại đường xa, hơn nữa Phi Châu rừng rú, ngà voi, sừng tê giác, vốn không phải là những thứ hấp dẫn hay gợi trí tò mò của tôi. Cháu rủ mãi, tôi nhận lời, xong lại hủy bỏ. Frank hơi thất vọng vì anh muốn đi lắm. Cô cháu tôi la oai oải trong phôn: “Cô không thích, nhưng chú thích thì cô phải cho chú đi.” Ừ, thì nể chồng, nể cháu, đi vậy.

Chao ôi là con đường dài… Từ Seattle bay 5 tiếng tới Atlanta, rồi đợi ở phi trường 3 tiếng, bay sang Johannesburg (Nam Phi) 14 tiếng qua vùng biển Atlantic (Đại Tây Dương) đến Johannesburglúc 6 giờ chiều, lấy khách sạn ở ngay phi trường ngủ qua đêm, sáng hôm sau 11 giờ gặp nhóm đi Tour chung đến từ Los Angeles, cùng bay tiếp gần hai tiếng nữa tới Cape Town. Tổng cộng mất gần hai ngày từ lúc ra khỏi nhà. Tôi ngao ngán máy bay lắm rồi, nói với Frank, khi quay về lại Seattle tôi sẽ walk home, chứ không lên máy bay nữa.

Bây giờ ngồi đây, viết những dòng chữ này, tôi nghĩ lại vẫn “ngán” những giờ ngồi trên máy bay lắm. Nhưng chuyến đi Phi Châu vừa qua thật sự đã cho tôi một đoạn thời gian “có giá trị” trong đời sống mình. Những điều nhìn thấy, cảm nhận được ở đất, ở rừng, ở thác, ở sông, ở con người của Phi Châu hoàn toàn khác hẳn ở những nơi khác trên thế giới như: Pháp, Ý, Na Uy, Nhật, Thổ Nhĩ Kỳ, Tầu, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Cam Bốt, Mỹ, v.v mà tôi đã sống hay đã đi qua.

Người hướng dẫn Tour luôn luôn nhắc nhở du khách là không bao giờ được đi một mình, ban ngày luôn luôn phải đi thành nhóm, ban đêm dù có nhóm cũng phải đi taxi, không được đi bộ dù chỉ một, hai đoạn đường. Tỷ lệ thất nghiệp hiện tại ở thành phố này là 50%. Lợi tức của người có việc là US$2.00/ một ngày, nên không tránh được việc cướp giựt và nguy hiểm tính mạng, nhất là cho du khách. Tiếc thay cả nước sống nhờ vào du khách là chính. Người hướng dẫn cho biết: Cứ mỗi một du khách tới Phi Châu nuôi được năm người bản xứ trong một năm.

Tôi chỉ có thể kể ra những điểm chính trong rất nhiều sinh hoạt của chuyến thăm Nam Phi này. Chúng tôi được đi qua các nước:Zambabwe, Swaziland và South Africa. (Tổng số nước trên lục địa Châu Phi là 54 quốc gia được công nhận là thành viên của Liên Hiệp Quốc.Chưa kể đến 9 lãnh thổ không có chủ quyền.Diện tích của toàn Phi Châu là: 30.521.332 cây số vuông. Dân Số chiếm 1/7 trên thế giới.)

Mặc dù thành phố, viện Bảo Tàng cũng hấp dẫn nhưng phong cảnh thiên nhiên, tìm xem các loài thú vật trong cánh rừng hoang dã Phi châu và thăm thác Victoria Fall là những điểm chính của Tour Du Lịch này.

Thiên Nhiên ở Phi Châu

Hãy nói đến những con vật nhỏ nhất trước tiên.

Những con Chim Cánh Cụt (Penguins Colonies) ởBoulder Beach nơi duy nhất loại chim baby Penguins này hiện diện. Con lớn nhất to chưa bằng một con vịt trung bình. Phần đông chỉ bằng con chim bồ câu. Chim tí teo đi xiêu vẹo như em bé mang cái tã nặng trông thật đáng yêu. Chúng nhào ra sóng chơi một lúc, chìm nghỉm, rồi lại trôi vào bờ, đào những lõm cát nông, nằm phơi nắng. Mỗi gia đình như tự chiếm lấy một chỗ cho riêng mình.

Chim Cánh Cụt-Penguins

Thiên nhiên Phi Châu cho ta rất nhiều kỳ bí, ngoài vẻ đẹp dọc theo bờ Biển Đại Tây Dương, chúng tôi được đi thuyền hai giờ trên hồ Saint Lucica, phía Bắc KwaZulu-Natal,hồ có diện tích 350 cây số vuông, ở Nam Phi.

Xem cá sấu và những con Hippo từng đàn trồi lên, hụp xuống trong nước hay nằm phơi nắng ấm trên bãi bùn và xa xa trong cánh rừng tiếp mặt nước, thỉnh thoảng gặp gia đình nhà voi đủng đỉnh đi qua đi lại.

Hà Mã – Hippo

Được đi bằng xe jeep vào rừng xem Thú Hoang (Game Drive) hai ngày, ở Kruger Park và Unfolozi Game Reserve.

Buổi sáng tinh mơ, trước khi mặt trời mọc, chúng tôi mặc quần áo thật ấm với mũ trùm kín đầu, sẵn sàng đứng trước của khách sạn chờ được đưa vào rừng. Ngồi trên những chiếc xe Jeep dài (3 hàng ghế) hai bên không có cửa, mỗi xe chở được mười du khách và tài xế. Máy ảnh sẵn trên tay, chúng tôi đi tìm gặp những con thú thức dậy sáng sớm đi kiếm mồi. Người tài xế lái xe cũng là người hướng dẫn Tour Trong Rừng, anh ta thông thạo từng nhánh cây, ngọn cỏ. Anh biết đón đầu thú vật, biết chụm tay lên miệng làm thành tiếng gọi Chúa Sơn Lâm.

Một con sư tử từ đâu bỗng xuất hiện, đàn trâu rừng hơn mười con đang đi rải rác vội chụm lại với nhau, đứng im bất động. Chúng nín thở, chờ cho con sư tử đi qua. Chúng sợ Chúa Sơn Lâm ngang với loài người sợ Bạo chúa.

Cả buổi sáng kéo dài tới trưa chúng tôi thích thú để cả tâm trí vào việc ngắm nhìn thú rừng tự do thong thả đi rất gần tầm mắt mình, từ sư tử, trâu rừng, hươu cao cổ, ngựa vằn, voi, chó rừng (với chân như chân nai, những cái đuôi trắng dựng lên như cỏ lau,trước đây mình chưa thấy bao giờ);những con tê giác (Rhino), heo rừng, khỉ, vượn… và nhất là chim rừng, với những bộ lông xanh biếc, hoặc đỏ rực.

Xe Jeep và Du Khách sửa soạn vào rừng.

Thú rừng muôn vẻ

Chúa Sơn Lâm

Chó Rừng

Tê Giác- Rhino

Hảo Vọng Giác và Núi Bàn

Trong buổi chiều đầu tiên ở Cape Town chúng tôi được đi xem Cape of Good Hope. Nhớ lại ngày nhỏ được học Địa Lý Thế Giới gọi làHảo Vọng Giác. Đây là một góc biển Đại Tây Dương. Hôm đó bầu trời xanh lam biếc, nước biển xanh ngọc bích, sóng trắng như tuyết lở từng khối. Đẹp đến nín thở vì sự hoàn hảo và hùng vĩ của hóa công. Trong tiếng gọi nhau ơi ới, nao nứcchụp hình của cả nhóm, tôi đứng xa xa một chút nghe tiếng sóng và chiêm ngắm biển trời, chỉ nghĩ đến biển và biển trong khỏanh khắc đó: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương. Tôi đã đứng mấp mé ở những Đại Dương nào? Có lẽ Thái Bình Dương là bờ biển thân yêu và nghĩ đến là đau xót nhất, nơi cả triệu người dân tôi bỏ xác trong lòng biển.

Hảo Vọng Giác

Chúng tôi được đi bằng xe cáp (Cable car) kéo lên đỉnh của Table Mountain để nhìn xuống biển, nơi đỉnh núi bằng phẳng như một chiếc bàn dài, nơi đón mời mình ngồi xuống dự bữa tiệc thiên nhiên, nơi thức ăn là mây, là gió là biển xanh với sóng bạc đầu. Muốn dùng bao nhiêu cũng được. Có thể Thượng Đế sẽ tính vào hóa đơn của tuổi đời, có thể không, nào ai biết được?

Theo tài liệu lưu truyền: António de Saldanha, gốc Bồ Đào Nha, người Âu Châu đầu tiên đến vùng biển này. Ông leo lên ngọn núi hùng vĩ ấy vào năm 1503 và đặt tên cho núi là Taboa do Cabo (tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là bàn của mũi đá). Mỏm núi, đứng xa nhìn ở một góc cạnh nào đó của biển từ chân núi hất lên thì lại thấy có hình dáng giống như đầu con sư tử, vị thuyền trưởng này có khắc vào đó một cây thập giá, cho đến nay nếu nhìn kỹ, vẫn có thể tìm ra dấu vết. Thật tuyệt! (*)

Trên đỉnh núi Bàn với bạn

Tú trên Đỉnh Núi Bàn 

Thác Victoria Fall.

Nằm giữa ranh giới của Zambabwe và Zambia, đã có lúc Victoria Fall được coi là một trong bảy kỳ quan của Thế Giới.

Chúng tôi đứng ở Zambabwe, phía bên này thác, mặc dù có áo mưa vẫn ướt sũng đầu tóc và hai chân. Không gì đẹp bằng đứng ngắm bức tường thác hùng vĩ bắn những tia nước như mưa trong ánh nắng, hắt sang bờ bên một chiếc cầu vồng bẩy sắc, trên thân thể du khách, trên mặt cỏ hay trong lùm cây. Cầu vồng ban ngày đã đẹp lắm rồi, nhưng có du khách nói, nếu bạn đi ngắm thác vào một đêm trăng tròn, bạn sẽ thấy một Cầu Vồng Trăng (Moonbows) một cầu vồng ánh sáng lung linh bóng trăng huyền ảo.(*)

Chiều ngang của thác 1708 mét được coi như một tấm màn bằng nước dài nhất thế giới. Thác buông xuống từ độ cao 90 đến 100 mét qua bờ xuống lòng thác (Zambezi Gorge) một lượng 550,000 thước khối nước mỗi phút.

Có người tới đây chụp cả trăm tấm hình vẫn chưa thỏa lòng. Dịch vụ trực thăng bay trên đỉnh thác nước cho du khách nhìn xuống cũng được cung cấp. Tôi thì xin hàng, không dám thử môn giải trí này.

Trắng Xóa Đất Trời 

Con Người Phi Châu.

Mặc dù tháng bảy Dương Lịch là mùa đông ở Phi Châu, buổi sáng tuy phải mặc áo ấm ra đường, nhưng đến trưa là bắt đầu nóng, trên xe bus của du khách luôn luôn mở máy lạnh. Những con đường ra ngoài thành phố, hai bên cát bụi đỏ au, thỉnh thoảng có người đàn bà địu con sau lưng, đội thúng trên đầu đứng bên đường chờ xe, có những thanh niên đi nhóm hai ba người, ăn mặc cũng tươm tất, đi như đi từ trong rừng ra, có một vài em bé đi đến trường hay đi học về, có em mặc đồng phục hẳn hoi (Được biết những đồng phục này được chuyển từ gia đình nọ, tới gia đình kia.) Màu sắc xanh đỏ trên y phục của họ tương phản với mặt đất, với hoang vu của núi rừng. Họ đi bộ xa giỏi lắm, đôi chân họ thanh mảnh và vững chắc. Nếu để ý sẽ thấy phần đông đàn ông gầy hơn đàn bà.

Quán Bên Đường

Học Trò Tới Trường 

Khu Langa Township ở Cape Town

Bạn không thể tự mình đến đây được, vì sẽ không an toàn. Du khách phải trả tiền riêng cho chuyến thăm viếng này, nhờ người địa phương hướng dẫn cho được an toàn.

Xe bus tới Trung Tâm Cộng Đồng. Nơi đây chúng tôi được hướng dẫn xem công việc thủ công như: làm đồ gốm, vẽ tranh, đẽo gỗ, đan, tết, những đồ dùng và những con thú bán cho du khách. Được xem và đánh trống cùng thổ dân. Mua một vài món vừa lưu niệm vừa giúp quỹ cho Trung Tâm.

Trung Tâm Cộng Đồng và Hình phòng vẽ

Được đi tới khu những ngôi nhà ổ chuột (Township), nơi con người vẫn ở trong những cái nhà, nếu gọi là nhà, thật ra là những cái Container cũ, bằng tôn hay gỗ,những cái hộp được quây bằng những tấm thiếc đã gỉ sét, có diện tích bằng khoảng hai mét vuông. Những cái thùng này kê sát nhau, chen chúc bên cạnh những con đường đất đỏ, những rãnh nước và những vòi nước rỉ rả chẩy. Những quầy hàng xếp lèo tèo vài mớ rau héo, trái cây rụng cuống và những mảng thịt tái ngắt để lẫn vào nhau. Bụi cát thản nhiên thổi trên mặt người và mặt hàng. Ở khu này có người giơ tay ra xin tiền nhưng bị người hướng dẫn nạt, và gạt đi.

Khu Dân Nghèo Sinh Sống -Township

Chúng tôi dừng lại nơi có những người đàn bà da đen vẽ mặt đang ngồi đốt những chiếc đầu cừu, móc chút thịt còn sót lại; có người đàn ông cầm chai rượu vừa đi chân thấp chân cao vừa ngã vào đống lửa, lồm cồm tự đứng dậy, rồi lại lăn quay xuống. Chẳng ai để ý nhìn, ngay cả những đứa trẻ đang ngồi gần đó cạnh mẹ. Chỉ có du khách chú ý thôi. Ruồi ở đâu về mở hội trên những chiếc đầu cừu không còn một hột máu. Rùng mình!

Nướng Đầu Cừu

Chúng tôi được đưa tới một trong những khu chung cư của nhà nước. Một căn nhà cho một hay hai gia đình, tùy theo mỗi gia đình có mấy người. Theo người hướng dẫn, chui qua những giây phơi quần áo dài từ đầu bãi rác to tới con đường ra ngoài khu chung cư, chúng tôi vào một căn nhà (được chọn cho du khách thăm) Đồ đạc, bếp núc sơ sài gần như không có gì, người đàn bà nét mặt thản nhiên (như đã quen khách như thế), không nói, không cười, đang đứng cạnh cái bếp giữa nhà. Một người đàn ông bước ra từ phía trong, rồi đi hẳn, khuất sau cánh cửa chính. Một đứa bé bên trong cái buồng ngủ duy nhất, ngước đôi mắt như hai viên ngọc đen, nó ra khỏi buồng, nhìn chiếc đĩa giấy để trên mặt cái bàn gỗ tạp giữa nhà ngoài, trên đĩa có ghi chữ Donation. Một con ruồi bay vào từ bên ngoài, đậu trên đó, thằng bé xua xua tay, đuổi con ruồi. Có một vài du khách đặt trên chiếc đĩa đó những tờ giấy bạc mỏng cho nhẹbớtđi những điều mình vừa thấy, kéo hồn mình trĩu nặng.

Cuối cùng, khi chúng tôi chụp hình, cũng xin được một nụ cười ngập ngừng của người đàn bà.

Giây phơi quần áo công cộng

Trường Học Ở Swaziland

Ở Swaziland chúng tôi cũng được đi thăm lớp học Mẫu Giáo Ezulwini cho trẻ mồ côi. Với tôi đây là nơi đáng nhớ nhất.

Xe bus của du khách vừa tới, các em từ một tuổi, còn cầm bình sữa đến các em lên 5, lên 6, được các cô giáo dắt ra tận nơi. Như đã quen với du khách mang dụng cụ học trò, quần áo, trái cây và kẹo tới,các em hân hoan, tươi cười, dạn dĩ chạy ào ra nắm tay du khách. Những bàn tay bé bỏng, đen như gỗ mun, đặt vào những bàn tay to lớn, xa lạ, khác màu da, không ngượng ngập. Những đôi mắt như ngọc đen sáng bóng, ngước nhìn khách tràn đầy hạnh phúc. Khách phương xa, kẻ trào lệ, kẻ khóc trong lòng.

Các em hát bằng thổ ngữ, bằng tiếng Anh, vừa hát vừa nhìn vào những túi kẹo trên tay khách. Hát xong các em được phát kẹo. Sau đó là màn du khách ôm ấp, chụp hình với các em,rồi trao sách tô màu, chì màu, tập, vở học trò, quần áo và nói chuyện với mấycô giáo.

Các em đẹp như những viên sỏi đen bóng, hai con mắt tròn đen, nụ cười rạng rỡ. Tôi nhìn các em tự hỏi, rồi tuổi thơ này cuối cùng sẽ ra sao? Tôi đã nhìn thấy các em lớn tuổi hơn, các thanh niên mười tám, đôi mươi đang làm tất cả những công việc ngoài kia để kiếm được hai Mỹ kim cho một ngày.

Tôi đã thấy ở những khu chợ trời, những thanh niên trẻ lắm, bầy những con thú bằng gỗ, bằng đá trên mặt đất bán cho du khách. Người mua ít hơn người bán. Những chàng thanh niên luôn luôn có đôi mắt rất buồn. Đôi mắt chứa cả một bầu trời đen như màu da đen của họ.

Không Mang Được Em Về Với Tôi

Như Những Viên Sỏi Đen

Máu và Kim Cương Phi Châu

Chúng tôi cũng được đi xem một tiệm bán Kim Cương ở Nam Phi, nhưng hầu như cả nhóm hơn hai mươi người cũng chỉ đi lướt qua từ cánh cửa vào tới cánh cửa đi ra. Những người du lịch ở tuổi ngoài sáu mươi hay có trẻ hơn cũng trên năm mươi, không ai nghĩ đến việc cần mua nữ trang nữa, nhất là khi du lịch. Người hướng dẫn thương mại cũng cho chúng tôi xem những tấm hình Mỏ Kim Cương, nhưng không ai đả động đến những phu đào mỏ. Họ có thể là một em bé Phi Châu ở tuổi lên 9, lên 10. Cũng không ai nói cho chúng ta biết rằng, món nữ trang chúng ta đang đeo trên cổ lấp lánh ánh sáng huyền ảo đó có nhuộm máu trẻ thơ. Đó là những viên kim cương máu (Blood diamonds). Con đường chuyển Kim Cương từ quốc gia này tới quốc gia khác, phần đông không ai biết xuất xứ từ hầm mỏ nào.(*)

Không phải chỉ có người Phi Châu mới là những nô lệ đào mỏ. Có những nô lệ của các nơi trên thế giới cũng được đưa tới đây làm phu đào mỏ này. Họ được những chủ nhân ông thu thập từ các nơi đến, và ở đây họ tự tạo ra một ngôn ngữ riêng để những phu mỏ hiểu nhau. (*)

Phu Đào Mỏ Kim Cương hay Vàng ở Phi Châu, em trong hình 11 tuổi.

(Hình trên net) 

Neilson Mandela

Phi châu nghèo và bị những người da trắng đến cai trị quá lâu, nên họ đã có những anh hùng đứng lên tranh đấu. Đó là Bishop Tutu và Neilson Mandela. Hai người anh hùng này đã cùng được trao giải Nobel Hòa Bình.

Chúng tôi được đi thăm hai ngôi nhà của Neilson Mandela. Một ngôi ở khu da đen trước khi ông làm cách mạng và bị tù. Một ngôi nhà ở khu da trắng giầu có sau khi ông làm Tổng Thống. Trước cửa ngôi nhà sau này, dân chúng làm những mảnh vườn nhỏ, trồng những cây cọ thấp. Nơi đó ai muốn viết những lời trò truyện, lời cám ơn cho ông thì viết lên một viên đá cuội đặt xuống chung quanh cây cọ.

Tú và Trâm ngồi trước nhà Mandela

Nam Phi còn biết bao nhiêu điều chưa nói hết trên những trang giấy hạn hẹp này.Tôi ra về trên chuyến bay dài, chập chùng mây, chập chùng biển.

Cái thân nhỏ bé bềnh bồng nhớ đến những căn nhà ở gần bãi biển giá năm, mười triệu, nhớ những khu phố của người giầu, phần lớn thuộc về người da trắng. Nhớ đến khu ổ chuột của người da đen, những cái thùng, cái hộp quây bằng thép gỉ được gọi là nhà, những đôi mắt đen nhánh ngây thơ của các em bé, đôi mắt buồn bã của những thanh niên ngoài chợ trời.

Nhớ đến những điều được nghe, được đọc, được nhìn về một Nam Phi Châu:

Những bệnh viện cho dân nghèo ở Nam Phi luôn luôn bị quá tải vì quá nhiều bệnh nhân so với khả năng. Cả nước có tới 5 triệu người đang sống với HIV/AIDS.

Nghĩa là mười người thì có hơn một người nhiễm bệnh (more than one in ten). Đã có 3 triệu người chết do truyền bệnh sang nhau, phần đông là người lớn nên bỏ con lại thành trẻ mồ côi và tuổi thọ trung bình của dân Phi Châu là dưới 50.

Tình trạng sức khỏe của dân Nam Phi rất kém so với các dân tộc da màu khác hay da trắng. Do đó tỷ lệ tử vong rất cao. Tỷ lệ tử vong càng cao theo tỷ lệ thất nghiệp và lạm dụng ma túy và nhiễm HIV/AIDS. Có 14% Nam Phi da đen bị bệnh so với 2% da màu hoặcchỉ có 0,3 % da trắng và Ấn Độ.

Nam Phi là một trong số các nước trên thế giới, nơi có các bà mẹ và trẻ em tử vong tăng từ năm 1990 bởi HIV/AIDS, (trẻ em dưới 5 tuổi chiếm 1/3.)

Trong suốt mười hai ngày chúng tôi ở Nam Phi Châu, người hầu hạ phục dịch hoàn toàn là người da đen. Chưa hề nhìn thấy một người da đen nào được ngồi vào bàn ăn có người da trắng đứng hầu. (không biết tôi có thể hy vọng được nhìn thấy cảnh ấy trong một thành phố khác ở Nam Phi?).

Ở đâu thì cũng vậy thôi, nơi nào cũng bất công, cũng phân biệt giữa giầu và nghèo. Nhưng tôi vừa thăm một dân tộc trải qua bao nhiêu thế kỷ vẫn chưa ra khỏi cánh rừng, và dưới một góc nhìn nào đó, vẫn là nô lệ, vẫn phải phục dịch người từ xa tới phần đất của tổ tiên mình.

Có ai đó nói: người Phi Châu với đầu óc đơn sơ chậm chạp họ không tự khai thác được gì ở thiên nhiên ngoài sinh sống với thú rừng. Có lẽ vì thế Thượng Đế đã cho họ những thác nước hùng vĩ, những cánh rừng âm u đầy thú; mỏ kim cương, mỏ vàng như những tặng phẩm, để quyến rũ những con người thông minh hơn, tàn ác hơn đến cai trị họ,và sau hết để quyến rũ du khách mang công việc đến cho họ. Những công việc làm bằng tay chân mà thôi.

Tôi nhắm mắt lại nhớ đến những khuôn mặt ngây thơ của các em bé trong trường Mẫu Giáo Mồ Côi. Tờ báo The Times phát hành ở Botswana- Phi Châu, ra ngày 11 tháng 7 úp trên mặt tôi.

Newborn baby left alone to fight for his life in cold hospital sluice room.

Đó là một em bé da đen. Khi mẹ sanh em (với 26 tuần 5 ngày) không có bác sĩ trong buồng sanh, em cân nặng dưới 1 kilo, y tá cho mẹ ôm em 15 phút, rồi mang em đi, nói là em không sống được. Họ quấn sơ sài trong một tấm chăn, để trong một phòng lạnh lẽo,căn phòng chỉ dùng để rửa thau, chậu của bệnh viện, không có ai săn sóc. Em chết sau khi ra đời được hai tuần. Ba em nói:

“Đứa con trai bé bỏng của tôi là đứa bé phấn đấu, nó muốn sống nhưng người ta đã giết nó.”

Được hỏi tại sao em bị bỏ không săn sóc, bệnh viện trả lời không được săn sóc vì em quá nhẹ kí, trước sau rồi cũng chết.

Ôi Phi Châu! Đến thương về nhớ.

Trần Mộng Tú.

From: TU-PHUNG

RUỘT THỊT TÌNH THÂM

RUỘT THỊT TÌNH THÂM

Song Nhi

Tin chị Thơm bị chồng bỏ lan ra nhanh chóng đầu trên xóm dưới.
Có người nói tội nghiệp chị đẹp người đẹp nết, con nhà ăn học mà số long đong.
Nhưng có người lại mừng dùm và họ coi đó như giải pháp mà ông trời giải thoát cho chị khỏi cảnh khổ.
Chị Thơm là con gái duy nhất trong ba người con của thầy giáo Thức ở xứ này.
Thời sinh tiền lúc còn sống thầy và ông chủ tiệm vàng Kim Vinh là bạn tâm giao nối khố có nhau dù một người làm buôn bán một người theo nghiệp chử nghĩa thánh hiền.
Ngay khi chị Thơm chỉ là trẻ thơ lúc nghe ông Vinh muốn kết thông gia cho hai gia đình càng thân hơn, thầy giáo Thức đã đồng ý ngay.
Thơm từ nhỏ đã sáng dạ học đâu nhớ đó, thương con nên lớn lên ba chị cho chị lên ở nhờ nhà người cô ruột trên Sài Gòn để tiếp tục việc học.

Năm đó tự nhiên ông Vinh bị một căn bệnh lạ, chạy chữa nhiều thầy thuốc mà bệnh có vẻ không thuyên giảm.

Khi thầy giáo Thức sang thăm ông bèn nhắc chuyện xưa và muốn tiến tới hôn nhân cho con trai mình. Trước là được yên lòng nhắm mắt vì con nên bề gia thất do ông Vinh biết rất rõ Thơm là cô gái rất tốt. Thêm vào cái hy vọng là biết đâu hôn lễ xua đi được cái vận hạn xui xẻo đang đè ám gia đình ông.

Năm 19 tuổi Thơm được ba mình gọi về quê và lấy chồng trong cái không khí gấp rút của đám cưới đang chuẩn bị. Lúc đầu Thơm phản đối bằng cách bỏ ăn và khóc lóc không ngừng. Nhưng đến khi ba chị dọa thắt cổ tự vận nếu chị dám từ hôn làm trái ngược lại lời hứa mà ông coi trọng như núi. Đến nước đó thì Thơm hết cách đành theo ý ba mình về làm vợ Huân.

Cứ tưởng Huân, chồng chị Thơm lấy được người vợ như chị, anh ta hẳn vui mừng mới đúng. Nhưng vốn tính nhỏ nhen thêm vào chất gia trưởng Huân thấy chướng mắt vì sự học vấn của vợ. Trong khi chị vận dụng cái giỏi giang của mình để gánh vác việc nhà chồng thì Huân sau khi tỏ rõ đường đi lối về với cô vợ trẻ anh ta lại miệt mài với những thú vui tình ái bên ngoài. Từ khi sinh Thu con gái đầu lòng chị Thơm nhiều lần khuyên chồng nên để đức cho con đừng đi gạt gẫm những cô gái khác nhưng Huân gạt bỏ ngoài tai. Thậm chí nhiều lần còn hạ cẳng tay, thượng cẳng chân với chị khi say. Nhất là sau khi ba chồng chị là ông Vinh qua đời thì Huân không còn phải e dè, kiêng kỵ̣ ̣một ai.

Một lần đoàn gánh hát của ông bầu Tám Ít về đây hát, Huân đi xem và đâm ra mê mệt Hai Như, cô đào nhì của gánh.
Khác với những lần trước lần này Huân trong mắt Hai Như là con mồi lớn nên Hai Như quyết không buông, cô xỏ mũi Huân một cách nhanh chóng. Vốn xuất thân lang bạt nên Hai Như không dể dàng gì trở thành trò chơi của Huân, cô buộc Huân phải cho cô danh chính ngôn thuận khi cô có mang.

Thế là sau 9 năm, chị Thơm đành chịu tiếng bị chồng bỏ bởi không chịu nổi sự cay nghiệt cũng như những trận đòn thừa sống thiếu chết của Huân gần đây. Thầy giáo Thức ba của chị cũng qua đời vài năm trước đó nên chị cũng không muốn níu kéo.

Chị đồng ý ra đi với hai bàn tay trắng không làm phiền Huân cưới vợ mới nhưng bù lại Huân phải để chị dẩn bé Thu lúc này được 5 tuổi đi theo mình.
Buồn cho phần số dang dở của mình và cũng không muốn ở lại quê nơi có nhiều kỷ niệm gợi chuyện phiền lòng chị Thơm dẫn con gái lên lại Sài Gòn.
Ban đầu chị tá túc ở nhà cô ruột như trước. Sau đó chị mang số tiền cha mẹ ruột cho phòng thân khi xuất giá lấy chồng làm vốn mua bán.
Chị mở một sạp bán trái cây và thuê căn nhà nhỏ gần đấy cho tiện việc đi về mẹ con chị sống yên ả vui vẻ với nhau.

Dạo gần đây có một anh chàng người Mỹ thường ghé mua trái cây chổ chị. Anh ta gây sự chú ý cho Thơm bởi anh ta nói được tiếng Việt rất rành khác với những anh chàng Mỹ lớ ngớ thỉnh thoảng vẩn ghé chổ chị mua hàng.
Anh chàng người Mỹ John Smith ấy cũng thật bất ngờ khi thấy cô chủ hàng nói rất chuẩn thứ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình và là một người có ăn học.
Lúc đầu chỉ là trò chuyện xã giao lâu dần họ thành bạn. Dù hai người cách xa nhau về hình thức lẩn nơi sinh trưởng nhưng họ lại khá hợp nhau trong nhiều cách nghĩ. Hơn một năm sau John ngỏ lời với muốn cưới Thơm làm vợ.
Phần Thơm thật sự chị dành rất nhiều cảm tình cho John nhưng chị cũng e ngại sự cách biệt và tiếng đời thường mĩa mai những người phụ nữ lấy Mỹ thời đấy nên chị còn lưỡng lự chần chừ. Nhưng tấm chân tình của John khiến chị cảm động. Hai năm từ ngày họ quen biết chị dẹp cửa hang, về làm bà Smith.

Mười mấy năm trôi qua gia đình chị Thơm có thêm một trai hai gái. Peter được 13 tuổi, Mary 11 tuổi và Ann 9 tuổi.
Ngoài xã hội John là người khá thành công về kinh doanh nhưng khi về nhà John là người chồng có trách nhiệm. Anh ta đối xử với Thu cũng như những đứa con khác của mình hết mực yêu thương không hề có sự phân biệt. Gia đình họ sống đầm ấm hạnh phúc ngoài những lúc đến trường ở nhà chị Thơm vẩn gọi con bằng những cái tên tiếng Việt là Phú, My và Ái.
Khác biệt nhau về mái tóc và cả màu da nhưng bốn chị em Thu lại quấn quít hòa thuận, luôn gắn bó bên nhau không rời.

Năm 1975 lúc này Thu đã 21 tuổi đang theo học một trường Dược ở Sài Gòn.
Một ngày chị Thơm nhận được tin Huân chồng cũ của chị tức là ba ruột của Thu ở quê qua đời đột ngột vì một cơn đột qụy. Đúng ra chị Thơm không muốn về bởi tình hình lúc đó có nhiều thay đổi và Huân từ lâu không hề nhắc nhở hay đá động gì tới đứa con gái của mình là Thu. Nhưng cuối cùng chị cũng dẫn Thu về chịu tang cho đúng phép tắc dù gì họ cũng là cha con. Phần chị thì xem như nghĩa tử nghĩa tận đến thắp một nén hương cho phải đạo làm người, hơn nữa chị không an tâm để Thu về một mình.

***

Sau đám tang ngay lúc chị chuẩn bị trở về Sài Gòn thì thời thế thay đổi trong một đêm phải chờ đến cả tuần sau và bằng nhiều cách mẹ con chị mới lặn lội trở về được Sài Gòn. Nhưng khi chị Thơm và Thu lên tới Sài Gòn thì mọi chuyện đã khác lạ hoàn toàn.
Dâu bể đổi dời chỉ trong khoảng thời gian ngắn, chị không thể vào được nhà cũ bởi chúng bị tịch thu nên chị không lấy được thông tin hay địa chỉ liên quan gì tới chồng mình ở Mỹ.
Cũng không thể hỏi thăm ai giữa cái lúc hỗn loạn ấy chị dành dẫn Thu nương náu, mưu sinh ở một quận gần đó và cố gắng hết khả năng để nghe ngóng liên lạc với chồng và con của mình trong vô vọng.

Ngày xưa vì người ở quê hay kỳ thị, dè bĩu và lo cho sự an toàn của chồng vào thời còn chiến tranh. Chị Thơm chỉ dẫn duy nhất Peter về quê ngoại chơi hai lần mà thôi. Không cho John cùng hai con gái nhỏ về thăm quê lần nào. Bởi má chị vẫn lên thăm gia đình chị ở Sài Gòn thường xuyên. Do chị cũng ỷ y đâu có dè cuộc đời có những thay đổi như vậy.
Thời gian dần trôi không một tin tức nào về họ dù là sống chết. Phần lo lắng thương nhớ con nên sức khoẻ chị Thơm mỗi ngày một kém. Rồi chị qua đời vào một đêm mưa sau cơn bệnh trong tay vẫn còn nắm chặt tấm ảnh gia đình của mình.
Lúc lâm chung không biết có phải còn tiếc nuối hay ấm ức mắt chị mở trừng trừng khiến Thu khóc than tức tưởi khấn nguyện rằng sẽ cố gắng tìm được những đứa em và mang chúng về.

Phần John Smith vào lúc mọi người nhốn nháo rồng rắn di tản dù không muốn bỏ vợ mình lại nhưng John không còn cách nào khác hơn đành dẫn ba người con của mình lên máy bay về Mỹ trong nổi đau đáu lo lắng. Khi về đến xứ sở anh ta cũng cố gắng liên lạc với vợ mình nhưng ngoài tên họ của vợ và con gái. John chỉ biết thêm địa danh quê vợ là Xào Bân chứ không hề có thông tin gì khác. Đường phố còn thay đổi tên thì nói chi muốn tìm một con người giữa cái đất Sài Gòn mênh mông ấy.
Ba năm sau trên đường đi làm về John qua đời trong một tai nạn giao thông thảm khốc. Những đứa con của anh được chuyển về sống với ông bà nội ở bang Texas.
Gia đình họ lạc nhau từ đó…

***
Ba mươi lăm năm sau.
Thu bây giờ tóc đã bạc hơn phân nửa và lên chức bà Ngoại chị lấy chồng có được ba người con. Chồng chị là người đàn ông tốt và hiền lành.
Các con chị vẫn sống và làm việc ở Sài Gòn. Còn chị và chồng về sống ở quê vào 5 năm trước trên mảnh đất hương hỏa của bà Ngoại chia cho mẹ chị ngày xưa, vui thú cùng vườn cây ao cá, như bao người có tuổi khác.
Cuộc sống chị êm đềm, hạnh phúc như bao gia đình an phận bình thường nhưng dù bao năm trôi qua trong lòng Thu vẫn không quên được nỗi nhớ về những người em của mình.
Thỉnh thoảng nhìn những tấm ảnh cũ đã úa vàng mà chị lưu giữ như một báu vật, chị lại chảy nước mắt.

Chị khóc khi hồi tưởng cái khoảng khắc ngày xưa đút cơm cho những đứa em của mình. Chị nhớ rõ đứa nào thích ăn gì, tính nết ra sao.
Nhớ lúc chạy giỡn trong khoảng sân nhỏ cùng nhau giờ không biết họ lưu lạc phương trời nào và có bình an không ?.
Hiểu nỗi khổ tâm bao năm của chị Thu các con chị cũng giúp mẹ bằng mọi cách họ có thể.
Từ những phương tiện thông tin hiện đại đến nhờ cả đại sứ quán giúp đỡ, nhưng thông tin qúa ít ỏi và trôi qua nhiều năm nên sự tìm kiếm của họ cũng rơi vào im lặng.

Peter, Mary và Ann hiện tại cũng đã có gia đình và con cái họ khác xưa hoàn toàn. Vốn Việt Ngữ của họ gần như là mất hết, ngoại trừ Mary do làm quản lý ở một hãng có nhiều người Việt nên cô còn nói được chút ít.
Nhưng ba người họ vẫn không quên người mẹ và chị của mình. Họ về Việt Nam rất nhiều lần nhờ sự giúp đỡ của nhiều nơi.
Nhắn tin trên báo để tìm kiếm nhưng tất cả vẫn không có tin tức gì, họ cũng không có nhiều manh mối để mở rộng việc tìm kiếm…

Năm 2010 Peter lúc này đã 48 tuổi nhân dịp nghỉ thường năm anh ta dẫn theo cô vợ người Mỹ của mình là Jessica về Sài Gòn du lịch.
Lần đó khi đang ngồi trên chuyến xe tham quan của một đoàn du lịch chuẩn bị đi đến điểm vui chơi theo lịch trình.
Là người vui tính Peter trò chuyện cùng anh hướng dẫn viên là ngày xưa mình được sinh ra ở Sài Gòn.
Nhắc về kỷ niệm vô tình Peter nói rằng quê ngoại ở Xào Bân bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ. Có một vị khách lớn tuổi trong đoàn nghe được. Ông ta nói là ông ta biết một nơi trước kia gọi là Xẻo Bần chứ không phải là Xào Bân.
Đó là một làng nhỏ do dân địa phương tự đặt tên ấy vì có cái rạch nhỏ chảy cắt ngang qua. Mà bây giờ không còn ai gọi là Xẻo Bần nữa họ gọi bằng tên một thị trấn khác.

Không biết có cái gì xui khiến Peter vội lấy giấy bút ra và nhờ ông ta ghi lại chính xác nơi đó bằng cái tên hiện hành ngày nay.
Bỏ dở chuyến đi chơi Peter cùng vợ ngược về Sài Gòn tìm đến trung tâm lữ hành du lịch và ngỏ ý muốn thuê một hướng dẫn viên thông thuộc miền Tây để đi đến địa danh mà vị khách lạ cho.

Khi họ đến nơi thì gần như không còn vết tích nào giống trong ký ức của Peter. Anh ta nhớ ngày xưa phải đi bằng thuyền nhỏ và cây cỏ hoang dại. Còn nơi anh ta đến ngày nay là thị trấn sầm uất đông đúc xe cộ chạy xuôi ngược.
Thấy vẻ thất vọng của Peter, anh hướng dẫn viên cũng không biết làm sao hơn đành cùng người tài xế chở hai vợ chồng ông khách người Mỹ đi loanh quanh cho đúng theo trình tự một chuyến tham quan.
Xe chạy dọc những con lộ nhỏ và anh hướng dẫn viên giảng giải đây là một vùng chuyên về trồng trái cây.

Chợt lúc đó chuông nhà thờ đổ hồi chuông ban trưa thông lệ. Như có một thứ giác quan mách bảo Peter đòi được đến nơi đó.
Cả nhóm họ rời xe đi bộ trên con đường làng khi đứng trước căn nhà thờ có tuổi thọ gần cả trăm năm được xây từ thời Pháp đô hộ.
Peter gần như là không kèm được sự xúc động bởi anh ta nhận ra đây đúng là quê ngoại mình mà ngày xưa anh được mẹ dẫn về.
Qua bao nhiêu năm nhưng cũng may là cái nhà thờ ấy vẫn không thay đổi hình dáng kiến trúc cũ. Nhất là cái vị trí nằm ngay ngã ba sông rất đặc biệt.

Peter nhớ một cách rõ ràng như vậy do có một lần khi về quê chị lớn là Thu dẫn em trai mình đến đây chơi. Đang vui đùa chợt Peter tự nhiên bị chảy máu cam không rõ nguyên nhân khiến Thu hốt hoảng cầu cứu. Chính một vị ma-soeur hiền lành đã kêu Peter nằm ngay xuống trước sảnh nhà thờ và ngước mặt lên ngay cho máu ngừng chảy. Trong khi bà đặt chiếc khăn lạnh trên trán của Peter để hạ nhiệt độ.
Theo trong trí nhớ của Peter nhà bà ngoại đi bộ cách đó một đoạn nhưng hướng nào thì anh ta mơ hồ không nhớ nổi.

Vốn nhạy bén sau một hồi suy tính Peter nhờ anh hướng dẩn viên hỏi thăm những ai nhiều tuổi từng sống nơi đó về người đàn bà có tên Ba Thơm có con gái tên Thu.
Nhưng già trẻ không một ai biết bởi ngày trước chị ba Thơm chỉ thỉnh thoảng về thăm quê rồi đi. Số người còn lại họ đến ở nơi đây mới độ hai, ba chục năm thì làm sau biết chuyện ngày xưa cũ.
Thêm nữa ở quê người ta thường gọi theo thứ ít ai gọi tên nên chẳng ai biết người đàn bà mà Peter muốn kiếm là ai.

Cuối cùng Peter chỉ còn cách ghi lại địa chỉ khách sạn ở Sài Gòn nơi mình trú ngụ cùng số điện thoại cá nhân đang tạm dùng trong thời gian ở Việt Nam. Peter hứa sẽ hậu tạ cho bất cứ ai có tin tức về hai người mình đang cần tìm .
Đúng lúc kẻ ghi người viết thì có một người đàn bà đứng tuổi đi chợ về ngang do tò mò bà ta rẽ đám đông vào xem .
Khi biết rõ câu chuyện bà ta chậm rãi nói:
-Tui biết có chị kia ở cạnh nhà bà sui gái của tui .
Nghe đâu tên của chỉ là Hai Thu mà tui không nghe chỉ có anh chị em chi hết.
Chị mới về đây sống độ mấy năm thôi không biết có phải chị Thu gì mà ông ấy muốn kiếm không ?
Nhà chị ấy tuốt dưới xóm dưới đường hơi khó đi một chút.

Sau khi nghe anh thông dịch nói lại, không bỏ sót một tia hy vọng vào, Peter vội khẩn khoản bà ấy giúp mình.
Họ chọn ra giải pháp cả nhóm sẽ ngồi ở quán cafe đầu chợ. Trước là chờ gặp người tên Thu mà người đàn bà ấy vừa nói.
Sau là uống ít nước và nghĩ ngơi tạm bởi vì nhóm họ điều thấm mệt sau hàng nửa ngày trời đi tới đi lui.
Người đàn bà kia thì lên một chiếc xe honda ôm đã được Peter trả tiền tới nhà chị Thu và nhắn chị ấy có người cần gặp ngồi chờ nơi quán nước trước cổng chợ.

Buổi xế trưa, sau bữa cơm chị Thu đang cho mấy con gà ăn trước sân như thường nhật chợt có tiếng xe honda dừng trước cửa.
Khi nghe nói có ông tóc vàng mắt xanh cần gặp một người tên Thu trước sống ở Sài Gòn và cở bằng độ tuổi của chị vì có chuyện cần, chị hai Thu đã luống cuống tay chân, buông luôn cái thau đựng cơm nguội xuống sân nhà.
Chị không kịp cám ơn người đàn bà tốt bụng mà vội chạy vào lấy cái nón lá và lên tiếng gọi ông chồng mình đang lui cui sau vườn.
Tay chị run rẩy đến nổi không thay nổi cái áo bà ba nên chị mặc nó tròng đôi vào cái áo đang bận.
Chị lập cập không giấu được vẻ hồi hộp của mình khi ngồi lên chiếc xe do chồng mình nổ máy chờ sẳn chạy vội ra chợ.

Ở quán cafe mọi người không dấu được ánh mắt tò mò trước hai vị khách ngoại quốc đang ngồi chờ như ngóng trông ai đó.
Xe ngừng trước quán chị Thu bươn bả đi vào, đám đông khẽ nhích ra nhường lối cho chị.
Nãy giờ đi ngoài trời chói nắng nên chị lột vội cái nón lá quẳng vô góc để nhìn cho rõ, Peter cũng vội vã đứng lên.
Không cần phải nói hay hỏi han điều gì chỉ cần nhìn mặt Peter, chị Thu đã biết đó chính là em trai của mình bởi Peter giống cha anh ta John Simth thuở xưa như tạc.
Chị Thu khóc ngất nói trong tiếng nấc:
-Em ơi ….Phú ơi ….
Cơn xúc động dâng lên cao độ khiến chị Thu loạng choạng như muốn ngất.
Peter vội đỡ lấy chị mình dìu chị ngồi xuống ghế anh ta cũng khóc khi nhìn gương mặt của chị Thu với những đường nét của mẹ mình ngày xưa.
Nhoài người tới ôm lấy người chị của mình Peter lắp bắp bằng một thứ tiếng Việt ngọng nghịu :
-Chị … chị Hai … Phú nè … chị chị Hai …
Tiếng chị Thu miếu máo ngắt quãng từng chập :
-Mẹ mong chờ mấy em biết bao nhiêu… hu..hu …mẹ mất rồi em ơi.
Trong khi Jessica vợ của Peter nhẹ đưa cánh tay vỗ vỗ lên lưng chồng mình như sẻ chia dù cô không hiểu chuyện gì đang xảy ra cũng như người đàn bà kia nói gì .
Thì chồng chị hai Thu biết rõ câu chuyện hơn do vợ mình thường kể nên anh cố giấu đi vẻ xúc động bằng cách nói như phân bua:
-Em của vợ tui, chị em ruột ấy thất lạc mấy chục năm rồi không tin tức chi hết.

Nhìn thấy một ông ngoại quốc cao lớn nắm chặt tay một người đàn bà Việt Nam mãnh mai miệng chỉ lắp bắp được vài chữ ”chị ơi…”.
Một số người trong quán hôm ấy khẽ lén lau đi giọt nước mắt vừa ứa ra.
***

Một buổi tối của hai tháng sau.
Nhà chị Thu đèn đuốt mở sáng choang nhiều người đi tới đi lui. Mấy bà chị thì nhỏ to dưới bếp bên cạnh nồi cháo gà và vài món ăn nhẹ .
Họ lo không biết những ông bà người Mỹ ở nhà trên có ăn được những món ăn Việt Nam không và nêm nếm như vậy có vừa khẩu vị của họ chưa.
Vài người trẻ trong xóm ngồi ngoài mấy cái ghế tre trước hiên của nhà chị Thu.
Đôi ba ông cụ bà cụ lớn tuổi một chút ngồi trong phòng khách cùng chị hai Thu, Peter, Mary và Ann.
Họ tới mừng cho chị khi nghe được tin chị em trùng phùng sau bao năm và tò mò chờ nghe câu truyện có phần hơi ly kỳ của họ.

Bốn chị em của chị Thu ngồi trên bộ đi văng nói chuyện với nhau.
Mary còn nói được chút ít tiếng Việt, Peter và thì nhớ được một vài câu xã giao ngọng nghịu.
Riêng Ann thì không nhớ một câu nào, cả ba người họ phải nói qua người phiên dịch đang ngồi trên cái ghế nhỏ cạnh đó.
Chị Hai Thu đưa khăn lên lau nước mắt khi nghe Peter kể sau khi ba chết họ về sống cùng ông bà ở nơi mới.
Đi học Peter hay bị bọn trẻ chọc ghẹo kỳ thị vì là con lai.
Khiến cậu ta đánh nhau đến nổi chút nữa thì bị đuổi học.
Chị lại cười khi Mary nói lúc về Mỹ muốn ăn trứng ấp thảo với cháo trắng như ngày xưa mẹ nấu ở Việt Nam nhưng đành chịu vì không biết cái trứng đó tên là gì.
Bao nhiêu năm Mary luôn cảm thấy tủi thân và không vui khi ai đó hỏi về nguồn cội bởi Mary không biết trả lời họ ra sau.

Ra vẻ ái ngại Ann nhìn họ rồi khẽ nói, qua người thông dịch rằng :
”Lúc đầu khi nhìn những tấm ảnh cũ ố vàng ngày xưa và nghe anh Peter thông báo tìm được chị và nhắn thu xếp về gặp nhau .
Cô được một vài người khuyên nên cẩn thận để tránh sự nhầm lẩn thậm chí biết đâu chừng đó là sự giả trá, lường gạt.
Vì khi đi cô là người nhỏ tuổi nhất rồi sống ở môi trường không có người Việt nên ký ức về chị trong cô không còn được rõ nét như hai anh chị mình.
Nên cô thật sự có phần dè dặt, không tin lắm nhưng trên đường về đây khi ghé qua quán ăn tạm ở dọc đường, chị hai Thu đã ngăn cô lại khi cô định ăn một bát súp.
Chị ấy nói rằng súp đó được nấu bằng tôm mà chị biết rõ Ann từ nhỏ đã dị ứng với đồ biển. Rồi chị nhờ người thông dịch hỏi giúp chị vết sẹo trên đùi Ann có biến mất theo thời gian không hay là to hơn.
Ann cố ý hỏi vặn lại vết sẹo gì ?
Chị Hai Thu nói ngày trước Ann từng bị té vào chậu hoa sau vườn nhà nên đùi có một vết thẹo khá dài , chính chị đã băng lại giúp cô.
Ann đưa khăn giấy chậm nước mắt bằng vẻ bối rối, xúc động cô ngỏ lời xin lỗi chị mình vì những nghi ngờ trước đó.
Bởi bây giờ cô đã tin chị thật sự là chị Hai của cô ngày xưa.
Ann hứa với chị khi về Mỹ sẽ cố gắng học thêm ít tiếng Việt để có thể trực tiếp nói chuyện với chị mà không cần phiên dịch.”

***
Sáng hôm sau khi tia nắng bình minh vừa hiện ra ở chân trời , gió dìu dịu mùi sương sớm.
Trước ngôi mộ của dì Ba Thơm nơi phần đất hương hỏa giữa đồng.
Bốn mái đầu rấm rức khóc và cuối lặng thật lâu .
Trong mùi hương trầm và những bó hoa thơm lan tỏa lãng bãng, tiếng chị hai Thu nghèn nghẹn khấn :
-Má … con dẫn mấy em đến thăm má. Xin má linh thiêng phù hộ độ trị cho chị em con và xin má an lòng yên nghỉ.

Một ngày cuối chiều ở sân bay, khi tiếng loa thông báo nhắc nhở tên ba vị khách còn lại của chuyến bay về Mỹ nhanh chóng ra cửa khởi hành.
Vòng tay của chị em họ lại vội vã ôm lấy nhau giữa khóc – cười họ hứa sẽ quay lại sớm vào một ngày nào đó cùng gia đình của mình.
Mary vội nói cùng chị bằng cái âm chưa chuẩn và quơ tay như minh họa cho lời nói:
-Em biết Việt Nam gọi ngày chết là đám giỗ rồi.
Đám giỗ má vào mùng 9 sau tết Việt Nam.
Tụi em sẽ về vào ngày đó hằng năm .
Chị Hai yên tâm giữ sức khoẻ .

Mắt chị Hai Thu vẫn còn đỏ và đầy nước nhưng miệng chị cười tươi.
Chị đưa cánh tay lên lưu luyến vẩy theo dáng những đứa em của mình đang khuất dần sau cánh cửa kiếng

Có một dịp tình cờ nào đó sau tết âm lịch trong cái không khí hãy còn Xuân .
Bạn chợt ngang qua một thị trấn nhỏ xinh đẹp thuộc một tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long .
Đi tới cái xóm nhỏ mà địa danh ngày xưa gọi là Xẻo Bần vô tình bạn nhìn thấy một nhóm người trên đường làng hay trong cái quán Phở ở chợ .
Nhóm người đó trung niên có, trẻ có, tây ta lẫn lộn .
Đôi khi cô gái trẻ tóc vàng mắt xanh cao lớn đang cố trọ trẹ học câu tiếng Việt từ một cô Việt Nam cũng còn khá trẻ.
Rồi cũng có lắm lúc cô gái Việt Nam nói những câu Anh Ngữ để giải thích sự việc gì đó cho cô gái kia .
Thỉnh thoảng hai người trung niên lại nói tiếng Việt bằng một âm điệu chưa chuẩn lắm làm bà chị của họ bật cười.
Bạn đừng lấy làm ngạc nhiên bởi đó chính là đại gia đình của chị em họ và con cái thuộc thế hệ kế .

Những người họ khác biệt nhau về ngôn ngữ, chủng tộc, tập quán và ở cách xa nhau nửa quả địa cầu, hàng chục giờ bay.
Nhưng họ có chung một thứ, đó chính là dòng máu chảy trong huyết quản của họ có sự hiện diện của cái gọi là ruột thịt tình thâm.
Cuối cùng thì tất cả các dòng sông đều trở về biển như một quy luật muôn đời ….

Song Nhi

From: Dương Phong

Người thứ 279 – PIERRE BELLEMARE

Người thứ 279 – PIERRE BELLEMARE – truyện ngắn

Đào Duy Hòa phỏng dịch

Ngày 23 tháng 12 năm 1964. Chỉ còn 2 ngày nữa là Noel, bầu trời San Francisco nắng đẹp rực rỡ. Ðó là 2 lý do khiến cho đông đảo du khách chọn San Francisco làm điểm đến. San Francisco là thành phố biển của Hoa Kỳ và là một trong những vịnh đẹp nhất thế giới.

Khoảng 15 khách có mặt trên du thuyền của Horace Wilson. Với mái tóc và chòm râu bạc trắng rất nghệ sĩ, Horace Wilson gắn bó với San Francisco gần nửa đời người với vai trò hướng dẫn viên du lịch. Ông không chỉ thuộc mọi ngõ ngách của San Francisco như lòng bàn tay mà còn am hiểu lịch sử hình thành của thành phố này.

Horace Wilson hướng mũi tàu về phía Golden Gate Bridge, cây cầu huyền thoại thu hút sự chú ý của mọi du khách.

Trong cái se lạnh của mùa Ðông, đường nét tao nhã của cây cầu nổi bật trên nền trời tuyệt đẹp. Golden Gate Bridge là tác phẩm kiến trúc hiếm hoi thể hiện được sự hài hòa giữa kỹ thuật và thẩm mỹ. Máy ảnh được đưa lên ngắm và bấm liên tục. Ðợi cho du khách thỏa mãn với những bức ảnh chụp được, Horace thuyết minh: “Cầu Golden Gate bắt đầu xây dựng năm 1933 và hoàn thành năm 1937. Với khoảng cách giữa hai trụ cầu là 1,280 mét, Golden Gate chiếm kỷ lục là cây cầu treo dài nhất thế giới. Nhưng chi tiết lạ lùng nhất về chiếc cầu này chính là biệt danh “cây cầu của những người tự tử” mà người ta đặt cho nó”.

Mọi người ngưng chụp hình và chăm chú lắng nghe. Quay lưng về hướng cây cầu, Horace kể tiếp:

– Nếu một trong số quý vị muốn tự kết liễu cuộc đời, tôi đề nghị quý vị hãy đến cầu Golden Gate vì đó là nơi tự tử chắc ăn nhất. Cho đến giờ phút này, tất cả 278 người mưu toan tìm cái chết đều được toại nguyện. Tại sao ư? Trước hết, như quý vị thấy đấy, cây cầu cao không dưới 67 mét! Ðộ cao này đủ để quý vị ngất xỉu khi chạm mặt nước. Trường hợp quý vị vẫn còn tỉnh táo thì cái lạnh thấu xương cũng không buông tha. Quý vị sẽ ngất xỉu vì lạnh ngay tức khắc hoặc vài phút sau đó, bởi tại vịnh biển này có một dòng nước lạnh cóng chảy từ Bắc cực xuống. Không một ai có thể chịu đựng được hơn vài phút…

Nhìn về hướng cây cầu, nhóm du khách đồng loạt “ồ” lên hoảng hốt. Horace quay phắt lại theo phản xạ tự nhiên. Ông chỉ thoáng thấy một bóng đen xoay tít trong không gian và đâm chúi xuống nước. Horace ra lệnh cho du thuyền trực chỉ về phía người bất hạnh, miệng thốt lên: “Người thứ 279”.

Bác sĩ Stanley Higgins, trưởng ca trực bệnh viện, nhìn người thứ 279 nằm thiếp trên giường. Chị ta khoảng 30 tuổi, sắc vóc cân đối, khá đẹp: mái tóc dài đen tuyền, nước da ngâm đen; hẳn chị ta là một người lai da màu hoặc là người đến từ các đảo thuộc vùng biển Thái Bình Dương. Nhưng đây chỉ là phỏng đoán bởi chị ta không mang theo người bất cứ giấy tờ tùy thân nào.

Người thoát nạn từ từ mở mắt. Bác sĩ Higgins nghiêng về phía chị và nở nụ cười tươi. Tuy đảm nhiệm trọng trách trong bệnh viện, nhưng năm nay Higgins mới có 35 tuổi, gương mặt khá điển trai phảng phất nét trí thức, thân hình rắn rỏi, khỏe mạnh. Hình ảnh đầu tiên mà chị nhìn thấy lúc trở lại với sự sống quả là khá dễ chịu.

Lời nói đầu tiên của chị ta không có gì đặc biệt, dường như đây là câu nói “truyền thống” của hầu hết những người cùng cảnh ngộ:

– Tôi đang ở đâu vậy?

Câu trả lời được thốt lên bằng một giọng nói đầy tự tin:

– Ở bệnh viện. Chị thấy ổn chứ?

Người bất hạnh bỗng nấc lên nghẹn ngào. Chị ta ngồi dậy để lộ thân hình lực lưỡng. Trông chị to lớn như một thanh niên, chiều cao không dưới 1.80 mét, đôi vai rộng, cuồn cuộn cơ bắp như một lực sĩ bơi lội. Chính tầm vóc lực sĩ khoẻ mạnh ấy đã giúp chị thoát chết. Chị ấp úng:

– Sao tôi vẫn còn sống như thế này?

– Sao chị vẫn sống ư? Tôi cũng tự hỏi có phải đây là phép lạ? Người ta không thể cho rằng chị đã giả bộ tự tử, tất cả những người nhảy từ cầu Golden Gate xuống biển đều thật sự muốn tìm cái chết. Trường hợp của chị quả là một phép lạ, và phép lạ đó xuất phát từ chính chị.

– Từ tôi?

– Vâng. Có những trường hợp người bất hạnh muốn về bên kia thế giới, nhưng phản xạ tự nhiên, bản năng sinh tồn… Chị hẳn là một tay bơi cừ khôi?

– Tôi nguyên là cựu vô địch bơi lội của đảo Hawaii.

– Chị cũng là một tay nhào lặn cừ khôi vì các nhân chứng thuật lại rằng cú phóng chúi xuống mặt nước của chị được thực hiện một cách hoàn hảo, y như một vận động viên nhào lặn chuyên nghiệp, không chê vào đâu được! Chính tính chuyên nghiệp đó đã giúp chị không bị tổn thương lúc tiếp xúc mặt nước sau khi rơi tự do ở tốc độ cao. Mặt khác, thể tạng lực sĩ của chị khiến chị không những chịu đựng được cú va chạm mà ngay sau đó chị đã tự động bơi như một rôbốt…

– Thực sự tôi không nhớ rõ những gì đã diễn ra.

– Một điều may mắn nữa là chiếc thuyền chở du khách của Horace có mặt cách nơi chị phóng xuống không xa mấy. Tôi nghĩ là chị nên nói lời cám ơn ông ta.

– Cám ơn về điều gì? Tôi muốn chết kia mà.

– Chị có biết rằng lúc Horace đến nơi thì chị cũng vừa ngất rồi không? Chị có biết rằng Horace đã không ngại hiểm nguy nhảy xuống nước lạnh thấu xương để cứu chị? Vả lại, năm nay ông ta đã 70 tuổi.

Người phụ nữ thở dài hối hận.

– Ông ấy không nên làm thế. Dù sao thì tôi cũng lấy làm tiếc.

– Horace sẽ sớm hồi phục lại thôi. Ông ta đang ở phòng bên cạnh. Tôi vừa mới khám cho ông ta. Ông ta chỉ bị cảm lạnh. Nhưng tôi muốn trở lại câu chuyện của chị. Chị sống ở Hawaii à?

– Vâng, đúng thế.

– Tôi có thể biết tên chị được không?

– Isabelle Kainoa.

– Chị được bao nhiêu tuổi?

– Ba mươi hai.

– Sức khoẻ của chị không có gì trầm trọng.

– Tôi không quan tâm đến điều đó.

– Hẳn là như thế. Nhưng hiện giờ thì chị vẫn còn sống, chắc là chị muốn mình đi đứng bình thường hơn là ngồi trên chiếc xe lăn. Rất may là điều tệ hại đó đã không xảy ra. Chị chỉ bị bong gân và chấn thương cơ bắp. Thực sự không có gì trầm trọng, sẽ không có một di chứng nào. Việc bình phục chỉ còn là yếu tố thời gian.

Lần đầu tiên từ lúc tỉnh lại, nụ cười nở trên môi Isabelle, nhưng chỉ là nụ cười buồn, héo hắt.

– “Không có gì trầm trọng”, bác sĩ nghĩ vậy sao?

– Chị có bị bệnh gì không?

– Vâng có đấy. Tôi bị bệnh phong!

– Bệnh phong? Và đó chính là lý do khiến chị không thiết sống nữa?

Isabelle xác nhận bằng cái gật đầu. Bác sĩ Stanley nhẹ nhàng đặt tay mình lên vai Isabelle. Vào năm 1964, bệnh phong chưa hoàn toàn bị xóa sổ, ngay cả ở các nước phát triển. Lúc bấy giờ Hawaii đã trở thành tiểu bang thứ 50 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

– Isabelle, chị có thể cho tôi biết chị bị bệnh phong trong trường hợp nào?

– Năm 10 tuổi, tôi sống với mẹ tôi ở Hawaii. Mẹ tôi bị bệnh phong và lây sang tôi.

– Chị có được điều trị không?

– Có chứ! Mẹ và tôi được điều trị tại một bệnh viện đặc biệt. Sau một năm, họ bảo rằng tôi đã khỏi bệnh. Tôi ngờ rằng họ chưa điều trị chúng tôi đến nơi đến chốn vì lúc bấy giờ là thời chiến mà.

– Bệnh phong của chị tái phát?

– Không phải ngay sau đó. Tôi đã tìm lại ý nghĩa cuộc sống. Tôi lao vào luyện tập môn bơi lội. Mọi người cho rằng tôi là người phụ nữ khoẻ mạnh ít ai sánh kịp. Năm 20 tuổi, tôi lấy chồng. Chúng tôi sống rất hợp ý nhau và đã có ba đứa con. Mọi việc diễn ra tuyệt vời cho đến khi tôi hạ sinh đứa thứ tư, June…

Bác sĩ Stanley nhớ rõ những ngày ngồi ghế trường đại học, một vị giáo sư nói rằng bệnh phong ở người phụ nữ có thể tái phát khi sinh con dù trước đó nó đã được trị khỏi. Y học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân.

– Bệnh tái phát khi chị sinh con thứ tư à?

– Ðúng thế. Các bác sĩ đã điều trị cho tôi khỏi bệnh phong nhưng họ cũng cảnh báo rằng bệnh có thể tái phát khi sinh nở. Họ khuyên tôi không nên có thêm con vì nguy cơ lây bệnh sang con là rất cao. Quá tuyệt vọng, tôi đã xuống tàu đến đây được hai tháng.

– Chị có thể ở lại Hawaii cơ mà.

– Tôi không thể. Còn nỗi khổ nào bằng ở gần con mà không được gặp mặt chúng. Thà rời xa chúng còn hơn.

– Còn chồng chị thì sao?

– Về nguyên tắc, tôi được phép gặp mặt chồng, nhưng tôi đã từ chối. Tôi sợ sẽ lây cho anh ấy. Và tôi cũng sợ… lại mang thai.

Isabelle cúi mặt, thất vọng. Vài phút trôi qua trong im lặng.

– Chồng và hai đứa con lớn vừa gởi cho tôi thiệp chúc mừng Noel. Tốt nhất là họ đừng gởi thiệp Noel bởi điều đó chỉ làm cho tôi thêm đau buồn.

– Tôi hiểu hoàn cảnh của chị.

– Ðèn màu chiếu sáng rực rỡ mừng Noel sắp đến với mọi nhà ở San Francisco. Cửa hàng, vòng hoa, đèn chớp đủ màu… Tại sao mọi người được đoàn tụ, hạnh phúc với gia đình, còn tôi thì không? Tại sao tôi mắc phải chứng bệnh oan nghiệt này? Tại sao có sự bất công như thế?

– Chị Isabelle này, chị quên rằng chị vừa may mắn thoát chết đó sao?

– Ðiều này anh vừa nói với tôi lúc nãy. Tôi muốn chết nhưng buộc phải sống, phải chăng đó là điều may mắn?

– Tôi không đề cập đến chuyện đó.Tôi có quen biết một giáo sư nổi tiếng, chuyên gia về bệnh phong. Ðó là thầy dạy cũ của tôi, thầy Simson. Ông hành nghề ở Oakland, gần đây thôi.

– Tôi làm sao có đủ tiền để điều trị?

– Khoan nói đến chuyện điều trị đã. Trước hết nên làm cuộc xét nghiệm. Biết đâu chị đã hoàn toàn khỏi bệnh phong.

– Ở Hawaii, họ bảo bệnh phong tái phát.

– Các bác sĩ ở Hawaii làm sao sánh kịp Giáo sư Simson. Khi đến đây, chị không bao giờ nghĩ đến chuyện đi khám xem hư thực ra sao?

– Không, vì tôi tin vào kết quả ở Hawaii.

– Tôi thì không nghĩ như thế. Tình trạng sức khoẻ của chị hiện tại không cho phép chị đến chỗ Giáo sư Simson. Tôi sẽ cố thuyết phục ông ta đến đây.

Bác sĩ Stanley Higgins đã đoán đúng. Với những phương tiện hiện đại mà các đồng nghiệp ở Hawaii không có, Giáo sư Simson đã làm cuộc xét nghiệm đầy đủ cho Isabelle Kainoa. Kết quả chính thức được công bố: Isabelle Kainoa hoàn toàn dứt hẳn bệnh phong. Giáo sư Simson ký giấy xác nhận cho phép Isabelle về đoàn tụ với chồng con.

Sau khi hồi phục, Isabelle quay về với gia đình. Người thứ 279 tìm cái chết trên cầu Golden Gate, sống hạnh phúc bên chồng con.

Với chị đây quả là một phép lạ kỳ diệu.  

From: TU-PHUNG

Gone with the wind – Cuốn theo chiều gió

Gone with the wind – Cuốn theo chiều gió

“Gone with the wind” là một tác phẩm nổi tiếng thế giới, được Margaret Mitchell (1900-1949) sáng tác vào năm 1937. Đây cũng là tác phẩm duy nhất trong sự nghiệp văn chương của bà viết về cuộc nội chiến Nam – Bắc Hoa Kỳ, dựa vào bối cảnh tại Georgia và Atlanta thuộc miền Nam trong suốt thời chiến tranh và tái thiết đất nước.

Margaret Mitchell (1900-1949) và tác phẩm

Tác phẩm đã được dịch sang rất nhiều thứ tiếng, riêng về tiếng Việt đã có rất nhiều bản dịch với cùng một nhan đề là “Cuốn theo chiều gió”. Đó là một tựa sách “không thể nào hay và đầy đủ ý nghĩa hơn” so với tựa đề nguyên bản. Các dịch giả cũng gồm cả những người trong Nam trước năm 1975 như Vũ Kim Thư hoặc ngoài Bắc sau này như Dương Tường.

“Cuốn theo chiều gió”

“Cuốn theo chiều gió” là một cuốn “trường thiên tiểu thuyết” đã giành giải Pulitzer. Thoạt đầu Margaret Mitchell có ý định đặt nhan đề “Tomorrow is another day” (Ngày mai là một ngày khác) cho cuốn sách, lấy từ câu kết thúc tác phẩm, thay vì tựa đề “Gone with the wind” như chúng ta biết đến ngày nay.

Nội dung chính của câu chuyện diễn ra trong suốt 12 năm (từ 1861 đến 1873), xoay quanh cuộc đời của nhân vật chính Scarlett O’Hara từ khi còn là một thiếu nữ 16 tuổi tại trang trại Tara của gia đình tại Georgia. Đến khi trưởng thành tại miền Nam, cô có tới 3 đời chồng và có 3 đứa con.

Đây là giai đoạn nước Mỹ xảy ra cuộc nội chiến (1861-1865) giữa hai miền Nam-Bắc. Miền Bắc chủ trương giải phóng nô lệ với 25 tiểu bang ủng hộ chính quyền Liên bang của Tổng thống Abraham Lincoln, trong khi 11 tiểu bang miền Nam chống lại và quyết định ly khai lập thành Liên minh miền Nam (Confederacy).

Nội chiến Nam – Bắc

Georgia là một trong các tiểu bang miền Nam, nơi kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào các đồn điền trồng bông vải, tận dụng sức lao động của nô lệ da đen trong một xã hội trật tự theo lối xưa, trọng tình nghĩa, thứ bậc, khá gần với kiểu phong kiến châu Âu. Các tiểu bang miền Bắc có nền kinh tế nghiêng về công nghiệp, hướng theo lối làm ăn tư sản.

Mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm khi Lincoln thắng cử tổng thống năm 1860, và cuộc nội chiến duy nhứt trong lịch sử Mỹ đã diễn đã diễn ra. Thất bại sau cùng thuộc về phe miền Nam, họ yếu thế hơn hẳn, xét về dân số, quân số, tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự.

Trong cuốn truyện, cuộc nội chiến Mỹ được kể lại rất sinh động từ góc nhìn của những người dân miền Nam. Ban đầu họ tự tin tới mức ngạo nghễ, xem thường đối phương từ ngay cách gọi khinh miệt “Bọn Yankee”, coi chiến thắng là điều tất nhiên.

Sau đó dần dần từ quan tới lính và dân miền Nam đều nhận ra thất bại là không thể nào tránh khỏi, nhưng họ vẫn nỗ lực hết mình trong một cuộc “chiến tranh nhân dân” đầy hào khí.

Những suy nghĩ, những sinh hoạt của người Georgia trong giai đoạn này được miêu tả vô cùng sinh động và kỹ lưỡng, qua nhiều câu chuyện về nhiều nhân vật khác nhau: thanh niên, phụ nữ, người già và cả người nô lệ da đen.

Nhiều năm sau khi miền Nam đã bị đánh bại, cái hố sâu ngăn cách giữa hai miền vẫn còn, việc đối xử của chính quyền thắng trận với các tiểu bang thua trận cũng gây ra vô số vấn đề phức tạp, dẫn đến phản ứng của dân miền Nam khi lập ra “đảng áo trắng” Klu Klux Klan, kỳ thị người da đen.

“Đảng Áo Trắng” Ku Klux Klan kỳ thị chủng tộc tại Miền Nam

Độc giả Việt Nam không thể không liên tưởng cuộc nội chiến Mỹ với cuộc chiến tranh 54-75 tại quê hương. Có điều, tại Mỹ đã không xảy ra tình trạng “cải tạo”, “đánh tư sản”, “đi kinh tế mới” hoặc “đổi tiền” như tại miền Nam Việt Nam.

Tác phẩm cũng cho ta cái nhìn tổng quát về chiến tranh, hàng loạt những quan điểm về chiến tranh được tác giả lồng ghép, khi mà kẻ thắng và người thua thực chất vẫn là kẻ thất bại, ngay từ khi họ phát động chiến tranh. Thứ chính nghĩa mơ hồ chẳng là gì so với những mất mát người dân phải trả giá.

Những câu chuyện của thời chiến, về sự chia cắt và sự thiếu thốn, được đặc tả rất thật, để độc giả hiểu được cái giá quá đắt của chiến tranh, đó là mạng người và cuộc sống bình thường ai cũng khao khát. Điều này được thể hiện rất rõ qua sự ám ảnh của nhân vật chính Scarlett: luôn bị đói, thiếu thốn mọi bề.

Scarlett biết rằng người nàng thầm yêu từ lâu, Ashley Wilkes, chuẩn bị đính hôn với cô em họ là Melanie Hamilton ở Atlanta. Scarlett cho rằng Ashley có ý định đính hôn vì chàng không biết nàng đã yêu mình. Nàng quyết định sẽ thổ lộ tình yêu với chàng và rủ chàng đi trốn. Nhưng mọi thứ không theo kế hoạch của Scarlett vì tuy Ashley ân cần với nàng nhưng nói rằng chàng vẫn sẽ cưới Melanie trước khi lên đường nhập ngũ.

Scarlett đã nhận lời lấy Charles Hamilton để “trả thù” Ashley. Cuộc Nội chiến nổ ra và các chàng trai phải đi nhập ngũ. Số phận thật nghiệt ngã, Charles đã chết vì bệnh đậu mùa ở căn cứ Nam Carolina trước khi có dịp ra chiến trường, để lại cho nàng một đứa con trai.

Scarlett đến Atlanta, tại đây cô nhanh chóng hòa mình vào sự nhộn nhịp và hối hả của thành phố này. Tại đây, nàng đã gặp Rhett Butler, người trước đây vẫn thường trêu chọc nàng. Giờ đây Rhett là một thuyền trưởng vượt phong tỏa, chuyên chở các mặt hàng thiết yếu cho miền Nam.

Kể từ đó mối quan hệ giữa Scarlett và Rhett được cải thiện. Rhett bằng bản tính hài hước, hay trêu chọc Scarlett và cố làm cho nàng vui. Tuy nhiên gần như cả thành phố đều căm ghét hắn. Trong khi đó Scarlett lúc nào cũng chỉ nghĩ đến Ashley.

Ashley chỉ quan tâm đến vợ mình, Melanie, và ngày Ashley rời nhà trở lại chiến trường, Scarlett lại một lần nữa thổ lộ tình yêu với chàng hi vọng chàng sẽ bỏ vợ để cưới nàng nhưng chàng không nói gì và nhờ nàng chăm sóc Melanie nếu chàng có mệnh hệ gì ngoài chiến trường.

Nội chiến Mỹ dưới hai màu cờ Bắc – Nam

Ở Phần 3 của truyện, cuộc nội chiến ngày càng diễn biến bất lợi cho miền Nam, người dân thành phố Atlanta phải di tản. Scarlett và Melanie không thể đi cùng mọi người vì Melanie đang có thai và có thể sinh con bất cứ lúc nào.

Sau khi Melanie sinh con, Scarlett phải cầu cứu Rhett và anh đã lấy cắp của quân đội một chiếc xe ngựa để chở Scarlett, Melanie và con chạy khỏi Atlanta. Tuy vậy, đi đến giữa đường thì Rhett bỏ mặc họ để gia nhập quân đội. Trước khi đi, anh hôn nàng và nói yêu nàng nhưng Scarlett giận dữ, chửi rủa và tát anh thẳng cánh.

Scarlett trở về đồn điền Tara khi mẹ mất, ngôi nhà bị tàn phá nặng nề, phần lớn các nô lệ đã bỏ trốn. Giờ đây, Scarlett trở thành chủ nhân đích thực của đồn điền bông vải và với bản tính ngoan cường, cách suy nghĩ thực tế, nàng dần vực dậy trang trại, làm mọi công việc, kể cả những việc mà khi xưa chỉ có nô lệ làm.

Chiến tranh kết thúc, nhưng một lần nữa số phận nông trại lại bị đe doạ khi “Chính phủ Yankee” tăng tiền thuế của đồn điền khiến Scarlett phải nhượng lại Tara cho tên quản gia Jonas Wilkerson, người Yankee và cũng là một kẻ da trắng cặn bã.

Để có tiền cứu Tara, Scarlett phải đến Atlanta mượn tiền Rhett. Lúc này Rhett vô cùng giàu có nhưng có lúc cũng phải ngồi tù. Scarlett đến thăm Rhett để mượn một khoản tiền mà không để anh biết là nàng đang cố tán tỉnh anh… chỉ vì tiền.

Nàng đã gần như thuyết phục được Rhett cho đến khi mắt anh thấy bàn tay chai sần của Scarlett, bằng chứng cho những công việc nặng nhọc mà nàng đã làm vì hoàn cảnh gia đình, khiến cô phải thú nhận mục đích thật sự của chuyến viếng thăm chỉ vì tiến khiến Rhett đã từ chối.

Trong cơn tuyệt vọng, Scarlett tình cờ gặp Frank Kennedy, chồng chưa cưới của Suellen, nay đã là chủ một cửa hàng và có một khoản tiền kha khá. Scarlett nói dối rằng Suellen đã lấy người khác và quyến rũ Frank để lấy mình.

Scarlett đã thành công với việc quyến rũ Frank và có tiền cứu Tara. Trong khi đó, Rhett ra tù và cho nàng mượn tiền để có thể mua thêm xưởng cưa với điều kiện: không được dùng tiền giúp Ashley Wilkes.

Scarlett điều hành xưởng cưa rất thành công nhưng nó cũng làm cho nàng bị nhiều dị nghị vì đó không phải là việc dành cho phụ nữ. Nàng đã có thai với Frank nhưng vẫn thường xuyên làm việc nơi công cộng nên ngày càng nhiều người khinh ghét.

Scarlett đã mời Ashley trở lại Atlanta giúp nàng điều hành xưởng cưa và ngăn chàng lên miền bắc kiếm việc làm. Ashley lưỡng lự nhưng Melanie kiên quyết đồng ý nên Ashley đành chiều theo ý vợ.

Sau khi sinh con, Scarlett thường xuyên lái xe ngựa một mình đến xưởng cưa mặc dù đã nhiều lần được cảnh báo về sự nguy hiểm. Một ngày nọ nàng bị một tên da trắng nghèo khổ và một tên da đen giải phóng tấn công và suýt bị cưỡng hiếp. May mắn có Big Sam, một nô lệ da đen từng làm việc ở Tara, đã cứu nàng kịp thời.

Frank, Ashley và một số người đàn ông khác thuộc đảng Ku Klux Klan phải đi trả thù và kết cục là Ashley bị thương và Frank bị giết. Còn các thành viên khác được Rhett tìm cách cứu họ. Sau cái chết của Frank, Rhett ngay lập tức cầu hôn Scarlet trước khi nàng có thể lấy một người nào khác.

Và đây là tâm trạng của Scarlet trước lời cầu hôn của Rhett trong hồi kết của “Cuốn theo chiều gió”:

“Bây giờ mình chưa nghĩ đến chuyện đó vội”, nàng nghĩ thầm, vận dụng câu thần chú quen thuộc: “Bây giờ mà mình nghĩ đến nỗi mất chàng, thì mình phát điên mất. Để đến mai đã”.

Scarlett sau đó cũng sinh cho Rhett một đứa con gái mặc dù nàng cũng không hề muốn. Chỉ vì “tình đầu” với Ashley, Scarlett kiên quyết không ngủ chung với chồng để tránh việc mang thai lần nữa. Rhett tức giận và cãi cọ liên tục với nàng về mối quan hệ bạn bè, cách nuôi dạy con cái. Anh muốn con gái mình sẽ trở thành một công chúa trong tầng lớp thượng lưu miền Nam cũ. Rồi Rhett cùng với con gái đi khỏi Atlanta…

Trong một lá thư viết ở thời điểm 5 tháng sau khi “Gone with the wind” được xuất bản và nhanh chóng trở thành sách bán chạy nhất tại Mỹ hồi năm 1936, tác giả Margaret Mitchell viết:

“Về kết thúc của cuốn tiểu thuyết và liệu rằng Rhett có quay về với vợ không, thực tình chính tôi cũng không biết. Tôi thực sự chưa bao giờ nghĩ về tương lai của các nhân vật sau khi câu chuyện khép lại. Tôi không hề lên kế hoạch trước cho tác phẩm, vì vậy, số phận các nhân vật cũng nằm ngoài khả năng tiên đoán và dự liệu của tôi”.

Tác phẩm “Gone with the wind”

Phim “Gone with the wind” do David O.Selznick sản xuất với đạo diễn Victor Fleming và kịch bản của Sidney Howard. Bộ phim được quay ở miền Nam nước Mỹ trong thời nội chiến. Các diễn viên chính bao gồm: Clark Gable, Vivien Leigh, Leslie Howard, Olivia de Havilland và Hattie McDaniel.

Ra mắt từ năm 1939 nhưng đến nay cuốn phim vẫn đứng đầu danh sách 100 bộ phim có doanh thu thành công nhất tại Mỹ. Kể từ khi được phát hành, “Cuốn theo chiều gió” đã đạt gần 2 tỷ USD doanh thu theo quy đổi lạm phát đồng tiền.

Poster phim “Gone with the wind”

Trong phim, tác giả đã để Rhett Butler nói một câu chửi thề “rất thật” với Scarlett O’Hara khiến độc giả phải ngỡ ngàng. Câu chửi thề bày tỏ mối quan tâm của người dân Mỹ sau cuộc nội chiến nói riêng và cả những suy nghĩ về chính trị của mọi người trong thời đại này.

“Frankly, my dear, I don’t give a damn”

(Thật lòng mà nói, em yêu à, anh cũng đếch thèm quan tâm!).

Nhân vật phụ “bà vú” Mammy do Hattie McDaniel thủ vai nhận được giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Bà là người phụ nữ Mỹ gốc Phi nhận được vinh dự tại giải của Viện Hàn lâm. Sự thật đáng buồn đã xảy ra tại buổi lễ trao giải Oscar, bà đã không có cơ hội được ngồi cùng những người người bạn đồng diễn chỉ vì là người da đen và phải ngồi ở khu vực riêng tách biệt.

Đứng từ quan điểm xã hội, “Cuốn theo chiều gió” bị chỉ trích vì các tình tiết dường như hướng đến việc cổ xúy chế độ nô lệ ở miền Nam nước Mỹ. Trong phim, những nhân vật da trắng được khắc họa đầy lý tưởng, tao nhã, khớp với hình mẫu “anh hùng”, trái ngược những người Mỹ gốc Phi luôn ở thế dưới, đóng vai những người hầu phục vụ họ.

“Bà vú da màu” Mammy do Hattie McDaniel thủ vai nhận được giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất

Nữ diễn viên Vivien Leigh hình như sinh ra để trở thành nàng Scarlett O’Hara đầy cá tính còn Clark Gable nhiều năm qua đóng khung với Rhett Butler. Họ yêu nhau trong phim nhưng lại là những người xa lạ phía sau ống kính.

Với nụ cười nửa miệng, Clark Gable như chàng Rhett Butler bước ra từ tiểu thuyết. Phía sau ống kính, Gable hóa ra lại không thích bộ phim và nhân vật của chính mình như người ta tưởng tượng.

Nữ diễn viên Olivia de Havilland, người đóng vai cô em họ Melanie trong phim, từng chia sẻ về những câu chuyện phía sau ống kính khi bà bước vào tuổi 100.

“Tôi được biết Clark Gable không thích cuốn tiểu thuyết này. Theo anh ấy, “Cuốn theo chiều gió” là câu chuyện về những người phụ nữ. Tại thời điểm đó, anh đang hoàn tất thủ tục ly hôn, anh ấy ghét nhân vật Rhett Butler. Thực tế là anh ấy cần tiền để giải quyết ly hôn, anh ấy cần đóng bộ phim này vì tiền”.

Clark Gable và Vivien Leigh trong phim

Mối quan hệ giữa Vivien Leigh và Clark Gable còn bị miêu tả là “bất hòa”. Trong một lần phỏng vấn, Vivien Leigh thẳng thắn nói: “Hôn Clark Gable không hề thú vị chút nào. Tôi không thích hàm răng giả và hơi thở đầy mùi của anh ta”.

Một điều khiến Vivien Leigh không ưa Clark Gable còn vì khoảng cách thù lao quá lớn giữa hai người. Cô phải làm việc trong 125 ngày và được nhận 200 USD một ngày. Trong khi bạn diễn nam làm việc trong 10 tuần và nhận 12.000 USD cho mỗi tuần. Điểm chung giữa Clark Gable và Vivien Leigh trên phim trường có chăng là thuốc lá. Clark Gable có thể hút 3 bao thuốc mỗi ngày còn Vivien Leigh hút tới 4 bao.

Họ cũng có những bước ngoặt buồn trong cuộc đời. Vivien Leigh từ một ngôi sao hàng đầu trở thành nữ diễn viên bị chê gàn dở, tâm thần bất ổn, nghiện rượu. Vivien Leigh ly hôn Laurence Oliviver vào năm 1961 và qua đời vì bệnh lao khi mới 54 tuổi. Clark Gable từng rơi vào giai đoạn bế tắc vì rượu và chất kích thích sau khi bạn đời Carole Lombard qua đời do tai nạn máy bay. Ông mất năm 1960 do đột qụy ở tuổi 59.

Cảnh trong phim “Gone with the wind”

Chiến tranh bao giờ cũng tàn nhẫn. Dù đó là một cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ hay là cuộc chiến đã qua tại Việt Nam. Số phận của người phụ nữ dù không thực sự dấn mình trong lằn tên mũi đạn nhưng hậu quả của chiến tranh vẫn luôn ám ảnh cả trong thời chiếnlẫn thời bình!

Nguyễn Ngọc Chính

From: TU-PHUNG

Chuyện tình chàng giáo sinh yêu nàng thơ khiếm thị

Lê Quốc Quân

BÁO CÔNG AN NHÂN DÂN VIẾT VỀ CHUYỆN TÌNH CỦA ANH HÙNG “ GÀN” và CHỊ LÊ NA (tâm hồn đẹp này giờ đang bị kết án 5 năm tù vì tình yêu của anh với đất nước)

Chuyện tình chàng giáo sinh yêu nàng thơ khiếm thị

17:52 10/10/2011

Trong cuộc sống có không ít mối tình cổ tích được xây lên từ những người yêu thơ, rồi say mê tác giả. Nhưng có lẽ mối lương duyên bắt nguồn từ thơ của một anh giáo ở tận miền đất sơn cước địa đầu Tổ quốc với cô nữ sinh khiếm thị lại là một câu chuyện tình hiếm hoi khiến nhiều người ngưỡng mộ, cảm phục.

Chàng trai đó là Lê Trọng Hùng (32 tuổi, Minh Lương, Văn Bàn, Lào Cai) đã bỏ một công việc ổn định với nhiều cơ hội thăng tiến, lặn lội từ Lào Cai xuống Hà Nội để tìm gặp và yêu người con gái khiếm thị đã làm anh say mê từ một bài thơ anh vô tình được nghe trên một chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam cách đây 10 năm.

Xin làm chàng “Thạch Sanh” yêu “công chúa” cổ tích

Trong căn phòng rộng chừng 15m2 nằm trong ngõ 657 phố Minh Khai (Hoàng Mai, Hà Nội), anh Hùng đang loay hoay pha sữa bột cho con, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc. Sợi dây kết nối trong tổ ấm của anh chị là một cậu bé xinh xắn được chào đời. Lê Trọng Bảo Minh vừa tròn 4 tháng tuổi, bụ bẫm và kháu khỉnh. Bằng sự nhạy cảm và trái tim người mẹ, chị ve vuốt bàn tay bé xíu, chị Na hài hước: “Mọi người đều bảo tôi “đẻ thuê”! Thằng bé giống bố từ đầu đến chân, mỗi bàn tay ngòi bút là “dấu tích” của mẹ”!

Chị Đỗ Lê Na để lại cho tôi một ấn tượng khá đặc biệt từ khi gặp chị trong lần chị bước lên nhận giải nhất cuộc thi viết “Vì trẻ em khuyết tật” do Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Hà Nội và Báo Hà Nội mới tổ chức. Chị là sinh viên khiếm thị đầu tiên được tuyển thẳng vào trường đại học tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Lê Na lại yêu văn học, thích sáng tác, những bài thơ của chị đăng trên tờ báo Hoa Nắng của Trường Nguyễn Đình Chiểu và được chương trình Tiếng thơ của Đài tiếng nói Việt Nam đọc lại mỗi tối.

Lục lại quá khứ, Lê Na bảo, chị không nhớ tình yêu của mình bắt đầu từ lúc nào và phải trải qua biết bao sóng gió, chỉ nhớ rằng, người con trai đó đã nắm tay chị bước qua rất nhiều giông bão, vượt qua những dị nghị của người đời để làm đôi vai, chỗ dựa vững chắc cho chị. Chị nghĩ, chị là người thiệt thòi nên chưa bao giờ hi vọng sẽ lấy người sáng mắt, cũng không tin niềm hạnh phúc, tình yêu và những điều kỳ diệu sẽ ứng nghiệm vào cuộc sống của mình, chỉ có sự cố gắng, nỗ lực vươn lên bằng sự hăng say của bản thân sẽ gặt hái được kết quả tốt đẹp.

Chính vì thế, chị luôn cố gắng phấn đấu, học hỏi, tạo dựng tri thức để giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ. Hướng đôi mắt đục mờ chỉ còn phân biệt được sáng tối nhìn lên để định hướng người đang nói chuyện với mình, chị kể về tuổi thơ đầy sóng gió của mình trong niềm cảm động vô hạn đối với người mẹ. Lê Na vừa sinh ra đã bị bỏ rơi tại Bệnh viện Khe Sanh (Quảng Trị), cô y tá Lê Thị Bích Thủy (người Quảng Bình) lúc đó vừa tròn 20 tuổi, chưa chồng con đã đón nhận về nuôi nấng, dạy dỗ.

Hồi mới sinh, mẹ Na bảo đôi mắt Na rất đẹp, sáng và tinh nhanh hơn những đứa trẻ cùng tuổi khác nhưng càng lớn, thị lực Na càng yếu đi. Đến 6 tuổi, em gái Thùy Linh đi học, Lê Na nằng nặc đòi mẹ được đến trường cùng các bạn, nhưng vì yếu thị lực, trường không dám nhận vì sợ ảnh hưởng đến học sinh khác. Các thầy, cô ngày ngày vẫn thấy một cô bé đứng ngoài cửa sổ, cố gắng nheo nheo đôi mắt đọc những con chữ đang nhảy nhót trên bảng, đã quyết định nhận Na vào lớp nhưng không được nằm trong danh sách là học sinh chính quy của nhà trường.

Vợ chồng Lê Trọng Hùng – Lê Na (giữa) hạnh phúc bên đứa con đầu lòng.

Năm 1993, đội văn nghệ của Trường mù Nguyễn Đình Chiểu vào biểu diễn cho học sinh tại trường học của em Linh. Thấy đoàn có những học sinh khiếm thị đều tiếp cận với kiến thức văn hóa, sách vở, Na xin mẹ theo đoàn để được học chữ như các bạn. Người mẹ thương con, sợ con xa nhà vất vả, cô đơn, lúc đầu do dự, khuyên ngăn, nhưng sau thấy Na quyết chí, mẹ Thủy chấp thuận, lặn lội tìm gặp người quản lý của đội văn nghệ để xin Lê Na theo học.

Một tuần sau, Lê Na giã biệt gia đình, quê hương để lên đường ra Hà Nội học trường Nguyễn Đình Chiểu những năm tiểu học, sau đó nhanh chóng được học hòa nhập tại Trường THCS Minh Khai, THPT Dân lập Nguyễn Đình Chiểu và là một trong 20 học sinh giỏi của Thủ đô Hà Nội năm 2001 – 2002.

Na bảo, chị không đủ tự tin với thiên chức làm vợ, làm mẹ và làm con dâu, phần nữa cũng lo lắng vì sợ người chồng sau này sẽ không cảm thông vì khiếm khuyết của bản thân. Chị cũng không ngờ một anh giáo đang có công việc ổn định, có cơ hội thăng tiến ở tỉnh Lào Cai lại từ bỏ hết những thảm hồng được trải sẵn để làm lại từ đầu với bao nhiêu khó khăn vất vả phía trước chỉ vì yêu đơn phương cô gái khiếm thị có bài thơ khiến anh “say” đến mê mệt.

Chị nhớ như in tin nhắn mà anh gửi: “Anh nguyện làm chàng Thạnh Sanh nắm tay em viết câu chuyện cổ tích về tình yêu. Anh hiểu những điều em đang lo lắng nhưng anh tin, tình yêu sẽ giúp mình vượt qua được tất cả”.

Hạnh phúc bình dị

Nhiều người bảo, văn chương là cầu nối xe duyên cho tình yêu của anh chị, còn anh Hùng chỉ coi đó là “định mệnh”. Là giáo viên Trường THCS Minh Lương (Văn Bàn, Lào Cai) nhưng tâm hồn thầy giáo dạy Hóa rất thích đọc thơ văn, tiểu thuyết.

Vào một đêm trăng năm 2001, chương trình Tiếng thơ của Đài Tiếng nói Việt Nam phát lên giọng đọc ấm áp, ngọt ngào của cô phát thanh viên hai bài thơ “Xa rồi cổ tích” với những câu thơ mềm mượt, nhẹ nhàng đầy tâm sự khiến trái tim anh xao xuyến. Từ đó, anh đam mê và thường xuyên nghe chương trình “Tiếng thơ” với hi vọng mong manh sẽ được nghe lại bài thơ lần nữa. Chờ mãi không thấy, anh gọi điện đến tổng đài yêu cầu được phát lại để anh… chép lại nguyên bản và phổ giai điệu cho học sinh hát lúc giờ sinh hoạt Đoàn, Đội.

Chưa một lần anh được gặp mặt tác giả, anh Hùng tự xây dựng trong tim mình hình ảnh cô gái khiếm thị có tâm hồn mềm mại, đa cảm. Năm 2005, anh quyết định nghỉ dạy ở Trường THCS Minh Lương, đăng ký khóa học tại chức ngành Luật ở Trường Đại học Mở Hà Nội. Anh tìm đến hỏi thăm Trường Nguyễn Đình Chiểu nhưng mọi người bảo cô gái đã đỗ Đại học.

Hà Nội bé nhỏ nhưng mênh mông biển người, biết tìm đâu một cô gái mà anh chỉ biết tên và bài thơ khắc kỹ trong tim? Đôi lúc, anh hoang mang, định bỏ cuộc thì tình cờ, cô bạn học cùng cấp 3 trường hòa nhập với Na biết chuyện đã giúp anh tìm số điện thoại liên lạc. Từ những cuộc điện thoại ngắn của “fan” hâm mộ với tác giả, Hùng lấy hết can đảm đặt vấn đề gặp mặt. “Hôm đó, tôi cố gắng diện thật đẹp, đóng thùng lịch sự, nhưng chợt nhớ ra cô gái không nhìn thấy được gì” – Hùng ngượng ngùng kể.

Người ta nói, những người khiếm khuyết đôi mắt thì bù lại họ cảm nhận rất tinh tế từ những giác quan khác quả không sai. Không cần bắt tướng qua khuôn mặt, cử chỉ, dáng điệu, hình ảnh, Na cảm nhận ở Hùng mộc mạc và chân thành như anh trong những cuộc trò chuyện điện thoại. Những lần đi chơi, anh nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của chị dắt chị đi từng bước, tả cho chị những cảnh vật bên ngoài, về thế giới xung quanh.

Chị cười: “Với tôi, anh là đôi mắt sáng để tôi nhìn và cảm nhận thế giới bên ngoài”. Còn bạn bè chị trầm trồ: “Con trai như anh Hùng bây giờ là “của hiếm” đấy. Có được người yêu như anh ấy là may mắn và hạnh phúc lắm đấy, cậu đừng để đánh mất tình yêu!” Chị chỉ cười thỏ thẻ, giấu đôi má hồng lên vì ngượng và niềm hạnh phúc dâng đầy trong tim.

Anh Hùng đưa cho tôi xem tập thơ Vườn cổ tích của chị Lê Na, kèm theo bài thơ “Cổ tích cho em” mà anh viết tặng chị. Những câu thơ: “Cổ tích cho em không chỉ bây giờ/ Mình lại có mái nhà xinh xắn/ Mình sẽ có những thiên thần xinh xắn/ Không đến từ thiên đàng/ Mà đến từ hai ta…” là nhân chứng cho những chuỗi ngày phải vượt qua lời đàm tiếu, phải chờ đợi, thuyết phục để nhận được sự đồng ý của hai bên gia đình.

Tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả nhưng anh chị vẫn cảm thấy hạnh phúc và trân trọng hơn những gì mình có. Anh Hùng đang làm giáo viên tại Trường THCS Minh Khai, chị Lê Na là cô giáo của Trường Nguyễn Đình Chiểu, anh còn giúp chị dịch sách giáo khoa chuyển ngữ sang chữ Brain. Chị cười, món quà lớn nhất cho tình yêu của chúng tôi là đứa bé xinh xắn và kháu khỉnh. Cháu ăn nhiều nên sữa mẹ không đủ, phải pha sữa bột uống từ 4 tháng tuổi. “Giờ tôi đã tự tin về những kỹ năng làm vợ, làm mẹ và có thể truyền lại kinh nghiệm, kiến thức nuôi con cho bạn khi bạn sinh đứa con đầu” – chị nheo mắt hài hước

https://cand.com.vn/…/Chuyen-tinh-chang-giao-sinh-yeu…/

Văn Quỳnh Lưu

ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH…

GÓC SUY GẪM…

ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH…

Một người đàn bà nghèo khổ bế đứa trẻ đi ăn xin, một lần bà ta đi ngang qua một cái hang. Bỗng nghe văng vẳng bên tai:”

Ngươi có thể vào trong và lấy bất cứ thứ gì mình muốn, nhưng đừng quên cái chính và hãy nhớ một điều: sau khi ngươi trở ra thì cửa hang sẽ đóng lại vĩnh viễn, tuy vậy hãy lợi dụng cơ hội hiếm có này và nhớ đừng quên cái chính”.

Nghe lời bà ta đi vào trong hang. Bà bị lóa mắt bởi vô số những thứ quý giá: vàng bạc, châu báu, kim cương. Bà ta đặt đứa con xuống và bắt đầu nhặt mọi thứ có thể và nhét hết vào mọi nơi trên người. Bên tai văng vẳng lời nhắc nhở: “ngươi chỉ có 8 phút thôi và đừng quên cái chính !”.

Sau khi đã nhét đầy người vàng bạc châu báu cũng là lúc hết giờ. Bà ta vội vã rời khỏi hang, cũng là lúc cửa hang đóng sập lại. Chợt bà ta sực nhớ đến đứa trẻ còn ở trong hang. Bà ta vứt tất cả vàng bạc châu báu đã lấy được và lăn ra khóc lóc vật vã. Nhưng chẳng ích gì vì cửa hang đã vĩnh viễn đóng lại.

Trong cuộc đời chúng ta cũng có khoảng 80 năm để sống ở đời và từ trong sâu thẳm đáy lòng luôn có một âm thanh nhắc nhở chúng ta:

“ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH”.

Nhiều khi con người vì ham kiếm thật nhiều tiền bạc, nhiều khi ăn chơi vô độ, hoặc chạy theo danh vọng, sắc đẹp mà quên đi cái chính của cuộc đời: đó là chăm chút đời sống tâm linh, lo cho gia đình, cho những người thân yêu là cha mẹ con cái chồng vợ… là giá trị của đạo đức làm người.

Nhoáng cái đã hết 80 năm. Đến khi sắp nhắm mắt mới nhận ra mình đã quên đi cái chính thì ôi thôi đã muộn…!!!

‘GÌAU CÓ’ NHƯ NGƯỜI SAIGON

Lương Văn Can

‘GÌAU CÓ’ NHƯ NGƯỜI SAIGON:

Đi ngang cởi luôn áo khoác đang mặc cho người vô gia cư giữa đêm trở lạnh

***

Giữa cái không khí lành lạnh bất chợt của Sài Gòn, người đàn ông dừng xe máy, cởi chiếc áo mình đang mặc và đưa cho ông lão vô gia cư đang ngồi tựa lưng vào thành cầu. Bởi ta nói: ‘giàu có như người Sài Gòn’ là vậy.

Cuối năm, trời đất bước vào thời khắc giao mùa, cái không khí se se lạnh ùa về, báo hiệu một mùa mới sắp sang. Cái lạnh của đất trời lâu nay vẫn thế, thổi vào lòng người những xúc cảm chông chênh, khác lạ.

Nhưng cái lạnh của thời tiết, của thiên nhiên dù có khắc nghiệt đến mấy cũng đâu thể so với cái lạnh của lòng người. Bởi thế, chỉ cần một vài khoảnh khắc ấm áp và đong đầy tình cảm giữa những con người không quen, chưa biết mặt với nhau cũng đủ khiến người ta cảm thấy ấm lòng giữa đêm dài.

Vừa qua, trên một trang mạng xã hội chuyên chia sẻ những câu chuyện chân mộc và dung dị về con người Sài Gòn được đông đảo bạn trẻ yêu thích đã có đăng tải một bức ảnh khiến người xem không khỏi bồi hồi, xúc động.

Trong khung cảnh ở một chiếc cầu nơi có rất nhiều người vô gia cư tập trung về để ngả lưng xuống cho hết cái đêm dài đằng đẵng của thành phố, một người đàn ông đã dừng chiếc xe của mình, mang chính chiếc áo mình đang mặc tặng lại cho một trong những con người đang khắc khoải cần một mái nhà kia.

“Giữa cái không khí lành lạnh bất chợt của Sài Gòn, người đàn ông dừng xe máy, cởi chiếc áo mình đang mặc và đưa cho ông lão vô gia cư đang ngồi tựa lưng vào thành cầu. Bởi ta nói: “Giàu có như người Sài Gòn” là vậy”.

Sau khi được đăng tải không lâu, câu chuyện giàu cảm xúc này ngay lập tức nhận được sự quan tâm của đông đảo người dùng mạng. Rất nhiều người đã để lại cảm nhận của bản thân ở phần bình luận.

“Có người từng nói, một hành động nhỏ cũng có thể thổi bay cơn giá rét của đêm đông giá lạnh. Mình vẫn nghi hoặc và cho rằng hơi lố. Nhưng giờ, nhìn những hình ảnh này, mình thật sự tin điều đó”.

“Mọi người định nghĩa như thế nào về người giàu? Nhiều tiền, nhà lầu, xe hơi? Không, theo mình thì đây mới là người giàu thật sự”.

“Yêu Sài Gòn là ở chỗ đó. Nếu đã sống nhanh thì rất năng động và quay cuồng. Tuy nhiên, một khi đã chậm lại một phút thì lại bắt được vô vàn khoảnh khắc quý giá trong cuộc sống”.

Hành động của người đàn ông trong câu chuyện tuy nhỏ thôi, nhưng chắc sẽ khiến nhiều người cảm thấy xúc động ấm áp. Đồng thời nó còn khiến không ít người lắng lại để nghĩ suy rồi một lần nữa định nghĩa về khái niệm về sự giàu có mà bấy lâu nay họ vẫn luôn tâm tưởng.

Bởi lẽ, sự giàu có mà nói, đâu phải chỉ đơn thuần được cân đo, đong đếm bằng tiền bạc, hiện kim mà hơn hết nó còn nằm ở những tấm lòng ấm áp, rộng rãi. Người giàu có nhất là người cho đi nhiều nhất chứ không phải là người sở hữu nhiều tài sản nhất. Vì cuộc sống cần sự sẻ chia và cho đi để nhận lại nhiều hơn.

theo Helino

Một Người Đàn Bà- Truyện Ngắn- Trương Thị Thanh Hiền

Van Pham is with Amy Quynh.

Truyện Ngắn Đầu Năm Mới – Trương Thị Thanh Hiền

***

Một Người Đàn Bà

Tôi vượt biển một mình, đau quằn quại đến không còn thiết sống. Tôi như đi trong sương mờ, mải miết vươn đến chỗ mẹ tôi đang vẫy gọi. Tôi thèm được vùi vào lòng bà, khóc nức nở như một đứa trẻ thơ để quên hết những nỗi đau thể xác và tâm hồn. Bà mở rộng vòng tay ôm lấy tôi.

Tôi khóc nức lên và choàng tỉnh dậy. Mẹ tôi đã tan biến, chỉ có dì đang ôm tôi. Tôi gào lên:

– Dì làm gì vậy? Tại sao dì dám ôm tôi?

Dì lật bật lùi ra xa, lắp bắp :

– Dì xin lỗi. Dì thấy con đau quá mà không biết làm gì. Dì thấy tội nghiệp con quá…

– Ai cần dì tội nghiệp. Tôi đã bảo dì đừng vào đây mà. Hãy để cho tôi một mình, tôi không cần ai hết.

– Làm sao dì để cho con một mình được. Ba con không đi đến được, em trai thì đi mất. Không có dì con làm sao đây?

– Dì quan trọng quá nhỉ? Vì ai mà em tôi thành bụi đời, ba tôi buồn rầu mà sinh bệnh, còn tôi thì bị tống cổ ra khỏi nhà?

– Con nghĩ sao cũng được nhưng bổn phận làm mẹ dì phải lo cho con.

– Làm mẹ à! – tôi hét lên – Dì lấy tư cách gì làm mẹ của tôi? Dì tự xem lại mình có xứng với hai tiếng ấy không? Dì làm tổn thương đến vong linh của mẹ tôi đấy. Dì đi đi, dì ở đây làm tôi đau đớn hơn. Ôi, mẹ ơi, sao mẹ lại bỏ con, mẹ ơi!

Hoảng sợ trước lời kêu khóc của tôi, dì lóng ngóng chạy ra ngoài.

***

Năm tôi mười lăm tuổi mẹ tôi qua đời. Mẹ tôi là một phụ nữ tài năng, xinh đẹp. Chính vì vậy mà năm năm sau khi ba tôi cưới dì, một y tá lỡ thời, cục mịch, quê mùa, tôi bị sốc thực sự. Điều đó không chỉ làm tổn thương đến tâm hồn non trẻ của tôi mà còn xúc phạm đến vong linh của mẹ tôi.

Đối với tôi, dì là một người thuộc tầng lớp khác nếu không muốn nói là thấp hèn hơn. Ba tôi là một bác sĩ giỏi lại rất tài hoa. Ba và mẹ là một cặp xứng đôi đến nỗi trong cả triệu cặp vợ chồng chắc mới có một. Vì vậy sự khập khiễng giữa ba và dì làm tôi lúc nào cũng sôi sục, hễ cứ gặp mặt dì là mọi uất ức dâng lên trong tôi. Tôi không cấm ba lấy vợ kế nhưng biết bao người xứng đáng ba không chọn, lại chọn một bà y tá lỡ thời, quê mùa, thất học.

Em tôi còn phẫn uất hơn tôi nên đã bỏ nhà đi hoang, không tìm lại được. Tôi nói năng hỗn xược, xúc phạm cả ba lẫn dì, bị ba giận đuổi đi vào một đêm mưa tầm tã. Rồi ba hối hận chạy đi tìm tôi nhưng tôi nhất định không chịu về, đến ở hẳn nhà bạn trai. Trong ngày đám cưới của tôi, một cuộc hôn nhân ba không chấp nhận, ông bị lên huyết áp và bị liệt nửa thân người. Tôi sớm rời trường đại học, sống vất vưởng với một cuộc hôn nhân vội vã bốc đồng và chẳng mấy chốc cũng ly hôn khi đang bụng mang dạ chửa.

Khi con gái tôi ra đời, chẳng rõ chầu chực ở đâu sẵn, dì lao vào bệnh viện với nào tã, nào nón, nào khăn chẳng biết dì sắm sửa từ bao giờ. Chẳng đếm xỉa gì đến vẻ tức giận của tôi, dì nâng con bé lên nựng nịu :

– Ôi, cháu của ngoại, cục cưng của ngoại. Ngoại mong cháu từ lâu lắm rồi, viên kim cương của ngoại. Nào, nào mẹ cho bé mum tí nào.

Dì lăng xăng líu xíu ủ chân tay cho tôi, lấy nước nóng chườm bụng rồi lại chạy băng về nhà vừa báo tin mừng cho ba tôi, vừa mua thức ăn tẩm bổ cho tôi.

Biết không thể xua đuổi được dì, tôi đành phải chấp nhận sự săn sóc của dì với vẻ xa cách lạnh lùng. Ngày hôm sau ba tôi đi xe lăn vào. Nhìn thấy ông, tôi bật khóc. Vị bác sĩ phong độ ngày nào nay tàn tạ vì bệnh tật, vì gia cảnh tan nát. Ông chỉ điềm đạm nói với tôi:

– Ba không bắt con phải vì ba, không phải vì dì cũng không vì bản thân con mà phải vì con bé này. Con đã tạo ra nó trong sai lầm của mình thì cũng đừng để nó lớn lên trong sự sai lầm. Hãy trở về với ba, cho con của con những gì tốt đẹp nhất dù bản thân con có phải đối diện với những thử thách đau lòng. Mẹ con mãi mãi là một hình ảnh đẹp không ai có thể làm hoen ố hình ảnh ấy

Những lời ông nói cứ thấm vào lòng tôi đau buốt. Ôi, con gái của tôi, lẽ nào vì tôi mà cuộc đời nó cũng chẳng tốt đẹp gì hơn.

Tôi trở về nhà, lòng lạnh giá hơn. Dì là người vui nhất. Tôi chẳng hiểu được nỗi vui mừng ấy. Lẽ ra dì phải vui khi tống được cái gai nhọn như tôi ra khỏi nhà mới phải. Tôi nhận sự chăm sóc rất mực chu đáo của dì như nhận một thói quen, thậm chí như một sự ban ơn. Dì không chú ý gì đến vẻ xa cách, kẻ cả của tôi mà chỉ tìm mọi cách để tôi vui. Dì lăng xăng suốt ngày, quần xắn đến gối, mắt lấp lánh tia cười, miệng líu ra líu rít.

– Hoàn ơi, con xem con bé này đã biết cười rồi đấy.

– Ấy, ấy, con đừng đi sãi chân như vậy, khép chân lại nào. Này, quấn cái khăn lên đầu, gió lùa đấy.

– Dì đã giặt đồ cho cháu rồi. Giặt đồ cho em bé không nên vắt, sẽ làm em vặn vẹo suốt đêm.

– Ôi cục vàng của ngoại sao lại khóc… Bé khó chịu hả? Ứ ừ, em không chịu nằm nữa à? Thế ngoại bế con ra sân chơi nghen?

Suốt ngày nhà chỉ văng vẳng tiếng dì. Dì tự hỏi rồi cũng tự trả lời. Dì đoán được ý của tất cả mọi người, từ ba tôi đến con bé chỉ biết khóc kia. Dì phục vụ tất cả chúng tôi với lòng tận tâm hồ hởi.

Nhưng có lúc dì lại ngồi thần người ra, vẻ ủ dột trầm ngâm. Rồi không nén nổi, dì thở dài:

– Tội nghiệp thằng Quang, mưa gió thế này không biết nó ở đâu.

Quang là em trai tôi, mười tám tuổi. Tôi lén nhìn dì, nỗi đau của dì giống hệt nỗi đau của người mẹ xót thương con. Nếu là mẹ tôi hẳn cũng chỉ đau khổ đến thế là cùng.

Đêm đêm sau khi làm xong mọi việc, dì lại quày quả đi tìm Quang. Dì đã đi tìm nó suốt hai năm qua. Ba tôi và tôi đã không còn hy vọng vì rõ ràng biết nó còn quanh quẩn đâu đây nhưng nó không muốn gặp ai trong gia đình. Nó đã không muốn gặp, không muốn trở về nhà thì dù có tìm được nào có ích gì. Nhưng dì không nản lòng – Một ngày kia dì chộp được nó khi nó ngủ gà ngủ gật trong công viên. Nói đúng ra khi nó đang đói ma túy. Thế là từ đó cả nhà tôi, hay đúng hơn là chỉ có dì, chiến đấu giành giật lấy nó từ tay của nàng tiên nâu.

Dì trói nó vào góc nhà, áp dụng đủ mọi phương cách, mọi bài thuốc từ tây lẫn ta, bồi bổ cho nó đủ mọi thứ sơn hào hải vị. Khi mập mạp béo tốt trở lại, nó lại bỏ nhà ra đi. Dì tiếp tục cất công đi tìm và lại tìm thấy khi nó đang thân tàn ma dại ở đâu đó. Lại cột nó ở góc nhà, lại những bài thuốc, những món ăn ngon… Cái vòng luẩn quẩn ấy cứ lặp lại không biết bao nhiêu lượt. Đến như tôi cũng phát chán, còn ba tôi thì gần như đã buông xuôi, đau đớn vì bác sĩ như mình mà không cứu nổi con. Chỉ riêng dì vẫn cứ bền bỉ đi tìm nó mãi.

– Hoàn này – dì rụt rè bảo tôi khi thằng Quang bắt đầu một vòng cai nghiện mới – con phải nói điều gì với em chứ. Dì là người quê mùa, chỉ biết làm, không biết nói gì để khuyến khích khuyên nhủ nó. Còn con là người có kiến thức, lại hiểu biết tâm lý của em, con phải giúp em con vượt qua những thử thách này. Con không thấy em con còn quá trẻ sao? Lẽ nào chúng ta để cho nó chôn vùi cả cuộc đời…

Tôi tìm thấy Quang đang nằm úp mặt khóc trên giường. Tôi không vỗ về nó mà ngồi xuống mép giường, đều đều nói:

– Mẹ không mong muốn chị em mình trở thành như thế này. Chị đã sai lầm và em cũng vậy. Ta có thể giữ nguyên những cảm nghĩ của mình về dì mà không cần hủy hoại bản thân mình. Đứng dậy đi em, xây cho chính mình một tương lai mà không cần phụ thuộc bất cứ điều gì. Hãy làm sao cho xứng đáng với mẹ.

Tôi nói với nó cũng là đang nói với chính mình. Rồi tôi trở lại giảng đường đại học. Nó cũng đã thoát khỏi vòng kềm tỏa đáng sợ của nàng tiên nâu. Dù thực tế công sức của dì đối với chị em tôi rất lớn nhưng tôi vẫn không muốn thừa nhận. Dì nuôi con cho tôi đi học. Dì chăm sóc từng li từng tí cho Quang để nó có đủ sức khỏe trở lại trường. Dì lại là hộ lý của ba.

Nhiều khi trong thâm tâm tôi chợt chạnh lòng thương dì. Làm sao dì có thể làm ngần ấy công việc trong một ngày, phục vụ cả bốn con người. Nhưng rồi niềm kiêu hãnh trong tôi lên tiếng: đó là nhiệm vụ của dì. Dì không có tài để làm những việc lớn lao thì phải làm những việc vặt ấy. Như đọc được suy nghĩ của tôi – nhiều khi tôi rất kinh ngạc về khả năng đọc được suy nghĩ người khác của dì – dì bảo:

– Dì đã quen với những công việc này rồi. Ai chẳng muốn an nhàn nhưng cuộc sống bắt buộc mình phải sống hết mình với nó.

Tôi mở to mắt nhìn dì; câu nói của dì không phải của một y tá tầm thường mà là của một triết nhân. Ngôn ngữ của dì càng lúc càng khác xa con người dì. Một lần nữa dì lại đọc được suy nghĩ của tôi: – Con tự hỏi tại sao dì lại nói năng văn hoa như vậy phải không? Dì là người không được học hành đến nơi đến chốn. Nhưng mấy mươi năm qua chiến tranh đã dạy cho dì từng con chữ, từng lời nói, từng cách cư xử… Dì học ở khắp nơi, bên chiến hào, trong nhà dân, trong nhà tù cải tạo….… Mấy năm làm y tá trong bệnh viện, làm việc dưới quyền ba con dì cũng học hỏi được rất nhiều. Con hãy ráng học lên, sự học làm người ta mở lòng với nhân loại hơn.

Trời ơi! “Sự học làm người ta mở lòng với nhân loại hơn”. Một người như dì lại có thể nói được câu nói đó ư? Tôi vụt chạy vào phòng ba, thảng thốt nhìn ông :

– Ba, rốt cuộc dì là người thế nào? Làm sao ba có thể quên mẹ để yêu dì được?

– Con ngồi xuống đi con gái – ba dịu dàng bảo – Tuổi trẻ các con hay có một quan điểm tuyệt đối. Không có cái gì là tuyệt đối cả. Tại sao con lại nghĩ ba lấy dì nghĩa là ba đã quên mẹ con? Tại sao con lại nghĩ vẫn yêu mẹ thì ba không thể lấy dì? Cuộc đời là thế giới muôn màu. Vì sao con chỉ nhìn vào tài sắc của mẹ con mà cho rằng dì không xứng với ba, chứ không đánh giá dì bằng chính con người dì. Mẹ con là một thế giới khác, dì là một thế giới khác. Và – không ai dám cho rằng thế giới nào đầy màu sắc và thế giới nào đầy bóng đêm.

Dì đã trải qua nhiều nỗi gian truân nhưng không hoàn cảnh nào có thể đánh gục được dì. Điều đó không dễ gì có được ở lớp người như ba, như mẹ, như con. Con thấy đấy, mẹ con là một bác sĩ, an ủi nâng đỡ cứu sống không biết bao nhiêu người nhưng khi biết mình bị bệnh thì suy sụp hẳn, không gượng dậy nổi. Khi mẹ chết, nếu không có dì chắc ba cũng đã trở nên bệ rạc, bê tha. Còn con, tự cho mình là thông minh, bản lĩnh nhưng chỉ vì một việc bất như ý mà thả trôi cuộc đời mình. Còn dì là người vào sinh ra tử, vào tù ra khám, từng làm vợ làm mẹ nhưng bị tước hết những quyền thiêng liêng ấy.

– Dì từng làm vợ, làm mẹ? – tôi ngỡ ngàng.

– Con lạ lùng lắm sao? Nỗi đau ấy dì giữ cho riêng mình, không mấy ai biết được. Chồng của dì đã hy sinh trong nhóm tàn quân phục quốc, đau đớn quá dì đã sinh non và đứa bé đã chết sau khi sinh vài giờ.

Dì đã đem nỗi đau mất chồng, mất con vào cuộc hành trình lặng lẽ của mình. Dì đã đem tình thương của người vợ người mẹ dành cho tất cả mọi người, cho ba, cho các con với lòng cao cả vô biên. Dì đã sống cho người khác, vậy mà khi có ai khác sống cho dì thì con lại bảo dì không xứng đáng. Huống chi đây không phải là sự hy sinh của ba mà là sự đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu. Con hãy đem tấm lòng mình để gần gũi với dì hơn, khi đó con sẽ thấy ba không nói quá đáng. Những gì ở ba ở mẹ không có thì ở dì có, vậy không phải là bổ sung cho nhau sao? Con còn đòi hỏi nơi dì điều gì nữa?

Tôi đòi hỏi gì ư? Tôi được sinh ra bằng mối tình tuyệt diệu của ba mẹ. Lớn lên trong tình yêu nhưng rốt cuộc lại trở thành một người không có tình thương yêu dù với một người đã xem mình còn hơn đứa con rứt ruột đẻ ra. Tôi sắp trở thành một bác sĩ nhưng lại không đủ lòng nhân ái của một y tá bình thường như dì. Tôi cứ mãi đau đớn vì mối mâu thuẫn giằng xé nên thường ngồi lì trong thư viện không về nhà sau buổi học. Dì lại tất tả tìm tôi. Cái vẻ hốt hoảng lo âu của một người mẹ vừa làm nhói lòng tôi vừa làm tôi uất hận. Tôi không biết mình hận cái gì? Hận dì sao không là một người tầm thường cho tôi căm ghét mãi? Hận dì sao dần dần rõ nét một nhân cách lớn làm tôi thấm thía sự nhỏ nhoi của mình.

Tôi theo dì vào nhà. Bé Uyên sà vào lòng tôi, líu lo đủ mọi chuyện. Dì bảo:

– Con đừng quá mải mê với công việc, với những ý thích riêng mình mà bỏ quên cái quyền làm mẹ.

Dì không bảo “Bổn phận làm mẹ” mà lại bảo “Quyền làm mẹ”. Tôi ngước mắt nhìn dì. Dì lại đọc được câu hỏi trong mắt tôi, cười đôn hậu:

– Con không thấy được làm mẹ là một hạnh phúc lớn hay sao?

Tôi thấm thía câu ấy. Dì bị tước đi cái quyền làm mẹ từ khi rất trẻ và được ban trở lại khi tuổi về già nên dù chị em tôi đã đối xử thật tệ bạc với dì nhưng dì chỉ thấy niềm hạnh phúc được sống với thiên chức của người mẹ.

***

Mừng Quang thi đậu vào đại học, dì thưởng cho cả nhà một chuyến đi picnic xa bất chấp con bé Uyên quấy dì suốt cuộc hành trình, bất chấp ba tôi mới tập đi lại được, chân rất yếu, lúc nào cũng cần dì dìu đỡ. Chỉ có niềm vui bất tận của một gia đình hạnh phúc trong chuyến đi chơi ấy. Tôi hỏi dì:

– Cái gì làm dì vui nhất hôm nay?

– Dì vui vì Quang đã đủ bản lĩnh để trở lại đời. Dì vui vì đã trả lại cho mẹ con những đứa con nguyên vẹn như ngày nào, còn lời thêm cục vàng này nữa nè – dì cười chỉ vào bé Uyên.

Ngày tôi xúng xính lên nhận bằng tốt nghiệp, dì dẫn theo một chàng trai trẻ lên tặng hoa cho tôi. Trẻ là vì anh ta chưa có vợ, so với tôi đã có con gái lên năm, chứ thật ra anh ta đã hơn ba mươi tuổi, là một bác sĩ trong khoa của ba tôi, đã âm thầm theo đuổi tôi từ nhiều năm nay. Mắt dì lấp lánh vẻ tinh nghịch và bí hiểm của bà mẹ đang mưu toan kiếm chồng cho con gái. Tôi vừa buồn cười vừa… tức, ngùng ngoằng bỏ đi:

– Con không thích cái trò mai mối ấy. Con đâu có sợ lỡ thì…

– Ây dà, cái giọng này dì đã nghe ở rất nhiều cô gái tân thời rồi. Nhưng cuối đời nhiều người mới nuối tiếc vì bỏ qua cơ may hạnh phúc gia đình. Con ơi! nghe dì đi. Con còn lỡ dở vầy mãi dì không yên tâm. Khi nào con với em Quang có gia đình yên ấm hết thì dì mới hả lòng.

***

Ước mơ của con người quá nhiều. Ước mơ của bà mẹ dành cho con còn nhiều hơn. Dì trù liệu đủ mọi kế hoạch cho tôi, cho em Quang. Dì còn tính sẵn một tương lai dài thăm thẳm cho con bé Uyên vừa tròn năm tuổi, cho cả ông già gần đất xa trời là ba tôi, chỉ riêng mình dì không dự định một điều gì.

Một buổi sáng đẹp trời, mọi người đều đã tỉnh giấc, chỉ riêng dì lặng lẽ đi vào cõi vĩnh hằng. Dì từ giã cuộc đời nhẹ nhàng bình yên đến nỗi cả ba, cả tôi – hai bác sĩ trong nhà đều không biết và đều không muốn truy lùng nguyên nhân để không làm tổn hại đến thân xác dì. Dì đang ngủ yên lành hay dì đang đi tìm mẹ tôi, hãnh diện khoe với bà rằng dì đã làm xong ước nguyện của bà.

Bên mộ dì, thằng Quang gào khóc nức nở. Khi mẹ tôi chết, nó còn quá bé để có thể đau đớn thống thiết như thế.

Còn tôi – cả hai đám tang tôi đều không khóc. Chỉ có những giọt lệ chảy trong tim tôi không ai thấy được. Vì nó đọng ở trong tim nên lòng tôi luôn nhức nhối…

Biết Sống – Nguyễn Ngọc Tư

Biết Sống

Nguyễn Ngọc Tư

Chị kể hồi ở Sài Gòn hay tới một quán cháo vịt ngon muốn xỉu, nhưng tới hơi trễ chút là phải chịu bụng đói ra về. Bởi quán chỉ bán đúng sáu con vịt, không thêm không bớt. Khách có kì kèo hay đòi nằm vạ cũng chỉ nhận được nụ cười, “chịu khó mai quay lại”.

Hỏi khách quá chừng đông sao không bán thêm, chú chủ quán cười, nhiêu đây là đủ. Nhưng đủ cho cái gì, chú không nói thêm.

Ngồi quán đó, chị nhớ quán bán bánh canh cua của má nổi tiếng xóm hẻm hồi xưa. Mỗi ngày nấu đúng bảy chục tô, hỏi mua tô thứ bảy mươi mốt về làm thuốc cũng hên xui.

Sáng dọn chưa ấm chỗ, vèo cái hết nồi bánh, bà dành cả thời gian còn lại của ngày để nằm võng nghe Thái Thanh, hoặc dẫn con Chó đi chơi dài xóm. Chó, là tên của con vịt xiêm cồ.

“Sống như má mình không phí cuộc đời. Đâu phải giàu mới vui”, nhắc tới đó chị bùi ngùi. Người ra thiên cổ lâu rồi, nhưng ký ức động đậy như người vẫn đi lại quanh đây.

Chị nói người sống ung dung kiểu vậy giờ ngày mỗi hiếm, nhưng không phải không có.. Họ đang ở đâu đó, chừng như vô nhiễm với cơn khát tiền. Ở Hội An chị biết một quán nước nhỏ nằm dưới giàn cát đằng, cà phê ngon, trà gừng hết xẩy mà đúng bong mười giờ là đóng cửa.

Sau bữa trưa, anh chị chủ dành thời gian đọc sách, nghe nhạc, chơi với mấy đứa cháu nhỏ. Nhiều sáng khách đông, hết chỗ ngồi, nhưng sân vẫn để trống không chẳng kê thêm bàn. Sân là khoảng thở của ngôi nhà, không phải chỗ để chen chúc bán mua lấy được.

Nhắc mấy chuyện đó, không phải nói khơi khơi, mà chị đang nhắn thằng em thời cào hốt này vẫn còn những người “biết sống”. Vì tuần sau là giỗ má. Vì thằng em vừa chặt cây khế, cơi thêm một tầng lầu, chồm lan can ra che gần hết lộ hẻm. Nó nói không lấn được phần đất, thì lấn trời.

Tiền xây nhà nó kiếm được từ quán bánh canh má để lại, mở bán từ sáng sớm tới khuya. Nó thuộc kiểu được mười ba đồng, thì phải kiếm thêm bảy đồng cho chẵn hai chục. Giàu cái đã, chuyện khác tính sau.

Cũng là con má nhưng tánh thằng em ngược một trời một vực. Tại sao bà chỉ bán bảy chục tô bánh canh, bà giải thích rồi, nhiêu đó đã đủ lời để xoay xở trong nhà, lại còn dư chút đỉnh để dành khi bất trắc. Mấy chục năm, bà hài lòng với việc giữ gia cảnh mình gói gọn trong hai chữ “đủ ăn”.

“Nhưng làm nhà giàu sướng hơn chớ, má ?”

“Giàu nghèo gì phải vui mới được”.

Chữ vui đó cũng minh mông, với mỗi người nó có nghĩa khác nhau. Với bà chủ tiệm tạp hóa Linh Thông là buôn bán luôn tay, mặc dĩa cơm tấm khô queo và ly cà phê đá tan trắng nhợt tự hồi nào. Vui của ông chủ chuỗi cửa hàng điện máy là mở thêm vài chi nhánh mới. Của quán nhậu Tăng Ba là khách nào ra khỏi đó cũng xùng xình say. Hay với vợ chồng thằng em, không vui nào bằng nghe tiếng những tờ giấy bạc sột soạt lúc nửa đêm.

Nhưng có những người như má, vui bởi được nằm thong thả nghe Thái Thanh hát “bể sầu không nhiều nhưng cũng đủ yêu”, vui vì nhà có cây khế chua cho trái gần như quanh năm. Chua tới con nít bụi đời không thèm hái. Nhưng khế chua được cái trái lớn, mọng nước, dài cánh khía sâu. Má hái mớ trái chín vàng chất lên cái rổ tre cạn lòng, là đẹp bừng lên bàn ăn trong bếp.

Đó là ngôi nhà rất đẹp, trong ký ức con cháu. Không có hoa tươi (như bà nói hoa chỉ đẹp khi còn nguyên cành nguyên gốc), nhưng nhà vẫn được chưng diện bằng những thứ ít ai ngờ. Cái rổ tre lúc nào cũng đựng gì đó, khi thì những trái muồng khô, lúc khác, trái bàng.

Không phải loại trái cây ăn được, chúng rụng đầy công viên, chỉ cần cúi lượm một chút là đầy rổ. Nhìn thấy cái đẹp trong thứ tưởng chừng vô dụng, trăm phần trăm chẳng phải người sống gấp sống nhanh.

Mấy thứ trái tức cười trong rổ tre của má, cũng là thứ mà chị nhớ, vào buổi chiều nào đó ghé thăm ngôi nhà xiêu xiêu gần cửa Gió. Xóm chài, buổi trưa vắng người. Trên bộ vạc sau nhà có một nắm trái so đũa nằm trên mo cau. Hỏi thứ này ăn được sao, một thằng nhỏ cười, hông đâu cô, con để vậy cho đẹp. Trưng ở sau nhà, nên chắc chắn không vì khách, đẹp này cho mình..

Mớ trái gà chê dê nguýt nọ không phải được mang về bởi một phụ nữ nào, mà từ thằng nhỏ cháy nắng đen thui. Nghe thằng nhỏ nói, chị đoán sau này nó sẽ vác cây đờn đi ca tài tử, sau một ngày đánh bắt mệt lả.

Nửa đêm về nó đứng ngoài hè một lúc lâu, vợ hỏi sao không vô, nó nói trời nhiều sao quá, nhìn thêm chút nữa. Thằng nhỏ cũng có thể trở thành một anh giám đốc thiệt ngầu, nhưng mỗi cuối tuần anh tắt điện thoại, chở con ra đồng thả diều, ngắm bèo trôi sông.

Đó là một người sẽ tận hưởng được nhiều vẻ đẹp trên đời, bất kể giàu nghèo. Như má. Một người đàn bà mà khi nhắc tên ai cũng buột miệng kèm theo mấy chữ, “sao mà biết sống quá xá”.

Cái khái niệm biết sống này cũng vô chừng, mỗi người mỗi kiểu, nhưng nhìn một lượt, chừng như người biết sống là biết đủ. Khi đó tham vọng thôi sôi réo, họ trọn lòng lắng nghe những tiếng thì thầm ở quanh mình.

Nhưng đó không phải là kiểu sống mà vợ chồng thằng em chọn. Nó nói ai cũng tà tà vậy thì sao nước mạnh được. Mạnh, là phải có tiền, nhiều tiền, rất nhiều tiền. Có tiền mua gì cũng được. Mua vũ khí. Mua bằng hữu. Không thiếu nợ, và khỏi phải lấy đất đai ra trừ cấn nợ.

Chị hiểu nó muốn ám chỉ chính sự gì đây, cười, “nói thì hay, bữa rồi có vài trăm ngàn tiền thuế mà kì kèo trả giá”. Người giàu nhiều, mà đất nước vẫn nghèo, là vậy. Tới cái nắp cống ngoài đường cũng bị lấy cắp. Ai cũng vơ vét cho mình, sẵn sàng ôm tiền bỏ chạy.

Hồi buổi chụp giựt bắt đầu, ngó tiền lẻ nhét đầy tượng Phật, chị không nghĩ thời thế kéo dài như vậy. Lâu đến mức không tin là mình chờ được ngày kết thúc. Sóng trước sóng sau cứ hớt hãi. Nhỏ cháu chị mua sách dạy làm giàu về gối đầu giường, dù ba nó nói cần gì đọc, chỉ cần chui vào cơ quan nhà nước, lên cao, thì đường nào cũng giàu.

Ngó mớ tựa rất kêu kiểu như “làm giàu không khó”, “Hai mươi bảy cách trở thành tỉ phú”, chị biết trong đó không có câu nào khuyên người ta biết thả lỏng tắm mình trong mùi hoa ban đỏ trong đêm. Mùi hoa nhẹ lắm, hít thở nhanh không cảm nhận được.

Chị nhắc con nhỏ cũng có những cuốn sách chỉ cách người ta sống chậm, cách kháng cự lại lòng tham lúc nào cũng đói khát của chính mình. Ở hai bên con đường một chiều đi tới miền khuất mặt, nhiều thứ đẹp lắm, chạy nhanh thở gấp thì không thấy được đâu

Nguyễn Ngọc Tư.