Cuối tuần, con trai cả tạt qua biếu mẹ hộp sữa. Mẹ đang hỏi:
“Sữa gì đó…, mẹ uống được không, đó có mắc lắm không con…?”
Chưa nghe rõ lời mẹ đang hỏi chưa dứt câu, con trai đã lao ra xe:
“Thôi thôi… con bận lắm, con đi đây, mẹ cứ uống đi…, sữa tốt đó!”
Giữa tuần, con gái ghé, cô thảy cho mẹ ký táo Mỹ, vừa vào nhà đã quát ầm ĩ: “Mẹ ơi… sao mẹ bầy hầy vầy, lần nào còn đến cũng phải dọn.”
Mẹ nói: “Mẹ muốn mua cái ấm nước siêu tốc mới vì cái ấm này mua lâu rồi, giờ đã cũ lắm”
Con gái lại lớn tiếng: “Mẹ lại lẫn nữa rồi. Ai bảo mẹ cái ấm này mua lâu rồi.” Mẹ im bặt, nhìn con gái dọn dẹp mà thái độ có vẻ càu nhàu, hành động không được nhẹ nhàng. Mẹ lại rụt rè bảo: “Cái ấm nó cũ…” Con gái đùng đằng tiếp: “Thôi, mẹ già yếu mẹ ngồi yên cho con nhờ, có mua ấm mẹ cũng đâu có dùng.”
Nói đoạn con gái đi ra xe, còn lầm bầm: “Người ta đã bận còn nhì nhằng phát mệt…!”.
Có lần mẹ già buột miệng: “Nhà này mẹ thương nhất thằng Út, mẹ mong gặp thằng Út nhất.” Các con hậm hực bảo: “Mẹ cưng thằng Út nhất, muốn gặp nó nhất là đúng rồi. Nó không cho mẹ được đồng nào bánh nào, vậy mà mẹ vẫn thích và thương nó nhất…!”
Nhưng các con của mẹ không hiểu lòng mẹ…, bởi mẹ già thích gặp Út nhất là vì mỗi lần Út đến thăm mẹ, tay chẳng mang gì làm quà nhưng nó luôn thân yêu bóp vai mẹ, kể cho mẹ nghe chuyện của nó, hỏi thăm bao điều về mẹ về các anh chị, nó luôn sà xuống cạnh bên mẹ, vui vẻ bảo: “Mẹ có chuyện gì vui kể con nghe đi…!” Vậy là mẹ ngồi kể liên tu bất tận chuyện xưa chuyện nay, chuyện nọ rồi chuyện kia, vừa kể xong, mẹ quên rồi kể lại… Út chỉ ngồi chăm chú nghe, thỉnh thoảng ghẹo: “Ơ, chuyện này mẹ vừa kể rồi, mẹ kể chuyện khác đi…” Anh vẫn ngồi vài iếng đồng hồ nghe mẹ kể chuyện, gật gù và mỉm cười. Mẹ kể chuyện đến mệt, rồi anh mới xin phép ra về…
Quà của con cả, con gái chất đống mẹ chẳng dùng vì tuổi già sức yếu đâu ăn uống được gì nhiều. Mẹ cũng không dám nhiều lời vì sợ con bảo là mẹ đã lẫn…, quên trước quên sau…
Mẹ chỉ thích gặp Út…, nó vì món quà quý nhất của mẹ lúc này vì có một người thân chịu ngồi lắng nghe và trò chuyện với mình…!
Rất nhiều quãng thời gian còn lại, khi vắng các con, mẹ chỉ biết ngồi nhìn bức tường trắng lặng câm. Vì chị giúp việc cũng uể oải với cái lẫn khi tuổi tác của mẹ đã cao, mỗi khi nghe mẹ cất tiếng…, là cô ấy bỏ đi mất….
Đôi lúc mẹ buồn… mẹ nhớ các con, mẹ nhớ chuyện xưa…, rồi mẹ lẩm bẩm nói chuyện một mình như đang nói cho chính mẹ nghe…!
Quà cho người già, không gì quý giá hơn là ân cần chia sẻ, chịu ngồi xuống trò chuyện và lắng nghe của từng đứa con mà mẹ đã sinh ra, đã cưu mang, dạy dỗ nuôi nấng cho đến ngày khôn lớn…!
‘Ngày xưa’ ở đây là thời tôi còn nhỏ – những năm 1935/40 – Tôi muốn kể lại một cái đám cưới ở quê tôi thời đó, để thấy hình ảnh thật thà dễ thương của Việt Nam hồi chưa bị… ô nhiễm chất ngoại lai!
Bên đàng trai là ông Cả làng Bình Trước. Vì ổng thứ bảy nên thiên hạ gọi là ông Cả Bảy để tránh kêu tên. Làng này nằm cách tỉnh lỵ mười lăm cây số. Bên đàng gái là ông Cả làng Thới An nằm ngay trong thị xã. Người ta gọi ổng là ông Cả Dừa, vì ổng có vựa buôn bán dừa khá lớn trong vùng. Cũng là ‘Ông Cả’ hết, nhưng ông Cả Thới An vẫn oai hơn ông Cả Bình Trước nhờ dựa hơi vào ‘tòa tỉnh’, còn ông Cả Bình Trước dầu không có tiếng nhưng lại có miếng nhờ ruộng vườn màu mỡ minh mông trải dài. Như vậy cũng ‘môn đăng hộ đối’!
Chú rể là con trai thứ nhì của ông Cả Bảy. Cậu nầy – người nhà gọi là Cậu Ba – học hết Lớp Nhứt rồi ở nhà làm ruộng. Cô dâu là con gái út của ông Cả Dừa, sau Tiểu Học có đi Sài Gòn học hai năm Trung Học rồi về phụ người chị Hai bán vải trong chợ nhà lồng thị xã.
Ông mai là thầy giáo Kiến, nhờ là bà con của hai bên nên mọi sự đều được dễ dàng… Tuy vậy, ổng cũng gặp chút khó khăn khi tính chuyện đám cưới! Nguyên do là ông Cả Dừa đòi đàng trai đến rước dâu ‘bằng một con heo đứng’ – nghĩa là heo sống – Nghe như vậy, ông Cả Bảy nói: “Cũng đúng chớ! Tập tục ông bà để lại làm sao thì mình cứ làm theo y chang như vậy mới là phải đạo!”
Vậy là ổng ra lịnh cho người nhà đạp xe vô xóm truyền rao kiếm heo. Mà phải ‘heo lang’ – nghĩa là heo trắng – cỡ trộng trộng ‘kẻo không người ta cười mình.’ Nghe tin, mấy chủ heo đem heo tới nhà cho ông Cả lựa. Người ở gần thì cột một chân con heo, dẫn bộ đi ụt ịt. Người ở xa thì cột chùm bốn chân con heo rồi để lên bọt-ba-ga xe đạp chở đi. Sân nhà ông Cả coi giống như chợ heo với heo đứng heo nằm kêu la eng éc!
Chọn được con heo vừa ý, ông Cả giao trách nhiệm giữ heo cho thằng Đực là cháu kêu ổng bằng chú, ổng nuôi trong nhà từ nhỏ. Ông Cả giải nghĩa: “Mầy lanh lợi nên tao giao con heo cho mầy chăm sóc. Từ đây đến ngày rước dâu, mầy phải kè theo nó, nuôi vỗ cho nó tươi tắn mạnh dạn, bởi vì nó là lễ vật dẫn đường đám rước dâu, mầy hiểu hôn?” Sau đó, thằng Đực đạp xe xuống trại hòm mời bác Ba thợ mộc chở thùng đồ nghề lên đóng cái cũi để ngày rước dâu khiêng con heo. Mặc dầu bác Ba chuyên đóng hòm nhưng nhờ khéo tay và ‘có con mắt’ nên bác đóng cái cũi có song bằng gỗ tạp coi cũng đặng và khi đẩy con heo vô đứng thử thấy cũng rộng rãi thoải mái.
Sáng sớm ngày rước dâu, thằng Đực tắm rửa con heo sạch sẽ, vừa lau khô ráo thì thầy Chơn – đệ tử thầy Năm Vàng dưới chùa – cũng vừa đạp xe đến, theo lời nhắn của ông Cả, mang theo cái mộc gỗ có chữ ‘Song Hỉ’ to bằng bàn tay và hộp son tàu. Chắc thầy đã quen làm vụ này nên chỉ một thoáng là thầy đã đóng xong mấy dấu đỏ lên mình con heo lang. Trước khi trở về chùa, thầy dặn: “Đừng cho con heo nằm. Cứ giữ cho nó đứng chừng nửa giờ là son khô hè!” Một lúc sau, thằng Đực lùa heo vô cũi, đóng sập cửa rồi cột lại bằng sợi kẽm nhỏ. Xong, nó đi thay quần áo: quần trắng, khăn đóng áo dài đen chỉnh tề, bởi vì nó sẽ phụ chú Tư Bộn – người gia nhân tin cẩn của ông Cả – khiêng con heo đi đầu đám rước dâu!
Đám rước dâu đi bằng xe ngựa (hồi thời đó xe hơi rất hiếm). Cứ bốn người là chung một cỗ xe, đàn ông theo đàn ông, đàn bà theo đàn bà. Chỉ có chú rể là ngồi riêng một xe với khai trầu rượu và mấy mâm lễ vật. Đặc biệt, xe chú rể được kết bông hoa có tua có tụi bằng vải đỏ và bằng bông hoa tươi! Và đặc biệt là con ngựa nào cũng mang đầy lục lạc trên đầu trên cổ và ở đỉnh đầu có một chùm lông chim màu sắc hực hỡ. Thành ra, khi ngựa lúc lắc đầu thì lục lạc khua leng keng và khi ngựa chạy thì lục lạc kêu rổn rẻng nghe rất vui tai hào hứng!
Giờ rước dâu được ấn định là đúng Ngọ nên ông Cả Bảy đã canh giờ để đoàn rước dâu có đủ thời gian đi hết mười lăm cây số là đến cách nhà đàng gái độ hai mươi thước ngừng lại cho bà con bước xuống xe sửa soạn.
Ngưới lớn trẻ con mấy nhà nằm dọc theo đường chỗ đoàn xe ngựa đậu, kéo nhau ra đứng coi, chỉ trỏ. Thấy chộn rộn, mấy con chó cũng chạy ra đường thi nhau sủa rân!
Trong lúc ông Cả và ông mai lăng xăng sắp xếp ai đứng sau ai đứng trước, thằng Đực và chú Tư Bộn đã khiêng cái cũi con heo đặt xuống đường, chờ. Đằng nhà đàng gái có mấy người chạy ra nhìn rồi chạy vô, sau đó một người chạy ra châm điếu thuốc đốt dây pháo treo trên cành vú sữa gie ra ngoài đường. Pháo nổ điếc tai. Bầy chó hè nhau sủa mấy tiếng rồi cụp đuôi chạy trốn! Con heo hết hồn, vừa kêu eng éc vừa nhảy lồng lộn làm bể tung cái cũi. Nó phóng ra, chui ngang hàng rào bông bụp nhà bên cạnh, chạy tuốt vô phía sau. Thằng Đực và chú Tư Bộn la chói lói: “Con heo sẩy! Con heo sẩy!” Mọi người nhốn nháo, cũng la theo inh ỏi! Mấy người đàn bà hết hồn vội vã trèo lên xe ngồi lại như hồi mới tới! Mấy người đang đứng coi trước nhà cũng chạy vào rượt theo con heo. Đàn ông trong đám rước dâu đều chạy ùa vô, vừa chạy vừa cột hai vạt áo dài lại cho khỏi bị vướng víu. Nghe vẳng ra từ phía vườn cây sau nhà ‘Nó đây! Nó đây nè!’… ‘Nó chạy qua sàn nước!’… ‘Nó kia kìa!’… ‘Chụp! Chụp!’… ‘Nó đó! Nó đó!’… Mấy con chó trong nhà chắc cũng rượt theo nên nghe sủa rân. Rồi chắc có con chó bị ai đạp hay bị heo lấy mũi húc nên nghe kêu ẳng ẳng. Lại nghe ‘Coi chừng nó chui qua nhà thầy Năm. Chận cái lỗ hàng rào lại! Chận lại!’… ‘Rồi! Rồi! Xáp vô! Xáp vô!’… Sau đó, chỉ còn nghe có tiếng con heo kêu eng éc như bị thọc huyết! Chó cũng thôi sủa, người cũng thôi la. Một lát, thấy thằng Đực và chú Tư Bộn khiêng tòn ten con heo nằm ngửa bằng một đòn tre xỏ giữa bốn chân heo cột thành một chùm! Đi theo sau là những người trong đám rước dâu, người nào người nấy quần áo xốc xếch lấm lem son đỏ và bùn đất!
Ông Cả và ông mai soát lại tình hình để ‘tính tới’ thì thấy thiếu mất chàng rể! Mọi người hết hồn! Lại chạy trở vô khu vườn rượt heo hồi nãy, vừa chạy vừa gọi lớn ‘Cậu Ba ơi! Cậu Ba!’ Vườn cây trái nầy khá rộng nên nghe tiếng gọi túa ra nhiều chỗ. Bỗng nghe ‘Tui đây! Tui đây!’, rồi có người hỏi ‘Lạm gì trỏng vậy?’… ‘Tui kiếm cái khăn đóng’… ‘Kiếm ra chưa?’… ‘Chưa!’ Im lặng một lúc, rồi nghe ‘Đây nè!’… ‘Đâu vậy?’… ‘Trên nhánh cây mận nè!’… ‘Thôi! Đi ra! Lẹ đi! Kẻo Cả đợi!’
Thấy đám rước dâu ‘tả tơi’ quá nên bà già chủ nhà mời hết vô nhà ‘uống miếng nước’ và để lau chùi quần áo mặt mày. Thằng Đực và chú Tư Bộn thì khiêng con heo trở vô tắm rửa cho nó bên cái giếng nằm phía sau hè. Họ cũng không quên cho con heo uống nước bằng cái chậu sành để gần miệng giếng. Trong khi đó, ông Cả nhờ bà chủ nhà cho người gọi ông thợ mộc hàng xóm qua sửa lại cái cũi, cũng may chỉ sút đinh sơ sơ thôi!
Xong xuôi, ông Cả mới hỏi bà chủ nhà: “Thím có biết ai ở gần đây có con dấu Song Hỉ để đóng son tàu lên con heo không?” Bà già trả lời: “Dạ! Để tôi biểu thằng nhỏ ở nhà đạp xe qua chùa thỉnh thầy Ba qua làm vụ nầy cho!”
Vậy là độ nửa giờ sau, con heo lang mang dấu đỏ đứng yên ổn trong cũi và đám rước dâu sắp xếp hàng ngủ chỉnh tề đợi ông mai đi ‘đánh tiếng’ cho đàng gái. Một lúc lâu thấy ổng trở lại mặt mày tiu nghỉu: “Họ nói quá giờ rồi, họ không tiếp!” Mọi người đều lắc đẩu kêu Trời, chắc lưỡi liên hồi rồi bàn tán góp ý ồn ào. Ông Cả đá vô cái cũi làm con heo giật mình rống lên eng éc. Ổng hét: “Thôi! Im hết! Đi dìa!” Một con chó đứng gần đó bỗng sủa mấy tiếng làm ông Cả nổi sùng, quay qua đá nó một cái làm nó kêu ẳng ẳng cúp đuôi chạy thẳng vô nhà! Mọi người đều im re, kẻ trước người sau leo lên xe. Mấy anh đánh xe dẫn ngựa quay đầu lại. Cử động của mấy con ngựa làm lục lạc khua vang. Ông Cả lại hét lớn: “Mẹ bà nó! Tụi bây lột hết lục lạc cho tao! Vui vẻ gì nữa mà nhã nhạc rùm trời!” Từ đây về Bình Trước, chỉ còn nghe tiếng móng ngựa gõ lóc cóc khô khan trên mặt đường nhựa …
Vài ngày sau, ông mai chạy đi chạy về để dàn xếp hai bên. Cuối cùng rồi cũng êm thấm: lễ rước dâu được ấn định lại vào ngày Mười Sáu âm lịch tháng tới, nhưng lần nầy đàng gái không đòi ‘heo đứng’ mà chỉ xin ‘một con heo quay’, bởi vì ông Cả Dừa nhứt định phải có đốt pháo để ổng ăn mừng ngày vu qui của cô con gái út!
Đang đứng ở hành lang hút thuốc thì anh sững sờ khi thấy cô đi tới. Mười năm rồi, họ chia tay nhau đúng 10 năm. Ngày còn là sinh viên, cô nhỏ nhắn, gày gò, thiếu sức sống. Còn bây giờ trước mặt anh là một thiếu phụ xinh đẹp, đầy đặn, mặn mà, duyên dáng. Anh không ngờ gặp lại cô ở cái nơi miền Trung xa xôi này. Hoá ra anh và cô cùng đi công tác, và như một trò đùa của số phận, lại ở cùng một khách sạn, cùng tầng luôn.
Họ yêu thích nhau khi cùng tham gia vào chương trình Mùa hè xanh do Đoàn trường tổ chức vào năm thứ ba. Đến năm thứ tư khi tốt nghiệp, cô phải về quê vì mẹ cô bệnh nặng, gia cảnh nhà cô đơn chiếc. Xa mặt cách lòng và có lẽ tình yêu chưa đủ lớn nên họ chia tay nhau êm đềm.
Sau 10 năm gặp lại, anh giờ có một công ty nhỏ, một vợ hai con. Cô lấy một người chồng khá giả, yêu chiều vợ rất mực, không tiếc tiền cho vợ đi chăm sóc sắc đẹp. Cô cũng có một cô con gái đang học lớp một.
Họ rủ nhau xuống quầy bar của khách sạn ngồi ôn lại chuyện cũ. Ly này nối tiếp ly kia và kết cục là sáng hôm sau họ mở mắt ra thì thấy đang nằm bên nhau.
Ngày ấy! khi chia tay nhau (trước đây 10 năm) thì giữa họ cũng mới chỉ có là những cái ôm, những nụ hôn nồng thắm. Còn đêm qua họ quấn vào nhau không ngừng. Mấy ngày ở thành phố biển xinh đẹp trôi qua như cơn gió. Ngoài lúc đi làm việc, còn lại họ hối hả trở về phòng thỏa sức âu yếm nhau. Cả hai đều thấy nuối tiếc đã bỏ lỡ nhau. Anh giờ không còn là chàng trai ngô nghê ngày nào, mà thấm đẫm hương vị của người đàn ông thành đạt. Cô cuồng nhiệt say mê bên anh mỗi đêm…Trước khi chia tay họ đều thống nhất sẽ về nói thật với gia đình của mình để có thể đến được với nhau đàng hoàng, chính đáng.
Xuống xe taxi, vừa đi về lối rẽ vào chung cư, anh nghe thấy tiếng reo lớn
– A! ba đã về
Rồi con gái út lao đến ôm chặt lấy anh. Con trai đầu mới 8 tuổi nhưng rất chững chạc cầm dây xích chó đứng bên cạnh cười rõ tươi. Con Ki nhảy chồm lên rên rỉ liếm tay anh. Rồi 3 người một chó hân hoan dắt nhau lên nhà. Bước chân vào cửa là mùi thức ăn ngon lành bao phủ kín phòng. Vợ anh, người phụ nữ rất hiền lành, nhẹ nhàng, đảm đang quay ra cười dịu dàng, trìu mến.
– Anh tắm rửa đi, rồi ra ăn cơm cho nóng.
Ăn xong như mọi ngày, anh lại ra ngồi bên hồ cá để hút thuốc và suy ngẫm. Đây mới là cuộc sống của anh, vợ con của anh. Bây giờ anh nói gì với vợ đây? Nói là anh đã gặp người yêu cũ và muốn quay lại với cô ấy. Vợ anh đâu có tội tình gì mà anh phải đâm cho cô ấy một nhát dao chí mạng vậy! Bạn bè ai cũng nói vợ anh là típ phụ nữ vượng phu, ích tử. Ai lấy được cô ấy có phúc lắm. Có lẽ 9 năm vợ chồng với bao lo toan, gánh vác đã làm cho cuộc sống vợ chồng của họ trở thành nhàm chán, nên anh mới đắm đuối bên người yêu cũ.
Anh cứ lửng lơ như vậy mất mấy ngày, vì khi chia tay anh hứa về nhà sẽ nói chuyện với vợ và gọi cho cô, nhưng cứ nhìn đến điện thoại là anh lại cảm thấy khó chịu như người vướng phải nợ tình khó gỡ ra được.
Chiều nay về đến khu chung cư anh ở, thấy xe hú còi inh ỏi, người đông nghìn nghịt. Anh xuống kính xe hỏi thăm người qua đường.
– Có chuyện gì vậy hả anh ?
– Cháy ở trên chung cư ấy!
Ngay lập tức anh rút điện thoại ra gọi cho vợ, không thấy nhấc máy, gọi lại vẫn không ai nhấc máy… Anh sợ quá xuống xe chạy bộ, gạt đám đông ra và nhìn thấy tầng nhà anh đang cháy. Cư dân đang chạy túa xuống, cảnh tượng rất hỗn loạn. Anh gạt tay mấy anh dân phòng để chạy lên. Họ giữ cứng anh lại.
– Yêu cầu anh ở yên dưới này cho cảnh sát phòng cháy chữa cháy làm việc.
– Anh thở hổn hển nước mắt trào ra
– Trời ơi! để cho tôi lên, vợ con tôi đang ở trên đấy. Cảm giác đau đớn nghẹt thở bóp chặt trái tim anh. Anh vô cùng sợ hãi khi nghĩ đến những tình huống xấu sẽ xảy ra, rồi mất đi những người thân yêu nhất… Đang giằng co chợt anh nghe tiếng con gái anh gọi
– Ba ơi! Ba ơi! Ba…
Anh quay lại, như người vừa chết đi sống lại lao tới ôm chặt vợ con. Vợ anh nói
– Em và Ti đưa Bi đi học thêm rồi cho Ki đi dạo, về thấy nhà cháy sợ hết hồn. Điện thoại di động hết pin em đang sạc ở trên nhà nên không gọi cho anh được.
Anh lẩm bẩm như người mộng du
– May quá, cả nhà bình yên là anh mừng lắm rồi.
Những ngày tiếp theo đó, cả nhà vô cùng bận rộn. Cháy căn hộ kế bên nhưng nhà anh đồ đạc cũng bị hư hỏng, tường bị ám khói rộp hết. Anh luôn chân luôn tay sửa chữa nhà cửa và vô cùng cảm tạ ông trời đã phù hộ gia đình anh. Và cũng trải qua cảm giác tưởng chừng mất đi tất cả người thân, anh mới thấy trân quý gia đình bé nhỏ của mình.
Nhiều lúc anh cũng không hiểu nổi tại sao mình lại bốc đồng như thế trong những đêm ở khách sạn. Lúc ấy anh như là cậu thanh niên mới lớn, có thể đi cùng trời cuối đất với người mình thương. Giờ đây, điều mà anh lo sợ nhất là cô sẽ nói với chồng cô về anh, rồi đề nghị li dị. Rồi gia đình cô sẽ ra sao? Tưởng tượng cảnh chồng cô sẽ gặp vợ anh mà anh lạnh hết cả người. Anh cảm giác, đám cháy như một điềm cảnh báo đối với anh. Nếu anh tiếp tục dấn sâu vào cuộc tình này, anh sẽ mất tất cả.
Anh thất thần, sa sút thấy rõ. Mấy đêm hôm trước vợ anh khẽ hỏi:
– Anh à! có chuyện gì xảy ra với anh vậy? Từ lúc anh đi công tác về em thấy anh bồn chồn, lo lắng, xuống sắc quá!
Anh giật mình
– Không có sao đâu em, công việc nhiều quá. Anh thấy ở chung cư cũng nguy hiểm nên đang cố gắng dồn tiền để đổi xuống đất em à!
Chiều nay đang tiếp đối tác thì anh có điện thoại. Là cô. Tròn một tháng cô mới gọi. Anh xin phép ra ngoài nghe điện thoại. Giọng cô gấp gáp
– Anh à! từ hôm về em bận quá. Con gái em bị sốt dịch phải đi cấp cứu. Hai vợ chồng em mệt rã rời. Anh ơi chồng em tốt lắm. Em vẫn luôn yêu anh, nhưng tốt nhất mình đừng liên lạc nhau nữa nhé!
– Anh hiểu.
Anh trả lời giọng nhẹ tênh rồi dứt khoát nhấn nút chặn số máy của cô.
Đây là một câu chuyện có thật xảy ra ở Hoa Kỳ. Câu chuyện được lan truyền trên Internet này nói với mọi người rằng: Thiên lý thiện ác hữu báo đối với bất cứ ai đều có tác dụng, thuận theo thiên lý chính là phúc báo. Dưới đây là câu chuyện của Seine Marne.
Đó là một buổi tối đầu xuân tháng hai, trên trời có chút mưa tuyết lất phất, Seine Marne đang lái chiếc xe Ford từ Portland đến Sheridan để ký hợp đồng đặt hàng. Hợp đồng này rất quan trọng, nó gần như quyết định số phận của công ty ông, là kết quả của hơn ba tháng đàm phán gian khổ.
Seine Marne vô cùng vui vẻ, ngâm nga một giai điệu trên suốt quãng đường. Trên đường không có nhiều xe, đèn xanh nên ông lái xe rất nhanh. Khi đến nơi hẹn, lúc dừng xe, ông dường như nhìn thấy điều gì đó qua ánh đèn? Seine Mane cúi xuống nhìn kỹ hơn và phát hiện có gì đó kỳ lạ ở bánh trước bên phải. Khi đến gần, ông ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc. Khi ông chạm vào nó, nó thực sự là máu! Seine Marne giật mình, đột nhiên trở nên căng thẳng, chẳng lẽ ông đã tông vào ai đó khi đang lái xe với tốc độ cao? Ông cố gắng nhớ lại nhưng dường như không có ấn tượng gì về việc chiếc xe tông vào vật thể nào. Nhưng vết máu trên bánh xe là có thật!
Nhưng Seine Marne, giữa sự giàu có sắp đến gần và vụ tai nạn xe hơi, ông gần như không hề do dự, nếu không nhanh chóng quay ngược lại để tìm người có thể đã bị mình làm bị thương thì hậu quả sẽ khủng khiếp biết bao! Có lẽ mạng sống của họ còn có thể cứu được? Dựa theo lương tâm của mình, ông lập tức lên xe, nổ máy, quay đầu xe và quan sát kỹ con đường mình đã đi.
Lúc này, đối tác kinh doanh đang chờ ký hợp đồng đã gọi điện hỏi ông tại sao không để ý đến thời gian? Họ thúc giục ông nhanh lên! Seine Marne giải thích rằng ông ấy đang vội và sẽ đến đó ngay, đồng thời cầu xin sự tha thứ của họ. Đối tác kinh doanh đang đợi ở đó rất tức giận và hét lên: “Cút đi, đồ không đúng giờ!” rồi cúp điện thoại.
Seine Marne sững sờ, đó là một hợp đồng trị giá 3 triệu đô la Mỹ! Ông thật muốn chạy tới, bản hợp đồng này có ý nghĩa sống còn với ông! Có lẽ số phận của cuộc đời ông sẽ được thay đổi, bởi bản hợp đồng này! Tuy nhiên, ông vẫn lái xe đi tiếp. Trong mắt ông dường như nhìn thấy người bị thương đang nằm trên vũng máu, rên rỉ đau đớn, mạng sống của họ đang bị đe dọa.
Trong đêm sương mù, Seine Marne vừa lái xe vừa nhìn dọc đường. Cuối cùng đi gần nửa đường, ông nhìn thấy bóng một người nằm ở đó! Ông nhanh chóng đỗ xe rồi bước ra ngoài. Một cô bé mười ba, mười bốn tuổi đang nằm bất tỉnh trên đường. Cô bé bị thương ở đầu và máu chảy rất nhiều. Seine Marne bế bé gái lên và đưa bé đến bệnh viện. Sau khi được giải cứu, cháu bé tạm thời thoát khỏi cơn nguy kịch nhưng vẫn bất tỉnh.
Cảnh sát đã liên lạc với cha mẹ của cô bé, cặp vợ chồng vô cùng yêu thương con gái đã gầm lên và đánh Seine Marne. Seine Marne không bào chữa và âm thầm chịu đựng trong nước mắt. Ông nghĩ rằng nếu mình là cha mẹ của đứa trẻ, ông cũng sẽ đấm đá hung thủ! Ông bị đánh đến mức mũi bầm tím, mặt sưng vù, nhổ ra hai chiếc răng đầy máu. Khi về nhà, gia đình nói ông thật ngu ngốc, vì không có bằng chứng chứng minh ông là hung thủ nên tại sao ông phải làm vậy? Tại sao lại nhận trách nhiệm về mình?
Seine Marne không giải thích nhiều, ông gác lại công việc kinh doanh trong tay, hàng ngày hộ tống bé gái bị thương tên Catherine đến bệnh viện, đồng thời thanh toán mọi chi phí y tế kịp thời. Catherine hôn mê trong 26 ngày và Seine Marne đã bảo vệ cô bé trong 26 ngày, tiêu tốn 38.000 USD chi phí y tế.
May mắn thay, đến ngày thứ 27, Catherine cuối cùng cũng tỉnh dậy và nói cho mọi người biết sự thật: Vào ngày xảy ra sự việc, cô bé đang mang tập hồ sơ tranh về vùng quê để phác họa, trên đường về, cô nhớ rất rõ mình bị một chiếc xe máy màu đỏ đang chạy rất nhanh đụng ngã!
Cảnh sát đã ghi lại lời kể của cô và gọi đến video giám sát trên đường phố ngày hôm đó, từ video giám sát họ xác nhận được lời kể của cô bé và đã tìm ra chủ nhân của chiếc xe máy màu đỏ gây tai nạn! Vết máu trên bánh xe Seine Marne chỉ là vết máu nhỏ giọt trên mặt đất khi Catherine bị xe máy tông.
Sự tình trở nên rõ ràng. Cha mẹ cô gái ôm ông khóc, ông không phải người gây tai nạn, mà là ân nhân cứu mạng của cô gái này! Nếu như không phải ông ấy quay lại kịp thời, đưa cô gái đến phòng cấp cứu của bệnh viện thì có lẽ cô gái đáng yêu này đã sớm không còn!
Câu chuyện của ông đã khiến cả nước Mỹ cảm động, và vận mệnh của ông cũng vì thế mà thay đổi. Những hợp đồng kinh doanh đến như mưa tuyết, khiến ông choáng ngợp. Mọi người đều tin rằng đồng hành cùng một doanh nhân như vậy sẽ dẫn đến thiên đường!
Trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình địa phương, câu trả lời của Seine Marne với phóng viên rất đơn giản: “Lúc đó, tôi chỉ nghĩ nếu không quay lại kiểm tra thì tôi sẽ không bao giờ cảm thấy thoải mái trong cuộc đời. Tôi làm điều này chỉ để thỏa mãn lương tâm của mình, tôi không có quyền lựa chọn giữa sinh mạng của người khác và lợi ích kinh doanh”.
Con tàu chỉ có một người – Câu chuyện xúc động ý nghĩa sâu sắc
Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ.
Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.
Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận…
Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó!
Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà.
Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.
” Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ, từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh
Lê Thị Hồng”…
Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.
Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v… anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội.
Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.
Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.
“Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em
Nguyễn Hữu”
Anh nhắc lại hai lần chữ “lầm lẫn”, để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ.
Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: “Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?”
Anh lắc đầu: “Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất.. ”
“Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng.”
Người cán bộ nói tiếp: ” Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa.”
Anh ấp úng: “Vâng, thưa cán bộ.”
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: ” Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình.”
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.
Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn.. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ “lầm lẫn” kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết..
Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.
Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc.. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.
Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.
Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: “Xin lỗi…xin lỗi chị”.
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi.. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.
Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.
Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên lạc với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật.. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện…
Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?… Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều.
Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.
Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.
Đàn ông đừng có ai tuyên bố là tôi khong ngoại tình nhá chỉ là chưa có cơ hội hoặc chưa đến thời điểm thôi. Đàn ông mà, ông nào chả thích của lạ, của lạ bằng tạ mỳ chính, l … lạ cá tươi,đấy là các cụ vẫn bẩu thế.
Ông ta cũng chẳng ngoại lệ, bà vợ xinh xắn nhỏ nhắn, mỏng mày hay hạt làm bác sĩ hẳn hoi, ăn nói nhẹ nhàng còn chức vụ trưởng khoa bệnh viện lớn nữa nhé.
Ba đứa con học giỏi đều theo nghề mẹ . Con gái lớn dược sĩ mở cửa hàng thuốc tây thuê vài nhân viên bán hàng.
Thằng thứ hai học nha khoa lúc đầu mới ra trường làm cho phòng nha tư nhân sau rồi cũng mở được phòng mạch riêng. Thằng út học đa khoa nhưng thằng anh thấy nha khoa kiếm ăn quá nên kéo thằng em về làm cùng. Cuộc sống kinh tế gia đình thuộc hàng khá giả. Ông cao to , đẹp giai tính thích bay nhẩy, hơi văn nghệ sĩ .Ông làm nghề lái xe du lịch hay đi đây đi đó.
Một lần đưa khách đi chùa Hương, vạ vật ngồi hàng nước chè , dăm ba câu chuyện ông tán đổ ngay cô bán hàng. Lúc đầu ông chỉ nghĩ tán dóc cho vui, nhưng sau khi tìm hiểu cô nàng chưa chồng thuộc hàng tồn kho , ông tặc lưỡi mất gì của bọ. Rồi ông ngoại tình, ông xơi tái ngay cô nàng.
Nói về cô bồ của ông, không phải nàng ế vì xấu mà vì những năm còn xuân thì nàng có vài ba mối tình nhưng chả đâu vào đâu. Nàng cũng được, cao ráo, tóc dài, da ngăm bánh mật trông khoẻ mạnh chắc chắn. Ông yêu nàng, ông yêu vợ, yêu cả hai .
Nàng biết ông có vợ con đàng hoàng trên Hà nội nhưng vẫn chấp nhận để kiếm đứa con. Nàng ao ước có được một gia đình hoàn hảo như nhà ông, một người chồng như ông. Nên nàng lao vào ông điên cuồng mãnh liệt và kết quả nàng có thằng cu Đạt , giống ông y tạc. Nàng mãn nguyện lắm.
Rồi cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Bà trưởng khoa biết, lúc đầu bà cũng đau khổ buồn bã lắm. Có nghĩ ra bao nhiêu lý do thuyết phục, bà vẫn khong hiểu sao ông lại phản bội bà. Ông cắm lên đầu bà cái sừng . Ừ thì dân lái xe, chơi bời bóc bánh trả tiền đi một nhẽ, đằng này ông lại đa mang đèo bòng , có con riêng , mà lại là con trai nữa.
Bao đêm mất ngủ , bà suy nghĩ đưa ra vài phương án. Một là bỏ quách ông đỡ cay đắng, hai là ly thân trong yên lặng giấu các con, ba là làm liều thuốc ngủ, ngủ luôn cho đỡ phải nghĩ nhiều, day dứt vì ai chả ghen. Bà ghen chứ , ghen lắm, bà hận ông.Bà đến nỗi nào đâu mà ông cư xử tệ bạc với bà.
Lần ấy bà hỏi ông :
-Tôi không thể chung chồng được, cho ông chọn một là tôi, hai là cô ta.
Ông chọn bà, ông quỳ xuống xin lỗi bà, rằng ông rất yêu bà chỉ là phút bốc đồng ông đã lạc lối. Giờ ông mong bà tha thứ .
Bà là người có học, thông minh rất nhân hậu. Bà nghĩ đến cu Đạt thấy tồi tội, thấy thương ông, thương cả tình địch của bà. Cũng là phụ nữ cả thôi nhẹ dạ tin vào miệng lưỡi đàn ông. Cả hai đều là nạn nhân thói trăng hoa , thèm của lạ mà ra.
Còn nàng sau khi bị phát hiện mối tình sai trái, nàng tha cu Đạt bỏ làng lên Hà nội lập nghiệp. Nàng không chịu nổi ánh mắt dò xét khinh bỉ của dân làng và cũng muốn cu Đạt có tương lai sáng sủa hơn. Mấy cây vàng dành dụm được sau những năm mở quán bán hàng nàng mua được căn chung cư cũ 18 mét vuông là hết .Hai mẹ con nàng vui vẻ sống trong sự đùm bọc của hàng xóm láng giềng. Hàng ngày nàng dậy từ 2 g sáng đạp xe lên chợ Long biên mua rau về gần nhà bán .
Năm tháng trôi qua cu Đạt lớn đi học , ngoan, càng ngày càng đẹp trai giống bố. Nàng bằng lòng với cuộc sống hiện tại, vì không muốn phá vỡ hạnh phúc của ông nên nàng chọn cách ra đi, giấu kín tung tích, cu Đạt là tất cả với nàng.
Sau khi hứa với vợ chấm dứt quan hệ ngoài luồng, một mặt ông khong dám liên lạc tò te gì với nàng, nhưng mặt khác vẫn muốn giúp đỡ nàng khoản tiền nuôi cu Đạt .
Bà vợ phần vì vẫn còn yêu ông , phần vì không muốn tan nhà nát cửa nên đành tha thứ lỗi lầm cho ông. Bà gọi ba đứa con về rồi thông báo là các con có một đứa em trai cùng cha khác mẹ, phải thương yêu đùm bọc nó. Các con bà lúc đầu nghe thấy thế giãy nảy như đỉa phải vôi, chúng ngạc nhiên lắm, ơ kìa sao mẹ lại thế, lạ thế!
Bà nhẹ nhàng kể cho các con về lần lạc lối của bố, rồi cô kia biết lỗi, bố và cô ấy khong gặp nhau nữa, nhưng cu Đạt nó khong có tội , mẹ muốn các con thay bố hỏi thăm em. Nếu nó khó khăn thì giúp đỡ.
Các con bà nghe bà, nể bà, thương bà , chúng về quê dò hỏi được địa chỉ của nàng . Thỉnh thoảng ba đứa gửi tiền vào tài khoản cho nàng nuôi cu Đạt ăn học. Giờ cu Đạt ra trường đi làm rồi lấy vợ.
Đám cưới em Đạt ba anh chị con bố nó đến dự, bia rượu tưng bừng. Mặc nhiên ông không đến , ông sợ bà buồn. Mà bà và nàng hết đời không biết mặt nhau, nhưng cả hai đều nghĩ cho nhau. Đúng là trái tim phụ nữ !
Ba tôi những ngày tháng cuối đời chỉ ú ớ gọi tên một người đàn bà, không phải là mẹ tôi. Mẹ không oán giận gì ba, chỉ trách móc duyên phận trớ trêu không cho ba gặp lại người ấy lần cuối cùng.
*******
Mẹ tôi 32 tuổi mới cưới chồng, cái tuổi thời đó đã bị gán mác là ế ẩm, gái già. Mẹ xinh xắn, ngoan hiền nhưng mãi không tìm nổi bến đỗ cuộc đời, người yêu đầu tiên hy sinh trên chiến trường, người thứ hai phụ bạc, thanh xuân của mẹ cứ thế trượt dài. Ba gặp mẹ khi đã qua một lần đò, hai người đến với nhau vẫn ôm những nỗi niềm riêng, ba mất đi người thương, mẹ mặc cảm vì mang tiếng gái lỡ thì, vì thế ở bên nhau nghĩa tình mãi không trọn vẹn. Ba ngơ ngác nhớ vợ cũ, mẹ ngơ ngác nhìn ba, biết mình muôn đời không sưởi ấm nổi trái tim người đàn ông đã chết queo, cóng lạnh kể từ khi vợ cũ bỏ đi.
Ba với người ấy chỉ sống với nhau 5 năm nhưng nhớ thương kéo dài trọn kiếp. Tôi hồi bé thỉnh thoảng vẫn nghe hàng xóm kể về những điều lãng mạn ngỡ chỉ xuất hiện trong phim, rằng có người chồng đi làm vất vả suốt ngày nhưng chiều nào cũng về gội đầu cho vợ, có đôi vợ chồng cứ cuối tuần lại đèo nhau đến làng trẻ mồ côi chơi đùa với các em nhỏ, vợ làm bánh, chồng nặn tò he cho lũ trẻ chơi. Mãi sau này tôi mới biết đó là những ký ức tươi đẹp thuở ba còn ở bên vợ cũ.
Hạnh phúc của ba không kéo dài lâu. Nhà nội tôi càng ngày càng khó chịu ra mặt với vợ cũ của ba bởi cưới nhau mấy năm cô vẫn không thể sinh con, ba tôi lại là con trai độc đinh.
Cô ấy còn hay đau ốm, toàn những bệnh phải chạy chữa tốn kém. Đồng lương thầy giáo không đủ xoay xở, ba phải làm thêm rất nhiều việc chân tay để kiếm tiền. Vì vợ, ba có thể làm mọi thứ để thấy cô ấy sống vui tươi, khỏe mạnh. Nhưng bà nội tôi đổ lỗi cho cô ấy cái tội làm mạt vận nhà chồng, đã không đẻ được lại ốm đau dặt dẹo. Hễ ba vắng nhà, bà lại lôi cô ấy ra mạt sát, hành hạ.
Cô chịu đựng không được những lời đay nghiến, nhất là cảnh chồng lo toan và khổ sở vì mình nên đã bỏ đi, chỉ để lại lá thư từ biệt.
Ba tôi chạy đi tìm khắp nơi một thời gian mà cô vẫn biệt tăm. Đến lúc nhận được lá thư gửi từ một thành phố xa xôi cùng tấm ảnh cô chụp chung với người gọi là chồng mới, ba mới chịu chấp nhận sự thật rằng người thương đã xa xôi.
Từ đó, cô không một lần về lại quê cũ.
Ba sau này cưới mẹ theo sắp đặt của gia đình. Mẹ tôi cũng biết cô ấy, đó là người chị cùng trường, học trên mẹ vài khóa. Mẹ kể cô ấy hiền dịu, thương người, đặc biệt có mái tóc thướt tha nổi tiếng đẹp nhất trường. Ngày xưa có rất nhiều người theo đuổi nhưng không hiểu sao cô ấy lại chọn người nhút nhát, ít nói như ba tôi. Tôi biết rằng để kể về người cũ của ba như vậy thật sự không hề dễ dàng, mẹ luôn tôn trọng ba, tôn trọng cả người phụ nữ duy nhất ba đem lòng yêu.
Năm ông nội đổ bệnh nan y, bao nhiêu tiền tiết kiệm cả nhà mang đi chữa trị cho ông vẫn không đủ. Ba suýt bán căn nhà và mảnh đất hương hỏa.
Đúng lúc đó, vợ cũ của ba gửi về một khoản tiền lớn, nhờ cô bạn thân mang đến để ba lo cho ông. Ba từ chối nhưng cô bạn thân kiên quyết không về nếu ba tôi không nhận. Ông nội tôi đợt đấy nhờ được cứu chữa kịp thời mà qua khỏi. Ba viết thư gửi người thương rằng “anh nợ em một đời”, thư gửi đi không hồi đáp. Sau này ba tôi xoay đủ tiền, định đi tìm vợ cũ trả lại nhưng bạn của cô nhất quyết ngăn cản, nói rằng cô giờ không muốn gặp lại người đã thuộc về quá khứ, kể cả số tiền cô cũng không cần lấy.
Tâm nguyện gặp lại người thương của ba mãi mãi không thực hiện được.
Chỉ đến khi vợ cũ qua đời, đưa về quê mai táng, ba mới được cho biết sự thật rằng người ấy chưa từng cưới chồng khác, bức ảnh ngày xưa chỉ là để dối lừa ba. Suốt ngần ấy năm, cô làm giúp việc cho nhà người ta, cuối đời được nhà chủ thương tình, đưa vào viện dưỡng lão. Khoản tiền gửi ba là cô đã chắt chịu suốt thời gian dài, thậm chí phải vay thêm của nhà chủ.
Ba từ đó càng chìm sâu vào nỗi đau đớn, thẫn thờ và thương nhớ vợ cũ. Việc duy nhất tôi thấy ba đặt trọn vẹn tâm huyết là đi thăm mộ của cô.
Chiều chiều, người ta thấy một ông già thất thểu ra nghĩa trang ngồi đến tối muộn rồi lại trở về, vừa đi vừa lẩm bẩm như đang nói với người chốn xa xăm.
Vài năm sau đó, ba qua đời, chỉ nhắn lại hãy đưa ba về nằm cạnh mộ người thương.
Tôi đi vòng trong một siêu thị và chứng kiến cảnh người thu-ngân đang trao lại một số tiền cho cậu bé. Cậu chỉ độ 5 hay 6 tuổi.
Người thu- ngân nói, “Rất tiếc là em không có đủ tiền để mua con búp-bê này”.
Đoạn cậu bé quay sang bà cụ đứng cạnh: “Bà à, bà có chắc là con không có đủ tiền không, bà?”
Bà cụ đáp: Con à, con biết là con không có đủ tiền để mua con búp-bê này mà”.
Rồi bà cụ bảo cậu bé cứ đứng đó chừng 5 phút để bà đi một vòng trong tiệm. Rồi bà lẩn đi ngay.
Cậu bé vẫn cầm con búp-bê trong tay.
Cuối cùng , tôi bước đến cậu bé và hỏi là cậu muốn tặng con búp-bê này cho ai.
“Đây là con búp bê mà em gái của con yêu thích lắm và ước ao có được trong Giáng Sinh này. Em ấy tin là Ông già Noel sẽ mang quà này lại cho em ấy.”
Tôi trả lời cậu bé rằng “thế nào Ông già Noel rồi cũng sẽ mang lại cho em con, con đừng lo.”
Nhưng cậu trả lời buồn bã. “Không, Ông già Noel không mang đến chỗ em đang ở được. Con phải trao con búp-bê này cho mẹ con, rồi mẹ con mới có thể trao lại cho em con khi mẹ đến đó.”
Đôi mắt cậu bé thật buồn khi nói những lời này.
“Em con đã trở về với Chúa. Ba con bảo là mẹ cũng sắp về với Chúa, bởi vậy con nghĩ là mẹ có thể mang con búp-bê này theo với mẹ để trao lại cho em con.”
Tim tôi như muốn ngừng đập.
Cậu bé nhìn lên tôi và nói: “Con nói với ba là hãy bảo mẹ đừng có đi vội. Con muốn mẹ con hãy chờ con đi siêu thị về rồi hãy đi.”
Rồi cậu lấy ra cho tôi xem một tấm ảnh trong đó cậu đang cười thích thú.
“Con muốn mẹ mang theo tấm ảnh này của con để mẹ sẽ không quên con.
Con thương mẹ con và mong ước mẹ không phải bỏ con để đi, nhưng ba con nói là mẹ phải đi để ở cạnh em của con.”
Rồi cậu lặng thinh nhìn con búp-bê buồn bã.
Tôi vội vàng tìm ví bạc trong túi và nói với cậu bé: “hãy thử coi lại xem, biết đâu con lại có đủ tiền mua con búp-bê này thì sao!”
“Dạ”, cậu bé đáp, “con mong là có đủ tiền”. Không cho cậu bé thấy, tôi kẹp thêm tiền vào mớ tiền của cậu bé, và chúng tôi cùng đếm. Chẳng những đủ số tiền cho con búp-bê mà còn dư thêm một ít nữa.
Cậu bé nói: “Cảm ơn Chúa đã cho con đủ tiền!”
Rồi cậu nhìn tôi và nói thêm, “tối qua trước khi đi ngủ, con đã hỏi xin Chúa hãy làm sao cho con có đủ tiền để mua con búp-bê này để mẹ con có thể mang đi cho em con. Chúa đã nghe lời cầu xin của con rồi..”
“Con cũng muốn có đủ tiền mua hoa hồng trắng cho mẹ con, nhưng không dám hỏi Chúa nhiều. Nhưng Ngài lại cho con đủ tiền để mua búp-bê và hoa hồng trắng nữa..”
“Mẹ con yêu hoa hồng trắng lắm.”
Vài phút sau bà cụ trở lại, và tôi cũng rời khỏi tiệm.
Tôi làm xong việc mua sắm trong một trạng thái hoàn toàn khác hẳn với khi bắt đầu vào tiệm. Và tôi không thể rứt bỏ hình ảnh của cậu bé ra khỏi tâm trí tôi.
Đoạn tôi nhớ lại một bài báo trong tờ nhật báo địa phương cách đây hai hôm. Bài báo viết về một tài xế say rượu lái xe vận tải đụng vào xe của một thiếu phụ và một bé gái nhỏ.
Đứa bé gái chết ngay tại hiện trường, còn người mẹ được đưa đi cứu cấp trong tình trạng nguy kịch. Gia đình phải quyết định có nên rút ống máy trợ-sinh khỏi bệnh nhân hay không vì người thiếu phụ này không còn có thể hồi tỉnh ra khỏi cơn hôn mê.
Phải chăng đấy là gia đình của cậu bé?
Hai ngày sau khi gặp cậu bé, tôi đọc thấy trên báo là người thiếu phụ đã qua đời. Tôi bị một sự thôi thúc và đã mua một bó hoa hồng trắng và đi thẳng đến nhà quàn nơi tang lễ của người thiếu phụ đang diễn ra và mọi người đến nhìn mặt người quá cố lần cuối cùng.
Cô nằm đó, trong cỗ áo quan, cầm trong tay một cành hồng màu trắng với tấm ảnh của cậu bé và con búp-bê được đặt trên ngực của cô.
Tôi rời nơi đó, nước mắt đoanh tròng, cảm giác rằng đời tôi đã vĩnh viễn thay đổi. Tình yêu của cậu bé dành cho mẹ và em gái cho đến ngày nay thật khó mà tưởng tượng. Và chỉ trong một phần nhỏ của một giây đồng hồ, một gã lái xe say rượu, hay người lái xe bất cẩn, đã lấy đi tất cả những gì thân thiết nhất của đời cậu.
– Bây giờ bạn có 2 chon lựa:
Post lại sứ điệp này.
Cứ phớt lờ đi giống như câu chuyện này chẳng bao giờ đụng chạm gì đến tấm lòng của bạn.
“Chỉ một chút bất cẩn sẽ luôn là nguyên nhân gây tổn thất và mất mát”.
Bố ngồi trước mặt tôi: “Bố sẽ lấy vợ. Ý con thế nào?”. Trời! Bố tôi lấy vợ cơ đấy. Ðiều mà bao lâu nay tôi chẳng bao giờ nghĩ đến. Bố tôi, người đàn ông đã bước sang tuổi ngoài 60, cái tuổi chẳng còn trẻ nữa. Vậy mà giờ ông lại muốn lấy vợ. Tôi biết bố hỏi tôi là để thông báo còn bố đã quyết định. Thì cũng đúng, đó là việc của bố. Chúng tôi là con, không được phép cản. Mà ông cũng không làm gì sai.
Mẹ tôi mất từ ngày sinh em Lam, bố một mình làm đủ thứ nghề, từ sửa xe, đạp xích-lô, chạy hàng ngoài chợ nuôi chị em tôi ăn học. Cuộc sống trước kia thiếu thốn, còn giờ, cả hai chị em tôi đã có công việc, thu nhập ổn định. Cuộc sống của ba bố con không sung túc nhưng cũng chẳng thiếu thứ gì. Với tôi, bố luôn là người đàn ông mà tôi kính trọng và yêu thương nhất. Vậy mà… Bố làm tôi hụt hẫng lẫn thất vọng. Tôi có cảm giác như bố không còn yêu thương chị em tôi nữa.
Người đàn bà ấy sẽ bước vào ngôi nhà của bố con tôi, sử dụng những đồ dùng trong nhà của chúng tôi, ăn cơm cùng. Và quan trọng hơn, bà ấy sẽ giành mọi sự quan tâm, yêu thương của bố cho chúng tôi trước kia. Cuộc sống của ba bố con tôi sẽ bị đảo lộn. Vì một người đàn bà xa lạ.
Tôi không hỏi người bố đưa về nhà làm mẹ của chúng tôi là người như thế nào. Dù là ai thì tôi cũng không muốn. Nếu bố còn trẻ, tôi sẽ nghĩ khác, nhưng bố đã già rồi. Bố còn cần gì ngoài hai đứa con gái ngoan ngoãn, giỏi giang nữa. Chị em tôi vẫn có thể sắp xếp thời gian làm công việc nhà. Còn nếu bố cần một người trò chuyện thì bố cứ tìm những người bạn già trong xóm chơi cờ, bình thơ… Việc gì phải lấy vợ. Tôi lấy hết sự bình tĩnh nói: “Con nghĩ ba bố con mình sống như thế này là được rồi, con không muốn mọi thứ trong nhà bị đảo lộn”. Tôi nói và cầm túi xách bước ra khỏi nhà, chưa kịp nhìn xem phản ứng của bố. Nhưng tự thâm tâm mình tôi mong bố thay đổi quyết định.
Lam không muốn nhưng nó cũng không phản đối thẳng thừng như tôi. Vậy là chỉ có tôi ngăn cản cuộc hôn nhân của bố.
Bố vẫn lấy vợ. Bố không bày vẽ cỗ bàn, cũng không mời ai đến chúc tụng. Hôm ấy bố chỉ làm một cái lễ có mâm cơm, một bó hoa hồng đặt lên bàn thờ mẹ. Tôi lấy lý do bận đi công việc gấp, tránh mặt. Lam gọi điện thoại trách móc: “Sao chị ích kỷ thế? Chị có biết bố buồn lắm không?” Tôi im lặng. Thế chẳng lẽ bố cũng không biết tôi buồn sao? Bố cũng không để ý đến suy nghĩ của tôi, tâm trạng của tôi.
★****
Người đàn bà bố đưa về nhà khác hẳn với suy nghĩ của tôi. Không phải là một người trẻ trung chỉ đáng tuổi chị, tuổi cô tôi, cũng không phải một người thích ăn diện, váy vóc lòe xòe, không biết lo việc bếp núc. Người đàn bà của bố tôi ngoài năm mươi tuổi, ít nói, mặc chiếc áo sơ-mi mầu hoa cà, hay đội nón và thích vào bếp. Lam thắc thỏm với tôi: “Ðấy, bố đã chọn người là chỉ có nhất, vừa ý chị chưa?”. Tôi gạt đi: “Ở lâu mới biết”.
Bố nhắc chúng tôi gọi là Mẹ cho tình cảm, cho có không khí gia đình. Nhưng sao thế được, chị em tôi chỉ có một mẹ. Mẹ tôi luôn tồn tại trong ngôi nhà này, không ai thay thế được vị trí của bà. Tôi tỏ rõ quan điểm với bố và thống nhất chúng tôi sẽ gọi là dì cho phải lẽ. Bố không hài lòng nhưng cũng không phản đối. Người đàn bà của bố cũng xưng dì – cháu với chúng tôi.
★*****
Từ ngày có dì, mọi việc trong nhà tôi bỏ bẵng, không động chân, động tay. Ngoài việc tự giặt quần áo của mình thì mọi việc trong nhà dì Hoa lo. Sáng dì nấu ăn sáng, chúng tôi chỉ việc ăn rồi đi làm. Tối về có cơm dọn sẵn, chỉ việc ăn xong, tắm rửa và lên phòng ngủ. Phần vì không đồng ý dì ngay từ đầu nên tôi tỏ rõ thái độ không hợp tác. Tôi ít nói chuyện, tránh gặp mặt riêng với dì và “niêm phong” luôn căn buồng ngủ của mình.
Cuộc sống thiếu mẹ từ nhỏ đã dạy tôi tự vượt qua khó khăn, thiếu thốn. Tôi sớm trưởng thành hơn so với những đứa bạn cùng tuổi, cũng chính vì thế mà tôi dè chừng với tất cả những người lạ. Tôi không tin ai, ngoài gia đình mình.
Dì Hoa có vẻ hiểu thái độ của tôi nên rất ít khi thấy dì nói chuyện hay thể hiện tình cảm với bố trước mặt tôi. Bố biết tôi khó chịu nhưng ông cũng không trách móc gì. Cuộc sống của ba bố con tôi từ ngày có dì Hoa về thay đổi hẳn. Ba bố con tôi ít ngồi lại nói chuyện với nhau sau bữa ăn, cũng ít khi trong nhà có tiếng cười đùa vui vẻ của hai chị em. Ăn cơm tối xong, dì Hoa hãm một ấm trà hoa cúc. Bố vừa ngồi xem phim vừa uống trà. Thỉnh thoảng tôi ngồi lại nghe hai người nói chuyện. Tôi không hiểu những câu chuyện từ ngày xửa ngày xưa có gì hay mà khiến bố tôi cười và kể, nghe mãi…
Dì Hoa dần mang bố ra khỏi cuộc sống của chị em tôi. Tôi cảm giác mỗi ngày bố lại trở nên xa cách tôi hơn.
Hôm bố bị đau đầu. Quen như thường ngày, tôi lấy dầu cao vào phòng bóp đầu cho bố thì đã thấy dì Hoa đang cạo gió cho bố. Tôi bỏ lọ dầu cao vào tủ, ấm ức. Chạy xuống bếp định nấu cho bố bát cháo mang vào thì đã thấy bố đang ngồi ăn cháo. Tôi xách túi ra khỏi nhà. Vốn đã không ưa dì, càng ngày tình cảm giữa tôi và bố càng trở nên xa cách khiến tôi càng ghét dì hơn. Tôi kiếm đủ cớ để trách móc, tỏ thái độ không hài lòng khi dì nấu cơm, giặt quần áo hay đi chợ quên mua thứ gì đó tôi đã dặn trước.
Buổi sáng, bước chân xuống nhà, thấy dì xách làn đi chợ về tôi hỏi dì có mua giúp tôi bó hoa cúc trắng không?. Hình như chợt nhớ, dì vội vàng:
– Dì quên mất, mải mua đồ ăn nên dì quên, để dì chạy ra chợ mua sau nhé?
Tôi hậm hực:
– Lần sau nếu không muốn mua dì cứ nói thẳng để cháu tự đi.
Từ trong nhà, bố tôi bước ra, vẻ mặt nghiêm nghị:
– Dì đã nói là quên và mua sau cho con, sao con lại nói thế.
Quay sang dì Hoa, bố tôi nhẹ nhàng:
– Việc của chúng nó mình cứ để tự chúng làm.
Dì Hoa đủng đỉnh vào bếp. Còn tôi đành ấm ức đi làm.
★*****
Thời gian trôi qua. Tôi lấy chồng, về làm dâu cách nhà một đoạn đường. Vì điều kiện gia đình bên chồng chỉ có mình chồng tôi là con trai nên sau khi kết hôn tôi ở chung với mẹ chồng. Cuộc sống mẹ chồng nàng dâu chẳng mấy khi “cơm lành canh ngọt”. Nhiều lúc tôi mệt phờ với công việc ở cơ quan về nhà lại phải lo cơm nước, những việc trong gia đình. Rồi đến khi sinh con, thời gian lại hạn hẹp, không có thì giờ để nghỉ ngơi. Tôi ít về thăm bố.
Chồng thường xuyên đi công tác xa nhà, mẹ chồng lại chẳng mấy khi gần gũi. Những lúc con ốm, nằm ôm con mà nước mắt tôi rơi lã chã. Nhiều lúc phải thức trắng đêm chăm con khiến tôi gầy xọp hẳn đi.
Giỗ mẹ, Lam điện thoại bảo: “Chị thu xếp về nhà đi. Bố mong chị lắm đấy”. Tôi ôm con về nhà. Ðến cổng nhà, nhìn sân vườn sạch sẽ, những cây hoa hồng trước cửa nở đỏ rực. Giàn thiên lý trổ hoa thơm ngát. Ðám đất nhỏ cạnh giếng nước trồng mỗi loại rau một ít, xanh mướt. Mọi thứ trong nhà ngăn nắp, gọn gàng. Mâm cơm cúng mẹ tôi dọn ra đủ đầy, tươm tất, như những ngày chúng tôi ở nhà.
Tôi ôm con lên gác, vào căn phòng mình ngày xưa. Mọi thứ vẫn còn nguyên như ngày tôi ở nhà. Trên chiếc bàn nhỏ là một bó hoa cúc trắng tôi yêu thích. Ðặt con xuống giường, tôi ngả người ra tấm nệm thơm, một cảm giác bình yên và ấm cúng.
Nghe thấy tiếng cu Bon khóc, dì Hoa chạy lên phòng, ôm nựng. Một lúc là nó nín ngay. Ở nhà, tôi phải đánh vật mãi nó mới chịu ăn. Vậy mà cháo dì Hoa nấu thằng bé ăn liền một mạch hết lưng bát con. Tôi mừng quá, hỏi dì cách nấu. Dì đi chợ mua đủ thứ về bóc, xay nhuyễn rồi cẩn thận đóng vào hộp bảo để tôi mang về, dặn mỗi lần nấu chỉ cần lấy ra vài thìa, nêm nhàn nhạt hơn mình ăn một chút là thằng bé ăn ngay. Thấy cu Bon ho, dì hái mấy bông hoa đu đủ đực sau nhà hấp mật ong, đút từng thìa cho uống. Dì bảo chịu khó làm thế vài lần là khỏi.
Ngồi ăn bữa cơm cả gia đình tôi mới cảm nhận được hương vị ấm áp của bữa cơm đầm ấm mà bao lâu nay tôi không biết trân trọng. Những món ăn ngày trước dì Hoa nấu về nhà chồng tôi chẳng còn được ăn. Quay sang nhìn bố, tôi thấy bố tôi vui vẻ và khỏe mạnh hẳn ra. Khi ra về dì Hoa cẩn thận gói đủ thứ cho hai chị em tôi mang về. Bố ôm tôi nói : “Nhà mình cửa lúc nào cũng mở. Khi nào mệt mỏi thì về nhà, con nhé!”.
Tôi quay mặt, giấu những giọt nước mắt chực chờ lăn trên má…
Nàng đổ bệnh, sốt mê man đầu đau như búa bổ, nàng nằm bẹp chẳng thiết ăn uống gì. Công việc vẫn ngập đầu, điện thoại vẫn réo liên hồi… Nàng thấy cuộc sống vô vị quá. Khi người ta ốm đau chợt thấy tiền cũng chẳng giúp được gì nhiều. Có tiền thì có thuốc tốt, bệnh viện tốt nhưng không mua được một người thương yêu chân thật ở bên cạnh, không mua được một cái nắm tay nâng đỡ hoặc một cử chỉ ân cần an ủi động viên thật tâm. Hai con nàng thì ở xa quá, chúng bận rộn hơn nàng trong guồng quay công việc.
Nàng nghĩ đến bạn bè, có cô bạn chí cốt thì nhà cô ấy cũng còn bề bộn việc và nàng thấy ngại. Đàn ông ư, danh bạ rất nhiều nhưng biết bao lâu rồi nàng cô độc không có lấy một ai, nàng sợ những tổn thương, sợ những trắc trớ và sợ lòng dạ đàn ông lắm lắm rồi.
Nàng đến nhà Cành một buổi chiều nhập nhoạng. Cành vừa đi xây về, con bé thì đang đi học thêm. Nhìn căn nhà bé nhỏ nép dưới giàn bầu xanh mướt. Vợ Cành sang Đài lao động khi con gái vừa tròn một tuổi. Cô ta lấy chồng Đài và chưa một lần trở lại thăm quê!
Nàng yên lặng đứng nhìn Cành đang nấu nấu nướng nướng. Nàng ngắm ánh lửa bập bùng nơi căn bếp nhỏ. Cành vẫn nấu bếp củi. Nàng nhìn ánh lửa chập chờn trong gian bếp với ánh điện vàng vọt yếu ớt rồi lại ngước nhìn sang phía nhà nàng. Đúng thật khác xa nhau. Căn nhà ba tầng của nàng dù cố gắng khiêm nhường giản dị nhất có thể thì nó vẫn đồ sộ và áp đảo, ánh đèn nhà nàng có dịu dàng và bớt chói nhất thì ánh sáng nó vẫn cứ bao bọc hết phần không gian bốn xung quanh nó. Nàng nhìn và ngẫm nghĩ, căn nhà to và ánh điện sáng trưng kia cũng chẳng làm nàng thấy an toàn.
Khi ốm đau nàng vẫn chỉ có một mình. Mấy ngày li bì sốt chẳng ai gọi hỏi thăm nàng ngoài các cuộc gọi công việc. Chỉ có Cành, người phụ xây hàng xóm, lâu lâu nàng gọi anh ta sang cắt tỉa cây cảnh giúp, dọn hộ mảnh vườn, hàn lại mảnh tường rào… bữa ấy nàng sốt mê man, hai ngày không ăn chỉ uống sữa. Cành để ý mấy hôm không thấy nàng ra cửa. Cành gọi cả chục cuộc điện thoại cho nàng, nàng không bắt máy. Cành trèo cổng vào đập cửa kính, tháo chốt chui vào nhà để thấy nàng. Cành bế thốc nàng chạy ra trạm y tế, Cành bón cho nàng ăn từng thìa cháo, ép nàng uống từng miếng nước cam. Rơi nước mắt vì nàng gầy guộc! Những ngày sau ốm Cành luật quật vừa đi làm vừa ngày hai bữa cơm cháo chăm nàng vì chị giúp việc nhà nàng về quê chăm con dâu mới đẻ.
Nàng quyết định lấy Cành, mặc kệ lời chê bai của cha mẹ, của cô bạn. Mặc kệ sự ngạc nhiên của đối tác và những người đàn ông hào hoa quanh nàng vẫn. Nàng đã chán cảnh ốm đau lầm lụi một mình. Tiền nhiều thì để làm gì, đời người mấy tý, một cơn cảm, một bước hụt chân, một cú vấp ngã đập đầu và rất có thể như một cặp vợ chồng rất giàu có ở khu phố nhà nàng. Tối hôm trước vẫn khoẻ nhưng sáng hôm sau người giúp việc tới nhà thì cả hai đã bị trộm c.ắt c.ổ ch.ết ráo. Nàng cũng chẳng cần ông nọ ông kia làm gì? Tiền nàng không thiếu, nàng chỉ cần có người chăm bẵm lo lắng thương yêu thật tâm, có người đêm kéo giùm nàng cái chăn và khi nàng sốt có người lấy cho nàng cốc nước…
Cành dọn cơm, định bê mâm nó lên cái chõng tre phía đầu hè đợi con bé học thêm về rồi hai bố con ăn. Cành bỗng giật mình vì nàng đứng im lặng ngay bên lối đi.
– Ô cô …! Sao đứng đây mà không đánh tiếng. Mời cô vào nhà xơi nước…
Cành Bối rối xoa xoa lau lau hai tay vào cái quần lửng đã cũ sờn. Cái áo may ô màu cháo lòng, hai nách chảy dài tới cạp quần, vạt áo thiên di dài tới gần đầu gối. Nhìn Cành đứng bên nàng đúng là hai thế giới. Nàng nhỏ nhắn nữ tính, tóc mềm ôm sát lấy khuôn mặt đoan trang rất sáng của nàng. Trang phục nàng giản dị nhưng đúng như khuôn mặt chủ nhân của nó, tất cả đều tinh tế và xinh đẹp. Cành lúng túng và ngượng ngập trước bề ngoài của mình và của nàng, Cành càng lúng túng hơn khi nàng đột nhiên nắm lấy tay Cành. Nàng bất giác ấp bàn tay mềm mại xinh đẹp thơm tho của nàng vào bàn tay chai cằn, ngón thô ráp và cáu bẩn của Cành! Nàng nhẹ nhàng đan rồi xiết chặt lấy những ngón tay của Cành. Nàng từ từ kéo bàn tay Cành và cả người Cành về phía nàng. Thật nhẹ và nhanh chóng nàng đưa nó lên miệng hôn bàn tay đầy vết chai sần của Cành trong khi những giọt nước mắt nàng thánh thót tuôn rơi. Có giọt rơi rồi trượt trên mu bàn tay của Cành, nước mắt nàng nóng hổi…
Cành run bắn, chân Cành đứng không vững, tai Cành ù đặc, miệng khô khốc và sợ hãi khi nàng rời bàn tay nàng khỏi tay Cành. Nàng vòng tay ôm riết lấy Cành rồi áp đầu vào ngực Cành thổn thức:
– Anh, Anh Cành… anh đồng ý làm chồng em nhé!
Nàng cứ ôm chặt lấy Cành rồi nức nở khóc. Nàng nhớ lại những lần ốm trước. Ốm no bò dậy. Kể cả khi nàng còn ở với thằng chồng. Có những trận nàng bị hắn đánh, cứ mặt cứ mồm nàng hắn vả hắn đấm. Hắn ngồi đè lên ngực lên bụng nàng một tay khoá hai tay nàng còn một tay vừa đấm vừa tát vừa chửi. Khi hắn rời nàng thì thân thể nàng oặt đi như tàu lá héo. Máu mồm máu mũi bện vào với nước mắt bết vào tóc vào tai. Cả mười ngày nàng chỉ húp cháo loãng và uống sữa vì mồm miệng không há ra được. Thằng chồng nàng đ.ộc á.c vô cùng. Hắn đ.ánh nàng bằng bất cứ thứ gì hắn vớ được. Nàng cũng chẳng tội tình gì chỉ là tội lam làm và tội làm hắn ngứa mắt.
Sau này nàng quyết liệt ly hôn, nàng làm việc cật lực, nỗ lực hết mình để nuôi con và tạo dựng cho mình một cuộc sống tốt đẹp. Nàng nhất quyết không yêu ai nữa.
Con bé đi học về đến đầu sân mới gọi: Bố ơi!
Cành giật mình buông nàng, nàng vẫn còn níu lấy tay Cành. Con bé bất ngờ và bối rối khi thấy nàng cầm tay cha nó.
Bữa tối ấy nàng ăn cơm với con bé và Cành. Nàng ăn hai bát cơm ngon lành với canh bầu đầu tôm và tôm rim me Cành nấu.
Bữa ấy nàng chính thức nói với con bé là Cành với nàng sẽ cưới nhau, mặc cho Cành đồng ý hay chưa. Con bé bối rối, nó cứ cúi đầu khi nàng gặng hỏi. Cuối cùng chỉ lý nhí tuỳ cô và bố rồi buông bát đứng lên.
Cành về trong ngôi nhà mới với nàng. Con bé ở phòng bên cạnh. Sau ngày cưới, hai thằng con nàng được ở nhà với mẹ và dượng mới vài ngày. Chúng tíu tít ăn những món ăn Cành nấu, nào là ếch om củ chuối, cá quả om măng. Bầu nấu canh tôm và cả món canh cua nấu bồng khoai nước.
Ba mẹ con nàng hì hụi tranh nhau ăn cháy cơm vần bếp củi nhà Cành, uống nước vối tươi, ăn sắn lùi bếp lửa. Chúng nói rằng đây là những món ngày bé chúng vẫn được ăn, nhưng mẹ ngày càng bận việc, cô đầu bếp toàn nấu những món mà chúng không hề thích.
Nàng nhẹ nhàng và mềm mại, dịu dàng và tế nhị với Cành và con gái Cành bất cứ lúc nào. Hai thằng con của nàng cũng thế. Chúng tôn trọng và lễ phép với Cành. Có những buổi chiều hai đứa rủ Cành đi bơi sông, đi câu và nướng cá. Chúng nói với Cành chỉ cần chú tốt và thương mẹ con thật lòng thì chú là ai không quan trọng. chúng con sẽ cho chú thấy tầm quan trọng và vị thế của chú bên cạnh mẹ chúng con.
Cành và con bé thật sự cảm thấy ấm áp và vui vẻ. Đúng là mẹ con nàng đã nâng cha con Cành lên bằng sự quan tâm và khích lệ của họ. Cành chỉ chăm sóc ngôi nhà, nấu ăn và thương yêu nàng thật lòng để nàng bình yên kiếm tiền là được. Nàng chỉ cần có thế không hơn
Những buổi sáng sớm Cành dậy tưới rau bên vườn nhà mình để được ăn rau sạch, nàng vẫn còn say sưa ngủ. Tỉnh dậy đã có một tô phở Cành tự nấu hoặc đi mua. Đêm nàng làm việc khuya có Cành ngồi gần đó khi thì pha cốc nước cam, khi thì cái bánh pía nàng ưa thích. Và thích nhất là chấm dứt cảnh nàng phải nằm co một mình vì giờ đã có Cành. Nàng nghĩ chả cần là ông nọ ông kia, làm này làm nọ. Chỉ cần người bên nàng là đàn ông, thương nàng, yêu nàng là đủ. Thế thôi.
Đó là đêm mưa bão Chị bị sốt, Anh chạy ngược chạy xuôi lo cho chị. Nửa đêm, nhắm tình hình không ổn, mặc trời mưa gió, anh bế chị chạy vào bệnh viện. Vừa chạy vừa kêu tên chị mãi. Không có tiền, vay mượn mãi chỉ đủ cho chị nằm viện trong một ngày. Sáng hôm sau anh phải đi bán máu để có tiền mua thuốc cho chị. Những ngày chị bệnh, anh phải một tay kiếm tiền, một tay nấu cháo, thuốc thang cho chị. Để có tiền, anh phải làm việc nhiều hơn trong tình trạng mệt mỏi vì thức khuya dậy sớm và cũng vì bán máu. Ngày chị lành bệnh, cũng là ngày anh gục ngã.
Anh bị ngã xe khi trên đường về vì hoa mắt…
Tai nạn đó không lấy đi sinh mệnh anh nhưng lấy đi của chị rất nhiều nước mắt khi anh trở thành một đứa trẻ lên ba. Tức là không biết gì cả, thích cười thích khóc, không hiểu mình đang nghĩ gì! Nghe tin anh bệnh như thế, cả nhà chị tìm mọi cách tác động tới chị để chị từ bỏ anh mà về sống với gia đình. Không nhẫn tâm bỏ anh lại một mình, chị bị gia đình từ bỏ. Không còn cách nào khác, chị đành cùng anh sống trong căn nhà lạnh lẽo.
Thương anh quá, chị đành bán đi miếng đất sinh nhai của hai vợ chồng để lấy tiền chữa trị cho anh. Chạy hết bệnh viện này tới bệnh viện khác, bệnh anh vẫn không khỏi. Không còn cách nào khác, chị đành gửi anh vào bệnh viện tâm thần. Một tuần sau , nước mắt chị lại trào ra khi nhìn thấy anh đứng trước nhà gọi chị. Dù anh đang là đứa trẻ lên ba nhưng anh vẫn nhớ đường về nhà tìm chị.
Chị rụng rời tay chân, ôm anh khóc không thôi.
Chị thề với lòng là sẽ không đưa anh đi đâu cả.
Chị siết lấy anh, cứ như sợ anh lại biến mất…
Vậy là từ đấy, chị đâu anh đó. Anh ăn rất khỏe, dáng người cao to. Nhìn đằng sau cứ như tràn trề sinh lực. Nhưng chỉ khi nói chuyện với anh, mọi người mới vỡ lẽ. Mỗi ngày, sáng sáng anh lại gánh giỏ cá cho chị ra chợ ngồi bán, xong rồi lại đi lang thang. Đúng 11 giờ lại tới gánh về cho chị. Anh hiền lành ,thấy ai làm gì nặng cũng nhào vào giúp nên mọi người ở chợ rất thương. Họ vẫn thường cho anh bánh trái, ai khá hơn thì dúi cho chút tiền. Anh đều bỏ vào bọc. Để dành cho chị tất.
Mọi người đùa với anh gì anh cũng chỉ cười cười, dạ dạ. Nhưng ai đó không biết lỡ lời gì tới chị là anh sẵn sàng cho người đó một cú đấm. Có lần, anh nổi cơn đánh một người bán sống bán chết chỉ vì người ấy khen chị xinh. Chỉ đến khi chị tới ôm anh ra anh mới thôi.
Ở cái chợ này, chẳng ai dám tranh chỗ bán với chị cả, vì mỗi lần có ai cãi nhau với chị hay là giành khách, anh cũng đều có mặt, đứng che chị lại, tay lăm lăm thanh gỗ sẵn sàng ăn thua với họ.
Ai cũng ngán ngại, họ bảo chấp chi thằng điên nên họ bỏ qua chuyện đó.
Từ ngày từ mặt chị, ba chị sinh tật uống rượu. Ngày càng nghiện. Rồi ông mất. Được tin, chị khóc ngất. Thấy chị khóc, anh cũng ôm chặt chị vào lòng mà khóc theo. Khóc xong, chị dẫn anh ra tiệm vàng bán sợi dây chuyền mà anh tặng khi quen cưới nhau. Thấy chị tháo sợi dây, anh giật lại. Anh biết chị rất thích nó nên không muốn cho chị bán!
Chị cười :
“Bán để cho má làm đám ma ba, sau này anh đi làm mua cho em cái khác lớn hơn, đẹp hơn”. Anh mới chịu buông tay cười cười. Từ đó về sau, anh chỉ đem cái bánh, chai nước về cho chị chứ không thấy đưa chị tiền.
Không biết tại vì không uống thuốc hay lý do gì mà dạo này anh lại có thêm bệnh động kinh. Mỗi lần lên cơn co giật lại sùi bọt mép. Hết cơn anh lại đập phá, đánh đập những ai đứng gần đó nhưng khi chị ôm anh vào lòng anh đều trở lại bình thường. Người ta khuyên chị cho anh vào viện. Bác sỹ bảo anh đã chuyển sang tâm thần nặng. Đưa vào khu cách ly. Chị lừa anh, bảo dẫn đi chơi. Đưa anh vào đó. Anh cứ khóc, ôm chầm lấy chị, mãi chị mới buông anh ra được.
Nước mắt chảy ròng. Chị phải cố chạy thật nhanh, để không nghe tiếng anh gọi chị.
Tháng nào chị cũng xuống thăm anh. Chẳng làm gì cả, cứ nhìn anh, khóc đã đời rồi về. Anh cũng vậy, gặp chị là đòi về. Nhiều lúc chị cũng muốn đưa anh về lắm nhưng không thể. Rồi một hôm, bệnh viện thông báo là anh mất – trong một lần lên cơn anh đã tự đập đầu vào tường mà chết.
Họ bảo, trước lúc mất, anh luôn miệng gọi chị.
Chị ngất lên ngất xuống…
Hôm lên làm thủ tục chôn cất anh. Chị được bệnh viện đưa túi đồ của anh. Bên trong toàn là hình của chị. Dưới những bộ đồ có một cái hộp, trong đó là một sợi dây chuyền bạc. Cùng với tờ giấy ghi nguệch ngoạc tên chị!
Nước mắt chị chảy ròng.
Bữa đó cũng là ngày 14/2. Năm đó, chị mới bước qua tuổi 23
Chị vừa chặn fb của anh, người mà chị rất ngưỡng mộ, và yêu quý nhất…
………….
Chị gặp anh trên fb, đọc những bài viết của anh, những bài viết rất hay, rồi nể phục anh từ lúc nào không biết. Bài anh viết thường rất nhân văn, kết thúc có hậu, câu từ mộc mạc y như cuộc sống thường ngày của chị. Chị tưởng tượng, anh phải là người đàn ông lịch lãm dù ở tuổi 60 anh mới viết được những câu chuyện đi vào lòng người như vậy. Những bài thơ tình nồng nàn đong đầy cảm xúc….
Chị là độc giả của anh, chi cũng là dân văn chương nên họ thân nhau là lẽ thường. Thế là từ đó chị và anh thường xuyên chát với nhau. Họ tâm đầu ý hợp đến kỳ lạ ? Họ cùng ý tưởng. Tuy không nói ra, nhưng họ hiểu nhau tình cảm đã ở mức trên tình bạn rồi.
Chị xinh đẹp, nhưng đời tư không may mắn. Chồng chị có người đàn bà khác, và họ đã chia tay nhau. Các con chị ở xa, chị đang sống mình trong căn nhà nhỏ. Chị lên fb viết truyện vì cô đơn, vì muốn giao lưu và nói chuyện với mọi người để lấp khoảng trống cô độc, và chị đã gặp anh.
Anh tình cảm và rất tâm lý, khéo léo, động viên chị. Anh tinh tế và hóm hỉnh trong từng lời ăn tiếng nói, anh hiểu nỗi buồn sâu kín của chị nên luôn làm vui lòng chị mỗi khi chị buồn. Cứ lúc nào rảnh rỗi, là chị kiểm tra xem đèn fb của anh có sáng không để chát với nhau. Chị nhớ anh da diết, dù chưa một lần gặp nhau. Đã bao lần anh gọi video cho chi, nhưng chị không cho thấy mặt. Chị sợ thất vọng khi thần tượng không như suy đoán của mình. Cứ thế họ chát với nhau, gọi điện cho nhau, anh có giọng nói truyền cảm nhẹ nhàng. Cứ một tuần anh không gọi là chị lại thấy nhớ anh …
Cách nhau nửa vòng trái đất. Dẫu chị rất muốn gặp anh nhưng không hề dễ dàng gì. Và dịp đó đã đến, khi anh về nước. Anh hẹn gặp chị ở thành phố nơi chị đang sống.
Anh hẹn gặp chị ở một quán cà phê sân vườn yên tĩnh. Lúc chị đến, anh đã ngồi đó từ bao giờ, ly cà phê đã vơi đi một nửa. Anh mặc áo sơ mi trắng, màu áo mà chị thích nhất. Chị nhìn anh, đúng như chị tưởng tượng. Anh chìa bàn tay ra bắt tay chị thay cho lời chào hỏi.Anh ăn mặc giản dị, áo sơ mi trắng ngắn tay, gương mặt hơi góc cạnh đầy vẻ nam tính, nhưng phảng phất nét buồn sâu lắng. Anh không vồn vã với chị, không săn đón chị, thay vào đó là sự điềm tĩnh hỏi han chị ân cần của một người anh. Qua ánh mắt của anh, chị thấy tim mình rung động, vì ánh mắt ấy ấm áp đầy tình thương mà chị từng ấp ủ yêu thương.
Họ nói chuyện rất nhiều, rất lâu, không ồn ào, mà to nhỏ những lời tâm sự dành cho nhau. Anh kể anh đang sống với một người vợ bệnh tiểu đường nhiều năm, căn bịnh biến chứng và chị đã đoạn chi…. Anh thương vợ, thương con, nên cứ ở vậy, chăm vợ hết sức cẩn thận. để giữ mạng sống cho vợ được lúc nào hay lúc nấy, để các con anh còn có mẹ trong đời.
Chị nghe xong im lặng, chị chớp mắt, nuốt vội nước mắt vào lòng. Anh nắm bàn tay chị bóp nhè nhẹ như một lời xin lỗi. Để cho cảm xúc đi qua chị nói: “anh tuyệt vời quá!” Anh còn tuyệt vời hơn khi dũng cảm nói ra sự thật. Một sự thật hơn những bài anh viết trên mạng khi anh đăng tải. Chị thấy tim mình rưng rưng và chua xót vô cùng.
Như chợt nhớ điều gì, chị rút vội tay về. Anh cầm lấy hai bàn tay chị, nhìn sâu vào đáy mắt chị và nói “anh xin lỗi”. Chị không nói lời nào. Lúc nầy chị thật sự không kìm chế được nữa, đôi vai chị run nhè nhẹ. Chị đã khóc. Anh im lặng.Tất cả như dừng lại lúc nầy.
Dùng dằng mãi chị mới đủ nghị lực để ra về, để rời xa anh. Anh hẹn, sắp tới anh sẽ tới thăm chị, vì anh có công chuyện cần làm trong vài ngày tới. Chị gật đầu, để mặc cho anh ôm vai tạm biệt chị lần cuối…
Chị ra về, trong lòng cứ ám ảnh mãi câu chuyện gia đình anh. Hình ảnh của anh cứ chập chờn trong đầu chị. Đắn đo mãi chị mới quyết định.
Chị đọc lại tất cả những dòng tin nhắn của anh. Cuối cùng rồi nhắn tin cho anh : “Cảm ơn anh đã gặp em, anh là người chồng tuyệt vời, người cha mẫu mực. Anh mãi là người bạn tốt nhất của em. Anh nhớ giữ sức khỏe, để chăm sóc cho chị ấy. Chúng ta không nên gặp nhau nữa.Tạm biệt anh”. Rồi chị vội vã bấm nút “Chặn”, trong tích tắc, hình ảnh anh vụt biến mất trong facebook của chị.
Chị buông mình xuống giường. Chị khóc như một đứa trẻ con bị ức hiếp. Chị biết nếu còn gặp anh là chị sẽ phá nát gia đình anh, bởi vì, cái lằn ranh giới hạn của tình bạn đã mỏng manh như sợi tơ mành. Từ đây chị sẽ buồn khi không còn ai “tri kỷ”nữa. Ngoài trời mưa rả rích rơi rơi….