Quán trọ ven đường -Truyện ngắn

  Quán trọ ven đường -Truyện ngắn

 Nguyễn Thị Thanh Dương

Chị Bông dứt phone với anh thợ làm hàng rào và lẩm bẩm: “Anh ta cho giá thay toàn bộ hàng rào 6,000 đồng, hao tốn quá”.
Chị bực mình liếc mắt sang nhà hàng xóm có chung cái hàng rào sau vườn và lẩm bẩm tiếp: “Mà cái nhà hàng xóm này lại không biết điều”

Trước đó anh hàng xóm người Mễ đã vài lần thẳng thắn từ chối hợp tác cùng chị Bông thay phía hàng rào chung của hai nhà với lý do hàng rào chưa hư hỏng gì và tiền thì họ chưa có luôn.
Trong vườn chị Bông trồng nhiều cây hoa hồng, mái hiên patio treo chiếc chuông gió nên thơ, nếu được hàng rào đẹp thì khu vườn sẽ càng đẹp thêm.

Cái cell phone chị để trên bàn trong sân patio reo lên, không lẽ anh thợ hàng rào gọi lại… giảm gía? Hay là anh hàng xóm Mễ gọi sang báo tin đã đồng ý làm hàng rào?
Chị Bông vội vàng mở phone, thì ra là chị Huê, người bạn thân thiết. Giọng chị Huê tưng bừng vui:
– Bông ơi, hai vợ chồng mình mới mua một căn biệt thự đẹp mà gía khá rẻ so với thị trường, vợ chồng chủ nhà ly dị cần bán nhà nhanh, ưu tiên cho tiền mặt, mình đủ điều kiện. Tháng sau bạn sẽ đến ăn mừng tân gia nhé.

Chị Bông ngạc nhiên:
– Ơ kìa, nhà Huê đang ở cũng mới cũng đẹp mà lại đổi nhà à?
– Nhà này mới hơn đẹp hơn và sang trọng hơn. Đây đúng là căn nhà ước mơ của mình. Hàng xóm toàn là triệu phú trở lên đó nha.

Chị Huê say sưa tả ngôi biệt thự từ ngoài sân vào bên trong đến cả khu vườn, chị Bông nghe đến đâu choáng váng đến đó. Một tiếng sau buông phone mà chị Bông còn thẫn thờ như người mới bị bỏ bùa chưa tỉnh.
Bất giác chị ngó quanh khu vườn nhà mình bỗng thấy …tủi, gía mà chị giàu có như chị Huê thì đã thay quách toàn bộ hàng rào khỏi cần kêu gọi anh hàng xóm Mễ đóng góp.

Chị Bông đang ganh tị với căn biệt thự chị Huê vừa khoe. Anh Bông lững thững ra vườn và bắt gặp vợ ngồi im lặng trong ghế xích đu, anh thắc mắc:
– Em nghĩ gì mà thẫn thờ ra thế? Lại bực mình vì anh hàng xóm Mễ vẫn chưa chịu chung tiến thay cái hàng rào mới hả?
– Tại anh Mễ và… tại chị Huê.
– Anh biết rồi, bà Huê không khoe stock của bà ấy lên giá thì cũng khoe cửa hàng bánh mì thịt nguội, giò chả, chè cháo của bà ấy doanh thu ngày càng tăng.

Chị Bông thán phục:
– Anh nói đúng đó, cửa hàng chị ấy đắt hàng lắm, dù đã thuê mướn cả chục người mà hai vợ chồng vẫn bận rộn cả ngày, trong khi vợ chồng mình cùng tuổi về hưu như anh chị Huê thì ăn không ngồi rồi chẳng kiếm ra xu nào ngoài mấy đồng tiền hưu.

– Tội nghiệp, anh chị Huê lớn tuổi rồi mà vẫn làm việc đầu tắt mặt tối. Tóm lại giàu có mà vẫn … “khổ” vì kiếm tiền. 
Anh nghe kể rằng có bà gìa luôn than thở mình mẩy tay chân đau nhức, tai điếc mắt mờ thế mà vẫn …thích mở hầu bao ra đếm tiền, chẳng than mỏi tay, đau tay hay mờ mắt gì cả. Thiếu đồng nào bà phát hiện ra ngay.

Chị Bông cãi lại:
– Càng có tiền càng sướng chứ, tội nghiệp gì chị Huê. 
Vợ chồng chị Huê mới mua một căn biệt thự hơn một triệu, trả tiền mặt nhé. Em nghe mà phát ham, trong khi em muốn thay cái hàng rào chỉ 6,000 đồng cũng không dám làm. 
Nãy giờ em cứ mơ ước nếu mình trúng số thì sẽ mua căn biệt thự trong khu ấy làm hàng xóm các triệu phú cho oai, hàng xóm với mấy nhà Mễ này chỉ thêm bực mình…

Anh Bông an ủi:
– Hàng rào sau vườn còn tốt chán, anh hàng xóm Mễ từ chối thay mới là đúng rồi. Em đừng “khủng bố” tinh thần nhà anh ta nữa, lần nào gặp mặt họ em cũng hỏi chỉ một câu: “Anh chị suy nghĩ kỹ chưa? Có thay hàng rào với tôi không?”. 
Mà em không nhớ bài thuyết giảng ở chùa hôm nào à, cuộc đời là cõi tạm, chúng ta đang ở trọ trần gian, đòi chi những điều hoàn hảo.
– Anh chỉ chuyên môn bênh hàng xóm, xe nó đậu đầy lề đường, trở ngại lối đi, chướng cả mắt, anh lại khen xe đậu thế này trông…. nhộn nhịp khu phố.
Cuối tuần nó tụ họp bạn bè uống bia trước sân mở nhạc tiếng Spanish ầm ĩ anh cũng khen… vui cả khu phố.
– Sống hòa đồng và nhịn hàng xóm một tí có sao đâu.
– Nếu thế em cũng sẽ đậu xe lòng lề đường và cuối tuần tụ họp bạn bè ngoài sân mở ầm ĩ nhạc Bolero Thanh Tuyền Chế Linh, Hương Lan Tuấn Vũ cho hàng xóm Mễ nghe chơi nhá.
– Vợ chồng Mễ hàng xóm hiền lành dễ thương, chả lẽ vì cái hàng rào mà em đành hanh với họ thế à ? Thuyết nhà Phật…

Chị Bông ngắt lời chồng:
– Ôi, anh lại thuyết nhà Phật lắm bi quan, nào đời là bể khổ, đời là cõi tạm, kiếp người mong manh, trở về cát bụi, ai mà đang tuyệt vọng sẽ chẳng muốn kiếp lai sinh. 
Em muốn như anh chị Huê lúc nào cũng phơi phới kiếm tiền và hưởng đời, muốn gì cũng có. Hay là mình gom góp vốn liếng, vay mượn thêm con cái đầu tư mutual fund hay địa ốc đi anh, chơi stock thì càng kiếm nhanh hơn nữa. Vậy anh muốn cái nào?
– Nghĩa là sao? Mình mua nhà cho thuê hoặc mua mutual fund, hoặc chơi stock đu dây với may rủi ấy hả?

Chị Bông giảng giải:
– Anh nhát gan không chơi stock thì thôi. Mua nhà mình chỉ cần down khoảng 20% và lấy tiền thuê hàng tháng trả mortgage, 10 hay 15 năm sẽ trả xong nợ, căn nhà thuộc về mình. 

Hay là đầu tư mutual fund chậm hơn nhưng 10 năm sau số tiền đầu tư có thể tăng gấp đôi. Tới lúc đó mình lấy cả vốn lẫn lời ra… mua nhà biệt thự làm hàng xóm các triệu phú luôn.
– Nghe em nói kiếm tiền nhẹ nhàng dễ dàng quá. Anh… không chọn cái nào cả.
Chị Bông cụt hứng giận dỗi trách:
– Hèn gì số mình nghèo là phải. Suốt đời ở căn nhà xấu này thôi.
– Ai mà chẳng muốn cuộc sống đầy đủ cao sang, anh cũng thích nhà cao cửa rộng lắm chứ, nhưng mỗi người một hoàn cảnh. Bao nhiêu năm nay không giàu có được nói chi tuổi xế chiều.

Rồi anh Bông vỗ về:
– Thôi em đừng ganh đua với chị Huê nữa, mình không có tiền bạc và càng không có thời gian để đầu tư đường dài. 
Em cứ an phận làm hàng xóm mấy anh chị Mễ, mấy anh chị Mỹ đen như hiện nay đi. 
Vợ chồng mình là khách hàng thường xuyên của CVS pharmacy tại thành phố này, các nhân viên bán thuốc full time thậm chí nhân viên part time thay đổi xoành xoạch mà họ còn nhớ tên nhớ mặt mình. 
Vậy thì hơn 10 năm nữa mình 80 tuổi, bệnh tình mình đi tới đâu? liệu có còn sức khỏe mà hưởng nhà to nhà đẹp không, hả? nếu có thay đổi nhà thì anh sẵn sàng moving đến căn nhà nào … gần bệnh viện nhất để mỗi lần gọi 911 cấp cứu cho tiện.

Đến dự buổi tiệc tân gia nhà chị Huê, căn biệt thự lộng lẫy ấy chị Bông khó thể nào quên, vừa trầm trồ khen ngợi vừa mơ ước khi chị Huê dắt khách đi từng phòng giới thiệu, đây là phòng khách của tôi, phòng bếp của tôi, phòng nào cũng đẹp cũng sang.

Bước vào căn phòng ngủ kê hai chiếc giường mà vẫn còn rộng mênh mông với những tủ, gương sang trọng, chị Huê lại hãnh diện sung sướng:
– Các bạn ơi, đây là phòng ngủ yêu qúy của tôi, từ cái giường, khăn trải nệm, gối mền, rèm cửa đều là hàng hiệu….
Bạn bè ai cũng khen vợ chồng chị Huê có phước, con cái đứa nào cũng ăn học thành đạt, gia đình đề huề, anh chị Huê thì giàu có làm ăn tiền vô như nước. 

Chị Bông hỏi:
– Bao giờ thì anh chị Huê nghỉ bán buôn, ở nhà hưởng nhàn thảnh thơi trong căn nhà đẹp này ?.
Chị Huê phân trần:
– Mình cũng muốn nghỉ lắm. Con cái có công việc của chúng, chẳng đứa nào thích cái nghề bán bánh mì thịt nguội này cả, sang cửa hàng cho người khác thì tiếc rẻ vì công việc làm ăn càng ngày càng phát đạt, tiền cứ chạy vô túi vô nhà băng nên chẳng nỡ ngừng, thôi thì còn sức còn làm, có nhiều tiền tiêu xài cũng sướng tay. Nhờ thế vợ chồng mình mới mua căn biệt thự này dễ dàng.

Chị Huê ghé tai chị Bông khoe thêm:
– Trừ mọi chi phí mỗi tháng vợ chồng mình kiếm mười mấy ngàn, chẳng cần ăn học bằng cấp gì mà tính ra hơn hẳn lương kỹ sư lâu năm, tự mình làm chủ mình và làm chủ gần chục nhân viên từ khâu làm bánh mì, làm giò chả thịt nguội, đến khâu đứng bán cho khách hàng. 
Thử hỏi là chị có chịu buông bỏ cửa hàng ngồi nhà lãnh vài đồng lương hưu không chứ.

Sau dịp ăn tân gia ấy chị Bông ít có dịp đến nhà chị Huê nhưng thường gặp chị ở cửa hàng bánh mì thịt nguội nổi tiếng ngon nhất của thành phố này. 
Vợ chồng chị Huê nhanh nhẹn xã giao với khách hàng và tháo vát với công việc, chỉ huy nhân viên đâu ra đấy.

Thế mà một hôm chị Bông nghe hung tin, một người bạn gọi phone báo tin:
– Chị Huê đã qua đời trong giấc ngủ đêm qua vì heart attack.
Trời ơi, một cái chết quá bất ngờ, không hề báo trước. Chơi thân với chị Huê nhưng chị Bông có nghe chị Huê than thở gì về bệnh tim mạch đâu.
Hay là chị Huê làm việc nhiều quá nên căng thẳng và kiệt sức, ảnh hưởng đến tim mạch??

Sau đám tang chị Huê, cửa hàng bánh mì thịt nguội trở lại hoạt động bình thường, bạn bè ai cũng ngạc nhiên, tưởng anh Huê mất đi người vợ yêu dấu mấy chục năm bên nhau anh sẽ mất nguồn cảm hứng kiếm tiền.
Vài tháng sau chị Bông đã nghe bạn bè chung của chị Huê truyền nhau tin đồn anh Huê đang “tình ý” với chị Sương nhân viên quản lý cửa hàng.
Đó là một thiếu phụ khoảng 45 tuổi, chị ta là mẹ độc thân của ba đứa con. Được bà chủ tin cậy chị ta nhanh nhẹn khôn ngoan chăm chỉ làm việc và bây giờ thì được ông chủ độc thân ưu ái.

Ai cũng tưởng họ chỉ “tình ý” và bồ bịch cho đời nhau đỡ buồn. Nhưng một năm sau thì anh Huê chính thức đi thêm bước nữa với chị Sương với lý do để có người phụ anh công việc kinh doanh, cứ làm như anh chỉ cần người làm hơn là cần người tình.

Căn biệt thự lộng lẫy của chị Huê nay đã có nữ chủ nhân mới, thêm ba đứa con của chị ta nên cửa nhà đông vui hẳn lên, lúc nào cũng có một hai chiếc xe loại sang đậu trước sân, chiều tối các khung cửa sổ căn biệt thự đều sáng đèn ấm cúng.

Cửa hàng sản xuất bánh mì thịt nguội đã có nữ chủ nhân mới.
Ngày nào chị Huê từng hãnh diện khoe công việc và tiền bạc nay những huê lợi ấy đã vào túi người khác.

Ngày nào chị Huê từng sung sướng khoe căn phòng ngủ xinh đẹp sang trọng, nay căn phòng ngủ ấy cũng thuộc về người phụ nữ khác.
Và người chồng suốt mấy chục năm thân ái chung đôi của chị cũng thuộc về người khác luôn.

Chị Bông thấy xót xa giùm người bạn đã nằm dưới nấm mộ. Chị than thở với chồng:
– Thương chị Huê quá. Nhớ ngày mới mua căn biệt thự chị Huê hớn hở vui mừng bao nhiêu, chị trang hoàng chăm sóc từng căn phòng, thế mà ở chẳng bao lâu…
Anh Bông lại triết lý nhà phật:
– Chị Huê đã “ở trọ” trong căn biệt thự ấy, chứ có gì là của chị Huê đâu, kể cả bạc tiền và người chồng yêu dấu. 
Hết thời hạn thì ra đi. Vợ chồng mình cũng đang “ở trọ” trong chính căn nhà của mình đây. 

Cuộc sống luôn đi bên cạnh những rủi ro bất trắc, tai nạn hay bệnh hoạn có thể đến bất cứ lúc nào. Chúng ta không chết vì tại nạn, bệnh hoạn thì cũng chết vì tuổi gìa sức yếu, mười năm, hai mươi năm nữa thôi căn nhà này sẽ thuộc về ai…
Chị Bông giật mình, anh Bông nói đúng qúa, sau này vợ chồng chị chết đi, con cái đều có nhà riêng và công việc ở xa, chẳng đứa nào có nhu cầu dọn về đây. Căn nhà này sẽ bán đi và thuộc về người khác.

Chị Bông chợt nhớ tới gia đình một người quen biết, sang Mỹ diện H.O. năm 1990, Sau 5 năm làm việc cật lực họ có chút tiền down một căn nhà. Người vợ lãnh đồ từ hãng và may tại nhà, vừa chăm chỉ may vừa lo cơm nước cho chồng đi làm con đi học, chị hết sức tiết kiệm tiền bạc và cả thời gian, ít giao du với bạn bè, thậm chí từng là con chiên ngoan đạo chị cũng “né” màn đi nhà thờ hàng tuần, chỉ đi vào những dịp lễ lớn, vì đi nhà thờ là “tốn kém” , luôn có mục đóng góp đủ thứ, nay món này mai món khác chẳng bao giờ hết việc. 
Mục đích chính của chị là làm việc tối đa và tiết kiệm tối đa để có tiền trả nợ căn nhà.

Nhà cửa trả xong, vốn liếng bắt đầu rủng rỉnh thì đùng một cái chị H.O lâm trọng bệnh qua đời. Chồng quan niệm con cái đứa nào cũng có ăn học và có gia đình riêng không phải lo cho chúng nữa, ông ta về Việt Nam cưới một cô hàng xóm lỡ thì nhưng vẫn còn trẻ chán so với ông, bán căn nhà cũ đang ở để mua căn nhà khác mới hơn đẹp hơn cho xứng và le lói với người mới.
Chị H.O này cũng “ở trọ” và ra đi “trắng tay” như chị Huê.

Thế là chị Bông lại an phận tìm vui với căn nhà của mình, khu vườn sau hoa lá và chuông gió vẫn đẹp và nên thơ với cái hàng rào cũ mà chị từng muốn thay bỏ chúng.

Một buổi sáng chị Bông mang rác ra sân trước thì thấy chị Mễ hàng xóm cũng kéo thùng rác ra sân liền tươi cười xã giao, bù đắp cho những ngày chị Bông liếc mắt hay lườm lườm sang nhà nó với vẻ lạnh lùng:
– Chị khỏe không? Hôm nay chị không đi làm hả?
Chị Mễ than thở và e dè:
– Tôi bị mất việc rồi, đang hưởng tiền thất nghiệp. Chị đừng rủ tôi thay cái hàng rào nữa nghe.
Xong chị ta nửa đùa nửa thật:
– Chỉ còn chồng tôi đi làm, nhà 4 đứa con, nếu tôi mà thất nghiệp dài lâu thì không có tiền trả mortgage căn nhà này đâu, lúc ấy chị sẽ có hàng xóm mới để rủ họ thay hàng rào mới.

Chị Bông cảm thấy như mình có lỗi và ái ngại quá. Hoàn cảnh nhà hàng xóm chẳng khá giả gì thế mà bấy lâu chị cứ “mặt sưng mày xỉa” ngầm với họ vì cái tội không chịu chung tiền làm hàng rào mới. 
Chị Bông dịu dàng thân mật:
– Chúc chị mau kiếm được việc làm, còn cái hàng rào chung của chúng ta, đúng như chồng chị đã nói, vẫn tốt lắm, thay làm chi cho phí tiền.

Trong ánh mắt chị Mễ thoáng vẻ ngạc nhiên và vui. Chắc vì lần gặp mặt này chị ta thấy chị Bông đã thay đổi thái độ quá bất ngờ.
Chị Bông lại thấy anh Bông nói đúng, chẳng có ai dám bảo đảm ở căn nhà của mình dài lâu chứ đừng nói suốt đời. 
Ngoài cái chết, người ta phải rời xa căn nhà vì hàng đống lý do, vì công việc, vì trường học của con cái hay vì mất job, vì ly dị… v..v…v à biết đâu chỉ vì…. nhà hàng xóm. 

Gia đình anh chị Mễ này không chịu nổi mụ hàng xóm khó tính như chị Bông, một ngày nào đó họ cũng sẽ dọn đi cho khuất mắt?
Chị Bông chẳng cần cái hàng rào mới đẹp nữa cho hao tốn bạc tiền của mình và của hàng xóm và chị càng không mơ nhà to đẹp cao sang nữa khi tuổi đã xế chiều. 

Vì nhà to đẹp hay nhà cũ xấu cũng chỉ là quán trọ ven đường đời cho ta dừng chân và một ngày nào đó ta sẽ về nơi yên nghỉ sau cùng đó mới là căn nhà vĩnh cửu của riêng ta.

Nguyễn Thị Thanh Dương

From: TU-PHUNG

Bồ Công Anh Tháng Tư Bay Trong Gió…Truyện Ngắn – Phan

Truyện Ngắn – Phan

***

Bồ Công Anh Tháng Tư Bay Trong Gió…

Đêm qua mưa giông, chắc không riêng tôi một mình mà nhiều người cũng đã thức giấc bởi mưa gào thét trên mái nhà, nhưng bớt cơn thịnh nộ của đất trời khi đã quá nửa đêm cũng vẫn không ngủ lại được. Nếu không phải là nhiều người thì tôi cũng biết có một người đêm qua không ngủ là ông lính cũ mà tôi đã gặp chiều qua ngoài hồ Lavon.

Hôm qua ngày chủ nhật nên nhiều người đi câu vì không phải đi làm. Phần người đi câu để kiếm cá về ăn cho đỡ tiền chợ thời lạm phát khó khăn thì phải đi sớm bởi cá ăn mạnh giấc hừng đông, đi sớm mới có chỗ tốt chứ đi muộn thì những người đi sớm đã chiếm hết chỗ đắc địa theo chiều gió và luồng nước. Thường thì những người đi câu sớm cũng chỉ câu đến chín, mười giờ sẽ ra về vì đã thấm mệt, đói, nhất là nắng đã bắt đầu gay gắt nên về. Hôm nào đủ số cá cho phép được bắt là hai mươi lăm con cá

Tôi lững thững xách đồ câu vào bãi câu lúc mười giờ sáng cho vắng người, nhưng cũng còn người quen là anh Hoàng. Tôi hỏi anh, “anh đi câu không biết mệt hả anh Hoàng? Tối hôm qua, mấy giờ anh về mà sáng nay lại đi câu sớm?” Anh trả lời tôi, “Tối hôm qua em phải về để tính lương cho thợ cuối tuần chứ em muốn câu tới sáng luôn, hôm qua cá ăn giựt không kịp, mê quá. Hôm qua em hên nên không gặp người xét cá, câu mê nên về nhà mới biết là ba mươi con. Năm nay nghe đâu câu quá số lượng cho phép sẽ bị phạt nặng và tước bằng câu luôn. Anh có biết gì không?”

“Tôi chưa nghe, hôm trước đi mua giấy phép câu cho năm nay cũng đâu nghe nói. Thôi để tôi tìm hiểu rồi cho anh hay sau. Vậy anh làm gì với ba mươi con cá, không lẽ ăn từ tối hôm qua tới sáng nay vừa hết nên sáng ra đi câu tiếp…”

“Đâu có. Hôm qua em về shop để tính lương cho anh em cuối tuần. Em lo sổ sách, anh em nướng hết thùng cá luôn. Cá tươi nướng xù, cuốn bánh tráng, bún, rau sống… nhậu quá đã mà cũng không hết. Mọi người chia nhau đem về nhà ăn tiếp.”

********

Tôi biết anh Hoàng là chủ tiệm sửa xe, làm đồng xe luôn nữa nên anh rất khá. Anh hay kể tôi nghe chuyện trốn việc làm ăn để đi câu, vợ nhằn hoài nhưng lỡ có bệnh ghiền câu thì biết làm sao. Anh ta ghiền tới mức lo cho con đi ngủ sớm, lên giường xạo xạo với vợ như bình thường nhưng thực bụng chỉ chờ vợ ngủ khò là anh lặng lẽ trốn đi câu đêm.

Anh rất hào sảng, chịu chơi, con người rộng rãi đúng là dân nam bộ và tôi sợ nhất là khi cá ăn cần này, cần kia, anh cứ chân trần mà chạy trên bãi câu đầy mảnh chai vỡ. Anh thích đi chân trần như tìm lại quê hương, tuổi thơ đã mịt mù vì anh xa quê đã lâu, xa từ nhỏ nên ăn học bên này, có bằng kỹ sư cơ khí, sửa xe cho hãng Toyota vài năm lấy kinh nghiệm rồi ra mở tiệm sửa xe riêng. Có lẽ chính anh cũng không biết, còn tôi không hiểu sao anh lại giữ nguyên được phong cách của một người miền tây sông nước rất dễ mến.

Tôi với anh Hoàng vừa câu vừa trò chuyện về chiến tranh Nga với Ukraine. Bỗng xa xa sau lưng, tôi thấy một ông già cao, gầy, yếu ớt. Tay ông xách cái thùng đựng cá, tay kia cầm cần câu, vai đeo túi đồ câu có vẻ chuyên nghiệp. Nhưng dáng ông đi như phụ sản sau khi sanh, từng bước từng bước thầm nặng nề, mệt nhọc. Tôi thương hại ông đã già, yếu sức đến gió ngoài hồ có thể thổi ông ngã được, vậy mà còn phải đi câu để kiếm cá về ăn. Tôi nghĩ đến việc cho ông cá để ông khỏi phải câu, nhưng việc cần làm trước là giúp ông một tay. Tôi bỏ câu, chạy đến giúp ông mang đồ câu của ông ra bãi. Ông dừng chân để thở lúc tôi đến bên ông. Tôi nói, “Anh đưa tôi xách phụ cho. Đừng ráng. Tôi thấy anh không khoẻ.” Ông khẽ nói nhưng tôi nghe được, “Anh cứ để tôi. Một lát nữa nói chuyện sau. Cảm ơn anh.”

Tôi trở lại chỗ câu, nói với Hoàng, “Ông anh không khoẻ, còn bướng. Tôi xách phụ cho đồ câu lại từ chối…”

Hoàng nhỏ hơn tôi cả chục tuổi nên gọi ông ta bằng chú khi Hoàng quay lại nhìn ông, rồi lên tiếng, “Chú Hiền. Hôm nay chú khoẻ nhiều chưa? Bỏ đồ xuống đất đi, để con ra con xách dùm cho.”

Ông cười nhẹ như bồ công anh tháng tư bay trong gió, nhưng vẫn kiên trì từng bước thầm. Tôi mặc kệ hai người họ trò chuyện để làm việc của mình. Một lát, nhìn sang ông cũng đã ra cần dù chỉ một cây thôi. Ông ngồi nhìn mênh mông nước, bao la sóng từ đâu, về đâu trong tiết tháng tư không nắng cũng không mưa như thơ Hồ Dzếnh. Bỗng nhớ ra câu thơ man mác buồn,

“Có gì đâu? Tôi giúp anh là để dành cho tôi khi tôi bằng tuổi anh. Còn thật lòng thì tôi thấy anh ra đây không tiện cho lắm vì gió to sóng lớn.” Tôi nói vậy.

Anh ra chiều suy tư mới trả lời, “Vậy thì khi anh bằng tuổi tôi anh sẽ hiểu. Vợ con tôi ở nhà, ngay đến cháu ngoại tôi cũng không muốn tôi ra đây làm gì với sóng to gió lớn. Nhưng tôi bị đột qụy anh ạ! Nằm hết mấy tháng, chân đi không được, vợ phải tắm cho tôi. Tôi không sợ chết nhưng không muốn xa người thân nên tôi phải tự đứng dậy. Tôi tự tập đi ở nhà, té lên té xuống không sợ. Dần dần tôi lái xe lại được, đi ra tận đây được. Ra đây chỉ để hít thở không khí, ra đây một mình được nghĩa là mình chưa đầu hàng. Mấy hôm trước, tuần trước, những người bạn trẻ giúp tôi vào đến đây. Họ nhường cho tôi cả ghế ngồi mà họ đem theo, nhưng hôm nay tôi đem theo đồ câu như xưa thường đi câu cá để rèn luyện thể lực khi tôi đã tự đi lại được rồi…”

Ông chào tôi lần nữa rồi về chỗ. Tôi để mắt đến ông thường hơn, thì ra ông câu cá nhưng không có lưỡi câu, chỉ có hòn chì cho ông ném ra, quay vào… ông tập thể lực. Cũng có lúc ông gục đầu xuống như một người đã thấm mệt, nhưng ông lại ngẩng đầu lên như chưa chịu đầu hàng.

Tôi nói nhỏ với Hoàng, “Sao tôi lại chưa gặp ông Hiền này ở đây bao giờ?” Theo Hoàng nói với tôi, “Chú Hiền này vui tính lắm. Mấy năm trước còn đi câu chung với vợ, nhưng nay cô yếu rồi nên chú đi một mình. Chú mới bị stroke chừng nửa năm nay nên yếu xìu luôn như bây giờ. Nhưng ông già kiên cường, vẫn trở lại đây để tập thể dục, hít thở không khí ngoài hồ cho khoẻ. Mới tháng trước, tụi em phải chở chú về nhà, chở con chú ra lấy xe, nhưng ông già phải nói là kiên cường. Nay chú đi lại được là kỳ tích rồi đó anh…”

Tôi có lòng cảm mến nghị lực của ông nên mon men qua chỗ ông trò chuyện. Biết ra ông là đại úy pháo binh. Theo ông cho biết cũng hệt như đoạn văn của nhà văn quân đội Lâm Chương viết về người lính Việt nam Cộng hoà, “đời người ta đẹp nhất từ tuổi hai mươi tới bốn mươi lăm, thì mười năm khoác áo lính, mười năm khoác áo tù. Bây giờ không nhậu thì làm gì cho hết nửa đời sau…” Nhưng chú Hiền đây không nhậu cho hết nửa đời sau mà làm hai công việc, bên Mỹ hay nói là làm hai

Tôi với anh nói tới quê nhà, nói chuyện ba mươi tháng tư một chín bảy lăm. Hai thế hệ không thể cùng suy nghĩ nhưng đồng cảm với nhau là vô biên về vết thương lòng, về khắc khoải khi chiến tranh tàn, về trăn trở xa quê…

Anh Hoàng vẫn miệt mài câu cá nhưng để mắt đến chúng tôi nhiều hơn. Anh cởi áo khoác khoác thêm cho chú Hiền của anh vì trời trở gió. Người lính già nở nụ cười nhẹ bâng như hoa bồ công anh tháng tư bay trong gió. Tôi tự hỏi đã bao người lính miền nam không hy sinh trong chiến tranh nhưng chết dần chết mòn trong hoà bình phân biệt đối xử ở quê nhà, bao người chết không nhắm mắt ở quê xa với tâm thức tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên?

Chiến tranh và hoà bình như cái đồng hồ cát, chẳng bao giờ dung hoà, quân bình được. Bằng chứng đã bốn mươi bảy năm trôi qua cuộc nam bắc phân tranh, những người đời sau xem chiến tranh Việt nam không khác gì những trang lịch sử chống ngoại xâm của tiền nhân, cha ông, những trang sử u buồn của thời bắc thuộc, thời tây sang đô hộ nước ta. Những kiến thức lịch sử cho người có học về lịch sử nhưng cảm xúc chỉ như người ngoài cuộc là cùng nên bốn mươi bảy năm đã trôi qua hững hờ với người có biết hoặc còn quan tâm…

Tôi miên man theo dòng cảm nghĩ thì anh chợt hỏi tôi, “Theo anh, cuộc chiến Nga với Ukraine sẽ đi về đâu, liệu có giống với chiến tranh Việt nam của chúng ta?”

Tôi thưa chuyện với anh, “Theo em thì không giống vì em căn cứ theo lịch sử thì người Nga sống trên đất Ukraine không ít và lâu đời. Nhưng theo mặt lịch sử thì hai dân tộc chẳng xung đột gì nhau như Việt-Miên-Lào chúng ta sống chung đâu có phân biệt gì! Vấn đề là ông Putin chính trị hoá vấn đề sắc tộc để tạo ra cuộc chiến thôn tính. Về tình hình chiến sự thì anh cũng dư biết rồi vì anh có thời gian xem tin tức nhiều hơn cả em.

Nhưng cảm nhận riêng thì em nghĩ: Ukraine đã đánh bại Nga trong giai đoạn đầu, giai đoạn hai đã bắt đầu. Và cuộc chiến tại Ukraine đang bước sang tháng thứ ba và có thể kéo dài vì Putin không thể thua mà phương tây và Hoa kỳ cũng khó thắng vì chi viện chỉ ở mức cho Ukraine cầm cự chứ không đủ sức phản công thì bao giờ mới kết thúc chiến tranh được.

Thêm một ước đoán của em là cho dù Putin chiếm trọn được Ukraine, bất chấp thủ đoạn và thiệt hại kinh tế thì quân kháng chiến Ukraine sẽ hình thành và phát triển với trợ lực từ Hoa kỳ và phương tây vì Ukraine là vùng đệm giữa Nga với tây phương, vùng đệm giữa chủ nghĩa tư bản và cộng sản nên bên nào cũng muốn giành quyền kiểm soát. Cuộc chiến này xem ra còn nhiều mất mát cho người dân vì vũ khí hiện đại bây giờ tạo ra sức sát hại, phá hoại cơ sở hạ tầng khủng khiếp hơn xưa nhiều.

Nói đến thắng bại thì bên Ukraine có tinh thần chiến đấu cao hơn bên Nga, lòng quyết chiến của bên giữ đất bao giờ cũng cao hơn bên cướp đất như cha ông ta thắng giặc phương bắc nhiều lần sang cướp đất nước ta. Tâm lý người giữ nước là chấp nhận hy sinh, tình nguyện hy sinh vì mất nước là mất hết, nước mất thì làm sao còn nhà. Chuyện này chúng ta đã từng trải qua sau khi miền nam thất thủ. Nhưng kẻ đi cướp nước thì không đủ dũng khí vì được sẽ tốt, nhưng không được cũng không đáng để mất mạng…

Theo em, tình huống xấu nhất cho ông Putin là cuộc chiến sẽ kết thúc trong một thất bại quân sự toàn diện, với sự sụp đổ của các khu vực thân Nga ở Donbas và Moldova và sự hội nhập của Ukraine vào khối liên minh phương tây. Một cuộc thất bại như thế sẽ không chỉ là một sự sỉ nhục cá nhân nhà độc tài Putin mà nó kết thúc luôn sự nghiệp chính trị của ông Putin. \

Tầm ảnh hưởng lan rộng sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng về tâm lý đối với vị thế và hình ảnh của nước Nga trên bình diện quốc tế. Lịch sử nước Nga sẽ thay đổi và sẽ bước qua một trang mới. Chuyến này ông Putin không có đường quay lại, quay về. Ông chỉ có thắng bằng mọi giá hay mất hết, trắng tay. Sự tàn khốc sẽ ghê gớm lắm trong đợt hai chiến dịch quân sự đặc biệt đầy giả trá của ông Putin. Nó không giống chiến tranh Việt nam là chiến tranh ý thức hệ. Cuộc chiến Việt nam mang tầm vóc thế giới về ý thức hệ quốc-cộng, khác với cuộc chiến Ukraine và Nga là cuộc chiến xâm lăng.”

Anh Hiền nói cảm ơn tôi phân tích rồi cúi đầu lặng lẽ suy nghĩ. Hoàng ra dấu cho tôi để chú ấy nghỉ ngơi. Bồ công anh tháng tư vẫn bay trong gió đã bao thế hệ ưu tư, muộn phiền về cuộc chiến đã kết thúc bốn mươi bảy năm qua nhưng chưa hề có hoà bình. Có lẽ đêm qua anh Hiền cũng khó ngủ, hay khó ngủ lại với mưa giông ngoài trời và những u uẩn trong lòng mỗi độ tháng tư về…

Mẩu chuyện Thiền ‘Thế à?’

Mẩu chuyện Thiền ‘Thế à?’

 

Chuyện thiền tông Nhật Bản có ghi chép lại rằng: thiền sư Hakuin Ekaku (1686-1768) là một vị thầy đạo hạnh khiêm nhu, lối sống giản dị, thanh tịnh.

Cạnh thiền tự nơi ngài sinh sống có một gia đình làm nghề buôn bán. Một ngày nọ, gia nhân bất ngờ phát giác cô con gái trong nhà có thai mà không biết cha đứa trẻ là ai. Bị người nhà đánh đập dọa nạt, cô gái khai rằng đã tằng tịu với sư Hakuin và cái thai này là con của ông.

Gia đình vô cùng tức giận lên chùa bắt sư Hakuin phải chịu trách nhiệm với con gái mình. Nhà sư nghe xong câu chuyện chỉ nói hai từ: “Thế à!”

Cô gái sinh con xong, đứa bé sơ sinh liền được mang tới nhà chùa. Sư Hakuin ẵm đứa trẻ đi khắp nơi xin sữa, xin vật dụng áo quần từ các gia đình trong làng. Ông chăm sóc đứa bé tận tụy như một người mẹ chăm nom đứa con duy nhất.

Lúc này, danh dự của nhà sư bị tổn hại nghiêm trọng nhưng trước những câu hỏi cạnh khóe, ngài chỉ trả lời bằng hai chữ: “Thế à!”

Càng lớn đứa trẻ nhìn càng không giống nhà sư, cả làng lúc này mới xì xào rằng hình như ông bị oan. Đến khi không thể giấu nổi sự việc nữa, cô gái khóc lóc quỳ lạy xin sư Hakuin tha thứ và thú nhận đứa bé là con anh hàng cá ở ngoài chợ.

Lúc này thiền sư Hakuin chỉ đáp: “Thế à!”. Rồi ông trao lại đứa bé cho cô gái, quay lại thiền tự sống.

Bình thường tâm là “đạo”

Giữa dòng đời vạn biến của vinh-nhục, khen-chê, giữ được tâm bình thường như thiền sư Hakuin chính là đạo lớn.

Điều này quả là rất khó khi bạn đang ở trong nhịp sống gấp gáp, vội vã thường ngày.

Khi một ai đó khen bạn hay chê bạn, điều đó không làm phẩm tính của bạn tăng lên hoặc giảm đi. Nếu như sư Hakuin có lối sống phóng túng, thì việc khen nhà sư là vị thầy đạo hạnh cũng không làm sư bớt phóng túng đi. Hoặc chê nhà sư chỉ là hạng “sư hổ mang” cũng không khiến ông trở nên phóng túng hơn.

Điều đó cho thấy, khen hay chê bản chất chỉ như những cơn gió, bị lay bởi nó thì “loạn”, ngược lại để nó tự đến tự đi thì “bình”.

Thiền sư là những người sống trong hiện tại đồng thời không nhầm lẫn về hiện tại. Việc gì đến thì giải quyết nó một cách tốt nhất, đồng thời hiểu được mọi việc nên để “tùy duyên”, không thể cưỡng cầu.

Sống thuận nhân duyên

Đứa bé đến với nhà sư là do duyên, muốn tránh cũng không được. Đứa bé ra đi cũng bởi hết duyên, muốn giữ lại nuôi tiếp cũng chẳng xong. Bởi thế mà nhà sư có thể sống được tùy duyên, tùy hoàn cảnh mà làm điều tốt nhất có thể vì lợi ích cho mọi người.

Chúng ta không hề thấy câu chuyện này có một sự “nghiến răng chịu đựng chờ ngày minh oan” ở phía vị thiền sư, mà chỉ thấy trước mọi sự biến đổi thái độ của ông vẫn thản thiên: “Thế à!”.

Bị vu oan cũng “Thế à”, được minh oan cũng chỉ “Thế à”, bởi nhà sư đã hiểu nhân duyên diễn biến như vậy, như dòng sông cuồn cuộn chẩy không thể chống lại được.

Đức Guendune Rinpoche khi còn sống từng ghi lại một bài ca thiền nói về sự thả lỏng:

“Khi muốn nắm bắt cái không nắm bắt được, bạn sẽ bị đuối sức một cách vô ích

Khi mở bàn tay đang tham lam nắm giữ ấy ra, thì không gian xuất hiện ngay: mở rộng, đón nhận, dễ chịu.”

Đức Guendune Rinpoche

Thế giới vận hành theo quy luật của nó, bạn có quyền lựa chọn tận hưởng hoặc chịu đựng, nhưng khi lựa chọn hãy làm việc tốt nhất có thể trên cơ sở ích lợi cho mọi người và buông xả trong tâm mình, đó là chìa khóa để “tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”.

Mẹ già như chuối ba hương, như xôi nếp một, như đường mía lau


Con dâu vừa cấn thai thì xin phép về ở nhà cha mẹ để đi làm gần nhà và tiện dưỡng thai. Thương dâu, ông bà vui vẻ kêu con trai đi cùng để tiện chăm sóc vợ.

Nghe tin con dâu sắp sanh, ông bà chở nhau đến bệnh viện. Thấy con dâu đang nằm bấm điện thoại, bà yên tâm:

– Không đau nhiều hả con?

Con dâu hờ hững:

– Ba má tới sớm vậy? Tối con mới sinh.

Bà vồn vã:

– Ờ, vậy bác sĩ khám rồi hả con?

– Không, con hẹn bác sĩ quen mổ.

Bà lo sợ :

– Sao phải mổ hả con?

Con dâu buông điện thoại, xoa bụng:

– Không có gì đâu, con coi ngày tốt để cho cháu chào đời.

Vậy mà ông bà cũng luẩn quẩn ở bệnh viện, ăn cơm ở căn tin xem họ nấu có chất lượng không, lo con dâu không ngon miệng, không đủ bổ dưỡng. Mãi đến chiều tối, khi con trai đưa bà sui đến, ông bà mới yên tâm ra về.” Sanh đẻ mà thui thủi một mình tủi lắm”. Con dâu nói với theo:

– Ba má cứ ở nhà, mai sẽ có cháu bồng mà.

Mỗi sáng, ông bà có thêm niềm vui qua nhà sui gia thăm cháu, bao giờ cũng mang theo ký thịt, con gà, bánh trái:

– Con gái sanh đẻ lạt miệng, chị sui biết ý nấu cho vừa miệng con.

Cháu đầy tháng, ông bà được mời dự với tư cách khách mời!

Khi con dâu hết hạn hộ sản, ông bà gợi ý con trai đưa vợ con về nội để bà chăm sóc vì ông bà ngoại thường bận hội này họp nọ. Con trai nói:

– Để con tính. Sợ ông bà ngoại mến tay mến chân không chịu xa. Mà nhà cũng có người giúp việc.

Thế là ông bà vài ngày lại lóc cóc chở nhau đi thăm cháu. Ông ít nói nhưng hay nựng nịu cháu:

– Chừng nào cháu mới về ở với ông bà nội đây?

Ông sui nằm bệnh viện 2 tháng rồi mất. Con dâu nói không nỡ để mẹ một mình nên xin tiếp tục ở bên ngoại. Ông bà lại lấy việc chở nhau đi thăm con và cháu làm niềm vui.

Đến lúc cháu 5 tuổi, ông bị đột quỵ, qua đời. Đưa tang cha xong, con trai lẩn quẩn bên mẹ, không đành ra về:

– Chắc tụi con sẽ sắp xếp về bên này. Má ở một mình con không yên tâm.

Bà sung sướng nhìn con, thầm cám ơn con trai đã nghĩ đến điều bà hằng mong ước.

Nhưng điều đó không xảy ra. Đêm cúng thất, bà nghe con dâu nói với con trai:

– Về đây rồi bỏ mẹ một mình sao? Nhà gần mà, anh chịu khó qua thăm má là được rồi.

Sau đó, trên bàn ăn, con dâu nói dứt khoát:

– Ở đây hơi xa, tụi con đi làm không tiện. Mà cháu quen được ngoại chăm rồi, sợ về chỗ lạ cháu không quen. Vậy để cuối tuần tụi con đưa cháu về thăm cho bà nội đỡ buồn.

Thế là bà cứ một mình. Không có ông đưa đón, bà ít đi đâu, chỉ mong mau tới cuối tuần để nấu bữa ăn ngon cho con cháu..

Thời gian đầu, con trai đưa vợ con về ăn với nội, sau chỉ có con trai đưa cháu nội về, rồi thì…con trai đưa cháu tới nhà nội và vội đi. Cuối tuần, ai cũng bận bạn bè, tiệc cơ quan, tiệc cưới, …bà hiểu!

Nhìn mâm cơm đầy thức ăn con cháu thích, chỉ có hai bà cháu dỗ nhau ăn, bà cố gắng không nghĩ gì để khỏi buồn….

Bà thường để thức ăn vào hộp lớn hộp bé cho cháu mang về. Có lần bà dặn cháu:

– Xôi này con thích nè, để mai ăn sáng.

Thằng bé thật thà nói:

– Ngoại với mẹ không cho con ăn đồ cũ. Mấy cái này ba đem vô công ty ăn không hà.

Bà hơi khựng lại, một chút suy nghĩ…!

Nhưng rồi bà vẫn quen nấu nhiều món ăn vào chiều thứ bảy để đón con cháu (bây giờ thì chỉ có cháu) và vô hộp cho cháu mang về.

Chiều nay, vợ chồng con trai đến rước con sớm hơn thường lệ. Bà vội ra nhà sau lấy thức ăn vào hộp. Khi trở lại phòng khách, bà nghe tiếng con dâu cằn nhằn: ” Nấu gì mà nhiều quá, có mình thằng nhỏ ăn. Má phung phí quá đi”. Tiếng con trai ngắt lời vợ: “Em đừng nói vậy . Má nấu cho tụi mình, tại mình không về ăn. Để anh đem vô công ty ăn cũng được mà”. Con dâu vẫn tiếp: “Xì, có anh tiếc mới ăn đồ cũ. Mà thằng nhỏ bị ăn ở đây riết rồi hết biết ăn nhà hàng luôn”. Bà đứng lặng hồi lâu rồi vờ ho để báo hiệu và bước ra với túi thức ăn. Bà đưa con cháu ra cổng rồi quay vào ngay, không đứng nhìn theo như mọi lần, cũng không chờ con trai dặn mẹ đóng cửa và chờ mẹ đóng hẳn cửa rào rồi mới cho xe đi. Con trai nhìn theo mẹ, cảm nhận có điều gì đó trong mắt mẹ.

Trưa hôm sau, con trai ghé nhà mẹ. Bà đang ngồi một mình ở bàn ăn với dĩa bầu luộc và chén cá kho. Anh ấp úng hỏi một câu thật thừa :

– Má…ăn cơm hả?

Tự dưng bà cũng ấp úng:

– Ừ…, à…, con ăn chưa?…ăn với má luôn nghe. Để má chiên thêm cái trứng.

Con trai chỉ “dạ” rồi bước nhanh ra hè để mẹ không thấy nước mắt anh chực trào ra. Anh giả vờ nhìn cây cảnh thật lâu để dằn nén cảm xúc rồi mới vào nhà. Mâm cơm có thêm dĩa trứng và dĩa dưa leo. Hai mẹ con ngồi ăn trong im lặng. Con trai sợ chỉ cần mở miệng ra, anh sẽ khóc. Bà cũng nhìn con trai ăn, nhớ những bữa cơm cả nhà cùng ăn trong tiếng cười nói vui vẻ của chồng con. Thật lâu, anh mới hỏi:

– Má thường ăn ít vậy sao? Ý anh là ” ít thức ăn” nhưng anh cứ nghẹn lời. Bà hỏi lại:

– Con no chưa? … Thì…lâu nay má cũng ăn vậy mà….

Con trai lặng người, mím chặt môi khi nhớ đến những hộp thúc ăn ngon lành mà mẹ gói ghém cho cháu mang về mỗi tối thứ bảy, vẫn thường bị bỏ quên trong tủ lạnh hoặc chỉ một mình anh ăn. Anh cũng liên tưởng ngay đến những bữa ăn thừa mứa ở nhà hàng mà mẹ vợ và vợ thích mê…..Anh dọn chén bát đi rửa, cố làm một việc gì đó để tránh nhìn vào mắt mẹ, đôi mắt cam chịu, ẩn nhẫn…

Bà đang ngồi chờ anh ở bàn với hai tách trà nóng. Con trai nhận ra hương trà thơm ngày trước ba vẫn uống và cũng nhận ra sự cô đơn mẹ đã phải chịu đựng bấy lâu, từ khi vắng ba. Tự nhiên anh nắm lấy tay mẹ, nắm thật lâu mà không biết nên nói gì. Nhưng bà hiểu, bà vỗ về bàn tay chưa khô nước của con, nói thay con:

– Không sao đâu con, má tự lo được. Con đừng lo nghĩ gì…

Rồi như sợ con trai sẽ khó xử, như lâu nay bà vẫn sợ, bà nói luôn:

– Má sẽ kêu dì Sáu lên ở với Má . Dưới quê dì cũng ở một mình….Mà…vợ con con cũng quen ở bên đó rồi…Cũng không thể để chị sui ở một mình. Lớn tuổi rồi, ở một mình tội lắm…

Anh muốn khóc khi thấy mẹ cười, nụ cười hiền lành, bao dung muôn thuở:

– Không sao đâu con, miễn sao ai cũng vui vẻ, thoải mái là được mà.

Ôi, làm sao mà “không sao” được Má ơi! Anh áp tay mẹ vào má mình , đôi bàn tay khô quắt mà luôn ấm áp nghĩa tình này , bao lâu rồi anh chưa nắm lại?

– Dạ , con sẽ sắp xếp để về với Má nhiều hơn, nghe Má.

Thật sự, anh cũng chưa biết sẽ sắp xếp thế nào nhưng anh thấy nhẹ lòng khi nói ra được như vậy và cảm thấy thật hạnh phúc khi nhìn đôi mắt sáng niềm hi vọng của mẹ.

Sưu tầm

share từ FB Bùi Văn Phùng   

NGÀY CỦA MẸ… Con Đẻ, Con Nuôi

Van Pham

NGÀY CỦA MẸ…

*******

Con Đẻ, Con Nuôi

Nó chạy như bay sang nhà cô Bảy:

– Anh Hoan là con nuôi của Mẹ con sao? Ai nói với cô vậy?

– Vì cô là người đỡ đẻ nên cô biết!

– Cô nói dối! Nhà con đông anh chị em sao lại phải nhận con nuôi? Cô không được nói bậy, anh con mà biết là con sẽ không tha thứ cho cô đâu, nghe rõ không.

Nó vùng vằng bỏ đi, dáng vẻ thật tội nghiệp, cái đầu nghiêng nghiêng và cứ lắc lắc liên tục. Chắc có lẽ Nó muốn rũ bỏ những câu nói của cô Bảy hàng xóm và cũng có lẽ… Nó muốn có một câu trả lời từ Mẹ, nhưng Mẹ Nó đang phải nằm viện vì bệnh cũ tái phát. Còn Ba, Nó không biết là ông đã rời xa anh chị em Nó từ lúc nào, lớn lên Nó chỉ biết Ba bỏ đi khỏi nhà khi thằng Út Ьị mù đôi mắt mà thôi.

Mẹ Nó là một người phụ nữ xinh đẹp và đôn hậu. Bà lấy chồng sớm lắm, mới 19 tuổi đã làm Mẹ. Anh Hai nó tên Hoàng 26 tuổi đang làm việc ở văn phòng trong tòa cao ốc, Mẹ Nó mới gần 50 tuổi, nhìn qua người ta cứ tưởng là chị em cơ đấy. Chị Ba tên Liên 21 tuổi, xinh đẹp như Mẹ, da trắng tóc dài, đang học năm cuối Đại học Kinh tế. Anh Tư tên Hoan 18 tuổi, da hơi ngăm ngăm và có khuôn mặt thật đẹp, vuông và trán cao đang học lớp 12, chuẩn bị thi vào Đại học. Nó tên Hùng,15 tuổi và thằng Út tên Dūng 13 tuổi.

À, Nó hiểu rồi, vì mấy anh chị em nhà Nó da đều trắng, chỉ có anh Tư Hoan là da ngăm đen, cái cô Bảy này nói đùa thôi, thế mà cũng bực mình. Nó cười… đi vào bệnh viện với Mẹ, thay cho anh Hai về để chở Út đi học ở trường dành cho trẻ em khuyết tật rồi anh đi làm luôn thể!

Đến cửa, Nó nghe Mẹ đang nói chuyện với một người đàn bà lạ, Nó chưa gặp bao giờ. Nó dừng chân vì nghe Mẹ nói:

– Khi chị bỏ con, chị không nghĩ sẽ có ngày này sao? Chị có biết nếu tôi không đến kịp thì thằng Tư đã bị kiến cắn nát người rồi còn đâu. Máu lạnh, cáс người thật là nhẫn tâm!

Mẹ vò tay lên ngực thở dốc. Nó chạy vào không để người đàn bà đó chạm tay vào người Mẹ Nó. Thật đáng ghét mà!!!

Khi tỉnh trí, Nó thấy Mẹ bối rối:

– Con đến lâu chưa, người ta nhờ Mẹ tìm kiếм con bị thất lạc, con à!

Nó nói dối là Nó vừa tới, nhưng Nó lại lộ rõ khuôn mặt thảng thốt, Mẹ quay đi lau giọt nước mắt đang trào ra. Mẹ cầm tay nó như cầm lấy tay tay của người đàn ông thực thụ

– Con đừng bao giờ nói với anh Tư chuyện này nghe chưa con, Mẹ xin con đấy. Tội nghiệp anh nghe con!

Nó gật đầu chắc chắn…

Rồi Mẹ kể cho Nó nghe chuyện anh Tư của Nó:

– Lúc đó Mẹ và cô Bảy cùng làm hộ lý cho Bệnh viện Phụ sản. Mẹ và Ba đã có hai người con là anh hai, chị ba, Ba đi làm ăn xa tận Campuchia. Mẹ vừa đi làm vừa nuôi con một mình. Một ngày nọ, khi tan giờ làm Mẹ về gần tới nhà đã 12 giờ khuya, thì có người gọi: có đứa trẻ bị bỏ rơi, kiến bu đầy người! Theo phản xạ Mẹ chạy đến và quấn chặt đứa bé rồi chạy ngược vào Bệnh viện… Мay mà kịp! Rồi thương yêu và Mẹ nhận nuôi thằng bé, đó là anh Tư con. Đã gần 20 năm sao người ta lại còn trở về đòi nhận con!

– Mẹ nuôi anh Tư bị bà con hàng xóm dị nghị: Mẹ không chính chuyên! Ba cũng nghe lời người ta ruồng rẫy Mẹ, đay nghiến Mẹ… Ba đã không cho Mẹ, cô Bảy và cơ quan Mẹ giải thích. Cũng được thôi! Khi đã không còn tình cảm với nhau thì cố níu kéo cũng vô ích. Con hiểu điều đó, đúng không con?

– Bù lại , anh Tư con thật kháu khỉnh và thật thông minh, Mẹ và anh chị con vui lòng vì điều đó!

Bất chợt như nghĩ ra điều gì, Nó hỏi:

– Rồi Ba lại về rồi mới đẻ ra con và Út hả Mẹ?

Mẹ cười thật hiền. Ngừng lại thật lâu, thật lâu như đang nghỉ ngơi cho lại sức. Mẹ nhìn ra phía xa xăm rồi cầm lấy hai bàn tay Nó, nhìn vào đôi mắt Nó… Mẹ nói:

– Ờ ! Nhưng mà là con người kháс đẻ ra. Con và em Dũng là con của Ba và một người kháс mang về để Mẹ nuôi, người đàn bà đó cũng bỏ đi… khi thấy em vừa sinh ra đời đã bị mù đôi mắt con ạ. Ba đành ôm hai con về cho Mẹ nhờ Mẹ chăm sóc nuôi dưỡng. Vậy là gia đình mình có 5 anh chị em đó. Ba cũng mất rồi, mọi chuyện đối với Mẹ là Ông Trời đã thương và cho Mẹ những đứa con tuyệt vời. Con hiểu không con?

Trời ơi! Vậy là… Nó ngồi lặng đi… Nó bây giờ mới biết được MÌNH LÀ AI???

Nhưng Mẹ Nó… một người Mẹ không có ai trên đời có thể thay thế được cả. Nó ôm chặt lấy Mẹ và … khóc!!!

Lời Biết Ơn Muộn Màng – Điệp Mỹ Linh

Lời Biết Ơn Muộn Màng – Điệp Mỹ Linh

Nhận được email của một độc giả, với hai đoạn trích dẫn và câu hỏi: “Chị Điệp Mỹ Linh! Vì cũng là người Dalat, khi đọc truyện ngắn Cuộc Tình Xót Xa, trong tập truyện Tìm Vết Chân Xưa, tôi ngạc nhiên, tự hỏi: Hai đoạn văn trích dẫn sau đây là hư cấu, viết theo lời kể của ai hay là chị viết về kỷ niệm tuổi thơ của chị mà sao lại giống hoàn cảnh của tôi?…”

“… Nhìn ngôi biệt thự có hai hàng hồng dọc theo con dốc nhỏ, Bảo-Trân tưởng như nàng có thể thấy được đứa bé gái mặc áo đầm trắng, mang giày đỏ, chiếc nơ cài trên mái tóc bum-bê cũng màu đỏ, đang níu tay Ngoại, đòi đi mua kẹo kéo. Như mọi hôm, Ngoại bảo cậu Út, khoảng hơn mười tuổi, gọi chú tài lái xe đưa hai cậu cháu đi xuống phố mua kẹo kéo…”

“… Khi cậu bé trở lại xe, tay cầm mẫu kẹo kéo, đứa bé gái vỗ hai tay vào nhau, gương mặt rạng rỡ. Ðón nhận mẫu kẹo từ tay người cậu xong, đứa bé lại vòi vĩnh: “Cậu cho em xuống ngồi chỗ bậc cấp coi Ba Má đi xe đạp, nhen, cậu!” Cậu bé giả vờ nghiêm nét mặt, mắt lườm lườm để thị oai với cháu: “Mày cứ lộn xộn, nhõng nhẽo không hà! Chiều nào cũng bắt tao dẫn đi mua kẹo kéo, rồi lại đòi tới bậc cấp ngồi, để tối về mày bị sổ mũi cho tao bị la, hả?” Thấy đứa bé gái rơm rớm nước mắt, môi trề ra như sắp khóc, cậu bé vừa mở cửa ngồi vào băng sau vừa cười: “Cho tao cắn một miếng kẹo kéo thì tao cho đi.” Ðứa bé gái dấu mẫu kẹo sau lưng, lắc đầu. Cậu bé năn nỉ: “Cho cậu cắn một tý thôi, rồi cậu cho đi.” Ðứa bé gái đưa mẫu kẹo ra phía trước, ngắm nghía rồi bậm môi, lắc đầu. Người cậu che mặt, giả vờ khóc. Ðứa bé nhìn cậu bằng đôi mắt buồn hiu, rồi đưa mẫu kẹo cho cậu: “Nè, em cho cậu cắn miếng đó; mà cậu cắn chút xíu thôi, nhen!” (Hết trích)

Đọc xong email của vị độc giả cùng quê và hai phân đoạn trích dẫn, tự dưng tôi cảm thấy tim tôi nhói đau! Tại sao tôi có thể nhớ và diễn tả rõ ràng hình ảnh của đứa bé gái mà tôi lại không nhớ và không viết tí gì về người đã sinh ra đứa bé gái; cũng chính người đó đã mỗi ngày tự tay thay quần áo, mang giày, chải tóc, thắt nơ cho đứa bé ấy – chứ không để bà vú làm công việc đó?

Tôi nhận ra rằng: Quả thật, đã hơn một lần tôi viết về Ba tôi; nhưng chưa bao giờ tôi viết về Má tôi! Điều này cũng dễ hiểu, vì Ba tôi đã truyền cho tôi chút nghệ sĩ tính trong dòng máu và một tầm hồn ướt lệ; còn cá tính chân thật, cứng rắn và bộc trực, tôi thừa hưởng từ Má tôi.

Khi cả hai nhân vật đều có cá tính cứng rắn và bộc trực mà cùng sống dưới một mái nhà thì điều gì sẽ xảy ra?

Dù sao đi nữa, tôi cũng vẫn có lỗi đối với Má tôi!

Buồn quá, tôi nhìn qua khung cửa sổ, trên lầu. Vừa khi đó, hình ảnh Ba Má tôi đạp xe đạp cùng với mấy “ông Tây, bà Đầm”, quanh Hồ Xuân Hương, Dalat, vào những chiều xưa, lại hiện về…

Tôi thở dài! Cuộc sống của Má tôi, trong “vùng tạm chiếm” – danh từ do Việt Minh (tiền thân của cộng sản Việt Nam) thường dùng – thì “tân thời” đến như thế; nhưng khi Ba tôi theo kháng chiến chống Tây, cuộc sống của Má tôi trở nên bi thảm đến không ngờ!

Tôi vẫn nhớ, câu than thở duy nhất của Má tôi mỗi khi Má tôi buồn là: “Đi mần chi mà khổ như ri, Trời!” Dù cuộc sống cơ cực đến thế nào đi nữa, Má tôi cũng chỉ bán từ từ số nữ trang Má tôi đem theo; còn quần áo Má tôi vẫn giữ lại và mặc hằng ngày.

Vào một buổi tối, Ba tôi đi đâu tôi không biết; khi trở về, Ba tôi đốt điếu “thuốc rê”, ngồi trên chiếc “đòn ngồi”, nơi sân trước, mắt dõi về phương xa – thời điểm đó tôi chưa biết phân biệt phương hướng Đông/Tây/Nam/Bắc – thở dài từng hồi.

Khi đi ngủ, vì nhà chỉ có một chiếc giường tre, tôi và Linh – em tôi – được ngủ chung với Ba Má tôi. Tôi nghe Ba tôi thì thầm với Má tôi:

-Em cất hết quần áo của em và của con đi. Em tìm người may cho mẹ con em vài bộ bà ba, mặc cho giống người ta.

-Bộ “tụi hắn” – Việt Minh – cũng kiểm soát cả chuyện mặc áo quần nữa sao?

-“Tụi nó” kết tội anh là chưa “giác ngộ”, còn mang tư tưởng và hành động “tiểu tư sản”, cho con mặc áo đầm, vợ ăn mặc không đúng tiêu chuẩn!

-Trời! Thường dân mặc áo quần mà cũng phải theo tiêu chuẩn!

-Anh biết anh nhầm! Em đừng buồn nữa! Anh sẽ tìm mọi cách để đưa em và các con trở về, kịp để các con đi học.

Không biết Ba tôi có “tìm cách để trở về” hay không, nhưng tôi vẫn thấy Ba tôi thường vắng nhà; vì phải đưa đoàn văn nghệ đi trình diễn xa để ủy lạo bộ đội. Má tôi vừa là Mẹ vừa là bà giúp việc để nuôi dạy chị em tôi vừa cưỡng lại sự cám dỗ của nhiều cán bộ cao cấp.

Những khi Ba tôi không đưa ban văn nghệ lưu diễn xa, nhiều cán bộ cao cấp, mỗi chiều đều cưỡi ngựa, đeo súng lục bên hông, đến nhà Ba Má tôi học Pháp văn, do Ba tôi dạy. Sau khi các cán bộ vào nhà, họ bảo tôi hoặc Linh đóng cửa nhanh để khỏi ai thấy.

Hôm nào Ba tôi phải đi công tác, một số trong nhóm cán bộ cao cấp đó – từng người – thường đến nhà Ba Má tôi, cũng bằng ngựa và đeo súng lục.

Linh và tôi không được chơi với ai cả; suốt ngày, ăn xong, ra ngồi chơi cạnh hầm tròn, trước nhà, để dễ nhảy xuống hầm khi nghe máy bay đến. Từ vị trí này, khi nào cán bộ đến, cột giây cương của con ngựa vào gốc tre, tôi cũng thấy và hỏi:

-Bác à! Ba con không có ở nhà mà sao bác cứ tới nhà con hoài vậy?

Thế là cán bộ bị “quê xệ”, mở giây cương, leo lên lưng ngựa, đi.

Nhiều khi chị em tôi ham chơi, không để ý, đến khi thấy cán bộ đi vào nhà, Linh “phóng cái vù”, đứng chàng hảng, hai tay giăng ngang cửa, nghếch mặt nhìn cán bộ trong khi cán bộ gọi:

Chị Ngữ ơi! (Ngữ là tên của Ba tôi).

Khi nào cũng vậy, thấy tư thế của Linh, Má tôi cũng ôm Linh, hôn rồi bảo:

-Con khoanh tay chào bác, đi!

Linh không chào mà lại òa lên khóc! Thế là cán bộ trở ra, mở giây, lên ngựa, đi.

Trong “vùng kháng chiến”, mọi người đều ăn cơm độn – người địa phương gọi là “ghé” – khoai mì; riêng chị em tôi, Má tôi cho ăn cơm không “ghé” khoai mì và căn dặn:

-Nhớ đừng cho ai thấy các con ăn cơm trắng, nghe chưa! “Tụi hắn” mà biết được thì “tụi hắn” “nạo” Ba … trắng xương!

Tôi không hiểu hết nghĩa, nhưng, bằng vào ba tiếng rất tượng hình “nạo… trắng xương” cùng ánh mắt lo sợ, nhìn quanh và giọng nói thì thầm của Má tôi, tôi hiểu mức độ quan trọng của sự việc chị em tôi được ăn cơm trắng! Nhiều khi tôi hỏi Ba Má tôi:

-Sao Ba Má ăn cơm “ghé” khoai mì mà con với Linh không được ăn?

Ba tôi cười, xoa đầu tôi, đáp:

Cha mày! Vì con và Linh còn nhỏ, răng không mạnh bằng răng của Ba Má.

Tôi cứ tin rằng Ba tôi nói thật!

Một thời gian sau, Má tôi bắt đầu dạy tôi học “a, b, c…” phát âm theo tiếng Tây. Ba tôi dạy tôi đàn Mandoline và tập cho tôi hát.

Khi tập cho tôi hát bài nào Ba tôi cũng giải thích cho tôi hiểu ý nghĩa của lời ca rồi tập cho tôi diễn đạt ý nghĩa của lời ca qua giọng hát, bằng ánh mắt và bằng nét mặt. Từ đó, Ba tôi thường dẫn tôi theo để mấy cô chú trong ban văn nghệ nghe tôi hát rồi hát theo, tập cách biết lấy hơi, ngân dài và giữ nhịp. Thỉnh thoảng, trong những dịp lễ, tôi thường “solo” – động từ ngày đó thường dùng – những ca khúc có âm vực cao, khó hát.

Thời gian Ba tôi là Trưởng Ban Văn Nghệ Sở Quân Giới Liên Khu V, gia đình tôi sống tại làng Sơn Tịnh, Quảng Ngãi.

Trước hôm Ban Văn Nghệ trình diễn để toàn thể bộ đội và nhân viên Sở Quân Giới Liên Khi V thưởng thức, Ba tôi dẫn tôi theo để tôi cùng tập với ban nhạc đàn giây ca khúc Quê Nghèo của Phạm Duy.

Trong buổi tập chung kết đó, tôi thấy một cô tên Ngộ, tóc chải phồng hình chữ “S” ngay phía trên trán. Cô Ngộ rất tử tế với tôi và đặc biệt là cô Ngộ không rời Ba tôi. Không hiểu tại sao – ngay khi nhận ra cô Ngộ không rời Ba tôi – tôi bỗng cảm thấy tức giận và ghét cô Ngộ!

Về nhà, tôi thầm thì mách lại Má tôi về việc cô Ngộ. Má tôi im lặng, khóc!

Thấy Má tôi khóc, tôi thương Má tôi quá, nhưng tôi không biết làm thế nào để an ủi Má tôi!

Ngày đó, tôi không biết phải làm gì để an ủi Má tôi khi Má tôi hờn ghen.

Thế mà, sau khi tôi lập gia đình – với một sĩ quan tác chiến, rất “đào hoa”, rất “ba gai”, chẳng biết “ngán” ai, nhưng lại tốt bụng với mọi người và với Ba Má tôi – không biết bao nhiêu lần Má tôi đã an ủi, khuyên nhủ tôi:

-Đàn ông mà, con! “Lá rụng về cội”, con à! Con phải kiên nhẫn, dịu dàng, mềm mỏng, dùng tình yêu thương để giữ hạnh phúc gia đình; đừng bắt chước những người đàn bà hung dữ, nóng nảy, làm mất thể diện chồng con, chỉ vô tình “đẩy” chồng vào tay tình địch thôi.

Tôi ngạc nhiên:

-Làm thế nào Má biết chuyện của tụi con?

-Má sinh con ra, nuôi con hai mươi năm mà Má không hiểu con thì ai hiểu con?

-Con biết con đã nhầm. Con xin lỗi Ba Má. Con làm thì con chịu! Con đã nộp đơn ly dị tại tòa án Gia Định rồi!

-Con ly dị là con chỉ biết nghĩ đến bản thân của con; còn mấy đứa con của con, con tính sao?

-Thì con đi làm nuôi tụi nó!

-Con nên nhớ, một đứa bé lớn lên, trở thành người hữu dụng trong xã hội không phải chỉ nhờ miếng ăn …

-Con biết mà!

-Con biết thì con nên “dẹp” tự ái của con để con của con có Cha.

Im lặng. Má tôi tiếp:

-Con có biết là Ông Bà mình dạy: “Con không Cha như nhà không nóc” hay không?

Tôi “ngớ” ra, nhìn Má tôi. Như chợt nhớ rằng tôi không có căn bản tiếng Việt, Má tôi cười:

-Trời! Nhè đứa xuất thân nội trú trường bà Sơ mà cứ đề cập về danh ngôn Việt Nam!

-Lúc nãy Má nói “lá rơi, lá rụng” gì đó, con cũng đâu hiểu rõ!

Má tôi lại cười, giải thích vắn tắt – cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng – cho tôi hiểu câu “Lá rụng về cội”. Sau đó, Má tôi tiếp:

-Con có biết rằng, trong những gia đình đổ vỡ, đàn con bị tổn thương nặng nhất hay không?

-Má nói như vậy, rủi ảnh chết trận thì sao?

-Hai sự mất mát và tổn thương giữa người Cha tử trận và gia đình đổ vỡ hoàn toàn khác nhau.

-Hồi đó, chính Ba Má cản, không muốn con “lấy” ảnh mà tại sao bây giờ con ly dị ảnh thì Má lại cản?

-Đúng! Ngày đó Ba Má không tán thành cuộc hôn nhân của con; vì Ba Má không thể hiểu, tại sao con được nhiều thanh niên có địa vị và học thức cao theo đuổi mà con lại không chịu?

-Con tin vào duyên số!

-Chuyện cũ, đừng nhắc nữa! Má chỉ muốn đề cập đến tình trạng gia đình của con hiện tại mà thôi.

-Chuyện của tụi con, Má để tụi con lo.

-Nếu không vì các cháu, Ba Má sẽ “đứng ngoài”, để con tự quyết định.

-Thì con đã quyết định rồi!

-Quyết định ly dị là một quyết định nông nổi và ích kỷ! Con có con thì con có bổn phận phải giữ người Cha cho các con của con!

-Tự ảnh muốn thì con “cho” ảnh đi chứ đâu phải tại con xua đuổi ảnh.

-Lòng vị tha của con để ở đâu? Vợ chồng thì nên tha thứ cho nhau!

Im lặng, vì tôi vẫn còn “ấm ức”. Má tôi tiếp:

-À, con nhớ chuyện cô Ngộ thời gia đình mình sống tại Sơn Tịnh không?

-Dạ, sao, Má?

-Ngày đó, nếu Má vì tự ái – Má biết Má hơn cô Ngộ về mọi phương diện – Má bỏ Ba để “sa” vào vòng tay của một trong mấy cán bộ cao cấp đó thì hậu quả sẽ ra sao? Có phải là tự tay Má “dâng tặng” cô Ngộ món quà mà cô Ngộ ước mơ hay không? Rồi cũng chính Má đón nhận một trong những người mà Linh và con không thương yêu, không kính trọng hay không?

Tôi giật mình, nhìn sững Má tôi. Má tôi cười hiền hòa:

-Con nghe lời Má, đến tòa án Gia Định rút đơn ly dị lại. Đây là thời điểm thích hợp nhất để con thể hiện sự cao thượng, lòng vị tha và tình thương yêu sâu đậm của con dành cho chồng và con của con.

Viết ngang đây, tôi lại nhìn qua cửa sổ và thấy bốn chiếc SUV quen thuộc từ từ dừng trước nhà tôi. Tôi chợt nhớ, các con của tôi đã hẹn chiều nay đưa tôi lên chùa viếng hài cốt của Bố các con tôi; sau đó sẽ đi ăn, mừng Mother’s Day, sớm một ngày.

Xin mượn câu danh ngôn của Tổng Thống Hoa Kỳ – Abraham Lincoln – để dâng lên Má tôi Lời Biết Ơn Muộn Màng: “All that I am, or ever hope to be, I owe to my angel Mother.”

ĐIỆP MỸ LINH

https://www.diepmylinh.com

Người Ăn Trưa Trong Xe – TRUYỆN NGẮN TÌNH CẢM HUYỀN BÍ – TRANG CHÂU

TRUYỆN NGẮN TÌNH CẢM HUYỀN BÍ – TRANG CHÂU

****

Người Ăn Trưa Trong Xe

Điều khó khăn cho tôi trong dự tính bước đi một bước nữa là sợ bị lợi dụng. Tôi sợ đàn ông đến với tôi không vì tình mà vì quyền lợi của họ. Góa chồng vào tuổi 45 quả là một điều bất hạnh. Tôi không còn trẻ để nhờ cậy vào nhan sắc. Nhan sắc không phải tôi không có nhưng tôi sợ cái có đó không bền. Hình như càng lớn tuổi thời gian đi càng nhanh. Châu, đứa con gái duy nhất của tôi đã lập gia đình và ra ở riêng.

Tương lai của hai vợ chồng chúng nó được bảo đảm với nghề dược sĩ của Châu và nghề kỷ sư của chồng nó. Yên tâm về phần con cái, tôi chỉ còn lo cho tôi. Chồng tôi thình lình qua đời sau một cơn đau tim mặc dù anh mới 53 tuổi. Có lẽ anh quá lao lực và bị căng thẳng trong nghề nghiệp của anh. Chồng tôi là một y sĩ gây mê. Anh trực gác liên miên ở nhà thương. Có lần anh than thở với tôi rằng nghề của anh phải đi sớm về muộn, phải vào bệnh viện sớm để sửa soạn cho bệnh nhân ngủ và chỉ về sau khi bệnh nhân tỉnh dậy mà không bị biến chứng.

Tôi là một người vợ chỉ biết sống cho chồng, cho con. Có một chút thì giờ rảnh rỗi, tôi làm đại lý cho một hảng du lịch, bán vé máy bay ăn huê hồng. Một cách cho qua thì giờ, thêm có chút tiền túi. Chồng chết, con ra ở riêng, còn lại một mình tôi trong căn nhà 5 phòng ngủ, tọa trong một khu sang trọng của thành phố.

Sau một năm gậm nhấm nỗi cô đơn, khi sự phiền muộn theo thời gian có phần nào vơi đi, tôi lấy lại được bình tỉnh, phân tích hiện tại và suy nghĩ về một hướng đi cho tương lai mình. Tôi không còn ở cái tuổi nôn nả tình yêu hay rạo rực thể xác. Nó chưa mất nhưng nó cần được khơi dậy. Người đàn ông tôi cần vẫn là một người đàn ông có chiều sâu như chồng tôi. Trước tiên, tôi cần sự cảm thông, sau đó thì cho nhau chút gì còn lại của tuổi trẻ. Đến với tôi phải là một người đàn ông hoàn toàn tự do, tuy giàu nghèo đối với tôi không phải là một vấn đề.

Phân tích xong nhu cầu của mình, tôi thấy tình hình không khó mà cũng không dễ. Không khó vì điều kiện của tôi không quá đáng ; không dễ vì đàn ông hợp với lứa tuổi của tôi mà còn tự do e đếm được trên đầu ngón tay trong cái thành phố không quá ba chục ngàn người Việt cư ngụ nầy. Mà khi có, chắc gì họ là người đang chờ đợi ở tôi giống những gì tôi đang chờ đợi ở họ ? Tìm kiếm thì tôi vẫn tìm kiếm nhưng gặp được hay không tôi tin ở số trời.

Khi chồng tôi còn sống, chúng tôi hay tham dự những buổi tiệc có văn nghệ khiêu vũ tại tư gia của bạn hữu. Chúng tôi thích nhảy, dù không nhảy giỏi và thường chúng tôi nhảy với nhau. Thỉnh thoảng bạn bè cũng lôi chồng tôi ra sàn nhảy với những điệu disco hay twist, anh cũng lúc lắc cặp giò, ngoáy mông, trước tiếng vỗ tay cổ võ của bạn hữu vì chồng tôi là người nổi tiếng nghiêm nghị, nhưng là một vẻ nghiệm nghị được quí mến vì anh rất nhã nhặn. Trong hai vợ chồng, tôi là người xã giao bặt thiệp hơn anh. Sau khi chồng tôi mất được sáu tháng, nể vài cặp bạn thân, tôi tham dự mấy buổi họp mặt.

Nhưng sau đó tôi quyết định né tránh. Tôi phải né tránh vì dường như mọi sự có vẻ thay đổi. Trong những buổi họp mặt có đôi có cặp, người đàn bà một mình như tôi, trở nên lạc lỏng. Những người vợ, bây giờ có vẻ như không muốn chồng họ mời tôi nhảy và một số ông chồng trở nên ngập ngừng trong cách cư xử với tôi. Tôi tự nhiên trở nên một thành phần bị để ý. Mặc dù từ trước tôi vẫn được xem là một người đàn bà bặt thiệp nhưng đứng đắn. Góa chồng, sự đứng đắn của tôi bị thử thách, sự bặt thiệp của tôi trở nên một đe dọa.

Cả môn thể thao mà tôi thích là golf, bây giờ tôi cũng thôi chơi. Thôi là vì đám bạn đàn ông của tôi ngày trước trở nên săn đón hơn, đó là điều tôi vừa sợ vừa không muốn vì ông nào cũng có vợ. Tôi có cảm tưởng đàn ông có vợ hay không có vợ, trước một người đàn bà có nhan sắc và một mình, đều không phải là những người mù.

Họ đều có mắt để nhìn và cái nhìn nào cũng muốn chiếm cảm tình dù cảm tình đó không biết sẽ đi đến đâu, có thể càng xa càng tốt. Cái nhẩn cưới nơi tay họ, khi cần tiến tới họ sẽ tháo gở hoặc coi như một cái bùa hộ mệnh khi cần rút lui. Bởi thế, bước đi một bước nữa, tìm được một người đàn ông ở vào lứa tuổi 45 như tôi, dù có nhan sắc, dù giàu có, không phải là một việc đơn giản mà phải nói là một chuyện rủi may.

Tôi không phải loại đàn bà cần đàn ông đến độ phải la cà các hộp đêm để tìm kiếm những gặp gỡ mang lại thú vui chốc lát. Tôi chọn những nơi chốn thanh lịch hơn. Đi nghe hòa nhạc hay những buổi trình diễn của ca sĩ ngoại quốc danh tiếng. Xuất hiện những nơi chốn đó, tôi đưa cái tôi sang cả nhất của tôi ra. Trang phục đắt tiền hợp thời trang, xe Mercèdes. Ở đó tôi gặp Hiến, một luật sư. Anh nói anh vừa ly dị vợ.

Hiến xấp xỉ tuổi tôi. Tôi nhận xét gì về Hiến sau hai lần đi ăn tối với anh ? Anh có vẻ chú ý nhiều về những gì tôi đang có hơn là những gì tôi đang cần. Anh mau mắn đề nghị tiến tới sống chung. Tôi thấy Hiến là một người đàn ông lanh lợi, cái lanh lợi hình như dành hết chỗ cho sự thành thực. Tôi thấy rõ anh không đến với tôi vì tình yêu. Phần tôi, cũng may tôi không bị hoa mắt trước cái vẻ hào hoa của Hiến.

Châu, con gái tôi bắt đầu lo lắng cho cuộc sống đơn chiếc của tôi. Mấy hôm trước sinh nhật của tôi, nó gọi điện thoại mời tôi đi ăn tối với nó. Nó nói :

– Chỉ có hai mẹ con mình thôi.

Tôi vui vẻ nhận lời. Mỗi khi Châu mời tôi và nói ‘‘chỉ có hai mẹ con mình thôi ’’ là tôi biết nó có ý muốn hỏi ý kiến hay tâm sự gì với tôi. Trong tiệm ăn, ngồi đối diện với Châu, nhìn ánh mắt yêu đời của nó, tôi biết con tôi đang hạnh phúc. Tôi mừng thầm cho con tôi. Trong khi uống cà phê Châu hỏi tôi giọng buồn buồn :

– Mẹ tính ở vậy hoài sao ? Mẹ có biết là mẹ còn trẻ không ?

Tôi âu yếm đặt tay mình lên tay con :

– Mẹ cũng đang tìm kiếm đây. Ngặt một điều mẹ chưa thấy ai bằng ba con cả.

– Con sợ mẹ sẽ cô đơn hoài nếu mẹ chờ đợi một người đàn ông như ba.

Đến phiên tôi buồn bả :

– Mẹ đâu đòi hỏi phải bằng ba con. Nhưng ít nhất tim mẹ phải có chút rung động. Chắc con cũng biết, tìm cho ra một người đàn ông mà tim mình rung động vì họ, và tim họ cũng rung động vì mình, ở vào lứa tuổi của mẹ, không phải dễ.

– Mẹ có đòi hỏi người đàn ông phải là một người có nghề nghiệp tương đương với nghề của ba không ?

– Không nhất thiết, nhưng cần có kiến thức.

– Mẹ có đòi hỏi người đàn ông phải giàu có không ?

– Không nhất thiết, nhưng không thể là một người đàn ông ăn không ngồi rồi.

Tôi có cảm tưởng con tôi là nhân viên của một văn phòng xe duyên đang thăm dò ý kiến của tôi. Tôi nhìn nó hiền từ hỏi :

– Chắc con có ý định giới thiệu mẹ cho một ông nào ?

Châu cười úp mở :

– Có mà không.

– Sao lạ vậy con ?

– Có là vì con thấy một người mà con nghĩ có thể hợp với mẹ, không là vì con không quen ông ấy.

Tôi cười :

– Con không quen ông ấy thì làm sao con giới thiệu cho mẹ ?

– Con thấy để mẹ tìm hiểu. Nếu mẹ đi cái siêu thị gần Condo của tụi con ở vào trưa thứ bảy khoảng 12 giờ, mẹ sẽ thấy ông ấy ngồi trong chiếc xe Toyota Tercel màu xanh nhạt, đậu ở parking. Ông ấy vừa ăn trưa vừa đọc sách.

Tôi ngạc nhiên nhìn Châu :

– Con nghĩ gì mà có ý định khuyên mẹ tìm cách làm quen một người đàn ông khá kỳ cục ? Hết chỗ ăn trưa lại ngồi trong xe mà ăn trưa ?

– Con cũng không hiểu nữa. Mấy tuần nay con có cảm tưởng mỗi trưa thứ bảy ông đến đó như để chờ gặp ai. Lạ lắm. Nhưng điều khiến con chú ý là cuốn sách ông cầm trong tay. Lúc nào cũng chỉ có một cuốn sách ấy. Cuốn Nhà Tiên Tri của Khalil Gibran, cuốn sách con biết mẹ rất thích vì có lần mẹ nói với con mẹ đọc đi đọc lại cuốn sách đó bao nhiêu lần mà vẫn không thấy chán. Cho nên khi thấy ông ấy ngồi trong xe với cuốn sách đó, tự nhiên con nghĩ đến mẹ. Con đoán ông ấy cũng cỡ tuổi ba, khuôn mặt xương xương, người cũng mảnh khảnh như ba nữa.

Trên đường lái xe về nhà, nghĩ đến chuyện Châu đề nghị tôi tìm hiểu người đàn ông ăn trưa trong xe, tôi vừa cảm động vừa buồn cười. Cảm động vì sự lo lắng của con gái tôi dành cho tôi, buồn cười vì ý muốn ngộ nghỉnh của nó. Nó quên mất người đàn ông kia có thể đã có gia đình. Duy có cuốn sách làm tôi phân vân. Người thích nội dung cuốn Nhà Tiên Tri ắt phải có tâm hồn giống tôi. Và sự tò mò đã lấn lướt.

Tôi nhận ra dễ dàng chiếc Toyota Tercel màu xanh nhạt còn mới ngay giữa bãi đậu của siêu thị. Hai bên chiếc Tercel chỗ đậu còn trống. Tôi lái chiếc Pontiac màu ve chai cũ kĩ của tôi, đậu phía bên trái chiếc Tercel. Trời tháng sáu nắng đẹp và nóng. Tôi ăn mặc bình thường như một người đi chợ. Một chiếc quần tây màu đen, một chiếc sơ mi mỏng tay dài màu vàng nhạt. Tôi cố ý để cuốn Nhà Tiên Tri của tôi nằm phía trên hộp đựng găng tay. Nếu chú ý, người ngồi ở phía tay lái ở xe bên kia có thể thấy được cuốn sách. Tôi mở cửa xe, đeo cái xắc tay lên vai, đóng cửa xe, rồi mặt nhìn thẳng phía trước làm như không để ý đến người chung quanh, bước thong thả vào siêu thị.

Châu cho tôi biết đối tượng tôi đang tìm hiểu vừa ăn trưa vừa đọc sách chừng một tiếng là đi. Tôi sẽ ở trong siêu thị, đi loanh quanh, mua lặt vặt sao cho hết một tiếng đồng hồ mới trở ra xe. Tôi suy luận, nếu đối tượng của tôi nhìn thấy cuốn Nhà Tiên Tri của tôi, tôi cũng sẽ trở nên đối tượng tìm hiểu của ông ta và chắc chắn ông ta sẽ chờ tôi. Tôi tự dặn lòng lúc trở ra sẽ quan sát kỹ người đàn ông và nếu thấy đúng là mẩu người tôi có thể có cảm tình tôi sẽ sẵn sàng tạo điều kiện cho một sự làm quen.

Rời siêu thị, bước chân tôi bỗng dưng chậm lại, tim tôi đập mạnh vì chiếc Tercel màu xanh vẫn còn nằm ở bãi đậu và hơn thế nữa, người đàn ông đứng tựa cửa xe mình, tay cầm một cuốn sách có vẻ như đang chờ ai. Tôi có thể nghĩ mà không sợ lầm ông ta đứng chờ tôi.

Tôi hết sức làm ra vẻ tự nhiên, tiếp tục bước. Tôi thấy người đàn ông rời chỗ đứng đi vòng phía sau xe tôi tiến về phía tôi. Tôi nhìn ông nghiêm trang nhưng tươi tỉnh. Đúng như Châu đã tả, người ông dong dỏng cao, khuôn mặt chữ điền xương xương, mang kính cận. Mái tóc rậm lấm tấm muối tiêu với một mảng xỏa xuống trán. Ông có dáng dấp của một nghệ sĩ hay của một ông giáo sư dạy văn chương hay triết. Tự nhiên tôi mỉm cười với ông ta. Người đàn ông tiến lại gần tôi cúi đầu chào :

– Xin lỗi bà, bà có phải là bà Mai Hương ?

Tôi ngạc nhiên đến nghẹn thở :

– Vâng, phải. Nhưng thưa … làm sao ông biết tên tôi ?

– Dạ Hạnh nói với tôi. Hạnh nói với tôi: – ‘‘ anh hãy đến siêu thị nầy vào mỗi trưa thứ bảy, thế nào anh cũng gặp một người đàn bà có cuốn Nhà Tiên Tri như anh. Bà ấy tên Mai Hương ’’. Tôi đến đây đã ba lần, lần thứ tư nầy thì gặp được người mang cuốn Nhà Tiên Tri. Hạnh đã tiên đoán đúng.

Thoáng nghĩ đầu tiên của tôi là con gái tôi đã dàn dựng nên cảnh gặp gỡ nầy. Tôi nghĩ nó đã cho người đàn ông nầy biết trước tên tôi, biết tên cuốn sách tôi thích đọc và có thể nó đã dấu tên thật của nó mà lấy tên Hạnh. Tôi hỏi chận đầu người đàn ông :

– Có phải cô Minh Châu đã cho ông biết tên tôi ?

Đến lượt người đàn ông ngơ ngác :

– Thưa bà cô Minh Châu nào ? Tôi không được biết, tôi chỉ biết Hạnh cho tôi biết tên bà.

– Hạnh nào thưa ông ? Tôi không quen biết một ai tên Hạnh cả.

Chừng như đoán được vẻ ngại ngùng trong câu hỏi của tôi, giọng người đàn ông trở nên trấn an :

– Vâng, bà không thể biết Hạnh. Hạnh đã mất cách đây 25 năm. Nhưng cách đây gần hai tháng Hạnh đã báo mộng cho tôi trước cuộc gặp gỡ.

Chúng tôi ngồi trong một quán nước mặt hướng ra bờ sông. Nắng bên ngoài gay gắt, nhưng gió từ mặt sông thổi lên làm dịu mát da mặt. Tóc tôi phất phơ bay, tóc của người đàn ông cũng lòa xòa trên trán. Ông không buồn đưa tay vuốt, mắt xa xăm nhìn ra mặt nước lao xao những gợn sóng. Tôi có cảm tưởng ông đang tập trung tư tưởng, sắp xếp lại dĩ vãng để trình bày với tôi câu chuyện báo mộng của người đàn bà tên Hạnh, một câu chuyện kỳ bí khiến tôi tò mò đến bạo dạn nhận lời mời của ông đến ngồi uống nước ở quán nầy để nghe tiếp câu chuyện, dĩ nhiên sau khi tôi đã cân nhắc, đánh giá sự chân thật của ông.

– Thưa bà, tôi tên Chung. Người đàn bà tên Hạnh, cách đây 25 năm là người yêu của tôi. Chúng tôi là mối tình đầu của nhau. Chúng tôi là cặp tình nhân thuộc loại cấp tiến thời đó. Chúng tôi quan niệm rất rộng rãi về quan hệ luyến ái. Nói trắng ra là chúng tôi đã gần gũi nhau trước khi nghĩ đến hôn nhân. Cả Hạnh và tôi đều say mê cuốn Nhà Tiên Tri của Khalil Gibran. Hôm báo mộng Hạnh nói với tôi : ‘‘ Gặp bà Mai Hương anh hãy đọc cho bà nghe đoạn văn mà chúng mình thích. Em biết bà Mai Hương cũng thích đoạn văn đó ’’.

Tôi xin tạm ngừng kể để đọc cho bà nghe đoạn văn mà chúng tôi thích, xem có đúng với đoạn văn mà bà cũng thích không. Đó là đoạn nhà tiên tri nói về hôn nhân : ‘‘ Các ngươi hãy yêu thương nhau nhưng đừng biến tình yêu thành một chướng ngại cho nhau. Hãy để tình yêu như một vùng biển động giữa đôi bờ tâm hồn các ngươi. Kẻ nầy hãy rót đầy ly kẻ kia nhưng chớ bao giờ uống chung một cốc. Hãy chia nhau phần ăn nhưng chớ bao giờ ăn chung một mẩu bánh. Hãy cho nhau trái tim mình nhưng đừng trở nên kẻ canh giữ tim nhau.’’

Tôi xanh mặt. Đúng là đoạn văn tôi thường mang ra đọc cho chồng tôi nghe. Chúng tôi rất hợp ý về triết lý hạnh phúc lứa đôi mà Khalil Gibran nêu lên. Không những chỉ hợp ý mà chúng tôi đã sống theo lời Khalil Gibran khuyên. Chúng tôi chia xẻ cho nhau tròn đầy nhưng mỗi chúng tôi vẫn là một cá thể riêng biệt. Chúng tôi cho nhau trái tim mình nhưng không bao giờ canh giữ trái tim nhau. Chúng tôi tin tưởng nhau tuyệt đối. Chúng tôi đã đạt được hạnh phúc tròn vẹn trong chia xẻ và niềm tin. Bởi thế sự ra đi đột ngột của chồng tôi làm tôi mất thăng bằng tâm thể đến tột độ.

Khi tôi nói với con tôi, tôi chưa gặp được ai như cha nó, không hoàn toàn có nghĩa là tôi chưa gặp được người đàn ông nào khác có địa vị như chồng tôi mà còn bao hàm ý nghĩa chưa gặp được người chia xẻ cái quan niệm hạnh phúc lứa đôi như chúng tôi từng chia xẻ với nhau. Cho nên tôi bàng hoàng trước đoạn văn trích dẫn của người đàn ông tên Chung.

– Tình yêu của Hạnh và tôi gặp trở ngại lớn. Nhà tôi nghèo, nhà Hạnh giàu. Khi biết Hạnh yêu tôi, gia đình nàng cấm cản kịch liệt, nhất là cha nàng, một viên chức lớn trong chính quyền thời bây giờ, nghiêm khắc và độc đoán. Bị ngăn cấm liên lạc với tôi, Hạnh đi tìm cái chết, không một lời báo trước, bằng một liều thuốc ngủ cực mạnh. Hạnh được chôn cất vội vã và bí mật, không một lời cáo phó trên báo. Cha Hạnh coi nàng là một vết nhơ của gia đình. Nhưng Hạnh đã trở thành một viên ngọc quí trong tâm hồn tôi. Từ đó đến nay tôi sống một mình nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy cô đơn, chưa bao giờ tôi cảm thấy cần một người đàn bà cho đời sống mình vì lúc nào tôi cũng cảm thấy có Hạnh bên cạnh.

– Tôi muốn đi về.

Ông Chung đứng lên theo.

– Nếu bà không ngại, tôi xin đưa bà đi xem mặt Hạnh.

Thật tình tôi cảm thấy ngài ngại nhưng không hiểu sao tôi không thốt ra được lời từ chối. Hai bàn chân tôi như có một ma lực nào đó nhấc từng bước bắt tôi bước theo chân người đàn ông. Khi xe ông Chung rời bãi đậu, tôi liếc nhìn ông thì lạ lùng sao tôi bắt gặp ánh mắt và nụ cười rất hiền y hệt như của chồng tôi.

Ông Chung cư ngụ trong một khu condo đắt tiền. Cổng vào có người gác, một thang máy dành riêng cho hai condo, có đường hầm nối liền các condo đến một tiểu siêu thị. Tôi thắc mắc ông Chung làm nghề gì mà có khả năng tài chánh để có thể mua cái condo sang trọng nầy. Condo của ông Chung ở tầng thứ mười. Tôi biết ở xứ lạnh, condo ở tầng càng cao giá càng đắt vì có được cái nhìn bao quát và hưởng được nhiều ánh mặt trời. Ông Chung mời tôi ngồi ở phòng khách. Bộ xa lông bằng da màu nâu sẫm còn thơm mùi da mới. Ông pha mời tôi một ly nước suối rồi ngồi xuống chiếc ghế bành đối diện. Ông nói như để giải bày :

– Chắc bà ngạc nhiên về đời sống vật chất của tôi. Những gì tôi có hiện nay đều là của Hạnh. Khi Hạnh chết, cha mẹ nàng đã bí mật dấu trong quan tài nàng một hộp vàng và kim cương coi như là một nơi dấu của kín đáo. Cha mẹ nàng bị thảm sát trong Tết Mậu Thân 68. Mộ nàng sau đó bị để hoang phế. Hạnh báo mộng cho tôi biết về kho tàng dấu trong quan tài và bảo tôi gấp gấp đi bốc mộ nàng. Tôi đã rời miền Nam bằng phi cơ quân sự Hoa Kỳ, một tuần trước khi miền Nam mất năm 75.

Bà muốn biết hiện tôi làm nghề gì ? Một nghề bình thường thôi. Giáo sư dạy toán cho một trường trung học. Một ông giáo dạy trung học thì đi xe Toyota Tercel là phải rồi. Đó là tất cả cuộc đời tôi cho đến giờ phút này. Bà là người đàn bà đầu tiên tôi mời lên chỗ ở của tôi. Vì Hạnh muốn như thế. Về phía bà tôi có thể được biết gì không ?

– Tôi góa chồng được hơn một năm nay. Minh Châu, con gái tôi, là người đã gián tiếp giới thiệu ông cho tôi. Con tôi biết cuốn sách gối đầu giường của tôi là cuốn Nhà Tiên Tri. Nhà nó ở gần cái siêu thị nên khi thấy ông đến đó đậu xe ăn trưa với cuốn Nhà Tiên Tri bên cạnh, nó lấy làm lạ nên nói cho tôi hay. Thú thật tôi cũng tò mò muốn biết ông là ai mà cũng thích đọc cuốn Nhà Tiên Tri như tôi.

Về nghề nghiệp, tôi làm đại lý cho một hảng du lịch bán vé máy bay ăn huê hồng, một nghề tay trái làm cho vui. Nghề chính của tôi là nội trợ lo cho chồng cho con. Nay chồng mất, con đã có gia đình, nên tôi coi như đang thất nghiệp.

Ông Chung nhìn tôi với ánh mắt trìu mến :

– Tôi nghĩ tất cả đều do Hạnh sắp đặt. Tôi nghĩ Hạnh có cảm tình với bà.

Tôi nghe lành lạnh ở sống lưng, khi nghĩ hồn người chết tên Hạnh có thể nhập vào tôi. Không biết sau đó tôi có còn là tôi nữa hay không ? Tôi sẽ yêu người đàn ông tên Chung kia bằng thể xác và tâm hồn tôi hay người đàn bà tên Hạnh sẽ mượn thể xác tôi để yêu người tình cũ của mình ?

– Bây giờ xin mời bà xem hình của Hạnh.

Tôi cảm thấy rờn rợn muốn thối lui. Nhưng khi bắt gặp cái nhìn bao bọc của ông Chung tôi thấy an tâm. Tôi đứng lên theo ông đi vào một phòng ngủ nhỏ. Trong phòng chỉ vỏn vẹn một chiếc giường đơn, phủ ra mền màu xanh nhạt. Trên đầu giường, hình một thiếu nữ chụp bán thân được lồng kính trong một khung gỗ cũng sơn màu xanh nhạt. Tôi hơi giật mình vì người trong hình tuy rất trẻ nhưng có nét hao hao giống tôi, nhất là nụ cười. Tôi nói khẻ với ông Chung :

– Chị ấy có nụ cười rất tươi.

Ông Chung cũng chăm chú nhìn bức hình rồi thì thầm :

– Hạnh không cười khi chụp bức hình nầy.

Tôi lạ lùng nhìn kỹ bức hình một lần nữa, rõ ràng người trong hình đang nhìn tôi cười. Tôi nghe tay chân mình lạnh toát.

– Xin mời bà ra ngoài hiên ngồi uống nước ngắm trăng. Hôm nay trăng trung tuần rất tròn.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây nhìn vừng trăng tròn chưa lên cao còn thấp thoáng trong rặng thông. Bầu trời trong vắt đầy tinh tú lấp lánh. Ông Chung bưng ra một cái khay trên có hai ly nước cam và một đĩa bánh bông lan. Ông đặt khay trên cái bàn con ngăn đôi hai cái ghế, rồi ngồi xuống chiếc ghế mây bên cạnh. Tôi không ăn bánh chỉ uống từng ngụm nước cam. Ông Chung lên tiếng trước, giọng trầm trầm :

– Bà thấy Hạnh cười với bà, tôi nghĩ Hạnh đã chọn bà.

– Nghĩa là chị ấy sẽ nhập vào tôi ?

– Có thể.

– Lúc ấy tôi sẽ ra sao ?

– Tôi nghĩ một trong hai trường hợp nầy có thể xảy ra : Hoặc hồn Hạnh nhập vào bà, bà sẽ là Hạnh, bà sẽ đối xử với tôi như Hạnh đã đối xử với tôi ngày trước. Hoặc Hạnh xem như đã kiếm được cho tôi một người xứng đáng thế chỗ của Hạnh và Hạnh sẽ rời bỏ thế gian này để đi vào cõi vĩnh hằng. Chúng ta hãy chờ xem. Bà có đói không ? Tôi sẽ đi làm bánh mì thịt nguội. Đó là món ăn thường xuyên của Hạnh và tôi, thời chúng tôi kín đáo gặp nhau, nằm bên nhau nhai bánh mì trên căn gác trọ của tôi.

Tôi không đói lắm nhưng cũng không từ chối đề nghị của ông Chung. Tôi đang chìm trong bầu không khí huyền bí bao quanh. Tôi vừa bị lôi cuốn, vừa sợ. Nhưng vẻ trầm tỉnh của ông Chung khiến tôi phần nào an dạ. Tôi có cảm tưởng ông cố ý giữ một khoảng cách giữa ông và tôi, tôi có cảm tưởng như ông đang chờ đợi một sự việc gì sắp xảy ra.

Ông Chung bưng ra một đĩa đựng hai ổ bánh mì thịt, mỗi ổ được cắt đôi. Nghe ông mời tôi tự nhiên thấy đói. Tôi cầm nửa ổ bánh mì đưa lên miệng cắn một miếng. Ổ bánh mì tỏa ra một mùi thơm thoang thoảng như mùi hương dạ lý làm tâm trí tôi lâng lâng.

Giọng ông Chung lại trầm trầm bên tai tôi :

– Mỗi đêm khi có trăng tròn tôi hay ra ngồi đây một mình. Cứ mỗi lần trăng lên cao tỏa ánh sáng vào cửa sổ của phòng Hạnh, người tôi lúc đó như mê đi và tôi thấy Hạnh hiện ra trò chuyện với tôi. Nàng tiên đoán những gì sắp xảy ra cho tôi và hướng dẫn tôi cách ứng xử. Hôm nay tôi tin sẽ xảy ra một sự việc khác thường, không những liên quan đến tôi mà liên quan đến cả bà, nhưng tôi linh cảm là một biến đổi tốt.

Tôi ăn hết nửa ổ bánh mì thì vừng trăng tròn lên cao tỏa ánh sáng mờ dịu vào cửa sổ phòng của Hạnh. Tôi thấy ông Chung ngả đầu vào thành ghế, mắt nhắm nghiền như một người đang bị thôi miên. Bỗng một vệt sáng dài thoát ra từ cửa sổ phòng Hạnh, xẹt qua đầu tôi, rồi như một ánh sao băng vun vút bay lên. Tôi mở lớn mắt theo dõi cho đến khi không còn phân biệt được đâu là vệt sáng đâu là ánh sao trên bầu trời.

Tôi quay mặt nhìn sang ông Chung. Ông tỉnh lại không biết từ lúc nào, ngồi im ngắm tôi với nụ cười hiền hậu. Tôi nhìn ông, bỗng thấy đối diện với mình là một khuôn mặt thân thương quen thuộc như từ lâu đời. Tôi đưa tay qua nắm tay ông :

– Đi vào đi anh, em lạnh.

Bước ngang qua phòng Hạnh, chúng tôi ghé mắt nhìn vào. Bức hình treo trên đầu giường biến mất. Ông Chung, mắt ngấn lệ, tay nắm chặt tay tôi, miệng thì thầm: ‘‘Cám ơn Hạnh !”

Happy Father’s Day! Mừng Ngày Của Bố!

Những Câu Chuyện Thú Vị – Ncctv.net

M   

Đây là câu chuyện rất cảm động của một cô gái viết về người cha thương yêu, một thương phế binh Quân Lực VNCH….Vì hoàn cảnh gia đình cô lớn lên tại Mỹ dưới tình thương của cha , dù thương cha mình nhưng cô vẫn không hiểu hết về người cha tật nguyền cho đến ngày ông nhắm mắt lìa đời..

“BỐ TÔI, NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA.

Tôi có một người cha già, lại tàn tật, cụt một chân.

Khi tôi sinh ra đời bố tôi cũng đã gần 50 tuổi. Trong một thời gian dài, bố tôi đóng vai trò của một người mẹ, tuy di chuyển khó khăn, nhưng ông lo lắng cho tôi không còn thiếu một thứ gì. Bạn bè thường gọi là “Ông nội trợ” và khen là đàn ông mà bố tôi có đầy đủ các đức tính của người phụ nữ Á đông “công, dung, ngôn, hạnh”, nuôi con khéo léo không ai bằng.

Hồi còn bé, tôi không hiểu được, vì sao không phải mẹ tôi, mà bố tôi luôn luôn ở nhà chăm sóc cho tôi. Từ từ tôi mới nhận ra, trong đám bạn bè, tôi là người duy nhất luôn luôn có người bố bên cạnh. Thiếu tình mẹ, tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi, mình là người rất may mắn, còn hơn nhiều đứa trẻ thiếu cả tình thương của cha lẫn mẹ.

Sau này tìm hiểu thì tôi biết, bố tôi là một lính VNCH, bị thương trên chiến trường, được mẹ tôi bảo lãnh đến Mỹ theo diện đoàn tụ, bà lo cho ông hưởng tiền trợ cấp tàn phế.

Lúc tôi được hơn 3 tuổi, bố tôi và mẹ tôi ly dị, bà đã lập gia đình với một người đàn ông khác, nhường tôi lại cho bố tôi nuôi. Trong ký ức trẻ thơ, tôi có hình dung được hình ảnh của mẹ tôi một vài lần, khi bà đến thăm, nhưng rất xa lạ, vì luôn luôn bà đi chung với một người đàn ông nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng.

Tôi có tí mặc cảm về địa vị bố tôi ngoài xã hội, so với bố của những đứa trẻ khác, tuy nhiên việc chăm sóc tôi thì hoàn hảo, ông chăm lo cho tôi từ việc lớn đến việc nhỏ, không phải đụng tay vào bất cứ thứ gì.

Trong suốt thời gian tôi học tiểu học, ông còn thuyết phục ông tài xế xe bus đón tôi đi học ngay tại cửa nhà, thay vì ở trạm xe , cách xa nhà tôi 4 dãy phố. Khi tôi bước vào nhà, lúc nào bố tôi cũng chuẩn bị sẵn thức ăn trưa, nào cá kho, thịt kho, rau xào và có cả canh nữa. Lâu lâu cũng có thức ăn Mỹ, sandwich, hamburger, bơ đậu phộng, và còn thay đổi theo mùa. Giáng Sinh bánh có viền xanh hình cây thông, Valentine có hình trái tim..vv…

Khi tôi lớn hơn một chút, vào năm đầu tiên trung học, tôi lại thích sống độc lập, tôi muốn thoát ra những cử chỉ yêu thương dành cho con nít của bố, vì sợ chúng bạn trêu chọc.

Nhưng chẳng bao giờ bố buông tha tôi cả, một đôi khi tôi rất bực mình. Cấp trung học, tôi không thể về nhà ăn cơm được nữa, phải bắt đầu tập tự lo cho mình. Nhưng bố tôi lại thức dậy sớm hơn thường lệ để chuẩn bị bữa ăn trưa cho tôi.

Ông cẩn thận ghi cả tên tôi bên ngoài túi giấy đựng đồ ăn. Lật dưới đít bao giấy, luôn luôn có một vài hình vẽ nhỏ, khi thì căn nhà, khi thì dòng suối, ngọn núi, chim cá và hình trái tim với dòng chữ “I Love You Tammy!” Nào hết đâu, bên trong những chiếc khăn giấy cũng có những dòng chữ triều mến “Bố thương con nhiều”.

Ông luôn viết, hay có những câu nói bông đùa như thế để nhắc nhở là ông yêu thương tôi nhiều, và muốn làm cho tôi vui.

Tôi thường lén ăn trưa một mình để không ai thấy được cái túi giấy và khăn ăn. Nhưng cũng chẳng giấu được lâu.

Một hôm, một đứa bạn tình cờ thấy khăn ăn của tôi, nó chộp lấy la lên và chuyền đi khắp căn phòng cho mọi người xem.

Mặt tôi nóng bừng, bối rối, mắc cỡ muốn chui đầu xuống đất.

Bữa hôm đó tôi về, đã làm mặt giận với bố tôi và “cấm” ông ấy không được viết, vẽ “bậy bạ” trên khăn giấy nữa, để bạn bè không coi tôi như đứa con nít lúc nào cũng cần người lớn chăm sóc.

Lần đầu tiên tôi thấy bố tôi buồn, lặng lẽ vào phòng đóng cửa.

Ngày hôm sau, tôi vô cùng ngạc nhiên vì tất cả bạn bè bu chung quanh tôi, chờ để được xem chiếc khăn ăn, nhưng lần này thì trống trơn, không có dòng chữ hay hình vẽ gì cả. Nhìn mặt bọn chúng thất vọng, hụt hẫng, tôi mới hiểu ra, tất cả chúng nó đều mong ước có một ai đó biểu lộ tình thương yêu ngọt ngào giống vậy đối với chúng.

Lúc đó lòng tôi len lén cảm thấy vui vui, dâng lên niềm tự hào về bố.

Tôi vội về làm lành với bố, và những giòng chữ, những hình vẽ yêu thương lại tiếp tục.

Những năm còn lại trong trường trung học, tôi vẫn đều đều có những chiếc khăn đặc biệt ấy. Và từ đó, tôi giữ lại, chứa trong một cái hộp riêng, giấu kín.

Chưa hết, khi vào đại học, tôi phải rời xa bố, tôi nghĩ thông điệp xưa kia của bố sẽ phải chấm dứt.

Nhưng tôi và bạn bè rất vui sướng vì những cử chỉ biểu lộ tình cảm của bố tôi vẫn tiếp tục qua hình thức khác.

Ở cấp đại học, dĩ nhiên không còn thấy bố tôi đứng chờ khi tan học, vì thế, tôi hay gọi điện thoại cho ông, chi phí điện thoại khá cao, nhưng không sao, tôi chỉ muốn nghe được giọng nói của ông mà thôi.

Suốt năm học đầu tiên, chúng tôi quen lối nói chuyện như thế và sau đó kéo dài một năm. Thường thì sau khi tôi nói lời tạm biệt, câu cuối cùng không bao giờ thiếu. “Này Tammy” Tôi thường trả lời “Dạ, gì thế bố?” “Bố thương con nhiều.” “Con cũng thế. I Love You!”

Hình như bố tôi nhận ra chi phí mắc mỏ cho những cuộc điện đàm, từ đó, tôi bắt đầu nhận thư mỗi thứ sáu. Ban thường trực phát thư của trường đều biết ai là người thường gửi lá thư này, mặc dù địa chỉ hồi âm luôn luôn ghi là KBC 1678. (Sau này tôi khám phá ra, KBC viết tắc là Khu Bưu Chính, địa chỉ trong quân đội ngày trước nơi bố tôi phục vụ. Còn số 1678 dễ quá, là số nhà tôi hiện tại.)

Nhiều lúc bên ngoài bì thư, địa chỉ được viết bằng bút chì và tiếp theo đó là những lá thư có hình con mèo và con chó của gia đình tôi, có vẽ những hình tháp nhiều từng, hình cây cầu nhiều nhịp in trên sóng nước.

Hè năm đó, bố tôi và tôi du lịch về Việt Nam, lúc đó tôi mới biết là Chùa Một Cột, Chùa Thiên Mụ, Cầu Tràng Tiền v.v…

Sau chuyến du lịch ấy, tôi tìm hiểu về Việt nam nhiều hơn, nhất là cuộc chiến tranh trước 75, tôi bắt đầu thấy thương bố nhiều, ông là người lính bại trận, nhưng quân lực ấy đã chiến đấu dũng cảm cho tự do, cho hạnh phúc của người dân miền Nam trong suốt 20 năm.

Nếu không bị đồng minh bán đứng, cuộc chiến chưa chắc ai thắng ai.

Thư đến và được phát mỗi ngày sau buổi ăn trưa. Tôi thường đi nhận thư và mang theo mỗi khi đi uống cà phê.

Tôi nhận thấy chẳng cần phải giấu giếm làm gì nữa, bởi bạn cùng phòng tôi là những đứa bạn hồi còn trung học, chúng nó biết rất rõ về những chiếc bao giấy, khăn ăn.

Và rồi trở thành như một tập tục, tôi đọc thư, còn bì thư và hình vẽ thì

được chuyển khắp bạn bè, thư từ bố tôi thành niềm vui của cả phòng.

Trong năm cuối cùng đại học, bố tôi bị căn bịnh ung thư hành hạ. Mỗi khi tôi không nhận được thư vào ngày thứ sáu, tôi biết ông ốm nặng, không thể viết được.

Ông thường thức dậy lúc 4 giờ sáng để có thể ngồi trong nhà yên tĩnh nắn nót viết những lá thư. Nếu không kịp cho đợt phát thư vào thứ sáu, thì chỉ sau đó, một hai ngày, thế nào rồi thư cũng đến.

Bạn bè tôi bình bầu ông là “Người cha thương con nhất trên thế giới này!” Ngày lễ cha, Father’s Day, chúng nó gởi một tấm thiệp phong tặng ông danh hiệu đó và tất cả đều ký tên trên tấm thiệp. Tôi tin rằng ông đã dạy cho tất cả chúng tôi về tình phụ tử, bạn bè tôi bắt đầu nhận những tấm khăn ăn giống như tôi từ gia đình chúng nó, với những lời để lại ấn tượng mà sẽ thôi thúc họ hãy biểu hiện tình thương của họ với con cái sau này. Suốt thời gian đại học, những lá thư và những cú điện thoại như một chu kỳ đều đặn. Ngày ra trường, tôi quyết định chọn công việc làm gần nhà, để được ở cạnh bố tôi, vì căn bệnh bố càng ngày càng nặng.

Thời gian được ở gần bố không còn bao nhiêu lâu nữa. Đó là những giây phút khó khăn, đau khổ nhất cuộc đời tôi phải trải qua.

Tôi ở bên cạnh bố tôi một vài ngày trong bệnh viện trước khi ông mất. Vài giờ trước khi hấp hối, ông nắm tay tôi bảo “Bố nhờ con một điều, con về nhà lấy cho bố cái hộp gỗ mà bố để trên đầu tủ, đây là hộp chứa đựng những kỷ niệm đời lính mà bố yêu thương nhất. Bố muốn nhìn nó lại một lần.”

Tôi lái xe về nhà, và cũng tìm ra ngay chiếc hộp phủ đầy bụi thời gian.

Có gì bên trong?

Tôi tò mò mở nắp hộp. Mắt tôi bắt đầu cay cay nhòa lệ, khi nhìn thấy những tấm hình của bố tôi còn trẻ, trong những bộ quân phục thật oai phong.

Có những tấm cầm súng đằng sau chiến trường còn bốc mùi lửa khói. Lật ra đàng sau, những ngày tháng cũ, 68, 70, 71, 72… với những địa danh xa lạ: An Lộc, Bình Long, Đồng Xoài, Khe Sanh…

Dưới đáy hộp là căn cước quân nhân, giấy giải ngũ và những tấm huy chương, bộ lon gắn trên cổ áo khi ông mặc những bộ quân phục.

Bây giờ thì tôi mới hiểu hết, không còn mặc cảm hình ảnh có ông bố tàn tật chỉ biết lo việc “nội trợ”, ngược lại là đàng khác, Bố tôi đã một thời là một người lính chiến oai hùng, đổ máu hy sinh một phần thân thể mình cho một cuộc chiến đầy chính nghĩa, bảo vệ quê hương. Rõ ràng bố tôi chăm sóc tôi, vui vẻ làm những việc của người phụ nữ bao nhiêu năm nay, chỉ vì tình thương con mà thôi.

Ông thật là người cha tuyệt vời Tôi ôm cái hộp, chạy gấp lại bệnh viện, định nói lời xin lỗi với người cha thân yêu của mình, nhưng đã trễ!

Người y tá trực cho biết, bố tôi vừa trút hơi thở cuối cùng. Rồi người y tá trao cho tôi chiếc khăn giấy nhà thương, với giòng chữ cuối cùng run rẩy của một người cha dành cho con “Tammy, ba thương con nhiều! Vĩnh biệt!” Nước mắt tôi trào ra như suối, cầm tấm khăn giấy trong tay áp vào ngực, tấm khăn giấy cuối cùng, mà cả cuộc đời mãi mãi không còn nhận được nữa. Lúc liệm xác, tôi bỏ theo chiếc hộp kỷ niệm đời lính vào hòm cho bố, còn những chiếc khăn giấy tôi sẽ giữ mãi bên cạnh cả cuộc đời tôi. Bây giờ thì những chiếc khăn giấy đã đổi màu vàng khè, nhưng tình tôi dành cho người bố càng ngày càng thấm thiết, bất diệt, muôn đời không thay đổi.

Happy Father’s Day! Mừng Ngày Của Bố!

FBK Lê Văn Quý

Điều kỳ diệu từ bát mì ấm áp đêm giao thừa.

Điều kỳ diệu từ bát mì ấm áp đêm giao thừa.

Đây là câu chuyện có thật, xảy ra vào ngày 31/12 cách đây rất nhiều năm tại quán mì Bắc Hải Đình trên đường phố Trát Hoảng, Nhật Bản. Đêm ấy cũng chính là đêm giao thừa. Đêm giao thừa cùng gia đình ăn một tô mỳ là phong tục truyền thống của người Nhật Bản. Vì vậy, đến ngày này, hầu như quán mỳ nào cũng rất đông khách, đắt hàng. Bắc Hải Đình cũng không ngoại lệ.

Hôm ấy, Bắc Hải Đình gần như cả ngày đều đông khách, mãi đến hơn 10 giờ đêm khách mới thưa thớt dần. Những ngày bình thường, giờ này vẫn còn rất đông người qua lại trên đường nhưng hôm nay ai ai cũng mau chóng trở về nhà sớm một chút để kịp đón giờ phút giao thừa. Vì vậy, trên đường phố phút chốc trở nên vắng vẻ yên tĩnh.

Đêm giao thừa, khi người khách cuối cùng rời khỏi quán, bà chủ đang định kéo cánh cửa tiệm lại thì cánh cửa lại một lần nữa được mở ra nhè nhẹ. Một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai cậu con trai bước vào. Đứa lớn ước chừng khoảng 10 tuổi và đứa nhỏ 6 tuổi. Cả hai đều mặc bộ quần áo thể thao giống nhau còn người phụ nữ kia mặc một chiếc áo khoác cũ kỹ đã lỗi thời.

Bà chủ lên tiếng: “Xin mời ngồi!”.

Người phụ nữ rụt rè nói: “Có thể … cho chúng tôi… một bát mỳ được không ạ?”. Hai đứa bé đứng yên lặng đằng sau mẹ và đưa mắt nhìn chăm chú.

“Đương nhiên…đương nhiên là có thể, mời ngồi qua bên này!”.

Bà chủ quán dẫn họ tới bàn số 2 rồi hướng vào trong bếp hô to: “Cho một bát mỳ!”.

Ông chủ liếc mắt nhìn ba mẹ con rồi lặng lẽ nấu một bát mỳ lớn đầy tràn, cả bà chủ và khách đều không biết. Ba mẹ con người phụ nữ ăn chung một bát mỳ rất ngon lành. Họ vừa ăn vừa khe khẽ nói chuyện.

“Ngon quá!”, đứa lớn nói. “Mẹ! mẹ cũng ăn thử đi!”, đứa nhỏ vừa nói vừa gắp một miếng đưa vào miệng mẹ.

Chỉ trong chốc lát họ đã ăn hết bát mỳ, người mẹ thanh toán cho chủ quán 150 đồng. Ba mẹ con họ cùng đồng thanh khen: “Thật là ngon! Cảm ơn ông bà!”, rồi họ cúi chào và bước ra khỏi quán. Ông chủ bà chủ cũng đồng thanh đáp trả: “Cảm ơn quý khách! Chúc quý khách năm mới vui vẻ!”.

Một năm trôi qua, ai cũng đều bận rộn với công việc của mình chẳng mấy chốc đã đến giao thừa năm sau. Bắc Hải Đình vẫn làm ăn rất phát đạt. So với năm ngoái, đêm giao thừa năm nay họ có vẻ còn bận rộn hơn. Hơn 10 giờ, bà chủ đang định đóng cửa thì cánh cửa lại bị kéo ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm mỳ là một người phụ nữ trung niên và hai đứa trẻ.

Bà chủ quán nhìn thấy cái áo khoác kẻ ca-rô cũ kỹ lỗi thời liền lập tức nhớ lại vị khách hàng cuối cùng đêm giao thừa năm ngoái.

“Có thể… nấu cho chúng tôi một bát mỳ được không ạ?”.

“Đương nhiên! Đương nhiên! Mời vào trong ngồi!”.

Bà chủ quán vừa dẫn họ đến chỗ ngồi bàn số 2 và cất tiếng: “Cho một bát mỳ!”.

Ông chủ quán một tay châm lửa lên bếp vừa mới tắt và lên tiếng: “Được! Được! Một bát mỳ!”.

Bà chủ đi vào bếp nói nhỏ với ông chủ: “Này ông! Nấu cho họ ba bát mì có được không?”.

“Không được đâu, nếu mình làm như thế chắc họ sẽ thấy ngại đấy!”.

Ông chủ trả lời như thế nhưng lại lấy thêm mỳ đủ ba người ăn cho vào nước, bà chủ đứng bên cạnh mỉm cười và nói: “Nhìn ông có vẻ khô khan nhưng xem ra tấm lòng không đến nỗi nhỉ!”. Ông chủ yên lặng làm một bát mì lớn thơm ngào ngạt rồi đưa cho bà chủ mang ra.

Ba mẹ con người phụ nữ lại ngồi quanh bát mỳ, vừa ăn vừa nói chuyện. Những câu chuyện của họ cũng lọt vào tai hai vợ chồng  ông chủ quán.

“Thơm quá…thơm quá…ngon thật!”.

“Năm nay chúng ta còn có thể được ăn mỳ Bắc Hải Đình, quả là may mắn!”.

“Sang năm lại được đến đây ăn thì tốt quá!”.

Sau khi ăn xong, người mẹ lại thanh toán 150 đồng và chào ra về.

“Cảm ơn quý khách! Chúc cả nhà năm mới vui vẻ!”. Nhìn bóng lưng ba mẹ con người phụ nữ, hai vợ chồng ông chủ đàm luận một hồi lâu.

Đêm giao thừa năm thứ ba, Bắc Hải Đình vẫn rất đông khách, ông bà chủ bận đến mức không có thời gian để trò chuyện. Nhưng đã đến 9 rưỡi tối, hai vợ chồng họ bắt đầu có chút bất an. Đến 10 giờ, nhân viên trong quán đều đã nhận được bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là “200 đồng/bát mỳ” và thay vào đó giá của năm ngoái “150 đồng/bát mỳ”. Trên bàn số 2, bà chủ đã đặt lên đó bảng “Đã đặt chỗ” vào ba mươi phút trước.

Dường như ba mẹ con người phụ nữ ấy đợi cho khách rời hết mới bước vào. Đến 10h30 cả ba mẹ con họ cuối cùng cũng đã xuất hiện. Đứa lớn mặc bộ quần áo đồng phục còn đứa em mặc bộ quần áo của anh nên nhìn hơi rộng một chút. Cả hai anh em đều đã lớn hơn rất nhiều. Người mẹ vẫn mặc chiếc áo khoác kẻ ca-rô cũ kỹ và lỗi thời như hai năm trước.

“Mời ngồi! Mời ngồi!”, bà chủ nhiệt tình mời họ vào tiệm ngồi. Nhìn vẻ tươi cười của bà chủ, người phụ nữ dè dặt nói: “Phiền bà… phiền bà… nấu cho chúng tôi hai bát mỳ được không?”.

“Được! Tất nhiên là được! Mời ngồi qua bên này!”, bà chủ dẫn họ đến bàn số 2 rồi nhanh nhẹn giấu tấm biển đặt chỗ trước đi rồi hướng vào bếp gọi: “Cho hai bát mỳ!”.

“Được! Hai bát mỳ! Xong ngay đây!”, ông chủ vừa nói, tay vừa cho thêm ba vắt mỳ vào nồi nước nấu.

Ba mẹ con họ vừa ăn mỳ vừa nói chuyện rất vui vẻ.

Hai vợ chồng ông bà chủ đứng ở chỗ nấu ăn nhìn họ vui vẻ, trong lòng cũng vui theo.

“Tiểu Thuần và con trai cả này! Hôm nay mẹ muốn cảm ơn hai con! Cảm ơn hai con rất nhiều!”.

“Tại sao lại cảm ơn chúng con ạ?”.

“Là như thế này, vụ tai nạn của cha các con đã khiến cho tám người bị thương. Công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần số tiền này, số còn lại chúng ta phải trả. Mấy năm qua, mỗi tháng chúng ta đều phải nộp 50.000 đồng”.

“À, chuyện này thì chúng con biết rõ rồi mẹ ạ!”, đứa lớn trả lời.

Bà chủ cũng lẳng lặng lắng nghe.

“Lẽ ra là phải trả đến tháng ba sang năm mới trả hết, nhưng mà năm nay mẹ đã nộp xong rồi!”.

“Mẹ! Thật vậy sao?”.

“Ừ! Mẹ nói thật! Bởi vì anh cả rất chăm chỉ đi đưa báo còn Tiểu Thuần thì giúp mẹ đi chợ nấu cơm, khiến cho mẹ có thể an tâm công tác. Công ty mẹ đã phát cho mẹ một phần thưởng đặc biệt, vì vậy hôm nay mẹ đã đem số tiền đó trả hết phần nợ còn lại rồi!”.

“Mẹ! Anh trai! Thật sự là quá tốt rồi, nhưng mà sau này mẹ hãy cứ để cho Tiểu Thuần nấu cơm nhé!”.

“Con cũng muốn tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần, cố gắng lên nhé!”.

“Mẹ cám ơn hai con, thật sự cám ơn hai anh em!”.

“Tiểu Thuần và con còn có một bí mật mà chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày Chủ nhật của tháng Mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến tham dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn viết một bức thư đặc biệt nói là bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết được, vì vậy hôm đó con đã thay mặt mẹ đến tham dự ạ!”.

“Chuyện này là thật sao? Sau đó thì thế nào?”.

“Thầy giáo ra đề bài là: ‘Nguyện vọng của em là gì?’, Tiểu Thuần đã viết về bát mỳ và đã được đọc trước cả lớp ạ! Tiểu Thuần viết là: ‘Cha của em bị tai nạn xe, cha mất đi để lại nhiều nợ nần. Vì để trả nợ, mẹ em đã làm việc quên mình từ sáng đến đêm’. Ngay cả việc con hàng ngày đi đưa báo, em cũng viết ra hết. Em còn viết cả: ‘Vào đêm giao thừa, ba mẹ con cùng ăn chung một bát mỳ vô cùng ngon. Mặc dù ba người chỉ ăn một bát mỳ, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn nói lời cám ơn lại còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa! Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, nhanh chóng trả hết phần nợ nần còn lại”.

“Vì vậy, Tiểu Thuần viết rằng sau này lớn lên muốn mở một tiệm mỳ, trở thành ông chủ tiệm mỳ lớn nhất Nhật Bản và cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: “Cố gắng lên! Chúc quý khách hạnh phúc! Cám ơn quý khách!”.

Đứng sau bếp, hai vợ chồng ông chủ nghe những lời này liền ngồi sụp xuống lấy khăn lau những giọt nước mắt đang trào ra trên khuôn mặt…

Ba mẹ con họ lặng lẽ nắm chặt tay nhau, vỗ vai động viên nhau và cùng ăn hết hai bát mỳ rồi trả 300 đồng, nói lời cảm, cúi chào ra về! Nhìn bóng dáng của ba mẹ con họ, ông chủ quán nói theo: “Cám ơn quý khách! Năm mới vui vẻ!”.

Lại một năm nữa trôi qua, đêm giao thừa, 9h30 tối, bà chủ lại đặt biển “đã đặt chỗ” lên bàn số hai nhưng ba mẹ con người phụ nữ kia đã không đến. Năm sau, năm sau nữa… vẫn không thấy ba mẹ con họ xuất hiện. Tiệm mỳ Bắc Hải Đình làm ăn ngày một phát đạt, toàn bộ đồ đạc và bàn ghế đã được thay mới duy chỉ có bàn số 2 là vẫn được để nguyên như cũ.

Rất nhiều ngày 31/12 qua đi, nhưng chiếc bàn hai vợ chồng chủ quán dành tặng ba vị khách năm nào vẫn luôn còn trống…

Và vào một ngày 31/12 của rất nhiều năm sau đó, khi khách khứa tấp nập vào quán mỳ Bắc Hải Đình vừa ăn, vừa chờ tiếng chuông giao thừa như thường lệ, thì có hai thanh niên mặc vest, tay cầm áo khoác ngoài đẩy cửa bước vào. Bà chủ đang định nói: “Thật xin lỗi, quán đã hết chỗ rồi!”, thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc bộ ki-mô-nô đi đến, đứng giữa hai người thanh niên trẻ, cất lời: “Phiền bà… phiền bà… cho chúng tôi ba bát mì được không?”.

Bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh người phụ nữ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về khiến bà choáng váng. Đứng sau bếp nấu, ông chủ cũng choáng váng, đưa ngón tay chỉ vào ba người khách rồi lắp lắp nói không lên lời: “Các vị… các vị là…”.

Một trong hai người thanh niên nhìn bà chủ và đáp: “Vâng! Vào một ngày cuối năm cách đây 14 năm, ba mẹ con cháu đã tới đây gọi một bát mỳ, nhận được sự khích lệ của bát mỳ đó mà ba mẹ con cháu có thêm nghị lực để sống tiếp. Sau đó, ba mẹ con cháu chuyển đến nhà bà ngoại cháu ở huyện Tư Hạ sinh sống. Cháu đã thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập ở khoa nhi đồng của bệnh viện Kinh Đô. Tháng Tư sang năm cháu sẽ đến làm việc tại bệnh viện Tổng hợp Trát Hoảng ạ! Hôm nay chúng cháu đến chào hỏi bệnh viện, thuận tiện viếng thăm mộ của cha cháu. Em cháu không trở thành ông chủ tiệm mỳ lớn nhất Nhật Bản như hồi nhỏ mơ ước, bây giờ đang làm việc ở ngân hàng Kinh Đô. Ước nguyện bấy lâu nay của ba mẹ con cháu là được đến hỏi thăm hai bác và ăn mỳ Bắc Hải Đình ạ!”.

Hai vợ chồng ông chủ quán mỳ vừa nghe, vừa gật đầu mà nước mắt chảy ra ướt cả khuôn mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi ngay gần cửa ra vào đang ăn liền nuốt vội và nói: “Này ông bà chủ! Hai người làm sao thế? Chuẩn bị hơn 10 năm nay giờ mới được gặp mặt, còn không mau tiếp khách rồi chiêu đãi họ đi à? Nhanh lên đi!” .

Bà chủ cuối cùng bừng tỉnh rồi vỗ vào vai ông chủ hàng rau, cười nói: “Phải rồi!… Xin mời! Xin mời! Mời ngồi bàn số 2, cho ba bát mỳ nhé!”.

Ông chủ đang ngây người, vội vàng lau nước mắt trả lời: “Được, được. Ba bát mỳ! Có ngay đây!”.

Đây có lẽ là đêm giao thừa đẹp nhất trong cuộc đời ông bà…

Suy ngẫm:

Đôi khi, chỉ một câu nói, một hành động nhỏ cũng giúp thay đổi số phận một con người mãi mãi. Vợ chồng người chủ quán mỳ, bằng nghĩa cử thầm lặng của mình (bỏ thêm mỳ vào bát), bằng sự quan tâm, sẻ chia của mình (gửi lời chúc năm mới) đã gieo một hạt mầm của hy vọng vào cuộc sống khốn khó của ba mẹ con. Họ đã phải sống một cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Ba người phải ăn một bát mỳ chung, chỉ dám vào quán lúc khuya khoắt, vắng vẻ. Nhưng họ vẫn rất đàng hoàng, lịch sự, trả đủ tiền (dù hoàn toàn không biết suất của mình là suất đặc biệt). Ba mẹ con không xin ăn và vợ chồng chủ quán cũng không có ý định lấy bát mỳ ra làm của bố thí. Cả hai bên đều giữ được một phong thái rất cao cho dù nỗi đời cơ cực ngoài kia vẫn luôn vây bủa.

Cái kết của câu chuyện thật ấm áp, ấm áp như những bát mỳ đong đầy yêu thương của vợ chồng chủ quán tốt bụng. Có lẽ hai vợ chồng ông cũng không thể ngờ rằng một câu nói của mình có thể tạo ra động lực sống to lớn như vậy cho ba mẹ con. Người Bungari có một câu ngạn ngữ thế này: “Bàn tay tặng hoa hồng bao giờ cũng phảng phất hương thơm”. Khi bạn trao gửi đi yêu thương, nó không tan vào hư vô. Nó sẽ trở thành dòng suối mát lành, ngọt ngào chảy ngược lại xoa dịu chính tâm hồn bạn. Chẳng phải thế sao?

Mai Trà – Hữu Bằng

From: TU-PHUNG

TÌNH MẪU TỬ

TÌNH MẪU TỬ

(Nhân ngày HIỀN MẪU xin gởi truyện ngắn này đọc xem có khóc không?)

– Anh về ngay đi, em hết chịu nổi rồi, mẹ anh phiền thật.

– Uhm, mẹ anh phiền thật, bây giờ anh đang có cuộc họp quan trọng, tối về anh sẽ giải quyết nha em.

Tiếng đầu dây bên kia dập máy nghe có vẻ rất tức tối, anh buông thõng người ra sau ghế, ở bên kia cô nhìn ra phía cửa như đang cố nuốt trôi một cái gì đó vào mình.

– Anh nhìn đi, đó, đây này, hôm nay em sắp, ngày mai em xếp, cứ một người dọn, một người lại bày ra như vậy, ai mà chịu nổi. Em sắp điên rồi đây. Cô vò đầu trong 1 trạng thái vô cùng tức giận, anh lại gần cô, lấy tay xoa xoa hai bờ vai gầy gầy, cô hất chúng ra.

– Em vào đây – Anh nhẹ nhàng nắm lấy tay cô kéo vào phòng, khép hờ cửa, anh lấy xuống một chiếc hộp được đặt trên nóc tủ, lấy tay phủi nhẹ, anh nhìn cô mỉm cười.

– Mẹ phiền thật, ngày mai mình đưa mẹ đến viện dưỡng lão em nhé, còn bây giờ để anh cho em biết mẹ chúng ta phiền đến mức nào.

Anh mở chiếc hộp ra, bên trong là một xấp hình, anh lấy ra một tấm đã cũ, nhưng chẳng hề dính tí bụi nào, cô tò mò nhìn vào tấm ảnh.

– Em thấy không, đây là tấm hình mà Dì anh đã chụp lúc anh sinh ra, Dì kể vì mẹ yếu nên sinh lâu lắm, mà sinh lâu chắc là đau lâu em nhỉ, mà mẹ phiền thật, cứ la hét ầm ĩ cả lên, ai mà chẳng sinh. Dì còn nói, mẹ yếu lắm, nếu cứ cố sinh thì sẽ nguy hiểm cho người mẹ, bác sĩ đã nói như vậy rồi vậy mà mẹ vẫn cố cãi: “Không, con tôi phải ra đời, tôi phải sinh,” mẹ anh phiền thật đó.

Cô nhìn tấm hình, bàn tay cô nhẹ bổng, rồi cô nhìn anh, trong mắt anh chứa một điều gì đó rất lạ. Anh cẩn thận bỏ tấm hình đó qua một bên, lấy một tấm khác cho cô xem.

– Em nhìn nè, đây là bức ảnh chụp lần đầu tiên anh bú mẹ, anh chẳng thấy ai phiền như mẹ cả. Bà nội, bà ngoại nói cả rồi, mẹ yếu, không đủ sữa để cho anh, uống sữa bình đi, ở đó mà dưỡng sức, nhưng một hai cứ khư khư giữ anh vào lòng “Không, con con nhẹ cân, phải bú sữa mẹ mới tốt.” Ai nói gì cũng cãi em nhỉ, nếu không anh được uống sữa bình rồi, sữa bình phải ngon hơn chứ, mẹ anh phiền thật.

Bàn tay cô run run, cô thấy ánh mắt của người mẹ trong bức ảnh ánh lên vẻ rất hạnh phúc, hai bàn tay cô ta cứ giữ chặt đứa bé. Cô nhìn anh không nói gì cả.

– Còn nữa đây này – Anh lại lôi ra một tấm khác nhìn vào đó.

– Em thấy mẹ anh phiền ghê chưa, con nít hơn một năm ai chẳng chập chững biết đi, mẹ cứ làm như chỉ có con mẹ mới làm được điều đó không bằng. Ba kể mẹ cứ gặp ai là cũng hí hởn khoe “Thằng cu Tin nhà tôi đi được rồi, nó biết đi rồi đó.” Bộ mẹ không thấy phiền hay sao em nhỉ? – Bờ môi cô như muốn nói một cái gì đó nhưng cổ họng thì ứ nghẹn lại, bức ảnh đứa trẻ con chập chững đi về phía mẹ trong tấm hình, cô nhìn mãi. Ba còn kể, từ ngày anh bắt đầu bi bô tập nói rồi gọi được tiếng mẹ là nguyên những ngày sau là một chuỗi điệp khúc” Cu Tin gọi mẹ đi, gọi mẹ đi cu Tin,” mẹ phiền quá đi mẹ à, anh mỉm cười xoa nhẹ vào bức ảnh, mắt anh đang long lanh thì phải.

– Đây nữa, đây nữa này – Anh lôi ra nguyên một xấp, nhiều lắm, rất nhiều ảnh – Em thấy mẹ anh phiền ghê chưa, chụp làm gì mà lắm ảnh vậy không biết, lần đầu tiên anh vào mẫu giáo, có phiếu bé ngoan, rồi tiểu học, trung học, nhận bằng khen, em coi đi, đủ trò trên đời, coi hình của anh có mà đến tết mới xong, anh phì cười, “mẹ anh phiền nhỉ?”

Cô nhìn anh, anh không cười nữa, anh cầm một tấm hình lên nhìn vào đó rất lâu, cô thấy nó, một tấm hình rất đẹp, anh rất đẹp trong bộ áo tốt nghiệp cử nhân, anh lúc đó trông điển trai quá, cao ráo, nhưng…

– Em có thấy không? Tóc mẹ anh đó, rối em nhỉ? Còn áo quần nữa này, cũ mèm…- Cô nghe thấy giọng anh trở nên khác đi, không đều đều như lúc ban đầu nữa, đứt quãng. Cô nắm lấy tay anh.

– Năm 15 tuổi, ba bỏ mẹ con anh lại, rồi lúc đó, mọi thứ trong nhà trở nên không có điểm tựa, anh đi học, mẹ bắt anh phải học… Em không biết đâu, anh xin nghỉ nhưng mẹ không cho, phiền như vậy chứ. Mẹ cứ sáng sớm đi phụ quán cơm cho người ta, trưa ăn một chén cơm thừa trong quán để dư tiền cho anh học thêm ngoại ngữ, rồi chiều đến chạy đi giặt đồ cho những bà mẹ không phiền khác, để họ đi mua sắm, cà phê, giải trí…- Giọng anh lạc hẳn – Còn nữa em ạ, tối đến mẹ lại tiếp tục đi làm lao công đường phố, sáng sớm mới về chợp mắt được một tí thôi, vậy đó… Em thấy mẹ anh khỏe không?

“Tách”, một giọt nước rơi xuống trên tấm hình, mắt cô cũng nhòe đi, khác thật, một bà mẹ trẻ với gương mặt xinh đẹp lúc đứa con mới bi bô tập nói, và cũng với gương mặt phúc hậu đó nhưng giờ làn da đã nhăn đi, khuôn mặt gầy hẳn khi đứng cạnh cậu con trai lúc chuẩn bị ra trường.

– Anh à – Bàn tay cô nắm lấy bàn tay run run của anh.

– Em có thấy tay mẹ rất yếu không, anh chẳng bao giờ kể em nghe nhỉ. Khi năm tuổi, anh đùa nghịch chạy nhảy lung tung, lúc đuổi bắt cùng cô nhóc hàng xóm anh đã trượt chân ngã từ cầu thang xuống. Lúc đó, anh chẳng thấy đau một chút nào cả, chỉ nghe một tiếng kêu rất thân quen, em có đoán được không, anh đang nằm trên một thân thể rất quen…mẹ anh đó. – Cô sững người lại, nước mắt cô trào ra, rơi xuống ướt đẫm tay anh.

– Em à, mẹ anh phiền vậy đó, phiền từ khi anh chuẩn bị lọt lòng cho đến khi anh gần đón đứa con đầu tiên của mình, chưa hết đâu, mẹ sẽ còn phiền cả đời em ạ, bây giờ lớn rồi mẹ vẫn cứ lẽo đẽo theo anh dặn đủ thứ em không thấy sao, cơm phải ăn ba chén, đi xe phải chậm thôi, đừng có mà thức khuya quá. Mẹ anh phiền thật, ngày mai mình đưa mẹ đến viện dưỡng lão em nhé.

“Anh”, cô ôm chặt lấy anh, cô òa khóc nức nở, “em xin lỗi”, anh ôm lấy cô vỗ về, vỗ về như ngày xưa anh vẫn thường được làm như vậy.

“Choang” – Anh và cô chạy nhanh xuống bếp.

– Mẹ xin lỗi, mẹ nghe con thèm chè hạt sen nên mẹ đi nấu, nhưng… Giọng mẹ run run không dám nhìn về phía trước, cúi người nhặt những mảnh vỡ vừa rơi.

– Mẹ à – Cô chạy đến nắm lấy bàn tay xương xương của mẹ – Từ nay mẹ đừng phiền nữa nhé, để con phiền mẹ cho – Cô ôm chặt mẹ, nước mắt thấm đẫm vai áo mẹ, mẹ nhìn anh, anh nhìn cô trong lòng của mẹ.

“Mẹ đã không sinh lầm con và con cũng đã không chọn nhầm dâu cho mẹ, phải không ạ?”

Lung Việt (T.H)

Xin Chúa Tha Thứ Cho Tôi

Sonny Doan

Xin Chúa Tha Thứ Cho Tôi

Sau thời cách mạng Pháp, trước cửa một nhà thờ tại Balê, người ta thường thấy một người hành khất với một dáng vẻ lạ thường. Xuyên qua lớp áo rách rưới, ai cũng có thể nhìn thấy trên vòng cổ của người ăn xin một cây thánh giá nhỏ bằng vàng.

Người khách quen thuộc nhất của người xấu số này là một vị linh mục trẻ. Vị linh mục thường đến dâng thánh lễ tại nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, ông không quên hỏi han và giúp đỡ người hành khất.

Ngày nọ, vị linh mục trẻ không còn thấy người ăn xin lảng vảng trước cửa nhà thờ nữa. Lần mò hỏi thăm, vị linh mục đã tìm đến thăm người hành khất đang trong cơn rét run vì bệnh tật và đói ăn. Cảm động trước nghĩa cử của vị linh mục, ông ta đã kể lại cuộc đời của mình như sau: “Khi cách mạng vừa bùng nổ, tôi làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ chồmg chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng tôi đã phản bội họ. Quân cách mạng tìm cách bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con của họ đã bị bắt giữ và kết án tử hình. Chỉ còn người con trai duy nhất là thoát khỏi”.

Nghe đến đây, vị linh mục như muốn té xỉu, nhưng ông đã cố gắng giữ bình tĩnh để nghe tiếp câu chuyện của người hành khất: “Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu họ. Tôi quả thực là một quái vật khát máu… Từ đó, tôi không thể nào có sự bình an trong tâm hồn. Tôi bắt đầu đi lang thang khắp các ngả đường để quên tội ác của mình. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh của gia đình họ trong túi áo này đây. Cây thánh giá tôi đang treo ở đầu giường là của người chồng, còn chiếc thánh giá bằng vàng tôi đeo trên cổ đây là của người vợ… Xin Chúa tha thứ cho tôi”.

Vừa nghe xong những dòng tâm sự và cũng là lời tự thú của người hành khất, vị linh mục trẻ đã quỳ gối xuống bên cạnh chiếc giường của người hấp hối và thay cho một công thức giải tội, ông đã nói như sau: “Tôi chính là người con trai còn sống sót trong gia đình. Ðại diện cho gia đình và với tư cách là một linh mục, tôi tha thứ cho ông nhân danh Cha và Con và Thánh Thần…”.

Câu chuyện tha thứ trên đây là một trong những mẩu chuyện đã và đang xảy ra ở mọi thời đại và mọi nơi. Giữa sa mạc cằn cỗi của lòng người, Thiên Chúa vẫn còn cho mọc lên những hoa trái của yêu thương, tha thứ. Tha thứ là vẻ đẹp thanh tú cao sang nhất của lòng người…

ST.

Trở Về Trên Chuyến Tàu Việt Nam Thương Tín – TRUYỆN NGẮN CÓ THẬT – Nguyễn Ngọc Dung

Van Pham

*TRUYỆN NGẮN CÓ THẬT … – Nguyễn Ngọc Dung,

Trở Về Trên Chuyến Tàu Việt Nam Thương Tín.

Mùa Xuân đang về, thời tiết lý tưởng, với chồi non, nụ thắm… dễ làm người ta yêu đời hơn.

Ngày dài hơn, nắng vàng của những ngày đầu mùa Xuân làm cho tôi ngồi vào bàn, viết lại một quãng thời gian đầy biến động và thay đổi cho cả gia đình mình. Một công việc đã âm ỉ trong lòng, chưa được viết ra, như một gửi gấm đến các con cháu mình những gì đến với cuộc đời của tôi, và phần nào muốn chia sẻ với các bạn, như một lời tâm tình của một thành viên bé nhỏ trong cái tập thể “vợ những người tù cải tạo” quanh đây.

30 Tháng Tư, 1975, lịch sử Việt Nam sang một trang mới. Tôi lấy chồng trong những ngày cuộc chiến cao độ (1970), chàng là một người lính Hải Quân, nay đây mai đó, lúc ở căn cứ hải quân mãi tận Phú Quốc, lúc đi tàu biển, rồi có khi về ngay bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn và đơn vị cuối cùng, là giang đoàn ở Đồng Tâm, Mỹ Tho.

Tôi đi học, đi làm và không theo chân anh đi các vùng xa xôi như thế. Ngày 27 Tháng Tư, 1975, anh về thăm tôi 1 chút rồi trở về Long An, lúc đó là nơi anh được huy động về tiếp tay với các bạn giữ vùng 4 sông ngòi. Anh và tôi xa nhau, gặp nhau như chuyện thường ngày của các gia đình quân đội – nhất là hải quân – trong thời chiến, nào có biết rằng cũng là lần cuối gặp nhau mang hình ảnh anh trong bộ quần áo tác chiến hải quân.

Chúng tôi mất liên lạc từ đó, vài ngày sau, với lời tuyên bố đầu hàng sáng 30 Tháng Tư, 1975, tôi biết cuộc đời mình sẽ có những thay đổi rất lớn, mà chẳng biết nó sẽ như thế nào. Tôi chờ anh trở về Sài Gòn, chờ anh về nhà, tuy biết là không thể trở về với chiếc tàu, để đón gia đình hai bên và tôi.

Về sau này, tôi mới biết, giang đoàn của anh được biệt phái từ Đồng Tâm, tới Nhà Bè, rồi về Long An, nằm trong Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, gồm rất nhiều tàu bè, một mũi nhọn xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân miền Nam lúc bấy giờ.

Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 được thành lập để bảo vệ an ninh thủy trình sông Soài Rạp và sông Lòng Tào, và bảo vệ chính phủ rút về miền Tây, khi tình thế xấu.

Bến Bạch Đằng quen thuộc, gần nhà bố mẹ tôi, nay đã chẳng còn một chiếc tàu nào mang lá cờ xưa.

Chiều tối hôm 29 Tháng Tư, 1975, tôi cùng đoàn người gần nhà ra bến Bạch Đằng, mong có một cơ may nào lên được sà lan, tàu buôn hay cả ghe nhỏ để cứ đi vào một bến bờ vô định. Đi như trong giấc ngủ vật vờ, đêm xuống, bờ sông hỗn loạn, hàng kẽm gai kéo ngang, họng súng gờm sẵn sàng nhả đạn. Tên anh cũng chẳng ích gì trong việc xin 1 chỗ cho mình tôi lên tàu hải quân, ai thoát được, cứ lạnh lùng bỏ đi.

Thôi rồi, số phận mình ra sao, anh ở đâu và có an toàn?

Một đêm không ngủ nghe tiếng trực thăng bay liên tục, nhìn những chiến hạm không đèn trên sông Sài Gòn, tôi biết mọi hi vọng ra đi đã bị cắt đứt. Đi qua bộ tư lệnh Hải Quân, qua cầu tàu nơi có khi anh chỉ cho tôi, kia là con tàu anh đang làm việc trên đó, nay chỉ là một quãng sông đen ngòm, đe dọa và nhận chìm mọi hi vọng của chúng tôi.

Ngày qua ngày, qua lời 1 anh lính cận kề với anh ở giang đoàn, anh ta về nhà nhưng không muốn gặp mặt tôi, tôi biết anh đã dẫn đoàn ghe ra cửa biển, đón tàu khác để di tản.

Tôi vẫn phải đi làm, sáng ra phải dự các buổi gọi là “giao ban,” gặp tất cả các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ và ban quân quản bệnh viện. Không khí căm thù bàng bạc suốt buổi, nhiều đe dọa, chúng tôi chỉ biết nhìn nhau, im lặng, vì quanh mình chẳng biết ai là bạn ai là thù.

Bên cạnh đó, những buổi học tập tại chỗ, những bài tự khai thật nặng nề, những câu hỏi mơ hồ khiến câu trả lời nào của chúng tôi cũng không thỏa mãn được họ. Nhất là với tôi, khi tôi khai ông chồng tôi…mất tích… Thì đúng là mất tích chứ sao bây giờ, khi Tháng Năm, Sáu, Bảy, Tám 1975 không biết anh ở đâu.

Họ đâu có chịu cho tôi yên với hai chữ mất tích kia, cái mất tích hàm nhiều ý nghĩa…có thể là đã chết, di tản, vô bưng hoạt động chống lại họ, hay trốn ở đâu. Họ bắt tôi lên họp, chỉ một với một, họ hạch hỏi quanh chữ “mất tích.” Tôi cũng hoang mang lắm, không biết anh sống chết thế nào.

Bức màn sắt đã trùm xuống toàn miền Nam, toàn vùng chỉ là đêm đen giữa ban ngày. Chỉ có một đường radio VOA, BBC để biết tin nước ngoài, được nghe trong sự trốn tránh che giấu. Sáng đi làm, nhìn những lá cờ đỏ trên đường, rùng mình như màu máu đang rút dần ra khỏi cơ thể tôi, ngủ dậy mới thấy đã qua được 1 ngày yên ấm, chưa bị bắt như các người lớn trong bệnh viện, nay ông bác sĩ bệnh viện trưởng, mai ông phụ tá hành chánh, mốt ông điều dưỡng trưởng.

Không khí trong bệnh viện đầy đe dọa, dò xét, ngay cả hộp đồ ăn trưa cũng được bà trưởng phòng về tiếp quản, đổ ra ngoài xem có dấu gì trong đó, hay xem bọn “ngụy” ăn uống cao lương mỹ vị gì.

Đến khoảng Tháng Tám 1975, tôi nhận được 1 điện tín gửi từ Pháp, như sau: sẽ hồi hương, cho biết ý kiến.

Bức điện tín ngắn gọn, mà thật là khó giải quyết. Tôi xin ý hai bên cha mẹ. Bố mẹ anh không biết nên bảo anh về lại Việt Nam hay bảo anh qua Mỹ, được sung sướng cho anh, thì lại khổ cho con dâu mà ông bà rất yêu quý. Bố mẹ tôi bảo anh trở về, thì thương anh bị ở tù khổ cực lắm. Ngay bản thân tôi, cũng chẳng biết sao là đúng.

Biết là anh đang rất cần câu trả lời để có quyết định, về hay ở?

Sau cùng, chúng tôi đành đánh điện tín qua: “Tùy ý quyết định.” Những ngày tháng sau đó, tôi sống như một người có tội, tội đẩy anh vào nơi lao lý, biết có ngày về ?

Sau đó các đài phát thanh, VOA, BBC báo tin cho biết sẽ có một chuyến tàu mang tên Việt Nam Thương Tín sẽ đưa một số người muốn hồi hương, khoảng Tháng Mười sẽ trở về. Thuở ấy, sau bức màn sắt là một thế giới khác, bít bùng, mọi tin tức đều không thể đến với người dân. Tôi đi làm, lòng đầy hoang mang, anh có về, nếu anh về, thì có phải ở tù không? Người ở đây, còn vào tù, huống gì người đã đi, nay trở lại, mang theo những câu nghi ngờ về các anh, có phải đã mang về những công việc dọ thám, đánh phá chế độ…

Rồi được tin nghe lén, chiếc tàu mang tên Việt Nam Thương Tín (VNTT) đã chở người di tản dạo 30 Tháng Tư, 1975, nay được dùng để đưa đoàn người hồi hương. Tôi tự hỏi, liệu có anh trong đó, nếu có thì anh sẽ ra sao. Ngay bản thân tôi ở Sài Gòn, còn bị đe dọa đi kinh tế mới, vì đã được đặt tên là vợ của ngụy quân, tội ác đầy mình, cần phải cải tạo cái đầu tư sản bằng con đường lao động.

Hai bàn tay một Nha Sĩ như tôi, thay vì điêu khắc lên miếng trám cho thật đẹp, thật giống những hình dáng thật của răng, nay có lúc phải cầm cuốc đi trồng dứa (thơm) ở nông trường, cầm cuốc trồng khoai mì sau khi đã cuốc hết sân cỏ xanh mướt tốn công biết bao, ở sân trước bệnh viện Chợ Rẫy nổi tiếng ở Sài Gòn.

Có lần chúng tôi phải đi đào kinh, giẫm chân trên dòng kinh lúp xúp nước, chuyền những miếng đất được các vị bác sĩ, các giáo sư đại học Y Khoa Sài Gòn trao cho, để tạo con kênh dẫn nước phèn vào ruộng. Dòng nước váng lên những phèn, cây nào sống nổi. Sau những lần khổ cực như thế, số bác sĩ quyết chí rời bỏ nước lại càng tăng lên. Họ đã không trọng vọng nhân tài, yêu quí những vị “cứu nhân, độ thế.”

Qua những sự việc hàng ngày như thế, tôi đã có thể hình dung cuộc sống trong tù “cải tạo” của các quân nhân chế độ cũ, và nhất là các anh đã về theo chuyến tàu VNTT sẽ khổ như thế nào.

Lá thư anh gửi từ trại tù Tuy Hòa đã xác định, anh đã trở về.

*******

Tôi lên phòng nhân viên của bệnh viện tôi làm việc, xin điều chỉnh tình trạng chồng mình. Chữ “mất tích” nay đổi thành một địa chỉ lạ hoắc, ở một nơi rừng sâu núi thẳm nào đó miền Trung. Tưởng rằng đã yên cho mình, tưởng rằng không còn cái cảnh gọi lên làm lại lý lịch tôi đã thuộc lòng, với lời nghi ngờ là ông chồng tôi đang ở một nơi nào, đe dọa đến an ninh của chế độ mới.

Bây giờ họ đem chồng tôi để “dụ” tôi vào một công tác mới. Họ hỏi, tôi có muốn đi thăm nuôi anh, có muốn gặp anh? Dĩ nhiên là tôi muốn lắm chứ, nhưng tôi cũng biết dè chừng cái thâm ý của họ.

Đằng sau cái đề nghị ngọt ngào đó, hẳn là sẽ có điều kiện gì đây?

Thì ra, họ muốn tôi làm một thứ “ăng ten” để tìm hiểu về một nhân vật trong bệnh viện mà họ muốn bắt. Tôi tuy còn non trẻ, nhưng cũng đã biết lưu ý kịp thời, để không mắc mưu họ, giữ an toàn cho người ấy và cả cho mình. Cuộc sống bấy giờ, là một sự đối phó, là những cẩn thận và căng thẳng. Rồi cũng qua ngày, tôi tìm quên trong công việc. Trong bệnh viện, ngày ngày có tin người này đi thoát, bạn khác bị bắt. Tôi đã tìm cho mình một hướng đi, dứt khoát ở lại với anh. Chúng tôi chưa có con, tưởng như không có điều chi ràng buộc, nhưng tình nghĩa vợ chồng sâu nặng, nhất là sự trở về của anh, thì sự dứt khoát kia trở thành một điều không lay chuyển.

Chuyến tàu VNTT về đến hải phận Vũng Tàu từ Tháng Mười, 1975, thế mà chúng tôi chỉ biết đến tin nhau qua vài lá thư, thư đầu tiên từ Tuy Hòa, ngày gửi là Tháng Hai, 1976, thư thứ hai từ Nghệ Tĩnh.

Anh đã bị còng tay, giải đi thật xa, đến một nơi nghèo nhất nước, để đói khát, bệnh tật sẽ giết lần mòn nhóm sĩ quan ưu tú của quân đội. Những lá thư được rập khuôn, vài ba chữ hỏi thăm là đã hết, anh chẳng đả động gì đến chuyện đi thăm, sự cô lập trong rừng sâu, sự cô lập với dân quanh vùng và ghê sợ hơn cả là sự cách chia với gia đình.

Anh sống thế nào nhỉ?

Sự chờ đợi mỏi mòn cho đến cuối năm 1978, anh mới báo tin cho tôi đi thăm nuôi. Hai chữ “thăm nuôi” thật giản dị mà đầy ý nghĩa.

Nghĩa là có hai việc trong lần được gặp này: thăm và nuôi. Anh viết thư về, danh sách các thứ “nuôi” dài thậm thượt, với một người gọi là “khảnh ăn” như anh, mà phải liệt kê bao nhiêu món như thế, chắc chắn anh thiếu thốn ghê gớm.

Quãng đường Hà Nội vào Vinh bằng tàu chợ đã là một ám ảnh tôi cho đến bây giờ, xe lửa cho những con buôn đanh đá, cảnh hỗn loạn cho những tay cướp hoạt động, nơi những tay anh chị và đồng bọn hoành hành với những luật chơi riêng của họ. Những chị đi thăm nuôi cứ chết dí, né tránh và chịu đựng. Nói sao cho hết những nhục nhằn chịu đựng trên đường thăm nuôi.

Lần đầu tiên gặp lại sau 3 năm xa cách, anh đã trở thành một người khác, cả người sưng phù, khuôn mặt giữ nước trông như mập ra, anh như một người khác trong bộ bà ba đen có lần tôi gửi vào theo đường bưu điện.

Vợ chồng nhìn nhau qua 1 chiếc bàn lớn, xa cách như tội nhân. Chúng tôi tội tình gì nhỉ, muốn nói bao điều, mà chỉ nói bằng ánh mắt. Giờ được thăm loáng cái đã hết, chúng tôi bịn rịn, anh ngay đây mà như một người xa lạ, gặp nhau và chia tay, chỉ yên tâm là chúng tôi vẫn còn sống, ngày mai sẽ ra sao, chẳng ai biết.

Anh quay vào trại, sống kiếp tù đày, tôi trở về lại Hà Nội đợi máy bay vào Sài Gòn. Ra đến Hà Nội mới biết các chuyến bay tạm ngưng vì chiến tranh Tháng Mười Hai, 1978 giữa Việt Nam và Cambodia, tôi kẹt ở lại, tôi đánh điện tín về bệnh viện xin nghỉ, họ không tin, cứ nghĩ tôi đã vượt biên. Sau khi có máy bay trở lại, tôi đi làm và đã bị làm khó dễ không ít với sự việc này. Đất nước đã được rêu rao là “thống nhất,” là hạnh phúc, mà sao vẫn sợ dân mình bỏ nước ra đi?

Cuộc sống ngay cả ngoài tù còn đầy rẫy khó khăn, đói ăn, thiếu mặc, thiếu tự do. Thử hỏi trong tù, nhất là người tù luôn kèm theo bốn chữ Việt Nam Thương Tín, thì khổ thế nào. Bốn chữ ấy có nghĩa là luôn nằm trong sự nghi ngờ của chính quyền, sự thương cảm của bạn bè, sự tiếc nuối có khi tức giận của những người đang tìm đường vượt biên. Riêng tôi, bị nhìn như nguyên nhân chính của sự trở về của anh.

Tôi tự giận mình, quyết định để anh trở về, như đang ở thiên đường mà lại xuống địa ngục. Nhiều khi tôi phải tự tìm ra câu trả lời, là, quyết định lúc nào, là đúng nhất vào lúc ấy, không ân hận và không tiếc gì. Hỏi rằng có ai can đảm như anh, biết trở về là tù đày mà chỉ nghĩ đến một ngày sẽ trở về với gia đình và tôi.

Nhiều bạn anh lúc còn ở Guam, đã ngăn anh trở về, nhưng các bạn mạnh miệng vì họ đang ở trong sự đầy đủ của vợ, con, cha mẹ. Anh tâm sự, có những buổi chiều ở Guam, ngồi ở bãi biển, nhìn đôi chim bay cùng nhau trong nắng xế, nhìn người ta bên cạnh vợ con, tuy chưa biết ngày mai nhưng vẫn ánh lên hạnh phúc vui vầy. Anh đã về vì chẳng có ai trong gia đình anh, gia đình tôi di tản được.

Anh ra khỏi tù Tháng Mười, 1982, từ xứ Nghệ Tĩnh rất xa, vào đến miền Nam là cả một lòng thương yêu của dân chúng, họ giúp đỡ, trên đường di chuyển về Sài Gòn. Hai năm sau, chúng tôi có đứa con trai đầu tiên và 3 năm sau, một đứa con trai thứ ra đời khi tôi đã ở tuổi 40. Bạn bè của anh thường lui tới thăm hỏi, nựng nịu hai cháu nhỏ nhất khóa.

Chúng tôi muốn sống yên bình, nhưng thấy luôn luôn có những phân biệt, ngăn cản bước tiến của con mình từ phía chính quyền mới. Và năm 1991 bốn người chúng tôi ra đi định cư ở Mỹ trong chương trình H.O., chúng tôi phải làm lại từ đầu, bắt đầu một cuộc đời mới ở một xứ sở mới đã dang tay đón nhận chúng tôi.

Chúng tôi với tuổi thanh xuân, với thời điểm đẹp nhất cho việc tạo dựng một cuộc đời tốt đẹp, lúc ấy, đã bị cướp đi, phải bắt đầu một cuộc đời mới bằng hai bàn tay trắng. Những mất mát ấy, chẳng cách gì lấy lại được. Thật là nhiều thua thiệt, chỉ còn những an ủi là những ngày tháng cuối đời được sống bình an nơi xứ sở này, nơi chúng tôi xin nhận làm quê hương.

Anh đã từ Mỹ, trở về Việt Nam, trải qua 7 năm gian khổ, và 9 năm sau gia đình chúng tôi đã cùng nhau trở lại “thiên đường” tưởng đã đánh mất, sau 19 năm tuổi trẻ, đã qua đi vô ích, tuổi đẹp nhất của một đời người.

Qua những gian khó ban đầu ai cũng phải sống như thế, chúng tôi đã hội nhập được với “dòng chính,” các cháu học hành nên người, cuộc sống không đến nỗi kham khổ.

Để đến bây giờ, chúng tôi vẫn hãnh diện trả lời, “Vâng, chúng tôi là người của chuyến tàu VNTT, con tàu mang tên Định Mệnh, từ Guam trở về Việt Nam Tháng Mười, 1975.”

HÌNH:

– Những ngày tháng yêu nhau…. gặp gỡ nhau trên chiến hạm trước 30-4-1975…

– Phi trường Tân Sơn Nhất, 4 Tháng Bảy, 1991. (Hình: Tác giả cung cấp)

– Tết đầu tiên ở Hoa Kỳ, 1992. (Hình: Tác giả cung cấp)