Món quà giáng sinh lớn nhất trong đời

 Dieu Le

Món quà giáng sinh lớn nhất trong đời

Giáng sinh năm trước, tôi nhận một món quà từ một người trong hãng. Chị này người Phi. Lúc tôi phỏng vấn chị, chị chưa biết gì nhiều về công việc. Cái tôi thấy ở chị: hiền, có vẻ rất chu đáo. Và rồi, tôi vẫn mướn. Đây không phải là lần đầu tiên tôi mướn người Phi. Nhiều rồi. Phần lớn đều rất siêng năng, chú tâm vào công việc. Chưa bao giờ tôi thất vọng hay than phiền một ai trong số họ. Vì thế tôi mướn chị cũng là lẽ thường, dù kinh nghiệm thua nhiều ứng viên khác.

Vào làm một thời gian, chị rất chịu khó học hỏi. Chỉ trong một thời gian ngắn, chị làm giỏi hơn một số người có thâm niêm cao hơn chị. Khi nào cần, chị có mặt, bất kỳ sáng sớm, hay tối mịt, dù thứ bảy hoặc Chủ Nhật.

Một lần ngồi nói chuyện, chị nói: anh đã cứu gia đình tôi. Chị kể …

Gia đình tôi 4 người (hai vợ chồng, hai con gái) được bảo lãnh từ Phi sang. Hai đứa con đi học trung học, hai vợ chồng kiếm việc gần 5 tháng không có nơi nào nhận. Vậy mà, tôi nhận chị vào làm với mức lương trên tối thiểu vài đồng (dù lúc đó đối với chị mức lương tối thiểu đã là hạnh phúc). Một tuần sau, duyên lành đến, chồng chị cũng kiếm được việc làm. Chị nói: có lẽ nhờ may mắn từ anh. Kể từ đó, sáng sáng anh chở chị đi làm, rồi anh tới hãng sau. Chiều tối, chị xong việc trước, vẫn phải đợi anh làm xong ca rồi mới tới đón chị. Cho đến hôm nay vẫn vậy.

Chị vào làm gần 3 năm, tôi thăng chức cho chị 1 lần và tăng lương 3 lần, trong đó có 1 lần điều chỉnh lương theo thị trường. Lần nào cũng hậu hĩnh vì cái tâm chị đã bỏ vào trong công việc.

Dịp Giáng sinh năm rồi, chị tặng tôi một món quà. Chị vào sớm, để món quà trên bàn của tôi. Món quà được bỏ trong một hộp giấy và bọc thật đẹp. Tôi vào làm, thấy món quà và quyết không nhận, trả lại chị. Chị muốn khóc, rồi nói: Nó không có giá trị gì về tiền bạc. Tôi biết là cái gì dính dáng đến tiền bạc là không đúng. Tôi đã làm nó mấy ngày. Chỉ vài đồng cho miếng bìa cứng và một ít giấy màu, cùng cái khung hình. Bỏ công ra làm những bông hoa, nhưng tôi không khéo tay nên làm đi làm lại…

Nghe vậy, tôi đồng ý nhận. Mở ra, tôi thấy đó là một bức tranh, làm thủ công, kết nối những bông hoa giấy nho nhỏ. Bên dưới viết mấy chữ: cám ơn gia đình họ Lê. Tôi lặng người. Món quà mấy đồng mà sao tôi thấy nó lớn vô cùng. Tôi nhận món quà và ôm nó vào lòng hết sức trân trọng. Tôi dặn chị: đây là lần duy nhất và cuối cùng tôi nhận quà từ chị, cũng như từ bất kỳ nhân viên nào khác.

Chị vui lắm, mà tôi thấy khóe mắt chị ươn ướt. Rồi chị nói: nhờ việc làm này mà gia đình tôi có khả năng ra ở riêng được, sau gần 6 tháng sống với gia đình người anh với bao khó khăn, hệ lụy. Chị nói tiếp … tôi không mường tượng được chuyện gì sẽ xảy ra nếu lúc đó chúng tôi không kiếm được việc làm. Bây giờ, hai đứa con gái đã lớn, một đứa vào đại học, đứa kia sẽ vào năm sau. Không có ông mở rộng vòng tay, dễ gì tôi có một công việc như hôm nay. Tôi hứa sẽ không tặng ông bất kỳ thứ gì nữa. Tôi sẽ làm hết sức để không phụ lòng ông…

Những lời nói mộc mạc của chị làm tôi lâng lâng, mắt cay cay. Trong đời, tôi nhiều lần nhận quà Giáng sinh, từ người thân, cũng như từ sếp lớn. Tuy nhiên, đây là món quà giáng sinh lớn nhất và ý nghĩa nhất mà tôi nhận được từ trước tới nay, dù chỉ là vài bông hoa giấy với hàng chữ viết tay không phải nhà nghề.

Ngẫm lại, trong đời đôi lúc món quà lớn nhất không cần là món quà đắc tiền nhất, mà có khi dù chỉ dăm đồng. Và hạnh phúc, nhiều khi chỉ là một lời nói, một câu viết, đó là những thứ không thể đo bằng vật chất phù du.

Đoàn Nhã Văn (LT)

Mùa Giáng Sinh 2021

#Từ fb Nguyễn Học

Truyện ngắn – GHEN…

 Van Pham is with Mai Cội.

Truyện ngắn

GHEN….

Nhìn cảnh chồng chị nằm ôm đứa con gái trẻ trung mơn mởn mà một lần chị bắt gặp tại trận do người quen thông báo.

Từ đó cứ đêm về! Chị lại nằm khóc… Chị đã nhiều lần khuyên nhủ, chồng chị cứ hứa… nhưng rồi lại đi nhậu và lại vắng nhà.

Nhiều đêm, chị chợt thức giấc quờ quạng, rờ rẫm trong đêm tối để rồi hốt hoảng khi thấy chiếc giường trống rỗng… Chồng chị đi đâu? Đi uống rượu? Hay lại đi vỗ về nhân tình?

Riết rồi chị cảm thấy từ tinh thần đến thân xác rã rời, mệt mỏi với những lời hứa… với lo sợ những đứa con không cha để rồi lại tha thứ…

“Tao thấy ông P nhà mày lại cặp với con nhỏ lần trước…” Bạn thân chị gọi điện cho chị ré lên “Đi thôi, tao dắt thêm mấy đứa, bọn mình đánh cho chúng nó không còn mặt mũi mà ra đường…”

Chị hờ hững nhìn vào màn hình điện thoại! Chị có còn ghen tuông hay không?

Không! Chị mệt mỏi lắm rồi…

– “Sao mày không đánh chúng nó? Mày chịu thua à?” Bạn chị khó chịu hỏi. Bình thường tính chị cứng rắn và đôi khi đanh đá… Vậy mà…

– “Tao mệt rồi!” Chị cười mỉm “Lấy chồng không phải để hôm nay đi đánh ghen, ngày mai đi rình rập. Lấy chồng là để được yêu thương, được chiều chuộng, được trân trọng, được nâng niu. Đàn bà sinh ra là để được yêu, chứ không phải để chà đạp. Anh ta không còn yêu tao, tao sẽ tìm người khác nâng niu mình!”

Chị nói là làm! Chị viết sẵn giấy ly hôn, nói anh ký vào!

Anh bĩu môi, nghĩ chị “lại đe doạ” như những lần trước! Thứ đàn bà như vợ anh “không nhan sắc, không có sức quyến rũ”, bỏ anh ư? Chuyện cười!

Anh không biết rằng chị không hề nói đùa, anh chỉ vui mừng vì chị “hiền dịu đi, không còn ghen tuông” nói chính xác là “không quan tâm đến anh nữa”. Anh tự hào về điều này, để rồi tự hào cặp bồ cách công khai!!!

Chị cười nhạt bản thân. Bản thân chị đã mất giá trị như thế nào để anh coi thường chị như vậy? Hoá ra trong mắt anh chị chỉ là con đàn bà xấu xí – ỷ lại – ghen tuông vớ vẩn!

Chị dẹp bỏ chuyện ly dị sang một bên, chính thức gửi con đi nhà trẻ để dành thời gian cho mình.

Trước tiên chị đăng ký một lớp thể dục thẫm mỹ. Sau đó chị lập một ngân quỹ riêng, sắm sửa cho mình những bộ quần áo đẹp, hàng hiệu đắt tiền, đổi kiểu tóc mới.

Chưa đủ, chị quyết định đi thẩm mỹ. Nâng một chút mũi, cắt một chút mí, xâm lại đôi môi, tân trang lại làn da…

Ban đầu chồng chị còn dè bỉu, dần dà anh thấy chị đẹp lên, anh lại đâm lo!

Anh bắt đầu ít ra đường, ở nhà theo dõi nhất cử nhất động của chị xem chị đi đâu? làm gì? với ai?

Có lần anh thấy chị bước lên một chiếc ô tô sang trọng.

Lần khác anh lại thấy chị ăn trưa cùng đồng nghiệp cơ quan!

Anh ghen, hình như anh đang ghen!

Tình nhân của anh cũng bắt đầu “ghen ngược”, liên tiếp nhắn tin nguyền rủa chị, “khuyên” chị nên bỏ anh, để anh được tự do!

Chị cười nhạt, chụp ảnh đơn ly dị gửi tới cho cô ta “Em này, chị đã đưa lá đơn này ra cách đây nửa năm nhưng anh không ký! Mong em giúp chị khuyên chồng chị ký vào nhé!”

Một hôm anh về nhà nồng nặc mùi rượu, anh lao tới ôm chị, định gần gũi với chị nhưng chị cự tuyệt!

“Ô, cô không cần tôi à? Hay cô có người đàn ông khác?”

Chị thở dài không đáp.

“Cô muốn gì? Muốn ly dị lắm ư? Đến nỗi gửi cho con bồ của tôi lá đơn ly hôn? Cô đưa đây, tôi sẽ ký…”

Chị lẳng lặng rút lá đơn đã được chuẩn bị trước nửa năm vứt trước mặt anh. Anh lạnh lùng ký vào rồi lăn ra ngủ…

Sáng hôm sau tỉnh lại, anh thấy nhà mình trống vắng. Vợ không thấy, con không thấy!

Anh kêu to “Em ơi…” Nhưng không có một tiếng hồi âm!

Anh nhìn thấy một lá thư ngay ngắn trên bàn.

“Anh à, cho phép em được gọi anh là “chồng” lần cuối cùng, mặc dù với em tình nghĩa vợ chồng đã cắt đứt từ nửa năm trước, ngày em đi đánh ghen bắt được anh trong khách sạn – nhưng em không ra tay ấy!

Có những việc không thể lặp đi lặp lại quá nhiều lần, em là vợ anh, nhưng không phải là người sẽ yêu anh cả đời, chạy theo cái bóng của anh cả đời, ghen với tình nhân của anh cả đời!

Em là con người – có trái tim, có máu thịt! Em biết đau, biêt tổn thương, biết rỉ máu. Và khi nỗi đau quá nặng nề, giống như một khối ung nhọt, em sẽ lạnh lùng cắt nó đi mà không hề hối tiếc…

Vậy em sẽ rời xa anh, để anh tự do với người đàn bà mà anh cảm thấy hứng thú, với người đàn bà anh đang rung động!

Còn em, em sẽ đi tìm tự do cho riêng mình!”

Anh gấp lá thư lại, bàn tay quờ quạng sờ vào khoảng không. Vợ anh… đã bỏ anh đi xa rồi…

Nữ hành khách bị mời xuống khỏi máy bay trong im lặng.

 Nữ hành khách bị mời xuống khỏi máy bay trong im lặng.

‘Rất hiếm có chuyện hãng hàng không mời hành khách ra khỏi máy bay khi chuẩn bị cất cánh nhưng với nhiều nguyên nhân khác nhau thì vẫn có những trường hợp như vậy. Cô Peggy Uhle là một trong những hành khách như vậy nhưng nguyên nhân thực sự lại khiến người khác vô cùng cảm động’.

Tháng 5.2015, một máy bay thuộc hãng hàng không Southwest Airlines đang chuẩn bị cất cánh từ Chicago đi Columbus. Tất mọi việc đều rất bình thường, hành khách đã lên máy bay, làm thủ tục đầy đủ, tắt hết các thiết bị điện tử, thắt dây an toàn, tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng cất cánh. Nhưng máy bay không cất cánh lên không trung mà lăn bánh quay lại điểm tập kết.

– Bất ngờ, một tiếp viên trong khoang lái tiến đến chỗ nữ hành khách Peggy nhẹ nhàng mời cô xuống máy bay. “Tôi cứ nghĩ là mình ngồi nhầm máy bay. Vì vậy nên mới bị tiếp viên hàng không mời xuống”, Peggy nói.

Sau khi bước vào khu vực check in, nhân viên của hãng hàng không Southwest nhanh chóng làm các thủ tục đổi thẻ lên máy bay giúp Peggy.

Lúc đến quầy check in, cô được yêu cầu gọi cho chồng mình, cô không hiểu nhưng vẫn ngay lập tức gọi cho chồng.

Lúc này, chồng Peggy nói, con trai 24 tuổi của họở bang Colorado, Denver bị chấn thương não, đã rơi vào tình trạng hôn mê và đang được các cấp cứu trong bệnh viện.

Chồng Peggy rất lo lắng cho tình trạng của con trai nên rất mong cô có thể bay đến Denver ngay lập tức. Tin tức này giống như sét đánh ngang tai làm cô không thể kiềm được nước mắt, cô chỉ muốn ngay lập tức lên máy bay bay đến chỗ con trai.

Sự bất ngờ từ hãng hàng không Peggy chia sẻ, thì ra chồng cô đã gọi điện cho hãng hàng không, hy vọng họ thông báo để cô có thể bay về với con trai càng sớm càng tốt. Hãng hàng không hay tin này đã lập tức sắp xếp một chuyến bay sớm nhất cho Peggy đến Denver, hạ cánh sau 2 giờ, hơn nữa họ còn trả toàn bộ chi phí cho chuyến bay của cô.

Khi Peggy được đưa đến khu vực hành khách chờ lên máy bay, nhân viên hãng đã an ủi để cô bớt căng thẳng và lo lắng.

Khi đến giờ, hãng hàng không yêu cầu tất cả hàng khách xếp hàng chờ nhường quyền ưu tiên cho Peggy, và sắp xếp cô ngồi ngay đầu cửa cabin. Như vậy khi đến Denver cô có thể ngay lập tức xuống máy bay.

Vừa lo lắng cho con trai Peggy vừa vô cùng biết ơn đối với hãng hàng không, điều mà cô không nghĩ đến đó là họ còn chu đáo giúp cô tìm hành lý và chuyển sang Denver.

Khi Peggy đến Denver cái đầu tiên nhận được không phải là hành lý mà là hộp cơm trưa. Và tất cả các dịch vụ này được cung cấp bởi hãng hàng không Southwest Airlines.

Trân trọng mạng sống con người

Hãng hàng không không hề quảng cáo cho hành động này nhưng Peggy và gia đình cô muốn làm một điều gì đó để đền đáp cho lòng tốt của họ.

“Southwest Airlines không thu phí đổi chuyến bay của tôi, cũng không thu phí chuyển hành lý của tôi hay những phí dịch vụ khác”. Peggy nói: “Tôi đã nhận được những dịch vụ tốt nhất, trước đây chúng tôi đã rất thích Southwest Airlines. Bây giờ chúng tôi không thể dùng bất cứ từ ngữ nào để biểu đạt sự biết ơn của mình đối với Southwest Airlines”.

Peggy cũng chia sẻ thêm sau đó chồng cô và cô đã nhận được điện thoại của hãng hỏi thăm tình hình của con trai cô. Điều này làm cô càng gia tăng thêm sự cảm kích. Sau sự việc 3 tuần, tình trạng của con trai cô đã dần tốt lên và đang hồi phục nhanh.

TM SG đăng câu chuyện này với một lời nhắn nhủ tới các hãng hàng không Việt Nam: đừng lợi dụng dịch WH, đừng đề xuất những quy định quái đản, chỉ nhằm để bóp cổ những Thượng đế của mình những thời điểm khó khăn nhất. Thượng đế sẽ không bao giờ tha thứ!

Từ fb Lê Văn Thông

From: Anh Dang & KimBang Nguyen

Trích tự truyện “Nơi làng quê heo hút”

Trích tự truyện “Nơi làng quê heo hút”

Sau sự kiện Tháng Tư, 1975, tôi rời đất Bắc vào kiếm sống ở miền Nam (Sài Gòn, Vĩnh Long).

Ở vùng đất mới này, có thời gian, tôi giống như một người nội trợ

Đôi khi, tôi cảm thấy thú vị từ công việc chợ búa, mua bán này. Vì ở môi trường ấy, tôi biết thêm được nhiều thứ, về một xã hội tư bản cách đó chưa lâu , mà tôi chỉ biết qua sách báo xã hội chủ nghĩa miền Bắc từng mô tả..

Cái “văn hóa mua bán” của người miền Nam, khác người miền Bắc rất xa .

Sau năm 1975, ở miền Nam, tuy xã hội chủ nghĩa đã thay thế , nhưng “tàn dư chủ nghĩa tư bản”* vẫn còn “rơi rớt lại” rất nhiều.

Câu nói: “Thuận mua vừa bán”, luôn thể hiện rất rõ . Người bán không nói thách quá, hay hét giá, để rồi người mua phải cò kè bớt một thêm hai .

Hồi đầu, lúc mua cái gì đó ở chợ, ở tiệm, tôi cũng thường bắt chước người miền Bắc, mặc cả (trả giá). Nhưng đều được người bán nhẹ nhàng trả lời : “Giá nhứt định”.Có người còn giải thích thêm là, giá mua vào bao nhiêu, chỉ lời được bao nhiêu, và mong khách hàng hiểu cho. Nghe rất sòng phẳng, thỏa đáng, dễ chấp nhận.

Những tiểu thương buôn bán ở chợ, không hề trương lên những khẩu hiệu như là : “Vui lòng khách đến , vừa lòng khách đi”; hoặc: “Khách hàng là thượng đế” như trong các cửa hàng mậu dịch quốc doanh của nhà nước sau này.

Nhưng họ luôn tìm cách làm hài lòng người mua.

Họ có vẻ rất hiểu về nguyên lý “cộng sinh” của vạn vật trên thế giới này. Nghĩa là “dựa vào nhau mà sống, đôi bên đều có lợi”.

Tôi còn nhớ, chỉ mới vài lần ra chợ mua đồ ăn thức uống, rau củ quả, mà những lần sau, tôi vừa xuất hiện, thì người bán hàng đã vồn vã, như là quen biết từ lâu rồi.

Những câu chào hỏi kiểu như là:

– “Hôm nay ‘cưng’ lấy mấy kí ( kilogam , kg, cân)?” Hoặc:

– “Lấy một chục như hôm qua hen?” Hoặc:

– “ Cân loại chiên (rán) rồi , đặng về khỏi chiên nghe ! v.v..

Miệng họ vừa nói, tai vừa nghe, tay thì thoăn thoắt chọn lựa, cân, đong, đếm , bỏ vào bịch (túi) ni lông, buộc lại gọn gàng, đưa cho người mua , rồi tính tiền. (khách đi rồi, còn dặn với theo : Hôm sau nhớ ghé ủng hộ nghe !)

Đôi khi người bán tự ý cho người mua, thêm một thứ gì đó, làm cho người mua cảm thấy vui. Chẳng hạn, mua bó rau thì cho thêm trái ớt, hay cọng hành, cọng ngò v.v…

Có lần, tôi ghé hàng trái cây, nói là tôi mua một chục trái vú sữa (loại trái cây tôi thấy lần đầu), Chị bán hàng tay thoăn thoắt lựa mười hai trái, bỏ vào bịch đưa cho tôi. Tôi nhắc chị đếm lộn rồi, dư hai trái. Chị nhìn tôi cười vẻ trìu mến và “thương hại”, rồi nói ,không lộn đâu, “chục” của người Nam đó chú ạ. Chị còn nói, nếu chú đi về miền Tây như Vĩnh long, Cần Thơ … , thì “chục” là mười bốn hoặc mười sáu. Còn về miệt vườn thì chục không biết là bao nhiêu! Chị lại cười. Còn tôi thì tròn xoe mắt vì thấy lạ!

Chính những câu hỏi thân thiện, những câu chuyện cởi mở, những hành vi đẹp trong buôn bán ấy của người bán hàng, đã giúp kéo người mua lại gần, tạo tinh thần hợp tác.

Đồng thời ngầm ý khẳng định cuộc giao dịch, mua bán, nhất định phải được xảy ra!

Tôi nghĩ, thì ra xã hội theo “cơ chế thị trường của tư bản” không phải mọi thứ đều xấu, như tôi từng được giáo dục trước đó.(mà dường như trái ngược).

Khi sống ở miền Bắc, vào những năm đầu thập niên bảy mươi, hàng tháng tôi phải đến các cửa hàng quốc doanh của nhà nước, xếp hàng mua lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm, dầu hỏa v.v…

Việc mua bán, vào thời kỳ mà người ta quen gọi là “quan liêu bao cấp” ấy, diễn ra thật đáng khiếp sợ:

Cảnh chen lấn, tranh giành, ẩu đả, chửi bới nhau, xảy ra thường xuyên.

Khách hàng giống như một đám ăn mày đói khát, chầu chực để được phát chẩn bần, hoặc được bố thí..

Phiếu mua thịt (dùng để mua thịt), nhưng người bán đưa cho da hoăc xương ; mua gạo nhưng đưa cho ngô ( bắp) hoặc sắn (khoai mì) cũng phải chịu, nếu như không “móc ngoặc”* được với nhân viên bán hàng.

Những người “mậu dịch viên” ấy mới thật sự là thượng đế. Họ muốn quát mắng ai cũng được. Dù khách hàng là những người đáng tuổi cha mẹ ông bà của họ!

Vì miếng ăn mà phải nhẫn nhịn cho qua. Người mua không hề có lựa chọn. Những nơi như thế là đất sống của “giai cấp” lưu manh, bọn móc túi, bọn “phe phẩy” *

Vì thế, thời kỳ đầu mới sống ở miền Nam, tôi thấy mọi thứ đều lạ lẫm. Không riêng tôi, mà bất kỳ ai đã từng sống ở miền Bắc XHCN, rồi vào Nam thì đều có cảm giác như vậy. Kể cả những trí thức từng du học ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu về cũng thế…

Có mấy em sinh viên lớp ngữ văn Đại học Cần Thơ, đã kể lại cho tôi nghe, câu chuyện về một “giáo sư thỉnh giảng” từ Hà Nội vào, nghe thật thương cảm .

Câu chuyện thế này: Thầy Nguyễn Xuân Khu, vốn là người từng du học Liên Xô, trở về làm giáo sư ngôn ngữ học, ở một trường đại học danh tiếng Hà Nội. 

Sau năm 1975, chưa lâu, có lần thầy Khu được thỉnh giảng chuyên đề “phương pháp dạy ngôn ngữ” ở khoa ngữ văn Đại học Cần Thơ.

Thầy được bố trí ở trong một căn phòng, khu tập thể giảng viên. Suốt hơn một tháng trời, ngoài giờ giảng bài trên lớp, thầy chỉ đóng cửa lại ngồi trong phòng, không đi đâu cả.

Nhiều hôm sinh viên đến mời thầy đi uống cà phê , giao lưu cho khuây khỏa, vì sợ thầy xa gia đình nên buồn. Nhưng thầy đều từ chối. Sinh viên nghĩ rằng, các thầy ngoài Bắc vào hay giữ thể diện, ngại tiếp xúc với sinh viên, nên mới như thế!

Không ngờ, những ngày cuối, sắp kết thúc chuyên đề của thầy, các cô cậu sinh viên miền Nam mới hiểu được sự tình, khá bất ngờ.

Thì ra, thầy chỉ có một bộ quần áo mặc khi lên lớp, hoặc đi ra ngoài. Cho nên, hôm nào nghỉ ở nhà , thì cởi ra giặt, chờ nó khô, vì vậy không thể đi đâu được.

Thầy nói ở ngoài đó (miền Bắc), giáo sư như thầy, được cấp phiếu mua năm mét vải, để mặc trong một năm.

Cho nên, các thầy cô giáo ngoài miền Bắc mặc quần áo vá lên lớp, là chuyện bình thường! (Đợt này thầy không đem theo mấy bộ quần áo vá mà thầy thường mặc, vì sợ “mang tiếng”!)

Thầy còn kể, khi biết thầy sắp đi giảng trong miền Nam, vợ thầy dặn , lúc về nhớ mua vài cân (kg) đường, vài ba hộp sữa cho con. Vì nghe nói, trong Nam giá đường sữa rẻ, và hiện bán tự do, không cần tem phiếu.

Một hôm thầy ghé chợ Cần Thơ, đảo qua các hàng bán đường sữa, và thực phẩm chế biến, xem thử. Thầy đã bị choáng, trước cảnh tượng buôn bán tấp nập, và “hoành tráng” ở đấy.

Chỉ mới nhìn hàng mẫu thôi, thầy Khu đã thấy ngây ngất.! Cửa hàng mậu dịch quốc doanh của nhà nước ở ngoài Bắc, cũng chẳng được như thế.

Có đến hàng mấy chục loại đường khác nhau. Mỗi loại đựng trong một cái thau bự chảng, đổ vun đầy lên, thành hình ngọn núi, trên “đỉnh núi” cắm một bảng tên loại và giá cả, để khách hàng tiện lựa chọn.

Sữa hộp cũng đủ các loại, được chồng lên thành những “tòa tháp”, giá cả rõ ràng, khách hàng tùy ý chọn mua.Lần đó thầy lúng túng chẳng biết mua gì.

Chuyện đi chợ mua quà bất thành ấy của thầy, không biết sao, đã lọt vào mắt đám sinh viên mấy lớp thầy đang dạy. Nên họ đã bảo nhau nhanh chóng tổ chức liên hoan trước thời hạn để tiễn thầy.

Hôm ấy, lớp trưởng và một số bạn đại diện, khệ nệ mang quà đến, chất đầy cả bàn viết trong phòng thầy. Mươi ký đường cát trắng, dăm ký đường thốt nốt( Một đặc sản của người Khmer Nam Bộ, lấy từ tinh chất của hoa cây thốt nốt); mươi hộp sữa; một giỏ trái măng cụt (loại trái cây đắt tiền ,chỉ có ở miền Nam ) . một túi ni lông đựng sáu xấp vải, đủ may ba bộ đồ tây; cùng với một số cà vạt, và dây nịt ( thắt lưng) v.v..

Lớp trưởng và các thành viên khoanh tay, đứng phía bên này bàn, đối diện thầy, kính cẩn nói lời cảm ơn công lao giảng dạy của thầy trong thời gian qua..

Rồi thuyết minh giới thiệu những món quà “của ít lòng nhiều”, mong được thầy nhận cho.

Thầy cũng đứng dậy đáp lễ, vẻ đầy xúc động. Có vài âm thanh nhỏ, đứt đoạn, từ trong cổ họng thầy thốt ra:

– “Tôi…tôi…tôi…”

Rồi không nghe thầy nói gì nữa!

Mắt thầy rơm rớm !.

Có thể, đây là lần đầu tiên trong cuộc đời làm giáo chức của mình, thầy cảm nhận được lòng quý trọng, và sự quan tâm rất cụ thể.

Cũng rất có thể , thầy bỗng nhớ đến những đứa học trò thân yêu của thầy ở ngoài Bắc, mà lòng thấy xót xa !

Chúng còn đói rách, thiếu thốn hơn thầy nhiều, nên dù muốn có chút quà để bày tỏ lòng thành kính đối với thầy, thì cũng không thể làm được ! ( Phú quý sinh lễ nghĩa mà. Nghèo khổ quá đành thất lễ thôi ! )

Câu chuyện về giáo sư Khu, làm tôi nhớ đến một người rất nổi tiếng, cũng gặp tình huống tương tự. Đó là tác giả bài quốc ca Việt Nam và nhiều nhạc phẩm trữ tình bất hủ khácBạn tôi kể lại, về nhạc sĩ Văn Cao, lần đó , thế này:

Vì nổi tiếng, cho nên sau năm 1975, có lần ông được người phụ trách câu lạc bộ một nhà văn hóa ở Sài Gòn, mời đến giao lưu, nhân dịp ông vào thăm người bà con trong Nam .

Cụ thế là ông đến an tọa trên sân khấu, để người ta mua vé, vào chiêm ngưỡng cái dung nhan vô cùng khắc khổ của ông.

Thỉnh thoảng, ông cũng phải trả lời những câu hỏi của những người tò mò. Đại loại như:

– “Thưa bác, bác đã sáng tác bài ‘Tiến Quân Ca’ lúc bác bao nhiêu tuổi ạ ?” Hoặc:

-” Trong bài hát có câu ‘ Cờ pha máu chiến thắng mang hồn nước’. Máu đó, là bác muốn nói đến máu của ai ạ ? v.v..

Nghe nói , chẳng những Văn Cao có công lớn , làm ra bài quốc ca, mà ông còn trực tiếp cầm súng lục đi ám sát, thủ tiêu kẻ bị nghi là Việt gian phản bội, trong đội ngũ cách mạng, theo lệnh của lãnh đạo cộng sản nữa.

Tuy có công lớn; nhưng rồi ông bị xem như đã từng dính líu đến vụ án “Nhân văn-Giai phẩm chống đảng”, nên dường như không bao giờ được tiếp xúc với công chúng.

Lần này, cuối buổi giao lưu, cả hội trường đứng dậy, vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Các cô gái mặc áo dài, ôm hoa đến tặng. Người tổ chức nói lời cảm ơn chân thành, và gửi ông chiếc phong bì đựng tiền thù laÔng đã sững người ra, và … khóc!

Có lẽ đây là lần đầu tiên, người nhạc sĩ tài ba, đã cảm nhận được sự tôn vinh thật lòng, và cụ thể của đám đông công chúng !

Thì ra, “tàn dư tư bản” còn hàm nghĩa tốt, chứ không phải chỉ là nghĩa xấu, như tôi từng được học trong các giờ chính trị !

P/S…

-Ảnh tác giả (cũ , phút giây thư giãn và suy ngẫm chuyện đời.

-“Móc ngoặc” : Cách giao dịch lén lút , vụng trộm, đi đêm với nhau của kẻ có quyền thời đó.

– “Phe phẩy”: buôn gian bán lậu, cách kiếm sống của đám người thất nghiệp ở thành thị ,rất đông đúc thời ấy.

– “Tàn dư tư bản”: những thứ xấu xa do xã hội tư bản để lại (cách nói của người cs cầm quyền).

 From: Cam Tuyet & KimBang Nguyen

Lê Đình Khẩn (ảnh tác giả)

Cô gái rơi thẳng từ máy bay độ cao 3000m xuống đất

Cô gái rơi thẳng từ máy bay độ cao 3000m xuống đất

Chuyện ly kỳ như phim về cô gái rơi thẳng từ máy bay độ cao 3000m xuống đất, 10 ngày sau được tìm thấy trong bộ dạng không thể tin được. Điều kỳ diệu vẫn xảy ra sau khi chiếc máy bay bị sét đánh, lao xuống đất, vỡ tan tành, tưởng chẳng có ai sống sót.

Đêm Giáng sinh “nhớ đời”
Vào đêm Giáng sinh năm 1971, chỉ vài giờ sau khi dự lễ tốt nghiệp trung học, cô gái tên Juliane Koepcke (17 tuổi) và mẹ là bà Maria đã đáp chuyến bay từ thủ đô Lima (Peru) đến thành phố Pucallpa (Peru). 2 mẹ con dự định đến đoàn tụ với cha của Juliane, ông Hans-Wilhelm, một nhà động vật học nổi tiếng người Đức đang làm việc tại một trạm nghiên cứu xa xôi trong rừng nhiệt đới.

Hình ảnh Juliane Koepcke trước khi gặp tai nạn máy bay.

Bay được khoảng 30 phút, máy bay đi vào đám mây đen, rất dày. “Những đám mây càng lúc càng đen khiến hành khách trên chuyến bay trở nên hỗn loạn hơn. Sau đó, chúng tôi đang ở giữa những đám mây đen như mực và một cơn bão kèm theo sấm sét”, Juliane nói. “Xung quanh chúng tôi tối đen như mực và có sấm chớp liên tục. Sau đó, tôi thấy một ánh sáng lấp lánh ở cánh phải… Động cơ máy bay bị sét đánh trúng”.

Chuyện máy bay bị sét đánh không phải là kỳ lạ nhưng thường thì không có vấn đề nào quá nghiêm trọng xảy ra. Vậy mà, lần này, có một vấn đề lớn.

“Ngay sau khi phần cánh gặp sự cố, chiếc máy bay đã bị xé toạc, phần lớn là do chiếc máy bay loại Electra mà chúng ngồi trên đó không được chế tạo để bay trong vùng nhiễu động nặng, do đặc điểm đôi cánh của nó”, Juliane cho biết.

Trái ngược với thông tin được đăng tải trên truyền thông, Juliane khẳng định rằng cánh máy bay “chắc chắn không phát nổ”. Đúng hơn thì chiếc máy bay chỉ đơn giản là bị vỡ một miếng sau khi cánh rơi ra.

Những lời cuối cùng mà Juliane nghe từ mẹ mình là khi sét đánh vào cánh. Sau đó, Juliane bị đẩy ra khỏi máy bay và rơi ở độ cao khoảng hơn 3.000 mét xuống khu rừng nhiệt đới rậm rạp của Peru, trong tình trạng vẫn được dây an toàn siết chặt vào ghế.

Juliane kể lại giây phút Tử thần cận kề: “Tôi nghe thấy tiếng động cơ cực kỳ lớn và mọi người la hét và sau đó máy bay rơi rất nhanh. Và sau đó là không khí yên tĩnh – cực kỳ tĩnh lặng so với tiếng ồn ào trước đó. Tôi chỉ nghe thấy tiếng gió bên tai. Tôi vẫn còn ngồi trên chiếc ghế. Mẹ tôi và người đàn ông ngồi cạnh lối đi trên máy bay đều bị đẩy ra khỏi chỗ ngồi. Tôi đã rơi tự do, đó là những gì tôi nhớ rất rõ. Tôi thậm chí còn đủ tỉnh táo để nhận ra bên dưới là khu rừng – sau này tôi mô tả nó giống như cây súp lơ xanh. Sau đó, tôi bất tỉnh và tới ngày hôm sau thì tỉnh lại”.

Điều kỳ diệu không tưởng
Juliane trở thành người sống sót duy nhất trong chuyến bay mang số hiệu Lansa 508 khi ấy, tất cả 91 hành khách khác và phi hành đoàn thiệt mạng. Không biết chính xác yếu tố nào đã giúp Juliane sống sót nhưng một số người suy đoán rằng chiếc ghế khiến Juliane xoay như một chiếc trực thăng, và sau đó giúp cô hạ cánh nhẹ nhàng nhờ rơi vào khu rừng rậm nhiều tán cây. Trên thực tế, bản thân đệm ngồi của chiếc ghế cũng có thể đóng một vai trò nhỏ.

Dù là gì đi nữa, trong khoảng hơn 19 giờ tiếp theo, Juliane mất dần ý thức và tại một thời điểm nào đó mà cô không biết, cô đã cố gắng tháo dây ra khỏi ghế và chui xuống gầm ghế, cô nghĩ đó là một phản ứng với mưa.

Cuối cùng, vào lúc 9 giờ sáng, cô bắt đầu tỉnh táo và có phần bàng hoàng khi nhận ra tình hình của mình. Juliane nằm trên mặt đất, chỉ mặc một chiếc váy ngắn không tay và cũng chẳng có dép hay cặp kính.

Khi ấy, Juliane không nhận ra tất cả vết thương của mình nhưng quả thực cô đã sống sót một cách thần kỳ sau cú ngã với một xương quai xanh bị gãy; chấn thương đứt dây chằng chéo trước; một bên mắt sưng húp nhắm nghiền; mao mạch trong mắt bị bung ra (do sự giảm áp nhanh chóng từ máy bay); một đốt sống cổ của cô ấy bị ảnh hưởng; một phần ống chân bị gãy; và một số vết thương sâu trên tay và chân.

Bản năng sinh tồn mãnh liệt
Juliane đã mất nửa ngày để có thể đứng mà không bị choáng váng, nhưng cuối cùng cô đã xoay xở được và việc đầu tiên cô làm là bắt đầu tìm kiếm mẹ rồi sau đó bỏ cuộc. Tuy nhiên, trong quá trình tìm kiếm mẹ, Juliane đã tìm thấy một túi kẹo, đó là thức ăn duy nhất mà cô có trong suốt cuộc hành trình của mình, và quan trọng hơn là có một con suối. Cha của Juliane đã từng cho cô một lời khuyên rất hữu ích rằng nếu cô bị lạc trong khu rừng nhiệt đới và bắt gặp một con suối hoặc con sông, cô nên đi theo nó về phía hạ lưu; bởi vì mọi người có xu hướng sinh sống ở gần khu vực có nước.

Nghĩ vậy, Juliane lên đường. Juliane hiểu rõ rằng rắn đặc biệt thích nằm ngụy trang dưới những chiếc lá khô, vì vậy khi đi qua đoạn không có nước, cô dùng chiếc giày ném về phía trước để kiểm tra xem có rắn hoặc các vật cản trở khác không (Juliane không thể nhìn rõ do thiếu kính). Juliane nghĩ lội dưới nước càng nhiều càng tốt, vì nó dễ đi hơn là đi qua những tán lá rậm rạp. Tất nhiên, vẫn có mối nguy hiểm tiềm ẩn.

Trong vòng vài ngày, Juliane bắt đầu nghe thấy tiếng kền kền vua xung quanh mình, âm thanh mà cô nhận ra khi sống tại trạm nghiên cứu của cha mẹ mình một năm rưỡi trước đó, chỉ cách nơi máy bay rơi khoảng 48km. Bởi vì kền kền vua thường chỉ hạ cánh khi có xác chết xung quanh, cô ấy đoán rằng chắc chắn phải có xác chết. Vào ngày thứ 4, Juliane cuối cùng đã phát hiện ra 3 hành khách khác đã tử vong trong tư thế đầu cúi xuống đất, tay vẫn nắm chặt vào ghế.

“Mắt tôi lúc đó mờ lắm nên không nhìn thấy rõ. Tôi chỉ nhìn thấy bàn chân của họ chổng ngược lên. Tôi dùng một cây gậy chọc vào họ, tôi không dám chạm tay vào. Tôi không ngửi thấy mùi xác chết phân hủy. Ý tôi là, chắc chắn, sự phân hủy hẳn đã bắt đầu, nhưng tôi không thể ngửi thấy. Tôi có thể biết đó là một phụ nữ bởi vì cô ấy có móng chân bóng bẩy và 2 người còn lại chắc hẳn là hai người đàn ông, dựa vào đặc điểm quần và giày của họ. Sau đó tôi bước tiếp, nhưng trong giây phút đầu tiên khi tìm thấy họ, tôi giống như bị tê liệt”, Juliane kể.

Trong quá trình di chuyển, một số vết thương của Juliane bị nhiễm trùng và một vết thương lớn trên cánh tay phải của cô bắt đầu xuất hiện giòi. Đây là điều mà cô đã từng chứng kiến xảy ra với con chó của mình trước đây, và cả kết cục đau đớn thảm hại của nó. Dù cố gắng hết sức, Juliane vẫn không thể lấy được giòi ra ngoài vì chúng đã nằm quá sâu trong vết thương.

Vào ngày thứ 10, Juliane tình cờ gặp một chiếc thuyền, mà lúc này, cô vẫn nghĩ đó là một ảo ảnh cho đến khi cô đến gần và chạm vào nó. Bên cạnh chiếc thuyền là một con đường, cô đã bò lên (lúc này rất yếu nên việc đi lên con đường hơi khó khăn). Cuối con đường là một túp lều nhỏ có một thợ săn đang sống ở đó. Nhưng lúc đó thợ săn đi vắng, Juliane tìm thấy một động cơ và một ít nhiên liệu diesel trong cái thùng.

Juliane dùng một cái ống để hút một ít nhiên liệu trong thùng ra và đắp lên vết thương bị giòi bọ của mình, điều mà cha cô đã làm với con chó của cô, mặc dù bằng dầu hỏa. Mặc dù cực kỳ đau đớn, nhưng nó thực sự hiệu quả và hầu hết những con giòi, ban đầu cố gắng chui sâu hơn vào cánh tay của cô, cuối cùng đã nổi lên bề mặt và cô có thể gắp chúng ra.

Sau đó, Juliane nằm ngủ trong túp lều, nhưng thấy nền đất quá cứng nên cô quay trở lại bờ sông và nằm trên cát. Ngày hôm sau, Juliane thức dậy và nghe thấy tiếng ếch nhái xung quanh mình, cô cố gắng bắt một số con để ăn. May mắn cho Juliane là cô đã không bắt được con nào vì chúng là những con ếch phi tiêu độc. Tại thời điểm này, Juliane đang phân vân về việc có nên đi thuyền hay không, điều mà cô không muốn làm như ăn trộm, nhưng cuối cùng cô quyết định qua đêm tại túp lều.

Nhưng cuối cùng thì Juliane cũng không phải ngủ một mình. 3 người đàn ông vừa ra khỏi rừng thì nhìn thấy cô gái. Ban đầu, họ còn tưởng cô là “Yemanjá”, một loại thủy thần tóc vàng, da nhợt nhạt.

Juliane giải thích những gì đã xảy ra, cách cô đến được đó, và may mắn là họ cũng đã nghe nói về vụ tai nạn máy bay, vì vậy đã chấp nhận câu chuyện của cô gái. Sau đó, họ cho Juliane ăn và chăm sóc vết thương cho cô tốt nhất có thể và đưa cô về phía hạ lưu trong khoảng bảy giờ đi thuyền.

Khi đến đó, một phi công địa phương biết một số nhà truyền giáo gần đó đang điều hành một bệnh viện ở Pucuallpa. Phi công đã đưa Juliane đi viện sau 15 phút bay. Chỉ 1 sau khi được giải cứu, cô đã được đoàn tụ với cha mình.

Sau đó, Juliane đã giúp lực lượng chức năng tìm kiếm xác định vị trí xảy ra vụ tai nạn. Vào ngày 12 tháng 1, họ cuối cùng đã phát hiện ra thi thể của mẹ cô. Giống như Juliane, mẹ của cô dường như đã sống sót sau cú ngã. Tuy nhiên, những vết thương của bà khiến bà không thể di chuyển rồi tử vong vài ngày sau đó.

Juliane giờ đây được biết đến với cái tên Juliane Diller, đã có bằng Tiến sĩ về Động vật học và là thủ thư tại Bộ sưu tập Động vật học Bang Bacarian ở Munich.

Cuốn tự truyện của cô mang tên “When I Fell From The Sky” (“Als ich vom Himmel fiel”) được phát hành vào ngày 10 tháng 3 năm 2011 và cô đã nhận được Giải thưởng Văn học Corine.

From: TU-PHUNG

Điếu Thuốc Ba Tôi …- Văn Mỹ Lan

Van Pham

Câu Chuyện Cuối Tuần – Bạn nhận ra điều gì trong câu chuyện ngắn và giản dị này?

***

Điếu Thuốc Ba Tôi …

Văn Mỹ Lan,

Mấy em tôi gọi điện thoại qua mét, giọng bực bội:“Chị nói với Ba. Ổng bệnh vậy mà cứ lén hút thuốc hoài.”

Ba tôi đã trên 85 và đang bị ung thư gan. Ai cũng nói ung thư gan sẽ đi rất nhanh. Ba tôi đã chuẩn bị tinh thần. Má tôi và chị em tôi cũng đã chuẩn bị tinh thần cả rồi nhưng ba vẫn kiên cường trụ được hơn ba năm dù lâu lâu phải cấp cứu. Bản thân tôi đã hơn ba lần bay về để tiễn biệt ba.

Tụi nó mét tôi vì nghĩ rằng tôi là chị lớn, lại là người cung cấp tài chánh cho ông cụ mấy chục năm nay. Chúng tin là tôi có uy tín với ông nhất.

Tôi hỏi lại:” Lén hút là sao?”

– Thì tụi em không cho ba hút thuốc sợ ông ho mà ông cứ lén hút hoài. Đã vậy má còn đồng loã, bả còn canh tụi em cho ổng hút nữa.

Tôi bật cười. Bà già tôi luôn có lối suy nghĩ và hành xử không giống bà già nào trên cõi đời. Tôi khoái bà chỗ đó! Tôi hỏi:

– Ba hút thuốc gì?

– Ổng khoái nhất là Marlboro á. Ổng cứ nói thuốc này nhẹ hều, hút chút có sao .

Tôi gọi điện về cho má, vừa cười vừa hỏi:

– Bộ má canh tụi nó cho ba hút thuốc hả?

Nghe tiếng cười đồng loã của tôi, bà mạnh dạn nói:

– Ờ. Thì tao hỏi bây ổng đã gần chín mươi rồi. Nếu ổng không bệnh thì cũng không biết ổng” đi” ngày nào. Gần chết tới nơi rồi còn bày đặt kiêng cử làm gì. Còn sống ngày nào cứ để cho ổng sướng ngày đó đi.

Tôi về thăm ba sau lần nói chuyện với má, quà cho ông là hai cây thuốc lá mua ở phi trường. Má tôi vội đem thuốc vô phòng dấu. Ba tôi nhìn thấy hai cây thuốc lá cười rạng rỡ cứ như tôi ngày nào còn bé, được ông mua cho chiếc xe đạp mini đi học.

Sướng nhất với ông là tôi để ông hút thoải mái, không cần phải giấu đút. Mà tôi đã không cự nự thì đố đứa nào dám nói. Từ hôm đó ông cứ hút công khai, chẳng cần phải dụi ngang điếu thuốc khi có đứa con nào bất chợt xuất hiện.

Mấy em biết được chị cho ba hút thuốc, có đứa bất mãn ra mặt. Có đứa còn dám nghĩ tôi mong ông cụ đi sớm để khỏi phải nuôi.

Rồi có lần ông rất khoẻ, ông đòi đi tắm biển. Ông muốn nghe tiếng sóng biển ầm ì,hương biển tanh tanh mùi cá, vị biển mằn mặn trong gió.

Lần đó bọn tôi mướn một nhà sát biển ở. Sáng sớm khi con cái còn say giấc, ông cụ cởi trần ra biển bơi. Mấy đứa con lại la ầm lên: “Ba ra biển bơi sớm vậy, rủi có gì rồi ai hay?”

Ba tôi nói: “Có gì thì vớt xác ba lên chôn. Có chi mà ầm ĩ”.

Má tôi bênh chồng: “Ổng đang bơi, đang sướng mà “đi luôn” là sướng tới chết rồi còn gì. Có chi đâu mà ầm ĩ.”

Cứ đụng tới cách hành xử hơi trái khuấy của ba tôi là nhà tôi chia hai phe. Tôi với má cùng phe. Mấy đứa con ít chăm sóc trực tiếp hay nuôi dưỡng lại cùng một phe.

Má tôi nói: “ Mấy đứa không thức đêm thức hôm chăm ông già, không nặng gánh cơm áo gạo tiền thuốc men thì tụi nó phải la to hơn để thể hiện sự quan tâm, thể hiện cái lòng hiếu thảo. Nói đại một câu cho sướng miệng lại được tiếng quan tâm tới cha mẹ thì ngại gì không nói.

Tao bảo ổng cứ kệ tụi nó, thích làm gì thì cứ làm, muốn ăn mặn ngọt thế nào thì cứ ăn. Không cần kiêng cử gì cả nhưng ông cứ sợ đứa này la, đứa kia nói. Phải nói là cha mẹ già lại thích sợ con hơn ngày xưa con sợ cha mẹ nha. Khi bị con rầy la, cái miệng các cụ thì than chứ cái bụng cũng thấy sướng sướng. Nó la vẫn còn hơn nó không thèm nói đụng tới, ngó ngàng tới.

Ông cứ kể thằng Khanh nó không cho tôi đi chụp hình, muốn đi là phải trốn mà đi. Con Lan không cho ăn nhiều mỡ sợ khó tiêu, con Liên bắt phải vận động sợ cứng khớp…

Ba tôi hút thuốc nên ho nhiều hơn. Mấy em tôi nhờ bác sĩ khuyên can ông nhưng bác sĩ nói :’ Hút nhiều là ho nhiều cụ nhá.” Ông trả lời: “Ho cũng khổ mà nhịn cũng khổ bác sĩ ơi. Ho thì khổ lúc ho thôi, nhịn thì khổ suốt ngày đó bác sĩ à”.

Bác sĩ cười, chịu!

Rồi một ngày ba tôi đi nhẹ nhàng không phải vì ung thư, cũng không phải vì thuốc lá hay bơi sớm mà chết đuối dưới nước. Ông đi vì ông đã như một cây đèn cạn dầu nên thôi không cháy nữa. Vậy thôi!

Trên bàn thờ ông lúc nào cũng có một cây Marlboro. Mấy đứa con hay cấm ông hút thuốc giờ hay đến đốt một điếu thuốc lá cắm lên bàn thờ cho ông. Má tôi nhìn mà không nói gì!

ÔNG ĐẠI TÁ SAY (tức Ông Đại tá ở Cao Bằng, Chú tôi!)

Diep Nong

ÔNG ĐẠI TÁ SAY (tức Ông Đại tá ở Cao Bằng, Chú tôi!)

Kim Chi

Ba tôi một mình lạc vào trong Nam làm việc từ năm 1948. Tất cả dòng họ bà con, đại tộc bên nội lúc ấy đều sống ở miền Bắc. Đến 1954, khi hiệp định Genève ký chia đôi đất nước, ba tôi mua vé tàu tất tả chạy ngược ra Bắc để níu kéo gia đình nhưng không kịp nữa vì dòng họ nội đều ở Cao Bằng, quá xa Hà Nội, không có đủ phương tiện để đi và về kịp… Ba đành phải đau khổ lên tàu quay về lại Sài Gòn…

Thế là bắt đầu từ đấy, ba tôi quay quắt nhớ cha mẹ, nhớ đàn em tám đứa hãy còn nheo nhóc, nhớ núi, đồi, làng xóm…

Khi vào Nam làm việc cho Pháp, cũng có vài bác cùng quê ở Cao Bằng, Lào Cai, cùng học và ra trường với ba tôi chung khoá một Quốc Gia Hành Chánh, khoá đầu tiên của Pháp đào tạo, và cũng vào Nam làm việc như ba tôi. Ba và các bác chơi rất thân thiết với nhau. Khi gặp nhau, ba và các bác hay phì phèo điếu xì-gà, nói chuyện với nhau bằng tiếng Tày, là ngôn ngữ của sắc dân Tày ở Cao Bằng. Khi ấy, tôi loáng thoáng, mơ hồ đoán ba tôi có những nỗi niềm mà chỉ có các bác mới chia sẻ được với ba… Đến khi biến cố 1975 ập đến, chúng tôi mới biết chúng tôi còn có một… ông anh cùng cha khác mẹ sống bao nhiêu lâu nay ở Cao Bằng, thiếu hoàn toàn hơi ấm với những săn sóc, thương yêu của người cha mà chúng tôi ở SG đã được hưởng trọn vẹn…

Ba và cả má của tôi lúc ấy đang là công chức trong Tòa Hành Chánh ở Bình Dương. Tháng 6/75, như bao công chức khác, ba tôi được lệnh phải đi học tập MỘT tháng để biết “đường lối của nhà nước mới”. Chúng tôi, cũng như tất cả người miền Nam lúc ấy, đã ngây thơ soạn cho ba chỉ vỏn vẹn một ba lô gồm ít quần áo, vật dụng cá nhân, một cái chiếu với cái gối bằng gỗ bọc da màu đỏ đã đi theo ba tôi cả cuộc đời của ông.

(Má của tôi sau đó cũng bị đi học tập, nhưng chỉ học tại BD sáng đi chiều về trong ba tháng!)

Trước ngày ba đi học tập một ngày, trưa ấy chỉ có tôi và má tôi ở nhà để lo thức ăn cho ba sáng hôm sau lên đường. Bỗng có tiếng chuông ngoài cỗng reo. Ôi! Tiếng chuông như đã bị quên lãng sau cái ngày tang thương 30/04/75, chẳng ai dám thăm viếng ai cả, nhất là những gia đình Mỹ Nguỵ như gia đình của tôi, họ đều ngó lơ đi khi chạm mặt chúng tôi ngoài đường…

Tôi nhìn ra cổng, thấy anh bạn học cùng trường với chị Hai của tôi, có mái tóc quăn tít, đi với một người cán bộ Việt Cộng. Cả hai cùng mang dép râu, cùng kẹp nách đầy sổ sách giấy tờ…

Tôi và má tôi đoán rằng họ muốn bổ túc giấy tờ trước khi ba đi học tập, nên tôi đã ra mở cổng…

Nhưng không phải như chúng tôi đoán! Cái người bạn học của chị tôi là… điềm chỉ viên cho tên cán bộ, đến nhà chúng tôi để… kiểm kê và tịch biên nhà !

Họ ghi xuống tất cả những gì đang có trong nhà của chúng tôi. Từ chiếc ghế đẩu, đến cái chuồng gà…; từ cái nồi cơm điện, bộ ấm trà, đến các… toilet bowls! Cuối cùng, trước khi ra về, họ đã bắt má tôi ký vào. Trong tờ kiểm kê dài cả chục trang giấy này, họ bảo rằng vì ba và má của tôi đã làm việc cho Mỹ Ngụy tức là thuộc thành phần phản động, vì chị Hai của tôi làm việc cho…C.I.A, một thành phần “cực kỳ nguy hiểm”! (Chị tôi đang du học môn… Kinh Doanh và Kế Toán tại Nhật mà cái tên bạn học của chị tôi đã cố tình chụp mũ gia đình tôi!), vì các cậu, các dì, và chánh yếu là vì ông anh rễ của má tôi là một Tổng Trưởng của guồng máy Tổng Thống Thiệu đến ngày 29/04/1975 nên chúng tôi có quá nhiều …tội với nhân dân, phải… trả nợ lại cho nhân dân! Và, cái câu quan trọng, khủng khiếp nhất trong văn bản này là: “Phải ra khỏi nhà trong vòng một tháng mà không được đem theo những thứ đã liệt kê…”, có nghĩa là phải để lại hết tất cả của cải vật chất đã oằn lưng dành dụm cả đời để cho bọn họ chia chát, rồi ra đi với hai bàn tay trắng!

Ba tôi đi “trình diện học tập” ngày hôm sau với cõi lòng tan nát, không biết rồi gia đình sẽ dọn đi đâu? Không biết rồi vợ con mình sẽ làm sao mà sống? Nhìn ba tôi rưng rưng lệ, bước chân thiểu não mà tôi thật đau lòng. Phải chi họ đến kiểm kê trễ hơn một ngày, chỉ một ngày thôi, thì có lẽ ba tôi đi … “học” mà không đau khổ và lo lắng như vậy.

Các cậu, các dì, các bà con của má tôi cũng đi học tập khắp các trại cải tạo hẻo lánh, đều bị kiểm kê, đều bị lấy nhà, khổ không thua gì chúng tôi. Gia đình năm người của chị Hai Ng, (con của dì Ba tôi) vì lên tàu ra sông Sài Gòn ngày 30/4/75, đã bị đạn bắn theo. Chiếc tàu Hải Quân chở các sỹ quan viên chức cao cấp cùng gia đình đi chuyến di tản cuối cùng đã nổ và cháy tan tành, nhấn chìm những đứa con VN da vàng, những tương lai và tuổi trẻ xuống dòng nước oan khiêng, tanh tưởi mùi máu của gia đình chị Hai Ng. Các cháu của tôi, từ hai đến tám tuổi, chưa kịp lớn để hiểu chiến tranh là gì, miệng hãy còn ngậm nắm vú, tay hãy còn ôm con búp bê có đau không khi những mảnh đạn xé nát thân thể của các em? Đã thế, họ còn hăm hở đến tịch thu nhà và tiệm bán đồ dùng điện tử của chị Hai Ng. Một tên cán bộ có gò má hóp cao, mắt thâm quầng, tím đen như bị ai đấm, cầm cái máy cạo râu lên ngắm nghía, rồi áp vào tai nghe ngóng… Hắn ngờ nghệch hỏi chúng tôi:

– “Này, có phải đây là cái… đài không?”

Tôi cảm thấy thương hại cho sự khù khờ, quê mùa của hắn quá. Thời ấy, cái máy cạo râu hơi to và thô thiển, nhưng không thể nào nhầm với cái “đài” được.. Chúng tôi chỉ xin nhặt lại các quyển albums hình của gia đình chị Hai Ng mà thôi. Đứng lật và xem sơ hình các cháu cùng anh chị Hai tươi cười rất hạnh phúc trong các albums, chúng tôi nghẹn ngào, không cầm được nước mắt. Nâng những quyển albums hình lên như chúng tôi đang nâng thân thể lạnh lẽo của các cháu bé bỏng thơ ngây lên. Một đám tang của gia đình năm người, không có lấy một quan tài, không kèn trống, không nhang khói, không bóng người đưa tiển….

Sáng hôm sau, tôi chở ba tôi đi xuống một trường trung học công lập để tập trung và điểm danh. Có đông người lắm… Tôi cố gắng tìm xem các bác làm việc trong Toà Hành Chánh tỉnh của ba má tôi ai còn ai mất. Tôi mừng thầm cho… sự vắng mặt của các người ấy. Họ thật là may mắn hơn chúng tôi… Sau vài giờ chờ đợi và điểm danh, họ chất những khuôn mặt ủ dột, buồn bả lẫn lo âu của những người chiến bại lên xe cam nhông, chở các quân nhân, công chức đi mà không cho biết là đi đâu cả! Thật tâm tôi lúc ấy chỉ muốn chạy cái xe Honda theo đoàn cam nhông kia, để biết họ sẽ đem ba tôi đi đâu…

Ba tôi đi được hơn mười ngày, má tôi chạy đôn chạy đáo lên xuống Sài Gòn, Cai Lậy, Biên Hòa, Bình Dương.. để năn nỉ bà con xa gần cho ở nhờ. Cho đến hôm ấy, vẫn chưa biết chúng tôi sẽ dọn đi đâu ở! Và má tôi cũng phải chạy đôn chạy đáo để bán nữ trang (để có tiền đi chợ!) mà má tôi nhanh tay giấu kịp…Thời ấy, vàng vòng bán không ai muốn mua cả. Nếu mua thì họ mua với giá rẻ mạt…

Hôm ấy, tôi và má tôi đang ở nhà tém dẹp đồ đạc. Ngoài cổng lại có tiếng chuông! Từ trong cửa sổ nhà nhìn ra, tôi thấy có một chiếc xe jeep đậu ngay trước cổng. Có hai người bộ đội đang đứng chờ mở cửa. Một người trẻ, một người trung niên, dáng dấp to lớn. Trên cổ áo của cả hai người loáng thoáng những sao vàng và huân chương đầy tràn trên ngực, lại còn dắt súng lục bên hông nữa! Tôi nấp vào trong nhà, người tôi run lên, tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực…

Tôi đoán họ đến lấy nhà sớm hơn ngày ghi trên giấy tờ! Tôi khẽ bảo má tôi hãy trốn vào trong! Mặc cho họ bấm chuông liên tục, tôi và má tôi cuống quít trong nhà như những con gà đang tìm ổ, chạy vội lên lầu, rồi lại quýnh quáng chạy ngược xuống lầu… Má tôi rưng-rức khóc, không biết phải giấu cái gì vào người, phải làm sao với hai ông tướng tá bộ đội ngoài kia… Còn tôi thì sững sờ và chết điếng cả người khi nghĩ rằng phải giao nhà cho họ ngay bây giờ… Tôi rùng mình hình dung ngay cảnh tượng gia đình anh chị em tôi sẽ chui rúc dưới một gầm cầu nào đó để sống tối nay… Phản xạ, tôi vơ vội một bộ đồ rồi mặc chồng vào, để nếu ra khỏi nhà thì tôi cũng có thêm một bộ quần áo…

Có lẽ vì thấy thấp thoáng bóng chúng tôi ở trong, người bộ đội dáng dấp to lớn mới nói thật to vọng vào trong nhà bằng giọng Bắc Cao Bằng như của ba tôi:

– Chị ơi! Em là em họ của anh Ch đây! Em ở Cao Bằng vào Nam tìm anh đây. Chị ơi, em là người nhà ngoài Bắc vào đây, chị mở cửa đi nào… Em là người nhà đây chị ạ…

Tôi và má tôi nhìn nhau… Nghe thật là lạ lùng quá, lạ… tai quá! Chúng tôi chưa bao giờ biết đến bất cứ một người thân nào ở bên nội. Chưa nghe! Chưa thấy! Chưa biết bao giờ… Ôi! Ngạc nhiên quá, lạ quá….

Tôi đi từ từ lại cửa sổ để lén nhìn kỹ họ lần nữa. Trên cổ áo của họ có nhiều sao vàng lấp lánh, nhưng cả hai có vẻ rất thân thiện. Má tôi hỏi từ trong nhà ra vài câu rồi mới bảo tôi mở cửa cổng.

Người trẻ tuổi tên Thuỵ, có chức vụ quân đội là trung uý (hai sao). Còn người to lớn, đấy là em rể họ của ba tôi. Chú tên là Phan Ninh.

*

Chú Phan Ninh cao lớn, phải trên 1 mét 70, da dẻ trắng và hồng hào y hệt người Dalat. Trên ngực áo của chú đeo dày đặc huân chương. Cổ áo của chú gắn hai gạch với ba ngôi sao. Lần đầu tiên sau ngày 30 tháng 4, tôi mới được thấy một người bộ đội đeo nhiều… sao như thế! Và cũng là lần đầu tiên, tôi được thấy một người bộ đội cao lớn, trắng trẻo, đẹp trai, phương phi, dáng dấp như Tây Phương chứ không… quê mùa, đen đủi, răng hô mã tấu như những bộ đội mang dép râu lúc ấy!

Thật là vô cùng thú vị khi nghe câu chuyện của chú kể nhờ đâu mà chú tìm được chúng tôi…

Sau khi tốt nghiệp đại học, chú đăng ký đi bộ đội để… giải phóng miền Nam! Chú rời Cao Bằng cả hơn sáu tháng nay để vào “Giải Phóng miền Nam”. Khi rời Cao Bằng, cả dòng họ đại tộc đã đặt hết tất cả hy vọng vào chú. Bằng đủ mọi cách, chú phải tìm cho ra người cháu, người anh Cả, người bác, người chồng và người cha đã mất tông tích mấy chục năm qua!

Chú kể, chú nằm dưới hầm hố ngay trong… tỉnh BD đã ba tháng trời trước ngày 30/4! Sau đó, chú lên chức Đại tá. Nhưng vì chưa tìm được tông tích của ba tôi nên chú không thể về Cao Bằng.

Mà làm cách nào để tìm ba tôi đây? Biết mặt mũi ba tôi thế nào! Biết ba tôi ở đâu mà tìm! Biết bắt đầu tìm từ đâu!

Chú cùng Thuỵ, người cận vệ của chú, hay đi ăn phở Pasteur ở Saigon. Một hôm, trong quán phở đông đúc, đa số là dân Sài Gòn, nên chú và Thuỵ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tày..

Chú băn khuăn tâm tình với Thuỵ:

– Công tác GPMN đã xong rồi. Nhưng còn công tác tìm anh Ch thì chưa xong, nên ta không thể về quê bây giờ được. Cả cái miền Nam rộng lớn thế này, biết đi đâu mà tìm anh Ch bây giờ?! Ngay cả nếu anh Ch đang ở Sài Gòn này, cũng không biết làm cách nào mà tìm anh đây?! Chưa thể về Bắc được, khi chưa tìm được anh Ch….

Ngồi ở cái bàn sát bên chú Linh là bác Cược. Bác Cược là bạn thân thiết nhất của ba tôi, cũng là người Tày ở Cao Bằng. Bác cùng học Quốc Gia Hành Chánh khóa một chung với ba, cùng rời Cao Bằng và cùng vào Nam chung với ba tôi. Nhưng bác lại làm việc cho Tòa Lãnh sự Pháp trực thuộc chính phủ Pháp nên bác không bị đi học tập. Tất cả bạn của ba đều cùng số phận như ba tôi, ngoại trừ có một mình bác Cược!

Bác Cược lắng nghe hai người bộ đội bàn kế bên nói chuyện với nhau bằng tiếng Tày. Và bác quyết định bắt chuyện ngay với hai người bộ đội cũng bằng tiếng Tày:

– Hai anh có phải đi tìm anh Ch người quê Hà Quãng, Cao Bằng đấy không? Anh ấy có tám người em tất cả, có bố làm Chánh Tổng ở… mẹ tên là….., có cậu em Út tên là… Các em gái tên là….

Chú Ninh cùng Thuỵ và cả bác Cược đập bàn reo ầm ĩ lên, vô cùng mừng rỡ. Thế là nhờ vào cái tiệm phở, nhờ vào câu chuyện bằng tiếng Tày, nhờ bác Cược không đi học tập, và nhất định là phải có bàn tay của trời đất ơn trên sắp xếp cho gia đình tôi gặp được một đại ân nhân, chú Phan Ninh, người đã cứu và cưu mang chúng tôi rất nhiều…

Sau khi kể sơ chuyện gia đình ngoài Bắc, và hỏi thăm tình hình gia đình chúng tôi trong Nam. Chú Phan Ninh ngỏ ý muốn đi tìm thăm ba tôi ngay lập tức, để chú có thể giúp ba được gì chăng? Chú đã chở má tôi cùng Trị, (em trai Út của tôi), đi tìm ba tôi ngay trưa hôm đó. Chú đi hỏi hết tất cả các cơ quan công an đến các cơ quan hành chánh để biết ba tôi đang ở trại học tập nào. Họ đã dời ba tôi ra, vào nhiều trại. Và bấy giờ thì ba đang ở trại tù Long Khánh. Vì quá bất ngờ, nên má tôi chỉ kịp ngừng xe dọc đường mua cho ba tôi ít chôm chôm và hộp sữa Ông Thọ mà thôi!

Khi đến trại Long Khánh khoảng hai giờ trưa, chú Phan Ninh đã vào văn phòng của thủ trưởng trại cải tạo nói chuyện. Chỉ mươi phút sau, loa phóng thanh gọi tên ba tôi ra ngoài cổng, bảo rằng có người cần gặp. Tất cả các trại cải tạo thời điểm ấy, chưa có ai được gặp người nhà bên ngoài, mà thân nhân bên ngoài cũng chưa có ai được vào thăm nuôi người nhà đang học tập cả. Cho nên, khi ba tôi được tên cán bộ dẫn ra, ba đã đứng khựng lại, sững sờ, gần như muốn ngất xỉu khi thấy má tôi và emTrị bị hai tên… tướng tá bộ đội kè sát! Ba tôi đã nghĩ rằng, bọn họ đã bắt luôn cả má và em trai Út của tôi vào học tập chung! Từ xa, ba thiểu não bước về hướng cổng trại tù, những bước chân lê lết… Đôi mắt trũng sâu, đôi lông mày đen thật rậm ngày xưa của ba đổi thành màu bạc trắng, quần áo mặc rộng thùng thình như mặc đồ khính… Chỉ mới mười mấy ngày trong tù thôi mà ba tôi tiều tụy thấy rõ…

Chú Phan Ninh đoán được nỗi lo sợ của ba tôi. Chú dùng tiếng Tày nói trấn an ba tôi ngay tức khắc:

– Em là em họ của anh đây. Em từ Cao Bằng vào tìm anh. Anh yên tâm, chị và gia đình không sao cả. Anh đừng sợ, có em vào Nam lo cho anh và các cháu…

Họ cho thăm ba tôi độ nửa tiếng. Chú Ninh cố gắng xen vào ít câu tiếng Tày để dạy ba cách khai lý lịch như thế nào, nên khai cái gì và không nên khai cái gì… Ba tôi kể cho chú biết rằng ba phải khai lý lịch… mỗi ngày! Phải kể hết tất cả tên tuổi những người bà con xa gần, họ làm gì, ở đâu… Nếu khai không rõ điều gì là họ bắt lên tra khảo mãi tới đêm khuya! Và cho đến hôm ấy, ba vẫn còn đang viết lý lịch vì họ chưa… vừa lòng!

Thế là chú điện báo tin ngay cho ngoài Bắc biết đã tìm được ba tôi rồi. Cả họ hàng ngoài Bắc vô cùng mừng rỡ, mọi người chuyền tin cho nhau, cả dòng họ lẫn xóm làng vui hơn cả ngày Tết.

Và việc cần kíp phải làm là làm sao giữ lại được căn nhà đang gần ngày phải dọn ra! Chú rất thông minh. Chú nói má tôi viết một tờ giấy bán nhà cho… chú! Cái ngày má tôi “bán” nhà là cái ngày trước ngày của hai tên cán bộ đến kiểm kê!

Sau đó, chú cùng Thuỵ, người cận vệ của chú, cả hai cùng nai nịt súng ống, đeo huân chương đầy tràn trên ngực, cầm tờ giấy “mua bán nhà “đi thẳng lên UBND tỉnh BD. Ông đại tá Phan Ninh để tờ giấy mua bán nhà trên bàn của tên cán bộ tỉnh ủy rồi gằn giọng:

– “Đây là nhà của tôi, tôi đã mua trước rồi. Ai muốn lấy nhà này cứ đến tìm tôi nói chuyện. Có ai thắc mắc gì không?!”

Không ai “thắc mắc” cả! Và chúng tôi ở yên ổn trong căn nhà luôn 15 năm trời, cho đến ngày đi ra khỏi VN. Chú cũng chở các dì của tôi đi các trại học tập để thăm nuôi chồng. Người thì bị học tập ở miền Trung, người thì miền Tây. Phải đi ghe xuồng, băng rừng, phải ngủ tạm trên xe hơi ban đêm mới đến được những nơi khỉ ho gà gáy ấy. Nếu không có chú xông xáo vào từng ty Công An để hỏi cho ra tông tích của các dượng, các cậu, thì có lẽ các cậu, các dượng đã bỏ xác trong trại rồi. Ban ngày, những kẻ chiến bại này phải khai phá rừng. Ban đêm thì làm kiểm điểm và nghe họ o ép hài tội Mỹ Ngụy! Họ nhục mạ những kẻ chiến bại trong trạng thái bần cùng khánh kiệt. Họ cũng không cần phải đánh đập gì cả, chỉ… bỏ đói thôi! Đói lắm, không có gì để ăn hết, phải ăn cả… giun dế ngoài đồng, phải ăn sống khoai mót khoai sùng… Rừng thiêng nước độc, rất nhiều người bị bệnh sốt rét rừng, kiết lỵ và chết vùi xác vì không có đến một viên thuốc, hay là chết vì đói, chết gục ngay trên luống khoai chính mình đã trồng.

Thời ấy, tranh tối tranh sáng, nhiều xã trưởng, ấp trưởng, chỉ là bọn vô lại mới lên… Chú dắt chúng tôi đi “chơi” khắp mọi nơi để họ không còn ức hiếp chúng tôi nữa. Mỗi lần từ Sài Gòn lên Bình Dương thăm chúng tôi, chú cứ đi rễu rễu ngoài đường, gặp ai chú cũng “vui vẻ” bắt chuyện không sót một người. Chú không quên tự giới thiệu là chú RUỘT của chúng tôi!

Gia đình tôi có một miếng đất trống khoảng nữa mẫu ở Gò Đậu, cách nhà chúng tôi chừng hai cây số. Chúng tôi phải xuống đó trồng khoai lang và đậu phộng để sinh sống tạm thời như bao gia đình quân nhân công chức phải làm thời ấy, và cũng để hàng xóm nhìn vào thấy chúng tôi đã giống… nông dân lắm rồi! Anh em chúng tôi đã cật lực cuốc cỏ lột cả da tay, bật cả máu để hiểu thật sâu sắc… “lao động là vinh quang”! Chúng tôi trồng đậu phộng, khoai lang từ sáng sớm, đến chiều tối mịt mới về nhà. Ngôi nhà có vườn hoa đẹp nổi tiếng của khu phố ngày xưa đã gần như mất hẳn dấu tích, má tôi bảo tôi phải chặt bỏ các bụi hoa hồng nở quanh năm, bỏ rác hết các giò Lan…, chỉ còn thấy chăng là cuốc, xẽng nằm la liệt chung với mớ khoai, đậu ngỗn ngang trên sân xi-măng, nhìn thảm thương không thua gì chủ nhân của nó…

Cái tên chăn trâu ở cạnh đấy biết gia đình tôi là người của chế độ cũ bị đi học tập, nên mỗi ngày sau khi chúng tôi về, nó nhổ ăn cắp từ từ những cái cọc hàng rào bằng sắt để… bán lấy tiền. Hắn nhổ đều đặn, nhổ mỗi ngày hầu như công khai mà má tôi chẳng biết kêu gào với ai đây?! Chẳng những thế, rào kẽm gai cũng mất từ từ…

Chú Phan Ninh đến nói chuyện bâng quơ với hắn:

– Này! Anh để ý hộ cháu và chị tôi nhá. Thấy đứa nào nhổ cọc với ăn trộm hàng rào thì báo cho tôi biết, tôi bắn bỏ mẹ cả nhà nó… nát óc, chết tươi ngay….

Từ đấy, tuyệt nhiên không bị mất cọc với hàng rào nữa…

Chú Phan Ninh là chỗ dựa của chúng tôi thời ấy. Chú vạch rõ đường đi cho chúng tôi. Chú chở tôi đi xin học, lăn xả đi tìm việc làm. Tôi nhớ, khi công ty Shell cần tuyển người, chú từ Sài Gòn chạy xe jeep về Bình Dương, và chở tôi vội vàng đi ngược về Saigon nộp lý lịch để xin việc. Hỡi ơi, người đông như kiến, không có cách chi mà chen vào chỉ để nộp cái đơn thôi. Chú Ninh bèn vẹt mọi người ra, đẩy tôi đến ngay trước cái bàn nhận đơn. Rồi chú đứng cung tay ra, không cho ai xô đẩy, chen lấn tôi cả. Đợi mãi cả tiếng đồng hồ, họ gọi tên tôi lên để.. trả đơn lại! Tôi cũng đã đoán trước rồi! Tôi nào có tha thiết gì lúc ấy. Ai giở cái lý lịch của tôi ra mà không …choáng váng?! Họ ghi chú thật thậm tệ bên trong, một loạt hàng chữ ngoệch ngoạc chụp mũ và cố dìm chết chúng tôi… Nào là “Thành phần xấu”, “Gia đình có người làm cho CIA..”, “Gia đình là tay sai của Thiệu và đế quốc Mỹ”, “Gia đình thuộc thành phần phản động”…Ai sẽ mướn tôi? Ai sẽ chứa tôi? Ai cho tôi ghi danh học Đại học, Cao Đẳng, hay bất cứ ngành nghề gì khi thấy cái lý lịch như thế này?

Chú Ninh giận lắm khi bị trả cái đơn lại. Chú to giọng lên hỏi:

“Sao lại không nhận cháu của tôi? BÁC và ĐẢNG ta đã có chủ trương rõ ràng là ai làm thì người ấy chịu cơ mà? Cháu tôi chỉ là một đứa học trò trung học thôi. Nó nào có tội tình gì? Các người sai bét nhè cả rồi…”

Khi đi ra cửa, chú rất giận dữ, vẫn cứ tiếp tục văng tục “ĐMTS” , chửi thề ỏm tỏi cả lên…

Tôi còn nhớ, chú đã mắng xối xả vào tên ấp trưởng của gia đình tôi khi họ bắt má tôi phải đi học tập, rồi họp ngày, họp đêm mãi… Chú bảo họ:

“Gia đình chị của tôi đã có anh tôi đi học tập rồi. Chị và các cháu cũng đã… học tập… tốt rồi. Gớm! Cả nhà 7, 8 miệng ăn mà suốt ngày cứ bảo người ta hội với họp, học với tập. Bộ nói họp là … xách cái quần đi họp được ngay à? Thế các anh nuôi các cháu tôi đi nhé để chị tôi mới rảnh rỗi mà đi họp!”

Chú cũng dẫn tôi đến “thăm” một tên thư ký của xã nơi gia đình cư ngụ. Tên này đã “mời ” tôi làm một tờ kiểm điểm vì tôi mặc một cái quần…Tây! Thời 75, quần Tây được cắt rất rộng rãi, ống xì gà. Hắn đã hăm dọa tôi mà còn mặc các loại quần áo Mỹ Ngụy như thế này nữa thì hắn sẽ… cắt ngay. Chú chỉ nói với hắn ta có một câu thôi:

– “Cháu của tôi nó dại khờ lắm nên mới bị người ta… ăn hiếp thôi. Chú xem cháu có gì cần dạy bảo cứ… mách thẳng tôi nhá”.

Chú cũng dạy cho chúng tôi biết thế nào là chế độ Cộng Sản. Tôi nhớ mãi câu nói để đời của chú:

– “Cộng Sản là cái chế độ giống cái mặt bàn này đây. Ở trên đánh vẹc-ni bóng loáng, nhưng ở dưới nhám xịt, sờ vào sướt da đau lắm đấy cháu ạ!….”

Bằng một giọng nói u uất, chú kể cho chúng tôi nghe, trước khi vào Nam để thực hiện công tác “giải phóng miền Nam” chú đã bị gạt rằng trong miền Nam rất đói khổ, bọn Mỹ Nguỵ hành hạ và ức hiếp dân đen thật ghê gớm… nên chú càng hăm hở làm nhiệm vụ GPMN với tất cả nhiệt huyết con tim… Đến khi chú vào tới miền Nam rồi, ngày thì chú trốn dưới hầm, đêm chú trốn ra, đi chơi bên ngoài lẫn lộn với dân chúng. Chú đã choáng váng, thật ngỡ ngàng khi biết chú và tất cả dân miền Bắc bị gạt…. Nỗi bàng hoàng kéo dài cả tháng trời vì chú thấy ra chủ nghĩa Cộng Sản là một trò lừa bịp, nhưng chú không còn đường thối lui nữa… Thật cay đắng, chú nói với chúng tôi, chú và thân nhân ngoài Bắc đã để dành khá nhiều tiền để vào Nam cho ba tôi (!) vì họ bảo dân miền Nam làm việc nhiều mà… lương rất ít, rất nghèo và rất đói khổ, không mua sắm được gì cả!

Anh Ba của tôi lúc ấy vừa học Luật vừa học Đại học Khoa học để lấy chứng chỉ SPCN chuẩn bị thi Y Khoa. Chú Phan Ninh đã giả lả, mon men, la cà với ban lãnh đạo trường. Cuối cùng, chú đã khuyên anh Ba rằng:

“Cháu không vào được các ngành ấy đâu. Ngay cả cháu có học giỏi cách mấy cũng vậy. Họ chắc chắn sẽ đánh rớt cháu đấy… Cháu nên đổi qua Nông Nghiệp thì hoạ may họ còn cho cháu đậu! Mà cháu phải đổi ngay trong năm nay, chứ sang năm sau sẽ không được đâu…. Cả dòng họ mình ngoài Bắc chỉ vì có một mình ba cháu vào Nam, mà các chú, thím, các em… đều có lý lịch xấu ba đời không được học hành hay có chức tước gì cả đấy cháu ạ! “

Anh Ba của tôi thật buồn, mộng làm bác sĩ bay theo mây khói! Nhưng cũng nhờ chú hướng dẫn, nên anh đã đậu môn mục súc trong đại học Nông Nghiệp ở Thủ Đức để tốt nghiệp làm Bác Sĩ Thú Y. Anh đã học ngày học đêm vì rất sợ bị đi nghĩa vụ quân sự như số đông các bạn bè của anh bị chết mất xác bên Campuchia…

Sau nầy, khi ba tôi bị dời về học tập ở Bình Phước, ba tôi “được ” phân công gánh… phân xanh để tưới rau! Ông không chịu làm, bị làm kiểm điểm, bị chửi bới, phạt kỷ luật! Chú Phan Ninh phải vào trại dàn xếp cho ba tôi. Cuối cùng ba tôi được làm anh… nuôi! Tức là người..nấu cơm.. (Từ bé, tôi chưa bao giờ thấy ba tôi vào bếp cả! Sau này, ba tôi kể, ba chỉ đi tìm củi và phụ việc vặt trong bếp mà thôi!)

Kế sát nhà tôi là nhà ông bà Trưởng Ty Điền Địa. Rồi đến nhà ông bà bác sỹ R Ông bà Trưởng Ty lúc ấy phải trên dưới bảy mươi tuổi rồi. Bỗng dưng nhà ông bà để đèn suốt ngày đêm cả tuần lễ, rồi sau đó Hội Phụ Nữ đến đóng đô! Lúc ấy chúng tôi mới biết ông bà đã… đi vượt biên! Và rồi lại đến nhà ông bà bác sỹ R!

Chú Phan Ninh đi dò la tin tức, trầm tư suy nghĩ, rồi nghiêm giọng bảo chúng tôi:

– “Hai ông bà hàng xóm… già thế kia mà còn đóng tàu đi vượt biên được. Ông bà đã qua tới Mỹ rồi. Có khi các cháu phải đi vượt biên thôi … Các cháu không thể nào chịu nổi chế độ Cộng Sản đâu… Chị cố gắng gói ghém lại và tìm cách cho các cháu đi càng sớm càng tốt chị ạ. Hay! Thật hay! Em mà còn trẻ và không vướng bận gia đình, chắc em cũng phải đi vượt biên thôi chị ạ. Nhất định là phải lo cho các cháu đi vượt biên nhé chị. Hay lắm! Thật là hay đấy chị!”

Chúng tôi đã nhận ra những lời chú nói đều đúng như thế. Trị, em trai Út của tôi thi vào Đại Học Nông Nghiệp. Em học giỏi, bài thi làm trôi chảy. Nhưng lại không có tên trên danh sách thí sinh đậu dán trên văn phòng Ty Giáo dục tỉnh BD. Đi hỏi các thầy chấm bài, thì các thầy đều nói bài của em phải đậu, mà phải đậu hạng cao. Chắc có sự nhầm lẫn?! Má tôi đạp xe lên Ty Giáo Dục tỉnh để hỏi. Khi về má tôi khóc nức nở… Họ đã mắng như tát nước vào mặt của má tôi rằng:

– “Bà đi về đi! Các con của bà đến ba đời cũng không học đại học được đâu. Bà đừng mơ tưởng….”

Chú Ninh giận dữ, đùng đùng lái xe jeep đi đến Ty Giáo Dục tỉnh, chú đứng chống nạnh và chửi họ không ngớt miệng:

– “Các anh chị làm công tác giáo dục mà các anh chị sao có thể nào lại ăn nói lỗ mãng thua cả thằng chăn trâu chăn bò thế kia?! Các anh các chị dốt nát nên sợ người khác khôn hơn mình à?! Nên đánh gạt hết những người tài giỏi, chỉ để lại toàn một lũ… dzòi bám đít các anh chị, thối tha, ngu xuẩn… Rồi tương lai nước ta sẽ có những lãnh đạo… thối…địt! Mẹ kiếp! Con “người ta ” chỉ muốn học có cày cấy thôi mà cũng gạt bỏ, không cho học… Chả trách có những thằng bác sĩ không biết… cầm tiêm, thằng kỹ sư thì không biết làm toán… chia! Và các anh chị làm ngành giáo dục mà chẳng biết trọng nhân tài. (ĐMTS…!) Hãy dẹp… mẹ cái biển Ty Giáo Dục xuống đi…”

Chú về Bắc rồi chú lại vào Nam thêm vài ba lần. Mỗi lần vào trong Nam là chú dẫn theo các chú, các cô hay các cháu ở Cao Bằng vào Nam thăm ba tôi trong trại học tập. Chú ở lại trong Nam cho đến khi cả họ ngoại tôi đi thăm nuôi thân nhân đều đặn, chú giúp các dì lấy lại đất đai, nhà cửa đã bị mất. Chú đi săn tin từ trong… công an ra, và biết ba tôi hay các cậu sắp bị chuyển trại, là chú về báo cho chúng tôi hay ngay tức khắc. Rồi chú chở từng thùng xăng, từng bao gạo sấy mà trại lính Mỹ đã bỏ lại, để chúng tôi bán lấy tiền thăm nuôi ba tôi và sinh sống. Ngày chú phải trở về Bắc luôn, tôi rất buồn vì mất đi một người chú xốc vác, nương tựa. Chú dặn chúng tôi không được nói cho ai biết là chú về Bắc luôn vì sợ họ sẽ ăn hiếp gia đình chúng tôi nữa. Và chú nhắc nhở chúng tôi phải tìm đủ mọi cách để phải đi…. vượt biên! Quà mang về Bắc, chú chỉ xin chiếc máy ảnh Nikon cũ của ba tôi để kỷ niệm và cũng để về quê chụp hình, có thể kiếm thêm chút ít cho những ngày hưu trí.

Tôi đã nghe lời chú, tôi trầy vi tróc vảy đi vượt biên bốn, năm lần. Tôi bị công an rượt đuổi ở Phan Thiết, trốn chạy trong ruộng mía cả ngày y hệt như đóng phim trinh thám! Xã hội đảo điên, tôi cũng bị lường gạt sạch túi vài lần. Tôi đi vượt biên bị bắt và bị cả tù cùm chân…(*) Sống dưới chế độ CS, tôi như con thú phải sống trong rừng sâu, không thể ra ngoài ánh sáng. Nhưng cuối cùng, trời đất ơn trên đã phù hộ cho tôi đến được xứ sở tự do.

Tôi ước ao được một lần về thăm quê nội, thăm hằng trăm người bà con của tôi vì có ba tôi vào Nam mà họ đã không ngóc đầu lên được cả mấy đời con cháu. Thăm lại ông anh một cha khác mẹ thật đáng thương của chúng tôi. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh của ba và anh trong trại cải tạo, anh đã khóc rưng rức khi thấy dáng Ba từ xa, rồi oà lên khóc tồ tồ, khóc như chưa bao giờ được khóc. Hầu như đây là lần đầu tiên trong cuộc đời của anh Cả được gọi tiếng BA, được biết cái bàn tay, cái gương mặt, cái tướng đi của mình giống Ba như thế nào khi tuổi của anh đã gần bốn mươi. Còn ba tôi, tóc bạc muối tiêu, tay run lẩy bẩy, vai nấc lên, mắt ràn rụa, ướt nhòe nhoẹt…

Bây giờ, tôi thật thấm câu chú Phan Ninh đã nói với tôi khi tôi chưa tròn mười tám tuổi:

– “Người dân ở miền Bắc tội nghiệp không thua gì dân ở miền Nam bây giờ. Họ cũng cùng số phận như người miền Nam, cùng bị chế độ độc tài Cộng Sản cai trị… Chỉ khác có một điều là người miền Bắc đã bị bọn Cộng Sản cai trị trước người miền Nam thôi!”

Chú Phan Ninh đã thấy quá rõ đời sống trước và sau ngày 30/4 /75 của người dân miền Nam và của gia đình tôi như thế nào, ngược hẳn với những gì mà chú bị tuyên truyền và nhồi sọ! Chú đã nhìn thấy sự đau khổ của chúng tôi khi bị.. đổi đời như thế nào! Chú sững sờ lặng ngắt người, đau đớn không thua gì gia đình chúng tôi khi nghe tin em trai út Trị của tôi đã mất tích trong lòng đại dương lạnh lẽo…

Chú về lại Cao Bằng, người ta thẳng tay cho chú về hưu! Chanh đã vắt kiệt, họ vất ngay cái vỏ, mà là cái vỏ đầy… gai góc. Trước khi về hưu, họ đã bắt chú tường trình những gì chú đã làm cho chúng tôi, chú đã đi đâu, đã thấy những gì từ cái gia đình Mỹ Nguỵ kia. Họ trông đợi một tố giác của chú, mà chú đã không đáp ứng như ý họ… Chú PN càng nổi điên lên, càng chửi bới nhiều hơn. Chú uống rượu giải sầu, cũng là để mượn rượu mà chửi “thiên hạ”. Khi say, dân làng, hàng xóm được nghe người Đại tá say này kể rất nhiều chuyện “phản động” mà họ đã bị giấu bưng bít!

***

Chú ơi! Hôm nay cháu ngồi nhỏ nước mắt gõ lộc cộc trên phím của computer, bồi hồi ôn lại chuyện chú cháu mình đúng tháng ngày này của 45 năm về trước. Cháu đang mang một kiếp lưu vong với những vinh nhục, vui buồn trên xứ lạ quê người. Ôm cái computer, mỗi ngày cháu mỗi thờ thẫn bàng hoàng vì những tin tức đen tối bên trời Nam… Cái án tử nặng ngàn cân đang cứa vào cổ dân mình rồi chú ạ! Quê hương và dân tộc VN đang lâm vào cảnh khốn đốn, tồi tệ nhất trong lịch sử. Nếu chú còn ở dương gian này, chú sẽ chỉ bảo cháu làm gì để cứu lấy Bản Giốc, cứu những tôm cá nuôi cả triệu đồng bào VN, cứu quê hương chúng ta thoát khỏi chế độ CS độc tài độc ác đây? Hay chú cũng chỉ làm người lưu vong tủi nhục như cháu, cái mầm lưu vong đã nhú lên ngay từ 45 năm về trước, để cây lưu vong mọc ngay trên dãi đất hình chữ S cong quẹo đau thương này, không biết khi nào mới ngẫng mặt đứng thẳng với thế giới và lịch sử mai sau…

Cháu không còn trẻ để vẫy vùng được như 20, 30 năm trước nữa. Ai cũng phải bước tới cái ngày nhắm mắt lìa đời… Nhưng chú ơi, cháu đau lòng lắm nếu ra đi mà không giúp ích gì được cho quê hương và dân tộc mình…

Có phải cũng cái đau này đã canh cánh, đeo đẳng chú về tận bên kia thế giới không, thưa chú Phan Ninh kính yêu…

Kim Chi

(*) KChi có viết truyện Đứa Con Trong Tù kể chuyện bị cùm chân trong tù.

Đừng dùng đôi mắt để đánh giá tâm hồn

 May be an image of text

Một người làm nghề bảo vệ, làm thuê cho một gia đình giàu có, công việc không quá áp lực chỉ đơn giản là mở cửa xe cho chủ nhà và gác cổng, nhưng thái độ của ông chủ luôn khiến anh cảm giác như mình bị hắt hủi. Mỗi sáng, khi xe ông chủ đi đến cổng, anh đều gập đầu cúi chào và chiều về cũng vậy; nhưng anh chưa bao giờ nhận lại từ ông một cử chỉ đáp lại.

Cứ chiều về, anh thường tranh thủ chạy ra bên ngoài tìm kiếm đồ ăn thừa trong túi rác bên ngoài biệt thự. Có lần, anh bị ông chủ bắt gặp, nhưng ông cũng không biểu hiện một thái độ nào trên nét mặt. Sự lạnh lùng của ông chủ khiến anh có một cảm giác khó chịu nổi lên trong tâm mình.

Cũng kể từ ngày đó,anh thường hay thấy một túi giấy sạch sẽ, bên trong đựng rất nhiều thức ăn ngon được gói bọc cẩn thận đặt tại nơi mà anh vẫn lui đến tìm đồ ăn. Hôm đầu, anh nghĩ có lẽ ai đó đi siêu thị về để quên nên rất vui vẻ xách về cho mấy đứa con ở nhà.

Nhưng nhiều hôm về sau, ngày nào anh cũng bắt gặp túi thức ăn ngon được đặt sẵn ở đó.anh bảo vệ bắt đầu thắc mắc việc này thật kì lạ, sao ngày nào cũng lại có một túi thức ăn ngon được đặt ở đây nhỉ? Nghĩ miên man một hồi, rồi anh lại tự nhủ, chắc Đức Phật thương tình nên ban lộc cho mình, còn không thì anh cũng chẳng cần quan tâm nó từ đâu đến, miễn sao ngày nào vợ con anh cũng không đói là được rồi.

Cho đến một ngày, ông chủ qua đời. Hôm đó, có rất nhiều người qua lại, vì bận việc đón khách nên anh cũng chẳng còn thời gian nhớ đến túi đồ ăn nữa. Mấy ngày qua đi, khi công việc quay trở lại bình thường, anh lại đến tìm thức ăn như mọi khi. Chỉ có điều là, lần này anh không còn thấy túi thức ăn ngon được đặt sẵn ở đó nữa.

Ngày thứ nhất, anh bảo vệ nghĩ chắc ai đã nhìn thấy nó và nhặt rồi. Tuy nhiên, qua ngày thứ hai và ngày thứ ba, anh cũng không còn thấy túi thức ăn như ngày xưa đâu. Dần dần, bữa ăn gia đình của anh bảo vệ lại trở nên khó khăn khi thiếu những túi đồ ăn đó. Cuối cùng, anh nghĩ chỉ còn cách đề xuất tăng lương với bà chủ, nếu như bà không đồng ý chắc anh phải đi tìm một công việc mới có thể nuôi sống gia đình được.

Bà chủ của anh bảo vệ là một người phụ nữ có vẻ mặt phúc hậu và thánh thiện; đôi lúc, anh nghĩ thầm đúng là ông chủ chẳng xứng với bà. Khi nghe xong câu chuyện của anh, bà chủ tỏ ra rất ngạc nhiên, bởi vì trong suốt một thời gian dài, bà chưa bao giờ nghe anh phàn nàn về lương thấp hay thiếu thốn.

Thấy bà chủ như vậy, anh bảo vệ cũng không muốn giấu diếm gì; anh đem hết câu chuyện về túi thức ăn kể lại cho bà. Bằng chất giọng từ tốn và điềm tĩnh, bà chủ hỏi anh: “Từ khi nào anh không còn nhận được túi đồ ăn đó nữa?” Rất nhanh, anh bảo vệ đáp: “Dạ, từ khi ông chủ mất, thưa bà!”…

Suy nghĩ của anh ngừng lại khi thấy bà chủ đang cố che đi những giọt nước mắt. Một cảm giác day dứt cuộn lên trong anh bảo vệ, anh xin lỗi bà vì đã làm bà phải buồn lòng, anh hứa rằng sẽ tiếp tục ở lại làm việc và không đòi hỏi thêm bất cứ điều gì. Bà chủ chậm rãi bước đến gần anh bảo vệ và nói: “Tôi khóc bởi cuối cùng tôi đã tìm được anh. Tôi biết chồng tôi mỗi ngày đều mua thức ăn cho 7 người, tôi đã tìm được 6 người và cho đến hôm nay, tôi đã tìm được người thứ 7”.

Anh bảo vệ về nhà với những cảm xúc khó nói thành lời. Giờ đây, ngày ngày anh lại được nhận một túi thức ăn giống như trước, nhưng anh không phải chạy đến thùng rác bên đường nữa mà có một người đem đến tận nơi cho anh, đó chính là con trai của ông chủ. Lần nào nhận thức ăn, anh cũng “Cảm ơn” cậu ấy, nhưng cậu ấy giống y như cha mình, chưa một lần đáp lời với anh.

Có một hôm, anh cố ý nói thật to, bỗng dưng cậu chủ quay lại nói “Cảm ơn!” đáp lại. Lại một lần nữa tim anh như nghẹn lại, khi anh biết được một sự thật, cậu chủ bị bệnh nặng tai, giống y ông chủ đã quá cố của anh…

Có câu rằng: “Để hiểu được một người, cần cả một đời. Để hiểu được sự cố gắng của người đó, cần cả một quá trình”.Cuộc đời của người khác đang trải qua khó khăn và trắc trở gì; nếu chỉ dùng đôi mắt bình thường và cảm xúc cá nhân của mỗi người để nhìn, thì nhìn thế nào cũng vĩnh viễn không thấu được.

Đôi mắt có thể giúp bạn cảm nhận cuộc sống này nhiều mầu sắc đẹp đẽ hơn. Nhưng cũng đôi mắt đó với cái nhìn ích kỷ làm ta không thấy được sự khó khăn, sự đau khổ, sự mất mát… hay lòng tốt của người khác. Bởi vậy, hãy nhớ rằng đừng dùng đôi mắt để đánh giá tâm hồn hay nhân phẩm người khác, đó cũng là một nghĩa cử cao đẹp…

Nguồn : Sưu tầm

Ảnh : Minh Hoạ

“TÌNH ĐỒNG CHÍ”… !!!

“TÌNH ĐỒNG CHÍ” … !!!

Cuối năm 2020, tôi được hãng phái vào Việt Nam để khảo sát công trình Clean Up Hóa Chất phi trường Đà Nẵng. Sau một tuần công tác hoàn tất, tôi bay vào Saigon vào dịp Giáng Sinh rất nhộn nhịp vui vẻ và gặp lại các bạn thân còn ở lại sau 30 tháng 4 năm 1975. Tôi và đám bạn được ông sĩ quan công an Trưởng Phòng Hình Sự Quận “10” vốn là người thân tình với bạn tôi mời đãi một chầu nhậu tại nhà hàng Hoa Viên – Quận 1 trung tâm Saigon. Trong bữa tiệc, ông kể thuật lại câu chuyện có thật đã xảy ra và đố chúng tôi, ai có thể trả lời được đó là thứ tình gì?

Câu chuyện là: Trước 1954, ông Ba Liêm gốc Nghệ An vào miền Nam công tác gây dựng các tổ cách mạng miền Nam tại Mỏ Cày, Ba Liêm kết hôn với một thiếu nữ và khi vợ mang thai thì ông nhận được lệnh tập kết ra Bắc cho tới sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ba Liêm vào Saigon và làm Thủ Trưởng Kinh Tế Quận, ông ta phải lòng một thiếu nữ tuổi ngoài đôi mươi và lén lút tuôn hàng quốc cấm như cà phê, gạo, đường, thuốc lá … cho cô ta buôn bán lấy lời và chia chác đầy đủ cho các cán bộ trong ngành.
Sau vài năm làm ăn khấm khá, cô thiếu nữ chịu ân tình và ưng lấy Ba Liêm làm chồng tuy tuổi tác của ông đáng bậc cha chú và sinh đặng đứa con trai kháu khỉnh…
Vào dịp cuối năm, gần tết Nguyên Đán, Ba Liêm nghe lời vợ mua sắm quà cáp để cùng với vợ con lái xe “ô tô con” về thăm và ra mắt gia đình bên vợ mà từ khi lấy vợ tới bây giờ ông chỉ nghe vợ kể loáng thoáng rất ít về gia cảnh của vợ mình, chỉ còn người mẹ ở góa và vài người họ hàng đang sinh sống tại quận Mỏ Cày.

Ba Liêm đậu xe ở đầu ngõ, khệ nệ ôm xách quà cáp đi theo vợ tay đang đắt con tới căn nhà trong khu phố mới xây dựng theo qui hoạch “ấp văn hóa”. Bà mẹ vợ dáng người gầy guộc mộc mạc trong chiếc áo bà ba tuổi trạc chừng xấp xỉ với ông nhưng trông già hơn có lẽ vì kham khổ tần tảo nuôi con bấy lâu… Lần đầu tiên bà gặp lại con gái sau nhiều năm từ khi “nó” lên Saigon buôn bán làm ăn và nay đi với chồng con về sum họp và ăn tết với bà rất đỗi vui mừng…! Nhưng bà và ông con rể có chút ngờ ngợ như đã từng quen biết nhau ở đâu đó và linh cảm bất an không lành trong cuộc hội ngộ trùng phùng này! Bất chợt bà hỏi nhỏ:
-Ông … ông có phải là anh Liêm… Ba Liêm… Nguyễn Thanh Liêm trước ở Mỏ Cày này…?

Ông cố hình dung bà mẹ vợ và nửa vui mừng như gặp lại người xưa, nửa lại có gì không ổn trong linh tính mơ hồ … Ông run giọng hỏi bà:
-Huệ … em … bà là Huệ phải không …?

Bỗng bà bật tiếng khóc thống thiết bi ai … “Trời ơi… oan nghiệt… Ba Liêm ơi, con Thủy là con ông đó …”! Bà ngã quị xuống với tiếng khóc nức nở đoạn trường. Ông Ba Liêm ôm đầu, tất tả đi ra khỏi nhà như người điên loạn! Hàng xóm nghe chuyện, có người bất bình lên tiếng:” Chỉ có thứ heo chó mới lấy con gái ruột của mình làm vợ và đẻ con …”!

Ông sĩ quan Công An Hình Sự kể xong câu chuyện và hỏi tất cả mọi người trong bàn tiệc: ”Người đàn bà đó là vợ của Ba Liêm, cô con gái cũng là vợ của Ba Liêm, đứa con trai của Ba Liêm cũng là cháu ngoại của Ba Liêm… Vậy đây là loại tình gì và tôi đố các bạn trả lời cho hợp lý và chính xác”?

Không ai trong bàn tiệc trả lời được và ông ta tự kết luận:

Đó là “TÌNH ĐỒNG CHÍ” !!!

From: Anh Dang & KimBang Nguyen 

Giọt Hạnh Phúc Trong Đáy Ly! – Tràm Cà Mau

Giọt Hạnh Phúc Trong Đáy Ly! – Tràm Cà Mau

Ông già Nam chống hai cái nạng, khấp khểnh lê từng bước chậm chạp và khó khăn trên hè phố đông người tấp nập. Đầu ông nghiêng về một phía, vì cái cổ không đỡ nổi chiếc đầu hói láng bóng tóc lưa thưa. Mỗi bước đi tới là kết quả của nỗ lực cố gắng liên tục. Thế nhưng miệng ông đang huýt sáo vang vang bài hát “Cầu sông Kwai” và ánh mắt lóe sáng tia vui cười. Ông cứ kiên nhẫn ì ạch từng bước đi tới. Một người bạn cũ chận ông lại hỏi:

– ”Có chuyện gì không, mà trông có vẻ hân hoan vui thú vậy?’”

– “Có chứ! Trời đất hôm nay ươm nắng vàng tươi đẹp, không khí dịu dàng, mát mẻ ôn hòa. Được sống thêm một ngày như thế nầy, mà không hân hoan vui thú, thì có phải là phí của trời đất cho hay không?”

– ”Lãng xẹt. Thế mà tôi cứ tưởng ông trúng số độc đắc, hay vừa có tình yêu mới.”

Ông Nam cười ha hả và nói:

– “Nầy, sao anh mau quên thế? Nhớ cái thời còn đi tù cải tạo, ước mơ được một lần đi trên con đường phố, bước vài bước trên đường ngoài trại tù, như một ước mơ hoang đường trong truyện thần tiên. Bây giờ có tự do, thân thể không bị quản thúc, có no ấm, không còn đói khát thèm thuồng từng củ khoai, miếng sắn. Lại sống trong một thế giới tự do, có an toàn, sinh mạng không bị de dọa, nhân phẩm không bị chà đạp. Nghĩ đến thế thôi, cũng đã vui lắm rồi.”

Bạn ông Nam ngần ngại hỏi:

– “Thế thì hồi nầy ông hết bệnh rồi sao?”

– “Bệnh kinh niên, làm sao mà hết được? Nhưng cứ chấp nhận cái bệnh như một phần của đời sống, thì thấy dễ chịu. Dẫu cho mắt đã mờ, nhưng vẫn còn thấy được cảnh vật, sinh hoạt, tai đã lãng, nhưng vẫn còn nghe được lời nói của bà con, bạn bè, nghe được tiếng chim hót, tiếng nhạc du dương, chân què cụt, nhưng còn lê bước đi đây đi đó, và xương cốt đau đớn, nhưng còn chịu được, thì phải vui, và biết ơn trời đất, cho mình còn như hôm nay. Không nhận thức được điều nầy, là một thiếu sót lớn.”

Người bạn nhìn ông với ánh mắt thương hại nói tiếp:

– “Sao mà ông lạc quan quá đáng. Có lẽ vì ông không phải chịu những rắc rối, khó khăn, muộn phiền, khổ đau của cuộc đời đang đè nặng, nên mới lạc quan như vậy chăng?”

– “Ai mà không có những khó khăn, rắc rối, âu lo hàng ngày? Ai mà không có một niềm đau âm ỉ trong lòng. Nhưng bên cạnh những bất hạnh đó, còn có nhiều phước hạnh khác. Cứ nhìn vào bất hạnh, mà không nhìn vào phước hạnh nên mới khổ. Ông chưa nghĩ kỹ thôi, chứ tàn tật như tôi, so với nhiều người khác, thì còn được may mắn lắm lắm.

Có những người không còn thấy ánh sáng, ước mơ một phút mở mắt ra nhìn được người thân thương, có người nằm bẹp dí trên giường không di chuyển được, họ thèm một phút trên đường phố như chúng ta, có những người đang đói khát, tù tội, họ thèm được một phần ngàn cái hoàn cảnh hiện tại của chúng ta hôm nay. Mình có, có hết, mà không biết hân hoan, không biết đón nhận và cám ơn trời đất, thì có tội, và tội lớn lắm. Một ngày kia mất đi những thứ nầy, sẽ tiếc quay quắt và ân hận sao ngày xưa mình có mà không biết sung sướng.”

Ông Nam kéo bạn vào quán cà phê bên góc đường, kêu hai ly cà phê đen và nói chuyện đời. Ông bạn nói:

– “Nếu ai cũng nghĩ như ông, thì đời nầy không có đau khổ, không có muộn phiền. Ông quan niệm cái hạnh phúc giản dị quá.”

– “Đúng, hạnh phúc là cái giản dị nhất, khi nào cũng có thể tìm được, cảm được, nếu mình muốn. Ông có thấy hôm nay chúng ta được ngồi đây với nhau như thế nầy là hạnh phúc hay không? Hạnh phúc quá đi chứ. Những niềm vui nhỏ nhoi, những hạnh phúc đơn giản, gom góp lại thành ý nghĩa của cuộc sống. Chứ ông quan niệm thế nào là hạnh phúc?”

Ông bạn cười đáp:

– “Được giàu sang tột đỉnh, được danh vọng ngất trời, được quyền uy quán thế.”

– “Thế thì ông sẽ không bao giờ có được hạnh phúc cả. Giàu sang, danh vọng, quyền uy, hầu như ai cũng mong muốn. Nhưng đó là ngọn nguồn của khổ đau, của bất hạnh, cho chính người muốn có các thứ đó. Và là nguyên nhân gây tai họa cho con người chung quanh. Đó, ông thấy không, vì tham vọng mà gây ra chiến tranh, cả ông và tôi phí mất tuổi thanh xuân trong cuộc chiến triền miên, và phí cả thời sung sức trai tráng trong tù đày. Bao nhiêu người chết chóc, bao nhiêu nhà tan cửa nát, bao nhiêu người thành tàn tật như tôi.”

Hớp một ngụm cà phê, ông Nam nhìn bạn cười và nói tiếp:

– “Ông hãy nhìn thiên hạ hấp tấp, vội vã như đang chạy đuổi thời gian, những khuôn mặt căng thẳng như đang nặng ưu tư lo lắng vì cuộc sống bình thường, vì cơm áo. Uổng quá. Mọi người đáng ra phải cảm được cái sung sướng, cái hạnh phúc mà họ đang có, và có thực, và tạm quên đi những khó khăn, những bực bội, để tận hưởng cái ân sủng trời đất ban cho. Thể xác họ lành lặn, nhưng tâm thần họ có thể đang tật nguyền, vì nếu không tật nguyền, thì sao mà nét sầu muộn, lo lắng hiện rõ ra trên mặt, không che giấu được. Có phải người dân trong xứ nầy chưa chịu nhiều bất hạnh, nên chưa biết quý những hạnh phúc bình thường chăng?”

Người bạn ông Nam không muốn nghe những điều lạc quan đó, ông kiếu từ, vì còn nhiều việc phải làm, phải thanh toán gấp hôm nay.

Ngồi trong quán, ông Nam nhìn những giọt cà phê thong thả rơi, thời gian cứ lặng lẽ chuyển đi, và nắng vàng lên cao dần dần, hơi ấm hắt lên hè phố. Ông mở tờ báo, lướt qua các tin tức chính, rồi lật vào các trang trong, xem biếm họa, chuyện cười, thỉnh thoảng ngước mắt, nhìn ra hè phố, nơi có hàng trăm cái chân đang loang loáng, tất tả ngược xuôi ngang qua. Dù xương cốt đang đau nhức, và ngồi không vững trên ghế, ông Nam thật sự thấy sung sướng, thảnh thơi, nhẹ nhàng, và thấy mình đang hạnh phúc hơn nhiều người khác trên quãng phố nầy. Ông không có gì để lo lắng cả, cũng không hò hẹn ai, không có một chương trình gì quan trọng, không một việc làm cấp bách. Ông đang có hạnh phúc, cảm được hạnh phúc, thứ hạnh phúc đơn giản, nhưng tràn đầy và có thực. Ông ngửa cổ hớp ngụm cà phê, vị ngon chạy qua cổ họng, hương ngọt ngào mềm lưỡi. Mỉm cười, ông nhìn một gã thanh niên mặt mày tối sầm như mây ám ngồi bên kia, vướng vất cả một trời ưu tư, khổ sở. Tội chi mà như thế nhỉ, ông muốn nói với qua bên kia bàn cho cậu thanh niên, cái ý nghĩ của ông, mà ngại, không dám.

Khi cửa thư viện mở, ông khoan thai lê chân nạng lọc cọc bước ra khỏi quán. Cẩn thận gói cái bánh ngọt trong giấy, khi đi ngang qua một kẻ không nhà tóc tai bờm xờm, hôi hám đang ngồi ở góc đường, ông dừng lại chào hỏi, và đưa cái bánh mời ăn. Ông nói:

– “Bánh còn nóng ông bạn ơi. Hôm nay tôi mua cho ông một cái, mai mốt có tiền ông nhớ đãi tôi lại nghe!”

– “Cám ơn. Nhưng tôi cần thêm một đồng để mua ly cà phê buổi sáng”

Ông Nam lục túi, đưa cho ông già không nhà một đồng bạc nhàu nát. Ông cười thầm lão già ăn mày, là đã xơ xác đến vậy, mà còn giữ thói phong lưu. Cả hai ông đều vui cười. Làm được một việc thiện nho nhỏ trong ngày, đem lại cho ông già ăn mày lang thang một chút vui, ông Nam thấy lòng ông cũng vui hớn hở. Ông mua một chút hạnh phúc riêng cho chính ông. Mua rất rẻ. Ông nghĩ rằng, cho đôi khi còn sướng hơn nhận. Ông Nam thầm nhận thức, ông còn may mắn hơn nhiều người trong thành phố nầy.

Vào thư viện, ông ngồi xuống bên khung máy vi tính, lùng tìm sách mới, sách lạ. Với ông, tìm sách trên máy dễ dàng hơn, vì ông không cúi thấp, hoặc với lên cao được. Khi chọn được một số sách, ông ngồi nán lại đọc thoáng qua từng cuốn, chọn lọc thêm lần nữa. Sách nào đáng mượn, mới bõ công mang về nhà. Mỗi tuần ông ghé thư viện một lần mượn và trả sách, băng nhựa phim tài liệu, dĩa nhạc. Ông xem thư viện như tủ sách của nhà. Ông nghĩ rằng, đọc cho đến chết, cũng chưa hết kho sách nầy. Sách, băng nhạc, dĩa nhạc chứa đầy trong cái túi vải làm người ông càng nghiêng hơn về một phía.

Ông đi ngược lên đường số 9, nơi có nhiều tiệm tạp hóa, tiệm bán thức ăn Á Đông. Ông vào từng tiệm, thong thả nhìn và quan sát những món hàng mới, hàng cũ, và so sánh giá cả với các tiệm trong vùng. Nhiều bà nội trợ phải giật mình mỗi khi nghe ông Nam bàn chuyện giá cả, đắt rẻ của từng tiệm trong thành phố nầy. Ông mua thêm một ít trái cây, mùa nào thức đó, chỉ khi nào giá thật rẻ, ông mới ăn.

Xế trưa, ông Nam đón xe buýt đi về nhà. Khi ngang qua công viên thành phố, thấy hoa anh đào nở rộ, nắng vàng lung linh, cỏ cây xanh mướt, ông đổi ý xuống xe, vào công viên chơi. Ngồi bệt trên thảm cỏ xanh tươi mềm như nhung, trong bóng mát, dưới gốc anh đào hoa đang nở rộ ngợp trời, ông nhìn ngàn vạn cánh hồng rơi rụng như mưa hoa bay, hồng trời hồng đất. Ông nằm xuống trên tấm thảm cỏ xanh, cho hoa rơi phủ dầy người. Dễ chi có được một ngày sung sướng thảnh thơi, nhàn nhã, khoan khoái và đẹp đẽ như thế nầy? Đàn chim biển cánh trắng, bay ngang trời kêu nhau khản giọng, liệng sà xuống bên bờ hồ nước trong xanh tìm mồi. Nằm trên cỏ, ông Nam móc ổ bánh mì trong cái bị vải, xé vụn, chia cho lũ chim một phần. Đàn chim ào ào xao xác bay đến bao quanh ông đớp mồi. Ông Nam cứ nghĩ như đang sống trong truyện thần tiên của thời thơ ấu. Sung sướng xẻ chia ân điển cùng trời đất vạn vật. Ông quên mất cái nhức nhối của xương cốt kinh niên hành hạ ông, và cất tiếng hát nho nhỏ, vừa đủ cho riêng ông nghe mà không làm lũ chim sợ hãi. Nắng lăn tăn thả xuống thảm cỏ ngàn vạn vòng tròn lốm đốm lung linh. Mắt ông Nam nặng trĩu, bỗng chợp đi một giấc ngắn, rất ngắn mà vô cùng say và ngon. Gió mát dượi từ dưới lòng hồ đưa lên. Ông Nam gọi là của trời cho, phước phần của thiên nhiên ban cho trong một ngày đẹp trời. Không biết tận hưởng là phí phạm. Ông có điều kiện để tận hưởng, và biết cái hạnh phúc đơn sơ để hưởng. Nhiều người thương hại ông Nam, vì thấy ông tật nguyền, họ tưởng ông khổ sở, than thân trách phận vì thiếu may mắn, vì thiếu sức khỏe. Nhưng họ không biết ông đang thực sự cảm thấy sung sướng hơn họ. Vì ông thấy được cái hạnh phúc, cái ân huệ của trời cho. Ông biết chấp nhận cái phần không may mắn, cái sức khỏe yếu kém, như một điều không thể thay đổi được. Cứ vui, được sống thêm một ngày là vui rồi. Nhất là một ngày bình an, không đói lạnh, không bị đe dọa, không bị tù đày. Ông không sá gì cái bệnh nhức xương kinh niên, xem nó thân thiết như một phần của cuộc sống. Có than vãn, kêu ca thì cũng cứ bệnh, cứ đau, cứ nhức, mà chấp nhận và vui sống, thì thấy đời đẹp hơn, vui hơn. Vài ba người đang tập thể dục theo lối chạy bộ ngang qua, ông Nam cất tiếng chào, và họ chào lại vui vẻ. Có đủ chân mà chạy bộ cũng sướng, vui, mà thiếu chân để chạy, thì cũng khỏe, nằm phè ra đây, nhìn cái hạnh phúc của thiên hạ, và hưởng lây cái vui của người khác. Gió mát vẫn mơn man trên da thịt.

Ông Nam lững thững chống nạng ra về, đón xe buýt. Ra chưa đến trạm thì chiếc xe đã trờ tới. Ông không muốn hấp tấp, mà muốn hấp tấp cũng không được, ông khoát tay cho chiếc xe đi, vì không muốn làm phiền đám hành khách đông đảo trên xe phải chờ đợi, phải chịu cái chậm chạm lê từng bước ngắn của ông. Ngồi xuống trên ghế chờ, ông Nam lấy nón đội, và mở sách ra đọc. Đọc sách ở đây, cũng vui như ngồi trong thư viện, cũng thong thả như nằm trên giường trong nhà. Thỉnh thoảng ông ngững đầu nhìn bộ hành đi qua, nhìn nét mặt thơ ngây của các em bé đi bên mẹ, nhìn cánh tay trần gợi cảm căng tròn thịt da của cô gái đương thì. Cũng là những nét đẹp trong đời. Khi thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, trắng như cước đi qua, ông nói lớn: “Bác ơi, râu tóc bác đẹp quá, trông bác thật là tiên phong đạo cốt”. Ông cụ sung sướng cười ha hả, ghé lại ghế ngồi cùng ông Nam, hỏi han chuyện trò thân mật cho đến khi chuyến xe buýt kế đến.

Về đến nhà, đứng lại trước ngõ, ông nói qua bên kia hàng rào với bà cụ láng giềng:

– “Hoa hồng vườn cụ đua nhau nở rộ đẹp hơn cả vườn hồng công viên, ai đi ngang qua cũng khen và đứng lại ngắm nhìn. Hoa nở nhiều, chắc báo điềm lành, thế thì cụ mua vé số đi. Cụ trúng số độc đắc tôi cũng được nhờ.””

Bà cụ hả dạ, vui vẻ, cắt cho ông Nam mấy cành hoa. Ông cắm vào bình, để lên bàn tiếp khách.

Ông Nam thuê một căn phòng trong cái nhà của người quen, vợ chồng chủ nhà mở sạp hàng ở chợ trời. Họ ra đi từ khi trời đất còn tối đen, trước bốn giờ sáng, và trở về khi mặt trời vừa tắt. Đứa con gái đã lớn, đi học xa, mỗi năm về vài ba lần. Phòng ông Nam có lối đi riêng, nhưng ông thích dùng lối vào bằng cửa chính hơn, vì khỏi phải chống nạng cực khổ đi quanh. Bếp dùng chung. Ông Nam thường nói đùa với hai vợ chồng chủ nhà rằng, ông mới thực sự là chủ căn nhà, vì suốt ngày ông sống trong nhà, hưởng dụng tiện nghi nhiều hơn. Vợ chồng chủ nhà xem ông như anh em, có cái gì ngon, cũng để dành cho bác Nam. Khi ông Nam cần đi đâu, mà đường xe buýt không thuận lợi, hai vợ chồng vui vẻ chở ông đi ngay. Có ông Nam ở chung, họ cũng thấy đời sống vui hơn.

Ông Nam vào bếp, lục rau, thịt, tôm trong tủ lạnh, nấu một tô hủ tiếu lớn. Trong tô có cua, tôm, sò, cá mực, thịt, rau cải. Một tô đầy vun, có nước màu đỏ, có hành xanh, mùi thơm bốc ngát mũi. Ông vặn nhạc êm dịu, vừa ăn vừa nghe trong tiếng đàn tiếng hát nhẹ nhàng vang vang. Ông biết tận hưởng cái ngon của thức ăn, và tự làm lấy mới vừa ý. Sau bữa ăn, ông lên giường đánh một giấc ngon lành, có tiếng nhạc từ máy thâu thanh êm ái vọng vang như lời ru riêng cho ông ngủ. Thời gian vẫn êm đềm trôi đi. Ông vẫn nằm ngáy, và mỉm cười trong giấc mơ. Khi đã no giấc, ông thức dậy, với tay lấy cuốn sách trên đầu giường đọc. Ông là con mọt sách của thư viện, bao nhiêu sách mới của thư viện đều có bàn tay ông sờ mó vào. Ông Nam ít khi mua sách, vì ông cứ nghĩ rằng, hai cái thư viện gần nhà trong thành phố nầy, là các tủ sách riêng của ông. Muốn đọc khi nào cũng được, sợ không đủ thì giờ mà thôi.

Ông Nam thường tự hào là đã đi du lịch toàn thế giới, ông đi du lịch hàm thụ, qua các phim tài liệu, qua các đài du lịch trên truyền hình. Dù chỉ du lịch hàm thụ, nhưng ông còn biết nhiều, thấy rõ và thấy chi tiết hơn cả những người đi du lịch thật sự. Người ta đi cực khổ, xa xôi, tốn tiền, quay phim, lựa chọn, tìm hiểu; ông chỉ nằm nhà duỗi người ra mà hưởng cái phần công khó của kẻ đi quay phim, tìm hiểu. Ông cho là còn vui hơn được đi thật. Vừa nằm xem phim, vừa ăn bánh ngọt, uống cà phê, vừa có nhạc nhẹ nhàng văng vẳng, ông Nam thấy mình sung sướng, nhàn nhã hơn cả các bậc phú gia thế giới.

Khi mặt trời đã nghiêng bóng về phương Tây, ông dậy, vui vẻ chuẩn bị cho bữa cơm chiều. Ông hát những lời vu vơ như em bé. Buổi chiều rơi nhè nhẹ. Ông Nam thích ăn ngon và thích nấu nướng. Ông thường theo dõi, học cách nấu ăn trên đài truyền hình, và ông nấu được những món cầu kỳ, đặc biệt. Qua lời dạy của đầu bếp, ông suy nghĩ làm sao ngon thêm, cho hợp với khẩu vị của ông hơn, và ông biết chế biến theo hương vị của món ăn cho thêm đậm đà, hoàn hảo. Đã chịu tàn tật như thế nầy rồi, ông không cần kiêng cữ chi nữa. Cứ ăn ngon, cứ hưởng cái béo, bùi, ngọt, mặn, cho sướng. Không tội chi liêng cữ, sống mà thiếu vui, thiếu sướng. Cái gì cũng kiêng cữ cả, thì uổng lắm. Mà có chết thì cũng vui, vì đã đã tận hưởng cuộc đời.

Lâu lâu đi qua chợ, thấy lòng heo ngon, ông mua về, tỉ mỉ công phu cạo rửa sạch sẽ, cắt, ướp từng miếng, rồi nấu một nồi cháo lớn. Ông kêu điện thoại cho vợ chồng chủ nhà, vui vẻ bảo chiều nay đừng mua thức ăn vì đã có cháo. Ông hăng hái mời thêm vài người bạn thân thiết nữa.

Thế là chiều hôm đó, năm bảy người ngồi quanh một nồi cháo lớn, và hai dĩa lòng vun, có đủ màu sắc của tim, gan, cật, ruột, dồi trường, phổi. Một dĩa rau, hai tô nước mắm pha theo lối riêng của ông Nam. Trên bàn còn có cả chục lon bia đã ướp lạnh. Hai vợ chồng chủ nhà, ông Nam, và vài bạn bè tận hưởng cái tài nấu cháo lòng có một không hai của một tài hoa nấu ăn. Cháo của ông nấu công phu và vệ sinh. Những miếng lòng bỏ vào miệng nhai giòn tan, mà mềm, hương vị ngon ngọt đậm đà. Nước cháo thanh. Hạt gạo còn nguyên. Bà vợ chủ nhà thường khen: “Cả nước Mỹ nầy, không ai nấu cháo lòng ngon bằng cháo bác Nam, mà có lẽ cả bên Việt Nam mình nữa” Nghe vậy, ông Nam cười sung sướng, giải thích tỉ mỉ cách làm lòng, cách rửa, ướp lòng, và phải nêm nếm, canh ngọn lửa, canh thời gian nấu, không để cho chín quá, thành dai nhách, hoặc làm hạt cháo ra nhựa, mất bớt cái ngon. Nghe lời khen, ông Nam cũng thấy trong lòng vui, hăng hái, lạc quan hơn. Một buổi chiều có bạn bè chung quanh, có món ăn ngon, và mọi người vui vẻ, là đủ cho ông Nam cảm thấy hạnh phúc tràn đầy. Không cần mơ ước những thứ xa xôi chưa có. Ông biết nắm bắt lấy cái hạnh phúc ít oi, nhỏ nhất trong hiện tại, mà vui hưởng.

Trước khi đi ngủ, ông Nam nằm xem truyền hình, ông thích những chương trình du lịch, khám phá, y khoa và vạn vật thiên nhiên. Đôi lúc, nếu có phim hay, thì ông theo dõi, thưởng thức. Thường ông chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết, và để đèn sáng cho đến khuya.

Buổi sáng khi nắng vàng xuyên song, chiếu lên giường, đánh thức ông dậy. Nghe xương cốt đau nhức mà ông mừng vì biết hôm nay còn sống. Ông học được điều nầy trong một cuốn sách Mỹ. Nằm yên nghe lũ chim ríu rít kêu trên tàn cây bên hè nhà. Lòng ông cũng mở rộng theo tiếng chim ca đón bình minh. Nằm đây, ông thấy chính ông hoàn toàn tự do, thong dong, không hò hẹn chi ai, không có việc chi gấp gáp cần làm, không bổn phận, không trách nhiệm, không lo lắng gì cả. Hoàn toàn thoải mái, thong dong, tự tại. Trong lúc mọi người, ai cũng vùi mình trong cơm áo, ai cũng có nỗi khổ riêng, có mối âu lo riêng, có hoài bão, ước vọng chưa thành, mà ông thì hoàn toàn bằng lòng với cái hiện tại, sung sướng với những gì đang có, không mơ ước xa hơn, không tham vọng. Có người cho rằng ông Nam còn thoát tục hơn cả những vị cao tăng, vì những vị nầy còn ước vọng được đắc đạo, được về cõi lạc phúc, miền miên viễn. Đồng thời, họ còn có rất nhiều thứ lo lắng nực mùi trần tục, đó là cái tình trạng tài chánh của ngôi chùa đang tu, còn phải chiều chuộng nịnh nọt khách thập phương. Phần ông Nam, với cái trợ cấp tàn phế của chính phủ cho hàng tháng, ông thấy quá đủ, dư ăn dư tiêu. Lúc nào ông cũng có một số tiền mặt để dự phòng khi khẩn cấp. Ông ăn tiêu thoải mái, không hà tiện. Mỗi lần đi chợ, ông đủ sức mua những loại thịt ngon nhất, rau ráng tươi nhất, mùa nào thức đó. Ông không thích ăn những món trái mùa, vừa đắt vừa không ngon. Khi có ai mời ông một món mà ông nghĩ là không ngon, ông thường lắc đầu từ chối, và nói rằng không ăn vì sợ uổng cái miệng. Để miệng, để bụng mà ăn các thứ ngon hơn. Những khi chợ có đợt bán rẻ các loại sò, tôm hùm, cua, ông mua về, làm thức nhắm, mời một người bạn đến nhà, cụng ly, nhâm nhi, nói chuyện đời chơi. Cùng một số tiền trợ cấp đó, nhiều người than van thiếu thốn, ngặt nghèo, buồn khổ, tủi thân, thì ông Nam thấy ông phong lưu dư dả. Ông Nam thường nói: “Bao nhiêu cũng dư, mà bao nhiêu cũng thiếu. Cái dư và cái thiếu nó nằm trong tâm, chứ không phải tính trên con số. Muốn được thật nhiều, thì không bao giờ đủ. Bằng lòng với cái mình có, thì khi nào cũng dư. Nhiều tiền mà vẫn cảm thấy thiếu, tức là khổ, ít tiền mà thấy dư, thì là sướng.”

Mỗi sáng thứ Bảy, ông Nam dậy sớm, đón xe buýt ra chợ trời đi dạo chơi xem thiên hạ mua bán, và tham dự vào cái sinh hoạt hỗn độn muôn màu của thứ chợ trao đổi hàng hóa của đám dân nghèo. Vào chợ trời, ông không cần mua vé, thường thường khi đi ngang qua cổng vé, ông đưa bàn tay ra, người gác cổng vỗ mạnh vào lòng tay ông, cả hai cùng cười, và ông bước vào. Như con rùa chậm chạp nặng nề, ông đi vòng quanh các sạp bán hàng. Ông để ý nhìn những món hàng đặc biệt, và ông có đủ kinh nghiệm để đánh giá các món hàng hiếm quý, có giá, mà thiên hạ ưa chuộng. Ông mua cái đồng hồ Thụy Sĩ cũ không chạy được, chừng một hai đồng, mua món nữ trang cũ năm đồng, mua vài thứ khác nữa mà ông biết có giá, bỏ vào cái bị đeo bên hông. Khi đi ngang qua sạp của anh chàng bán và sửa chữa đồng hồ cũ, ông chìa cái đồng hồ vừa mua được ra cho xem và hỏi:

– “Sao, cái đồng hồ nầy chừng bao nhiêu thì mua được?”

Anh chàng bán và sửa đồng hồ cũ cầm nghiêng cái đồng, nheo mắt nhìn, xem xét kỹ càng, rồi nói:

– “Chừng hai chục đồng thì mua được.”

Ông Nam cười khà khà:

– “Tôi mua được với giá hai đồng thôi.”

– “Bán lại cho tôi hai chục đồng đi!”

– “Không” Ông Nam trả lời ngắn gọn.

– “Thế thì ông muốn bao nhiêu?””

– “Giá vốn, hai đồng thôi.”

Anh chàng bán đồng hồ mừng rỡ, vui vẻ, nhận cái đồng hồ, đưa bàn tay đánh vào bàn tay ông Nam một tiếng bốp, rồi móc hai đồng trả. Cả hai cùng cười vui vẻ. Ông Nam thấy trong lòng hớn hở, vui lắm, vui hơn là bán được với giá năm, bảy chục đồng. Mấy tuần sau, anh bán đồng hồ thì thầm với ông Nam rằng, cái đồng hồ đã được lau chùi sạch sẽ, chạy tốt, và đã bán được cho người quen hai trăm đồng. Người ta năn nỉ quá, nên mới bán với giá đó.

Cũng trong ngày ấy, ông Nam mang chiếc nhẫn mua được, đến cho bà người Mỹ bán nữ trang trong chợ trời, và nói đùa:

– “Tôi đem chiếc nhẫn nầy, đến xin hứa hôn với em gái bà đây!”

– “Xong rồi, em tôi sẽ nhận lời cầu hôn của anh. Anh định bán bao nhiêu đây?”

– “Năm đồng, tôi mua được bên kia với giá năm đồng. Rẻ hay đắt?”

– “Tôi trả cho anh mười đồng”

– “Không, năm đồng thôi, tôi lấy lại giá vốn. Không lấy lời.”

Bà bán nữ trang cố nài ép, nhét mười đồng vào túi áo ông Nam, ông cứ gạt đi, và nhất định bán năm đồng thôi, nếu bà không chịu thì phải trả lại chiếc nhẫn.

Ông lại khấp khểnh chống gậy đi, đến gian hàng bán đồ điện tử, dừng lại, đưa tay đánh chập vào bàn tay anh chàng Mỹ gốc Phi Châu đang bán hàng, cả hai cùng cười ha hả vui vẻ, ông hỏi:

– “Nếu có một cái hộp đổi đài, nối với máy truyền hình, bán với giá ba đồng thì anh nghĩ sao?”

– “Chớp liền ngay chứ, đâu để cho người khác mua mất!”

– “Thế thì anh xuống dưới hàng thứ ba, bên góc trái, có ông Tàu bán hàng, đội nón rộng vành mà mua. Tôi hỏi, ông ta nói không biết là cái hộp gì, đòi bán ba đồng thôi.”

– “Nầy, anh làm ơn đứng đây trông hàng cho tôi chạy xuống mua cái hộp nghe.”

Không cần chờ ông Nam chịu hay không, anh Mỹ hấp tấp chạy đi mua hàng. Khi về, anh hớn hở khoe là mua được với giá hai đồng thôi. Anh nói cho ông Nam biết là cái hộp có thể bán được năm chục đồng, rất nhiều người cần mua.

Cứ thế, ông đi quanh chợ, mách mối cho ông nầy, bà kia, để họ mua đi bán lại kiếm lời. Nhờ đó mà ông quen biết với đông đảo bạn hàng bán chợ trời. Hầu như người nào cũng có chút ân nghĩa với ông Nam. Ông đi mua niềm vui, mua hạnh phúc, mua sự tử tế, mua tình thân thiết, mà không tốn một xu nhỏ. Ông nói với một người bạn thân rằng, mình mua đi bán lại, có thể kiếm được ít chục đồng, nhưng không quý bằng cái tình mua được trong đám dân tứ xứ nầy.

Đi đến gian hàng của một ông người Mỹ già, bán đủ thứ lặt vặt. Hàng hóa đủ loại chất đầy trên tấm vải lớn trải trên sân. Ông Nam chào hỏi vui vẻ. Ông Mỹ cho biết từ lâu rồi, hàng hóa bán ế ẩm, cứ mang đi, chuyển về, tốn tiền thuê chỗ, tốn tiền xăng di chuyển, tốn thì giờ, ngồi ngáp hoài mỏi miệng, chán quá, muốn đem đống hàng nầy đổ vào thùng rác cho khỏe. Ông cười Nam hỏi:

– “Ông có muốn bán hết cái đống hàng nầy trong buổi sáng nay không?”

– “Muốn chứ! Làm cách nào? Chỉ có phép lạ mới bán hết mà thôi.”

– “Ông hãy để bảng, một đồng một món hàng, và rao lên cho thiên hạ nghe. Cứ thử xem sao.”

Sau khi thu giấu bớt mấy món hàng có giá trị cao, ông bán hàng kiếm được miếng bìa lớn, ghi một đồng mỗi món, và cùng ông Nam ngoác miệng rao inh ỏi:

– “Một đồng mỗi món hàng, một đồng thôi, rẻ lắm. Mua vô, mua vô!”

Khách chợ trời ùn ùn đổ lại, lục lọi đống hàng hóa trên sân. Ông bán hàng thu tiền không kịp, ông Nam phải phụ giúp, thu tiền những khách hàng khác. Trong vòng vài tiếng đồng hồ, đống hàng hóa trước kia chất đầy vun trên sân, bây giờ chỉ còn lưa thưa những cuốn sách, những đồ dùng rách nát, không ai muốn rước về cho thêm rác trong nhà. Ông Mỹ bán hàng chạy ra, ôm lấy ông Nam mà cười, gọi đùa ông là ông thầy. Ông bán hàng chia tiền bán được hàng hóa cho ông Nam, ông gạt đi và nói rằng:

– “Không nhận, tiền nầy là của ông. Tôi không có quyền nhận.”

– “Nhưng nếu ông không cho ý kiến, thì chắc tôi phải giữ ba cái thứ quỷ quái nầy mãi đầy trong xe. Thôi, hôm nào rảnh, tôi mời ông đi ăn nhé.”

– “Được, đi ăn cho vui thì được”

Ông Nam la cà trong chợ trời, từ gian hàng nầy qua gian hàng khác suốt buổi sáng. Nói vài câu bông đùa với người nầy, người kia. Có khi khách hàng tưởng ông là người bán, hỏi giá, ông cứ ra giá mà không cần hỏi người chủ bán hàng. Những khi bán được giá, chủ gian hàng rối rít cám ơn ông. Có khi gặp người quen đi mua hàng, chủ gian hàng bảo rằng: “Người nhà ông Sam thì chỉ bán nửa giá thôi”. Ông Nam tự đặt cho ông cái tên Mỹ là Sam, chú Sam, cho thiên hạ dễ nhớ. Từ lâu, ông Nam thành một người khách hàng đặc biệt của khu chợ trời nầy, những người bán hàng, xem ông như một người bạn vui vẻ, thân thiết và có nhiều tình nghĩa. Có khi ông mua hàng, người bán không nhận tiền, bảo rằng, nếu mua cho chính ông, thì họ biếu, mà mua cho người khác, thì họ chỉ lấy đúng giá, khỏi mặc cả.

Ông Nam đến Mỹ theo diện tù binh chính trị tị nạn. Được trợ cấp tàn phế ngay từ đầu, nhiều người khuyên ông nên ở nhà, nghỉ ngơi cho khỏe, nhưng ông vẫn ghi danh theo học khóa huấn nghệ sử dụng máy vi tính. Thấy ông đi học, có người nhìn ông với ánh mắt thương hại, họ nghĩ là ông phí công, phí sức vì tuổi đã cao, thân thể lại tàn tật, học để làm chi. Sau khi tốt nghiệp, ông nộp đơn xin việc nhiều nơi mà không hy vọng, nhưng cứ gởi đơn đi. Có vài nơi kêu ông đi phỏng vấn, họ thấy tình trạng tàn tật của ông, cứ tìm cách từ chối khéo. Người ta bảo là luật lệ xứ nầy, chủ nhân không được kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, tuổi tác, tàn tật. Ông cứ gắng tin như vậy để mà hy vọng. Trong một lần được phỏng vấn để xin việc, ông nói:

– “Nếu quý ông tìm một người lao động có sức lực, thì đừng thuê tôi. Nhưng nếu quý ông tìm người ngồi bên máy vi tính, thì tôi là người đáng được lựa chọn. Sao các ông không thử tôi đi. Nếu tôi không làm được như các ông mong muốn, thì cứ cho nghỉ việc. Hãy cho tôi một cơ hội. Tôi nghĩ, tôi sẽ đem lại lợi lộc cho công ty quý ông bằng khả năng làm việc của tôi.”

Nhờ nói vậy mà ông được tuyển dụng. Ông đã không làm phụ lòng người tuyển ông. Họ rất bằng lòng với lối làm việc chăm chỉ, cẩn thận và chịu khó tìm hiểu, học hỏi thêm trong nghề của ông. Làm việc chưa được hai năm, thì công ty phá sản, ông bị thất nghiệp. Ông vẫn tin tưởng, còn có thể kiếm ra công việc khác, nhưng ông vẫn chưa tìm được một cơ hội may mắn khác.

Từ nhiều năm trước, vì một chuyện xích mích nhỏ, bà vợ đã bỏ ông ra đi. Ông nghĩ rằng, khi hết giận bà sẽ quay về. Ông tìm bà để hàn gắn, nhưng bà nhất quyết không chịu. Ông chợt nhận ra rằng, nguyên nhân gia đình gãy đổ không phải vì chuyện nhỏ kia, mà đó chỉ là giọt nước cuối cùng làm tràn ly. Bà đã chịu đựng, đã cực khổ vì ông quá lâu, quá nhiều, vì cơ thể tàn tật, vì tài chánh yếu kém, và tương lai khó khăn trước mắt. Ông hiểu, phải có thứ tình yêu thâm đậm nào đó, mới đủ hy sinh cho nhau, đồng cam chịu khổ khi hoạn nạn. Ông không buồn giận bà, ông cũng không buồn tình đời, cũng không đau đớn vật vã than van. Mỗi khi nghĩ đến vợ, ông ôm đàn gảy tưng tưng mà hát, lời hát ông tự đặt:

– “Lầm to. Em tưởng ta nghèo. Bỏ đi như ngọn gió vèo thu bay. Trong ta châu báu chất đầy. Kho tàng hạnh phúc, tháng ngày thư an…”

Nhờ nghe lời khuyên của một người bạn, rằng sau khi gia đình đổ vỡ, phải biết vui vẻ làm lại cuộc đời mới, đẹp hơn, tươi vui hơn, và hạnh phúc hơn cuộc đời cũ, không tội chi mà buồn phiền và làm hư hỏng những tháng ngày còn lại. Ông đứng dậy, mạnh dạn làm lại cuộc đời, làm cho mỗi ngày sống có chan hòa niềm vui, có thanh thản trong tâm hồn, tạo niềm vui cho chính mình, cho người chung quanh.

Mỗi tuần, ông vào viện dưỡng lão thăm viếng, chuyện trò với những người già cả, bệnh hoạn không có thân nhân, hoặc thân nhân quá bận rộn cơm áo, không có thì giờ lui tới. Ông thường đem báo, sách cho họ mượn, tặng các cụ già một món quà nhỏ đẹp, lạ, dễ thương, mua mấy chục xu ngoài chợ trời. Thế là các cụ hớn hở, vui sướng suốt ngày. Hoặc ngồi nghe các cụ kể chuyện quá khứ huy hoàng. Mỗi khi ông ghé viện dưỡng lão, mấy cụ quen ông lao xao kêu gọi, chào đón niềm nở. Lòng ông hân hoan, biết mình còn đem lại chút vui nhỏ nhoi cho các cụ cô đơn nầy. Ông thấy rõ, trong tương lai, chính ông cũng sẽ vào sống ở nhưng nơi tương tự như thế nầy.

Nhiều đêm thức giấc, quàng tay qua không có vợ nằm bên, ông giật mình, lòng chợt nhói đau. Nhưng rất mau sau đó, ông lại cám ơn bà đã bỏ ông ra đi, nhờ bà bỏ đi, ông mới có được cái an nhiên tự tại, cái sung sướng nhàn nhã và thong dong như bây giờ. Nhiều bạn bè đã ví ông với một ông tiên nho nhỏ. Nếu còn bà, thì bây giờ, dù có tàn tật, bệnh hoạn, khó khăn, ông cũng phải đi làm, vì là bổn phận, để nuôi dưỡng cái hạnh phúc mong manh của gia đình. Ông ý thức rằng, trong cái mất, cũng có cái được. Trong cái rủi có cái may. Chấp nhận cái không thể thay đổi được trong đời. Những lúc nầy, lòng ông vui sướng, mỉm cười và ngủ lại trong giấc an bình. Ông lầm bầm hát, không biết hát thật hay hát trong giấc mơ: “Lầm to. Em tưởng ta nghèo. Bỏ đi như ngọn gió vèo thu bay. Trong ta châu báu chất đầy. Kho tàng hạnh phúc, tháng ngày thư an…”.

Tràm Cà Mau

NGƯỜI BẠN CỦA CHA – VietBF

NGƯỜI BẠN CỦA CHA – VietBF

Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg.

Cũng như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh ! Mỗi lần muốn gọi, chỉ cần: “Êu, Êu” là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương !

Thường ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.

Từ ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó.. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.

Một hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no.

Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. “Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi ?” – Mẹ tôi bảo thế.

Có một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người ? Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín.

Cho đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui ra ! Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng !…

Người ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt… Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy ? Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi ! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng….

Đêm hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm…

Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa.. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm ? Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò ?

Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở về ! Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau.

Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn.

Lạ lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại… Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.

Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.

Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà !

Khoảng chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay.

Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.

Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi.

Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương sống ! Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân nhão !

Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm.

Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.

Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào.

Cả xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời ! Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con người !

Khoảng hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.

Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm !.

Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn ! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời ! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa.

Không mấy ai để ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt.
Nó ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà ?

Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm…

Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về ?

Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt lợn luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.

Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.

Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình: Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt…

Chúng tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi… Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi: Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người…

VietBF@sưu tập