SỰ KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG…!

SỰ KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG…!

Giống như bất kỳ người mẹ nào, khi Karen biết mình mang thai, cô làm tất cả những gì có thể để giúp đứa con trai 3 tuổi, Michael, chuẩn bị tâm lý chào đón một thành viên mới trong gia đình.

Thành viên mới này là một bé gái. Ngày ngày, Michael hát cho đứa em gái còn trong bụng mẹ nghe. Cậu bé đã xây dựng tình yêu thương đối với em gái mình ngay cả trước khi cô bé ra đời.

Thai kì tiến triển bình thường. Theo thời gian, những cơn đau chuyển dạ đến. Mỗi năm phút, ba phút rồi một phút một lần. Tuy nhiên, biến chứng nghiêm trọng phát sinh, Karen chuyển dạ hàng giờ. Cuối cùng, em gái của Michael chào đời. Nhưng cô bé lại trong tình trạng rất nguy kịch. Tiếng còi hú trong đêm, xe cứu thương vội vàng chở đứa trẻ sơ sinh đến khu chăm sóc trẻ sơ sinh tại bệnh viện St. Mary, Knoxville.

Thời gian trôi dần… Tình trạng của bé trở nên tồi tệ hơn. Các bác sĩ nhi khoa nói với cha mẹ Michael rằng có rất ít hy vọng, hãy chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu nhất…!

Karen và chồng liên lạc với một nghĩa trang địa phương để chuẩn bị cho việc chôn cất. Họ đã chuẩn bị một căn phòng đặc biệt trong nhà cho em bé mới, nhưng giờ phải lên kế hoạch cho một đám tang…!

Tuy nhiên, Michael đã van nài cha mẹ cho cậu vào gặp em gái mình. Cậu bé nói: “Con muốn hát cho em ấy nghe…!”.

Tuần thứ hai trong phòng chăm sóc đặc biệt. Michael tiếp tục nài nỉ để được hát cho em gái mình, nhưng trẻ con không được phép vào phòng chăm sóc đặc biệt.

Karen quyết định đưa Michael vào thăm em mình cho dù bệnh viện có đồng ý hay không. Nếu giờ cậu bé không được nhìn thấy em gái mình, thì có thể sẽ không bao giờ còn cơ hội nữa. Michael mặc bộ quần áo quá khổ và được dẫn đến phòng chăm sóc đặc biệt. Trông cậu bé giống như một giỏ đựng quần áo di động.

Người y tá trưởng nhận ra cậu bé và hét lên: “Đưa nó ra khỏi đây ngay. Trẻ con không được phép vào!”

Bản năng làm mẹ trong Karen trổi dậy và người phụ nữ bình thường hòa nhã nhìn trừng trừng vào mắt người y tá trưởng, với một giọng đanh thép, cô nói: “Cậu bé sẽ không rời khỏi cho đến khi nó hát cho em gái mình nghe…!”

Sau đó, Karen kéo Michael đến bên giường cô bé. Cậu bé nhìn chằm chằm vào đứa em đang yếu dần trong cuộc chiến giành lấy sự sống…! Sau một lúc, cậu bắt đầu cất giọng. Bằng giọng trong veo của một đứa trẻ 3 tuổi, Michael hát:

“You are my sunshine, my only sunshine, you make me happy when skies are gray.” (Bé là ánh nắng, ánh nắng mặt trời duy nhất của anh, bé làm anh hạnh phúc dẫu bầu trời xám xịt.)

Ngay lập tức, cô bé dường như có phản ứng. Mạch bắt đầu trở nên ổn định.

“Tiếp tục đi Michael”, Karen động viên, mắt ngấn lệ.

“You never know, dear, how much I love you, please don’t take my sunshine away.” (Bé con à, em không biết anh thương em thế nào đâu, xin đừng lấy đi ánh nắng mặt trời đi.)

Khi Michael hát, hơi thở rời rạc, yếu ớt của em bé trở nên nhịp nhàng. “Tiếp tục đi, con yêu…!”

“The other night, dear, as I lay sleeping, I dreamed I held you in my arms”. (Bé con ơi, một đêm nọ, khi anh nằm ngủ, anh mơ được ôm em trong vòng tay.)

Em gái của Michael bắt đầu thư giãn như đang ngủ. “Tiếp tục đi, Michael.” Lúc này, nước mắt đầm đìa trên gương mặt của người y tá trưởng hống hách. Karen thì cảm thấy ấm lòng.

“You are my sunshine, my only sunshine. Please don’t take my sunshine away…” (Bé là ánh nắng, ánh nắng mặt trời duy nhất của anh. Xin đừng lấy ánh nắng ấy đi …)

Ngày hôm sau, ngay ngày hôm sau…, một thời gian ngắn tiếp theo…, cô bé đã đủ khỏe để trở về nhà…!

*Thế mới hiểu: “Nơi nào có tình yêu thương chân thành thì nơi đó, luôn có điều kỳ diệu đáp đền…!”*

❁ Trần Hồng Điệp

*Dịch từ truyện ngắn The miracle of love, true story.

(Đinh Trực sưu tầm)

TRUYỆN NGẮN – BỬU UYỂN…. Chiếc Áo Len

Van Pham

Chuyện tình tuổi học trò… vì thế nó thơ mộng, mộng mơ nửa như thật, nửa như ảo ảnh. Thôi thì bạn cứ đọc để tìm vui, để mơ về một thủa ngày xưa ấy…

***

TRUYỆN NGẮN – BỬU UYỂN…

Chiếc Áo Len

Năm 1969, Minh học lớp Đệ Nhất trường Quốc Học Huế. Gia đình Minh ở Vỹ Dạ, một vùng ngoại ô quen thuộc đối với người Huế. Năm nay Minh đã 19 tuổi, nhưng Minh rất nhút nhát trong việc giao thiệp với người khác phái, vì vậy cho đến nay, Minh vẫn chưa có bạn gái.

Minh có một sở thích khá lạ lùng, là mỗi buổi sáng, anh thích đứng trước nhà, nhìn người qua lại một lúc trước khi đạp xe đạp đi học. Môt thời gian sau, anh đã nhớ mặt bác đạp xích lô, với chiếc áo nhà binh đã bạc màu, chị bán bánh dầy, một bà đứng tuổi với gánh bún bò thơm ngát…

Nhưng cái đặc biệt mà Minh nhớ nhất là việc chú ý đến một cô gái gánh đậu hủ trên vai, nhẹ nhàng thoăn thoắt đi bên kia đường. Anh không nhìn rõ mặt cô gái , vì chiếc nón lá che khuất nửa khuôn mặt của cô ấy; anh chỉ nhìn được chiếc lưng thon nhỏ của cô. Cô gái mặc một chiếc áo dài vải thô màu hạt dẻ, ôm lấy thân hình mảnh mai của cô. Minh ngạc nhiên , vì đang mùa đông lạnh lẽo mà sao cô ấy ăn mặc sơ sài quá vậy.

Từ đó, mỗi buổi sáng, Minh ra đứng trước cửa nhà, nhưng anh không còn nhìn vẫn vơ như trước nữa, anh đã có đối tượng để trông chờ, đó là cô gái bán đậu hủ. Từ xa, anh đã thấy cô gái đang đi tới, cô vẫn mặc chiếc áo dài cũ kĩ, mỏng manh. Tự nhiên, Minh thấy lạnh, không phải anh lạnh vì thời tiết , nhưng anh cảm nhận cái lạnh từ cô gái…Một ý nghĩ đáng yêu thoáng qua trong trí óc anh: “tại sao mình không tặng cho cô âý chiếc áo len, để cô đỡ rét trong những ngày đông giá lạnh nầy”.

Minh đánh liều , xin mẹ anh đan cho anh một chiếc áo len con gái. Mẹ anh mĩm cười :” Đã có chuyện rồi đây!”. Ba ngày sau, mẹ anh trao cho anh chiếc áo len mịn màng , màu cánh sen. Minh lí nhí cám ơn mẹ.

Hôm sau, anh ra đứng trước cửa sớm hơn thường lệ, tay ôm chiếc áo len, lòng rộn ràng…Minh đã thấy cô gái đi đến, với dáng điệu quen thuộc . Minh thu hết can đảm , băng qua bên kia đường để đón cô gái. Minh đứng chắn ngang đường , làm cô gái bỡ ngỡ dừng lại ngạc nhiên nhìn anh. Đây là lần đầu tiên anh được đứng gần cô gái và nhìn rõ mặt cô ấy, lòng anh lâng lâng như vừa uống một ly rượu mạnh. Chàng nhỏ nhẹ nói với cô gái:”Tôi tặng cô chiếc áo len nầy.. ” và trao chiếc áo cho cô gái. Ngần ngừ một chút, cô gái mới đón chiếc áo len. Cô nhìn Minh, cảm động nói : “Cám ơn anh”. Cô khoác chiếc áo len vào người, thong thả đặt gánh đậu hủ lên vai, rồi từ từ bước đi. Minh ngẩn ngơ nhìn theo cô gái, anh thấy lòng mình rộn rã, chơi vơi…anh đang sống những giây phút đẹp nhất mà anh chưa bao giờ có trong đời.

Hôm sau, và hôm sau nữa, mỗi buổi sáng, Minh lại ra cổng đứng nhìn cô gái đi qua. Mấy hôm nay, anh thấy hình như cô gái có ngước nhìn anh, khi đi ngang qua chỗ anh đang đứng, chỉ có thế mà anh vui vẻ suốt ngày, anh cảm thấy cuộc sống thật hạnh phúc.

Tuy nhiên, những ngày hạnh phúc đó sớm qua đi, chỉ mấy tháng, sau khi anh đậu Tú Tài toàn phần, anh nhận được giấy gọi nhập ngũ. Anh theo học khóa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Giữa năm 1970, anh ra trường với cấp bậc Chuẩn Úy. Anh được điều động về phục vụ ở Tiểu khu Phong Dinh, anh xa Huế từ đó. Anh được cử giữ chứcTrung Đội trưởng, rồi Đại Đội Trưởng Địa Phương Quân ở Chi khu Phụng Hiệp, thuộc Tiểu khu Phong Dinh ( Cần Thơ).

Những lúc đi hành quân, hay những đêm ngủ ngồi trên bờ kinh…anh nhớ cô gái ấy lắm. Nhưng đời binh nghiệp trong thời chiến đã giữ chân Minh, ngày đêm sống chết với mãnh đất nầy, anh chưa có cơ hội nào để về thăm lại “người yêu”.

Rồi ngày 30 tháng 4 -1975 ập đến. Cũng như các Sĩ Quan khác của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, anh bị bắt đi tù cải tạo. Anh bị chuyển từ trại nầy qua trại khác ở Miền Tây , cho đến năm 1985, anh được trả tự do. Trước khi được tha về, họ hỏi anh “về đâu” để họ viết vào “Giấy Ra Trại”. Anh trả lời : “Nhà của tôi ở Huế đã bị họ lấy, cha mẹ tôi đều đã qua đời”. Họ lại hỏi “Trước khi đi lính, anh ở đâu?” Anh trả lời :” Ở Huế ..” Và họ ghi vào giấy ra trại của anh “Về trình diện chính quyền thành phố Huế”

Ở trại giam ra, họ phát cho anh 16 đồng. Minh mua vé xe đò, đi về Sàigòn, xin tạm trú ở nhà một người bà con. Người nầy cho anh biết, mẹ của anh qua đời năm 1979, sau khi bà mất, họ cướp luôn căn nhà của anh.

Trong mấy ngày ở Sàigòn, anh đi lang thang hết đường nầy , đến đường khác. Tình cờ anh đi ngang qua Nhà Thờ Ba Chuông, anh đi vào nhà thờ. Chung quanh anh, nhiều người đang quì gối đọc kinh, cầu nguyện. Nhìn lên Chúa chịu nạn trên bàn thờ, anh lâm râm cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con biết Chúa yêu thương con, Chúa đã phù hộ, nâng đỡ con từ nhỏ, cho đến hôm nay. Nhưng lạy Chúa, con đã mất tất cả mọi sự ở đời nầy, nhưng phúc cho con còn có Chúa. Lạy Chúa, con biết làm gì bây giờ, xin Chúa chỉ cho con.” Anh vô cùng ngạc nhiên khi nghe một tiếng nói mơ hồ, từ sâu thẳm vọng lại :”Con nên đi về Huế”

Minh như sực tỉnh, anh mua ngay vé xe lửa để về Huế. Qua một đêm, sáng hôm sau xe dừng lại ở ga Huế. Hành khách vội vã xuống xe; nhưng Minh cứ ngồi thừ ra đó, vì anh không biết đi đâu bây giờ. Bỗng anh có ý nghĩ là hãy về xem lại căn nhà cũ của mình…

Căn nhà quen thuộc của anh, nay đã thay đổi, hoàn toàn xa lạ. Anh đứng trước nhà, lơ đãng nhìn người qua lại. Bỗng anh tái mặt, run rẫy khi thấy từ xa, một cô gái gánh đậu hủ đang đi đến. Anh quá bối rối, không tin ở mắt mình nữa. Nhưng kìa cô gái đã đến gần, anh vội vã đi qua bên kia đường, đứng đón cô ấy. Một điều làm anh vô cùng sững sốt là cô gái lại mặc chiếc áo len màu cánh sen mà năm xưa anh đã tặng cho người con gái anh thương, nhưng khi nhìn kỹ, Minh thấy cô gái nầy còn trẻ quá, khoảng 15, 16 tuổi, không thể là người mà anh đã thầm yêu, trộm nhớ. Thế còn chiếc áo len ?

Minh đánh bạo hỏi cô gái : “Cô ơi, cô có thể cho tôi biết, ở đâu mà cô có chiếc áo len nầy ?” Bỗng nét mặt của cô gái tươi hẵn lên. Cô không trả lời anh, cô lại nhìn vào khoảng không và nói như reo :”Tạ ơn Trời Đất, chắc mẹ tôi vui mừng lắm, vì tôi đã gặp dược ngươì mà mẹ tôi trông chờ từ bao năm nay!” Cô gái nhìn Minh và thân mật nói :”Nếu ông muốn biết ở đâu mà tôi có chiếc aó len nầy, ông đi theo tôi..”

Không chờ Minh trả lời, cô gái nhẹ nhàng gánh đậu hủ lên vai, và đi ngược lại hướng chợ Vỹ Dạ. Anh lặng lẽ đi theo cô gái, anh không biết chuyện gì sẽ xảy đến với anh đây. Cô gái đi vào một căn nhà xưa cũ, cô đặt gánh đậu hủ xuống trước sân. Bỗng có tiếng từ trong nhà vọng ra: “Ủa ! bửa nay sao con về sớm rứa mà có ông nào đi với con vậy ?”. Cô gái hớn hở nói lớn:”Mạ ơi, mạ có tin vui, có ông nầy hỏi con ở đâu mà con có chiếc áo len nầy, nên con đưa ông ấy về nhà đây”

Im lặng một lúc, rồi một ngươì đàn bà khoảng 40 tuổi xuất hiện ở ngưỡng cửa. Khi nhìn thấy Minh, bà không dấu được sự xúc động tột cùng của mình, bà cảm động thốt lên : “Ông Trời không phụ tấm lòng của tôi, tôi đã đợi chờ ngày nầy, từ 20 năm nay!” Minh nhìn kỹ ngươì đàn bà, anh nhận ra ngay đây là cô gái mà anh đã yêu từ lúc còn đi học. Người đàn bà nhỏ nhẹ nói với Minh : “Mời ông vào nhà”

Trước đây, dù yêu nàng, nhưng anh đã không đủ can đảm để hỏi tên của nàng. Và nàng cũng không biết anh là ai. Nhưng Ông Trời đã sắp đặt cho hai người yêu nhau. Trải qua biết bao biến đổi của cuộc đời, hôm nay Minh được đứng cạnh người mình yêu và nhìn thẳng vào đôi mắt của nàng. Minh thầm nghĩ, đây là mộng hay thực?

Một giọng nói âu yếm vang lên, cắt ngang tư tưởng của Minh: “Ngày ấy sao anh không hỏi tên em?’ Minh ngập ngừng trả lời: “Lúc đó, anh là một đứa con trai mới lớn, dù đã để ý đến em, nhưng anh luôn luôn xem em như một nàng tiên, anh sợ đến gần em, hỏi han em.. có thể nàng tiên sẽ bay đi mất. Anh chỉ đứng bên nầy đường nhìn em đi ngang qua, cũng đã cảm thấy hạnh phúc lắm rồi “

Cô gái bùi ngùi nói với Minh: “Anh biết không, vì sự lãng mạn của anh , đã làm cho em phải chờ đợi anh qua bao năm tháng. Tinh thần và thể xác của em đã quá mõi mòn. Vì vậy, cách đây khoảng hai năm, em đã chuyển nghề bán đậu hủ nầy cho con gái của em. Em bắt cháu mỗi khi đi bán, phải mặc chiếc áo len mà anh đã tặng cho em, với lời dặn dò con rằng nếu có ông nào hỏi con về lai lịch của chiếc áo len nầy, thì người ấy là mối tình đầu của mẹ đó. Em mong chờ, em hy vọng..

Tạ ơn Trời Đất, hôm nay em đã được gặp anh!”Cô gái thân mật hỏi Minh: “Thế bây giờ anh có muốn biết tên của em không ? Tên của em là Nga” Minh đáp ngay:”Còn tên của anh là Minh”. Nga vui vẻ hỏi Minh: “Tại sao lúc đó, tự nhiên anh biến mất vậy? Mỗi buổi sáng khi đi ngang qua nhà anh, không thấy anh đứng đó, em buồn lắm!”. Minh thổn thức: “Năm đó, anh đậu Tú Tài toàn phần, chỉ mấy tháng sau, anh bị gọi động viên đi Thủ Đức. Ra trường, anh được điều động về phục vụ ở Tiểu Khu Phong Dinh. Đời binh nghiệp đã giữ chân anh ở đó, cho đến năm 1975, anh bị đi tù cải tạo, vừa mới được tha về từ tuần trước đây.” Minh buồn buồn tâm sự với Nga: “Nhà của anh đã bị họ lấy mất, người mẹ thân yêu của anh cũng đã qua đời khi anh còn trong trại tù. Giờ đây anh là một kẻ tứ cố vô thân!”

Giọng Nga trầm hẳn xuống: “Vậy em mời anh ở lại đây với mẹ con em nhé !”. Hạnh phúc chợt đến quá bất ngờ, làm Minh ngây ngất. Anh âu yếm nắm lấy tay Nga. Thân hình của nàng bủn rủn ngã vào lòng anh, hai hàng nước mắt chảy dài xuống má Nga.

Minh ôm Nga vào lòng mà ngỡ như mình đang sống trong mơ.

Ngoài vườn, ánh nắng lung linh, reo vui…

TÁI HỢP TÌNH ĐẦU SAU 2/3 THẾ KỶ

TÁI HỢP TÌNH ĐẦU SAU 2/3 THẾ KỶ

Khi nhận được tin bà vẫn còn trên đời, người đàn ông 91 tuổi nói với con trai 63 tuổi: Hãy đưa ta đi gặp bà ấy để ta nói với bà là ta không phản bội bà, bỏ rơi bà… 70 năm qua ta vẫn nhớ bà vẫn giữ những tấm ảnh của bà ở bên ta.

TÁI HỢP TÌNH ĐẦU SAU 2/3 THẾ KỶ

Năm 1953, trước khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, một quân nhân Mỹ lên kế hoạch sống chung với người yêu là một cô gái Nhật.

Thế nhưng ý định không thành, phải đến gần 7 thập niên sau họ mới gặp lại. Chuyện tình đẹp này đã gây xúc động cộng đồng mạng thời gian gần đây.

ĐỊNH MỆNH CHIA LÌA

Trong gần 70 năm, cựu binh Hải quân Hoa Kỳ, Duane Mann, sống với trái tim nặng trĩu. Khi còn là một sĩ quan trẻ đóng quân ở Nhật Bản, ông đã yêu một thiếu nữ tên là Peggy Yamaguchi, và hai người có ý định đi đến hôn nhân.

Thế nhưng, định mệnh đã chia cắt họ. Không quên quá khứ, ở tuổi 91, Mann quyết tâm truy tìm mối tình đầu của mình.

Trong một bài đăng ngày 1/5/2022 trên Facebook, Mann đã kêu gọi cộng đồng mạng giúp đỡ tìm kiếm Yamaguchi kèm theo là một bức ảnh ông đã chụp Yamaguchi 70 năm trước.

Ông viết, “Tôi đã không ngừng tìm kiếm cô gái Nhật Bản này hoặc một trong những thành viên gia đình của cô ấy”. Sau đó, ông kể ra câu chuyện đáng chú ý và đau lòng của họ.

Năm 1953, Mann lúc đó 22 tuổi cùng đơn vị đóng quân tại Nhật Bản. Khi ở Tokyo, ông gặp Yamaguchi, cô gái 21 tuổi làm việc trong phòng kiểm tra mũ của một câu lạc bộ sĩ quan. Buổi tối nọ, ông làm quen với Peggy và cả hai bắt đầu khiêu vũ trong những điệu nhạc lãng mạn.

Mann viết trên Facebook: “Chúng tôi khiêu vũ rất ăn ý khiến nhiều người xem thích thú. Không mất nhiều thời gian, tình yêu đến chỉ chưa đầy 6 tháng sau gặp gỡ”. Yamaguchi biết tiếng Anh, giúp dịch các cuộc trò chuyện giữa các thành viên câu lạc bộ và người dân địa phương.

Chẳng bao lâu sau khi đôi tình nhân quyết định đi đến hôn nhân, Yamaguchi có thai. Nhưng trước khi họ có thể kết hôn, chiến tranh Triều Tiên kết thúc và đơn vị của Mann được lệnh trở về Mỹ. “Khi lên tàu rời Nhật, tôi đã để lại một cô gái đang mang thai, đầm đìa nước mắt”, Mann viết trên Facebook, “Tôi đã trấn an cô ấy rằng đừng quá lo lắng. Ở quê nhà tôi có một số tiến tiết kiệm và sẽ gửi cho cô ấy ngay khi có thể để lo cho đứa con ra đời”. Nhưng mọi thứ không diễn ra theo cách mà Mann đã trù tính.

KHÔNG QUÊN HÌNH BÓNG CŨ

Khi trở về nhà ở Pisgah, bang Iowa, Mann phát hiện tiền của mình đã không còn nữa. Mann đã để tiền trong tài khoản ngân hàng đứng tên cha mình, phòng trường hợp ông bị tử trận, nhưng cha ông đã tiêu sạch số tiền này. Mann nói với The Washington Post: “Không còn gì cả. Nếu biết không còn tiền, tôi đã không về nhà”.

Mann viết thư cho Yamaguchi và giải thích tình trạng hiện nay của mình. Ông kiếm được một công việc trong lĩnh vực xây dựng và bắt đầu tích lũy tiền để lo cho người yêu sang Mỹ. Nhưng rồi Yamaguchi bỗng bặt thư từ với ông, sau cùng Mann nhận được một lá thư từ cô ấy nói rằng đứa con của họ đã mất và cô kết hôn với người khác.

“Sau này, tôi mới phát hiện mẹ tôi đã thủ tiêu các bức thư gửi đến của Peggy vì bà không muốn tôi lấy một cô gái Nhật Bản”, Mann viết trên Facebook. Mẹ ông hy vọng ông sẽ kết hôn với một cô gái ở địa phương của họ.

Không trông mong gì ở Yamaguchi sau thời gian mất liên lạc, Mann đã kết hôn hai lần và có sáu người con nhưng vẫn không bao giờ quên người yêu ở Nhật Bản.

Ông viết trên Facebook, “Tôi đã dành 70 năm qua để cố gắng tìm Peggy, bởi vì điều ám ảnh nhất đối với tôi là có thể cô ấy cho rằng tôi đã bỏ rơi cô ấy!”

TÁI HỢP

Internet đã giúp Mann làm được điều ông muốn. Bài đăng của ông nhanh chóng lan truyền rộng rãi trên mạng, được phát trên các đài của thành phố, thậm chí còn được đưa tin ở Nhật Bản.

Lời cầu xin của Mann đã làm rung động trái tim của một cô gái ở Vancouver, Canada tên là Theresa Wong, đang làm việc cho mạng truyền hình History Channel. Cô bắt đầu tìm kiếm Peggy Yamaguchi và phát hiện bà sống ở Escanaba, bang Michigan, chỉ cách nhà của Mann ở Iowa 14 giờ lái xe vượt sông Mississippi. Khi được cho xem bức ảnh thời trẻ của Mann, Peggy Yamaguchi, hiện là Yamaguchi Sedenquist, nói: “Tôi vẫn nhớ anh ấy”. Đúng như những gì đã nói với Mann, bà kết hôn vào năm 1955 và có ba con trai. Nhưng bà vẫn không quên người yêu ngoại quốc của mình. Trên thực tế, bà đã đặt tên đệm cho con trai đầu của mình là “Duane”.

Biết bà còn sống, Mann kiên quyết đi gặp trực tiếp người yêu cũ. Con trai cả của Mann, Brian Mann, 63 tuổi, đã cùng ông tham gia cuộc hành trình. Hai cha con lái xe khoảng 14 giờ từ Iowa đến Michigan cho cuộc gặp ngày 1 tháng 6 năm 2022 vừa qua.

Thế là gần 70 năm sau cuộc chia tay đẫm nước mắt, Duane Mann và Peggy Yamaguchi Sedenquist đã tái hợp. Họ ôm nhau cùng hồi tưởng về những điệu nhảy ở Nhật Bản.

“Tôi đến đây để nói với bà rằng tôi không hề bỏ rơi bà. Tôi bị mất liên lạc với bà”, Duane nói với Yamaguchi trong cuộc hội ngộ của họ.

Mann đã cho Yamaguchi xem tất cả những bức ảnh của bà mà ông giữ kỹ trong ví suốt 70 năm.

“Cảm ơn ông đã nhớ và lưu giữ tất cả những bức ảnh, ông hẳn đã rất yêu tôi”, Yamaguchi đáp lại khi ôm và hôn Mann. Trái ngược với sự lo lắng của Mann, Yamaguchi Sedenquist không hề nuôi dưỡng sự oán hờn hay bất bình nào, cũng không hề cảm thấy bị người yêu bỏ rơi.

Đối với cụ Mann 91 tuổi, đó là một kết thúc có hậu. Ông nói với tờ The Washington Post: “Bây giờ tôi mới cảm thấy thực sự bình yên. Không còn canh cánh với mặc cảm bỏ rơi bà ấy. Tuy nhiên, tôi rất muốn được khiêu vũ với bà ấy một lần nữa, chỉ một lần nữa thôi”.

Băng Tâm

Theo: Allthatsinteresting

Duane Mann cùng Peggy Yamaguchi 70 năm trước và hiện nay

From: Tham Nguyen & KimBang Nguyen

Câu Chuyện Cho Những Ai Đã Là Vợ Chồng

Câu Chuyện Cho Những Ai Đã Là Vợ Chồng

Chồng chị là một kỹ sư giỏi, chị yêu anh vì sự vững chãi, chín chắn của anh, chị yêu cái cảm giác ấm áp mà chị có mỗi khi chị tựa đầu vào vai anh. Và sau 3 năm tìm hiểu, anh chị đã đi đến hôn nhân.

Nhưng đến hôm nay, sau hai năm là vợ chồng, chị bỗng thấy mệt mỏi với những cảm giác mà chị phải trải qua khi chung sống với anh. Những lý do khiến chị yêu anh trước đây, bỗng biến thành những lý do tạo nên sự đổi thay trong chị.

Chị là một phụ nữ nhạy cảm, và rất dễ bị thương tổn trong tình yêu, chị luôn khao khát những khoảnh khắc lãng mạn, giống như là bé gái nhỏ thèm khát kẹo ngọt. Nhưng anh lại trái ngược với chị, anh không có sự nhạy cảm, và hoàn toàn không quan tâm đến những khoảnh khắc lãng mạn trong cuộc sống vợ chồng, điều này đã làm cho chị càng chán nản hơn.

Và chuyện gì đến phải đến, một hôm chị quyết định cho anh biết rằng chị muốn ly dị, rằng chị không thể chung sống với anh thêm một giờ phút nào nữa. Rất bất ngờ khi nghe chị yêu cầu như thế, anh chỉ biết hỏi:

– Tại sao?

– Em cảm thấy mệt mỏi, không có lý do nào cho mọi thứ trên thế gian này! Chị trả lời.

Anh không nói gì thêm nữa, nhưng suốt đêm đó, anh không ngủ, và chìm sâu vào những ưu tư, khắc khoải với ánh sáng lập lòe của điếu thuốc gắn trên môi. Sự im lặng của anh càng làm cho cái cảm giác thất vọng trong chị tăng lên, đấy là một người đàn ông không thể biểu lộ gì ngay cả đến lúc gặp tình huống khó khăn như lúc này, còn gì nữa để mà chị hy vọng ở anh! Cuối cùng rồi anh cũng lên tiếng, anh hỏi chị:

“Anh có thể làm gì để thay đổi ý định của em?”

Ai đó đã nói đúng. “Rất khó khăn để thay đổi tính cách của một con người” và chị nghĩ rằng chị không thể nào thay đổi cách sống của anh. Nhìn sâu vào mắt anh, chị chậm rãi trả lời: 

“Đây chính là câu hỏi, nếu câu trả lời của anh có thể thuyết phục em, em sẽ thay đổi ý định ly dị. Nếu em nói, em muốn bông hoa ở phía bên kia vách núi, và cả hai chúng ta đều biết rằng khi anh cố hái bông hoa đó cho em thì anh sẽ chết, anh có vẫn cố làm cho em hài lòng chứ?”

Anh đáp: 

“Ngày mai anh sẽ trả lời câu hỏi cho em…” 

Những hy vọng của chị hoàn toàn bị chìm xuống khi nghe câu trả lời của anh.

Sáng hôm sau, chị tỉnh giấc và nhận ra anh đã đi rồi. Chị nhìn thấy một mảnh giấy với dòng chữ ngoệch ngoạc của anh, được dằn dưới ly sữa, trên chiếc bàn ăn gần cửa…. và chị bắt đầu đọc….

“Em yêu, Anh sẽ không thể nào hái bông hoa đó cho em, nhưng hãy cho anh giải thích những lý do mà anh không thể”.

Ngay những dòng đầu đã làm tan nát trái tim chị, chị tiếp tục đọc….

“… Khi em sử dụng máy vi tính, anh luôn sắp xếp phần mềm cho em dễ sử dụng, và khi em kêu lên trước màn hình khi có sự cố, anh luôn chuẩn bị những ngón tay để có thể giúp em phục hồi lại những chương trình. Em thường bỏ quên chìa khóa cửa, nên anh luôn chuẩn bị đôi chân để sẵn sàng chạy về mở cửa cho em. Em rất thích đi du lịch, nhưng lại thường hay bị lạc đường trong những thành phố xa lạ, nên anh phải chuẩn bị đôi mắt của mình để chỉ đường về cho em. Em thường đau bụng trong mỗi lần gần đến tháng, nên anh luôn chuẩn bị lòng bàn tay mình để sẵn sàng xoa bụng cho em để em dịu cơn đau. Khi thấy em luôn thích ở nhà, anh lo rằng em sẽ có thể bị mắc bệnh tự kỷ, vì thế anh phải luôn pha trò và chuẩn bị những câu chuyện vui để em quên đi nỗi buồn chán. Khi em luôn chăm chú vào màn hình vi tính, anh sợ như vậy có hại cho đôi mắt của em, nên anh phải để dành đôi mắt của anh để khi chúng ta già, anh sẽ có thể giúp cắt móng tay, và nhổ những sợi tóc bạc cho em. Anh có thể nắm bàn tay em đi tản bộ trên bãi biển, để em thưởng thức cảnh mặt trời mọc và bãi cát xinh đẹp… và anh sẽ cho em biết rằng màu sắc của những bông hoa cũng rực rỡ như gương mặt tươi tắn của em… Vì vậy, em yêu, trừ phi em chắc chắn rằng có ai đó yêu em hơn anh đã yêu em… nên bây giờ anh không thể hái bông hoa đó cho em, và chết…/.”

Nước mắt của chị không ngừng rơi trên trang giấy, làm nhạt nhòa những dòng chữ của anh… Chị đọc tiếp:

“…Bây giờ, nếu em cảm thấy hài lòng thì hãy mở cửa ra, vì anh đang đứng đó với bánh mì và sữa tươi cho buổi sáng của em, những món ăn mà em thích…”

Chị lao đến cửa và mở bung nó ra, trông thấy anh với gương mặt lo lắng, chị nắm chặt tay anh, cùng với ổ bánh mì và chai sữa, bây giờ chị biết chắc rằng không ai yêu chị như anh đã yêu chị, và chị quyết định quên đi bông hoa ở bên kia vách núi… đó là cuộc sống và tình yêu.

Khi được sống trong sự đầy đủ, dư thừa của tình yêu, thì cái cảm giác sôi nổi trong tình yêu thường bị khô héo đi, và người ta không còn có thể nhận thức được đâu là tình yêu chân thật và đâu là tình yêu giả dối, giữa cảm giác bình yên và buồn chán đó.

TẢN MẠN TUỔI MỘNG MƠ

Van Pham 

TẢN MẠN TUỔI MỘNG MƠ

Cái Thuở Ban Đầu Lưu Luyến Ấy…

Hàn Thiên Lương

Trong thời thế chiến thứ 2, đất nước mình rất xáo trộn, nhất là lúc quận Nhựt vào chiếm đóng , thành phố Saigon, Đồng Minh dội bom liên tục, gia đình tôi phải tản cư về quê Đức Hòa, kịp đến cuối năm 1945 Nhựt Bổn đầu hàng, quân Pháp trở lại tấn chiếm Việt Nam. Lệnh Uỷ Ban Việt Minh ra lệnh tiêu thổ kháng chiến, gia đình tôi phải rời quận chạy trốn vào vùng sâu, chiến khu Việt Minh và kẹt ở nơi đó.

Đến năm 1949 nhân cuộc hành quân lớn của Pháp, gia đình tôi thoát về thành. Từ đó tôi đựơc đi học lại, năm tôi học tại trường trong xóm, cũng nhờ ông cậu Mười tôi hướng dẫn, tôi tiến bộ rất nhiều! Đến năm 1950 cậu tôi cho tôi học lớp nhứt (lớp năm) trường Việt Nam Học Đường. Ngôi trường thật khang trang lớn đẹp, Thầy Nghi, thầy giáo đầu tiên, thầy dạy rất hay dễ hiểu, cuối năm đó tôi đậu tiểu học ,là một sự bất ngờ đối với mẹ và cậu tôi, nhưng ai cũng mừng và tôi rất vui sướng.

Trong lớp Nhất nầy tôi học chung với các chị Lê, Nhung, Minh Trí và Văn. Những người nầy học chung với tôi đến lớp đệ tứ (lớp 9), nay ai tóc cũng ngã màu sương tuyết!

Nhưng có một nữ sinh Việt Nam Học Đường học sau tôi một lớp (lớp đệ Ngũ), lại là người hàng xóm của tôi để lại dấu vết cái thuở ban đầu cho tôi đến nay chưa phai mờ!

Gia đình tôi về ở nhà ông ngoại tôi khu Phú Nhuận năm 1949, thì gia đình Hiền dọn đến ở căn phố cuối xóm. Gia đình nay chỉ có ba người, người mẹ chừng bốn mươi tuổi và hai cô con gái người chị khoảng 20 tuổi, cô em chừng 13tuổi. Gia đình sống lặng lẽ mẹ và chị trên hai bàn máy chăm chỉ may quần áo hàng xóm để độ nhựt. Cô em là Hiền rất nhu mì, lúc đó mới học lớp Nhì ( lớp 4).

Chẳng bao lâu mẹ tôi và chị tôi thân với mẹ và chị của Hiền. Gia đình tôi là khách hàng may của mẹ Hiền. Nhờ đó mà tôi và Hiền là hai láng giềng tuy chưa thân mà không xa lạ! Hằng ngày Hiền, em gái tôi và tôi thường đi bộ theo đường Võ Di Nguy lên cầu Kiệu đến trường. Thường Hiền và em gái tôi đi trước và tôi lững thửng đi sau trong nắng ấm buổi bình minh. \

Sau đó một thời gian em gái tôi đậu vào trường Gia Long. Tôi và Hiền cởi xe đạp đến trường, sáng nào hai đứa cũng chờ nhau cùng đi một lượt. Đó là niềm vui nhỏ thời tuổi dại, dường như có cái gì mơ hồ lưu luyến trong lòng !

Đến cuối năm Đệ ngũ của tôi và đệ lục của Hiền, hai đứa được lãnh thưởng, đều có thêm phần thưởng về toán của thầy Kinh. Có nỗi mừng vui chung nên tình cảm gần nhau lúc nào không biết . Vào thời tôi học lớp đệ tứ và Hiền học lớp đệ ngũ, chiến tranh dữ dội, rồi hòa bình, rồi Saigon xáo trộn, người từ Bắc di cư vào Nam, có người trong Nam âm thầm tập kết ra Bắc…

Cuối năm học đó (1955) tôi thi đâu Trung Học, lúc tôi thi vấn đáp Hiền cũng đi theo xem…Có mấy bạn theo hỏi: -Em gái của Tâm đó hả? Tôi thấy Hiền thẹn cúi mặt thật tội nghiệp!.

Sau đó chúng tôi có những ngày Hè thật vui…Hiền thường cỡi xe vào chợ Lớn để mua chỉ cho mẹ thì tôi cũng cỡi xe đi theo. Một lần hai đứa cỡi xe lên tận Lái Thiêu, đi dạo trong vườn măng, lúc trở về ghé quán uống nước, tôi chợt thấy gương mặt nàng buồn , nhìn tôi Hiền nói: -Nếu ngày nào mình phải xa nhau chắc buồn lắm phải không anh?

Tôi với tay nắm tay nàng nói : -tức là buồn lắm! nhưng sao có ngày đó được Hiền!

Nàng nhìn tôi, chớp mắt, cúi xuống như tránh đôi mắt tôi, nhưng lúc ra lấy xe tôi nhìn Hiền thấy mắt nàng ứa lệ!

Niềm vui thật qua mau, tôi về Đức Hòa một tuần dự đám tang của Bác tôi khi trở xuống, Chị Hai tôi cho tôi biết: – Hiền nó đi xa rồi, có người đến rước nó xuống Cao Lãnh tập kết với Ba ra Bắc; dường như Ba Hiền làm lớn trong Việt Minh, Hiền có gửi thư lại cho em, chị của Hiền đưa chị nhờ trao lại cho em.

Tôi mở thư ra chỉ có câu :

“Anh ơi em phải theo Ba, Anh ở lại bình an, lúc nào em cũng nhớ anh!”- Hiền

Lúc đó hồn tôi như dại như khờ, đúng là: Người đi một nửa hồn tôi mất, Một nữa hồn tôi bỗng dại khờ.

Thời gian như dòng nước cứ lặng lờ trôi. Còn tôi cứ bước đi theo dòng đời nghiệt ngả…Cái thuở ban đầu ấy thành dấu vết trong hồn tôi mãi mãi!

Đoạn kết một chuyện tình

Đoạn kết một chuyện tình

Ngày đẹp trời, một cặp vợ chồng khoảng trên 60 tuổi đến văn phòng luật sư. Họ muốn làm thủ tục ly hôn.

Cũng vẫn là một chuyện tình 

Lúc đầu, vị luật sư vô cùng ngạc nhiên, nhưng sau khi nói chuyện với đôi vợ chồng, ông đã hiểu đầu đuôi câu chuyện. Trong 40 năm chung sống, cặp vợ chồng này luôn cãi nhau và dường như chẳng bao giờ quyết định gì cho đúng đắn. Họ chịu đựng nhau đến bây giờ là vì các con. Bây giờ con cái của họđã lớn, đã có gia đình riêng, nên hai vợ chồng già không còn điều gì lo lắng nữa. Họ muốn được tự do sau những năm tháng dài không hạnh phúc. Cả hai vợ chồng đều đồng ý ly hôn. Hoàn tất thủ tục ly hôn cho cặp vợ chồng này là điều không dễ vì tình sâu nghiã nặng.

Vừa ký xong giấy tờ, người vợ già vừa nói với chồng: “Tôi thực sự yêu ông, nhưng tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi thành thật xin lỗi”.“Không sao, tôi hiểu.”, ông chồng già đáp lại. Nhìn cảnh này, ông luật sư đề nghị mời hai vợ chồng một bữa cơm tối. Người vợ trả lời: “Sao lại không? Dù ly hôn, ta vẫn sẽ là bạn cơ mà”. Bên bàn ăn, bầu không khí im lặng, nặng nề đến khó thở. Món ăn đầu tiên được mang ra là món gà quay. Người chồng lập tức gắp một miếng đùi gà cho vợ: “Bà ăn đi, đây là món bà ưa thích.” Nhìn cảnh này, vị luật sư nghĩ “vẫn còn cơ hội cho họ hàn gắn lại”. Không ngờ người vợ cau mày, đáp lại: “Đây là vấn đề. Ông luôn chủ quan quá nên không bao giờ hiểu được tư tưởng của tôi. Ông không biết tôi ghét đùi gà chừng nào à?” 

Điều người vợ không nhìn thấy được là trong bao nhiêu chung sống, người chồng luôn luôn cố gắng làm vui lòng bà, dù là người thiếu nhận xét hay khéo léo. Bà không biết là đùi gà là món yêu thích nhất của ông, cũng như ông không biết bà ghét đùi gà. Dù ông chỉ muốn dành những miếng ngon nhất theo khẩu vị của ông, nhường những thứ tốt nhất cho bà, bà chưa bao giờ cảm nhận được là ông hiểu bà. Đêm hôm đó, cả hai ông bà đều không ngủ được.

Sau nhiều giờ trằn trọc, người chồng không thể chịu đựng nỗi nhớ nhung nữa. Ông hiểu rằng ông yêu bà và không thể sống thiếu bà. Ông muốn van bà quay trở lại làm vợ chồng. Ông muốn xin lỗi, muốn nói “Anh yêu em” thật nhiều. Ông nhấc điện thoại lên và bấm số của bà. Tiếng chuông reo không ngừng, nhưng bà không nhấc. Ông lại cố gắng bấm máy, suốt tối. Đầu bên kia, bà vợ cũng rất buồn. Bà không hiểu điều gì đã xẩy ra trong những năm tháng sống cùng nhau. Sau 40 năm, ông ấy vẫn chẳng hiểu bà. Bà vẫn yêu ông nhưng bà không thể chịu đựng cuộc sống tẻ nhạt như thế nữa. Mặc cho chuông điện thoại reo liên hồi, bà không thèm trả lời, dẫu biết rằng người gọi là ông. Bà tự nghĩ: “Nói làm gì nữa khi mọi chuyện đã xong xuôi hết rồi. Mình quyết định ly hôn mà. Bây giờ đâm lao thì phải theo lao, nếu không mất mặt lắm”. 

Chuông điện thoại vẫn cứ reo rồi bà quyết định tháo dây điện thoại ra. Trong khi đầu bận suy nghĩ rối bời, bà quên bẵng đi là ông bị đau tim… Sáng hôm sau, bà nhận được tin ông qua đời. Như một người mất trí, bà lao thẳng đến căn nhà của ông, để nhìn thấy thân thể ông trên chiếc divan, tay vẫn giữ chặt máy điện thoại. Ông buồn bã, thất vọng suốt đêm khi bà không cho cơ hội tỏ nỗi lòng và tim ông đã buông suôi.

Bà đau đớn vì hối hận. Một cảm giác mất mát quá lớn bao trùm lấy tâm khảm bà. Khi thanh toán tài sản của ông, bà tìm thấy trong ngăn kéo một hợp đồng bảo hiểm ông ta đã mua cho bà, từ ngày họ cưới nhau. Kèm vào đó, là một lá thư: “Gửi người vợ thân yêu của anh. Lúc em đọc lá thư này, chắc hẳn anh không còn trên cõi đời này nữa. Anh đã mua bảo hiểm này cho em, anh hy vọng nó có thể giúp anh thực hiện lời hứa của mình khi chúng ta lấy nhau.

Đến khi anh không còn ở bên cạnh để chăm sóc cho em nữa thì mong số tiền này có thể giúp anh tiếp tục đùm bọc cho em. Đó là điều anh ước nguyện sẽ được làm suốt cuộc đời anh. Anh sẽ mãi mãi bên em và yêu em thật nhiều”. Nước mắt bà tuôn chẩy hai hàng. Bà cảm thấy yêu ông hơn bao giờ hết. Bà muốn nói vạn lời xin lỗi, muốn nói ngàn lời yêu thương nhưng ông không còn nghe được nữa.

From:Truong Le

Nội Ơi Đừng Khóc – TRUYỆN NGẮN – PHƯƠNG LAN…

 Van Pham

TRUYỆN NGẮN PHƯƠNG LAN…

***

Nội Ơi Đừng Khóc

Trời mới hửng sáng, bà Năm đã trở dậy. Căn nhà im lặng như tờ, giờ này mọi người còn đang ngủ. Bà lặng lẽ đến bên bàn thờ, thắp nhang cho chồng. Tay run run, nhưng bà vẫn cố gắng không để tàn nhang rơi xuống thảm. Con dâu đã dặn bà chỉ được dùng nhang điện, nến điện, vì nó sợ mùi nhang và sợ tàn nhang làm hư tấm thảm đắt tiền. Nhưng bà nghĩ, không có hương khói, người chết biết đường đâu mà về? Bà chỉ an tâm, sung sướng khi có ông bên cạnh, mặc dù ông bây giờ chỉ là một hồn ma. Hương khói làm ấm lòng bà, ấm lòng cả người đã khuất, bà không thể để bàn thờ chồng hương khói lạnh tanh.

Sợ con dâu phiền hà, mỗi lần thắp nhang cho ông, bà cứ phải rình những lúc nó vắng nhà hoặc đang ngủ, lén lén lút lút giống y như một tên trộm. Duyên mà biết được, thể nào cũng sinh chuyện. Phải nghe nó nhiếc móc đến nhức xương, bà sợ lắm, nên trừ việc thắp nhang cho chồng, nhất nhất mọi việc khác, bà đều không dám làm trái ý nó. Thân ăn nhờ ở đậu, bà biết phận mình phải chiều theo ý chủ nhà.

Dạo này thấy hai vợ chồng nó lục đục hay cãi nhau, bà hiểu là tại bà, con dâu không muốn sự có mặt của một người thứ ba xen vào đời sống riêng tư vợ chồng nó. Duyên biểu lộ sự khó chịu bằng bộ mặt lạnh tanh và những cái lườm nguýt, những câu mỉa mai, bóng gió. Bà giả vờ như không nghe, không thấy, tính bà vốn hiền lành, xuề xòa, chín bỏ làm mười cho vui cửa vui nhà, dâu con có hỗn hào cũng là tại bà đã làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của vợ chồng nó.

Thật lòng bà không ghét con dâu, bà hiểu nếp sống khác biệt của hai thế hệ già trẻ ở chung trong một nhà đã tạo ra những xung khắc không thể tránh. Từ xưa đến nay, chẳng con dâu nào ưa thích sống chung với mẹ chồng. Nó bực mình cũng có thể hiểu được, bà biết nó cũng phải chịu đựng bà, như bà đã chịu đựng nó. Duyên đang mang bầu đứa con thứ hai, nó có nóng nảy, cáu kỉnh đôi chút thì cũng bỏ qua, bà tự nhủ không nên để nó tức giận, ảnh hưởng có hại tới đứa bé trong bụng.

Nhưng bà đã cố gắng nhẫn nhục, trong khi cô con dâu lại ưa kiếm chuyện, vì vậy bà phải cố tránh những cơ hội chạm mặt nó. Khi Duyên ở nhà, chỉ trừ những bữa ăn phải ngồi chung bàn, thường thì bà vẫn lánh mặt ở trong phòng riêng cho nó khỏi gai mắt và bà cũng khỏi phải nghe những câu nói cạnh nói khoé, chửi chó mắng mèo của nó, những câu nói hỗn hào mà bà cứ phải nhắm mắt làm ngơ cho qua chuyện. Làm mẹ chồng thời nay khổ hơn là làm dâu thời xưa.

Đức không để ý gì đến mẹ. Cuộc sống vất vả, khó khăn, hắn bận đi làm tối mắt để nuôi gia đình. Bà Năm chưa bao giờ mở miệng than thở với con trai. Hắn có bao nhiêu chuyện phải lo. Bà không muốn Đức phải bận tâm thêm vì bà. Bà Năm lặng lẽ sống những ngày cuối đời trong ngôi nhà sang trọng, giữa những người thân mà bà cảm thấy cô đơn như đang sống trong sa mạc. Trong nhà, chỉ có đứa cháu nhỏ là còn thương bà, đứa cháu bà vẫn bồng ẵm từ lúc còn nằm nôi. Con bé kháu khỉnh, giống bố như tạc là nguồn an ủi duy nhất của bà. Chỉ cần nghe giọng nói ngây thơ và nhìn khuôn mặt dễ thương, đẹp như thiên thần của nó là bà quên hết bao nhiêu muộn phiền. Nhưng bé Hân mỗi lúc một xa bà hơn, vì nó đã đến tuổi đi học, quên dần tiếng mẹ đẻ và mặc dù vẫn rất yêu bà, nhưng nó ít có thì giờ quấn quít bên bà như xưa.

Bà thở dài, nếu ông còn sống, bà còn có người tâm sự, nhưng ông chết đã lâu rồi, từ khi Đức mới lên mười tuổi. Mặc dù còn trẻ và có nhan sắc, bao nhiêu người theo đuổi, nhưng bà không tái giá, ở vậy tảo tần nuôi con. Nhờ chịu thương chịu khó và trời thương phật độ, bà buôn bán phát tài, lo cho con một cuộc sống đầy đủ, không thua kém những đứa trẻ còn đủ cả cha mẹ. Bà chỉ có mình Đức là đứa con duy nhất, nên bao nhiêu tình thương và tiền của đều dồn cho nó hết. Thuở nhỏ, Đức ngoan ngoãn, chăm học và học khá giỏi. Năm mười tám tuổi, Đức được học bổng đi du học ở Mỹ. Sắp tốt nghiệp thì xảy ra biến cố Tháng Tư 1975, Đức ở lại luôn bên đó, mẹ con xa cách nhau từ đấy.

Mãi tới khi Mỹ bang giao với Việt Nam, Đức mới về Việt Nam thăm mẹ. Xa cách hơn mười năm mới gặp lại, bà Năm vui mừng thấy đứa con trai gầy gò thư sinh của bà ngày nào bây giờ trở thành một chàng thanh niên to cao, khỏe mạnh. Nhưng tính tình Đức cũng đổi khác. Hắn ham mê vật chất và chỉ thích làm giàu. Thấy mẹ ở một mình trong ngôi nhà rộng thênh thang, Đức bàn tính, khuyên mẹ nên bán nhà đi, để qua ở với vợ chồng nó, vì lúc bấy giờ đang có chương trình đoàn tụ. Bà vui vẻ làm theo lời con, còn gì sung sướng cho bằng, khi về già được sống chung với con cháu. Gặp vận may nhà đất đang lên, căn nhà của bà bán rất được giá. Tiền bán nhà bà chỉ giữ lại một ít để tiêu vặt, còn bao nhiêu bà cho hai vợ chồng nó hết, bà già rồi, giữ tiền nhiều mà làm gì.

Đức làm giấy bảo lãnh cho mẹ sang Mỹ. Lúc này hắn đã có vợ và một đứa con gái mới tám tháng. Gia đình hắn sống trong sang giàu. Đức có tất cả những thứ mà người đàn ông nào cũng mơ ước: Vợ đẹp, con khôn và một ngôi biệt thự khang trang, có hồ bơi sau vườn. Để trả giá cho những tiện nghi sang trọng đó, cả hai vợ chồng hắn đều phải làm việc khá vất vả.

Thương các con bận rộn, bà Năm cố gắng chia sẻ bớt công việc. Trước đây, hồi mới sang, bà lãnh nhiệm vụ trông cháu, và nấu ăn cho cả nhà. Nhưng chỉ được vài năm, từ khi bước qua tuổi bảy mươi, bà thấy trong người yếu đi nhiều, tay chân run rẩy, làm việc gì cũng đánh đổ đánh vỡ tứ tung và nhất là hay quên tắt bếp. Con dâu sợ cháy nhà nên khóa gas, không cho bà nấu nướng nữa.Những việc dễ dàng như đi đón cháu, bà cũng không làm được,vì bà không biết lái xe,cũng không biết tiếng Anh để giúp cháu làm bài tập.Bà buồn rầu thấy mình trở thành người vô dụng, một gánh nặng cho con cái.

Tục ngữ có câu: “Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày” thật chẳng sai chút nào. Phải sống nhờ con cũng tủi nhục lắm. Con dâu vốn dĩ không ưa mẹ chồng, nay thấy bà ở không suốt ngày, lại càng chướng mắt. Duyên để lộ sự khó chịu ra mặt và gây với chồng, cho rằng Đức phải chịu trách nhiệm về những xáo trộn trong gia đình. Từ ngày chàng đem mẹ về đây, mọi thứ, mọi chuyện đều thay đổi, cô cảm thấy mất hết tự do thoải mái. Sự bực bội của Duyên mỗi ngày một tăng, giống như một quả bóng căng hết cỡ, chỉ cần đụng nhẹ vào là nổ tung… Không khí trong gia đình trở nên ngột ngạt, làm mọi người đều khó thở.

Thế rồi việc phải đến đã đến, một hôm Đức nói với mẹ:

– Duyên và con đã bàn với nhau, tụi con sắp bán cái nhà này, để mua một căn nhỏ hơn. Kinh tế khủng hoảng, tiền mất giá, mọi thứ đều gia tăng mà đồng lương thì vẫn vậy, tụi con không kham nổi căn nhà lớn.

Thoạt đầu chưa hiểu rõ ý định của con, thấy nó nói vậy, bà gật đầu ngay:

– Ừ, các con tính cũng phải, ở thu gọn lại cho đỡ tốn.

Đức cúi mặt không dám nhìn mẹ:

– Duyên đã tìm được một căn ưng ý lắm, gần sở làm của cô ấy, trường học cũng trên đường đi, tiện việc đưa đón cháu Hân. Nhưng ngặt nỗi…

Bà ngước mắt chờ đợi, Đức đắn đo một lúc rồi mới tiếp tục:

– Căn nhà này hơi nhỏ má à, chỉ có ba phòng…

– Nhỏ thì nhỏ, có sao đâu? Bà chợt ngưng lại, nhìn con dò xét… Hay con có ý gì khác, cứ cho má biết.

Bà hỏi giọng run run, bây giờ bà đã lờ mờ đoán hiểu, nhưng không chắc lắm.

Đức gãi tai, hơi có vẻ lúng túng:

– Con sợ ở chật chội quá, má sẽ không thoải mái. Nhà con lại sắp sanh, cần có phòng riêng cho đứa bé…

Bà Năm cố gượng một nụ cười méo xệch:

– Má hiểu rồi, ý con muốn nói là nhà chật, không có chỗ cho má phải không?

Đức chậm rãi vừa nói, vừa lựa lời:

– Con nghĩ má cần có một nơi ở thích hợp với má hơn. Tụi con đi làm suốt ngày, má ở nhà một mình chắc cũng buồn, má cần có bạn để chuyện trò, giải khuây…

Bà cười cay đắng, có thật là nó quan tâm đến bà không? Có lần đi làm về, thấy mẹ đang ngồi xem phim cải luơng, nó gắt:

– Má tắt đi, nghe hoài nhức đầu lắm. Con ghét cái giọng rên rỉ đó, má coi chi mà coi tối ngày?

Lần khác, một người bạn của bà gọi đến, bà chưa kịp nhấc điện thoại thì con dâu đã giằng lấy, thản nhiên trả lời:

– Hỏi má chồng tôi hả? Bả đi vắng rồi, không có nhà.

Lúc đó Đức cũng có mặt, chỉ thấy nó hơi chau mày, nhưng không nói gì. Đức vẫn thường làm ngơ, mỗi khi chứng kiến vợ nó hỗn hào với mẹ.

Bây giờ, bà im lặng nghe con nói tiếp:

– Mấy tháng nay tụi con đã để ý tìm cho má một nơi ở tốt lắm. Ngôi nhà rộng rãi mát mẻ, có vườn tược, cây cối để má dạo chơi, có người nấu ăn, hầu hạ và có khối các cụ già để má tha hồ bầu bạn…

– Có cả y tá và nhân viên điều dưỡng nữa, phải không con?

Bà cười nhạt, nơi đó thì má biết rồi, con khỏi phải dài dòng nữa.

Ôi chao, nó đang tả cái viện dưỡng lão đấy, nơi chứa những xác chết chưa chôn, những thây ma biết đi. Người ta vào đó với tấm thân tàn tạ và đi ra trong một cái quan tài. Bà rùng mình, gì chứ phải sống giữa những người bệnh tật lê lết, những người xa lạ khác màu da, không cùng chung ngôn ngữ, phong tục, bà sợ lắm. Viện dưỡng lão từng là nỗi ám ảnh kinh hoàng của các cụ già cô đơn. Nhưng bà có cô đơn đâu? Bà có gia đình, có con, có cháu, vậy mà…

Bà xua tay ra hiệu cho Đức đừng nói thêm nữa, bà hiểu rồi, con bà đang tìm cách mời khéo bà đi chỗ khác. Tim bà như thắt lại, một cảm giác đau đớn dâng lên, lan nhanh khắp ngực, làm bà choáng váng muốn nghẹn thở. Bà thả rơi người xuống cái ghế xa lông nệm da êm ái, hai tay bà bám chắc lấy thành ghế, mặc cho những móng tay khô cứng làm trầy sát lớp da bọc mịn màng, cái ghế xa lông mà thường ngày bà không dám ngồi, sợ con dâu xót của, cằn nhằn, háy nguýt…

Bà ngồi im, chờ cho cơn đau qua đi. Khi gượng lại được, bà đưa mắt nhìn đứa con trai đang đứng trước mặt, giọt máu duy nhất của người chồng đã qua đời để lại, đứa con mà bà thương yêu hơn cả thân bà, đứa con mà bà đã hy sinh cả cuộc đời của bà, để mưu cầu hạnh phúc cho nó. Vậy mà bây giờ nó trả hiếu cho bà bằng cách đó ư? Bà nhắm mắt cố nén cơn đau, dĩ vãng như một khúc phim lại hiện về…

Hai ông bà hiếm hoi, lấy nhau gần tám năm mới sanh ra Đức mà lại sanh thiếu tháng. Lúc mới sanh, Đức chỉ nặng có hơn một ký, phải nuôi trong lồng kính, dây dợ chằng chịt đầy người, bác sĩ cũng lắc đầu, bảo khó hy vọng. Bà đã đi hết Chùa nọ đến đền kia, để cầu nguyện cho nó, bà van vái Phật trời, xin đổi mạng mình cho con được sống. Thế rồi như một phép lạ, Đức qua cơn nguy kịch và bình phục dần. Sau ba tháng nằm bệnh viện, bà sung sướng bế con về nhà.

Vì sanh thiếu tháng nên thuở nhỏ Đức hay đau ốm, quặt quẹo luôn, chăm lo săn sóc cho nó thật là vất vả. Bà không quản ngại nhiều đêm thức trắng, ẵm bồng, hát ru cho con dễ ngủ. Hàng ngày bà cầu nguyện cho nó hay ăn chóng lớn, khỏi hết mọi bệnh tật, đau ốm… Bà cầu nguyện cho nó khi lớn lên sẽ học giỏi, đỗ đạt, thành công, có một địa vị cao trong xã hội, một địa vị mà bà không thể vươn tới vì ít học. Bà cầu cho con bà có đủ mọi thứ mà nó mơ ước.

Thế rồi ông mất đi, bà phải lăn xả vào cuộc sống, làm ăn vất vả để nuôi nó. Bà đã quên mình, quên tuổi xuân, quên hạnh phúc riêng tư của bà, để chỉ nghĩ đến con. Nếu có thể làm gì, bà sẽ làm tất cả để cho nó được sung sướng. Suốt đời bà đã hy sinh cho nó, lần này cũng vậy…

Cố ngăn nước mắt cứ chực trào ra, bà nghẹn ngào nói với con:

– Khỏi phải nói nhiều, má sẽ đi khỏi đây, nếu điều đó làm cho cuộc sống của con dễ thở hơn.

Đức cúi mặt, dấu vẻ ngượng ngùng:

– Ồ không má ơi! Con làm vậy là vì má đấy chứ, con nghĩ môi trường mới sẽ tốt cho má hơn.

– Má hiểu cả, con không cần nói thêm nữa. Nhưng quãng đời còn lại của má, má sẽ tự quyết định lấy, con khỏi bận tâm.

Nói xong bà ra hiệu cho Đức lui ra. Bấy giờ bà mới để mặc cho hai dòng lệ chảy tràn trên đôi má hóp. Bà lặng lẽ khóc, chưa bao giờ bà khóc nhiều thế, bà khóc cho tình đời đen bạc, bà khóc cho thân phận cô đơn của bà và bà khóc cả cho Đức nữa… Bà biết từ nay nó sẽ sống trong ray rứt mỗi khi nghĩ đến mẹ, bởi vì con người ai cũng có lương tâm, bà cầu cho lương tâm nó được yên ổn.

Cuộc đời còn lại của bà nào đáng kể, bà đã hơn bảy mươi rồi, chẳng bao lâu nữa, tấm thân tàn tạ này rồi sẽ đi vào lòng đất sẽ trở thành cát bụi theo qui luật tự nhiên của tạo hóa, con người khởi điểm từ hư vô thì sau chót cũng trở về hư vô. Bà nghĩ thầm, giá chết được thì may quá, nhưng trời chưa cho chết, bà rùng mình nghĩ tới ngày mai… Con bà không tha thiết đến mẹ thì sự sống hay chết của mẹ cũng chẳng làm nó quan tâm, bà có thân phải tự lo liệu lấy.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, bà Năm thấy chỉ có một giải pháp tốt nhất là về lại quê hương, ở với người em gái út không chồng, đi tu từ thuở nhỏ. Dì Út là sư bà, hiện đang trụ trì trong một ngôi Chùa bên Gia Định. Bà sẽ xin nương náu nơi cửa Phật, mặc áo nâu sồng, mượn câu kinh tiếng kệ, quên hết chuyện thế gian. Thu xếp xong xuôi mọi việc, bà mới nói cho dâu, con biết quyết định của bà. Đức xẻn lẻn không dám nhìn mẹ, còn Duyên thì không dấu được sự vui mừng lộ ra nét mặt.

Mấy tuần lễ cuối cùng rồi cũng trôi qua nhanh chóng. Hôm nay là ngày bà rời khỏi căn nhà này và sẽ không bao giờ quay lại nữa, con bà mời bà đến chỉ là bất đắc dĩ và bây giờ cũng chính nó mời bà ra khỏi nhà. Một cảm giác tủi thân làm bà rưng rưng, bà cô đơn lắm, chẳng có ai để kể lể, tâm sự những lúc vui buồn, ngoài người chồng đã khuất.

Nhìn khói hương bay tỏa, bà thấy lòng ấm lên đôi chút, có cảm tưởng ông đang quanh quẩn ở đâu đây, rất gần. Bà ngước nhìn lên khung ảnh của chồng, cái hình đã cũ lắm, ngả màu vàng ố vì thời gian. Dưới ánh nến lung linh, trông ông linh động như người thật, mắt ông đang nhìn bà đăm đăm như an ủi, vỗ về… Run run vì cảm động, bà chắp tay lên ngực, thì thầm khấn vái:

– Tôi biết mình vẫn ở bên tôi, mình không bao giờ bỏ tôi… Hôm nay tôi phải rời khỏi nơi đây, mình theo tôi về quê, mình nhé?

Mắt bà mờ đi, chẳng biết vì khói nhang hay nước mắt. Mấy cây nhang đã cháy gần tới chân, chỉ còn vài đốm đỏ vẫn còn đang ngún khói. Bà đợi khi đốm nhang cuối cùng đã tắt, rồi mới run run cầm lấy khung hình của chồng, gói vào một cái khăn mềm, cho vào va li, đóng nắp lại. Bà mở cửa sổ cho khói nhang bay ra, rồi thay quần áo, và đi xuống nhà dưới.

Ngang qua phòng khách, bà thấy cô con dâu đã thức và đang ngồi xem TV. Nghe tiếng chân bà, cô ta chỉ hơi ngẩng đầu, liếc bà một cái thật nhanh rồi lại thản nhiên xem tiếp, coi như không có sự hiện diện của mẹ chồng, nét mặt nó lạnh lùng, không biểu lộ một cảm xúc nào cả. Mặc kệ, bà đã quá quen với cảnh đó, nên cũng chẳng buồn để ý.

Đi thẳng xuống bếp, bà lấy một nhúm trà cho vào cái ly, rồi đổ nước sôi lên. Trong khi chờ trà ngấm, bà đưa mắt nhìn ra cửa sổ, ngoài kia nắng đã lên, có vài con bướm đang bay lượn quanh giàn mướp trổ đầy bông màu vàng. Bà thừ người đứng ngắm, giàn mướp này do chính tay bà trồng và chăm lo vun xới, nên xanh tốt lạ lùng. Bà biết Đức thích ăn món lá mướp non xào thịt bò, còn bố nó ngày xưa thích ăn cá kho tộ và canh mướp nấu với mồng tơi, tôm khô, nên trong vườn nhà bà lúc nào cũng có một giàn mướp. Hạnh phúc của bà là được sống giữa những người thân, chăm lo săn sóc từng miếng ăn, giấc ngủ cho họ được sung sướng.

Nhưng nay thì không được nữa rồi, bà đã mất tất cả… Sẽ chẳng bao giờ bà còn được nấu nướng những món ngon cho chồng con, và đã hết rồi cơ hội được bồng ẵm cháu. Ông đã bỏ bà, ông đi không bao giờ về, con cái cũng hắt hủi, xua đuổi mẹ. Bà sắp phải xa mái ấm gia đình, xa đứa con trai duy nhất, xa đứa cháu nội mà bà thương yêu và nó cũng rất thương bà.

Mải suy nghĩ, bà không nghe tiếng chân trẻ con chạy nhanh trên cầu thang và chỉ một thoáng, đứa cháu gái bé bỏng đã xuất hiện ngay sau lưng bà.

***

Sáng nay vừa thức dậy, Hân đã cảm thấy một sự gì hơi khác thường. Cô bé nhìn quanh phòng, không có ai cả, căn nhà dường như vắng hơn mọi ngày. Ngoài kia nắng đã lên rực sáng khung cửa sổ, vậy là muộn rồi đấy, cô bé vội vã đi ngay xuống nhà dưới. Hân thấy mẹ đang ngồi xem TV, nhưng nó không dừng lại mà đi thẳng xuống bếp. Bà nội đang đứng tựa cửa nhìn ra ngoài vườn. Không hiểu bà nhìn cái gì mà chăm chú thế? Hân nhìn theo, chẳng thấy có gì đáng chú ý cả. Cô bé nhìn vào mắt bà nội và phát sợ lên, lạ quá, bà ở đây mà hồn như đi vắng, trông bà giống như người đang mộng du. Cặp mắt vô hồn của bà làm Hân sợ hãi, cô bé rụt rè nắm lấy áo bà giật giật, khẽ gọi:

– Nội ơi!

Bấy giờ bà Năm mới giật mình sực tỉnh, quay lại thấy cháu, thì mỉm cười:

– Hân mới dậy đó à, có đói không? Bà làm bữa sáng cho cháu nhé?

Hân gật đầu, nhưng thấy bà vẫn đứng yên, chẳng nghe bà hỏi cháu muốn ăn gì như mọi ngày. Hôm nay bà làm sao vậy, trông ngẩn ngơ như người mất hồn…

Cô nhắc:

– Cháu muốn uống sữa và ăn bánh sandwich với thịt nguội.

Bà lật đật mở tủ lạnh lấy sữa và nướng sandwich cho cháu, rồi kẹp vô mấy miếng jambon và cà chua. Xong xuôi, bà ngồi uống trà, âu yếm nhìn cháu ăn. Con bé đang đói, nên ăn ngấu nghiến, vừa ăn nó vừa hỏi:

– Bố đâu rồi bà?

– Bố cháu đi đổ xăng.

– A! Hân reo lên mừng rỡ, bố sắp đưa cả nhà đi chơi, phải không bà?

Nó hỏi vậy, bởi vì mỗi sáng chủ nhật, bố vẫn dậy sớm sửa soạn xe, để đưa cả nhà đi chơi xa, ra khỏi thành phố để thay đổi không khí.

Hân hơi thất vọng, khi bà nội lắc đầu:

– Không, cháu ơi! Hôm nay chỉ mình bà đi thôi, lát nữa bố sẽ đưa bà ra phi trường.

– Bà đi phi trường làm gì vậy?

– Bà về Việt Nam.

– Việt Nam có xa không bà?

– Xa lắm cháu ạ.

Ngẫm nghĩ thế nào, Hân vụt hỏi:

– Bà đi lâu không?

– Ờ, lần này thì… hơi lâu đó. Mà cháu hỏi làm gì?

– Cho cháu đi với!

– Không được đâu, Hân phải đi học chứ.

Thấy cháu phụng phịu, bà dỗ:

– Hân ở nhà ngoan, bà sẽ gởi đồ chơi ở Việt Nam sang cho cháu.

– Thế bà không về nữa à?

Tới đó thì có tiếng xe ngừng ngay trước nhà. Đức đang bước vô cửa, thoạt nghe thấy thế thì khựng lại, cau mày rầy con:

– Hân không được hỏi nữa.

Và chàng quay sang mẹ, sửa soạn xong chưa má? Mình đi sớm một chút, đề phòng kẹt xe.

– Má sẵn sàng rồi.

Bà nói và khoác cái áo len mỏng lên người. Thấy đứa cháu bé bỏng đang nhìn mình bằng ánh mắt van nài, bà Năm nói với Đức:

– Cho Hân đi tiễn má, con nhé? Chẳng biết bao giờ bà cháu mới gặp lại, má nhớ nó lắm.

Đức hơi lưỡng lự rồi gật đầu, quay sang con:

– Được, đi thay quần áo đi! Nhưng phải nhanh lên đấy.

Chỉ chờ có thế, Hân vội phóng ngay lên thang lầu vào phòng thay quần áo. Khi nó trở xuống, Duyên uể oải đứng dậy, đi theo con ra cửa. Lúc bấy giờ cô con dâu mới tiễn biệt mẹ chồng bằng một câu nhạt nhẽo:

– Má đi mạnh giỏi.

– Ờ, con ở nhà giữ gìn sức khỏe. Chừng nào sanh, nhớ chụp hình đứa nhỏ gởi cho má.

– Việc đó thì đã hẳn, má đừng lo.

Nói xong Duyên quay sang chồng, dặn:

– Lúc về, mình nhớ ghé chợ Tàu, mua cho em con vịt quay.

– Anh biết rồi.

Đức lên lầu, đem vali xuống, bỏ vào cốp xe phía sau, rồi ngồi vào tay lái. Bà Năm quay nhìn một lần chót căn nhà bà đã sống với con, cháu mấy năm cuối đời. Một cảm giác nao nao làm bà thấy lòng như quặn lại, mắt mờ lệ, bà cúi xuống xách cái giỏ, theo con trai ra xe. Bé Hân đã nhảy tót lên xe trước, hai bà cháu cùng ngồi ở băng sau.

Ra khỏi thành phố, Đức cho xe phóng nhanh trên xa lộ. Trời đã vào thu, lá cây đổi thành màu vàng thật đẹp. Bé Hân ngồi kề bên bà nội, thích thú ngắm các nhà cửa, cây cối hai bên đường, tất cả đều đang chạy thụt lùi. Trời hôm nay nhiều gió, gió rít ào ào bên ngoài nghe như ma hú.Gió làm chiếc xe hơi tròng trành, Hân ngồi sát vào bà nội. Bà ngồi im lìm, dáng cô đơn trông thật tội nghiệp, suốt ngày bà vẫn im lìm như thế, lặng lẽ như một chiếc bóng.

Bất giác Hân nhìn lên băng trước, bố nó đang nói chuyện với ai đó, qua điện thoại di động.Cả ngày bố lúc nào cũng bận rộn, ngay cả những lúc lái xe, còn mẹ thì gắt gỏng suốt ngày. Hân sợ phải nghe mẹ cằn nhằn và thấy bà nội khóc, mỗi lần như vậy, cô thường hay trốn vào phòng riêng, đóng cửa lại.Cô bé không dám chạy nhảy, đùa rỡn vô tư như trước vì thấy cả nhà ai cũng quạu cọ. Bà nội cũng không nấu nướng những món cô thích nữa. Dạo này Hân thấy bà âu sầu và hay thở dài. Đôi khi thấy mắt bà đỏ hoe, cô hỏi thì bà nói là bụi bay vô mắt, nhưng cô biết là không phải vậy. Hân thương bà, nhưng không biết phải an ủi bằng cách nào.

Cô bé nắm lấy tay bà, rồi chẳng hiểu nghĩ sao, Hân bỗng gọi bố:

– Bố ơi, con không muốn dọn về nhà mới đâu.

Đức nói tiếp cho xong câu chuyện với bạn rồi mới đặt điện thoại xuống, hỏi:

– Tại sao thế?

– Tại nhà mới không có chỗ cho bà nội.

Đức giật mình:

– Ai bảo con vậy?

– Mẹ nói nhà có ba phòng, một cho bố mẹ, một cho con, còn phòng kia dành cho em bé…

– Ừ, phải rồi.Nhà mới không được rộng như nhà này.

– Thế sao bố lại dọn đi?

– Tại ở đó rẻ hơn.

– Bà nội có về nhà mới với mình không bố?

– Không con ạ, bà sẽ về Việt Nam ở, nơi đó thích hợp với bà hơn.

– Bà ở đó một mình hả?

– Bà ở với một người bà con. Thôi con đừng hỏi nữa để yên cho bố lái xe.

Nhưng con bé vẫn dai dẳng:

– Con không muốn dọn nhà, con không muốn bà đi.

Đức cau mày khẽ gắt:

– Con nít đừng xen vào chuyện của người lớn. Con phải hiểu thời buổi bây giờ khó khăn, kinh tế xuống dốc, mọi người ai cũng phải tiện tặn. Mẹ lại sắp phải nghỉ việc vì sanh em bé, bố không kham nổi căn nhà lớn.

Hân lắc đầu, không hiểu gì hết. Quả vậy, những danh từ đó đối với nó rắc rối quá, khó hiểu quá. Cô bé ngây thơ chỉ nghĩ một cách đơn giản rằng, cha mẹ nó tìm cách mua nhà nhỏ, để lấy cớ không có chỗ ở cho bà nội. Nếu thật tình yêu thương bà, sao mọi người không chia sẻ? Hân sẵn lòng cho bà ở chung phòng, chỉ giản dị có thế, đâu cần phải đuổi bà?

Nhìn hai dòng nước mắt đang lặng lẽ bò trên đôi má nhăn nheo của bà nội, lòng cô thắt lại, cô nắm lấy tay bà dỗ dành, như bà vẫn dỗ dành cô những khi cô đau khổ:

– Nội ơi, đừng khóc!

Nhưng chính cô cũng không ngăn được nước mắt. Cô nhoài người sang, ngả đầu vào ngực bà, thổn thức. Cô biết rằng lần chia tay này là lần cuối cùng sẽ chẳng bao giờ cô còn được gặp bà nữa.

Buổi Học Cuối Cùng – Alphonse Daudet – Thân Trọng Sơn DịchThuật

Buổi Học Cuối Cùng – Alphonse Daudet – Thân Trọng Sơn DịchThuật

Alphonse Daudet (13/5/1840 – 16/12/1897) là một nhà văn Pháp và là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Ông sinh ra ở Nîmes (thuộc miền Nam nước Pháp). Ông bắt đầu viết văn từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Alphonse ra thi tập “Những Người Đàn Bà Đang Yêu” (Les Amoureuses, 1858) và được đón nhận ngay. Độc giả Pháp đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết “Thằng Nhóc Con” (Le Petit Chose), gần như là thiên hồi ký của thời niên thiếu đau khổ của chính mình mà đôi khi cũng được ví với nhân vật trong tác phẩm “David Copperfield” của đại văn hào Charles Dickens của Anh. Những năm sau ông viết nhiều tiểu thuyết cũng thành công không kém, qua các đề tài xã hội của một nước Pháp dân chủ thay thế cho chế độ quân chủ. Cho đến cuối đời, Daudet dao động từ niềm vui thẳng thắn (Nhân vật huyền thoại Tartarin de Tarascon) đến sự mỉa mai như quất mạnh (Numa Roumestan), hoặc nỗi u sầu bệnh hoạn nhất.

Cùng lúc với một Daudet thi sĩ, lại có một Daudet duy thực chua chát, ngay cả theo xu hướng tự nhiên, theo dấu chân của những nhà văn cùng thời với ông, Emile Zola hoặc anh em nhà Goncourt (Edmond & Jules de Goncourt, với các tiểu thuyết theo tự nhiên, sáng lập ra hàn lâm viện Goncourt).

***

Sáng hôm ấy tôi tới trường trễ, rất lo sẽ bị la, nhất là vì thầy Hamel đã dặn sẽ dò bài về thể phân từ, mà tôi thì không hiểu chữ nào. Có lúc tôi đã nghĩ đến chuyện trốn học, bỏ đi lêu lổng ngoài đồng. Trời thì ấm áp và tươi đẹp quá thế này.

Nghe có tiếng chim ríu rít ở bìa rừng, và trên cánh đồng Rippert đàng sau xưởng cưa, đám lính Phổ đang tập trận. Những thứ này hấp dẫn tôi hơn cái món mẹo luật phân từ, nhưng tôi cũng còn cưỡng lại được, và tôi ba chân bốn cẳng chạy tới trường.

Khi đi ngang Toà Thị Chính, tôi thấy đám đông người đang tụ tập trước bảng cáo thị. Suốt hai năm qua, mọi tin xấu đều từ nơi đó mà ra, nào tin thua trận, nào là lệnh tuyển binh, rồi các chỉ thị của bộ chỉ huy, tôi tự hỏi, chân vẫn không dừng: “Lại chuyện gì nữa đây?”

Thế rồi, khi tôi vội vàng chạy qua khu quảng trường, bác thợ rèn Wachter đang đứng đọc bảng cáo thị với anh học việc, nói lớn với theo tôi:

“Chạy gì nhanh thế, cậu bé. cậu còn cả khối thời gian tới trường mà!”

Tôi nghĩ là bác ấy đang giễu cợt tôi, và tôi thở hổn hển khi tới được mảnh sân nhỏ của thầy Hamel.

Thông thường, khi bắt đầu giờ vào lớp, luôn có những âm thanh ầm ĩ, ngoài đường cũng nghe thấy, tiếng mở đóng hộc bàn, tiếng học trò ôn bài đồng loạt, rất ồn ào vì cứ bịt tai mà đọc để nghe cho rõ, còn cả tiếng thầy gõ thước lên bàn nữa.

“Tất cả im lặng nhé!”

Tôi hy vọng sẽ lợi dụng lúc chộn rộn này để vô lớp không bị ai nhìn thấy. Nhưng hôm nay sao lại yên lặng như đang là sáng chủ nhật thế này! Qua cửa sổ, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ đàng hoàng, còn thầy Hamel thì đang đi tới đi lui với cây thước kẻ bằng sắt đáng sợ kẹp dưới nách. Phải mở cửa bước vào trong không khí lặng lẽ đó. Bạn chắc là tưởng tượng ra mặt tôi đỏ rần và tôi run sợ như thế nào.

Thế nhưng, không. Thầy Hamel nhìn tôi không chút giận dữ và dịu dàng nói:

“Hãy vào chỗ ngồi nhanh đi, em Frantz. Lớp học bắt đầu mà vắng mặt em đó.”

Tôi nhảy qua băng ghế và ngồi xuống ngay bàn của mình. Đến lúc đó, khi đã bớt lo sợ tôi mới nhận ra là hôm nay thầy mặc cái áo khoác màu xanh thật đẹp, riềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ mặc những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng.

Thêm vào đó, hôm nay trường tôi có vẻ gì lạ lùng và trang nghiêm khác thường, nhưng điều làm tôi sững sờ hơn hết là trên mấy băng ghế đặt ở cuối lớp, mọi ngày bỏ trống, hôm nay lại thấy có mấy người dân trong làng đang ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi vậy. Ông già Hauser với cái nón xếp ba góc, ông cựu thị trưởng, ông cựu bưu tá, và nhiều người khác nữa, ai trông cũng buồn rầu. Ông Hauser có mang theo quyển sách vỡ lòng cũ, góc đã quăn queo, ông mở sẵn trên đùi, đặt cái kính đeo mắt trên trang sách.

Trong khi tôi đang tự hỏi về tất cả những điều đó thì thầy Hamel ngồi vào ghế của mình, và cất tiếng, cũng với cái giọng nhẹ nhàng và nghiêm trang mà lúc nãy thầy nói với tôi:

“Này các con, đây là buổi học cuối cùng thầy dậy các con. Lệnh đến từ Berlin là tất cả các trường học ở Alsace và Lorraine chỉ được phép dùng tiếng Đức mà thôi. Ngày mai sẽ có thầy mới tới đây và hôm nay là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Thầy mong các con phải chú ý thực kỹ.”

Những lời ấy khác nào sấm sét giáng xuống đầu tôi! Ôi, bọn khốn! Thì ra đây là cái mà chúng đã dán ở Toà Thị Chính!

Buổi học tiếng Pháp cuối cùng của tôi sao! Tôi còn chưa biết viết nữa mà! Tôi không được học nữa sao? Phải ngưng hết việc học ngay lúc này sao? Tôi giận mình biết bao về thời gian bỏ phí bấy lâu, tôi đã trốn học để đi tìm trứng chim hay đi trượt ván ở Saar! Những cuốn sách mà mới khoảnh khắc trước tôi cho là thứ khô khan, mang vác nặng nề, sách ngữ pháp, sách lịch sử linh thiêng, giờ tôi coi như những người bạn cũ, khó khăn lắm mới rời bỏ được. Và thầy Hamel cũng vậy. Nghĩ đến việc thầy sắp sửa đi xa, tôi sẽ không còn gặp thầy được nữa là tôi quên hết những hình phạt, những đòn đánh thước kẻ của thầy trước kia.

Tội thầy quá!

Chính vì coi trọng buổi học cuối cùng này mà thầy đã mặc bộ đồ đẹp thường chỉ diện ngày chủ nhật, và lúc này tôi mới hiểu tại sao những vị bô lão trong làng đến ngồi trên những băng ghế nơi cuối lớp. Có vẻ như họ cũng hối hận rằng đáng lẽ họ phải đến trường siêng năng hơn. Đó là cách họ tỏ lòng tri ân thầy chúng tôi đã tận tuỵ suốt bốn mươi năm nay, và cũng để biểu lộ tình cảm ân nghĩa đối với tổ quốc nay đã mất đi.

Tôi đang nghĩ về những điều này bỗng nghe tiếng thầy gọi tên. Đến phiên tôi phải đọc bài. Tôi có thể đánh đổi gì để có thể đọc được hết cái quy tắc về phân từ lẫy lừng đó, đọc thật to, thật rõ, không vấp váp chút nào nhỉ? Tôi chỉ ấp úng được mấy chữ đầu tiên thôi, rồi đứng yên như trời trồng, chết dí nơi băng ghế, tim đập mạnh, chẳng dám ngước mắt lên. Tôi nghe thầy Hamel nói với tôi:

“Này Frantz, thầy không la con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi, con thấy chưa, ngày nào ta cũng tự bảo: ấy, ta còn khối thời gian mà, để ngày mai rồi học cũng được. Và con thấy kết quả ra sao rồi đó… Ừ, tai hoạ lớn nhất của xứ Alsace chúng ta là bao giờ cũng trì hoãn việc học đến ngày mai. Và giờ đây, những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng: Thế nào! Các ngươi tự nhận mình là dân Pháp, thế mà sao các ngươi chẳng biết đọc biết viết được tiếng mẹ đẻ của mình! Trong chuyện này, trò Frantz à, con đâu phải là người tội lỗi nhất. Tất cả chúng ta đây đều phải tự trách mình cả đấy.

Bố mẹ các con không chăm lo lắm việc học hành của các con. Họ thích các con ra đồng làm việc hay vào nhà máy hơn để kiếm thêm chút tiền. Còn thầy đây, bộ thầy không có gì đáng trách à? Chẳng phải là thầy đã sai các con đi tưới hoa trong vườn thay vì bắt các con phải học bài. Và khi thầy muốn đi câu, thầy chẳng ngần ngại cho các con nghỉ học.”

Thế rồi, từ chuyện này bắt sang chuyện khác, thầy Hamel nói về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ đẹp nhất trên thế giới, trong sáng nhất, hợp lý nhất, vững vàng nhất, và cần bảo vệ nó, đừng bao giờ được phép quên điều đó, vì khi một dân tộc bị rơi vào vòng nô lệ, chừng nào còn giữ vững tiếng nói của mình thì không khác gì nắm được chiếc chìa khoá mở cửa tù giam. Rồi thầy mở sách ngữ pháp ra và đọc bài học cho chúng tôi nghe. Tôi ngạc nhiên thấy mình hiểu thật thông suốt. Những điều thầy nói nghe thật dễ hiểu, thực sự rất dễ hiểu. Tôi cũng thấy rằng tôi chưa bao giờ chú ý nghe thầy giảng chăm chú đến thế, mà thầy cũng chưa bao giờ giảng giải mọi điều một cách kiên nhẫn đến thế. Như thể là trước khi đi xa thầy muốn truyền cho chúng tôi tất cả kiến thức của mình, cố trút hết vào đầu óc chúng tôi tất cả một lần.

Sau bài ngữ pháp, đến bài tập viết. Hôm đó, thầy đã chuẩn bị những tờ mẫu mới toanh, trên đó có viết bằng chữ rông thật đẹp: France, Alsace, France, Alsace… Những tờ giấy tập viết như những lá cờ nhỏ bay khắp phòng học, treo trên những thanh gắn trên mặt bàn học chúng tôi. Bạn phải nhìn thấy mọi người chăm chú làm việc như thế nào, và lớp học im lặng ra sao! Chỉ còn nghe được tiếng ngòi bút cào trên giấy. Có lúc, có vài con bọ bay vào phòng, nhưng chẳng ai để ý đến chúng, ngay cả những thằng nhỏ bé nhất đang cố công vạch những nét sổ thẳng, toàn tâm, toàn ý, chừng như những nét sổ đó cũng là tiếng Pháp. Trên mái nhà, những con bồ câu gù gù nho nhỏ, tôi nghe tiếng chim và nhủ thầm:

“Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?”

Có lúc đang viết ngước nhìn lên, tôi thấy thầy Hamel ngồi bất động trên ghế, mắt chăm chăm nhìn hết vật này sang vật khác, như muốn ghi sâu trong tâm trí mình tất cả hình ảnh ngôi trường nhỏ bé này. Thật lạ! Đã bốn mươi năm nay, thầy chẳng luôn ở đây, vẫn chỗ ngồi đó, vẫn sân chơi trước mặt, vẫn lớp học không đổi hay sao? Chỉ có mấy cái ghế, cái bàn sử dụng lâu ngày nay trơn mòn hơn, những cây hạt óc chó nay mọc cao hơn, và dây hoa bia do chính thầy trồng nay quấn quanh cửa sổ, leo lên tận mái nhà. Hẳn là thầy đau lòng lắm khi phải rời xa tất cả những thứ này, khi nghe tiếng cô em thầy ở tầng trên đang đi đi lại lại, đóng gói đồ đạc vào mấy cái rương, bởi vì họ phải rời khỏi xứ ngay ngày hôm sau.

Nhưng rồi thầy cũng can đảm dạy hết cả buổi học. Sau phần tập viết, chúng tôi học về lịch sử, sau đó các trò nhỏ bi ba bi bô đánh vần. Dưới kia, ở cuối lớp, cụ Hauser đeo cặp kính vào mắt, hai tay nâng sách vỡ lòng lên cùng đánh vần theo chúng. Ai cũng thấy là cụ cũng rất chăm chú, giọng run run vì xúc động, nghe rất buồn cười khiến chúng tôi vừa muốn cười vừa muốn khóc. Ôi chao, tôi nhớ buổi học cuối cùng ấy biết bao!

Đột nhiên chuông nhà thờ gõ mười hai tiếng. Rồi đến hồi chuông cầu kinh Đức Bà. Đồng thời tiếng kèn đồng của đám lính Phổ đi tập trận về vang lên dưới mấy cửa sổ phòng học. Thầy Hamel đẩy ghế đứng dậy, mặt tái xanh. Chưa lúc nào tôi thấy thầy cao đến vậy. Thầy nói:

“Các bạn, các bạn, tôi…tôi…”

Có cái gì đó làm thầy nghẹn lại, không nói hết câu được. Thầy xoay người về phía bảng đen, nhặt một mẩu phấn, và bằng hết sức mình ấn lên phấn, thầy viết hàng chữ to hết cỡ:

“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM.”

Thế rồi, thầy ngừng tay, đầu gục lên tường, không nói một lời, thầy xua tay ra dấu như bảo chúng tôi: “Lớp học kết thúc… mọi người về đi!”

Alphonse Daudet

(Thân Trọng Sơn dịch và giới thiệu theo nguyên bản tiếng Pháp, Les Contes du lundi / Chuyện kể ngày thứ hai).

BẤM VÀ QUẸT – Nguyễn Thị Thêm


BẤM VÀ QUẸT – 
Nguyễn Thị Thêm
 

Tôi tắt Iphone để ngủ. Quyết định sẽ không bị quyến rũ bởi nhiều thứ trong này. Thời đại điện tử, tất cả hỉ nộ ái ố đều nằm trong cái iphone nhỏ xíu bằng bàn tay khép lại. Nó tuy nhỏ nhưng nắm vận mạng tiền bạc của con người. Thư từ, giấy tờ, nhà băng, cổ phiếu và tất cả những gì thuộc về cá nhân quan trọng cũng nằm trong đó.  

Tôi lan man nghĩ đến mình. Cả đời không nghiện gì nhưng về già hình như tôi nghiện Iphone. Phải công bằng một chút là tôi nghiện internet. Cái desktop, ipad, Iphone là người tình không có không được. Qua thăm con cũng rinh kè kè cái laptop nặng trịch đi theo. Qua khu vực security ở phi trường lụi hụi lôi nó ra để kiểm tra, rồi lại bỏ nó vào carry one lôi đi. Mệt muốn ná thở. Khổ cái thân già là không thể nào rinh nổi cái carry one đó bỏ lên khoang hành lý trên đầu. Lần nào đi chơi cũng áy náy phải nhờ người giúp. Kéo vali vào máy bay, tới ngay ghế ngồi, tìm xem có chàng trai nào vai to cao lớn, đẹp trai ngồi hoặc đứng kế đó để cười tình : ‘ Please…please”. Lúc xuống máy bay cũng vậy, đứng lên chờ, miệng cười ruồi, chọn anh chàng nào đứng gần đó dáng thân thiện để “Xin một tay…please” để đem cái của nợ xuống dùm. Thiệt là quê xệ. 

Có một lần tôi đi Nhật, không muốn phiền hà nhờ vả người khác, tôi bỏ laptop vào hành lý ký gửi. Qua tới Nhật về nhà mở vali ra tôi thấy hải quan đã mở vali tôi ra lục soát, họ có để lại trong đó tờ giấy kiểm tra hàng hóa. Con tôi nói tại má bỏ laptop vào trong này. máy rọi thấy lạ nên họ đã mở ra kiểm tra. 

Mấy đứa con trai đều ở xa, mỗi lần đi thăm đều kỳ kèo mẹ ở lại chơi ít nhất cũng ba tuần. Cả hai thằng con biết ý mẹ, lúc nào cũng xếp đặt phòng riêng có bàn để laptop, cái ghế dựa để mẹ ngồi cho thoải mái. Thằng lớn còn đem cái monitor thật to gắn thêm vào cho mẹ dễ đọc.

Hàng ngày con đi làm, cháu đi học, bà già trầu ngồi ở nhà mình ên. Không chơi với người tình mặt trắng thì biết làm gì cho hết ngày giờ. Thế là mở laptop ra, chuyện thế giới, chuyện nội địa, chuyện chiến tranh, bão lụt, chính trị, văn chương nằm hết trong đó. Ngồi chơi lâu cũng mệt, tắt laptop lên giường. Lại có tin nhắn thế là tôi lôi Iphone ra quẹt. Thật lạ! ngồi thì buồn ngủ, nằm quẹt lại tỉnh rụi. Cho nên với ánh sáng của màn hình mắt không yếu không khô, người không mất ngủ mới là chuyện lạ. 

Có những điều tuy rằng tai hại nhưng với thời đại mới không dùng Internet sẽ không giải quyết được cuộc sống hàng ngày. Cả thế giới đều phủ phục dưới sự lãnh đạo tối ưu của Google. Cả thế giới đều tình nguyện bị theo dõi, bị khống chế nhưng vẫn cám ơn bất tận. 

Này nhé trong mùa dịch, người cách ly người. Học sinh không đến trường cửa hàng đóng cửa. Tất cả đều phải liên lạc với nhau trên màn hình qua Iphone và qua internet. Cháu tôi nhỏ xíu mới vô mẫu giáo mà cũng được nhà trường trang bị một cái laptop. Các cháu lớn ở nhà,  tới giờ là vào phòng đóng cửa lại học trên máy. Thầy cô không cần đến trường, học trò không cần tới lớp. Cô giáo có thể vừa chăm con vừa dạy học. Học trò cũng có thể vừa ăn trong giờ mà không bị phạt. Tất cả đều đáp ứng cho tình hình hiện tại. Nhưng rồi kết quả học tập không biết có đạt được tốt đẹp không?  Đành thôi. 

Thời kỳ Covid cha mẹ cách ly con cái. Muốn mua gì quẹt cho con. Con mua xong đem thức ăn cho cha mẹ cũng quẹt báo tin cho mẹ. Tới cửa rào bấm chuông và đặt thức ăn trước cửa nhà. Khi thấy cha mẹ ra nhận đồ đứng bên kia đường đưa tay vẫy vẫy.  Cha mẹ bấm phone quẹt “Thank you” Chuyện thật như đùa, sự hiếu thuận, tình gia đình thời Covid thể hiện như vậy đó. 

Thời đại tin học cộng thêm dịch bệnh Coronavirus thế giới đảo lộn chẳng có gì là không thể xảy ra. Tất cả mọi việc và cuộc sống trên đời này đều bấm và quẹt trên màn hình là giải quyết được hết. Người thật  hay là người ảo cũng chỉ liên lạc với nhau qua bấm và quẹt. 

Bà bác sĩ gia đình của tôi cả năm chưa lấy hẹn cho tôi gặp mặt một lần ở văn phòng. Lý do dịch bệnh giảm thiểu tối đa gặp mặt. Ông Bác sĩ chuyên khoa cũng “Text ” gửi qua phone order đi xét nghiệm và chụp hình. Kết quả cũng “text” trên messages là “Kết quả tốt. không cần gặp” rồi gửi order cho tái xét  nghiệm năm sau. 

Hôm qua tôi đi thử máu theo order của bác sĩ để tuần sau gặp ông ta. Con gái cũng làm đủ thủ tục ở nhà rồi. Trung tâm Quest Diagnostic gửi cho tôi trên iphone  để tôi check in 20 phút trước giờ hẹn. Tôi bấm vô “I am here of Quest ” theo yêu cầu. Nhưng tới bãi đậu xe bấm vào vẫn chưa cho check in. Vào tận nơi văn phòng bấm lại mới được và tên mình hiện lên TV với giờ hẹn. Rất nhiều người đứng đó cầm iphone quẹt quẹt rồi hỏi y tá. Có người bỏ về.. có người lúng túng không biết làm sao.Tôi nghĩ với lối làm việc hiện đại, thật khó khăn cho những người không biết sử dụng internet, nhất là những người lớn tuổi và lẩm cẩm như tôi. 

Chúng tôi là những người không còn trẻ. Vợ vật lộn chợ đời trong thời buổi quản lý thị trường, lao động là vinh quang. Chồng tù cải tạo ở trong rừng sâu không hề thấy ánh sáng văn minh và con người lịch sự. Qua đến xứ Mỹ hai bàn tay trắng, hai vợ chồng cong lưng cày hai ba job để có được một mái nhà, lo cho con học đến nơi đến chốn. Con học xong, đổ đạt ra trường và bay đi xa. Nhiều khi nhớ con, tôi gọi hỏi thăm mà quên đi mỗi tiểu bang, hay quốc gia múi giờ đều khác. Có những lúc con còn đang say ngủ, nhận facetime của mẹ mà bên đó tối om. Tôi đành xin lỗi con rồi chúc nó ngủ ngon. Có lúc quên canh giờ gọi con đang giờ làm. Con quẹt lại : “Mẹ ơi! con đang bận, con sẽ gọi lại sau giờ làm việc” 

Nhớ ngày xưa, khi con tôi học đại học, cùng nhóm bạn lắp ráp làm và bán computer. Chúng tự làm cho mình cái máy theo ý và thảy cái laptop cũ cho tôi. Thú thật tôi không thể tin được có cái dụng cụ tuyệt vời như vậy. Tôi mày mò vào máy và hỏi con cách sử dụng. Tất cả những gì lúc đó lạ lẫm tôi chưa từng biết. Cháu chịu khó chỉ từng chút mà tôi như lạc vô mê hồn trận quên trước quên sau. Có lẽ trong đầu con nghĩ rằng sao dễ như vậy mà mẹ mình không biết. Tôi phải bảo con nói chậm rồi ghi ra giấy làm từ từ từng bước. Bây giờ thỉnh thoảng xem lại thấy cũng vui vui. 

Tôi bắt đầu mày mò vô mail và viết trả lời …không có dấu. Mặc ai đoán sao cũng được vì tôi đâu biết phải làm sao đánh chữ Việt. Một lần trả lời Email cho một người học trò, em gọi phone lại cười ngất khi thấy tôi trả lời email không dấu. Tôi cũng không rành để có thể theo em từng step mà download Unikey. Con trai tôi đang học High School, cháu theo chỉ dẫn để gắn cho tôi bảng đánh bằng tiếng Việt trên máy. 

Phải nói chưa có lúc nào tôi vui và say sưa viết như thế. Thật lâu…rất lâu, có đến mấy chục năm tôi không dùng đến chữ nghĩa. Tôi chỉ biết làm việc kiếm tiền, quán xuyến gia đình, chăm mẹ chồng, chồng và con cái. Tôi chưa bao giờ được sống cho riêng tôi. Bây giờ có cái máy xinh xắn này làm bạn, tôi như có thêm sức sống để yêu đời. 

Những lúc quá căng thẳng vì những áp lực… tôi mở máy, hít sâu và tay tôi bấm phím. Những suy nghĩ trong đầu tôi được dịp nhảy múa trên màn ảnh nhỏ. Khi có việc cần phải làm ngay, tôi bỏ đó đi làm. Trở vào trang giấy vẫn còn chờ đợi. Chưa có người bạn nào chung thủy và tốt như computer. Không phàn nàn, không nóng giận. Chờ đợi và chia sẻ. 

Chỉ ở màn hình và những con chữ tôi đã tìm lại bạn bè từ lâu lắm không gặp. Tôi có thể đi du lịch khắp cùng thế giới. Tôi kết bạn với những người chưa bao giờ tôi biết mặt ở khắp năm châu. Tôi học hỏi rất nhiều ở những người bạn phương xa tài giỏi. Mặc dù là ảo nhưng tôi đã có một  tình bạn rất thật và rất tốt. Một tình bạn đối xử với nhau chân thành ở tấm lòng, sự cảm thông, hợp ý. Tình bạn này không đặt vấn đề giàu nghèo hay địa vị xã hội. Mạng lưới Internet đó đã khiến tôi lặn lội qua tận Canada,Texas, Oregon, Virginia …để gặp mặt và chúng tôi thành những người thân như trong một gia đình. Vùng Riverside nắng như thiêu đốt nhưng tôi biết giờ này ở Úc trời đang mưa. Cây mận nhà anh Năm Sanh trái từng chùm chi chít và bầy dơi về lùng sục mỗi đêm. Tôi có thể biết được giờ này bên Pháp đang có biểu tình hay Canada tuyết đang rơi thật nhiều trắng cả vùng trời. Nhờ Internet tôi đã về với trường xưa, gặp lại thầy cô, bạn bè và chia sẻ vui buồn. Internet đã cho tôi một năng lượng sống, một không gian tĩnh lặng bình yên để tâm sự. 

Tuy nhiên trong cái hay vẫn có những cái tiêu cực, nhiều nữa là khác. Mọi người đều biết những cái không tốt và nguy hiểm từ Facebook, Youtube, Instagram…cho nên mình phải biết chọn lựa và dừng lại kịp lúc. Đừng quá say mê trên mạng ảo cũng đừng quá tin vào những quảng cáo hay những tin tức không đáng tin cậy mà có ngày hối hận không kịp.

Phải công nhận khoa học kỹ thuật tiến bộ khôn lường. Ngày nào một cái phone cùi bắp cũng đã quá hay. Không còn gửi thư chờ đợi cả tháng trời thư mới tới. Chỉ một cú phone bên kia đầu dây xa nửa vòng trái đất đã nghe rõ câu trả lời, tin tức biết ngay tức khắc.

Ba tôi mất tại Việt Nam (ba tôi đi tu và mất tại chùa). Ngày làm lễ phát tang, chúng tôi bên này con cháu tụ tập về nhà tôi và cùng thực hiện các nghi thức phát tang đồng loạt với bên Việt Nam. Từng hồi chuông tiếng mõ, tiếng tụng kinh của rất đông chư tăng ni, những lời thầy thuyết pháp, chúng tôi hiểu rõ hơn về sinh tử và sự vô thường. Chúng tôi có cảm giác gần gũi gia đình hơn,  cùng chịu đại tang và cùng nhau chí thành cầu nguyện.

Thế giới mỗi ngày mỗi tiến bộ mà óc tưởng tượng của chúng ta không thể nghĩ tới. Khó tin như chuyện Tôn ngộ Không bay trên mây. Như tiên thánh có thể thấy người dưới trần gian.Thuận phong nhĩ có thể nghe ngàn dặm…Iphone thời nay có thể thấy rõ người đang trực tiếp nói chuyện với mình. Đi chơi vòng quanh thế giới có thể Livestream cho người ở nhà cùng thưởng ngoạn. Con cái có thể biết cha mẹ đang ở đâu, làm gì, nhà mình có ai vào không và từng ngóc ngách trong nhà ngồi ở văn phòng có thể nhìn thấy rõ ràng. Những cái bấm, quẹt thay đổi từng giờ. Con người mập có thể lên hình đẹp như tiên nga. Con có thể ở Ý ở Đức ở Nhật order thức ăn cho mẹ, nhà hàng mang tới tận nhà. Sự hiếu để, chăm sóc dễ dàng như trong một giấc mơ.

Vì vậy, cả thế giới bấm và quẹt. Quẹt đem niềm vui đến với người khác. Bấm để báo một tin không lành. Bấm một cái có thể chuyển tặng một số tiền rất lớn. Quẹt sai một cái tiêu tan hết số tiền trong ngân hàng hay Facebook mình bị mất sạch.

Chỉ một cái Iphone nho nhỏ, ta chỉ cần hai ngón tay bấm và quẹt ta có thể đi khắp năm châu. Nó có thể khiến ta vui buồn, giận ghét. Nó khiến ta quên ăn mất ngủ. Nó chiếm hết thời gian của mọi thành viên trong gia đình. Trong nhà không còn cười vui nói chuyện hay tâm sự với nhau. Mỗi người mỗi cái iphone và sống trong ốc đảo của mình. Mỗi người có bạn bè riêng, cuộc sống riêng và nép mình vào đấy để tìm hạnh phúc riêng tư. Để thấy người tàng hình trong đó tốt hơn cha mẹ. Ngọt ngào hơn người chồng, người vợ trong nhà. Người trong đó hiểu ý mình hơn bất cứ ai và yêu mình hơn cả mạng sống của người ấy…Thế là lao vào cuộc tình xa để bỏ cả học hành và sập bẫy. Cuộc sống ở thời đại internet muôn màu muôn sắc khiến con người sống ảo vui hơn sống thực, say mê theo nó quên hẳn với những người yêu thương trước mặt.

Hãy coi Iphone là phương tiện chứ không phải là người thân. Laptop, Iphone hư, mất ta có thể mua một cái mới, người thân mất ta không thể tìm lại được. Khi không cần thiết hãy tắt Iphone, ngừng bấm và quẹt. Dành một chút thời gian nghe cha mẹ tâm sự và cùng cha mẹ đi dạo một vòng để người già thấy mình được quan tâm chăm sóc.

…..

Tôi đã chấm dứt bài viết này ở đây. Thế nhưng có một điều tôi muốn chia sẻ. Một sự chia sẻ rất ngại ngùng và khó khăn mà tiếng miền Trung gọi là “ốt dột” tiếng miền Nam mình gọi là “mắc cỡ hay quê xệ”

Tháng 5 tôi đi cruise với nhóm học trò cũ mà tôi coi như em gái. Có em đã hơn 40 năm tôi chưa gặp lại. Mấy cô trò đi chơi vui lắm. Để có thể chung phòng nói chuyện cho đã, chúng tôi chọn 4 người một phòng dù không có balcony cũng không sao.

Trước khi đi chơi tôi dặn hết con, cháu, bạn bè đừng gọi phone hay nhắn tin vì tôi sẽ không mua internet trên tàu. Tôi muốn dùng thời gian để nghỉ ngơi, chơi với các em cho thỏa thích.

Thường mỗi khi đi cruise, khi tàu ghé đất liền internet trong iphone sẽ hoạt động trở lại và khi ấy là dịp liên lạc báo tin cho gia đình. Tàu rời bến là phải bấm đóng Airplane Mode để bên ngoài có gọi cũng không được.

Thế nhưng, các bạn biết thế nào không? Sau 7 ngày rong chơi trên biển, tàu ghé vào cảng Long Beach tôi mở Iphone ra để gọi về nhà thì phát hiện tin nhắn trong Messages của AT&T báo là tiền tôi xài phone đang vượt qua 200$.00. Tôi hết hồn và sực nhớ khi tàu rời bến hôm qua tôi quên không đóng Airplane Mode và cách đây vài hôm khi đang ngủ tôi thấy điện thoại mình có internet. Cứ tưởng tàu cặp bến đất liền, tôi nằm mở Facebook ra xem và post hình mấy cô trò trên tàu. Coi đồng hồ thì chưa tới giờ tàu cập bến. Tôi vội vàng tắt phone và kể cho các em biết và ngạc nhiên không hiểu vì sao? Lúc ấy tàu cũng cập bến rồi, phone các em ấy cũng đã hoạt động.

Điện thoại này do con trai mua tặng mẹ và cháu trả bill hàng tháng nên tôi lâu nay cứ thế mà xài. Về nhà thấy tin nhắn con trai:

–  Mẹ ơi! cẩn thận, AT&T nói mẹ xài điện thoại vượt quá 200$00″. Tôi đành nhắn lại:

–  Mẹ cũng mới biết và mẹ đã về nhà rồi.  Tôi kể cho con biết tôi sử dụng điện thoại như thế nào.

Thật lòng tôi cũng không biết tôi đã vô tình bấm hay quẹt sai lúc nào để điện thoại nhảy qua đường dây quốc tế. Tôi không gọi phone hay xài Youtube hoặc Facebook khi tàu chạy giữa biển. Con tôi và bạn bè cũng không gọi vì tôi đã dặn trước rồi. Vậy thì do đâu đường dây điện thoại viễn liên charge số tiền này.

Con tôi gọi phone hỏi thăm sức khỏe mẹ và an ủi tôi:

– Không sao! Mẹ đừng lo, con sẽ trả. Mẹ đi chơi vui là được rồi

Thế nhưng vài ngày sau, khi nói chuyện cháu cười cười hỏi tôi:

– Mẹ biết đường dây điện thoại charges bao nhiêu nhiêu không? ” Tôi trả lời  đầy tự tin:

-Khoảng 220$. Nó cười mà tôi thấy thật là tội nghiệp:

– Hơn 500$ đó mẹ

Thật lòng tôi không tin được. Tôi nói con gọi hỏi kỹ và khiếu nại. Cháu nói con gọi mấy lần mà không được gì hết. Mỗi lần con gọi nó tính tiền viễn liên mắc lắm mẹ ơI. Thôi con trả cho rồi.

Trời ơi! Đi chơi 7 ngày mua vé chỉ có hơn 300$ mà tiền điện thoại không gọi, không xài phải trả hơn 500$ quả là chuyện tệ hại nhất của tôi từ trước tới giờ.

Con gái tôi khi biết chuyện, tới phiên nó khiếu nại và nó trả lời với tôi như vầy:

– Má không gọi phone, không viết mail và gửi đi. Má không mở Youtube hay Facetime, nhưng đường line internet của Iphone vẫn hoạt động. AT&T charge mình giá cao vì giữa biển là không phận quốc tế có rất nhiều hãng điện thoại sử dụng dịch vụ. AT&T phải trả chi phí nối kết đường dây viễn liên đó. Không biết có đúng như vậy hay không, nhưng đành phải ký check  cho trả tiền cho xong.

Bây giờ tôi đã sáng mắt ra và biết cái lỗi của mình. Tôi viết thêm phần này để các bạn thấy cái sai của tôi mà tránh. Nếu đi cruise, đi Âu Châu hay bất cứ nước nào ngoài Mỹ, các bạn có thể mua đường line phone của hãng mình trước. Hình như AT&T giá 10$ một ngày và quy định xài như thế nào đó (Con tôi sẽ mua cho tôi trong chuyến đi Âu Châu sắp tới)

Khi các bạn đi cruise nhớ đóng lại Airplane Mode bằng cách gạt nó qua màu xanh như vậy sẽ không ai gọi vào được. Nhất là cẩn thận đừng bấm hay quẹt bất cứ cái gì mình không biết hay không hiểu trên Iphone.

Một lần lẩm cẩm tôi đã mất đi hơn 500$ mà không dám gọi một cú phone cho con. Nếu xài thả ga thì tôi cũng không tiếc làm gì. Nhưng thôi! Một bài học để nhớ đời Đừng bấm sai, quẹt bậy trên Iphone có ngày trả tiền sặc máu.

Nguyễn Thị Thêm

From: TU-PHUNG

Quên đi ngày tháng cũ – truyện ngắn- hoàng nguyên linh

 

Lê Hoàng Nam 

Tôi sinh ra là một người con gái con nhà nghèo. Bố tôi mất sớm lúc tôi chưa được 8 tuổi, mẹ tôi phải đi ở đợ cho một gia đình giàu có. Công việc hàng ngày của mẹ tôi là dọn dẹp nhà cửa, đi chợ và nấu ăn cho nhà bà Đạm, một thương gia, chồng chết, có 2 người con, một trai và một gái. Con gái bà tên Minh Thư bằng tuổi tôi, có lẽ vì lý do này mà bà Đạm đã mướn mẹ tôi để có người chơi với con gái bà. Con trai bà tên Thuấn hơn tôi 7 tuổi.

Tôi được đi học cùng với Minh Thư, chúng tôi chơi thân với nhau khiến bà Đạm rất vui mừng và đối xử tử tế với mẹ con tôi. Tôi được biết trước đây bà Đạm có mướn một người làm nhưng Minh Thư không thích chơi với người con gái nên đã bị cho nghỉ việc.

Thuấn thương em gái nên tôi được thương lây. Thuấn thường hay đưa chúng tôi đi chơi, đi coi hát và chỉ dẫn cho chúng tôi làm bài ở trường. Thuấn che chở cho tôi và bênh vực tôi mỗi khi bị những đứa trẻ khác bắt nạt. Có lần chơi ở sân tôi bị té ngã, Thuấn ôm tôi vào lòng và an ủi tôi: “Em bé ngoan đừng khóc nữa anh thương”. Tôi cảm động muốn trào nước mắt. Thuấn vuốt nhẹ mái tóc tôi và lau nước mắt cho tôi . Chàng bảo “Ngân Khánh phải cười trông mới đẹp”. Được Thuấn khen đẹp tôi thích và cười với chàng. Thuấn ôm chặt tôi một lần nữa rồi mới buông ra. Tuy mới 12 tuổi nhưng tôi mơ hồ hình như có một cảm giác là lạ, hay hay. Tôi mong té ngã một lần nữa để được Thuấn ôm tôi và lau nước mắt cho tôi… Tôi buồn nhất là ngày Thuấn phải ở nội trú trong trường Đại học. Tôi bắt đầu nhớ Thuấn. Mỗi cuối tuần tôi đứng ở cửa đợi Thuấn về và cứ như thế năm này qua năm khác rồi chúng tôi đã yêu nhau lúc nào tôi cũng không biết. Khi tôi học xong bậc Trung học thì Thuấn tốt nghiệp bác sĩ y khoa. Tôi yêu Thuấn, một tình yêu chân thật, trọn vẹn chứ không bao giờ dám có ý định làm vợ Thuấn vì hai gia đình quá cách biệt, mặc dù Thuấn có nói với tôi là Thuấn sẽ cưới tôi làm vợ. Tôi tin tưởng ở Thuấn nhưng làm sao bà Đạm có thể chấp nhận mẹ tôi thông gia với bà. Tuy biết như thế nhưng chúng tôi vẫn yêu nhau say đắm và không thể rời xa nhau được.

Bà Đạm là một người đàn bà tốt nhưng rất cương quyết và thẳng thắn. Hình như bà đã biết được chuyện hai chúng tôi yêu nhau và chuyện Thuấn muốn cưới tôi làm vợ. Một hôm đợi Thuấn và Minh Thư đi vắng bà Đạm gọi hai mẹ con tôi lại và nói rất ôn tồn: “ Con gái chị Tư đã lớn nên ở đây bất tiện. Mặc dù tôi và hai con tôi rất quý hai mẹ con chị nhưng tôi vẫn phải cho chị nghỉ việc. Trai gái không nên để chúng nó gần nhau. Trong vòng một tuần chị tìm nơi khác để dọn ra. Tôi cho chị 6 tháng đủ tiền ăn ở, sau đó mẹ con chị có thể tự túc được. Tôi chỉ yêu cầu chị và cháu hứa với tôi một điều là không cho hai con tôi biết gì hết và không bao giờ được liên lạc với chúng nữa. Chị cứ sẵn sàng rồi đợi hôm nào hai con tôi không ở nhà thì dọn ra…”. Tôi quá bất ngờ và sửng sốt. Tim tôi ngừng đập, mặt tôi tái đi. Bà Đạm nhìn hai mẹ con tôi như ra lệnh. Tôi thấy bà thật nghiêm nghị. Gần 10 năm sống trong nhà bà, lần đầu tiên tôi thấy nơi bà đáng sợ như vậy. Mẹ tôi cũng sợ bà và nói trong nghẹn ngào: “Tôi xin hứa và sẽ làm theo lời bà”. Bà Đạm gật đầu như để chấp nhận lời hứa của mẹ tôi. Bà nhìn sang phía tôi. Lúc này nước mắt tôi đã trào ra. Tôi nghĩ đến ngày phải xa Thuấn, xa Minh Thư, xa mái nhà thân yêu với bao kỷ niệm thời niên thiếu mà tôi đã quên đi tưởng như nhà mình. Không thấy tôi nói gì, mẹ tôi nắm chặt tay tôi và lắc nhẹ. Bà Đạm nhướng mắt lên ra lệnh. Tôi nói trong nghẹn ngào: “Cháu xin hứa sẽ làm theo lới bà ”.

Bốn hôm sau Thuấn và Minh Thư đi vắng, mẹ con tôi dọn ra khỏi nhà bà Đạm. Trước khi lên xe tôi nhìn ngôi nhà một lần cuối lòng không khỏi bùi ngùi. Nơi đây như một mái ấm gia đình trong thời niên thiếu, có bao nhiêu kỷ niệm, có mối tình đầu. Tôi bước đi nhưng đôi chân như hụt hẫng. Tôi thương tôi nhưng nhìn mẹ sụt sùi lau nước mắt tôi càng thương mẹ hơn. Thuấn ơi! Từ nay em sẽ phải xa anh, vĩnh viễn xa anh. Vì danh dự, vì giữ lời hứa với bà Đạm em không thể nào gặp lại anh được. Mối tình em với anh tưởng là thần tiên, bây giờ đây mỗi người một ngả. Anh biết gia đình em quá nghèo sao anh lại còn yêu em, sao anh lại muốn cưới em làm vợ để em phải xa anh… Đứng ở cửa tần ngần một lúc rồi mẹ con tôi lên xe để đến ở chung nhà với bà bán rau muống ngoài chợ mà mẹ tôi đã quen vì hay mua rau của bà. Cuộc sống của mẹ con tôi hoàn toàn thay đổi. Bao nhiêu mộng đẹp của thời con gái đã tan theo mây khói. Tôi đang dự định thi vào một trường chuyên nghiệp nào đó để giúp đỡ mẹ tôi, nhưng không may chuyện xảy ra quá bất ngờ, tôi không kịp xoay xở gì nữa. Tôi phải xin đi làm thư ký cho một hãng bào chế thuốc Tây. Nhìn những chuyên viên mặc áo trắng đi qua lại, tôi liên tưởng tới Thuấn trong bộ đồ bác sĩ y khoa, lòng tôi không khỏi xót xa. Tôi không bao giờ được gặp chàng nữa.

Mẹ tôi từ ngày dọn ra ngoài ở thì sức khỏe đã suy yếu nên không còn làm được gì nữa ngoài việc nấu ăn. Mẹ tôi nấu ăn ngon lắm. Nếu mẹ tôi còn trẻ bà đã mở một quán ăn. Gần 10 năm nấu ăn, cả nhà bà Đạm mọi người đều thích. Thuấn, con trai bà Đạm đã nói với mẹ : “Con đã đi ăn tiệc ở nhiều nơi nhưng không ăn ở đâu ngon bằng ăn ở nhà do bà Tư nấu” . Nào là món gỏi gà bắp cải thêm chút rau răm, đậu phộng rang rắc lên trên. Rau muống xào tỏi hoặc xào với thịt bò, rồi món rau muống trộn với mắm tôm vắt chanh, thêm ít ngò gai, kinh giới và đậu phộng rang, có khi mẹ tôi cho thêm tép hay thịt thái nhỏ. Món nộm hoa chuối mẹ tôi gọi là nham hoa chuối cũng rất ngon. Cuối tuần mẹ tôi hay nấu bún riêu, bún ốc hoặc canh chua… món nào cũng đặc biệt. Nay mẹ con tôi đi rồi Thuấn không được ăn những món mà chàng thích nữa. Càng nghĩ tôi lại càng thương chàng. Anh ơi mẹ em đi rồi ai nấu cho anh ăn những món mà anh thích. Em đã học ở mẹ một vài món, dự định sẽ nấu cho anh ăn nhưng em chưa kịp làm thì đã phải xa anh. Xa anh em không được nói câu từ giã. Anh có trách em vô tình em cũng xin đành mang.

“Ngày đi lặng lẽ không từ giã

Cất bước âm thầm thương nhớ thôi”

Hai câu thơ của NT đã áp dụng với tôi bây giờ thấy đúng làm sao.

Nếu một ngày kia tình cờ gặp lại anh hay Minh Thư em sẽ phải trả lời ra sao. Em có được nói sự thật là vì chúng mình yêu nhau nên mẹ anh đuổi mẹ con em không? Đầu óc tôi rối loạn, tôi không tìm được câu trả lời. Chắc tôi không nói thế được. Tôi không oán trách gì bà Đạm, nếu là tôi liệu tôi có làm khác bà được không ? Bà Đạm là người đàn bà có thế lực, làm sao bà có thể thông gia với mẹ tôi, một tôi tớ trong nhà mà bạn bè, khách khứa ai cũng biết. Tuy buồn nhưng tôi cũng thông cảm với bà. Mẹ tôi cũng biết thân phận mình nên không hề oán trách bà Đạm. Đôi lúc tôi tự trách tôi, làm sao tôi dám với quá cao để giờ bị té đau, nhưng rồi tôi lại bênh vược cho chính tôi. Người con trai như Thuấn làm sao tôi không yêu được. Thuấn có đầy đủ mọi điều kiện, người con gái mới lớn như tôi sao không ngã lòng. Con tim có những lý do riêng của nó, người ta vẫn nói thế.

Nhưng nếu chỉ yêu nhau rồi xa nhau thì cũng là sự thường tình của thế nhân, hợp để rồi tan, Trên đời này có biết bao nhiêu mối tình chia ly bằng nước mắt. Nhưng tôi đã yếu đuối, không làm chủ được thân xác tôi và đã dâng hiến trọn vẹn đời con gái của tôi cho Thuấn. Hai tháng nay tôi không thấy có kinh nguyệt, cơ thể tôi bắt đầu thay đổi, ngực tôi căng phồng thêm, tôi bắt đầu lo sợ. Tôi đi thử nghiệm và được biết tôi đã mang thai. Tôi đắn đo nhưng rồi cũng phải thú nhận với mẹ. Mẹ tôi không la mắng như tôi nghĩ, bà chỉ khuyên tôi cố gắng giữ gìn sức khoẻ cho cái thai được tốt. Mẹ tôi cũng nghĩ như tôi là vì danh dự và giữ lời hứa nên không cho Thuấn biết tôi đã có thai với chàng. Tôi thấy mẹ tôi buồn, tôi hỏi là mẹ có trách vì tôi mà bà Đạm đuổi mẹ con tôi không thì mẹ tôi trả lời là bà không trách nhưng thương tôi, tội nghiệp cho tôi. Bà biết trai gái mà để sống chung với nhau trong nhà thì chuyện gì rồi cũng sẽ phải xảy ra, nhưng bà chưa kịp khuyên bảo tôi.

Tôi mang thai được gần 9 tháng thì mẹ tôi qua đời. Buổi tối mẹ tôi nói bà bị nhức đầu, tôi lấy thuốc cho mẹ uống và nửa đêm thì mẹ tôi ra đi. Bà ra đi bình yên, lặng lẽ, buồn thảm như cuộc đời mẹ, Tôi không ngờ mẹ tôi chết dễ dàng quá. Tôi đau buồn và đã ngất xỉu đi, không còn biết gì nữa…

Sau năm ngày ở trong bệnh viện, tôi tỉnh lại và đã nhận thức được. Sờ tay lên bụng thấy bụng đã xẹp xuống biết là tôi đã sinh nhưng không biết đứa bé giờ ra sao. Đợi người y tá đến gần tôi hỏi thăm về con tôi. Người y tá trả lời: “Bác sĩ thấy không có hy vọng cứu sống cô nên đã mổ để lấy cháu bé ra. Cháu rất khỏe mạnh. Không biết cô có đủ sức để nuôi nấng con không. Cháu là con gái, mặt mày sáng sủa lắm. Rất mừng cô bình phục trở lại, đó cũng là nhờ 3 vị bác sĩ đã tận tình chữa trị, các vị ấy tử tế với cô lắm, coi cô như người nhà …”. Một giờ sau người y tá mang con đến đưa tôi bế và nói : “Cho cháu ở đây với cô một lúc rồi tôi đưa cháu trở lại phòng để cô nghỉ vì vết mổ chưa lành”. Nhìn thấy con, tôi hết sức vui mừng, sao tôi thấy nó thân thương gần gũi quá. Có nhà văn đã nói: “Đứa con là tác phẩm vĩ đại nhất trong số những tác phẩm mà tôi có”. Nhưng vừa vui tôi chợt buồn ngay. Tôi chỉ có một thân một mình làm sao có thể nuôi được con. Tôi lại phải đi ở đợ như mẹ tôi ngày xưa. Nhưng mẹ tôi còn có người mướn chứ tôi đứa con còn đỏ hoẻn ai chịu cho làm. Hay tôi nhờ người báo cho Thuấn biết. Tôi vội xua đuổi ý nghĩ này, vì tự trọng, vì danh dự của hai mẹ con, tôi không thể liên lạc với gia đình bà Đạm được nữa. Người y tá đến mang con tôi trở lại phòng dưỡng nhi, nước mắt tôi trào ra…

Tôi khai ở bệnh viện là chồng tôi đi lính chết bây giờ chỉ có mình tôi, không có thân nhân, không bạn bè, mẹ tôi mới chết hôm tôi vào đây. Hoàn cảnh của tôi đa số các nhân viên đều biết, họ nói chuyện với nhau tôi nghe được: “Cô ta còn trẻ và xinh đẹp quá, tội nghiệp chồng bị chết sớm”. Mấy hôm sau ông chủ sự phòng hành chánh của bệnh viện đến bên tôi và nói: “Tôi xin lỗi đã đi vào đời tư của cô và có thể làm cô buồn, nhưng trong hồ sơ tôi thấy hoàn cảnh cô thật khó khăn. Chúng tôi rất ái ngại không biết khi xuất viện cô ở đâu và làm sao nuôi được con, lúc đó cô cũng phải đem cho hoặc bỏ vào viện mồ côi và người nhận nuôi con cô không biết họ thế nào, có được tốt không, rồi lại tội nghiệp đứa bé…

Tôi có quen hai ông bà này rất giàu và tử tế, họ lấy nhau trên 16 năm mà không có con, đang có ý định tìm nuôi một đứa con nuôi, nếu cô đồng ý cho họ nuôi tôi sẽ nói với người ta. Cô suy nghĩ rồi cho tôi biết”. Tôi quá đau buồn, mới gặp con vài lần giờ sắp phải xa nhau. Ông chủ sự nói đúng, tôi không đủ phương tiện để nuôi con. Biết bao người hoàn cảnh như tôi đã phải bỏ con ngoài đường, bỏ vào cổng chùa, viện mồ côi… Nếu con tôi có được người tử tế nuôi cũng là điều may cho nó. Đi ở với người ta cuộc đời nó có thể khá hơn là ở với tôi. Tôi đã làm khổ con tôi rồi, nó không có tội gì để phải khổ thêm nữa. Tôi không thể ích kỷ giữ mãi con bên tôi. Nghèo là khổ lắm. Tôi với Thuấn yêu nhau chỉ vì tôi nghèo mà phải xa nhau. Thuấn ơi! Chỉ vì nghèo mà em phải xa anh, chỉ vì em nghèo mà chúng ta phải xa con chúng ta.

Tôi trả lời ông chủ sự là tôi muốn được gặp bố mẹ nuôi của con tôi. Hôm sau hai người này tới. Đúng như ông chủ sự nói, nhìn hai ông bà rất phúc hậu khiến tôi yên tâm. Người chồng hỏi tôi có yêu cầu điều gì không, tôi nói tôi chỉ mong có con và đặt tên là Thuận Khanh (tức là gần tên Thuấn và tên tôi), nhưng nay tôi không còn cái quyền này nữa. Người chồng ôm vai vợ cười lớn: Em tên Thuận, cô ấy tên Khánh. Một bên mẹ nuôi, một bên mẹ đẻ, đúng là trời đã xếp đặt, sau này cháu bé sẽ gặp nhiều may mắn lắm. Chúng tôi bằng lòng với lời ước nguyện của cô. Cô còn yêu cầu điều gì nữa không? Tôi lắc đầu không nói ra lời…

Buổi chiều ông chủ sự gặp tôi để cho biết lúc tôi xuất viện thì họ mang con tôi đi. Ông còn nói thêm là ông bà này rất mừng khi thấy tôi không đề cập đến tiền bạc, chỉ lo đặt tên cho con chứng tỏ tôi trọng tinh thần chứ không phải vật chất, như vậy gốc đứa bé rất tốt. Cô lại rất xinh đẹp, họ hy vọng con họ sau này cũng sẽ đẹp như cô.

Ngày cuối cùng tôi được bế con tôi một giờ. Tôi ôm chặt con tôi trong lòng như giữ gìn một báu vật, tôi không muốn rời xa nó nữa, nhưng vì chữ tín tôi không thể nào đổi ý được. Nước mắt tôi trào ra, ai nhìn thấy cảnh chia ly này cũng phải ngậm ngùi. Dù đã quá giờ người y tá không nỡ lấy đứa bé ra khỏi tay tôi. Tôi ghì chặt con tôi vào lòng và đặt chiếc hôn lên má con rồi đưa cho người y tá. Đích thân ông chủ sự trao tôi một túi vải lớn, nói tôi nên giữ cẩn thận vì đây là số tiền khá nhiều do bố mẹ nuôi đứa bé đưa, đủ cho tôi ăn ở 4, 5 tháng như là để cảm ơn tôi chứ không có ý mua bán gì đâu. Tôi nói lời cảm ơn ông chủ sự cùng bác sĩ và các nhân viên trong nhà thương rồi ra về.

Tôi thuê xe đến thẳng nhà bà bán rau muống. Khi đến nơi tôi không gặp bà và thấy có người lạ ở trong. Tôi hỏi thì được biết vì có người chết nên bà bán rau sợ hãi và đã bỏ đi. Người thuê nhà mới con cái đông và giá thuê rẻ nên đã dọn vào. Tôi ra ngoài đường và phân vân không biết đi đâu, chợt một chiếc xe Honda dừng trước mặt, tôi nhận ra chị bạn làm chung hãng với tôi khi trước. Sau khi hỏi han chị biết chuyện nên đã thương tình rủ tôi về nhà ở chung với chị. Trong khi đó những người trong hãng họ không biết lại tưởng tôi đã theo chồng đi ngoại quốc.

“Hãy cố yêu người mà sống, lâu rồi đời mình cũng qua…”

Lời ca của bản nhạc trong “Bài không tên số 5” đã thức tỉnh tôi phải can đảm và cố gắng chịu đựng.

Mấy tháng sau nhờ có người chỉ dẫn tôi tìm được mộ mẹ và thắp nén hương lên mộ bà. Thời gian này tình hình Sài Gòn ngày càng giao động và biến cố tháng Tư năm 1975 xảy ra. Tôi theo đoàn người ra bến Bạch Đằng, sao may tôi lên được tàu và sang tới Hoa Kỳ, định cư tại tiểu bang California. Tôi cố gắng lập lại cuộc đời, vừa đi làm vừa đi học. Sau một năm bổ túc Anh văn tôi ghi danh vào Đại học, 4 năm tôi ra trường về ngành kỹ sư điện tử, rồi tôi lập gia đình với một nha sĩ giàu có. Tôi đi khám răng và gặp chồng tôi. Chồng tôi hơn tôi 11 tuổi, góa vợ và có một con trai. Chúng tôi lấy nhau được gần 14 năm. Chồng tôi mới qua đời cách nay 3 năm. Tôi tiếp tục vừa làm chủ trung tâm nha khoa cũ của chồng tôi vừa đi làm cho công ty điện tử. Đời sống tuy có bận rộn nhưng vật chất rất đầy đủ vì có hai nguồn lợi tức. Tôi nghĩ đến thời gian nghèo khổ khi xưa, nhớ đến mẹ và đứa con gái riêng lòng không khỏi xót xa. Tôi đã tìm kiếm khắp nơi nhưng không biết được con tôi bây giờ ra sao, còn ở lại Việt Nam hay đã qua Mỹ? Tôi có nhờ hội Hồng Thập Tự tìm kiếm nhưng không ra. Tôi ngày đêm cầu nguyện để được gặp con gái tôi…

Tôi đi khám định kỳ hàng năm và được giới thiệu đến bác sĩ Nguyễn Trọng Toản chuyên về tim mạch. Nghe tên bác sĩ tôi chợt nhớ ra vị bác sĩ đã cứu sống tôi ở bệnh viện Việt Nam khi xưa. Sau khi khám bệnh và cho thuốc, tôi nói với bác sĩ Toản chính tôi là người được bác sĩ chữa trị gần 25 năm về trước.. Nhận ra tôi vị bác sĩ này mừng lắm. Cũng may tôi là người khách cuối cùng nên ông đã có nhiều thì giờ nói chuyện với tôi. Bác sĩ Toản cho tôi biết cách đây 2 năm trong cuộc họp mặt của hội y sĩ toàn quốc tại Texas ông có gặp Thuấn, người tình cũ của tôi. Nghe tên Thuấn tôi lặng người đi nhưng cố giữ bình tĩnh để nghe kể: “Thuấn với tôi học cùng lớp với nhau nhưng không thân. Tôi có gặp chị đi chơi với Thuấn vài lần nên nhớ. Tôi chữa trị cho chị và nghĩ Thuấn bỏ rơi chị, nên tôi tránh không muốn nói gì với ai, ngay cả lúc chị sinh đẻ trong bệnh viện cũng vậy.

Kỳ vừa qua gặp nhau ở Texas tự nhiên Thuấn tâm sự với tôi là Thuấn yêu chị lắm nhưng bị bà mẹ ngăn cản và không có cách nào gặp được chị. Sau khi chị đi rồi Thuấn giận mẹ nên không chịu lấy vợ, mãi sau thấy bà cụ quá buồn nên Thuấn mới lập gia đình. Đến nay Thuấn vẫn không có con và vợ chồng đã ly dị vì không hợp nhau. Nghe tôi nói chị đã có thai với Thuấn và chính tôi chữa trị cho chị, Thuấn xúc động lắm. Thuấn thương chị và thương đứa con của anh chị phải đi làm con nuôi người ta, không biết giờ này ra sao. Mẹ Thuấn biết tin cũng buồn lắm, bà đã hối hận cho hành động của bà để đứa cháu duy nhất bị bỏ rơi, nay bà đã trên 80 tuổi vẫn chưa có cháu bế…”. Nghe lại chuyện xưa lòng tôi nặng trĩu và không cầm được nước mắt. Bác sĩ Toản hỏi tôi có đồng ý cho Thuấn biết đã gặp tôi không, tôi dặn bác sĩ thôi đừng nói gì cả, chuyện xưa nên cho vào dĩ vãng, điều cần thiết là tìm được đứa con chúng tôi. Tôi chào bác sĩ Toản rồi ra về, lòng buồn mênh mang:

Biết được tin anh cũng đủ rồi

Tâm sự có nhiều vẫn thế thôi

Ra đi không nói câu từ giã

Em biết chuyện mình mãi cách đôi

*

Cứ mỗi năm nhìn lá úa vàng

Chạnh lòng nhớ lại lúc Thu sang

Anh ơi! Thu đến mang sầu tới

Khơi dậy mối tình đã cách ngăn

*

Một lần yêu đã quá khổ rồi

Nhắc làm chi chuyện cũ anh ơi

Thân tuy gầy yếu tim băng giá

Giữ mãi trong em bóng một người

*

Biết được tin anh đã đủ rồi

Em bây giờ cũng vẫn đơn côi

Bao nhiêu kỷ niệm, bao đau đớn

Và khóc âm thầm, khóc mãi thôi…

Nhưng thôi tôi không muốn tiếp tục làm thơ buồn nữa. Tôi trở về với đời sống hiện tại của tôi. Tôi không có con nên yêu con trai của chồng tôi như con đẻ. Tân (tên con trai của chồng tôi) rất quý tôi. Tuy đã ra hành nghề bác sĩ nhưng tất cả những chuyện riêng tư Tân đều mang ra hỏi ý kiến mẹ. Một hôm Tân khoe với tôi Tân quen một cô gái tên Thuận Khanh kém Tân 4 tuổi. Hiện nay Thuận Khanh là dược sĩ, trông nom tiệm thuốc Tây của gia đình. Tân và Thuận Khanh quen nhau qua dịch vụ thương mại. Nghe con trai nói đến Thuận Khanh tôi rất hồi hộp, liệu có sự trùng tên, trùng tuổi được không? Thuận Khanh có phải là con gái tôi không? Tôi hỏi con trai xem gia đình Thuận Khanh ra sao, thì được biết bố Thuận Khanh đã mất chỉ còn mẹ già trên 70 tuổi. Nhà giàu lắm, tất cả tài sản sau này sẽ là của Thuận Khanh hết. Tôi hơi lạ, nếu là mẹ nuôi thì đúng chứ mẹ đẻ có thể trùng tên. Tôi nói con trai tôi đưa Thuận Khanh về nhà tôi chơi. Gặp Thuận Khanh tôi linh cảm ngay người con gái này là con tôi. Nét mặt vừa giống tôi vừa giống Thuấn. Không cầm được lòng tôi ôm chầm lấy Thuận Khanh và thốt lên: “Con ơi! Mẹ đây”, nhưng rồi tôi chợt nhớ ra, chưa phải là lúc mẹ con thổ lộ tâm tình nên đã buông Thuận Khanh ra và nói lời xin lỗi: “Bác xin lỗi con, tại bác thấy con dễ thương quá nên bác mến”. Thuận Khanh nói: “ Không sao đâu bác. Được bác yêu quý và cho đến nhà thăm bác con rất vui mừng. Trước khi đến con sợ lắm, nay thấy bác vui vẻ như mẹ con ở nhà, con thật có phước. Mới gặp bác lần đầu nhưng con có cảm tưởng như đã gặp bác từ lâu rồi”. Lòng tôi dịu xuống, tôi thầm cảm ơn ông bà mẹ nuôi đã dạy giỗ con gái tôi nên người, dạy cách ăn nói khôn khéo và lễ phép. Tân thấy mẹ yêu thích bạn thì mừng lắm, chàng mỉm cười nhìn Thuận Khanh. Tôi giữ Thuận Khanh ở lại ăn cơm. Lần đầu tiên tôi được nấu cơm cho con gái tôi ăn. Tôi hỏi thăm sơ qua về những ngày đã qua của Thuận Khanh, tôi tránh những chi tiết sợ con gái nghĩ tôi tò mò. Cám ơn Trời Phật đã giúp cho mẹ con tôi được gặp lại nhau…

Khi Thuận Khanh ra về tôi hỏi con trai tôi chương trình dự trù như thế nào, Tân cho tôi biết tháng sau chúng định làm đám hỏi và 4 tháng nữa sẽ làm đám cưới. Thuận Khanh muốn lo sớm vì mẹ đã già, muốn cho mẹ được vui.

Ngày đám hỏi qua đi một cách thuận lợi. Người mẹ nuôi của con gái tôi không nhận ra tôi. Có lẽ bà không ngờ một cô gái nghèo khổ ngày xưa nay là thông gia với bà. Tôi nhận ra bà Thuận nhưng vẫn giữ im lặng không cho ai biết chuyện tôi là mẹ đẻ của Thuận Khanh để cho các con tôi không phải bận tâm và tránh gây nên sự buồn phiền cho bà mẹ nuôi, một ân nhân của tôi. Tôi rất vui mừng sửa soạn đám cưới cho con. Tôi hồi hộp lo đến ngày đám cưới vừa cho con gái vừa cho con chồng.

Bốn tháng qua đi thật mau. Đám cưới của các con tôi tổ chức rất trọng thể. Gần 700 quan khách tham dự. Con gái tôi lộng lẫy trong bộ áo cưới. Có nhiều người đã nhận xét là mẹ chồng với con dâu trông rất giống nhau như hai mẹ con, chắc là sẽ hợp với nhau lắm. Tôi vui mừng nghĩ ngợi từ nay con gái tôi sẽ được ở chung nhà với tôi, và tôi sẽ dành hết thì giờ săn sóc con gái tôi. Văng vẳng bên tai như lúc nào cũng nghe thấy lời chúc mừng hạnh phúc….

Đám cưới xong hai con đi hưởng tuần trăng mật, tôi ở nhà một mình. Vì quá lo lắng và bận rộn cho ngày đám cưới nên tôi thấy trong người hơi mệt. Tôi sợ có vấn đề về tim như trước nên đi khám bác sĩ gia đình nhưng khi đến nơi mới biết bác sĩ đã đi nghỉ hè và ông nhờ người khác tạm thay thế vài ngày. Vì đến trễ và không có hẹn trước nên tôi là người được khám sau cùng. Cô y tá cân đo và thử nhiệt độ. Nhịp tim và nhiệt độ của tôi bình thường. Tôi ngồi trong phòng đợi một lúc thì Thuấn mở cửa bước vào. Bất ngờ gặp Thuấn tôi kêu lên: “Anh!”. Thuấn cũng ngạc nhiên, ôm chầm lấy tôi: “Em! Không ngờ gặp em ở đây, anh mừng quá !”. Thuấn kể lể những sự nhớ nhung và xin tôi tha lỗi. Thuấn nói: “Anh không ngờ mình đã có con với nhau. Từ ngày nghe bác sĩ Toản nói chuyện về em anh buồn và ân hận quá. Khi đẻ chỉ có một mình em làm sao xoay xở…”. Tôi bảo Thuấn : “Hãy quên đi ngày tháng cũ”. Bây giờ mỗi người có một cuộc sống riêng, còn gặp nhau và quý nhau là đủ rồi. Tôi không oán hận ai cả, chỉ mong mọi chuyện cho qua đi. Thuấn hỏi tôi về con gái chúng tôi, tôi nói Thuận Khanh bây giờ rất hạnh phúc nhưng chuyện hơi dài, sẽ nói cho Thuấn sau. Thuấn rất mừng khi thấy tên con gái là tên Thuấn và tên Khánh hợp lại. Biết tôi bây giờ vẫn còn độc thân nên Thuấn đề nghị cùng chàng tái hợp. Mặc dù vẫn còn yêu Thuấn nhưng tôi rất ngại, một lần chia tay đã quá khổ rồi, bây giờ tôi đang sống yên ổn và hạnh phúc với con gái mới tìm được, tôi không muốn có sự xáo trộn trong đời sống nên đã từ chối. Không được tôi chấp thuận Thuấn có vẻ thất vọng. Một lúc sau Thuấn hỏi thăm về mẹ tôi, khi biết mẹ tôi đã qua đời chàng cúi đầu xuống che dấu sự xúc động rồi cho biết bà Đạm bây giờ bệnh tình rất nặng, sức khoẻ được tính từng ngày. Bà đang nằm trong bệnh viện, nếu được tôi bỏ qua chuyện cũ thì bà mừng lắm. Thuấn gợi ý muốn tôi đến bệnh viện thăm bà Đạm, tôi nhận lời.

Hôm sau tôi đến bệnh viện thấy Thuấn và vợ chồng Minh Thư đã ở đó. Minh Thư gặp tôi rất mừng. Minh Thư hỏi thăm tôi và cho địa chỉ mời đến nhà chơi. Hàn huyên một lúc, Thuấn và vợ chồng Minh Thư ra ngoài cho tôi nói chuyện với bà Đạm. Tôi cầm bàn tay gầy yếu của bà và hỏi:

– Bà còn nhớ cháu không, cháu là Ngân Khánh đây ?

Bà Đạm thều thào:

– Ngân Khánh! Làm sao tôi quên được cháu. Mong cháu tha lỗi cho tôi. Vì tôi quá nghiêm khắc mà mẹ con cháu phải khổ. Tôi cũng nghe tin bà Tư đã qua đời. Tội nghiệp bà Tư. Thôi tôi sẽ gặp bà ở bên kia thế giới để xin lỗi bà vậy.

Bà Đạm tiếp:

– Ông trời đã phạt tôi. Có đứa cháu duy nhất thì hất hủi nó, bây giờ tôi không có cháu nào ở bên cả. Vợ chồng Minh Thư lấy nhau lâu rồi vẫn chưa có con.

Nói xong nước mắt bà trào ra vì ân hận khiến tôi cũng buồn lây. Giọng bà run run tiếp:

– Tôi không sống được nữa và sắp phải ra đi. Tôi xin cháu một điều không biết cháu có thể giúp tôi không ?

Tôi lắc tay bà Đạm:

– Xin bà cứ nói.

Bà Đạm cố lấy sức lực còn lại nói ngắt quãng từng câu:

– Bác mong cháu nhận lời tái hợp với con trai bác, có như vậy bác mới yên tâm ra đi. Thuấn yêu cháu lắm. Thuấn đã lấy vợ nhưng lúc nào cũng nghĩ đến cháu nên hai vợ chồng đã bỏ nhau.

Đôi mắt bà Đạm yếu đuối nhìn tôi như cầu xin. Tôi thấy thương bà như mẹ. Gần 10 năm ở với nhau tình cảm dù sao cũng đã sâu đậm, thật khó có thể từ chối lời yêu cầu của một người sắp lìa đời như bà. Tôi im lặng suy nghĩ giây lát rồi nói trong xúc động:

– Vâng, con xin nghe lời bác.

Bà Đạm mỉm cười, mắt bà mở hé ra như thầm cảm ơn tôi. Giữa lúc đó Thuấn và vợ chồng Minh Thư đi vào. Bà Đạm cầm bàn tay Thuấn để lên bàn tay tôi, một lúc sau mắt bà nhắm lại và hơi thở yếu dần. Y tá vội vàng gọi bác sĩ. Tôi và Thuấn đứng cách ra xa cho y tá làm việc. Tôi lau nước mắt cho Thuấn rồi nắm chặt tay chàng, nghẹn ngào nhìn bà Đạm từ từ lịm đi…

quên đi ngày tháng cũ

truyện ngắn: hoàng nguyên linh

LeVanQuy sưu tầm

May be an image of 1 person and food

Nếu biết trăm năm là hữu hạn -truyện ngắn – Nhã Duyên

Nếu biết trăm năm là hữu hạn

Khi nói về tình yêu người ta nghĩ đến hoa Hồng và trái tim, khi nói về định mệnh thì thường nghĩ đến nghiệt ngã, chia ly và mất mát. Có người đã phải đau khổ chấp nhận một định mệnh dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi của cuộc đời…!

Nhớ ngày ấy… ở trại tỵ nạn Bidong – Mã Lai, Trung là trưởng phòng dạy cắt may, đang bận rộn xếp dọn sau lớp học chiều…

– Anh ơi, làm ơn cho tui mượn cái máy may sửa đồ một chút được hông? Tui mới tới nên có một bộ đồ hà, làm ơn đi mà!

Trung ngẩng đầu nhìn lên, một cô gái xinh đẹp đang nhìn hắn cười, khoe cái răng khểnh duyên dáng. Trung ngập ngừng một chút rồi nói:

– Phải ghi tên học mới được vô đây may.

– Vậy thì tui ghi tên bây giờ được hông?

– Được chớ! Ghi tên tuổi vô đây nè…

– À… Trần Thị Kim Yến, người đẹp, tên đẹp. Ngày mai có lớp lúc 9 giờ sáng, phải tới đúng giờ nghen.

– Dạ, cám ơn nhiều! nhưng cám ơn nhiều hơn… Nếu bây giờ cho may nhờ xíu thôi hà, vì biết may rồi, chưa giỏi bằng thợ nhưng không đến nỗi “xấu dễ sợ”!?… Làm ơn… chút xíu thôi mà…

Trung chịu thua,… nhìn cái đầu nghiêng nghiêng, đôi mắt nheo nheo, và đôi môi cong lên, trề xuống đang cố năn nỉ tỉ tê. Trung cười, ngọt ngào nói:

– Muốn may gì đưa anh coi nào!

– Bóp cái lưng này vô vì rộng quá xá, mà phải lên cái gấu nữa vì tui hơi bị… lùn!

__________

Ảnh: nick-jio-unsplash

Trung và Yến gặp nhau rồi thương yêu nhau trên bước đường lưu lạc đi tìm tự do, ấm no và hạnh phúc. Yến và chị là Nga đi định cư ở Canada, Trung qua Mỹ, ôm ấp mối tình đầu đời, lo đi cày kiếm tiền vì mong đưa Yến qua Mỹ chung sống.

Trung thua kém Yến về mọi phương diện, từ thân thế, tài năng, học vấn lẫn tuổi tác. Chỉ có trái tim của Trung “lớn” và chí tình hơn tất cả “cây si” đang theo đuổi Yến. Yến yêu thích được chiều chuộng, nghe những lời ngọt ngào và nhất là yêu cái vẻ đẹp trai, hiền lành của Trung. Tình yêu đôi khi bắt nguồn từ những thứ nhỏ nhặt, tầm thường len nhẹ vào lòng làm người ta ngẩn ngơ thương nhớ mà yêu mãi không thôi… Đúng như người ta thường nói: “Lý trí chẳng bao giờ hiểu được những lý lẽ của con tim”. Yến ước mong sống hạnh phúc khi lấy chồng chỉ vì hai chữ “tình yêu”.

Chị Nga đã nhiều lần khuyên bảo nên suy nghĩ chín chắn, ở cái tuổi mà Yến 22, Trung 20 thì còn quá trẻ để quyết định cuộc hôn nhân. Hôn nhân là việc hệ trọng, nếu ngộ nhận trong tình yêu hay quyết định sai lầm sẽ gây đau khổ cho cả hai hoặc nhiều hơn nữa là gia đình hai bên và nhất là con cái. Cuộc sống quanh ta luôn ẩn chứa những may rủi, những buồn vui, kể cả những tang thương của ngẫu biến. Nào ai biết được niềm vui hoan hỉ, an lạc của hôm nay lại là nghịch cảnh của mai sau!

Yến và Trung làm đám cưới đơn sơ tại nhà người chủ cho chia phòng ở San Jose, California. Chỉ có chị Nga và một số bạn bè thân quen tham dự. Yến sinh ra và lớn lên trong một gia đình trí thức khá giả, Yến rất thích học ngoại ngữ và âm nhạc. Yến đi vượt biên khi đang học Đại Học Sư Phạm. Ngày đầu tiên Yến đến lớp học cắt may, Trung lý le ôm cây đàn guitar gảy để “lấy điểm” với người đẹp, ai dè:

– Nè anh ơi, sao không lên giây đàn vậy? Đàn lạc giây rồi mà!

Trung tõn tè, mắc cỡ vì bị “lộ tẩy” bèn đưa cây đàn cho Yến, nàng lên giây và dạo khúc Romance nghe mê mẩn. Nàng chơi guitar từ bé, còn biết chơi dương cầm nữa. Nhà có năm chị em gái, đều học giỏi và yêu thích âm nhạc, nghệ thuật.

__________

Ở Việt Nam, gia đình Trung có một tiệm may nho nhỏ để sinh sống. Ba Trung là thợ may, bà mẹ hiền lành, chỉ lo phụ giúp chồng và chăm sóc con. Trung có hai người anh lớn và hai anh rể bị đi tù cải tạo, một người chị còn độc thân. Trung là con út, chỉ học hết lớp 10. Lúc mới qua Mỹ, Trung đi làm về xây dựng, sau đó làm ở một nhà kho (warehouse) của hãng sản xuất máy in điện tử. Trung đi làm kiếm sống và nuôi Yến đi học ngành technical engineering. Yến ra trường và làm việc cho IBM. Cuộc sống lứa đôi êm đềm, hạnh phúc, thắm thiết với những ân, nghĩa, tình. Rồi hai đứa con, một trai, một gái thật xinh xắn, dễ thương ra đời. Trung và Yến dành dụm mua trả góp một căn apartment be bé, sống vui vẻ bên nhau.

Năm đó,Trung phải về Việt Nam thăm gia đình vì nghe tin mẹ bị bịnh nặng, e rằng không qua khỏi. Bà mong gặp mặt đứa con út lần cuối. Từ ngày bước chân ra đi, Trung ôm nặng mối tình si với Yến nên gia đình đã bị quên lãng dù Trung là nguồn hy vọng duy nhất… Trở về nhà sau bao năm xa cách, Trung đau lòng nhìn mẹ bịnh hoạn, cha cũng già yếu, hai anh đi tù về và đang xin đi Mỹ theo diện HO, các chị cũng nghèo xơ xác nuôi chồng tù tội, đám cháu đói khổ, có đứa phải đi bán trà đá kiếm sống…!

Người cha già lo cho Trung đi vượt biên, với một ước mơ con sẽ được sống tự do, an lạc và làm nhiều tiền gởi về cho cha mẹ có được cuộc sống sung túc ở quê nhà. Ngày ngày ông ngắm nhìn những căn nhà lầu xung quanh mọc lên cao nghệu mà buồn bã vì nhà ông vẫn chưa sửa sang gì. Ông nghẹn ngào nói như trăn trối:

– Ba ước ao trước khi chết đi được nhìn thấy căn nhà của ba xây lên cao như nhà người ta, mọi sự trông nhờ vào con chứ anh chị… Ai cũng nghèo lắm con à…!  

Trung nghe mà chua xót vì Trung rất ít khi gởi thư chứ đừng nói gởi tiền về cho gia đình. Trung bàng hoàng, đau đớn nhìn cảnh nhà nghèo nàn mà đứt ruột. Rồi chợt tỉnh ra rằng bấy lâu nay đã quên mất cha mẹ anh em sống khổ ở quê nhà. Trung mang nỗi hối hận dày vò vì đã đam mê theo đuổi Yến mà ích kỷ chỉ lo vun đắp hạnh phúc riêng tư nhỏ bé của mình. Trung mạnh dạn nói với cha:

– Ba à, để con về lại Mỹ lo liệu rồi gởi tiền về cho ba xây nhà nghen. Ba đừng lo, con ráng là được.

Trước khi ôm con từ biệt, ba của Trung vẫn không quên dặn dò:

– Nhớ nghe con, nhớ gởi tiền về cho ba xây nhà nghe con.

__________

Trung về lại Mỹ rồi nhỏ nhẹ bàn với Yến:

– Em à, anh muốn mượn $20,000 để gởi về cho ba xây nhà. Mình ráng dành dụm trả từ từ mỗi tháng có được không?

Yến vừa nghe xong đã nhảy dựng lên:

– Trời ơi, anh muốn bán vợ đợ con hay sao? nợ nhà, nợ xe đầy đầu rồi còn thêm nợ tiền đóng hụi chết nữa hả? Không, anh tự lo liệu lấy! Em không muốn mượn bợ gì nữa hết, cứ trả xong nhà, xe rồi tính.

Trung lại dịu giọng năn nỉ:

– Hay là mỗi tháng mình gởi cho ba vài trăm rồi ba dành dụm khi nào đủ thì xây nhà coi như mình để dành, khỏi phải mượn nợ.

Yến lại gào lên:

– Không có vài trăm gì hết, con còn không đủ nuôi ăn kia! Thôi miễn bàn nghe, em mệt mỏi lắm rồi…!

Trung đau lòng, nhưng cũng đúng là đang nợ đầy đầu. “Lực bất tòng tâm”, bây giờ tính sao? Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn? Trung đã đi cày cực khổ nuôi Yến ăn học, nhưng Yến lại không nghĩ cho Trung trả công ơn cha mẹ nuôi con khôn lớn. Từ ngày Yến thành kỹ sư, tính tình nàng thay đổi, trở nên kiêu kỳ, phách lối và khi dễ chồng.

Tình đời đổi thay, một hôm mời các đồng nghiệp đến nhà chơi, Yến nói Trung nên lánh mặt vì không muốn họ biết chồng của nàng là một người ít học, không tài cán giỏi giang. Trung đã cay đắng buồn khổ vì tự ái nhưng vẫn ngậm đắng nuốt cay vì thương con nên nhịn vợ. Trung lặng lẽ ôm nỗi buồn phiền, tiếc nuối, nhưng vẫn nuôi hy vọng cho một sự đổi thay tốt đẹp trong đời.

Mỗi ngày, Yến ghé nhà giữ trẻ đón con về, Trung vừa bước chân vào nhà là thấy đôi mắt Yến giỗi hờn, giọng cau có:

– Nè, coi con cho tui đi nấu cơm chứ không có ngồi vắt chân lên coi TV đâu nghe.

Thằng nhỏ mà ré lên thì…

– Trời ơi, cha đâu rồi mà để thằng con khóc dzữ dzậy hả?!

Ảnh: de-jesus-benitez-unsplash

__________

Gia đình không còn vui vẻ, đầm ấm, ngọt ngào như những ngày tháng cũ. Mắt Yến không còn long lanh, vui cười trong hạnh phúc mà đong đầy lo âu, buồn chán. Giọng nàng trở nên the thé và nói những lời hằn học, chua cay. Mỗi ngày sống trong căng thẳng và lạnh lùng của vợ, Trung buồn bã đi làm về là ghé vào quán cafe ngồi đến khuya mới lò dò về nhà. Mà cũng không yên, vẫn bị gào la chửi bới đến nỗi Trung lại tìm vào quán chơi bida cho đến đêm tàn, về đậu xe trước cửa nhà rồi ngủ trong xe. Trời California vào hè, nóng oi ả, làm sao sống trong xe, Trung bèn đi casino thâu đêm cho mát mẻ, lại đầy vui nhộn. Thế là Trung lao thân vào cờ bạc. Dòng đời đưa đẩy đến một ngã rẽ mà người ta thường gọi là “số phận” hay “định mệnh”.

Trung ngồi sòng bài, ban đầu chơi sơ sơ, ăn sơ sơ, thua sơ sơ, mỗi lần như vậy đều có một cảm giác khoan khoái thú vị lạ thường: Háo hức khi nhập cuộc, hưng phấn khi may mắn thắng và cay cú khi xui xẻo thua. Một cảm giác kích thích đầy ma lực làm Trung quên hết phiền não. Một hôm thắng lớn, Trung sung sướng chợt nghĩ ra cách kiếm tiền mau lẹ bằng con đường cờ bạc. “Đi đêm có ngày gặp ma”, rồi đi với ma, dân cờ bạc khi lậm vào thì thường trở thành “ma dữ”.

Từ một kẻ hiền lành, chăm chỉ, Trung lao vào cờ bạc như con thiêu thân, thua mà vẫn say mê gỡ gạc, càng gỡ càng thua; nợ đến nỗi hết cả tháng lương cũng không đủ trả tiền lời cho thẻ tín dụng. Trung bắt đầu dối trá, xoay sở tìm cách mượn bạn bè, bà con, quen biết,… vì vẫn nuôi hy vọng gỡ gạc. Sau cùng, tâm thần bị bấn loạn, lún sâu vào nợ nần, dù bán hết cả gia tài đang có cũng không sao trả nổi. Trung  xơ xác, tiều tụy, thất thần. Đúng thật, “cờ bạc là bác thằng bần”. Thử hỏi: Nếu ai chơi cờ bạc cũng “thắng” thì ông chủ sòng bạc đâu có “ngu dại” mà chiêu đãi, mời gọi khách? Ông trùm casino nào cũng giàu nứt đố đổ vách.

Càng ngày Trung càng vắng nhà, rồi đi biền biệt. Yến nghe bạn bè nói Trung la cà ở quán bida. Dắt con đi tìm, nàng gào thét, làm dữ, buộc Trung phải về. Lại có người mách Trung thường “đóng đô” ở casino, Yến cũng lặn lội tìm nhưng cũng chẳng thấy tăm hơi… Khi bước chân về nhà bị Yến chửi bới, đay nghiến, Trung lại bỏ đi; rồi ngẫu nhiên gặp Kimberly, một tay cũng mê cờ bạc như Trung. Hai người trở thành nhân tình, nhân ngãi. Những ngày thua cháy túi, Kimberly rủ Trung về nhà hủ hỉ cho quên nỗi sầu. Ở đó, đôi khi nỗi sầu được “chôn dấu” hay “đi mây về gió” với những viên ma túy. Một hôm, Yến xuất hiện trước cửa nhà Kimberly để đánh ghen và chỉ vào mặt Trung hăm dọa:

– Anh chờ coi, mẹ con tui sẽ cho anh một bài học nhớ đời, có hối cũng không kịp…!

Chẳng còn tha thiết gì đến vợ con, cha mẹ, anh em. Căn nhà mơ ước của ba cũng tan theo mây khói. Trong trái tim Trung bây giờ, cái ngăn lớn nhất chỉ muốn chứa tiền và ngăn kế là chứa bài. Về nhà khai hết với vợ cũng không xong, trốn biệt xứ cũng không được, đằng nào cũng không thoát! Trung mệt mỏi, buồn nản. Tuyệt vọng, không lối thoát, lòng u uất, bi thương vì ở bước đường cùng, Trung đứng chênh vênh bên bờ vực thẳm của tội lỗi, không biết sẽ về đâu…

__________

Ở góc đường vắng vẻ, có một chiếc SUV màu trắng đậu vài ngày rồi mà không thấy chủ nhân ra vào… Một buổi chiều, cặp vợ chồng thường dắt chó đi dạo, ngửi thấy mùi hôi thối từ chiếc xe bốc ra bèn báo police.

Người đàn ông 34 tuổi, tên Nguyễn Hiếu Trung, đã chết thúi rữa trong xe. Có một vỏ chai rượu Whiskey và một cái bao nhỏ xíu đựng vài viên ecstasy. Hắn chết vì vừa xài ma túy vừa uống rượu mạnh. Có nghi vấn rằng hắn tự tử, nhưng không có tuyệt mệnh thư. Dường như hắn không còn gì để nói hay không biết nói gì khi sống những giờ phút của cuộc đời trong tăm tối bi thảm…

Trung chết, Yến đau khổ một mình nuôi con. Hai đứa bé lớn lên hứa không bao giờ bước chân vào cửa casino như cha. Gia đình, cha mẹ anh chị đau đớn trước cái chết bi thương, đầy nhục nhã của Trung. Phải chăng những ước muốn của họ đã tạo nên nghịch cảnh mà Trung đã không thể vượt qua để thỏa mãn và làm vừa lòng mọi người? Sau vài mối tình nhạt nhẽo, hời hợt vội qua trong đời, Yến buồn khổ, dằn vặt vì nàng sống quá ích kỷ, Trung ra nông nỗi. Nàng vẫn nhớ thương và hoài mong con thuyền tình quay về bến cũ nhưng làm sao có thể được. Nó đã ra đi, vĩnh viễn không bao giờ trở lại…

Chuyện Suy Ngẫm –  Đông Quyên phiên dịch

Chuyện Suy Ngẫm

“…Những người anh hùng trên một đất nước anh hùng, dù thắng hay bại vẫn được coi trọng, “luận anh hùng không dựa theo thành bại”. Người Nhật người Đức, sau khi bại trận vẫn được người Mỹ kính trọng. Còn Việt nam mình thế nào? …

Đây là một câu chuyện có thật, xảy ra trong thế chiến thứ hai, một câu chuyện đầy tình người, đáng cho chúng ta đọc và suy ngẩm.

Trung uý Charlie Brown 21 tuổi, trưởng phi cơ chiếc B17F Flying Fortress tên phi cơ (Ye Olde Pub) thuộc phi đoàn 527th United States Army Air Force (USAA) đồn trú tại Kimbolton England.

Ngày 20 tháng 12 năm 1943. Trung uý Charlie Brown cất cánh từ Kimbolton cùng phi hành đoàn 10 người, trong một phi vụ đánh bom khu kỷ nghệ gần thành phố Bremen Đức Quốc, thành phố được bảo vệ dầy đặc phòng không và 250 chiến đấu cơ gồm Bf 109, Fw 190 và GJ 11.

Trên vòm trời Bremen chiếc B17 của Charlie Brown bį phòng không của Đức bắn gần gãy lìa đuôi, mủi phi cơ bị hư hại nặng, phi cụ không còn hoạt động, điện, thủy điều hoàn toàn hư hỏng. Ba trong bốn động cơ không còn hoạt động được. Sau đó chiếc B17 bị các chiến đấu cơ Đức vây quanh, bắn nát như tổ ong, chiếc phi cơ B17 mất cao độ chúi xuống, trong lúc hỗn loạn không còn phi cụ, phi cơ lạc hướng bay sâu vào nội địa nước Đức. Trung uý Charlie Brown hồi tưởng:Phi cơ trong tình trạng tuyệt vọng nhưng anh không thể ra lệnh cho phi hành đoàn nhảy dù được, vì trên tàu còn 4 phi hành đoàn bị thương, một rất nặng, nên anh quyết định bay tiếp cho đến khi nào không còn bay được, anh sẽ đáp ép buộc, và tất cả phải chịu chung số phận với con tàu.

Anh Franz Stigler, người phi công lái chiếc Bf 109. Một anh hùng không chiến của không lực Luftwaffe (Đức Quốc) từng hạ 27 phi cơ của đồng minh, đang tiếp tế nhiên liệu, nạp đạn cho phi cơ dưới đất, được lệnh cất cánh khẩn cấp, bắn hạ chiếc B17, đang lảo đảo bay trong không gian vô định.

Trung uý Charlie hồi tưởng: tôi phải vất vã lắm mới kéo được con tàu trở lại bình phi, thì lù lù bên trái của tôi một chiếc Bf109 của Đức kèm sát cánh

Trong giây phút kinh hoàng, tôi nhắm mắt lại, hy vọng đây chỉ là giấc mơ. Khi mở mắt ra chiếc Bf109 vẫn còn đó, và người phi công ra lệnh cho tôi phải đáp ép buộc xuống phi trường Đức, hay phi trường nước trung lập Sweden, tôi không đồng ý. Cuối cùng tôi thấy người phi công lái chiếc Bf109 bay nhanh phía trước, lắc cánh ra hiệu cho tôi theo, không còn lựa chọn tôi bay theo, độ hơn một giờ sau tôi nhìn thấy biển Bắc. Chiếc phi cơ Bf109 bay chậm lại song song với tôi, đưa tay chào, rồi lắc cánh nhẹ vài cái, dấu hiệu tạm biệt của người phi công, rồi mất dạng trong sương chiều.

Như một phép lạ, anh Charlie Brown bay được 250 miles(400 km) qua biển Bắc. Sau cùng đáp ép buộc xuống phi trường của hoàng gia Anh ở Seething, nơi đồn trú của phi đoàn 440th bomber group, chỉ có một người chết, còn tất cả những người bị thương đều được cứu. Sau đó tất cả phi hành đoàn báo cáo với sỉ quan chỉ huy ở đây, họ được chỉ thị giữ kín chuyện này, vì nói ra sự thật có vẽ phản tuyên truyền, vì không thể có một phi công Đức nào hào hùng và độ lượng với kẻ thù như vậy

Sau chiến tranh Charlie Brown ở lại phục vụ trong không lực Hoa Kỳ cho đến năm 1972 giải ngũ với cấp bậc trung tá sống tại Florida.

Câu chuyện không chấm dứt ở đây. Trở về lại quê hương, anh Charlie Brown viết rất nhiều thư để mong tìm ra tông tích người phi công Đức đã không cướp đi mạng sống của cả phi hành đoàn chiếc B17 của anh. Tìm một người phi công sau một cuộc chiến tranh tàn khốc, không tên họ, chỉ có một câu chuyện, đâu phải dể tìm. Không nản lòng anh vẫn tiếp tục. Cuối cùng vào năm 1989, sau 46 năm tìm kiếm, anh Charlie Brown đã tìm ra được người phi công bí mật, lái chiếc Bf109. Một anh hùng không chiến của không lực Luftwaffe (Đức) cũng là một thiên thần độ lượng trên vòm trời Bremen vào những ngày cận giáng sinh năm 1943. Đó là anh Franz Stigler.

Sau khi chiến tranh chấm dứt anh Franz Stigler di dân sang sống ở Vancouver Canada. Trong bức thư đầu tiên anh Franz Stigler viết cho Charlie Brown “suốt bao nhiêu năm dài tôi luôn tự hỏi, không biết chiếc B17 đó có đưa phi hành đoàn về đáp an toàn hay không “

Họ gặp nhau sau 46 năm tìm kiếm diễn ra rất cảm động. Anh Franz Stigler hồi tưởng: tôi được lệnh cất cánh rượt đuổi bắn hạ chiếc B17, tống ga đuổi kịp, thì tàu của tôi báo hiệu máy đã nóng vượt bực, tôi đến từ phía sau quan sát chiếc B17. Một cảnh tượng thật tang thương, phần đuôi của con tàu gần như tan nát, một lổ hổng lớn có thể nhìn từ đuôi cho đến cockpit, người xạ thủ tail gun turret nằm chết đong đưa, nửa trong nửa ngoài trên pháo tháp. Tôi bay lên quan sát bên thân tàu, cả một vùng thân đầy lổ đạn to lớn, tôi có thể thấy cả phi hành đoàn bị thương nằm la liệt bên trong, người trưởng phi cơ đang vật lộn với con tàu mong giữ được bình phi, tôi ra hiệu cho anh ta theo tôi đáp xuống một căn cứ gần đó, để cứu những phi hành đoàn bị thương, anh ta nhìn tôi chăm chăm rồi nhè nhẹ lắc đầu, tôi không có can đảm giết những người anh hùng không còn vũ khí để tự vệ, tôi là một người phi công hào hùng, tôi chém giết để bảo vệ quê hương tôi, nhưng không hề có thù hận, khi còn chiến đấu ở Bắc Phi, người chỉ huy của tôi đã nói, nếu tụi mầy bắn một người phi công đã nhảy dù ra khỏi phi cơ, đó là một hành động tồi tệ, tao sẽ là người bắn rơi tụi mầy, trong trường hợp nầy cũng vậy, chiếc B17 nầy không còn tự vệ được, tôi phải để cho họ có một cơ hội, ngày mai tôi sẽ bắn họ khi họ ngang ngửa với tôi. Biết là không thể thuyết phục được người trưởng phi cơ B17 tôi bay ra phía trước lắc cánh, tôi cũng mừng khi thấy anh đã bay theo tôi, hướng dẫn chiếc B17 độ một giờ sau thì tôi thấy biển Bắc, tôi bay chậm lại song song, chào anh ta rồi quay trở về đáp, dĩ nhiên là tôi phải báo cáo với cấp trên, là tôi đã bắn hạ chiếc B17 trên biển.

Anh Charlie Brown và Anh Franz Stigler trở nên đôi bạn thân, họ đã gặp lại nhau nhiều lần, sau đó họ đã được không lực Hoa Kỳ bạn tặng những huy chương cao quý

Anh Charlie Brown mất ngày 24 tháng 11 năm 2008

Anh Franz Stigler mất ngày 22 tháng 3 năm 2008

Những người anh hùng trên một đất nước anh hùng, dù thắng hay bại vẫn được coi trọng, “luận anh hùng không dựa theo thành bại”. Người Nhật người Đức, sau khi bại trận vẫn được người Mỹ kính trọng. Còn Việt nam mình thế nào? Những người lính miền nam bại trận được đối xử ra sao? Nếu không có người Mỹ và thế giới tạo áp lực, chắc chắn người Nga, đã để cho cộng sản Việt Nam giết chết hết hai triệu Quân Cán Chính của miền Nam trong tù, mà họ gọi là trại cải tạo, giống như họ đã làm ở Tiệp khắc, Ba Lan, và ngay tại Liên bang sô-viết. Thật là xấu hổ cho bọn Cộng sản hèn hạ.

httpv://www.youtube.com/watch?v=_lp9-cN_Oog

The Franz Stigler and Charlie Brown Incident

 Đông Quyên phiên dịch

From: TU-PHUNG