Người thứ 279 – PIERRE BELLEMARE

Người thứ 279 – PIERRE BELLEMARE – truyện ngắn

Đào Duy Hòa phỏng dịch

Ngày 23 tháng 12 năm 1964. Chỉ còn 2 ngày nữa là Noel, bầu trời San Francisco nắng đẹp rực rỡ. Ðó là 2 lý do khiến cho đông đảo du khách chọn San Francisco làm điểm đến. San Francisco là thành phố biển của Hoa Kỳ và là một trong những vịnh đẹp nhất thế giới.

Khoảng 15 khách có mặt trên du thuyền của Horace Wilson. Với mái tóc và chòm râu bạc trắng rất nghệ sĩ, Horace Wilson gắn bó với San Francisco gần nửa đời người với vai trò hướng dẫn viên du lịch. Ông không chỉ thuộc mọi ngõ ngách của San Francisco như lòng bàn tay mà còn am hiểu lịch sử hình thành của thành phố này.

Horace Wilson hướng mũi tàu về phía Golden Gate Bridge, cây cầu huyền thoại thu hút sự chú ý của mọi du khách.

Trong cái se lạnh của mùa Ðông, đường nét tao nhã của cây cầu nổi bật trên nền trời tuyệt đẹp. Golden Gate Bridge là tác phẩm kiến trúc hiếm hoi thể hiện được sự hài hòa giữa kỹ thuật và thẩm mỹ. Máy ảnh được đưa lên ngắm và bấm liên tục. Ðợi cho du khách thỏa mãn với những bức ảnh chụp được, Horace thuyết minh: “Cầu Golden Gate bắt đầu xây dựng năm 1933 và hoàn thành năm 1937. Với khoảng cách giữa hai trụ cầu là 1,280 mét, Golden Gate chiếm kỷ lục là cây cầu treo dài nhất thế giới. Nhưng chi tiết lạ lùng nhất về chiếc cầu này chính là biệt danh “cây cầu của những người tự tử” mà người ta đặt cho nó”.

Mọi người ngưng chụp hình và chăm chú lắng nghe. Quay lưng về hướng cây cầu, Horace kể tiếp:

– Nếu một trong số quý vị muốn tự kết liễu cuộc đời, tôi đề nghị quý vị hãy đến cầu Golden Gate vì đó là nơi tự tử chắc ăn nhất. Cho đến giờ phút này, tất cả 278 người mưu toan tìm cái chết đều được toại nguyện. Tại sao ư? Trước hết, như quý vị thấy đấy, cây cầu cao không dưới 67 mét! Ðộ cao này đủ để quý vị ngất xỉu khi chạm mặt nước. Trường hợp quý vị vẫn còn tỉnh táo thì cái lạnh thấu xương cũng không buông tha. Quý vị sẽ ngất xỉu vì lạnh ngay tức khắc hoặc vài phút sau đó, bởi tại vịnh biển này có một dòng nước lạnh cóng chảy từ Bắc cực xuống. Không một ai có thể chịu đựng được hơn vài phút…

Nhìn về hướng cây cầu, nhóm du khách đồng loạt “ồ” lên hoảng hốt. Horace quay phắt lại theo phản xạ tự nhiên. Ông chỉ thoáng thấy một bóng đen xoay tít trong không gian và đâm chúi xuống nước. Horace ra lệnh cho du thuyền trực chỉ về phía người bất hạnh, miệng thốt lên: “Người thứ 279”.

Bác sĩ Stanley Higgins, trưởng ca trực bệnh viện, nhìn người thứ 279 nằm thiếp trên giường. Chị ta khoảng 30 tuổi, sắc vóc cân đối, khá đẹp: mái tóc dài đen tuyền, nước da ngâm đen; hẳn chị ta là một người lai da màu hoặc là người đến từ các đảo thuộc vùng biển Thái Bình Dương. Nhưng đây chỉ là phỏng đoán bởi chị ta không mang theo người bất cứ giấy tờ tùy thân nào.

Người thoát nạn từ từ mở mắt. Bác sĩ Higgins nghiêng về phía chị và nở nụ cười tươi. Tuy đảm nhiệm trọng trách trong bệnh viện, nhưng năm nay Higgins mới có 35 tuổi, gương mặt khá điển trai phảng phất nét trí thức, thân hình rắn rỏi, khỏe mạnh. Hình ảnh đầu tiên mà chị nhìn thấy lúc trở lại với sự sống quả là khá dễ chịu.

Lời nói đầu tiên của chị ta không có gì đặc biệt, dường như đây là câu nói “truyền thống” của hầu hết những người cùng cảnh ngộ:

– Tôi đang ở đâu vậy?

Câu trả lời được thốt lên bằng một giọng nói đầy tự tin:

– Ở bệnh viện. Chị thấy ổn chứ?

Người bất hạnh bỗng nấc lên nghẹn ngào. Chị ta ngồi dậy để lộ thân hình lực lưỡng. Trông chị to lớn như một thanh niên, chiều cao không dưới 1.80 mét, đôi vai rộng, cuồn cuộn cơ bắp như một lực sĩ bơi lội. Chính tầm vóc lực sĩ khoẻ mạnh ấy đã giúp chị thoát chết. Chị ấp úng:

– Sao tôi vẫn còn sống như thế này?

– Sao chị vẫn sống ư? Tôi cũng tự hỏi có phải đây là phép lạ? Người ta không thể cho rằng chị đã giả bộ tự tử, tất cả những người nhảy từ cầu Golden Gate xuống biển đều thật sự muốn tìm cái chết. Trường hợp của chị quả là một phép lạ, và phép lạ đó xuất phát từ chính chị.

– Từ tôi?

– Vâng. Có những trường hợp người bất hạnh muốn về bên kia thế giới, nhưng phản xạ tự nhiên, bản năng sinh tồn… Chị hẳn là một tay bơi cừ khôi?

– Tôi nguyên là cựu vô địch bơi lội của đảo Hawaii.

– Chị cũng là một tay nhào lặn cừ khôi vì các nhân chứng thuật lại rằng cú phóng chúi xuống mặt nước của chị được thực hiện một cách hoàn hảo, y như một vận động viên nhào lặn chuyên nghiệp, không chê vào đâu được! Chính tính chuyên nghiệp đó đã giúp chị không bị tổn thương lúc tiếp xúc mặt nước sau khi rơi tự do ở tốc độ cao. Mặt khác, thể tạng lực sĩ của chị khiến chị không những chịu đựng được cú va chạm mà ngay sau đó chị đã tự động bơi như một rôbốt…

– Thực sự tôi không nhớ rõ những gì đã diễn ra.

– Một điều may mắn nữa là chiếc thuyền chở du khách của Horace có mặt cách nơi chị phóng xuống không xa mấy. Tôi nghĩ là chị nên nói lời cám ơn ông ta.

– Cám ơn về điều gì? Tôi muốn chết kia mà.

– Chị có biết rằng lúc Horace đến nơi thì chị cũng vừa ngất rồi không? Chị có biết rằng Horace đã không ngại hiểm nguy nhảy xuống nước lạnh thấu xương để cứu chị? Vả lại, năm nay ông ta đã 70 tuổi.

Người phụ nữ thở dài hối hận.

– Ông ấy không nên làm thế. Dù sao thì tôi cũng lấy làm tiếc.

– Horace sẽ sớm hồi phục lại thôi. Ông ta đang ở phòng bên cạnh. Tôi vừa mới khám cho ông ta. Ông ta chỉ bị cảm lạnh. Nhưng tôi muốn trở lại câu chuyện của chị. Chị sống ở Hawaii à?

– Vâng, đúng thế.

– Tôi có thể biết tên chị được không?

– Isabelle Kainoa.

– Chị được bao nhiêu tuổi?

– Ba mươi hai.

– Sức khoẻ của chị không có gì trầm trọng.

– Tôi không quan tâm đến điều đó.

– Hẳn là như thế. Nhưng hiện giờ thì chị vẫn còn sống, chắc là chị muốn mình đi đứng bình thường hơn là ngồi trên chiếc xe lăn. Rất may là điều tệ hại đó đã không xảy ra. Chị chỉ bị bong gân và chấn thương cơ bắp. Thực sự không có gì trầm trọng, sẽ không có một di chứng nào. Việc bình phục chỉ còn là yếu tố thời gian.

Lần đầu tiên từ lúc tỉnh lại, nụ cười nở trên môi Isabelle, nhưng chỉ là nụ cười buồn, héo hắt.

– “Không có gì trầm trọng”, bác sĩ nghĩ vậy sao?

– Chị có bị bệnh gì không?

– Vâng có đấy. Tôi bị bệnh phong!

– Bệnh phong? Và đó chính là lý do khiến chị không thiết sống nữa?

Isabelle xác nhận bằng cái gật đầu. Bác sĩ Stanley nhẹ nhàng đặt tay mình lên vai Isabelle. Vào năm 1964, bệnh phong chưa hoàn toàn bị xóa sổ, ngay cả ở các nước phát triển. Lúc bấy giờ Hawaii đã trở thành tiểu bang thứ 50 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

– Isabelle, chị có thể cho tôi biết chị bị bệnh phong trong trường hợp nào?

– Năm 10 tuổi, tôi sống với mẹ tôi ở Hawaii. Mẹ tôi bị bệnh phong và lây sang tôi.

– Chị có được điều trị không?

– Có chứ! Mẹ và tôi được điều trị tại một bệnh viện đặc biệt. Sau một năm, họ bảo rằng tôi đã khỏi bệnh. Tôi ngờ rằng họ chưa điều trị chúng tôi đến nơi đến chốn vì lúc bấy giờ là thời chiến mà.

– Bệnh phong của chị tái phát?

– Không phải ngay sau đó. Tôi đã tìm lại ý nghĩa cuộc sống. Tôi lao vào luyện tập môn bơi lội. Mọi người cho rằng tôi là người phụ nữ khoẻ mạnh ít ai sánh kịp. Năm 20 tuổi, tôi lấy chồng. Chúng tôi sống rất hợp ý nhau và đã có ba đứa con. Mọi việc diễn ra tuyệt vời cho đến khi tôi hạ sinh đứa thứ tư, June…

Bác sĩ Stanley nhớ rõ những ngày ngồi ghế trường đại học, một vị giáo sư nói rằng bệnh phong ở người phụ nữ có thể tái phát khi sinh con dù trước đó nó đã được trị khỏi. Y học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân.

– Bệnh tái phát khi chị sinh con thứ tư à?

– Ðúng thế. Các bác sĩ đã điều trị cho tôi khỏi bệnh phong nhưng họ cũng cảnh báo rằng bệnh có thể tái phát khi sinh nở. Họ khuyên tôi không nên có thêm con vì nguy cơ lây bệnh sang con là rất cao. Quá tuyệt vọng, tôi đã xuống tàu đến đây được hai tháng.

– Chị có thể ở lại Hawaii cơ mà.

– Tôi không thể. Còn nỗi khổ nào bằng ở gần con mà không được gặp mặt chúng. Thà rời xa chúng còn hơn.

– Còn chồng chị thì sao?

– Về nguyên tắc, tôi được phép gặp mặt chồng, nhưng tôi đã từ chối. Tôi sợ sẽ lây cho anh ấy. Và tôi cũng sợ… lại mang thai.

Isabelle cúi mặt, thất vọng. Vài phút trôi qua trong im lặng.

– Chồng và hai đứa con lớn vừa gởi cho tôi thiệp chúc mừng Noel. Tốt nhất là họ đừng gởi thiệp Noel bởi điều đó chỉ làm cho tôi thêm đau buồn.

– Tôi hiểu hoàn cảnh của chị.

– Ðèn màu chiếu sáng rực rỡ mừng Noel sắp đến với mọi nhà ở San Francisco. Cửa hàng, vòng hoa, đèn chớp đủ màu… Tại sao mọi người được đoàn tụ, hạnh phúc với gia đình, còn tôi thì không? Tại sao tôi mắc phải chứng bệnh oan nghiệt này? Tại sao có sự bất công như thế?

– Chị Isabelle này, chị quên rằng chị vừa may mắn thoát chết đó sao?

– Ðiều này anh vừa nói với tôi lúc nãy. Tôi muốn chết nhưng buộc phải sống, phải chăng đó là điều may mắn?

– Tôi không đề cập đến chuyện đó.Tôi có quen biết một giáo sư nổi tiếng, chuyên gia về bệnh phong. Ðó là thầy dạy cũ của tôi, thầy Simson. Ông hành nghề ở Oakland, gần đây thôi.

– Tôi làm sao có đủ tiền để điều trị?

– Khoan nói đến chuyện điều trị đã. Trước hết nên làm cuộc xét nghiệm. Biết đâu chị đã hoàn toàn khỏi bệnh phong.

– Ở Hawaii, họ bảo bệnh phong tái phát.

– Các bác sĩ ở Hawaii làm sao sánh kịp Giáo sư Simson. Khi đến đây, chị không bao giờ nghĩ đến chuyện đi khám xem hư thực ra sao?

– Không, vì tôi tin vào kết quả ở Hawaii.

– Tôi thì không nghĩ như thế. Tình trạng sức khoẻ của chị hiện tại không cho phép chị đến chỗ Giáo sư Simson. Tôi sẽ cố thuyết phục ông ta đến đây.

Bác sĩ Stanley Higgins đã đoán đúng. Với những phương tiện hiện đại mà các đồng nghiệp ở Hawaii không có, Giáo sư Simson đã làm cuộc xét nghiệm đầy đủ cho Isabelle Kainoa. Kết quả chính thức được công bố: Isabelle Kainoa hoàn toàn dứt hẳn bệnh phong. Giáo sư Simson ký giấy xác nhận cho phép Isabelle về đoàn tụ với chồng con.

Sau khi hồi phục, Isabelle quay về với gia đình. Người thứ 279 tìm cái chết trên cầu Golden Gate, sống hạnh phúc bên chồng con.

Với chị đây quả là một phép lạ kỳ diệu.  

From: TU-PHUNG

Gone with the wind – Cuốn theo chiều gió

Gone with the wind – Cuốn theo chiều gió

“Gone with the wind” là một tác phẩm nổi tiếng thế giới, được Margaret Mitchell (1900-1949) sáng tác vào năm 1937. Đây cũng là tác phẩm duy nhất trong sự nghiệp văn chương của bà viết về cuộc nội chiến Nam – Bắc Hoa Kỳ, dựa vào bối cảnh tại Georgia và Atlanta thuộc miền Nam trong suốt thời chiến tranh và tái thiết đất nước.

Margaret Mitchell (1900-1949) và tác phẩm

Tác phẩm đã được dịch sang rất nhiều thứ tiếng, riêng về tiếng Việt đã có rất nhiều bản dịch với cùng một nhan đề là “Cuốn theo chiều gió”. Đó là một tựa sách “không thể nào hay và đầy đủ ý nghĩa hơn” so với tựa đề nguyên bản. Các dịch giả cũng gồm cả những người trong Nam trước năm 1975 như Vũ Kim Thư hoặc ngoài Bắc sau này như Dương Tường.

“Cuốn theo chiều gió”

“Cuốn theo chiều gió” là một cuốn “trường thiên tiểu thuyết” đã giành giải Pulitzer. Thoạt đầu Margaret Mitchell có ý định đặt nhan đề “Tomorrow is another day” (Ngày mai là một ngày khác) cho cuốn sách, lấy từ câu kết thúc tác phẩm, thay vì tựa đề “Gone with the wind” như chúng ta biết đến ngày nay.

Nội dung chính của câu chuyện diễn ra trong suốt 12 năm (từ 1861 đến 1873), xoay quanh cuộc đời của nhân vật chính Scarlett O’Hara từ khi còn là một thiếu nữ 16 tuổi tại trang trại Tara của gia đình tại Georgia. Đến khi trưởng thành tại miền Nam, cô có tới 3 đời chồng và có 3 đứa con.

Đây là giai đoạn nước Mỹ xảy ra cuộc nội chiến (1861-1865) giữa hai miền Nam-Bắc. Miền Bắc chủ trương giải phóng nô lệ với 25 tiểu bang ủng hộ chính quyền Liên bang của Tổng thống Abraham Lincoln, trong khi 11 tiểu bang miền Nam chống lại và quyết định ly khai lập thành Liên minh miền Nam (Confederacy).

Nội chiến Nam – Bắc

Georgia là một trong các tiểu bang miền Nam, nơi kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào các đồn điền trồng bông vải, tận dụng sức lao động của nô lệ da đen trong một xã hội trật tự theo lối xưa, trọng tình nghĩa, thứ bậc, khá gần với kiểu phong kiến châu Âu. Các tiểu bang miền Bắc có nền kinh tế nghiêng về công nghiệp, hướng theo lối làm ăn tư sản.

Mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm khi Lincoln thắng cử tổng thống năm 1860, và cuộc nội chiến duy nhứt trong lịch sử Mỹ đã diễn đã diễn ra. Thất bại sau cùng thuộc về phe miền Nam, họ yếu thế hơn hẳn, xét về dân số, quân số, tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự.

Trong cuốn truyện, cuộc nội chiến Mỹ được kể lại rất sinh động từ góc nhìn của những người dân miền Nam. Ban đầu họ tự tin tới mức ngạo nghễ, xem thường đối phương từ ngay cách gọi khinh miệt “Bọn Yankee”, coi chiến thắng là điều tất nhiên.

Sau đó dần dần từ quan tới lính và dân miền Nam đều nhận ra thất bại là không thể nào tránh khỏi, nhưng họ vẫn nỗ lực hết mình trong một cuộc “chiến tranh nhân dân” đầy hào khí.

Những suy nghĩ, những sinh hoạt của người Georgia trong giai đoạn này được miêu tả vô cùng sinh động và kỹ lưỡng, qua nhiều câu chuyện về nhiều nhân vật khác nhau: thanh niên, phụ nữ, người già và cả người nô lệ da đen.

Nhiều năm sau khi miền Nam đã bị đánh bại, cái hố sâu ngăn cách giữa hai miền vẫn còn, việc đối xử của chính quyền thắng trận với các tiểu bang thua trận cũng gây ra vô số vấn đề phức tạp, dẫn đến phản ứng của dân miền Nam khi lập ra “đảng áo trắng” Klu Klux Klan, kỳ thị người da đen.

“Đảng Áo Trắng” Ku Klux Klan kỳ thị chủng tộc tại Miền Nam

Độc giả Việt Nam không thể không liên tưởng cuộc nội chiến Mỹ với cuộc chiến tranh 54-75 tại quê hương. Có điều, tại Mỹ đã không xảy ra tình trạng “cải tạo”, “đánh tư sản”, “đi kinh tế mới” hoặc “đổi tiền” như tại miền Nam Việt Nam.

Tác phẩm cũng cho ta cái nhìn tổng quát về chiến tranh, hàng loạt những quan điểm về chiến tranh được tác giả lồng ghép, khi mà kẻ thắng và người thua thực chất vẫn là kẻ thất bại, ngay từ khi họ phát động chiến tranh. Thứ chính nghĩa mơ hồ chẳng là gì so với những mất mát người dân phải trả giá.

Những câu chuyện của thời chiến, về sự chia cắt và sự thiếu thốn, được đặc tả rất thật, để độc giả hiểu được cái giá quá đắt của chiến tranh, đó là mạng người và cuộc sống bình thường ai cũng khao khát. Điều này được thể hiện rất rõ qua sự ám ảnh của nhân vật chính Scarlett: luôn bị đói, thiếu thốn mọi bề.

Scarlett biết rằng người nàng thầm yêu từ lâu, Ashley Wilkes, chuẩn bị đính hôn với cô em họ là Melanie Hamilton ở Atlanta. Scarlett cho rằng Ashley có ý định đính hôn vì chàng không biết nàng đã yêu mình. Nàng quyết định sẽ thổ lộ tình yêu với chàng và rủ chàng đi trốn. Nhưng mọi thứ không theo kế hoạch của Scarlett vì tuy Ashley ân cần với nàng nhưng nói rằng chàng vẫn sẽ cưới Melanie trước khi lên đường nhập ngũ.

Scarlett đã nhận lời lấy Charles Hamilton để “trả thù” Ashley. Cuộc Nội chiến nổ ra và các chàng trai phải đi nhập ngũ. Số phận thật nghiệt ngã, Charles đã chết vì bệnh đậu mùa ở căn cứ Nam Carolina trước khi có dịp ra chiến trường, để lại cho nàng một đứa con trai.

Scarlett đến Atlanta, tại đây cô nhanh chóng hòa mình vào sự nhộn nhịp và hối hả của thành phố này. Tại đây, nàng đã gặp Rhett Butler, người trước đây vẫn thường trêu chọc nàng. Giờ đây Rhett là một thuyền trưởng vượt phong tỏa, chuyên chở các mặt hàng thiết yếu cho miền Nam.

Kể từ đó mối quan hệ giữa Scarlett và Rhett được cải thiện. Rhett bằng bản tính hài hước, hay trêu chọc Scarlett và cố làm cho nàng vui. Tuy nhiên gần như cả thành phố đều căm ghét hắn. Trong khi đó Scarlett lúc nào cũng chỉ nghĩ đến Ashley.

Ashley chỉ quan tâm đến vợ mình, Melanie, và ngày Ashley rời nhà trở lại chiến trường, Scarlett lại một lần nữa thổ lộ tình yêu với chàng hi vọng chàng sẽ bỏ vợ để cưới nàng nhưng chàng không nói gì và nhờ nàng chăm sóc Melanie nếu chàng có mệnh hệ gì ngoài chiến trường.

Nội chiến Mỹ dưới hai màu cờ Bắc – Nam

Ở Phần 3 của truyện, cuộc nội chiến ngày càng diễn biến bất lợi cho miền Nam, người dân thành phố Atlanta phải di tản. Scarlett và Melanie không thể đi cùng mọi người vì Melanie đang có thai và có thể sinh con bất cứ lúc nào.

Sau khi Melanie sinh con, Scarlett phải cầu cứu Rhett và anh đã lấy cắp của quân đội một chiếc xe ngựa để chở Scarlett, Melanie và con chạy khỏi Atlanta. Tuy vậy, đi đến giữa đường thì Rhett bỏ mặc họ để gia nhập quân đội. Trước khi đi, anh hôn nàng và nói yêu nàng nhưng Scarlett giận dữ, chửi rủa và tát anh thẳng cánh.

Scarlett trở về đồn điền Tara khi mẹ mất, ngôi nhà bị tàn phá nặng nề, phần lớn các nô lệ đã bỏ trốn. Giờ đây, Scarlett trở thành chủ nhân đích thực của đồn điền bông vải và với bản tính ngoan cường, cách suy nghĩ thực tế, nàng dần vực dậy trang trại, làm mọi công việc, kể cả những việc mà khi xưa chỉ có nô lệ làm.

Chiến tranh kết thúc, nhưng một lần nữa số phận nông trại lại bị đe doạ khi “Chính phủ Yankee” tăng tiền thuế của đồn điền khiến Scarlett phải nhượng lại Tara cho tên quản gia Jonas Wilkerson, người Yankee và cũng là một kẻ da trắng cặn bã.

Để có tiền cứu Tara, Scarlett phải đến Atlanta mượn tiền Rhett. Lúc này Rhett vô cùng giàu có nhưng có lúc cũng phải ngồi tù. Scarlett đến thăm Rhett để mượn một khoản tiền mà không để anh biết là nàng đang cố tán tỉnh anh… chỉ vì tiền.

Nàng đã gần như thuyết phục được Rhett cho đến khi mắt anh thấy bàn tay chai sần của Scarlett, bằng chứng cho những công việc nặng nhọc mà nàng đã làm vì hoàn cảnh gia đình, khiến cô phải thú nhận mục đích thật sự của chuyến viếng thăm chỉ vì tiến khiến Rhett đã từ chối.

Trong cơn tuyệt vọng, Scarlett tình cờ gặp Frank Kennedy, chồng chưa cưới của Suellen, nay đã là chủ một cửa hàng và có một khoản tiền kha khá. Scarlett nói dối rằng Suellen đã lấy người khác và quyến rũ Frank để lấy mình.

Scarlett đã thành công với việc quyến rũ Frank và có tiền cứu Tara. Trong khi đó, Rhett ra tù và cho nàng mượn tiền để có thể mua thêm xưởng cưa với điều kiện: không được dùng tiền giúp Ashley Wilkes.

Scarlett điều hành xưởng cưa rất thành công nhưng nó cũng làm cho nàng bị nhiều dị nghị vì đó không phải là việc dành cho phụ nữ. Nàng đã có thai với Frank nhưng vẫn thường xuyên làm việc nơi công cộng nên ngày càng nhiều người khinh ghét.

Scarlett đã mời Ashley trở lại Atlanta giúp nàng điều hành xưởng cưa và ngăn chàng lên miền bắc kiếm việc làm. Ashley lưỡng lự nhưng Melanie kiên quyết đồng ý nên Ashley đành chiều theo ý vợ.

Sau khi sinh con, Scarlett thường xuyên lái xe ngựa một mình đến xưởng cưa mặc dù đã nhiều lần được cảnh báo về sự nguy hiểm. Một ngày nọ nàng bị một tên da trắng nghèo khổ và một tên da đen giải phóng tấn công và suýt bị cưỡng hiếp. May mắn có Big Sam, một nô lệ da đen từng làm việc ở Tara, đã cứu nàng kịp thời.

Frank, Ashley và một số người đàn ông khác thuộc đảng Ku Klux Klan phải đi trả thù và kết cục là Ashley bị thương và Frank bị giết. Còn các thành viên khác được Rhett tìm cách cứu họ. Sau cái chết của Frank, Rhett ngay lập tức cầu hôn Scarlet trước khi nàng có thể lấy một người nào khác.

Và đây là tâm trạng của Scarlet trước lời cầu hôn của Rhett trong hồi kết của “Cuốn theo chiều gió”:

“Bây giờ mình chưa nghĩ đến chuyện đó vội”, nàng nghĩ thầm, vận dụng câu thần chú quen thuộc: “Bây giờ mà mình nghĩ đến nỗi mất chàng, thì mình phát điên mất. Để đến mai đã”.

Scarlett sau đó cũng sinh cho Rhett một đứa con gái mặc dù nàng cũng không hề muốn. Chỉ vì “tình đầu” với Ashley, Scarlett kiên quyết không ngủ chung với chồng để tránh việc mang thai lần nữa. Rhett tức giận và cãi cọ liên tục với nàng về mối quan hệ bạn bè, cách nuôi dạy con cái. Anh muốn con gái mình sẽ trở thành một công chúa trong tầng lớp thượng lưu miền Nam cũ. Rồi Rhett cùng với con gái đi khỏi Atlanta…

Trong một lá thư viết ở thời điểm 5 tháng sau khi “Gone with the wind” được xuất bản và nhanh chóng trở thành sách bán chạy nhất tại Mỹ hồi năm 1936, tác giả Margaret Mitchell viết:

“Về kết thúc của cuốn tiểu thuyết và liệu rằng Rhett có quay về với vợ không, thực tình chính tôi cũng không biết. Tôi thực sự chưa bao giờ nghĩ về tương lai của các nhân vật sau khi câu chuyện khép lại. Tôi không hề lên kế hoạch trước cho tác phẩm, vì vậy, số phận các nhân vật cũng nằm ngoài khả năng tiên đoán và dự liệu của tôi”.

Tác phẩm “Gone with the wind”

Phim “Gone with the wind” do David O.Selznick sản xuất với đạo diễn Victor Fleming và kịch bản của Sidney Howard. Bộ phim được quay ở miền Nam nước Mỹ trong thời nội chiến. Các diễn viên chính bao gồm: Clark Gable, Vivien Leigh, Leslie Howard, Olivia de Havilland và Hattie McDaniel.

Ra mắt từ năm 1939 nhưng đến nay cuốn phim vẫn đứng đầu danh sách 100 bộ phim có doanh thu thành công nhất tại Mỹ. Kể từ khi được phát hành, “Cuốn theo chiều gió” đã đạt gần 2 tỷ USD doanh thu theo quy đổi lạm phát đồng tiền.

Poster phim “Gone with the wind”

Trong phim, tác giả đã để Rhett Butler nói một câu chửi thề “rất thật” với Scarlett O’Hara khiến độc giả phải ngỡ ngàng. Câu chửi thề bày tỏ mối quan tâm của người dân Mỹ sau cuộc nội chiến nói riêng và cả những suy nghĩ về chính trị của mọi người trong thời đại này.

“Frankly, my dear, I don’t give a damn”

(Thật lòng mà nói, em yêu à, anh cũng đếch thèm quan tâm!).

Nhân vật phụ “bà vú” Mammy do Hattie McDaniel thủ vai nhận được giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Bà là người phụ nữ Mỹ gốc Phi nhận được vinh dự tại giải của Viện Hàn lâm. Sự thật đáng buồn đã xảy ra tại buổi lễ trao giải Oscar, bà đã không có cơ hội được ngồi cùng những người người bạn đồng diễn chỉ vì là người da đen và phải ngồi ở khu vực riêng tách biệt.

Đứng từ quan điểm xã hội, “Cuốn theo chiều gió” bị chỉ trích vì các tình tiết dường như hướng đến việc cổ xúy chế độ nô lệ ở miền Nam nước Mỹ. Trong phim, những nhân vật da trắng được khắc họa đầy lý tưởng, tao nhã, khớp với hình mẫu “anh hùng”, trái ngược những người Mỹ gốc Phi luôn ở thế dưới, đóng vai những người hầu phục vụ họ.

“Bà vú da màu” Mammy do Hattie McDaniel thủ vai nhận được giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất

Nữ diễn viên Vivien Leigh hình như sinh ra để trở thành nàng Scarlett O’Hara đầy cá tính còn Clark Gable nhiều năm qua đóng khung với Rhett Butler. Họ yêu nhau trong phim nhưng lại là những người xa lạ phía sau ống kính.

Với nụ cười nửa miệng, Clark Gable như chàng Rhett Butler bước ra từ tiểu thuyết. Phía sau ống kính, Gable hóa ra lại không thích bộ phim và nhân vật của chính mình như người ta tưởng tượng.

Nữ diễn viên Olivia de Havilland, người đóng vai cô em họ Melanie trong phim, từng chia sẻ về những câu chuyện phía sau ống kính khi bà bước vào tuổi 100.

“Tôi được biết Clark Gable không thích cuốn tiểu thuyết này. Theo anh ấy, “Cuốn theo chiều gió” là câu chuyện về những người phụ nữ. Tại thời điểm đó, anh đang hoàn tất thủ tục ly hôn, anh ấy ghét nhân vật Rhett Butler. Thực tế là anh ấy cần tiền để giải quyết ly hôn, anh ấy cần đóng bộ phim này vì tiền”.

Clark Gable và Vivien Leigh trong phim

Mối quan hệ giữa Vivien Leigh và Clark Gable còn bị miêu tả là “bất hòa”. Trong một lần phỏng vấn, Vivien Leigh thẳng thắn nói: “Hôn Clark Gable không hề thú vị chút nào. Tôi không thích hàm răng giả và hơi thở đầy mùi của anh ta”.

Một điều khiến Vivien Leigh không ưa Clark Gable còn vì khoảng cách thù lao quá lớn giữa hai người. Cô phải làm việc trong 125 ngày và được nhận 200 USD một ngày. Trong khi bạn diễn nam làm việc trong 10 tuần và nhận 12.000 USD cho mỗi tuần. Điểm chung giữa Clark Gable và Vivien Leigh trên phim trường có chăng là thuốc lá. Clark Gable có thể hút 3 bao thuốc mỗi ngày còn Vivien Leigh hút tới 4 bao.

Họ cũng có những bước ngoặt buồn trong cuộc đời. Vivien Leigh từ một ngôi sao hàng đầu trở thành nữ diễn viên bị chê gàn dở, tâm thần bất ổn, nghiện rượu. Vivien Leigh ly hôn Laurence Oliviver vào năm 1961 và qua đời vì bệnh lao khi mới 54 tuổi. Clark Gable từng rơi vào giai đoạn bế tắc vì rượu và chất kích thích sau khi bạn đời Carole Lombard qua đời do tai nạn máy bay. Ông mất năm 1960 do đột qụy ở tuổi 59.

Cảnh trong phim “Gone with the wind”

Chiến tranh bao giờ cũng tàn nhẫn. Dù đó là một cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ hay là cuộc chiến đã qua tại Việt Nam. Số phận của người phụ nữ dù không thực sự dấn mình trong lằn tên mũi đạn nhưng hậu quả của chiến tranh vẫn luôn ám ảnh cả trong thời chiếnlẫn thời bình!

Nguyễn Ngọc Chính

From: TU-PHUNG

Chuyện tình chàng giáo sinh yêu nàng thơ khiếm thị

Lê Quốc Quân

BÁO CÔNG AN NHÂN DÂN VIẾT VỀ CHUYỆN TÌNH CỦA ANH HÙNG “ GÀN” và CHỊ LÊ NA (tâm hồn đẹp này giờ đang bị kết án 5 năm tù vì tình yêu của anh với đất nước)

Chuyện tình chàng giáo sinh yêu nàng thơ khiếm thị

17:52 10/10/2011

Trong cuộc sống có không ít mối tình cổ tích được xây lên từ những người yêu thơ, rồi say mê tác giả. Nhưng có lẽ mối lương duyên bắt nguồn từ thơ của một anh giáo ở tận miền đất sơn cước địa đầu Tổ quốc với cô nữ sinh khiếm thị lại là một câu chuyện tình hiếm hoi khiến nhiều người ngưỡng mộ, cảm phục.

Chàng trai đó là Lê Trọng Hùng (32 tuổi, Minh Lương, Văn Bàn, Lào Cai) đã bỏ một công việc ổn định với nhiều cơ hội thăng tiến, lặn lội từ Lào Cai xuống Hà Nội để tìm gặp và yêu người con gái khiếm thị đã làm anh say mê từ một bài thơ anh vô tình được nghe trên một chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam cách đây 10 năm.

Xin làm chàng “Thạch Sanh” yêu “công chúa” cổ tích

Trong căn phòng rộng chừng 15m2 nằm trong ngõ 657 phố Minh Khai (Hoàng Mai, Hà Nội), anh Hùng đang loay hoay pha sữa bột cho con, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc. Sợi dây kết nối trong tổ ấm của anh chị là một cậu bé xinh xắn được chào đời. Lê Trọng Bảo Minh vừa tròn 4 tháng tuổi, bụ bẫm và kháu khỉnh. Bằng sự nhạy cảm và trái tim người mẹ, chị ve vuốt bàn tay bé xíu, chị Na hài hước: “Mọi người đều bảo tôi “đẻ thuê”! Thằng bé giống bố từ đầu đến chân, mỗi bàn tay ngòi bút là “dấu tích” của mẹ”!

Chị Đỗ Lê Na để lại cho tôi một ấn tượng khá đặc biệt từ khi gặp chị trong lần chị bước lên nhận giải nhất cuộc thi viết “Vì trẻ em khuyết tật” do Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Hà Nội và Báo Hà Nội mới tổ chức. Chị là sinh viên khiếm thị đầu tiên được tuyển thẳng vào trường đại học tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Lê Na lại yêu văn học, thích sáng tác, những bài thơ của chị đăng trên tờ báo Hoa Nắng của Trường Nguyễn Đình Chiểu và được chương trình Tiếng thơ của Đài tiếng nói Việt Nam đọc lại mỗi tối.

Lục lại quá khứ, Lê Na bảo, chị không nhớ tình yêu của mình bắt đầu từ lúc nào và phải trải qua biết bao sóng gió, chỉ nhớ rằng, người con trai đó đã nắm tay chị bước qua rất nhiều giông bão, vượt qua những dị nghị của người đời để làm đôi vai, chỗ dựa vững chắc cho chị. Chị nghĩ, chị là người thiệt thòi nên chưa bao giờ hi vọng sẽ lấy người sáng mắt, cũng không tin niềm hạnh phúc, tình yêu và những điều kỳ diệu sẽ ứng nghiệm vào cuộc sống của mình, chỉ có sự cố gắng, nỗ lực vươn lên bằng sự hăng say của bản thân sẽ gặt hái được kết quả tốt đẹp.

Chính vì thế, chị luôn cố gắng phấn đấu, học hỏi, tạo dựng tri thức để giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ. Hướng đôi mắt đục mờ chỉ còn phân biệt được sáng tối nhìn lên để định hướng người đang nói chuyện với mình, chị kể về tuổi thơ đầy sóng gió của mình trong niềm cảm động vô hạn đối với người mẹ. Lê Na vừa sinh ra đã bị bỏ rơi tại Bệnh viện Khe Sanh (Quảng Trị), cô y tá Lê Thị Bích Thủy (người Quảng Bình) lúc đó vừa tròn 20 tuổi, chưa chồng con đã đón nhận về nuôi nấng, dạy dỗ.

Hồi mới sinh, mẹ Na bảo đôi mắt Na rất đẹp, sáng và tinh nhanh hơn những đứa trẻ cùng tuổi khác nhưng càng lớn, thị lực Na càng yếu đi. Đến 6 tuổi, em gái Thùy Linh đi học, Lê Na nằng nặc đòi mẹ được đến trường cùng các bạn, nhưng vì yếu thị lực, trường không dám nhận vì sợ ảnh hưởng đến học sinh khác. Các thầy, cô ngày ngày vẫn thấy một cô bé đứng ngoài cửa sổ, cố gắng nheo nheo đôi mắt đọc những con chữ đang nhảy nhót trên bảng, đã quyết định nhận Na vào lớp nhưng không được nằm trong danh sách là học sinh chính quy của nhà trường.

Vợ chồng Lê Trọng Hùng – Lê Na (giữa) hạnh phúc bên đứa con đầu lòng.

Năm 1993, đội văn nghệ của Trường mù Nguyễn Đình Chiểu vào biểu diễn cho học sinh tại trường học của em Linh. Thấy đoàn có những học sinh khiếm thị đều tiếp cận với kiến thức văn hóa, sách vở, Na xin mẹ theo đoàn để được học chữ như các bạn. Người mẹ thương con, sợ con xa nhà vất vả, cô đơn, lúc đầu do dự, khuyên ngăn, nhưng sau thấy Na quyết chí, mẹ Thủy chấp thuận, lặn lội tìm gặp người quản lý của đội văn nghệ để xin Lê Na theo học.

Một tuần sau, Lê Na giã biệt gia đình, quê hương để lên đường ra Hà Nội học trường Nguyễn Đình Chiểu những năm tiểu học, sau đó nhanh chóng được học hòa nhập tại Trường THCS Minh Khai, THPT Dân lập Nguyễn Đình Chiểu và là một trong 20 học sinh giỏi của Thủ đô Hà Nội năm 2001 – 2002.

Na bảo, chị không đủ tự tin với thiên chức làm vợ, làm mẹ và làm con dâu, phần nữa cũng lo lắng vì sợ người chồng sau này sẽ không cảm thông vì khiếm khuyết của bản thân. Chị cũng không ngờ một anh giáo đang có công việc ổn định, có cơ hội thăng tiến ở tỉnh Lào Cai lại từ bỏ hết những thảm hồng được trải sẵn để làm lại từ đầu với bao nhiêu khó khăn vất vả phía trước chỉ vì yêu đơn phương cô gái khiếm thị có bài thơ khiến anh “say” đến mê mệt.

Chị nhớ như in tin nhắn mà anh gửi: “Anh nguyện làm chàng Thạnh Sanh nắm tay em viết câu chuyện cổ tích về tình yêu. Anh hiểu những điều em đang lo lắng nhưng anh tin, tình yêu sẽ giúp mình vượt qua được tất cả”.

Hạnh phúc bình dị

Nhiều người bảo, văn chương là cầu nối xe duyên cho tình yêu của anh chị, còn anh Hùng chỉ coi đó là “định mệnh”. Là giáo viên Trường THCS Minh Lương (Văn Bàn, Lào Cai) nhưng tâm hồn thầy giáo dạy Hóa rất thích đọc thơ văn, tiểu thuyết.

Vào một đêm trăng năm 2001, chương trình Tiếng thơ của Đài Tiếng nói Việt Nam phát lên giọng đọc ấm áp, ngọt ngào của cô phát thanh viên hai bài thơ “Xa rồi cổ tích” với những câu thơ mềm mượt, nhẹ nhàng đầy tâm sự khiến trái tim anh xao xuyến. Từ đó, anh đam mê và thường xuyên nghe chương trình “Tiếng thơ” với hi vọng mong manh sẽ được nghe lại bài thơ lần nữa. Chờ mãi không thấy, anh gọi điện đến tổng đài yêu cầu được phát lại để anh… chép lại nguyên bản và phổ giai điệu cho học sinh hát lúc giờ sinh hoạt Đoàn, Đội.

Chưa một lần anh được gặp mặt tác giả, anh Hùng tự xây dựng trong tim mình hình ảnh cô gái khiếm thị có tâm hồn mềm mại, đa cảm. Năm 2005, anh quyết định nghỉ dạy ở Trường THCS Minh Lương, đăng ký khóa học tại chức ngành Luật ở Trường Đại học Mở Hà Nội. Anh tìm đến hỏi thăm Trường Nguyễn Đình Chiểu nhưng mọi người bảo cô gái đã đỗ Đại học.

Hà Nội bé nhỏ nhưng mênh mông biển người, biết tìm đâu một cô gái mà anh chỉ biết tên và bài thơ khắc kỹ trong tim? Đôi lúc, anh hoang mang, định bỏ cuộc thì tình cờ, cô bạn học cùng cấp 3 trường hòa nhập với Na biết chuyện đã giúp anh tìm số điện thoại liên lạc. Từ những cuộc điện thoại ngắn của “fan” hâm mộ với tác giả, Hùng lấy hết can đảm đặt vấn đề gặp mặt. “Hôm đó, tôi cố gắng diện thật đẹp, đóng thùng lịch sự, nhưng chợt nhớ ra cô gái không nhìn thấy được gì” – Hùng ngượng ngùng kể.

Người ta nói, những người khiếm khuyết đôi mắt thì bù lại họ cảm nhận rất tinh tế từ những giác quan khác quả không sai. Không cần bắt tướng qua khuôn mặt, cử chỉ, dáng điệu, hình ảnh, Na cảm nhận ở Hùng mộc mạc và chân thành như anh trong những cuộc trò chuyện điện thoại. Những lần đi chơi, anh nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của chị dắt chị đi từng bước, tả cho chị những cảnh vật bên ngoài, về thế giới xung quanh.

Chị cười: “Với tôi, anh là đôi mắt sáng để tôi nhìn và cảm nhận thế giới bên ngoài”. Còn bạn bè chị trầm trồ: “Con trai như anh Hùng bây giờ là “của hiếm” đấy. Có được người yêu như anh ấy là may mắn và hạnh phúc lắm đấy, cậu đừng để đánh mất tình yêu!” Chị chỉ cười thỏ thẻ, giấu đôi má hồng lên vì ngượng và niềm hạnh phúc dâng đầy trong tim.

Anh Hùng đưa cho tôi xem tập thơ Vườn cổ tích của chị Lê Na, kèm theo bài thơ “Cổ tích cho em” mà anh viết tặng chị. Những câu thơ: “Cổ tích cho em không chỉ bây giờ/ Mình lại có mái nhà xinh xắn/ Mình sẽ có những thiên thần xinh xắn/ Không đến từ thiên đàng/ Mà đến từ hai ta…” là nhân chứng cho những chuỗi ngày phải vượt qua lời đàm tiếu, phải chờ đợi, thuyết phục để nhận được sự đồng ý của hai bên gia đình.

Tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả nhưng anh chị vẫn cảm thấy hạnh phúc và trân trọng hơn những gì mình có. Anh Hùng đang làm giáo viên tại Trường THCS Minh Khai, chị Lê Na là cô giáo của Trường Nguyễn Đình Chiểu, anh còn giúp chị dịch sách giáo khoa chuyển ngữ sang chữ Brain. Chị cười, món quà lớn nhất cho tình yêu của chúng tôi là đứa bé xinh xắn và kháu khỉnh. Cháu ăn nhiều nên sữa mẹ không đủ, phải pha sữa bột uống từ 4 tháng tuổi. “Giờ tôi đã tự tin về những kỹ năng làm vợ, làm mẹ và có thể truyền lại kinh nghiệm, kiến thức nuôi con cho bạn khi bạn sinh đứa con đầu” – chị nheo mắt hài hước

https://cand.com.vn/…/Chuyen-tinh-chang-giao-sinh-yeu…/

Văn Quỳnh Lưu

ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH…

GÓC SUY GẪM…

ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH…

Một người đàn bà nghèo khổ bế đứa trẻ đi ăn xin, một lần bà ta đi ngang qua một cái hang. Bỗng nghe văng vẳng bên tai:”

Ngươi có thể vào trong và lấy bất cứ thứ gì mình muốn, nhưng đừng quên cái chính và hãy nhớ một điều: sau khi ngươi trở ra thì cửa hang sẽ đóng lại vĩnh viễn, tuy vậy hãy lợi dụng cơ hội hiếm có này và nhớ đừng quên cái chính”.

Nghe lời bà ta đi vào trong hang. Bà bị lóa mắt bởi vô số những thứ quý giá: vàng bạc, châu báu, kim cương. Bà ta đặt đứa con xuống và bắt đầu nhặt mọi thứ có thể và nhét hết vào mọi nơi trên người. Bên tai văng vẳng lời nhắc nhở: “ngươi chỉ có 8 phút thôi và đừng quên cái chính !”.

Sau khi đã nhét đầy người vàng bạc châu báu cũng là lúc hết giờ. Bà ta vội vã rời khỏi hang, cũng là lúc cửa hang đóng sập lại. Chợt bà ta sực nhớ đến đứa trẻ còn ở trong hang. Bà ta vứt tất cả vàng bạc châu báu đã lấy được và lăn ra khóc lóc vật vã. Nhưng chẳng ích gì vì cửa hang đã vĩnh viễn đóng lại.

Trong cuộc đời chúng ta cũng có khoảng 80 năm để sống ở đời và từ trong sâu thẳm đáy lòng luôn có một âm thanh nhắc nhở chúng ta:

“ĐỪNG QUÊN CÁI CHÍNH”.

Nhiều khi con người vì ham kiếm thật nhiều tiền bạc, nhiều khi ăn chơi vô độ, hoặc chạy theo danh vọng, sắc đẹp mà quên đi cái chính của cuộc đời: đó là chăm chút đời sống tâm linh, lo cho gia đình, cho những người thân yêu là cha mẹ con cái chồng vợ… là giá trị của đạo đức làm người.

Nhoáng cái đã hết 80 năm. Đến khi sắp nhắm mắt mới nhận ra mình đã quên đi cái chính thì ôi thôi đã muộn…!!!

‘GÌAU CÓ’ NHƯ NGƯỜI SAIGON

Lương Văn Can

‘GÌAU CÓ’ NHƯ NGƯỜI SAIGON:

Đi ngang cởi luôn áo khoác đang mặc cho người vô gia cư giữa đêm trở lạnh

***

Giữa cái không khí lành lạnh bất chợt của Sài Gòn, người đàn ông dừng xe máy, cởi chiếc áo mình đang mặc và đưa cho ông lão vô gia cư đang ngồi tựa lưng vào thành cầu. Bởi ta nói: ‘giàu có như người Sài Gòn’ là vậy.

Cuối năm, trời đất bước vào thời khắc giao mùa, cái không khí se se lạnh ùa về, báo hiệu một mùa mới sắp sang. Cái lạnh của đất trời lâu nay vẫn thế, thổi vào lòng người những xúc cảm chông chênh, khác lạ.

Nhưng cái lạnh của thời tiết, của thiên nhiên dù có khắc nghiệt đến mấy cũng đâu thể so với cái lạnh của lòng người. Bởi thế, chỉ cần một vài khoảnh khắc ấm áp và đong đầy tình cảm giữa những con người không quen, chưa biết mặt với nhau cũng đủ khiến người ta cảm thấy ấm lòng giữa đêm dài.

Vừa qua, trên một trang mạng xã hội chuyên chia sẻ những câu chuyện chân mộc và dung dị về con người Sài Gòn được đông đảo bạn trẻ yêu thích đã có đăng tải một bức ảnh khiến người xem không khỏi bồi hồi, xúc động.

Trong khung cảnh ở một chiếc cầu nơi có rất nhiều người vô gia cư tập trung về để ngả lưng xuống cho hết cái đêm dài đằng đẵng của thành phố, một người đàn ông đã dừng chiếc xe của mình, mang chính chiếc áo mình đang mặc tặng lại cho một trong những con người đang khắc khoải cần một mái nhà kia.

“Giữa cái không khí lành lạnh bất chợt của Sài Gòn, người đàn ông dừng xe máy, cởi chiếc áo mình đang mặc và đưa cho ông lão vô gia cư đang ngồi tựa lưng vào thành cầu. Bởi ta nói: “Giàu có như người Sài Gòn” là vậy”.

Sau khi được đăng tải không lâu, câu chuyện giàu cảm xúc này ngay lập tức nhận được sự quan tâm của đông đảo người dùng mạng. Rất nhiều người đã để lại cảm nhận của bản thân ở phần bình luận.

“Có người từng nói, một hành động nhỏ cũng có thể thổi bay cơn giá rét của đêm đông giá lạnh. Mình vẫn nghi hoặc và cho rằng hơi lố. Nhưng giờ, nhìn những hình ảnh này, mình thật sự tin điều đó”.

“Mọi người định nghĩa như thế nào về người giàu? Nhiều tiền, nhà lầu, xe hơi? Không, theo mình thì đây mới là người giàu thật sự”.

“Yêu Sài Gòn là ở chỗ đó. Nếu đã sống nhanh thì rất năng động và quay cuồng. Tuy nhiên, một khi đã chậm lại một phút thì lại bắt được vô vàn khoảnh khắc quý giá trong cuộc sống”.

Hành động của người đàn ông trong câu chuyện tuy nhỏ thôi, nhưng chắc sẽ khiến nhiều người cảm thấy xúc động ấm áp. Đồng thời nó còn khiến không ít người lắng lại để nghĩ suy rồi một lần nữa định nghĩa về khái niệm về sự giàu có mà bấy lâu nay họ vẫn luôn tâm tưởng.

Bởi lẽ, sự giàu có mà nói, đâu phải chỉ đơn thuần được cân đo, đong đếm bằng tiền bạc, hiện kim mà hơn hết nó còn nằm ở những tấm lòng ấm áp, rộng rãi. Người giàu có nhất là người cho đi nhiều nhất chứ không phải là người sở hữu nhiều tài sản nhất. Vì cuộc sống cần sự sẻ chia và cho đi để nhận lại nhiều hơn.

theo Helino

Một Người Đàn Bà- Truyện Ngắn- Trương Thị Thanh Hiền

Van Pham is with Amy Quynh.

Truyện Ngắn Đầu Năm Mới – Trương Thị Thanh Hiền

***

Một Người Đàn Bà

Tôi vượt biển một mình, đau quằn quại đến không còn thiết sống. Tôi như đi trong sương mờ, mải miết vươn đến chỗ mẹ tôi đang vẫy gọi. Tôi thèm được vùi vào lòng bà, khóc nức nở như một đứa trẻ thơ để quên hết những nỗi đau thể xác và tâm hồn. Bà mở rộng vòng tay ôm lấy tôi.

Tôi khóc nức lên và choàng tỉnh dậy. Mẹ tôi đã tan biến, chỉ có dì đang ôm tôi. Tôi gào lên:

– Dì làm gì vậy? Tại sao dì dám ôm tôi?

Dì lật bật lùi ra xa, lắp bắp :

– Dì xin lỗi. Dì thấy con đau quá mà không biết làm gì. Dì thấy tội nghiệp con quá…

– Ai cần dì tội nghiệp. Tôi đã bảo dì đừng vào đây mà. Hãy để cho tôi một mình, tôi không cần ai hết.

– Làm sao dì để cho con một mình được. Ba con không đi đến được, em trai thì đi mất. Không có dì con làm sao đây?

– Dì quan trọng quá nhỉ? Vì ai mà em tôi thành bụi đời, ba tôi buồn rầu mà sinh bệnh, còn tôi thì bị tống cổ ra khỏi nhà?

– Con nghĩ sao cũng được nhưng bổn phận làm mẹ dì phải lo cho con.

– Làm mẹ à! – tôi hét lên – Dì lấy tư cách gì làm mẹ của tôi? Dì tự xem lại mình có xứng với hai tiếng ấy không? Dì làm tổn thương đến vong linh của mẹ tôi đấy. Dì đi đi, dì ở đây làm tôi đau đớn hơn. Ôi, mẹ ơi, sao mẹ lại bỏ con, mẹ ơi!

Hoảng sợ trước lời kêu khóc của tôi, dì lóng ngóng chạy ra ngoài.

***

Năm tôi mười lăm tuổi mẹ tôi qua đời. Mẹ tôi là một phụ nữ tài năng, xinh đẹp. Chính vì vậy mà năm năm sau khi ba tôi cưới dì, một y tá lỡ thời, cục mịch, quê mùa, tôi bị sốc thực sự. Điều đó không chỉ làm tổn thương đến tâm hồn non trẻ của tôi mà còn xúc phạm đến vong linh của mẹ tôi.

Đối với tôi, dì là một người thuộc tầng lớp khác nếu không muốn nói là thấp hèn hơn. Ba tôi là một bác sĩ giỏi lại rất tài hoa. Ba và mẹ là một cặp xứng đôi đến nỗi trong cả triệu cặp vợ chồng chắc mới có một. Vì vậy sự khập khiễng giữa ba và dì làm tôi lúc nào cũng sôi sục, hễ cứ gặp mặt dì là mọi uất ức dâng lên trong tôi. Tôi không cấm ba lấy vợ kế nhưng biết bao người xứng đáng ba không chọn, lại chọn một bà y tá lỡ thời, quê mùa, thất học.

Em tôi còn phẫn uất hơn tôi nên đã bỏ nhà đi hoang, không tìm lại được. Tôi nói năng hỗn xược, xúc phạm cả ba lẫn dì, bị ba giận đuổi đi vào một đêm mưa tầm tã. Rồi ba hối hận chạy đi tìm tôi nhưng tôi nhất định không chịu về, đến ở hẳn nhà bạn trai. Trong ngày đám cưới của tôi, một cuộc hôn nhân ba không chấp nhận, ông bị lên huyết áp và bị liệt nửa thân người. Tôi sớm rời trường đại học, sống vất vưởng với một cuộc hôn nhân vội vã bốc đồng và chẳng mấy chốc cũng ly hôn khi đang bụng mang dạ chửa.

Khi con gái tôi ra đời, chẳng rõ chầu chực ở đâu sẵn, dì lao vào bệnh viện với nào tã, nào nón, nào khăn chẳng biết dì sắm sửa từ bao giờ. Chẳng đếm xỉa gì đến vẻ tức giận của tôi, dì nâng con bé lên nựng nịu :

– Ôi, cháu của ngoại, cục cưng của ngoại. Ngoại mong cháu từ lâu lắm rồi, viên kim cương của ngoại. Nào, nào mẹ cho bé mum tí nào.

Dì lăng xăng líu xíu ủ chân tay cho tôi, lấy nước nóng chườm bụng rồi lại chạy băng về nhà vừa báo tin mừng cho ba tôi, vừa mua thức ăn tẩm bổ cho tôi.

Biết không thể xua đuổi được dì, tôi đành phải chấp nhận sự săn sóc của dì với vẻ xa cách lạnh lùng. Ngày hôm sau ba tôi đi xe lăn vào. Nhìn thấy ông, tôi bật khóc. Vị bác sĩ phong độ ngày nào nay tàn tạ vì bệnh tật, vì gia cảnh tan nát. Ông chỉ điềm đạm nói với tôi:

– Ba không bắt con phải vì ba, không phải vì dì cũng không vì bản thân con mà phải vì con bé này. Con đã tạo ra nó trong sai lầm của mình thì cũng đừng để nó lớn lên trong sự sai lầm. Hãy trở về với ba, cho con của con những gì tốt đẹp nhất dù bản thân con có phải đối diện với những thử thách đau lòng. Mẹ con mãi mãi là một hình ảnh đẹp không ai có thể làm hoen ố hình ảnh ấy

Những lời ông nói cứ thấm vào lòng tôi đau buốt. Ôi, con gái của tôi, lẽ nào vì tôi mà cuộc đời nó cũng chẳng tốt đẹp gì hơn.

Tôi trở về nhà, lòng lạnh giá hơn. Dì là người vui nhất. Tôi chẳng hiểu được nỗi vui mừng ấy. Lẽ ra dì phải vui khi tống được cái gai nhọn như tôi ra khỏi nhà mới phải. Tôi nhận sự chăm sóc rất mực chu đáo của dì như nhận một thói quen, thậm chí như một sự ban ơn. Dì không chú ý gì đến vẻ xa cách, kẻ cả của tôi mà chỉ tìm mọi cách để tôi vui. Dì lăng xăng suốt ngày, quần xắn đến gối, mắt lấp lánh tia cười, miệng líu ra líu rít.

– Hoàn ơi, con xem con bé này đã biết cười rồi đấy.

– Ấy, ấy, con đừng đi sãi chân như vậy, khép chân lại nào. Này, quấn cái khăn lên đầu, gió lùa đấy.

– Dì đã giặt đồ cho cháu rồi. Giặt đồ cho em bé không nên vắt, sẽ làm em vặn vẹo suốt đêm.

– Ôi cục vàng của ngoại sao lại khóc… Bé khó chịu hả? Ứ ừ, em không chịu nằm nữa à? Thế ngoại bế con ra sân chơi nghen?

Suốt ngày nhà chỉ văng vẳng tiếng dì. Dì tự hỏi rồi cũng tự trả lời. Dì đoán được ý của tất cả mọi người, từ ba tôi đến con bé chỉ biết khóc kia. Dì phục vụ tất cả chúng tôi với lòng tận tâm hồ hởi.

Nhưng có lúc dì lại ngồi thần người ra, vẻ ủ dột trầm ngâm. Rồi không nén nổi, dì thở dài:

– Tội nghiệp thằng Quang, mưa gió thế này không biết nó ở đâu.

Quang là em trai tôi, mười tám tuổi. Tôi lén nhìn dì, nỗi đau của dì giống hệt nỗi đau của người mẹ xót thương con. Nếu là mẹ tôi hẳn cũng chỉ đau khổ đến thế là cùng.

Đêm đêm sau khi làm xong mọi việc, dì lại quày quả đi tìm Quang. Dì đã đi tìm nó suốt hai năm qua. Ba tôi và tôi đã không còn hy vọng vì rõ ràng biết nó còn quanh quẩn đâu đây nhưng nó không muốn gặp ai trong gia đình. Nó đã không muốn gặp, không muốn trở về nhà thì dù có tìm được nào có ích gì. Nhưng dì không nản lòng – Một ngày kia dì chộp được nó khi nó ngủ gà ngủ gật trong công viên. Nói đúng ra khi nó đang đói ma túy. Thế là từ đó cả nhà tôi, hay đúng hơn là chỉ có dì, chiến đấu giành giật lấy nó từ tay của nàng tiên nâu.

Dì trói nó vào góc nhà, áp dụng đủ mọi phương cách, mọi bài thuốc từ tây lẫn ta, bồi bổ cho nó đủ mọi thứ sơn hào hải vị. Khi mập mạp béo tốt trở lại, nó lại bỏ nhà ra đi. Dì tiếp tục cất công đi tìm và lại tìm thấy khi nó đang thân tàn ma dại ở đâu đó. Lại cột nó ở góc nhà, lại những bài thuốc, những món ăn ngon… Cái vòng luẩn quẩn ấy cứ lặp lại không biết bao nhiêu lượt. Đến như tôi cũng phát chán, còn ba tôi thì gần như đã buông xuôi, đau đớn vì bác sĩ như mình mà không cứu nổi con. Chỉ riêng dì vẫn cứ bền bỉ đi tìm nó mãi.

– Hoàn này – dì rụt rè bảo tôi khi thằng Quang bắt đầu một vòng cai nghiện mới – con phải nói điều gì với em chứ. Dì là người quê mùa, chỉ biết làm, không biết nói gì để khuyến khích khuyên nhủ nó. Còn con là người có kiến thức, lại hiểu biết tâm lý của em, con phải giúp em con vượt qua những thử thách này. Con không thấy em con còn quá trẻ sao? Lẽ nào chúng ta để cho nó chôn vùi cả cuộc đời…

Tôi tìm thấy Quang đang nằm úp mặt khóc trên giường. Tôi không vỗ về nó mà ngồi xuống mép giường, đều đều nói:

– Mẹ không mong muốn chị em mình trở thành như thế này. Chị đã sai lầm và em cũng vậy. Ta có thể giữ nguyên những cảm nghĩ của mình về dì mà không cần hủy hoại bản thân mình. Đứng dậy đi em, xây cho chính mình một tương lai mà không cần phụ thuộc bất cứ điều gì. Hãy làm sao cho xứng đáng với mẹ.

Tôi nói với nó cũng là đang nói với chính mình. Rồi tôi trở lại giảng đường đại học. Nó cũng đã thoát khỏi vòng kềm tỏa đáng sợ của nàng tiên nâu. Dù thực tế công sức của dì đối với chị em tôi rất lớn nhưng tôi vẫn không muốn thừa nhận. Dì nuôi con cho tôi đi học. Dì chăm sóc từng li từng tí cho Quang để nó có đủ sức khỏe trở lại trường. Dì lại là hộ lý của ba.

Nhiều khi trong thâm tâm tôi chợt chạnh lòng thương dì. Làm sao dì có thể làm ngần ấy công việc trong một ngày, phục vụ cả bốn con người. Nhưng rồi niềm kiêu hãnh trong tôi lên tiếng: đó là nhiệm vụ của dì. Dì không có tài để làm những việc lớn lao thì phải làm những việc vặt ấy. Như đọc được suy nghĩ của tôi – nhiều khi tôi rất kinh ngạc về khả năng đọc được suy nghĩ người khác của dì – dì bảo:

– Dì đã quen với những công việc này rồi. Ai chẳng muốn an nhàn nhưng cuộc sống bắt buộc mình phải sống hết mình với nó.

Tôi mở to mắt nhìn dì; câu nói của dì không phải của một y tá tầm thường mà là của một triết nhân. Ngôn ngữ của dì càng lúc càng khác xa con người dì. Một lần nữa dì lại đọc được suy nghĩ của tôi: – Con tự hỏi tại sao dì lại nói năng văn hoa như vậy phải không? Dì là người không được học hành đến nơi đến chốn. Nhưng mấy mươi năm qua chiến tranh đã dạy cho dì từng con chữ, từng lời nói, từng cách cư xử… Dì học ở khắp nơi, bên chiến hào, trong nhà dân, trong nhà tù cải tạo….… Mấy năm làm y tá trong bệnh viện, làm việc dưới quyền ba con dì cũng học hỏi được rất nhiều. Con hãy ráng học lên, sự học làm người ta mở lòng với nhân loại hơn.

Trời ơi! “Sự học làm người ta mở lòng với nhân loại hơn”. Một người như dì lại có thể nói được câu nói đó ư? Tôi vụt chạy vào phòng ba, thảng thốt nhìn ông :

– Ba, rốt cuộc dì là người thế nào? Làm sao ba có thể quên mẹ để yêu dì được?

– Con ngồi xuống đi con gái – ba dịu dàng bảo – Tuổi trẻ các con hay có một quan điểm tuyệt đối. Không có cái gì là tuyệt đối cả. Tại sao con lại nghĩ ba lấy dì nghĩa là ba đã quên mẹ con? Tại sao con lại nghĩ vẫn yêu mẹ thì ba không thể lấy dì? Cuộc đời là thế giới muôn màu. Vì sao con chỉ nhìn vào tài sắc của mẹ con mà cho rằng dì không xứng với ba, chứ không đánh giá dì bằng chính con người dì. Mẹ con là một thế giới khác, dì là một thế giới khác. Và – không ai dám cho rằng thế giới nào đầy màu sắc và thế giới nào đầy bóng đêm.

Dì đã trải qua nhiều nỗi gian truân nhưng không hoàn cảnh nào có thể đánh gục được dì. Điều đó không dễ gì có được ở lớp người như ba, như mẹ, như con. Con thấy đấy, mẹ con là một bác sĩ, an ủi nâng đỡ cứu sống không biết bao nhiêu người nhưng khi biết mình bị bệnh thì suy sụp hẳn, không gượng dậy nổi. Khi mẹ chết, nếu không có dì chắc ba cũng đã trở nên bệ rạc, bê tha. Còn con, tự cho mình là thông minh, bản lĩnh nhưng chỉ vì một việc bất như ý mà thả trôi cuộc đời mình. Còn dì là người vào sinh ra tử, vào tù ra khám, từng làm vợ làm mẹ nhưng bị tước hết những quyền thiêng liêng ấy.

– Dì từng làm vợ, làm mẹ? – tôi ngỡ ngàng.

– Con lạ lùng lắm sao? Nỗi đau ấy dì giữ cho riêng mình, không mấy ai biết được. Chồng của dì đã hy sinh trong nhóm tàn quân phục quốc, đau đớn quá dì đã sinh non và đứa bé đã chết sau khi sinh vài giờ.

Dì đã đem nỗi đau mất chồng, mất con vào cuộc hành trình lặng lẽ của mình. Dì đã đem tình thương của người vợ người mẹ dành cho tất cả mọi người, cho ba, cho các con với lòng cao cả vô biên. Dì đã sống cho người khác, vậy mà khi có ai khác sống cho dì thì con lại bảo dì không xứng đáng. Huống chi đây không phải là sự hy sinh của ba mà là sự đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu. Con hãy đem tấm lòng mình để gần gũi với dì hơn, khi đó con sẽ thấy ba không nói quá đáng. Những gì ở ba ở mẹ không có thì ở dì có, vậy không phải là bổ sung cho nhau sao? Con còn đòi hỏi nơi dì điều gì nữa?

Tôi đòi hỏi gì ư? Tôi được sinh ra bằng mối tình tuyệt diệu của ba mẹ. Lớn lên trong tình yêu nhưng rốt cuộc lại trở thành một người không có tình thương yêu dù với một người đã xem mình còn hơn đứa con rứt ruột đẻ ra. Tôi sắp trở thành một bác sĩ nhưng lại không đủ lòng nhân ái của một y tá bình thường như dì. Tôi cứ mãi đau đớn vì mối mâu thuẫn giằng xé nên thường ngồi lì trong thư viện không về nhà sau buổi học. Dì lại tất tả tìm tôi. Cái vẻ hốt hoảng lo âu của một người mẹ vừa làm nhói lòng tôi vừa làm tôi uất hận. Tôi không biết mình hận cái gì? Hận dì sao không là một người tầm thường cho tôi căm ghét mãi? Hận dì sao dần dần rõ nét một nhân cách lớn làm tôi thấm thía sự nhỏ nhoi của mình.

Tôi theo dì vào nhà. Bé Uyên sà vào lòng tôi, líu lo đủ mọi chuyện. Dì bảo:

– Con đừng quá mải mê với công việc, với những ý thích riêng mình mà bỏ quên cái quyền làm mẹ.

Dì không bảo “Bổn phận làm mẹ” mà lại bảo “Quyền làm mẹ”. Tôi ngước mắt nhìn dì. Dì lại đọc được câu hỏi trong mắt tôi, cười đôn hậu:

– Con không thấy được làm mẹ là một hạnh phúc lớn hay sao?

Tôi thấm thía câu ấy. Dì bị tước đi cái quyền làm mẹ từ khi rất trẻ và được ban trở lại khi tuổi về già nên dù chị em tôi đã đối xử thật tệ bạc với dì nhưng dì chỉ thấy niềm hạnh phúc được sống với thiên chức của người mẹ.

***

Mừng Quang thi đậu vào đại học, dì thưởng cho cả nhà một chuyến đi picnic xa bất chấp con bé Uyên quấy dì suốt cuộc hành trình, bất chấp ba tôi mới tập đi lại được, chân rất yếu, lúc nào cũng cần dì dìu đỡ. Chỉ có niềm vui bất tận của một gia đình hạnh phúc trong chuyến đi chơi ấy. Tôi hỏi dì:

– Cái gì làm dì vui nhất hôm nay?

– Dì vui vì Quang đã đủ bản lĩnh để trở lại đời. Dì vui vì đã trả lại cho mẹ con những đứa con nguyên vẹn như ngày nào, còn lời thêm cục vàng này nữa nè – dì cười chỉ vào bé Uyên.

Ngày tôi xúng xính lên nhận bằng tốt nghiệp, dì dẫn theo một chàng trai trẻ lên tặng hoa cho tôi. Trẻ là vì anh ta chưa có vợ, so với tôi đã có con gái lên năm, chứ thật ra anh ta đã hơn ba mươi tuổi, là một bác sĩ trong khoa của ba tôi, đã âm thầm theo đuổi tôi từ nhiều năm nay. Mắt dì lấp lánh vẻ tinh nghịch và bí hiểm của bà mẹ đang mưu toan kiếm chồng cho con gái. Tôi vừa buồn cười vừa… tức, ngùng ngoằng bỏ đi:

– Con không thích cái trò mai mối ấy. Con đâu có sợ lỡ thì…

– Ây dà, cái giọng này dì đã nghe ở rất nhiều cô gái tân thời rồi. Nhưng cuối đời nhiều người mới nuối tiếc vì bỏ qua cơ may hạnh phúc gia đình. Con ơi! nghe dì đi. Con còn lỡ dở vầy mãi dì không yên tâm. Khi nào con với em Quang có gia đình yên ấm hết thì dì mới hả lòng.

***

Ước mơ của con người quá nhiều. Ước mơ của bà mẹ dành cho con còn nhiều hơn. Dì trù liệu đủ mọi kế hoạch cho tôi, cho em Quang. Dì còn tính sẵn một tương lai dài thăm thẳm cho con bé Uyên vừa tròn năm tuổi, cho cả ông già gần đất xa trời là ba tôi, chỉ riêng mình dì không dự định một điều gì.

Một buổi sáng đẹp trời, mọi người đều đã tỉnh giấc, chỉ riêng dì lặng lẽ đi vào cõi vĩnh hằng. Dì từ giã cuộc đời nhẹ nhàng bình yên đến nỗi cả ba, cả tôi – hai bác sĩ trong nhà đều không biết và đều không muốn truy lùng nguyên nhân để không làm tổn hại đến thân xác dì. Dì đang ngủ yên lành hay dì đang đi tìm mẹ tôi, hãnh diện khoe với bà rằng dì đã làm xong ước nguyện của bà.

Bên mộ dì, thằng Quang gào khóc nức nở. Khi mẹ tôi chết, nó còn quá bé để có thể đau đớn thống thiết như thế.

Còn tôi – cả hai đám tang tôi đều không khóc. Chỉ có những giọt lệ chảy trong tim tôi không ai thấy được. Vì nó đọng ở trong tim nên lòng tôi luôn nhức nhối…

Biết Sống – Nguyễn Ngọc Tư

Biết Sống

Nguyễn Ngọc Tư

Chị kể hồi ở Sài Gòn hay tới một quán cháo vịt ngon muốn xỉu, nhưng tới hơi trễ chút là phải chịu bụng đói ra về. Bởi quán chỉ bán đúng sáu con vịt, không thêm không bớt. Khách có kì kèo hay đòi nằm vạ cũng chỉ nhận được nụ cười, “chịu khó mai quay lại”.

Hỏi khách quá chừng đông sao không bán thêm, chú chủ quán cười, nhiêu đây là đủ. Nhưng đủ cho cái gì, chú không nói thêm.

Ngồi quán đó, chị nhớ quán bán bánh canh cua của má nổi tiếng xóm hẻm hồi xưa. Mỗi ngày nấu đúng bảy chục tô, hỏi mua tô thứ bảy mươi mốt về làm thuốc cũng hên xui.

Sáng dọn chưa ấm chỗ, vèo cái hết nồi bánh, bà dành cả thời gian còn lại của ngày để nằm võng nghe Thái Thanh, hoặc dẫn con Chó đi chơi dài xóm. Chó, là tên của con vịt xiêm cồ.

“Sống như má mình không phí cuộc đời. Đâu phải giàu mới vui”, nhắc tới đó chị bùi ngùi. Người ra thiên cổ lâu rồi, nhưng ký ức động đậy như người vẫn đi lại quanh đây.

Chị nói người sống ung dung kiểu vậy giờ ngày mỗi hiếm, nhưng không phải không có.. Họ đang ở đâu đó, chừng như vô nhiễm với cơn khát tiền. Ở Hội An chị biết một quán nước nhỏ nằm dưới giàn cát đằng, cà phê ngon, trà gừng hết xẩy mà đúng bong mười giờ là đóng cửa.

Sau bữa trưa, anh chị chủ dành thời gian đọc sách, nghe nhạc, chơi với mấy đứa cháu nhỏ. Nhiều sáng khách đông, hết chỗ ngồi, nhưng sân vẫn để trống không chẳng kê thêm bàn. Sân là khoảng thở của ngôi nhà, không phải chỗ để chen chúc bán mua lấy được.

Nhắc mấy chuyện đó, không phải nói khơi khơi, mà chị đang nhắn thằng em thời cào hốt này vẫn còn những người “biết sống”. Vì tuần sau là giỗ má. Vì thằng em vừa chặt cây khế, cơi thêm một tầng lầu, chồm lan can ra che gần hết lộ hẻm. Nó nói không lấn được phần đất, thì lấn trời.

Tiền xây nhà nó kiếm được từ quán bánh canh má để lại, mở bán từ sáng sớm tới khuya. Nó thuộc kiểu được mười ba đồng, thì phải kiếm thêm bảy đồng cho chẵn hai chục. Giàu cái đã, chuyện khác tính sau.

Cũng là con má nhưng tánh thằng em ngược một trời một vực. Tại sao bà chỉ bán bảy chục tô bánh canh, bà giải thích rồi, nhiêu đó đã đủ lời để xoay xở trong nhà, lại còn dư chút đỉnh để dành khi bất trắc. Mấy chục năm, bà hài lòng với việc giữ gia cảnh mình gói gọn trong hai chữ “đủ ăn”.

“Nhưng làm nhà giàu sướng hơn chớ, má ?”

“Giàu nghèo gì phải vui mới được”.

Chữ vui đó cũng minh mông, với mỗi người nó có nghĩa khác nhau. Với bà chủ tiệm tạp hóa Linh Thông là buôn bán luôn tay, mặc dĩa cơm tấm khô queo và ly cà phê đá tan trắng nhợt tự hồi nào. Vui của ông chủ chuỗi cửa hàng điện máy là mở thêm vài chi nhánh mới. Của quán nhậu Tăng Ba là khách nào ra khỏi đó cũng xùng xình say. Hay với vợ chồng thằng em, không vui nào bằng nghe tiếng những tờ giấy bạc sột soạt lúc nửa đêm.

Nhưng có những người như má, vui bởi được nằm thong thả nghe Thái Thanh hát “bể sầu không nhiều nhưng cũng đủ yêu”, vui vì nhà có cây khế chua cho trái gần như quanh năm. Chua tới con nít bụi đời không thèm hái. Nhưng khế chua được cái trái lớn, mọng nước, dài cánh khía sâu. Má hái mớ trái chín vàng chất lên cái rổ tre cạn lòng, là đẹp bừng lên bàn ăn trong bếp.

Đó là ngôi nhà rất đẹp, trong ký ức con cháu. Không có hoa tươi (như bà nói hoa chỉ đẹp khi còn nguyên cành nguyên gốc), nhưng nhà vẫn được chưng diện bằng những thứ ít ai ngờ. Cái rổ tre lúc nào cũng đựng gì đó, khi thì những trái muồng khô, lúc khác, trái bàng.

Không phải loại trái cây ăn được, chúng rụng đầy công viên, chỉ cần cúi lượm một chút là đầy rổ. Nhìn thấy cái đẹp trong thứ tưởng chừng vô dụng, trăm phần trăm chẳng phải người sống gấp sống nhanh.

Mấy thứ trái tức cười trong rổ tre của má, cũng là thứ mà chị nhớ, vào buổi chiều nào đó ghé thăm ngôi nhà xiêu xiêu gần cửa Gió. Xóm chài, buổi trưa vắng người. Trên bộ vạc sau nhà có một nắm trái so đũa nằm trên mo cau. Hỏi thứ này ăn được sao, một thằng nhỏ cười, hông đâu cô, con để vậy cho đẹp. Trưng ở sau nhà, nên chắc chắn không vì khách, đẹp này cho mình..

Mớ trái gà chê dê nguýt nọ không phải được mang về bởi một phụ nữ nào, mà từ thằng nhỏ cháy nắng đen thui. Nghe thằng nhỏ nói, chị đoán sau này nó sẽ vác cây đờn đi ca tài tử, sau một ngày đánh bắt mệt lả.

Nửa đêm về nó đứng ngoài hè một lúc lâu, vợ hỏi sao không vô, nó nói trời nhiều sao quá, nhìn thêm chút nữa. Thằng nhỏ cũng có thể trở thành một anh giám đốc thiệt ngầu, nhưng mỗi cuối tuần anh tắt điện thoại, chở con ra đồng thả diều, ngắm bèo trôi sông.

Đó là một người sẽ tận hưởng được nhiều vẻ đẹp trên đời, bất kể giàu nghèo. Như má. Một người đàn bà mà khi nhắc tên ai cũng buột miệng kèm theo mấy chữ, “sao mà biết sống quá xá”.

Cái khái niệm biết sống này cũng vô chừng, mỗi người mỗi kiểu, nhưng nhìn một lượt, chừng như người biết sống là biết đủ. Khi đó tham vọng thôi sôi réo, họ trọn lòng lắng nghe những tiếng thì thầm ở quanh mình.

Nhưng đó không phải là kiểu sống mà vợ chồng thằng em chọn. Nó nói ai cũng tà tà vậy thì sao nước mạnh được. Mạnh, là phải có tiền, nhiều tiền, rất nhiều tiền. Có tiền mua gì cũng được. Mua vũ khí. Mua bằng hữu. Không thiếu nợ, và khỏi phải lấy đất đai ra trừ cấn nợ.

Chị hiểu nó muốn ám chỉ chính sự gì đây, cười, “nói thì hay, bữa rồi có vài trăm ngàn tiền thuế mà kì kèo trả giá”. Người giàu nhiều, mà đất nước vẫn nghèo, là vậy. Tới cái nắp cống ngoài đường cũng bị lấy cắp. Ai cũng vơ vét cho mình, sẵn sàng ôm tiền bỏ chạy.

Hồi buổi chụp giựt bắt đầu, ngó tiền lẻ nhét đầy tượng Phật, chị không nghĩ thời thế kéo dài như vậy. Lâu đến mức không tin là mình chờ được ngày kết thúc. Sóng trước sóng sau cứ hớt hãi. Nhỏ cháu chị mua sách dạy làm giàu về gối đầu giường, dù ba nó nói cần gì đọc, chỉ cần chui vào cơ quan nhà nước, lên cao, thì đường nào cũng giàu.

Ngó mớ tựa rất kêu kiểu như “làm giàu không khó”, “Hai mươi bảy cách trở thành tỉ phú”, chị biết trong đó không có câu nào khuyên người ta biết thả lỏng tắm mình trong mùi hoa ban đỏ trong đêm. Mùi hoa nhẹ lắm, hít thở nhanh không cảm nhận được.

Chị nhắc con nhỏ cũng có những cuốn sách chỉ cách người ta sống chậm, cách kháng cự lại lòng tham lúc nào cũng đói khát của chính mình. Ở hai bên con đường một chiều đi tới miền khuất mặt, nhiều thứ đẹp lắm, chạy nhanh thở gấp thì không thấy được đâu

Nguyễn Ngọc Tư.

CHUYỆN DI TẢN 1975 -Tiểu Tử

CHUYỆN DI TẢN 1975

Tiểu Tử

Tôi không có đi di tản hồi những ngày cuối tháng tư 1975 nên không biết cảnh di tản ở Sài gòn ra làm sao. Mãi đến sau nầy, khi đã định cư ở Pháp, nhờ xem truyền hình mới biết!

Sau đây là vài cảnh đã làm tôi xúc động, xin kể lại để cùng chia xẻ…

Chuyện 1: Cuộc di tản kinh hoàng

Ở bến tàu, thiên hạ bồng bế nhau, tay xách nách mang, kêu réo nhau ầm ĩ, hớt hơ hớt hải chạy về phía chiếc cầu thang dẫn lên bong một chiếc tàu cao nghều nghệu. Cầu thang đầy người, xô đẩy chen lấn nhau, kêu gọi nhau, gây gổ nhau… ồn ào. Trên boong tàu cũng đầy người lố nhố, giành nhau chồm lên be tàu để gọi người nhà còn kẹt dưới bến, miệng la, tay quơ ra dấu chỉ trỏ… cũng ồn ào như dòng người trên cầu thang!

Giữa cầu thang, một bà già. Máy quay phim zoom ngay bà nên nhìn thấy rõ: bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn rằn, không mang bao bị gì hết, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang. Bà không dáo dác nhìn trước ngó sau hay có cử chi tìm kiếm ai, có nghĩa là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trở nên la ó ! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp.

Chuyện chỉ có vậy, nhưng sao hình ảnh đó cứ đeo theo tôi từ bao nhiêu năm, để tôi cứ phải thắc mắc: bà già đó sợ gì mà phải đi di tản? con cháu bà đâu mà để bà đi một mình? rồi cuộc đời của bà trong chuỗi ngày còn lại trên xứ định cư ra sao? còn cậu thanh niên đã làm môt cử chỉ đẹp – quá đẹp – bây giờ ở đâu?… Tôi muốn gởi đến người đó lời cám ơn chân thành của tôi, bởi vì anh ta đã cho tôi thấy cái tình người trên quê hương tôi nó vẫn là như vậy đó, cho dù ở trong một hoàn cảnh xô bồ hỗn loạn như những ngày cuối cùng của tháng tư 1975…

Chuyện 2: Những bàn tay nhân ái

Cũng trên chiếc cầu thang dẫn lên tàu, một người đàn ông tay ôm bao đồ to trước ngực, cõng một bà già tóc bạc phếu lất phất bay theo từng cơn gió sông. Bà già ốm nhom, mặc quần đen áo bà ba màu cốt trầu, tay trái ôm cổ người đàn ông, tay mặt cầm cái nón lá. Bà nép má trái lên vai người đàn ông, mặt quay ra ngoài về phía máy quay phim. Nhờ máy zoom vào bà nên nhìn rõ nét mặt rất bình thản của bà, trái ngược hẳn với sự thất thanh sợ hãi ở chung quanh!

Lên gần đến boong tàu, bỗng bà già vuột tay làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm thiết…

Bà già đó chắc đã quyết định bỏ hết để ra đi, yên chí ra đi, vì bà mang theo một vật mà bà xem là quí giá nhứt, bởi nó quá gần gũi với cuộc đời của bà: cái nón lá! Đến khi mất nó, có lẽ bà mới cảm nhận được rằng bà thật sự mất tất cả. Cái nón lá đã chứa đựng cả bầu trời quê hương của bà, hỏi sao bà không xót xa, đau khổ? Nghĩ như vậy nên tôi thấy thương bà già đó vô cùng. Tôi hy vọng, về sau trên xứ sở tạm dung, bà mua được một cái nón lá để mỗi lần đội lên bà sống lại với vài ba kỷ niệm nào đó, ở một góc trời nào đó của quê hương… 

Chuyện 3: Quê hương xa rồi

Cũng trên bến tàu nầy. Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên cô ta quị xuống. Thiên hạ quay đầu nhìn nhưng vẫn hối hả đi qua, còn tránh xa cô ta như tránh một chướng ngại vật nguy hiểm! Trong sự ồn ào hỗn tạp đó, bỗng nghe tiếng được tiếng mất của người đàn bà vừa khóc la vừa làm cử chỉ cầu cứu. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đầu chờ vờ mắt sâu hõm, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ – chắc là người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quan của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy – người mẹ đó quýnh quáng ngước nhìn lên luồng người, tiếp tục van lạy cầu khẩn.

Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, nhìn thấy. Họ dừng lại, khom xuống hỏi. Rồi họ ngồi thụp xuống, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ, họ nói gì với nhau rồi nói gì với người đàn bà. Thấy cô ta trao đứa bé cho một anh thanh niên. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem. Thằng nhỏ ốm đến nỗi cái xương sống lồi lên một đường dài…

Anh thứ hai đã lấy trong túi ra chai dầu từ lúc nào, bắt đầu thoa dầu rồi cạo gió bằng miếng thẻ bài của quân đội.

Thiên hạ vẫn rần rần hối hả đi qua. Hai thanh niên nhìn về hướng cái cầu thang, có vẻ hốt hoảng. Họ quay qua người đàn bà, nói gì đó rồi đứng lên, bồng đứa nhỏ, vừa chạy về phía cầu thang vừa cạo gió! Người mẹ cố sức đứng lên, xiêu xiêu muốn quị xuống, vừa khóc vừa đưa tay vẫy về hướng đứa con. Một anh lính Mỹ chợt đi qua, dừng lại nhìn, rồi như hiểu ra, vội vã chạy lại đỡ người mẹ, bồng xóc lên đi nhanh nhanh theo hai chàng thanh niên, cây súng anh mang chéo trên lưng lắc la lắc lư theo từng nhịp bước….

Viết lại chuyện nầy, mặc dù đã hơn ba mươi năm, nhưng tôi vẫn cầu nguyện cho mẹ con thằng nhỏ được tai qua nạn khỏi, cầu nguyện cho hai anh thanh niên có một cuộc sống an vui tương xứng với nghĩa cử cao đẹp mà hai anh đã làm. Và dĩ nhiên, bây giờ, tôi nhìn mấy anh lính Mỹ với cái nhìn có thiện cảm!

 Chuyện 4: Những cuộc chia tay xé lòng

Cũng trên bến tàu. Cầu thang đã được kéo lên. Trên tàu đầy người, ồn ào. Dưới bến vẫn còn đầy người và cũng ồn ào. Ở dưới nói vói lên, ở trên nói vọng xuống, và vì thấy tàu sắp rời bến nên càng quýnh quáng tranh nhau vừa ra dấu vừa la lớn, mạnh ai nấy la nên không nghe được gì rõ rệt hết !

Máy quay phim zoom vào một người đàn ông đứng tuổi đang hướng lên trên ra dấu nói gì đó. Bên cạnh ông là một thằng nhỏ cỡ chín mười tuổi, nép vào chân của ông, mặt mày ngơ ngác. Một lúc sau, người đàn ông chắp tay hướng lên trên xá xá nhiều lần như van lạy người trên tàu, gương mặt sạm nắng của ông ta có vẻ rất thành khẩn. Bỗng trên tàu thòng xuống một sợi thừng cỡ nửa cườm tay, đầu dây đong đưa. Mấy người bên dưới tranh nhau chụp. Người đàn ông nắm được, mỉm cười sung sướng, vội vã cột ngang eo ếch thằng nhỏ. Xong, ông đưa tay ra dấu cho bên trên. Thằng nhỏ được từ từ kéo lên, tòn ten dọc theo hông tàu. Nó không la không khóc, hai tay nắm chặt sợi dây, ráng nghiêng người qua một bên để cúi đầu nhìn xuống. Người đàn ông ngước nhìn theo, đưa tay ra dấu như muốn nói: «Đi, đi! Đi, đi! ». Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất! Bấy giờ, tôi đoán ông ta là cha của thằng nhỏ đang tòn ten trên kia… Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt!

Không biết thằng nhỏ đó – bây giờ cũng đã trên bốn mươi tuổi — ở đâu? Cha con nó có gặp lại nhau không? Nếu nó còn mạnh giỏi, tôi xin Ơn Trên xui khiến cho nó đọc được mấy dòng nầy…

Khấn Người Tình Địch – TRÀM CÀ MAU

TRUYỆN NGẮN ĐẦU NĂM – TRÀM CÀ MAU

Khấn Người Tình Địch

(Ký cóp cho cọp nó tha….)

Ông Long trịnh trọng mang áo dài đen, quần dài trắng, đội cái khăn đóng màu xanh đậm, giống như các cụ ngày xưa ra đình làng tế lễ. Trên bàn thờ có khung hình bán thân của ông Du, trẻ trung, đẹp trai, môi mỉm cười có duyên, đôi mắt sáng như nhìn chăm chăm vào người đối diện. Giữa bàn có con gà trống luộc vàng ươm, với hai cái chuôi cánh xòe ra gài từ cổ lên miệng. Một dĩa hoa quả màu sắc tươi thắm đơm cao đầy, và hơn chục dĩa thức ăn, có dĩa còn nóng, bốc hơi, thơm ngào ngạt.

Sau khi đốt hương trầm, ông Long đưa hai bàn tay chắp vào nhau nâng lên ngang trán, và nghiêm trang thì thầm khấn vái người khuất mặt:

“Lạy hương hồn ông Du, có linh thiêng thì về đây dự tiệc, và chứng giám cho tấm lòng thành nầy. Ngày xưa, ông và tôi là hai kẻ tình địch, nhưng không hề kình nhau, cũng chưa ghét nhau bao giờ. Hồi đó, ông và tôi cùng yêu thương Thiên Hương, nàng thì lửng lơ, tình cảm không nghiêng hẳn về bên nào. Ông tin nàng yêu ông hơn, tôi tin nàng yêu tôi hơn. Dĩ nhiên, ai cũng chủ quan, và có quyền tin chắc như vậy. Thiên Hương đẹp, yểu điệu, học hành chăm chỉ, tính tình dịu dàng, lịch thiệp, con nhà gia giáo, được nâng niu cưng chìu. Nàng như một đóa hoa rực rỡ nhưng mong manh. Nhan sắc tươi thắm diễm lệ của nàng làm không biết bao nhiêu anh con trai trong thành phố nầy mê mẩn muốn cầu thân. Nhưng ông và tôi là hai kẻ chiếm được một khoảng tương đối lớn trong trái tim nàng. Tất nhiên còn nhiều kẻ khác cũng có được một phần nhỏ trong trái tim chật chội đó, vì họ cũng là những kẻ có danh phận giữa xã hội. Họ cũng đứng đắn, đàng hoàng, đủ tư cách để theo đuổi và có thể bảo đảm cho nàng một tương lai sung sướng an bình hạnh phúc.

Tôi chỉ là một kẻ may mắn bất ngờ được lọt mắt xanh, và được nàng dành cho một phần đáng kể trong tim. Ông đừng hỏi tại sao, vì tình yêu vốn lạ kỳ, không thể giải thích được tại sao. Tôi tha thiết yêu nàng mà trong lòng ngày đêm luôn đau đớn nhức nhối. Bởi tôi biết thân phận của mình. Tôi thua kém rất nhiều người. Thua trên nhiều mặt. Nếu tôi và Thiên Hương nên duyên phận, thì liệu tôi có đem đến cho nàng một cuộc sống tinh thần và vật chất chan hòa hạnh phúc hay không.

Tôi cũng thua ông đủ mọi mặt. Ông học giỏi hơn tôi, gia đình giàu có, thể chất khang kiện, chơi thể thao có hạng, mặt mày ông sáng sủa hơn tôi bội phần. Thơ tình ông viết thiết tha ướt át hơn cái lối viết chân chất cộc lốc của tôi. Không những thế, ông còn là một thi sĩ, thơ ông truyền cảm, mênh mang triết lý cao siêu. Tôi thì một câu vè cũng viết không ra hồn. Thế mà cũng lạ, Thiên Hương vẫn dành cho tôi một mối tình cảm nồng nàn không thua gì ông. Chuyện tình yêu, cũng khó mà giải thích bằng lý trí được.

Tôi cũng yêu Thiên Hương không thua gì tình yêu của ông dành cho nàng. Tôi cũng có thể liều mạng xin cưới nàng làm vợ, và sau đó xả thân lao động cật lực để xây đắp hạnh phúc gia đình. Cũng có thể chúng tôi sẽ có hạnh phúc lứa đôi tràn đầy. Để được vậy, tôi biết sẽ phải vất vả cật lực suốt cả một cuộc đời còn lại.

Nhưng có lần tôi nghe mẹ nàng nói đùa rằng, đem cả chuyến xe lửa mười toa cũng chở chưa hết những kẻ si mê và theo đuổi Thiên HươngTôi giật mình, và lý trí tôi thức giấc để nhận ra rằng, tôi chưa đủ tài ba và năng lực để gánh chịu những hiễm họa trong tương lai khi làm chồng một người đàn bà sắc nước hương trời như Thiên Hương. Lại nữa, bố tôi thường tỉ tê nhắc nhở rằng, xưa nay trong sử sách, đàn bà đẹp thường chịu nhiều gian truân.

Phần lớn vì ngoại cảnh, bởi chung quanh họ khi nào cũng có đông đảo bọn đàn ông liều mạng muốn chinh phục, muốn chiếm đoạt, dù cho họ đã có gia đình. Những loại đàn ông nầy đầy rẫy trong bất cứ xã hội nào, bất cứ thời đại nào. Một phần khác, cũng tại chính cái tâm của một số người nhan sắc, họ nghĩ cái đẹp có sức mạnh và quyền lực. Họ có quyền đòi hỏi, yêu sách, mọi người phải chấp nhận. Cũng đúng một phần nào.

Vả lại, lòng người vốn yếu đuối, mà cám dỗ thì giăng mắc dày đặc, rất dễ bị vô tình mắc phải lưới bẩy. Thoát được hàng chục cám dỗ mà chỉ cần vướng vào một lần thôi, thế cũng đủ hư hỏng cả cuộc đời. Người đàn bà đẹp đoan trang, thường phải vất vả chiến đấu kiên cường với bọn đàn ông háo sắc, chúng đem quyền lực, lời ngon ngọt nịnh hót và tiền tài ra làm mồi câu dụ dỗ. Không vững lòng thì ngã gục. Khi tôi đã để một chút lý trí vào tình yêu, thì bớt mù quáng. Không mù quáng thì chẳng phải là tình yêu chân thực nữa.

Đó, tôi còn có chút sáng suốt để nhận chân ra rằng nếu nàng kết duyên cùng ông, thì sẽ có được nhiều hạnh phúc hơn làm vợ tôi. Tôi tự hào rằng đó cũng là một thứ tình yêu hy sinh cao thượng mà tôi dành cho Thiên Hương. Tôi quan niệm tình yêu là dâng hiến, không phải là chiếm doạt. Bởi vậy, tôi đã rút lui, để dành cho ông cái hạnh phúc bên nàng, cũng là trút lên ông gánh nặng mà tôi tự lượng sức mình khó gánh nỗi. Ông đã vừa hạnh phúc, vừa vất vả ray rứt khổ đau để cầm giữ canh chừng nàng.

Có thể người ta nghĩ tôi thiếu dũng cảm, thiếu hy sinh, sợ gian khổ. Cũng đúng phần nào. Nhưng nếu tôi thừa dũng cảm, thì có nên đánh đổi hạnh phúc cá nhân của một cuộc đời thong dong, khoáng dật, để có cuộc sống bên người đẹp mà biết chắc rằng sẽ khó thỏa mãn được đòi hỏi về vật chất lẫn tinh thần mai sau. Điều đó, gần như tất yếu. Tôi biết mình chưa là dũng sĩ, thì đừng cưỡi ngựa chiến.

Ông đã tưởng tôi rút lui để nhường tình yêu cho ông. Tôi đâu có được cao thượng như thế. Trong tình yêu, có lẽ không ai muốn nhường cho ai. Tôi rút lui, một phần cũng vì tôi yêu thương nàng bằng thứ tình dâng hiến, không phải tình chiếm hữu vị kỷ. Quan trọng nhất là vì hạnh phúc lâu dài của nàng.

Nàng yêu tôi, nhưng tôi biết nàng cũng yêu ông. Tất nhiên, khi được sống cùng ông, dù trong hạnh phúc tràn đầy, nàng vẫn không quên tôi, vẫn ray rứt tiếc thương, nhớ nhung tôi. Cũng như nếu nàng lấy được tôi, thì sẽ thương tiếc nhớ nhung ông. Đó cũng là tâm lý thường tình, người ta không quý cái trong tay bằng cái chưa có. Có lẽ ông cũng biết điều đó, nên không ghen tương với tôi. Ông lo đối phó, ngăn chận những bọn háo sắc, toan tính chinh phục đàn bà đẹp cũng đã mệt nhọc vất vả lắm rồi. Bọn háo sắc đó chưa hẵn là vô đạo, thiếu vắng lương tâm, nhưng khi lòng ham muốn nổi lên, thì tâm trí mịt mù u tối, như bị ma quỷ xúi dục làm điều mà đôi khi họ không muốn. Tôi biết, tôi không đủ bản lĩnh cao cường và nhẫn nại như ông để gìn giữ một nhan sắc đầy quyến rủ lộng lẫy như Thiên Hương. Dù cho nàng trong trắng, đoan trang đạo đức. Tôi cám ơn ông khéo léo dìu nàng đi yên bình trong trong dòng đời cạm bẫy bão táp.

Ông và nàng vẫn thường thăm viếng liên lạc thân thiết với tôi. Khi gặp nhau, tôi vẫn tìm được ánh mắt yêu thương dịu dàng kín đáo của Thiên Hương. Có lẽ ông cũng biết, vì tình yêu thường ít khi dấu được ai. Nhưng ông không nhỏ nhen ghen tức, vì ông vui khi thấy nàng được vui. Ông cũng không mát chi cả. Ông biết rõ chúng tôi không bao giờ phiêu lưu đi vượt qua lằn ranh lễ giáo.

Ông là một người chồng lý tưởng, lo lắng vun đắp hạnh phúc gia đình, bảo đãm cho vợ con đời sống tinh thần vật chất thong dong đầy đủ. Ông không cờ bạc, không rượu chè, chẳng trai gái, hiếm khi vung vít bù khú với bạn bè. Thì giờ của ông để làm ra tài sản, tiền bạc. Cũng vì quá yêu thương gia đình, hết sức lo lắng cho tương lại vợ con, nên ông không còn có nhiều thì giờ để sống cho tình yêu tuyệt vời của mối tình mà Thiên Hương dành cho ông. Có lẽ ông cũng biết, ngoài cuộc sống vật chất dư thừa, ngoài tiện nghi đầy đủ, nhiều người còn một thứ nhu cầu tinh thần khác cần được thỏa mãn, không có nó không chết, nhưng cũng quan trọng, chỉ sau tự do, cơm áo, an toàn và bình yên mà thôi.

Ông trời không công bằng, con người tốt lành như ông lại chết sớm, để lại vợ đẹp, con ngoan, gia tài phong phú đồ sộ.

Tôi kê vai vào thay ông, chăm sóc nửa cuộc đời còn lại của Thiên Hương. Đem thêm hạnh phúc cho nàng. Những thứ hạnh phúc mà ông vì bận rộn làm ăn chưa có thì giờ để chung hưởng cùng nàng. Nhà lầu ông tôi ở, xe tốt của Thiên Hương tôi đi, tiền bạc của ông trong ngân hàng tôi quản trị. Với danh nghĩa ông, tôi đem phân phát và chia bớt vật chất dư thừa cho vơi khổ của những mảnh đời bất hạnh. Trong lòng tôi, vô cùng biết ơn ông, đã để lại cho tôi người vợ đẹp, hiền lành, dịu dàng; để tôi có dịp đền đáp mối thâm tình chôn dấu trong tim nàng bao nhiêu năm nay. Cám ơn cái tài sản to tát của ông để cho tôi làm phương tiện tạo dựng hạnh phúc và sung sướng vui hưởng bên nàng.

Về ở với Thiên Hương, tôi khám phá ra ông là người cần kiệm, giàu có nứt vách, mà sống đời đơn sơ giản dị. Đa số áo quần ông là đồ cũ mua chợ trời, chợ sân cỏ. Những cái áo vét của ông cũ mèm, sổ lai, áo lót sờn mòn, mỏng tanh, thủng lỗ chỗ nhiều nơi, tươm nát ở vòng cổ. Đức cần kiệm của ông như thế đó, tôi vô cùng khâm phục và tự thấy xấu hổ. Tôi không phải thuộc loại người vắt mũi bỏ miệng, lương bổng của tôi cũng khá, nhiều đồng nghiệp dư sức mua nhà, nuôi vợ nuôi con. Thế mà tôi tháng nào tiêu sạch tháng đó, không nợ nần là quý lắm rồi. Tôi cũng đâu có phung phí, cờ bạc, trai gái, hút xách gì đâu.

Cách sinh hoạt ăn uống của ông cũng cẩn thận, vệ sinh, đạm bạc. Ông sợ mỡ, sợ đường, sợ muối, sợ chất bột. Cứ thứ gì ngon miệng thì ông sợ và kiêng dè, giữ gìn, ngại không tốt cho sức khỏe. Ngon nhưng không dám ăn thường, ăn nhiều. Cứ rau đậu làm căn bản và ông vui trong cuộc sinh hoạt đạm bạc đó, nên vợ con ông ít khi được hướng thụ cái thú ẩm thực. Thuốc lá ông cũng không hút bao giờ. Đời sống ông lành mạnh đến thế đó, mà trời không thương, bắt ông đi sớm, lìa trần gian. Vợ ông may mắn có tôi kê vai vào chăm nom chìu chuộng. Ông cứ tin tôi đi, nếu tôi không đủ sức đem lại cho nàng hạnh phúc bằng, hay hơn khi đang sống cùng ông, thì tôi cũng hành động lại như ngày xưa, hy sinh tình yêu, để nàng đi tìm nơi khác có tràn đầy hạnh phúc hơn.

Ông cũng đừng lo lắng sợ tôi tiêu xài phí phạm tài sản mồ hôi nước mắt đã gom góp suốt cả đời ông. Nếu là tiền của tôi, thì tôi tiêu không e dè, nhưng tiền ông, tôi sẽ đắn đo khi tiêu pha.

Tôi cưng chìu Thiên Hương, âu yếm dịu dàng chăm sóc, và không bao giờ để phật lòng trái ý nàng. Đó cũng là cách đền bù lại thời gian chúng tôi xa cách nhau. Tôi phục vụ nàng như một tên nô lệ dưới chân một bà hoàng bà chúa. Nàng thỏa mãn cái tự ái của phái nữ. Chỉ chừng đó thôi, đủ làm nàng sung sướng ngất ngây. Nàng cứ nghĩ tôi là kẻ chung tình, mãi thương yêu nàng, nên không chịu lập gia đình. Đâu phải vậy, tôi cũng có nhiều mối tình trong đời, nhưng những tình yêu không đủ to tát để hy sinh cả cuộc sống độc thân thong dong của tôi. Tôi không dám đính chính, cứ để nàng hiểu lầm như thế cho trọn niềm vui. Không mất gì cả. Vả lại, tôi có đính chính, chắc nàng cũng không tin đâu.

Tôi nguyện với mình, làm sao cho nàng cảm thấy đời sống mới hạnh phúc sung sướng từng ngày, từng giờ, từng phút. Sống một ngày vui một ngày, sống một giờ vui một giờ. Trong vòng tay yêu thương của tôi, trái tim nàng chan hòa ấm áp hạnh phúc. Tôi tin, ở nơi suối vàng, ông cũng mong nàng được sung sướng hạnh phúc, quên đi mất mát thương đau. Tôi đã giúp ông làm được điều đó cho nàng.

Lấy tiền ông, tôi mua vui, tạo hạnh phúc cho Thiên Hương, những thú vui mà nàng chưa được nếm trãi. Tôi đưa nàng đi chu du khắp năm châu bốn biển. Thăm những danh lam thắng cảnh trên khắp địa cầu nầy. Tử Âu, Á, Úc, Phi, Mỹ châu. Đến các nơi thiên hạ thường ước mơ được viếng thăm. Nơi nào vui thì ở lại nhiều ngày, nhiều tuần, thích thú tận hưởng những lễ hội, những sinh hoạt từng địa phương. Đi, vui và sống. Nàng đã được thưởng thức những món ăn đặc biệt, ngon, lạ, hiếm có của nhiều quốc gia trên thế giới nầy. Không thiếu thức nào. Cũng có khi hơi phí phạm tiền bạc, nhưng bù lại được sống thực, sống tận tình.

Tôi đưa nàng lên những du thuyền mới nhất, lộng lẫy và diễm lệ nhất, cùng ngao du đây đó. Sống như những bậc vương giả, như đã về đến cõi tây phương cực lạc, vui chơi, ăn uống, được phục vụ tận tình ngày cũng như đêm. Có ca nhạc, thể thao, đàn hát, các trò chơi lành mạnh, nhàn nhã nằm bên hồ tắm trên du thuyền, ăn uống liên miên không ngừng. Đi từ Thái Bình Dương băng qua Đại Tây Dương, và có lần ở trên du thuyền cả tháng, lang thang qua các hải đảo, khởi đi từ Mỹ Châu đến Âu Châu. Có lẽ Thiên Hương đã và đang sống những ngày tháng sung sướng hạnh phúc tuyệt vời trong tình yêu dâng hiến và lãng mạn của tôi. Tôi nghĩ, ông cũng chẳng thèm ghen tức với cái hạnh phúc triền miên của Thiên Hương. Bởi vì hạnh phúc của nàng cũng là hạnh phúc của ông và cả của tôi.”

Sau khi khấn vái tỉ tê dài dòng, ông Long quỳ gối nằm úp người vái bốn lạy. Rồi trịnh trọng rót rượu lễ ra ly, dặt lên bàn. Xong lấy xấp tiền âm phủ in màu xanh giống hệt đồng đô-la Mỹ, cầm một cọc lớn, mỗi tờ có mệnh giá mười triệu đô, châm lửa đốt vào cái thùng nhôm, khói bay nghi ngút. Ông cười và lẩm bẩm: “Cả trăm triệu đô-la, tiêu chi cho hết.” ./.

TẤM LÒNG LƯƠNG THIỆN

Le Bao Lien

 TẤM LÒNG LƯƠNG THIỆN

Một công ty nọ có truyền thống tổ chức tiệc và rút thăm trúng thưởng vào Giáng sinh mỗi năm. Theo quy định rút thăm trúng thưởng, mỗi thành viên tham gia đều phải đóng góp 10 USD làm lệ phí.. Toàn công ty có 300 người, và phần thưởng chính là tổng số tiền của 300 người gộp lại: 3.000 USD. Ai may mắn sẽ được mang toàn bộ số tiền đó về nhà.

Vào ngày tổ chức lễ bốc thăm, không khí náo nhiệt tưng bừng hơn bao giờ hết, ai nấy cũng mong đợi tới giờ vàng để thử vận may của mình. Mỗi người đều được phát một mẩu giấy để ghi tên mình trước khi bỏ vào thùng bốc thăm trúng thưởng. Và trong lúc chuẩn bị ghi tên, một cậu nhân viên trẻ chợt phân vân suy nghĩ:

“Cô lao công Sarah là người có gia cảnh khó khăn nhất, con cái lại mắc nhiều bệnh tật, mà cô thì không có tiền để phẫu thuật cho con. Giá như cô có được số tiền này thì tốt biết mấy, nhưng cô lấy đâu ra 10 USD để tham gia cơ chứ?”.

Nghĩ rồi cậu không cần đắn đo mà quyết định sẽ ghi tên cô Sarah thay vì ghi tên mình lên đó. Mặc dù vẫn biết cơ hội quá mong manh, chỉ có 1/300 cơ hội, nhưng cậu vẫn cầu mong vận may mỉm cười với cô.

Tới lúc chuẩn bị rút thăm, không khí hồi hộp không kém phần căng thẳng. Mọi người cùng nhìn lên khán đài khi giám đốc công ty chọn ra tấm phiếu may mắn. Ở bên dưới, cậu thanh niên trẻ không ngừng cầu Chúa, cầu Chúa hãy giúp đỡ cô Sarah…

Vị giám đốc từ từ mở mẩu giấy ra… Tích tắc, tích tắc, mọi người đều nín thở chờ đợi đến mức tiếng kim đồng hồ cũng có thể nghe thấy. Khi nhìn vào cái tên trên tấm phiếu may mắn ấy, giám đốc bất giác mỉm cười… rồi ông đọc to lên. Và… kỳ tích thật sự đã xuất hiện! Khi cái tên Sarah được xướng lên, những tràng vỗ tay chúc mừng vang lên không ngớt tràn ngập cả hội trường. Cô Sarah vừa vui mừng vừa bất ngờ vì không biết mình được tham gia. Khi bước lên bục nhận phần thưởng, cô rối rít cảm ơn: “Tôi thật may mắn, có số tiền này con tôi được cứu rồi, cảm ơn mọi người, cảm ơn mọi người!”.

Buổi tiệc diễn ra trong những tiếng nói cười và tiếng nâng ly chúc tụng. Chàng nhân viên trẻ miên man suy nghĩ về cái kết có hậu của đêm Giáng sinh năm ấy, bởi mọi thứ xảy ra như một kỳ tích. Cậu vừa bước dạo xung quanh vừa chúc tụng mọi người một Giáng sinh vui vẻ. Vô tình đi qua thùng phiếu, thuận tay cậu rút lấy 1 tờ ra xem, và… lạ chưa kìa, trên mảnh giấy đó có tên cô Sarah. Cậu không dám tin vào mắt mình nên vội vàng rút ra thêm một mẩu giấy, và một mẩu giấy nữa, tất đều có tên cô Sarah trên đó.

Một nỗi xúc động dâng trào trong lòng cậu, giống như những cơn sóng thuỷ triều dâng lên mãnh liệt. Hai mắt cậu đỏ lên, những giọt nước mắt hạnh phúc không ngừng tuôn rơi. Cậu nhận ra một điều, thế giới này thực sự tồn tại “kỳ tích đêm Giáng sinh”, chỉ có điều kỳ tích đó không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó được tạo ra bởi những con người có tấm lòng lương thiện quanh ta.

Và thế giới này sẽ trở thành thiên đường mà không cần bạn phải là vĩ nhân. Đôi khi bạn sẽ thấy những gì mình cho đi quá nhỏ nhoi, đến độ bạn thấy dù có làm nó hay không thì cũng không có gì đáng kể.Tuy nhiên “Đừng thấy việc Thiện nhỏ mà không làm”.Chỉ cần bạn bắt đầu bằng một ngọn cỏ, thế giới sẽ trở thành cánh đồng hoa rực rỡ.

(Fb Quoc Thang Mai. Ảnh Phạm Anh Dũng)

MỘT CÁI ÔM CÓ THỂ THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI MỘT CON NGƯỜI

Nguyen NhienNhững Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

MỘT CÁI ÔM CÓ THỂ THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI MỘT CON NGƯỜI

Bài và ảnh: Sưu tầm

1/Một ngày nhiều năm về trước, bà giáo đang ngủ trưa ở nhà, đột nhiên, chuông điện thoại reo lên. Bà cầm điện thoại lên nghe, thấy rất ồn ào, và tiếng của một người : “Con gái nhà bà lấy trộm sách, bị chúng tôi bắt được, bà đến đây ngay đi !”.

Trong điện thoại bà còn nghe thấy tiếng khóc của một bé gái, và tiếng quát của người bên cạnh.

Bà quay đầu lại chỗ ti-vi, thấy đứa con gái của mình vẫn nằm đó, bà lập tức hiểu ra. Bà như thấy hình ảnh một cô bé, với ánh mắt rất sợ hãi, và mong đợi sự giúp đỡ. Cô bé đang ở trong hoàn cảnh vô cùng xấu hổ. Nghĩ thế, bà liền hỏi địa chỉ tiệm sách, và vội vàng đi đến đó.

Đúng như bà nghĩ, một cô bé đứng trong tiệm sách, nước mắt chảy ròng, sợ hãi, bên cạnh là đám đông người đang lớn tiếng trách cứ.

Bà bước đến, ôm cô bé vào lòng, và nói với các nhân viên của nhà sách : “Có gì thì nói chuyện với tôi ! Tôi là mẹ của con bé, đừng làm trẻ con sợ !”.

Bà trả tiền sách và tiền phạt. Dẫn cô bé về nhà mình. Rồi bà tranh thủ dọn dẹp nhà cửa, không hỏi một câu nào. Sau đó bà dịu dàng nói : “Nếu con muốn đọc sách thì hãy đến nhà dì, dì có rất nhiều sách !”. Và để cô bé ra về.

Cô bé vẫn chưa hết sợ hãi, nhìn bà thật lâu, rồi chạy vụt mất. Từ đó trở đi không xuất hiện nữa.

2/Vào một ngày nhiều năm sau, bà giáo nghe tiếng gõ cửa rất nhẹ, bà mở cửa thì thấy một cô gái lạ đứng trước cửa, vẻ mặt rất tươi, trên tay có cầm một gói quà. “Cô tìm ai ?” . Bà có chút nghi hoặc. Cô gái có vẻ xúc động, nên không nói được lời nào …

Khi nghe cô gái trẻ kể lại bà mới nhớ. Cô bé năm xưa vừa nhận được bằng Đại học, đã tìm được một công việc. Bây giờ đến thăm bà.

Cô gái rơm rớm nước mắt nói : “Trong lúc vội vã, họ đã gọi nhầm số, may mà gọi trúng vào nhà dì. Cho đến tận bây giờ, con vẫn không hiểu tại sao, lúc đó dì lại nhận làm mẹ để giúp con. Bao nhiêu năm nay trong tâm con rất cảm kích dì, và luôn có một tâm nguyện gọi dì một tiếng : “Mẹ”.

Vừa dứt lời, nước mắt liền tuôn trào trên khuôn mặt cô gái.

Mắt của bà giáo cũng bắt đầu nhòa đi. Sau một lúc, bà mới tò mò hỏi :

– Nếu ta không giúp con, thì kết quả sẽ như thết nào ?

Cô gái nghĩ một lát, rồi lắc đầu nói :

– Con cũng không biết nữa. Có thể con sẽ làm chuyện ngốc nghếch gì đó !

Nhìn khuôn mặt tươi tắn hạnh phúc của cô gái, bà mỉm cười. Rốt cuộc bà đã có một lựa chọn đúng đắn vào lúc đó, nếu không thì không biết điều tồi tệ gì sẽ xảy ra …

3/Ngoài “Yêu thương” ra, động từ đẹp nhất trên thế gian chính là “Giúp đỡ”, một việc làm đáng được ngưỡng mộ nhất trong xã hội.

Khi gặp người cần sự giúp đỡ, hãy cố gắng giúp họ, vì có thể một cái chìa tay của bạn, sẽ làm thay đổi cuộc đời một con người.

“…Xin Sẽ Được” – Nguoiviettudo

“…Xin Sẽ Được” – Nguoiviettudo

“…Ngày 22 tháng mười hai năm 1976 tôi bước chân ra khỏi nhà tù Pleiku. Tôi bị bắt ở Kontum cách đó khoảng bảy tháng. Từ Saigon đi xe đò lên cái tỉnh tận cùng biên giới ở phía Tây, chưa kịp nằm nóng lưng công an đã đến thăm hỏi, còng tay tống vào tù một tháng trời chờ xe đưa về trại giam tỉnh Pleiku. Hồi đó thời sinh viên khờ khạo, chưa bao giờ rời nơi sinh ra và lớn lên ở Saigon, chuyến đi Kontum là một mạo hiểm lớn. Vì quá nhiều lần toan tính vượt biên bằng tàu thất bại tôi quyết định thử thời vận lần nữa bằng đường bộ. Đâu có biết rằng những ngày vừa sau 30/4/ 75 VC chăng lưới tình báo nhân dân ở khắp mọi hang cùng ngõ hẻm, ngơ ngơ ngáo ngáo như tôi khi đến một địa phương xa lạ chắc chắn sẽ lọt ngay vào tầm ngắm của an ninh.

Lục soát ba-lô tôi đem theo, bọn chúng thấy một cuộn dây đi rừng và tai hại hơn nữa, một viên đạn colt 45 nằm lẫn lộn trong mớ quần áo, bèn đẩy tôi vào ngay biệt giam. May cho tôi ngoại trừ tang vật hiện trường chúng không tìm được gì khác. Tôi vẫn còn giữ tấm thẻ sinh viên đại học Khoa Học Saigon và thẻ căn cước nên chúng không biết khép tôi vào tội gì . Sau này tôi mới biết với VC , tội tình nghi nặng hơn bất cứ tội nào khác. Ăn cắp ăn trộm còn có án về, tình nghi thì “mút chỉ cà tha” . Ba năm là chuyện nhỏ, có người đã phải “ học tập“ trên chục năm trời ngày trở về ba má vợ con nhìn không ra.

Khoảng một tháng sau khi tạm giam ở Kontum, CA chuyển tôi về Pleiku. Địa ngục trần gian bắt đầu hiện ra trước mặt tôi. Chỉ có ba phòng sức chứa khoảng 150 người , nay bị dồn nhét hơn ba trăm . Một biệt giam gồm khoảng trên mười hộc (dành cho 10 người) chất đến ba chục mạng. Lần đầu tiên ở tù tôi chỉ muốn tự tử. Chung quanh tôi đa số là Fulro cắc-kè-bông với vết thẹo ghẻ lở phủ kín người. Cấp bậc nhỏ nhất là thằng Giu Se Mới, khoảng 20 tuổi đại úy Fulro. Tôi nằm chung hộc với nó và thẳng Y Nguoun, thiếu tá, bị bắt vì chỉ huy một đại đội tấn công đồn Công An quân số khoảng mười bốn mạng. Đánh đấm thế nào mà thiếu tá Y Nguoun bị bắt sống , lính lác chạy tán loạn, đồn CA thì vẫn còn nguyên.

Đó là lần đầu tiên tôi biết con rận. Sáng sớm thức dậy nhìn thấy một giọt máu nhỏ bằng đầu kim đi chuyển trên cánh tay, tôi kinh ngạc không biết là cái gì. Giu Se Mới chụp ngay lấy bỏ vào miệng cắn cái cóc . Nó còn khuyến khích tôi “ thử đi, ngọt lắm “. Ông nội tôi cũng không dám thử.

Mỗi ngày, chúng tôi được múc nước vào rửa ráy buồng giam một lần, ai có nhiệm vụ trực hôm đó đuoc hưởng thêm phần cơm cháy. Một thằng giết người (dân tộc Kinh) đang chờ ngày ra tòa vẫn dành giựt nhiệm vụ này với Thượng để có thêm cơm ăn. Ỷ mình Việt Nam chính cống nó ăn hiếp bọn Thượng khờ khạo (hay giả khờ qua ải). Thùng đựng nước là một thùng đạn lớn dùng chứa đủ thứ từ rác rưởi, ỉa đái, khạc nhổ. Sáng sớm hai thằng khiêng đổ ra đống rác rồi súc sơ sài bằng nước giếng, sau đó múc nước cũng từ giếng vào tắm rửa. Có lần tôi còn thấy rõ cục đàm của thằng nào nổi lều bều trên mặt. Không ăn nhằm gì hết với tù biệt giam vì cắc-kè-bông không sợ lở, chỉ việc vớt bỏ rồi thoải mái mà xối lên người, kỳ cọ với xà bông cục. Dân Thượng địa phương có thăm nuôi, sáu thằng Việt Nam chúng tôi đói khát muôn năm.

Đó là lý do tại sao sạch sẽ tắm rửa như vậy mà anh Fulro nào cũng thành cắc-kè bông. Thăm nuôi nghèo nàn, thiếu dinh dưỡng lại không ánh nắng mặt trời (biệt giam bị cấm ra khỏi khu vực buồng tối), vệ sinh tệ hại, không bị ghẻ đầy người mới là chuyện lạ.

Cuối cùng tôi chuyển đến phòng ngoài. Ra rồi tôi lại nhớ thời gian nằm “ hộc “. Dù sao thỉnh thoảng cũng được chia cho vài hơi thuốc rê quấn giấy bọc lương khô Trung Cộng. Hút cháy cổ mà vẫn ngon, hoặc chí ít cũng nếm được mẩu bánh đậu xanh (lương khô Tàu) lớn bằng đầu ngón tay cái.

Tôi biết ơn Giu Se Mới đã “bố thí“ vì trong biệt giam hai phong lương khô cộng với sáu điếu thuốc rê đổi được áo jacket lính Dù mặc rất ấm với khí hậu miền núi. “ Thấy cái mặt mày khờ, tao tội nghiệp”. Không có sự tội nghiệp của đại úy Giu Se Mới suốt đời tôi cũng chẳng biết hương vị “ ration C “ Tàu nó như thế nào..

Nhất y nhất quởn từ ngày bước lên chiếc xe đò định mệnh vốn liếng đi theo tôi cho tới ngày rời khỏi nhà tù chỉ bấy nhiêu để chống chọi cái rét khủng khiếp mùa đông .

Tôi bắt đầu có ghẻ, ghẻ mọc khắp nơi trên người bất kể chỗ kín hay hở. Ghẻ và đói là hai kẻ thù khủng khiếp hành hạ những thằng tù ngày cũng như đêm. Ghẻ và đói lại tàn ác hơn với những thằng tù “xa xứ“ quê quán ở tận Saigon như tôi. Tù Saigon đông lắm, nhưng đường xá xa xôi nhất là vào những ngày mới bị VC chiếm đóng miền Nam, phương tiện giao thông nghèo nàn, chẳng thằng nào có thăm nuôi. Bao nhiêu quần áo mang theo đã đổi lấy lương khô, thuốc rê, còn lại thì đem ra quấn hết vào người. Tù khổ nhưng rận rệp lại mừng vì càng ngày càng mập mạp , chỗ trú ẩn ấm cúng sau mấy lớp quần áo.

Buổi sáng tù được ra tắm nắng mỗi thằng tự mài lấy cho mình một cây kim từ những miếng sắt vụn kiếm được. Có hai lợi ích khi sở hữu một cây kim: để may lại bộ đồ rách (chỉ là những sợi nilon rút ra từ bao tải) và để bắt con ghẻ. Nhiều thằng tù không ngồi được vì đít đầy ghẻ mủ, chổng mông cho một thằng khác chà sát xịt máu rồi rửa bằng nước muối. Đó là cách trị ghẻ duy nhất tù nghĩ ra được.

(Sau 30/4/75, ở tù là chuyện dĩ nhiên đối với tất cả những ai sinh ra và sống dưới chế độ VNCH. Con nít ba tuổi còn phải đi tù với mẹ, nhiều bà lặc lè cái bụng cũng ngồi vài tháng vì tội vượt biên hoặc buôn bán lặt vặt. Hề là người miền Nam (không theo VC) thì phải “ học tập cải tạo “, đó là quy luật. )

Một đêm lúc còn trong hộc, bỗng dưng tôi thức dậy vào khoảng ba giờ sáng, chắc tại mấy con rận rệp cắn ngứa ngáy quá chịu không nổi. Thình lình tôi nghe văng vẳng từ xa vọng lại tiếng chuông nhà thờ. Tiếng chuông boong boong vọng vào tai rồi thấm dần đến quả tim từ lâu đã quên bẵng. Tôi nằm trong này hơn hai tháng rồi, chưa biết bao giờ mới được cho ra phòng ngoài chứ đừng nói gì đến được tha. Bao nhiêu ký ức hiện trong đầu tôi, những ngày còn ở ngoài đời.

Tôi là người Công Giáo, theo kiểu ông bà cha mẹ có đạo thì đương nhiên tôi cũng có đạo. Từ lúc lớn khôn tôi chẳng ý thức gì về vấn đề tôn giáo, nhưng phải đi lễ mỗi Chúa Nhật là một cực hình (tôi thà rong chơi với bạn bè trong mấy quán cà phê ). Sinh viên năm thứ ba ĐHKH Saigon tôi thích những nơi có nhạc TCS, lơ mơ điếu thuốc quấn Bồ Đà . Hồi nhỏ ba má tôi vẫn buộc chúng tôi phải đi lễ chung với gia đình, nhưng khi bước vào đại học, ông bà để chúng tôi tự do. Tôi trịch thượng so sánh những linh mục với những con quạ đen .

Nhưng đêm hôm đó, tôi bị “đánh thức“. Tiếng chuông vọng lại nhắc đến những Giáng Sinh gia đình thiếu vắng tôi trong lễ nửa đêm. Hình ảnh ba má tôi chăm chỉ dự lễ đều đặn nhất là sau ngày đại tang của đất nước. Ông bà cầu nguyện điều gì tôi không biết nhưng gương mặt già nua của cha mẹ giờ đây hiện rõ ràng trong tâm trí. Tôi bật khóc, tự nhiên tôi ngồi dậy, hai cái còng chữ u dưới chân rọt rẹt làm Giu Se Mới cằn nhằn “ngủ đi thằng Sài Gòn“. Tôi không ngủ được nữa, lần đầu tiên sau bao nhiêu lâu tôi mấp máy môi đọc một kinh Lạy cha ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh. Rồi tôi quyết định make a deal với Thiên Chúa. Tôi thưa như thế này:

– Lạy Chúa, bao lâu rồi con đã không dự lễ với ba má, Xin cho con được về trước Giáng Sinh năm nay, con muốn cùng ba má con dự thánh lễ Giáng Sinh . Nếu có thể xin hãy cho con điều đó. Nếu không xin hãy cất linh hồn con, con hết chịu nổi rồi. Sau Giáng Sinh nếu còn ở trong này con sẽ chẳng tha thiết điều gì nữa, cho con chết đi thì hơn.

Như đã nói, tội của tôi là tội “ tình nghi ” mà đối với VC “ tình nghi ” nặng hơn “ tình thiệt “. Tình thiệt còn có ngày về, tình nghi thì cứ “mút mùa Lệ Thủy”. Do đó cầu nguyện là một chuyện, cầu được ước thấy lại là chuyện khác. Tôi đinh ninh như thế và rồi tôi quên đi những gì mình đã thưa vào đêm thức dậy ba giờ sáng.

Ngày 22 tháng Mười Hai năm 1976. Đang lúc ra tắm nắng tù được lệnh trở vào phòng giam, thường là lệnh chuyến đi lao động những tù đã có án. Trước đó hai ngày ngày 20/12/1976 tôi chợt nhớ lại lời cầu xin của mình và lòng buồn rười rượi vì chắc chắn sẽ còn ở đây lâu. Thân thể tôi giờ như một bộ xương khô, cái đói chiếm trọn đầu óc. Đã có lần tôi suýt nhặt một trái ớt hiểm nằm giữa đống phân vì thèm. Tôi sắp chết rồi.

Đợt đầu được gọi ra để chuyển trại, cửa phòng giam mở khoảng mười lăm phút để tù có án tập trung . Sau đó lại đóng. Điều này hơi bất thường vì trước đây chưa từng . Hóa ra còn một đợt kêu tên nữa cho về. Tên tôi nằm hàng thứ ba mươi sáu.

Tôi đi như bay ra khỏi nhà giam, đầu óc tôi tê điếng chẳng còn cảm giác Điều tôi không ngờ đã đến. Tôi bước ngang Biệt Giam thấy mặt Giu Se Mới cười và nghe rõ tiếng nói của nó : “thằng Saigon về rồi! ”. Cảm ơn mày nha Giu Se Mới, tao sẽ nhớ mày và Y Nguoun

Hồi bị bắt tôi còn ít tiền, công an VC trả lại tôi đầy đủ (Điều này cũng đã làm tôi ngạc nhiên một thời gian, ít quá không đáng để lấy?). Tôi mua ngay một nải chuối, mấy cái bánh tét, tất cả những gì tôi thèm khát mà số tiền có thể mua được. Kết quả thấy ngay lập tức, tôi đứng dậy không nổi. Bao tử bị o ép thời gian dài nay căng ra quá độ làm tôi bị bội thực. Tôi ráng lết ra bến xe, trên người còn mặc bộ đồ tù trại phát. Ra đến đó tôi ngồi trên một băng ghế dài, ngẫm nghĩ cách đề về nhà. Tiền đã hết, làm thế nào đây? Cách duy nhất tôi có thể thực hiện lúc này là cầu nguyện. Tôi lại thưa:

– Lạy Chúa Chúa đã nghe lời con kêu xin , cho con được ra tù mà chỉ còn hai ngày nữa là đến Giáng Sinh, con lại không có tiền . Không lẽ Chúa bỏ con bơ vơ ở nơi này? Vậy thì cho con ra tù để làm gì?

Còn đang lẩm bẩm, tôi chợt nghe có tiếng nói

– Sao ngồi đây?.

Tôi ngước lên, trước mặt là một người đàn ông trung niên, ăn mặc như nông dân. Giọng miền Nam hơi phảng phất Trung Phần. Anh nhìn tôi có vẻ thông cảm (chắc tại bộ đồ tù)

Tôi thưa thiệt:

– Dạ tôi mới tù ra, nhà ở tận Saigon không biết làm sao đề về nhà

– Vậy hả, tôi tên Tường, mà nè sáng giờ ăn uống gì chưa?

Mặc dù ăn no đến bội thực, bao tử đang hành hạ nhưng cái đói ám ảnh khiến tôi buông vội (vì tưởng như mình vẫn đang rất đói ):

– Dạ chưa

– Vậy ngồi đây chờ chút tôi đi chút xíu quay lại.

Tôi bàng hoàng, kinh ngạc. Như thể Chúa đang ở trước mặt tôi, Ngài đang trò chuyện, đang nghe những lời kêu van thống thiết và gởi một thiên sứ đến giúp tôi . Anh là Thiên Sứ của Thiên Chúa hay người thường vậy anh Tường?

Anh trở lại với khúc bánh mì:

– Nè ăn đi, tôi đã sắp xếp một chỗ cho anh trên chiếc xe đò về Saigon rồi.

Tôi theo anh, anh dẫn tôi lên chiếc xe, nói gì đó với người tài xế, rồi ngoắc tay:

– Về nhà bình yên nghe

Tôi vẫn không biết anh có phải là Thiên Thần Bổn Mệnh của tôi, vì thời điểm đó, đâu có ai muốn rắc rối, dây dưa với người lạ nhất là một thằng tù còn mang trên người bộ quần áo . Càng co cụm, khép kín càng tốt. Ai biết ai… là ai!

Tôi lên xe ôm cái bụng cóc ọc ạch vì thức ăn nằm ủ trong đó. Cứ khoảng một cây số tôi lại xin người tài xế ngừng lại để đi cầu. Trên dưới đều không ra được làm tôi như người sắp chết. Bụng tôi căng cứng giống trái banh chờ lúc bùng nổ. Tôi lại lâm râm cầu nguyện. Những lời kinh phần nào làm đau đớn dịu xuống, nhưng hỗn tạp hàng chục loại thức ăn trong dạ dày khiến tôi chỉ muốn chết cho xong. Hành khách đi chung xe không ai dám nói chuyện với tôi, họ chỉ liếc mắt nhìn, người đầu tiên ngồi hàng cuối đứng dậy xuống, đi ngang qua ném cho tôi hai đòn bánh tét rồi đi thẳng. Người thứ hai, thứ ba giả bộ để rơi tờ giấy bạc, gói thuốc. Tôi cảm ơn họ những người xa lạ chỉ vì bộ đồ tù tôi mặc trên người sẵn sàng nhường nhịn chia sẻ chút vật thực rất nghèo nàn của họ. Những ngày đầu mất nước chẳng ai giàu có đủ để chia sẽ phần sở hữu của mình. Chắc họ đoán tôi là tù VC vừa được tha, mà đã là tù VC thì (ngoài hình sự ) tất cả đều là anh hùng . Cảm ơn họ, những người miền Nam giàu lòng vị tha

Tối hôm đó xe ngừng lại ở Qui Nhơn. Nhờ có tiền tôi thuê được cái ghế bố . Tôi muốn ngủ nhưng đau đớn quá đến bật khóc. Tôi lại ngồi dậy thầm thì cầu xin:

– Lạy Chúa, Chúa đã cho con ra tù, cho con có phương tiện về nhà không lẽ Chúa để con chết ở đây? Chúa biết là con cũng sắp chết rồi. Con thở không nổi nữa, đau quá Chúa ơi

Cầu nguyện một chặp, tôi mệt nằm xuống thiếp đi. Đoán chừng khoảng mười lăm phút sau, tôi ngồi bật dậy. Một con nôn thốc nôn tháo tống khứ hết mọi thức ăn đã nằm trong bao tử tôi hai ngày nay. Tôi tưởng sau đó tôi sẽ chết, thật lạ, hết cơn nôn tôi cảm thấy mình khỏe khoắn như chưa bao giờ khỏe như thế. Tối hôm đó tôi ngủ say như một đứa trẻ vừa no sữa

Xe đến ven thị xã Phan Thiết thì ngưng lại. Lệnh giới nghiêm không cho phép xe lưu thông qua thành phố sau nửa đêm. Đó là tôi đoán vậy, còn thật sự như thế nào tôi không biết. Đêm đó cũng như mọi người chúng tôi nằm lăn lóc ở hai bên vệ đường trong khách sạn “Ngàn Sao“ ( nhìn lên trời thấy sao không!)

Sáng ngày 24/12/1976 tôi về tới nhà. Con chó Lucky má tôi thừa hưởng từ người dì đã đi tản qua Canada để lại. Nó gốc quân khuyển thường được ăn đồ ngon cho tới khi về với má tôi và sống dưới chế độ VC. Tội nghiệp “ thằng nhỏ “ phải tập ăn mọi thứ má tôi có thể chia cho nó. Chơi láng hết từ khoai mì khoai lang, cám heo v..v . Hai “ đứa ” tụi tôi vẫn chơi thân với nhau trước ngày tôi đi tù.

Nghe tiếng người Lucky từ trong nhà chạy ào ra sủa dữ dội. Tôi la khẽ “ Lucky, tao nè “ nghe tiếng tôi nó ư ử mừng rỡ, chân cào lên hàng rào đuôi vẫy dữ dội. Má tôi đang ăn cơm, nghe chó sủa vội chạy ra coi là ai, tay vẫn còn cầm chén. Vừa nhìn thấy tôi, má chết sững

– Trời ơi , ông ơi, thằng Bảy nó về rồi nè.

Ba tôi chạy ra, mếu máo. Má tôi mở cổng, ôm chầm lấy tôi, Lucky nhảy chồm lên người tôi, ba tôi cứ cầm tay tôi mà lắc. Sau này khi bình tĩnh tôi mới biết ba má tôi tưởng tôi đã chết rồi vì không có tin tức gì hết từ ngày tôi bỏ đi. Ba má biết tôi tìm cách vượt biên đường bộ. Thú dữ, Khờ Me Đỏ, VC chắc là tôi không tài nào đi lọt. Thậm chí má tôi đã xin lễ cầu hồn cho tôi. Tôi đâu có dám cho ba má tôi biết bị tù ở Pleiku sợ ông bà tuổi già sức yếu lại lo gồng gánh thăm nuôi. Cuối cùng tôi chịu hết nỗi đánh liều gởi lén thằng bạn được tha bức thư cầu cứu chỉ cách ngày tôi được tự do có một tuần lễ. May là thằng bạn chắc về tới nhà vui quá quên giao thư. Cảm ơn nó, nếu không tôi lại làm khổ ba má tôi lần nữa.

Tính ra VC giam tôi hơn sáu tháng . Sáu tháng với một thằng thư sinh như tôi, từ nhỏ tới lớn chỉ biết ăn bám vào cha mẹ là cả một khoảng thời gian khủng khiếp. Tôi biết được con rận hình dạng ra sao, con cái ghẻ nhớ như thế nào và làm cách nào bắt “quả tang hung thủ“ bằng đầu kim mài nhọn từ mảnh sắt vụn. Tôi biết sự dã man khi bệnh “ đói “ hành hạ , cảm giác “ sung sướng đến tê dại “ lúc áp chai thủy tinh nước nóng vào hai cái mông đầy ghẻ, hoặc khi thằng bạn “ghẻ “ chà bật máu mủ rồi chế nước muối lên. Gọi là bạn ghẻ vì chúng tôi sẽ luân phiên “ điều trị “ bệnh ghẻ cho nhau theo lối đó.

Tôi cũng phải cảm ơn VC. Nghe lạ quá ha? Nhưng đúng là nhờ VC, bao tử tôi giờ vô địch. Tôi có thể ăn bất cứ con gì miễn là nó nhúc nhích (tôi đã từng nếm “hương vị“ rận no máu khi cắn cái cóc trong miệng ). Bây giờ nhiều khi ăn thức ăn để lâu hoặc cơm thiu người khác sẽ bị ngộ độc thực phẩm, còn tôi hả ? “ vô tư “! Vi trùng sợ tôi chứ tôi đếch ngán bất cứ vi trùng nào. Sống sót tù VC tôi có thể sống sót mọi nơi, mọi hoàn cảnh vì tận cùng của sự khủng khiếp là Hỏa Ngục mà so với tù VC chắc còn thua một bậc.

Câu chuyện này hoàn toàn có thật mà bao nhiêu năm nay tôi muốn kể lại để VINH DANH và CÁM ƠN Thiên Chúa, những vì không biết cách viết, cộng thêm với sự lười biếng, lo toan cuộc sống tôi chưa làm được. Tin hay không tuỳ quý vị, nhưng ơn Thiên Chúa ban cho có thật, nhất là cộng thêm lời cầu bầu rất linh nghiệm của Mẹ Maria.

Còn đối với anh Tường tôi vẫn cầu nguyện cho anh (tôi rất muốn biết anh chỉ là một người giàu lòng nhân đạo tình cờ đi ngang qua hay anh thật sự là một Thiên Sứ được sai đến?)

Tôi xin lỗi, tôi quên phần kết luận: chỉ trong vòng có hai ngày, từ trưa 22/12/1976 với một cái bụng bội thực gần chết, với phương tiện giao thông nghèo nàn dưới sự điều hành của VC đi từ Pleiku (cách xa Saigon bao nhiêu cây số ? ) , tôi đã về tới nhà mình vào đúng trưa ngày 24/12/1976. Điều đó có nghĩa là đêm Giáng Sinh tôi đã được tham dự Thánh lễ nửa đêm với ba má mình như lời nguyện xin trong phòng biệt giam ở Pleiku…”

VINH DANH THIÊN CHÚA TRÊN TRỜI

BÌNH AN DƯỚI THẾ CHO NGƯỜI THIỆN TÂM

(Theo lời kể của một người bạn)

Nguoiviettudo