Trái Tim Người Cha-Truyen ngan HAY

Một ngày nọ, Cha tới mượn tiền tôi. Cha nói sức khỏe không tốt, cần phải tới bệnh viện để kiểm tra tổng quát, vậy nên tôi đã gửi tiền cho Cha.

Không ngờ, chưa được bao lâu, Cha lại gọi điện tới, nói muốn mua một chiếc xe điện 3 bánh. Tôi lưỡng lự một lúc, Cha dường như nghe thấy sự do dự của tôi bèn nói:

“Con cho Cha một nửa, Cha tự bỏ ra một nửa, đem bán mấy con dê nhà nuôi”.

Nghe thấy vậy, tôi liền mềm lòng. Mấy năm gần đây, Cha tôi đã nuôi hơn chục con dê, nuôi lớn rồi lại đem bán để trang trải chi tiêu hàng ngày. Sau khi Mẹ tôi mất đi, tôi muốn đón Cha lên thành phố ở chung, Cha quyết không chịu đi.

Thằng em trai đang sống ở thị trấn cũng muốn đón Cha tới, nhưng Cha nói đã quen với cuộc sống ở quê, quen với những người trong thôn nên không muốn rời đi.

Không có cách nào thuyết phục, đành theo ý Cha. Tuy nhiên, muốn biếu Cha chi phí sinh hoạt hàng ngày ông cũng không lấy, lần nào cũng nói, cuộc sống thôn dã đơn giản, chi phí ít, cũng không tiêu gì. Mà bây giờ… chuyển tiền cho Cha, nhưng tôi vẫn cảm thấy có gì đó không đúng.

3 tháng trôi qua, tôi quyết định đưa con gái về nhà thăm Cha.

Cửa nhà khóa, chú hàng xóm nói Cha tôi đang đi chăn dê. Tôi bèn dắt con gái xuống dốc, từ xa đã nhìn thấy đàn dê, tới gần mới thấy Cha đang ngồi ngủ bên gốc cây, bên cạnh trải một tấm vải, trên tấm vải có một cái bánh đã ăn được một nửa, một túi dưa muối nhỏ, còn có một bình nước… Trong lòng chợt thấy chua xót, tôi liền gọi: “Cha ơi”!

Cha giật mình tỉnh giấc, hồi lâu sau mới nói:

“Con bé này, sao về nhà mà không báo trước?”.

Con gái tôi liền giành nói trước: “Mẹ con nói muốn cho ông ngoại một bất ngờ”.

Cha tôi thực sự rất vui mừng, không nói thêm với tôi điều gì, chỉ kéo cháu gái tới làm quen với bầy dê bảo bối của mình. Một bầy dê nho nhỏ có trên chục con, Cha tôi vui vẻ nói:

“Đợi thêm một khoảng thời gian nữa có thể bán được rồi, chắc chắn sẽ bán được rất nhiều tiền! Bây giờ giá dê đang tăng”.

Về tới nhà, trong sân có chút bừa bộn, chiếc xe 3 bánh Cha tôi đã đi nhiều năm nằm ở một góc sân.

Tôi thuận miệng liền hỏi:

“Cha, chiếc xe 3 bánh Cha mới mua đâu rồi?”.

Ông bối rối trả lời:

“Cha… vẫn chưa mua! Nghe người ta nói tháng sau giá sẽ giảm”.

Trong lúc tôi dọn dẹp ngoài sân, nghe thấy Cha gọi điện cho thằng em trai nói:

“Chị gái con về nhà, tối nay con cũng về nhà cùng ăn cơm đi!”.

Sau đó Cha còn dặn nhỏ một câu:

“Mua thêm nhiều đồ ăn ngon nhé”!

Tôi định nói vài câu, rồi lại thôi. Hồi trước, tôi luôn để ý tới sự thiên vị của cha mẹ. Bởi vì sự đố kỵ lúc còn nhỏ mà tôi luôn xa cách thằng em trai, sau đó thì giận dỗi quyết định thi vào một trường đại học thật tốt, cuối cùng có thể hãnh diện rời khỏi nhà.

Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi vào làm việc ở một công ty nước ngoài khá tốt, còn em trai tôi miễn cưỡng cũng học xong trung cấp nghề, trở thành một công nhân làm trong một dây chuyền lắp ráp tại thị trấn, thằng út lại càng ngưỡng mộ và tôn trọng tôi hơn.

Buổi chiều, thằng em trai mang theo con về nhà, còn mua rất nhiều đồ.

Cha tôi đích thân xuống bếp, cùng với em trai làm rất nhiều món ngon, đều là những món tôi ưa thích. Lúc Mẹ tôi còn sống, Cha tôi chưa từng nấu ăn. Thật kỳ lạ là mỗi món ăn Cha làm đều giống y như mùi vị thức ăn Mẹ nấu. Ăn từng miếng, tôi dường như sắp khóc.

Buổi tối, tôi ngồi nói chuyện với Cha trong sân, chỉ là không ngờ tới, ông vòng vo một hồi lâu, nói từ chuyện trong thôn, nói tới việc lúc còn sống Mẹ tôi muốn xây lại nhà,… cuối cùng mới nói tới vấn đề chính:

“Các con, nếu như không quá khó khăn, có thể… con biết đấy, thằng em của con…”

Tôi ngắt lời ông, hỏi:

“Cha, sửa nhà cần bao nhiêu tiền”, trong lòng đột nhiên có một nỗi buồn không thể diễn đạt bằng lời.

“Khoảng, khoảng 200 triệu …..”, giọng của ông nhỏ lại, liền lập tức bổ sung, “nếu bán được bầy dê cũng sẽ được vài chục triệu”.

Tôi ngạc nhiên một lúc, 200 triệu với tôi cũng không phải là con số nhỏ, tôi ngập ngừng nói: “Cha, đợi con về nhà tính lại rồi nói, cũng không phải vấn đề quá lớn”.

Ông cúi thấp đầu nói:

“Con gái, làm khó con rồi. Con xem có thể được bao nhiêu, Cha già rồi, sẽ không tiêu tốn khoản nào nữa….”.

Tôi cười nhẹ. trong ánh trăng mờ ảo, chắc chắn Cha không thấy được sự cay đắng trong nụ cười đó.

Bàn bạc với chồng về chuyện của Cha, cả nửa ngày, anh ấy cũng không nói gì, chồng tôi không phải một người nhỏ mọn, nhưng năm nay, tình cảnh của anh ấy còn tệ hơn tôi. Chồng tôi mở một công ty xuất khẩu nhỏ, bây giờ đến tiền lương cũng trở thành vấn đề.

Cuối cùng anh ấy nói:

“Em đưa tiền cho Cha đi, chúng ta tự thắt chặt chi tiêu chút, vẫn có thể chịu được”.

Nửa tháng sau khi tôi chuyển tiền cho Cha, tôi gặp được một người họ hàng lên thành phố làm việc, trong lúc trò chuyện tôi liền thuận miệng hỏi:

“Nhà của con đã bắt đầu sửa lại chưa ạ”?

Ông ấy hơi ngạc nhiên:

“Không thấy Cha con nói tới việc sửa lại nhà!”, nghĩ một lúc người đó nói, “Đúng rồi, Cha con đem dê bán hết rồi, giúp em trai con mua một chiếc xe giao hàng nhỏ, em trai con không còn làm ở chỗ cũ nữa, đã tự lái xe đi giao hàng rồi. Kiếm được kha khá…”.

Trái tim tôi giống như bị ném vào băng vậy, cảm thấy thực sự lạnh lẽo.

Hoá ra Cha đã nói dối tôi, từ đầu tới cuối luôn đứng về phía thằng em trai, thiên vị tới mức nói dối tôi lấy tiền giúp đỡ nó, không thể oán hận Cha nhưng có bao nhiêu bất mãn chính tôi cũng không rõ.

Về tới nhà, tôi không thể chịu đựng được nữa, nhốt mình trong phòng vệ sinh, vừa mở nước vừa khóc một trận.

Vài ngày sau đó, tôi đều không chủ động gọi điện thoại cho Cha. Cuối cùng cũng làm Cha gọi trước, tôi chỉ trả lời lấy lệ, Cha cũng đành phải cúp máy. Nhưng không ngờ rằng, đó lại là lần cuối cùng tôi được nghe giọng của ba…

3 ngày sau, tôi nhận được điện thoại của thằng em trai, nói rằng Cha đã qua đời vì bị nhồi máu cơ tim… bỗng nhiên nhớ lại cuộc điện thoại 3 ngày trước, những lời dặn dò vụn vặt cùng sự lạnh lùng của tôi, khiến tôi không thể nhớ nổi.

Lập tức trở về nhà, lần đầu tiên tôi và thằng em trai ôm nhau khóc, lúc Mẹ mất tôi vẫn có thể dựa vào vòng tay Cha, còn bây giờ… tất cả những oán trách đối với Cha đều bị sự ra đi đột ngột này làm tan đi hết, chỉ còn sự đau thương bao trùm lấy tôi.

Sau khi lo liệu xong hậu sự của Cha, lúc rời đi, thằng em trai tiễn tôi tới bến xe rồi nói:

“Chị ơi, hãy thường về nhà nhé, Cha Mẹ đều không còn, nhưng nhà của chúng ta vẫn còn”.

Một câu nói đó đã khiến cho tôi vốn đã khóc tới cạn nước mắt lại dâng lên dòng lệ. Nắm tay thằng em trai tôi dặn dò nó giữ gìn sức khỏe rồi lên xe đi. Tôi đã nghĩ rằng, có thể sau này tôi sẽ không thường về nơi được gọi là nhà của chúng tôi nữa!

Trải qua vài ngày, tôi mới có thể bình tĩnh lại sau việc Cha qua đời…

Nhưng cuộc đời con người, quả thật là hoạ vô đơn chí, chuyện bất hạnh lại tiếp tục xảy tới, công ty của chồng tôi gặp sự cố, anh ấy bị khách hàng lừa mất toàn bộ tài sản.

Chồng tôi lúc đó gần như sụp đổ, từ một người không bao giờ uống rượu lại thành kẻ say sưa tối ngày. Tôi vô cùng lo lắng, sốt ruột, lại không có cách nào có thể giúp đỡ, suy nghĩ một đêm, cuối cùng quyết định bán nhà.

Trưa ngày hôm đó thằng em trai gọi điện tới, sau khi Cha mất, thằng em ngược lại rất thường xuyên gọi điện thoại tới. Tôi không có tâm trạng nói chuyện với nó, nó cũng hiểu được sự nôn nóng của tôi, nhẫn nại hỏi, tôi cố gắng mới nói được hết cho thằng út nghe.

Không ngờ được rằng, em trai tôi ngồi tàu hỏa, sáng hôm sau liền tới, bước vào nhà không nói gì hết, từ trong tay lấy ra một cọc tiền. “Chị, đây là 500 triệu, không nhiều, dùng giải quyết trước đã”.

Tôi vô cùng ngạc nhiên hỏi:

“Tiền này em lấy ở đâu?”. “Một phần từ mấy tháng nay em chở hàng kiếm được 300 triệu, nhà trên thị trấn không được bao nhiêu, chỉ có điều có được từng này…”.

Tôi cảm động, cầm tiền đưa lại cho em trai, nói:

“Chị không thể cầm tiền của em”.

Nó vội vã nói:

“Chị ơi, năm ngoái xưởng đóng cửa, em và vợ bị mất việc, muốn mua một chiếc xe chở hàng nhưng không có tiền, chị đã đưa ba 400 triệu, nói Cha đưa cho em, còn dặn Cha không được cho tụi em biết là tiền của chị”.

Tôi ngây người, em trai nói tiếp:

“Cha nói, hồi nhỏ, đều là chị nhường em, bởi vì em là em, bây giờ em phải bảo vệ chị, bởi vì chị là con gái. Cha còn nói, tới lúc Cha không còn nữa, em chính là nhà của chị…”.

“Cha”!

Tôi quay đầu, nước mắt rơi xuống như mưa. Tôi là đứa con bất hiếu! Sao lại không hiểu cho sự khổ tâm của Cha. Cha đã biết trước không còn sống được bao lâu, lại càng biết tôi vốn là đứa kiêu ngạo, ngay cả người thân cũng sẽ không nhờ vả dựa dẫm, chính vì vậy đã để lại sự yêu thương, dành cho tôi sau này.

Lúc đầu, khi Cha mượn tiền tôi, trong lòng Cha đã biết khó xử, đã phải dùng bao nhiêu dũng khí. Nhưng Cha vẫn làm vậy, chỉ để khi ông mất đi, chúng tôi còn có chỗ dựa, còn có người thân.

Thì ra đứa con mà ông yêu thương nhất lại chính là tôi. Tôi quay lại ôm lấy em trai, không thể nói một lời nào, chỉ ôm thật chặt nó.

Giây phút này, Cha tôi đang ở trên thiên đường cũng cảm thấy an lòng, bởi vì đứa con được sống trong tình yêu của ông mà hoàn toàn không biết, cuối cùng đã hiểu được tất cả.

(Nguồn: Những câu chuyện nhân văn)

 From: Tu-Phung


 

HÓA ĐƠN THANH TOÁN CHO TÌNH NGƯỜI…

Helen Tran is  José Machín 

Tại một thành phố ở Ấn Độ.. có vị thương gia nọ bận rộn cả ngày vì công việc.. mệt mỏi.. ông vào một nhà hàng tự thưởng cho mình bữa tối thịnh soạn..!

Khi những món ăn đã được dọn sẵn trên bàn.. bất chợt ông nhìn thấy một cậu bé đang nhìn trộm ông qua cửa kính với ánh mắt thèm thuồng.. hình ảnh ấy như có gì làm nhói tim ông..!

Ông đưa tay vẫy cậu bé.. cậu liền bước vội vào.. theo sau cậu là 1 bé gái nhỏ.. 2 đứa trẻ nhìn chăm chăm vào những đĩa thức ăn còn nóng hổi.. mà chẳng cần biết người vừa gọi chúng vào là ai..?

Vị thương gia bảo chúng cứ tự nhiên mà ăn thỏa thích…

Không nói.. không cười.. cả hai ngấu nghiến ăn hết các món ăn trên bàn một cách ngon lành…

Vị thương gia im lặng.. nhìn hai đứa trẻ ăn đắm đuối.. và khi chúng rời đi.. chúng đã không quên nói lời cám ơn với ông..!

Cơn đói trong lòng vị thương gia lúc ấy được xua tan một cách lạ kỳ.. kèm theo một cảm giác khó tả đang lâng lâng trong lòng…

Mãi một hồi sau.. vị thương gia gọi tiếp các món ăn lần nữa.. rồi từ từ thưởng thức.. đến khi gọi thanh toán.. nhìn tờ hóa đơn.. không ghi số tiền.. mà chỉ là một hàng chữ:

– “Thật đáng tiếc.. tiệm chúng tôi không in được HÓA ĐƠN THANH TOÁN CHO TÌNH NGƯỜI.. xin chúc ngài mãi luôn hạnh phúc..!”

Một giọt nước mắt đã rơi từ vị thương gia.. ông quay nhìn người đàn ông đang đứng tại quầy thu ngân rồi gật đầu mỉm cười.. ông ta đáp lại bằng một nụ cười rạng rỡ…

Vị thương gia đã dùng “Đức” đối xử với người nghèo.

Chủ nhà hàng dùng “Nghĩa” đáp lại “Đức” không biết ai hơn ai.?

Người xưa có câu :

– Ngồi trên đống Cát.. ai cũng là hiền nhân.. quân tử.

– Ngồi trên đống Vàng.. mới biết rõ.. ai mới là quân tử.. hiền nhân.

Tình yêu thương luôn đem đến những sự kỳ diệu từ hai phía:

– “người cho và người nhận”.

Hạnh phúc của TÌNH NGƯỜI là cảm giác bình yên và thật sâu lắng.. xóa tan tất cả những đau khổ và bất hạnh.

Vạn vật tồn tại trên thế giới này đều không thể sống mãi với thời gian.. ngay cả con người cũng không thể đi ngược lại hay cưỡng cầu với quy luật ấy.

– Theo thời gian.. mọi thứ đều biến hóa và thay đổi..

– Tất cả có thể sinh ra hoặc mất đi.. có thể phát triển hay lụi tàn..

– Cái gì có đến chắc chắn sẽ rời đi.. không bao giờ là tồn tại mãi mãi.

– Vật chất là ngoại thân.. TÌNH NGƯỜI là vĩnh cửu.

—Zen cafe ST—

(Nguyễn Hoàng Diễm chuyển bài)


 

TÔI ĐÃ KHÓC KHI ĐỌC BÀI VIẾT NÀY

Lính  Nguoi – Câu Chuyện Thú Vị  

Bố mẹ mình ly hôn khi mình 12 tuổi, sau 4 năm bố và mẹ có gia đình mới.

Mình luôn liên lạc với mẹ mỗi khi rảnh nhưng từ khi mẹ có mái ấm mới mình hạn chế việc này lại, vì không muốn làm phiền gia đình nhỏ của mẹ.

Bố kết hôn với Dì, bố dường như quên mất sự hiện diện của mình trong căn nhà này. Vì biết cả 2 đều bận rộn với công việc nên mình tranh thủ những lúc rảnh liền làm hết việc nhà.

Cứ như thế trôi qua 2 năm. Bố và Dì có thêm em Mực.

Mực ra đời, mình cũng dần vô hình.

Những bữa cơm mình cố tình ăn chậm để dọn bàn giúp Dì để Dì có thời gian nghỉ ngơi chăm Mực.

Những lúc đi học về thấy Dì ngủ quên mình cũng bế Mực giúp Dì.

Những lúc bố quên tắt tivi khi xem bóng đá, mình liền tắt giúp bố để bố có thể ngủ cùng gia đình nhỏ của bố.

Vào ngày Dì bệnh bố đi công tác mình lại đi học, Dì gọi mình, mình xin nghỉ hôm đó để chăm Dì.

Bố đi công tác về luôn có quà cho Dì và Mực.

Bố luôn làm Dì cười.

Bố luôn nhắc Mực mỗi khi có khách đến.

Thấy bố và Dì định đèo Mực đi du lịch mình liền nói rằng bận học thêm trên trường, không phải không muốn đi mà là mình không muốn bố và Dì mất không gian riêng.

Cưới Dì về được 3 năm, bố đưa Dì đi du lịch còn hơn số lần bố hỏi mình ăn cơm chưa.

Nhiều lúc mình nhớ mẹ mình khóc nhưng chỉ dám lên lầu vào đêm ngắm sao rồi xếp sao bỏ đầy lọ. Mình không dám làm phiền bất cứ ai cả, mình sợ họ sẽ bối rối giữa mình và gia đình của họ….


 

CÓ MỘT GIA ĐÌNH NHƯ THẾ-My Lan Phạm

My Lan Phạm

My Lan Pham- Lời hay ý đẹp Tuổi Trung Niên

Tôi mới quen biết và chơi bời qua lại với gia đình anh, chị ba bốn năm nay. Gia đình anh cũng có cuộc sống kinh tế bình thường như bao gia đình khác. Có khác chăng là gia đình truyền thống. Cha, mẹ anh là giáo viên. Anh, chị cũng là giáo viên. Năm nay anh “mới có sáu mươi sáu tuổi thôi”. Ở tuổi này tất nhiên là con, cháu đề huề, nội ngoại đầy đủ. Chúng cũng đã phương trưởng và ở riêng. Anh, chị vẫn ở chung với cha, mẹ. Cha sinh năm 1927 vừa khuất núi được 5 năm. Hiện tại còn Mẹ, cụ sanh 1931, nay 93tuổi. Mẹ rất minh mẫn, khỏe mạnh.

Vì thường lui tới thăm chơi nên tôi chứng kiến rất nhiều chuyện. Xin kể vài chuyện điển hình các bạn cùng suy ngẫm.

Buổi chiều khoảng 17 giờ, tôi cùng mấy anh bạn tới nhà anh nhậu (hẹn trước). Chị làm con gà nấu cháo cho tụi tôi nhậu. Mẹ ngồi uống nước vối ở bàn bên. Tụi tôi lăng xăng người một tay dọn bàn nhậu. Tôi thấy chị đến bên Mẹ, chị nhỏ nhẹ

– Mẹ ơi! Con nấu cháo gà, con múc mẹ ăn thử một miếng xem có ngon không nha mẹ. Nếu mẹ thấy ngon thì ăn thêm.

– Không, mẹ đã bảo mẹ không ăn mà cứ bắt mẹ ăn là sao!?

– Dạ không, con có bắt mẹ ăn đâu. í là con mời mẹ ăn thử một ít xem con nấu có ngon không để con đem cho các anh ấy nhậu mà. Mẹ thử giùm con nha, một ít thôi.

Rồi chị bưng chén cháo tới (chị múc nãy giờ cũng đã nguội vừa ăn)

– Mẹ thử giùm con xem có ngon không nha.

Bà mẹ tươi cười ăn hết chén cháo vơi.

Tôi đã lặng người, đứng im hồi nào không hay. Bất giác tôi nghẹn ngào vội đưa tay quẹt nhanh ngấn lệ.

Chị ấy là nàng dâu. Vậy còn anh ấy, con trai mẹ thì sao?

Sáu mươi sáu tuổi đầu nhưng chưa bao giờ bước chân khỏi nhà mà không xin phép mẹ.

Bây giờ đã nghỉ hưu nhiều năm nhưng muốn đi chơi phải xin phép hẳn hoi. Mẹ cho mới được đi nếu không cho phải cáo bạn ở nhà. Mỗi khi cho đi, ra tận nơi dặn dò. Đi cẩn thận, nhớ về đúng giờ vv… chuẩn bị đến giờ về là gọi điện nhắc chừng. Có điều mẹ vẫn rất sáng suốt. Đó là đi chơi, đi nhậu thôi. Sợ con say, sợ đường xa, sợ tai nạn vv… chứ còn đi làm, đi công việc thì thoải mái.

Có một lần tôi ghé nhà rủ anh đi nhậu xa. Anh lại xin mẹ. Mẹ đồng ý nhưng dặn:

– Con phải về trước 9 giờ đừng để mẹ trông nha.

– Dạ con biết rồi ạ.

Đương nhiên gần tới giờ về là mẹ gọi điện nhắc anh, nhưng tôi đâu biết (đi chung xe), mải vui nên cứ nhậu. Khi về tới nhà thì đã 10 giờ. Tôi thấy mẹ không đi ngủ mà bắc ghế ngồi chờ , bên cạnh có một cây roi nhỏ đúng nghĩa. Vì đã hiểu gia đình, tôi dắt xe ra khỏi cổng rình coi chứ không về. Bà mẹ gọi

– Con lại đây mẹ bảo

– Dạ! Anh tới khoanh tay đứng trước mặt mẹ.

– Mẹ bảo thế nào? Còn nhớ không?

– Dạ, mẹ dặn 9 giờ về

– Sao giờ mới về?

– Dạ, vì vui bạn nên con ngồi thêm một chút.

– Vui bạn mà quên lời mẹ à. Tưởng lý do gì chính đáng thì mẹ tha chứ vui bạn mà quên lời mẹ thì phải đánh cho chừa. Quay lại! Lần này mẹ đánh một roi chứ lần sau là ba roi nghe chưa.

– Dạ con xin lỗi mẹ không có lần sau đâu ạ.

Tôi biết, một roi đó không hề đau trên da thịt.

Hôm sau gặp anh tôi thỏ thẻ.

– Hồi hôm em đứng ngoài xem anh ăn đòn

– Ừ anh biết, em có nổ máy đâu.

– Nhưng sao anh không nói lý do gì cho mẹ khỏi đánh?

– Thứ nhất, mẹ đánh có đau đâu. Thứ hai không nên nói dối mẹ, mẹ già rồi sống bao lâu nữa. Thứ ba, mẹ rất cần cảm giác được làm mẹ dạy dỗ con cái. Nên chiều mẹ một chút kẻo hối không kịp đó em. Nói thật với em anh làm tất cả để mẹ vui sống. Khi đã chết là hết có muốn ăn đòn cũng không ai đánh nữa đâu.!

Quỳnh toong 3/2023

Sưu tầm

My Lan Phạm


 

 MẸ TÔI – Hoàng Nguyên Linh

 Hoàng Nguyên Linh

Sách vở, báo chí, đài phát thanh và truyền hình nguời ta nói nhiều về mẹ. Đa số đều nhắc đến những kỷ niệm êm đềm bên nguời mẹ hiền, nhưng tôi thì khác. Tôi có mẹ mà như không có. Nỗi buồn này hầu như theo đuổi suốt cuộc đời tôi… Mẹ tôi là nguời vợ thứ hai của bố tôi. Bố tôi là một địa chủ khá giầu, đã có vợ cả và nhiều con nhưng bố tôi lại là một nguời ham mê sắc đẹp nên ông đã lấy mẹ tôi. Tôi không nhớ rõ mẹ tôi đẹp thế nào, chỉ nhớ mẹ tôi có đôi môi hồng, làn da trắng, nguời cao cao, mặt trái xoan, nhưng nghe bố tôi nói thì mẹ tôi đẹp lắm nên ông quyết lấy cho bằng đuợc dù phải bỏ ra rất nhiều tiền.

*****

Gia đinh bên ngoại không giầu bằng bên nội nhưng ông ngoại tôi có nhiều con, hình như có tới tất cả 11, 12 nguời, trong đó có 8 nguời con gái. Hai nguời chị của mẹ tôi đã lấy hai nguời em họ của bố tôi. Cũng vì bố tôi hai vợ nên tôi đã phải chịu những sự đau buồn, tủi nhục.

Ở ngòai Bắc thời xưa, đa số các ông địa chủ có tiền đều thi nhau lấy nhiều vợ. Ông nội tôi có 3 vợ, bố tôi có 2, nhưng ông nội tôi là nguời có bổn phận và có trách nhiệm. Tuy có 3 vợ nhưng mỗi bà ở một nơi, mỗi bà một giang sơn riêng nên không có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra, nếu có ghen tuông chắc không đến nỗi trầm trọng. Bố tôi không như ông nội tôi, bố tôi lấy vợ hai về song lại để hai bà ở chung với nhau nên mới gây ra nhiều chuyện phiền phức sau này, sự ghen tuông hầu như đã xẩy ra hàng ngày, tôi nghe cô tôi nói vậy. Tôi ra đời một năm sau khi mẹ tôi lấy bố tôi. Cũng vì tôi là con trai nên sự ghen tuông càng đi đến chỗ quyết liệt hơn. Bà cả sau khi sanh nguời con trai đầu lòng thì sanh liên tiếp 4 nguời con gái. Bà đi xem bói, thầy bói nói rằng số của bố tôi chỉ có 2 nguời con trai thôi, bà cả nghĩ rằng bà không thể có con trai thêm nữa, vậy là tại mẹ tôi đã lấy đi phần con trai của bà. Như sợ mất thế lực với mẹ tôi nên sự ghen tuông càng tăng lên, bà cả bảo với bố tôi là một mình bà đẻ đủ rồi, lấy mẹ tôi về là để làm lụng chứ không phải để đẻ nên bà nghĩ cần phải loại trừ mẹ tôi ra khỏi nhà cho bằng đuợc. Trời mùa Đông gía lạnh mà bà cả nhẩy xuống ao đòi tự tử. Bố tôi sống trong cảnh ghen tuông thì mệt quá, đáng lẽ làm như ông nội tôi tức là đưa bà hai ra ở riêng một nơi thì bố tôi lại không làm thế… Mẹ tôi sau khi sanh ra tôi vì không trưng diện, ăn mặc xuề xoà nên sắc đẹp không đủ để lôi cuốn bố tôi. Bố tôi một phần vì mệt với sự ghen tuông, một phần vì nhan sắc mẹ tôi không còn như xưa nữa nên ông đã thờ ơ, lạnh nhạt với mẹ tôi, để mặc mẹ tôi muốn làm gì thì làm.

Mẹ tôi sống trong cảnh ghen tuông của bà cả và sự thờ ơ của chồng nên đã phải ra đi, chịu cảnh bơ vơ trong tay không có một đồng ! Tôi đuợc giữ lại trong nhà để làm em một anh và bốn chị.

Giai đọan này tôi còn bé nên không biết gì, lại nữa vì thầy bói nói số của bố tôi chỉ có hai con trai nên vai trò “con trai” của tôi đã giúp tôi đỡ khổ. Tôi thực sự khổ từ khi biết nhận thức, tức là lúc 6,7 tuổi trở đi.

Khi tôi đuợc 5 tuổi thì bà cả sanh thêm đuợc nguời con trai nữa, thế là thầy bói đã nói sai và vai trò “con trai” của tôi không còn cần thiết, tôi như bị bỏ rơi. Hai nguời hành hạ tôi nhiều nhất là bà nội và nguời chị lớn. Bà nội rất mực yêu thương nguời con trai mới sanh sau này của bà cả. Bà nội yên tâm khi có đuợc nguời cháu trai phòng hờ để sau này có nguời cúng giỗ và thờ phượng, chứ một nguời cháu lớn bà chưa yên tâm…

Nguời ta nói đến mẹ, nói đến bà như một kỷ niệm đẹp, nào bà ôm cháu vào lòng, bà kể chuyện cổ tích cho cháu nghe, mẹ thì xoa lưng con, hát ù ơ ru con ngủ v.v.. nhung tôi lại khác, tôi không có đuợc cái kỷ niệm đó. Bà nội tôi và chị tôi thuờng hay đánh tôi vào đầu, hai nguời này thuờng dùng tay để “cốc” tôi. Cốc tức là cong nguợc 4 ngón tay lại để chìa ra 4 đốt xương và đập vào đầu. Chỉ những ai đã bị cốc mới biết đuợc cái đau buốt trong đầu, nhất là đầu của một đứa trẻ mới 6,7 tuổi. Tự điển Nguyễn Văn Khôn định nghiã “cốc” ( knuckle) tức là đánh một vật gì bằng khớp xương của ngón tay, thực ra phải nói “cốc” tức là đánh “vào đầu” bằng khớp xương của ngón tay mới đúng, chứ nếu đánh vào tay, chân, lưng, bụng thì không đau và cũng không ai nói “cốc” vào lưng, vào bụng bao giờ. Không những chỉ đánh mà còn chửi, mang tên mẹ tôi ra để chửi, gọi mẹ tôi là con này, con nọ, mang cả tên ông ngoại tôi ra chửi, gọi tôi là “ giống thằng cả Kiều” tức là tên ông ngoại tôi. Chị tôi có nét mặt thật ác, bố tôi bảo những đứa mà mắt nó có ve là ác lắm, tôi cũng không biết mắt có ve là mắt thế nào, chỉ nghe bố tôi nói vậy. Nhưng trái nguợc với chị tôi, bà nội tôi ai cũng khen là bà cụ đẹp lão và phúc hậu, tóc bà bạc trắng hết cả đầu. Mỗi khi tôi thấy có nguời khen dù còn bé nhưng tôi cũng lấy làm ngạc nhiên, bà nội ác với tôi như thế mà họ khen bà phúc hậu kể cũng lạ. Ngày nay tôi mới hiểu ra là sở di bà nội ghét tôi là để lấy lòng bà cả. Bà nội tưởng bà cả ghét mẹ tôi tức là ghét tôi nên bà nội muốn mọi nguời thấy rằng nay bà nội đứng về phía bà cả và những nguời con bà cả. Ngoài tôi ra, bà nội chưa hề đánh hay chửi một nguời cháu nào bao giờ. Việc đánh chửi tôi nhiều quá đã khuấy động lương tâm bà cả. Chính bà cả đã than với nhiều người mà tôi nghe đuợc: “Ngày xưa mẹ nó ở nhà thì bà bênh vực mẹ nó, về phe với mẹ nó, nay mẹ nó đi rồi sao bà lại ghét nó quá vậy !”. Bà cả chỉ ghen với mẹ tôi nhưng tốt với tôi và cũng rất thương tôi, có lẽ bà tội nghiệp tôi, tội nghiệp cho một đứa trẻ cô thế. Tôi không hề oán trách bà về chuyện ghen tuông với mẹ tôi vì tôi hiểu đó chỉ là sự thuờng tình giữa hai nguời đàn bà có chung một chồng. Tôi vẫn thầm cám ơn bà đã không đối xử tệ với tôi như những nguời mẹ ghẻ khác. Truớc khi chết bà còn căn dặn nguời chị kế tôi là lúc nào cũng phải nóí tôi là con trai của bà. Chỉ nói có thế rồi bà nhắm mắt. Có thể trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời bà đã có sự ân hận. Ngày nay tôi vẫn thờ cúng bà như mẹ ruột của tôi đúng như bà đã mong muốn.

Nỗi khổ thứ hai của tôi là bị chế diễu, trêu chọc bởi những đứa cùng lớp, cùng tuổi. Chúng gọi tôi là “ thằng không có mẹ ”. Tôi rất xấu hổ khi có nguời biết tôi không có mẹ, biết tôi là con người vợ thứ hai của bố tôi. Đã thế tôi còn bị đặt tên là “Thứ” (là con nguời vợ thứ) để khỏi lẫn với con nguời vợ cả. Cũng vì sợ có nguời biết và chế nhạo nên mỗi lần gặp mẹ là tôi sợ run lên. Nhưng mẹ tôi không biết tôi sợ nên bà hay đón tôi lúc tan truờng. Mẹ tôi thuờng mặc áo nâu, yếm màu đỏ nhạt, trên đầu chít khăn mỏ quạ, miệng cuời rất tươi mỗi khi gặp tôi. Mẹ tôi từ khi bỏ nhà ra đi , bà buôn bán hàng xén, gánh những đồ lặt vặt ra chợ bán như cái kim, sợi chỉ để sống qua ngày. Tôi không biết rõ mẹ ở đâu, hình như vừa ở nhà ông ngoại, vừa ở nhà họ hàng hay bạn bè gì đó. Tôi sợ bị chế diễu nên tuyệt đối không dám nghĩ tới mẹ và cũng không dám nói chuyện với ai về mẹ. Mỗi khi đi học về gặp mẹ là tôi chạy trốn để khỏi phải ở bên bà. Tôi chưa kịp trông thấy mẹ thì mấy đứa trẻ cùng lớp đã gọi “Thứ kìa, bu của Thứ kìa !” thế là tôi lại phải một phen sợ hãi. Có lần đi ngược chiều với mẹ, tôi không thể chạy thoát đuợc. Mẹ tôi nắm tay tôi và nói: “Thứ lại đây với bu, con của bu ngoan, bu thương con…” Tôi giật tay ra khỏi mẹ và hét: “Bỏ tay người ta ra, bỏ ra ! bỏ ra !” rồi tôi vụt chạy. Cũng có lần mẹ nắm đuợc tay tôi lâu hơn và bỏ tiền vào túi tôi. Hôm ấy về nhà, bị bà chị lớn vặn hỏi, tôi sợ quá vất tiền vào gầm giường và thầm trách sao mẹ tôi lại cho tiền để tôi bị mắng. Tuy sợ hãi như vậy nhưng tôi lúc nào cũng mong mẹ tôi về với tôi, để tôi có mẹ ở bên như những đứa trẻ khác, tôi sẽ không bị mấy đứa trẻ chê cười là “thằng không có mẹ” nữa. Sự khao khát có mẹ không phải chỉ trong lúc còn bé mà ngay cả khi tôi truởng thành. Tôi nhớ lúc đã là sinh viên ban Cao học, tôi quen một cô nữ sinh Trưng Vương, tôi với nàng tình cảm chưa có gì đậm đà nhưng tôi quý bà mẹ của nàng, bà rất dịu dàng, ôn tồn, bà bảo tôi: “ cháu uống ly nuớc chanh cho mát ”, “ cháu uống ly nuớc trà cho ấm ” mỗi khi trời trở lạnh hoặc “ cháu đợi một lát em ra bây giờ … ”. Bà ngồi bên tôi, nụ cuời của bà thật hiền hậu, bà hỏi han tôi những câu chân tình mà trong đời tôi chưa bao giờ có ai hỏi tôi như vậy. Mỗi lần đến chơi tôi mong đuợc gặp bà, đuợc nói chuyện với bà hơn là gặp nguời con gái út của bà. Ngày nay mỗi khi tôi nghe ai nói đến mẹ hiền là tôi liên tưởng tới bà. Tôi cũng hay đi chơi với nguời con trai thứ hai của cô tôi. Cô tôi thương con trai rất mực, mỗi khi bọn tôi đi chơi về khuya cô tôi nhẹ nhàng trách con “ Sao con đi chơi về khuya quá vậy? ” hoặc “ Con nhớ về sớm không rồi lại ho ”. Con trai cô muốn đuợc tự do, không muốn bị gò bó, nhưng nguợc lại tôi thèm có đuợc nguời mẹ săn sóc như vậy mà tôi không có. Tôi đã đọc nhiều lần cuốn Bông Hồng Cài Áo. Mỗi lần đọc càng khiến tôi thêm buồn, thêm tủi cho một nguời con có mẹ mà không đuợc ở bên, có mẹ mà không dám nhận mẹ mình là mẹ.

Tôi sống trong sự khiếp sợ mọi nguời trong gia đình. Bản năng tự vệ của một đứa trẻ trong tôi thúc đẩy tôi phải thật ngoan, thật lễ phép cho tôi bớt bị hành hạ. Tôi nghĩ rất đơn giản là mẹ tôi bị mọi nguời trong nhà ghét, tôi cần phải từ khước mẹ thì tôi mới là đứa trẻ ngoan, đứa trẻ có hiếu trong gia đinh. Nhưng mấy nguời thợ làm cho nhà tôi, họ không biết lại chửi tôi là đứa con bất hiếu, tệ bac, không nhìn nhận mẹ đẻ ra mình. Lúc đó tôi không hiểu và lấy làm lạ tại sao tôi là đứa trẻ ngoan ngoãn, không bao giờ dám cãi lại ai trong gia đinh mà họ lại chửi tôi là đứa con bất hiếu. Tôi nghe nguời nhà nói mẹ tôi tranh để làm vợ cả không đuợc nên bỏ nhà ra đi. Như vậy là mẹ tôi bỏ tôi, chứ tôi đâu có bỏ mẹ, còn tôi đến gần mẹ thì tôi bị chế diễu, chê cuời và nhất là sợ nguời nhà, tôi đâu có làm gì khác hơn đuợc… Sự ngoan ngoãn, sợ sệt của tôi chỉ đuợc lòng bà cả và nguời anh lớn, còn đối với bà nội và nguời chị thì không lay chuyển đuợc. Có lần chị lớn đánh tôi đau quá cũng động lòng bố tôi. Bố tôi không có một sự ngăn cản nào nhưng rủ tôi ra ngoài ruộng xem mấy nguời nông dân gặt lúa cho nhà tôi, ý ông muốn tôi xa lánh bà chị độc ác. Gió đồng thổi nhẹ làm lay động những bông lúa vàng tạo nên âm thanh êm dịu và bay lên mùi thơm của lúa mới. Tôi cảm thấy thật thoải mái, tôi chạy nhẩy tung tăng đi bắt những con cào cào, châu chấu và đã quên đi cái đau do chị tôi đánh lúc ban trưa. Nhưng tối về tôi bị nguời chị chửi một trận: “ Chỉ có một mình bố bênh mày, còn mọi nguời ghét mày, bố không làm gì đuợc đâu ! ”. Gần đây tôi có đọc một truyện ngắn của một tác giả vô danh, đại ý câu chuyện nói về tâm sự của một nguời con có mẹ mù một mắt. Đứa trẻ bị bạn bè chế nhạo và gọi là “ cái thằng có mẹ một mắt ” nên rất xấu hổ khi đi với mẹ, không muốn ai biết về mẹ mình, không dám nhận mẹ mình là mẹ. Tôi hiểu đuợc tâm trạng của tác giả lúc đó, tâm trạng của một đứa trẻ như tôi, nhưng tôi không hiểu được khi tác giả của câu chuyện này lúc đã truởng thành, đã có vợ con, mẹ từ nơi xa sang tận Singapore để thăm mà còn sợ bị vợ con chê cuời để xua đuổi mẹ vì mẹ có một mắt. Điểm cảm động nhất của câu chuyện là sở di mẹ có một mắt vì lúc còn nhỏ con bị tai nạn và hỏng một bên mắt người mẹ đã hy sinh để bác si lấy mắt mình thay cho con nên mẹ chỉ còn một mắt. Khi người con biết đuợc việc này thì mẹ đã chết… Đọc xong chuyện tôi thấy bàng hoàng và gần gui với tác giả. Nhưng tôi cầu mong đây không phải là chuyện thật, nếu có thật thì chỉ thật ở phần trên chứ không thể thật ở phần duới, tức là phần nguời con đã trưởng thành, đã có đầy đủ lý trí mà còn trốn chạy mẹ, hất hủi mẹ thì không chấp nhận đuợc.

Cuộc di cư năm 1954 xẩy ra, bố tôi vào Nam, tôi đuợc cho đi theo để sau này săn sóc bố. Gia đình tôi ở miền quê, một vùng truớc kia đa từng là nơi kháng chiến nên sự ra đi rất khó khăn, phải đi thành từng nhóm nhỏ. Bố tôi đi truớc, tôi đi sau và giữ khoảng cách khá xa để không ai biết. Tôi phải gỉa làm đứa trẻ đi câu, chân đi đất, quần xắn đến đầu gối và đi tắt qua những cánh đồng lúa. Hai bố con đi bộ từ sáng sớm đến tối và nằm ở duới thuyền bến đò Khuể chờ gần nửa đêm nguời lái đò mới dám chở sang đất Kiến An. Sang đuợc Kiến An rồi bố con tôi không biết ở đâu cho hết đêm. Ban đầu chúng tôi định ngồi ở gốc cây đa bên đuờng đợi sáng về sau nghĩ lại thấy tình trạng an ninh có vẻ nguy hiểm nếu ngồi đó nên đã cố gắng đi tìm một nơi khác trú ngụ cho an toàn hơn. Sao may đi đuợc chừng nửa giờ thì gặp một ngôi chùa. Chúng tôi vào xin tạm trú, mới đầu sư bà rất ngại vì là chùa nữ và đã quá khuya nhưng lòng từ bi đối với khách lỡ độ đường nên đã thuận cho chúng tôi ở tạm nơi gác chuông bên ngoài chứ không cho vào trong chùa. Sư bà sai người mang nuớc uống và cho mượn chăn đắp. Tôi nghe tiếng cầu kinh và tiếng gõ mõ nho nhỏ biết là sư bà đã thức suốt đem hôm đó như để cầu nguyện và canh chừng khách lạ. Sáng sớm hôm sau bố con tôi cám on sư bà rồi đáp xe đò đi Hải Phòng và ở trại tạm trú Lạch Chay, nơi đây cũng có rất nhiều gia đình trú ngụ để đợi chuyến tàu vào Nam. Khoảng hơn một tuần lễ hai bố con tôi xuống đuợc tàu vào Sài Gòn. Giai đoạn này thật là đen tối vì gia đinh tôi ra đi với hai bàn tay trắng, mọi tài sản phải bỏ lại hết. Nguời chị lớn và bà nội bị kẹt lại ngoài Bắc không vào Nam đuợc. Tôi đuợc nguời cô, chị ruột của bố tôi ở Sài Gòn nuôi hai năm cho đi học. Cũng tại đây, cô tôi đã cho tôi biết sự thật về mẹ tôi, khác hẳn với những tin tức truớc kia mà gia đinh nói sai về bà.

Tôi ý thức đuợc và đã ngẩng đầu lên nhìn nhận mẹ đẻ ra mình chứ không như truớc nữa, nhưng không có cách nào để gặp mẹ. Khi tôi vào Nam rồi mẹ tôi vì nhớ con, đã đi khắp nơi dò hỏi, mãi sau mới biết đuợc địa chỉ của tôi tại Saì Gòn do con trai lớn của cô tôi ở lại Hà Nội cung cấp nên đã viết bưu thiếp cho tôi. Bưu thiếp là một miếng bìa cứng to bằng nửa trang giấy học trò theo điều kiện của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đinh Chiến chứ không đuợc viết thư có phong bì dán kín để cho hai bên dễ kiểm soát. Đại ý mẹ tôi hỏi thăm tôi và mong tôi học giỏi, khỏe mạnh v. v. Tôi rất cảm động về tấm lòng rộng luợng của mẹ vì đã nhiều lần tôi chạy trốn mà mẹ không bỏ rơi tôi, vẫn tìm tôi và vẫn muốn đến gần tôi. Lòng mẹ thật bao la như nguời ta đã nói. Tôi viết hồi âm cho mẹ, lần đầu tiên tôi đuợc gọi mẹ tôi là mẹ, xưng con, và an ủi mẹ tôi là vì chế độ phong kiến, lạc hậu nên hai mẹ con phải xa nhau và hứa với mẹ là sẽ chăm học rồi ký tên: “ Thứ, con trai của mẹ bên này vi tuyến”. Viết xong nước mắt tôi tự nhiên chảy ra, nếu có mẹ ở bên chắc tôi đã gục đầu vào lòng mẹ để khóc thật to cho vơi đi nỗi buồn bao năm tôi phải ôm giữ. Sau này tôi đuợc biết khi nhận đuợc tin, mẹ tôi mừng lắm và mang tờ bưu thiếp đi khoe với mọi nguời là tôi không còn trốn chạy mẹ tôi. Mẹ con tôi đã nhận nhau, hiểu nhau và thương nhau tuy không còn cơ hội gần nhau nữa…

Cuộc chiến mỗi ngày một khốc liệt, thư từ Nam-Bắc bị gián đoạn, tôi không sao liên lạc đuợc với mẹ tôi thêm một lần nào nữa kể từ đấy.

Rồi vận nuớc nổi trôi, tôi sang đuợc Hoa Kỳ. Sau một thời gian đời sống nơi đây đã tạm ổn định, đường bưu điện giữa hai quốc gia Mỹ và Việt Nam được thiết lập, tôi cố gắng liên lạc về Sài Gòn để nhờ tìm mẹ. Tiếc thay, tôi đuợc tin mẹ tôi đã qua đời từ lâu tại vùng quê xứ Bắc. Mẹ tôi chết trong cô đơn, mang theo xuống huyệt lạnh tất cả nỗi buồn khổ của một nguời đàn bà không chồng, không con bên cạnh…

Hôm nay là ngày giỗ mẹ, tôi viết những dòng này là tâm sự của một nguời con suốt đời không có mẹ ở bên và thành kính dâng lên hương hồn mẹ như một nén nhang thắp muộn.

Cám ơn mẹ đã gửi bưu thiếp cho con để trong đời con đuợc một lần gọi “ Mẹ ”.

Hoàng Nguyên Linh

Viết theo tâm sự của nguời con một đời phải xa mẹ… _____________________________________________________________

(Trích trong Tập Truyện “Mẹ Và Những Mùa Xuân” của Hoàng Nguyên Linh

Đã xuất bản.)


 

Tiếc cho “hạt giống” tốt”-Truyen ngan

Truyện ngắn cuộc sống: “Tiếc cho “hạt giống” tốt”

Nhớ lần đầu, trông thấy thằng bé chừng 8 – 9 tuổi, chị ấn tượng, bởi cậu có gương mặt sáng láng, nói chuyện hoạt bát. Khi ấy, nó đặt túi giấy nhỏ trên bàn, giọng nài nỉ:

– Cô mua giúp con bịch hạt dẻ đi, nay ế quá!

Chị chỉ vào miếng xốp màu trắng thật dài, thằng nhỏ đang ôm ghì trong lòng, thắc mắc.

– Cái này… con mang theo làm gì?

Nó cười tươi, cầm miếng xốp lượn qua, lượn lại trước mặt chị, khoe:

– Đây là xe hơi của con! Cô coi nó chạy nhanh hông?

Niềm vui từ trò chơi “lái xe hơi” tưởng tượng, dường như khiến cậu bé quên cả công việc mưu sinh vất vả mỗi đêm.

– Con có đi học không?

Nó lúc lắc đầu, ánh mắt có vẻ thẹn thùng.

– Sao con không đi học?

Nó nắm chặt túi hạt dẻ, nhìn xuống đất, giọng nhi nhí:

– Nhà con khó khăn… đi bán hạt dẻ… phụ ngoại kiếm tiền!

Một chút chạnh lòng, chị mua giúp nó một túi hạt dẻ, không quên khen ngợi nó:

– Con có một vầng trán cao, đôi mắt rất sáng! Con hẳn là một cậu bé thông minh. Nếu đi học, con nhất định sẽ học rất giỏi!

Nó cười tủm tỉm, gương mặt vừa tự hào, pha chút ngại ngùng. Từ hôm ấy, hễ gặp chị ở đâu là nó đưa tay vẫy chào đầy mến mộ.

Một hôm ghé quán cũ, vừa gặp nó, chị làm bộ rầu rĩ, thở than:

– Nay cô đang buồn lắm! Không mua hạt dẻ đâu!

Thằng nhỏ vội ngồi xuống kế bên, nhìn chị lo lắng, hỏi:

– Cô buồn tình hả?

Dù muốn bật cười, trước câu hỏi lạ đời của cậu bé mới tí tuổi đời nhưng chị vẫn “cố gắng” giữ vẻ mặt âu sầu. Chị lắc đầu. Nó lại đoán già, đoán non:

– Vậy chắc là cô buồn tiền rồi?

Không chờ chị trả lời, nó nhanh nhẹn, móc trong túi ra mấy chục ngàn tiền lẻ, chìa ra.

– Con cho cô tiền nè! Cô đừng buồn nữa!

Đến nước này, chị không thể “diễn kịch” được nữa. Chị mỉm cười, cảm kích trước tấm lòng hào sảng của cậu bé.

Chị nhận ra: Người lớn đôi khi chỉ tặng cho trẻ con, một ngọn lửa nhỏ, chút quan tâm nhưng không ngờ, chúng sẽ tặng lại họ, cả mặt trời yêu thương ấm áp, một cách vô tư lự, chẳng hề tính toán, so đo…

– Mà sao con lại đoán: Cô không buồn… tình thì là buồn… tiền?

Nó cười bẽn lẽn, triết lý như một ông cụ non.

– Thì con thấy người lớn… chỉ có hai chuyện đó làm họ buồn thôi!

Khi nó quay đi, chị cứ nhìn theo cái dáng nhỏ xíu xiu của nó, từ phía sau mà tiếc thầm: “Đôi khi, một hạt giống tốt còn phải may mắn… gặp được một miếng đất màu mỡ, mới có cơ hội sinh trưởng, phát triển rực rỡ… . Nếu được sinh ra trong gia cảnh tốt, biết đâu, con sẽ có một cuộc đời khác đi…!?”.

Chị hy vọng, mai này, trên bước đường mưu sinh, vạn ngã rẽ, cậu bé có gương mặt sáng ngời kia sẽ như một hạt giống, gặp may, được cơn gió cuộc đời, thổi đến vùng đất hứa…tốt tươi.

Tác giả: Nguyễn Nga

(Trích từ tập truyện ngắn những câu chuyện giúp nuôi dưỡng tâm hồn)

Nếu thấy câu chuyện hay, ý nghĩa, bạn đọc đừng quên chia sẻ nhé!

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

NGƯỜI CHA YÊU DẤU-Truyen ngan HAY

 

Một ngày, anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen. Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt: Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây?

– Anh cúi đầu trả lời lí nhí trong hổ thẹn: Ừ thì bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm!

– Chị sầm mặt xuống: Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không ngóc đầu lên được. Hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy?

Khó khăn lắm anh mới mở lời nhờ. Chị cũng không dễ dàng khi chối: Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e sẽ chẳng còn được bình yên nữa!

– Anh bối rối năn nỉ: Con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được. Anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi. Chỉ cần nửa năm hay vài ba tháng gì cũng được. Em là phụ nữ em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh sẽ lại đón nó về.

– Chị thở dài: Ông lúc nào cũng mang xui xẻo cho tôi. Thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã. Có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.

Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn. Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi. Tiễn chị ra xe rồi lầm lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.

Anh và chị trước kia là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Chị theo học Ðại học Sư phạm rồi về làm giáo viên cấp 3. Anh đi lao động xuất khẩu ở Ðức. Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Ðức. Thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt, có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán, còn anh vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta. Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu: Ðể có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời. Anh đã không dám mạo hiểm ra làm ăn. “Ðồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…”. Đó là câu nói cửa miệng chị dành cho anh. Giông tố thực sự bắt đầu nổi lên khi bé Hương ra đời. Bé Hương sinh thiếu tháng, bị thiểu năng bẩm sinh phải nuôi lồng kính đến hơn nửa năm. Khi đó: Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn thì hỏi làm được gì chứ. Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số

Bé Hương được 3 tuổi vẫn chưa biết nói, chị muốn ly dị. Chị nói, ông buông tha cho tôi, sống với ông đời tôi coi như tàn. Anh đồng ý vì anh biết chị nói đúng. Anh là người chậm chạp, không có chủ kiến và không có chí tiến thân, sống an phận thủ thường. Nếu cứ ràng buộc sẽ làm khổ chị. Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.

Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá và có thêm một bé trai. Thành phố Bremen nhỏ, người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố. Chị gặp và nói với anh điều đó. Cha con anh liền chuyển về Hamburg sinh sống.

Chị không phải là người vô tâm. Thỉnh thoảng vẫn gửi tiền nuôi dưỡng và gửi quà cho con bé những dịp năm mới hay Noel. Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ.

Con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà.

Chồng chị đồng ý cho đón con bé về sống cùng vài tháng, với điều kiện anh không được ghé thăm. Chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh. Vợ chồng chị đã mua 1 căn nhà rộng, nên con bé được ở phòng riêng. Chị xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về nhà. Ði học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Ðứa em trai cũng như mẹ và bố dượng rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe

Nhà mẹ nó có cái đàn piano rất đẹp để ở phòng khách cho em trai nó chơi. Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Từ đó nó không dám đụng đến nữa.

Có hôm anh gọi điện thoại cho con, nó nghèn nghẹn nói lõm bõm: “… đàn… klavia… con muốn…”. Anh thở dài và hát cho con nghe. Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho con. Rồi thưa dần, thưa dần. Cho đến một ngày anh không gọi cho con nữa. Sau một tuần anh không gọi điện thoại, Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học. Chị không biết gì cứ mắng nó giở chứng.

Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc. Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng nên chị không quan tâm. Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì… Và chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, mà lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi: “… Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo… sống với cha êm như làn mây trắng… Nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con… với tháng năm nhanh tựa gió… Ôi cha già đi, cha biết không…”.

Chị vòng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lồng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó. Nó chìa cho chị một tờ giấy đã gần như nhàu nát. Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra nhìn nó hỏi, con biết bố con bị ung thư lâu chưa. Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ. Chị hỏi, bốn tháng rồi hả. Nó gật đầu.

Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà. Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ đại ý là:

– Bố ở trên Thiên Ðường rồi! Mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg. Ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu. Con về ở tạm đây là vì bố muốn thế. Bố muốn mình ra đi được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con…”.

Chị ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói: con gái ngoan của mẹ. Ngày mai nếu mẹ sắp xếp được công việc, mẹ sẽ đưa con về Hamburg…

Theo facebook: Anh Q. Tran (TS. Trần Quốc Anh).

From: haiphuoc47& NguyenNThu


 

Người Hạ Sĩ Nhứt- Truyen ngan

Lời giới thiệu: Một câu chuyện hiếm có, đầy tình người rất cảm động với những hình ảnh hãi hùng không bao giờ quên….

******

Mọi chuyện dường như là có sự sắp đặt. Trong cuộc đời tui, bao nhiêu lần vào sanh ra tử, cứ tưởng là sắp đi thăm ông bà ông vải, nhưng lại chưa. Bà xã, thỉnh thoảng vẫn chọc quê, “Nghèo mà ham; anh tưởng muốn đi là đi hả? Tui chưa cho anh đi thì hổng được đi đó. Nghe chưa?”

Chuyện tình duyên thì cũng rụp, rụp, rụp – ý tui muốn nói là suôn sẻ đó. Còn chuyện người anh kết nghĩa thì như trên trời rớt xuống. Đúng là người tính hổng bằng Trời tính mà. Tía tui hay nói như dzậy.

Nói xa nói gần hổng bằng nói thiệt.  Tui là con một trong gia đình nông dân nghèo. Nghe Má kể lại thì lúc được một tuổi rưỡi, tui bị bịnh ban gì đó, mà hai thầy thuốc Nam trong miệt cồn Dừa (tỉnh Phong Dinh) này đều bó tay. Tía bằng lòng bán miếng ruộng duy nhất của gia đình để có tiền đưa tui lên Sài Gòn chữa bịnh, nhưng đường đi quá cực khổ, và có thể tui sẽ chết trên đường trước khi tới nhà thương, thành ra lại phải trở về khi đi chưa được một phần năm đường.

Hổng lẽ ngồi khoanh tay nhìn con mình chết, Tía nghe người ta mách hái mấy lá gì đó trộn với sả nấu cho tôi uống. Uống xong, nghe Má kể lại, tôi giựt giựt mấy cái rồi nằm xụi lơ, rồi ngủ luôn 2 ngày. Khi tui thức dậy, Má khóc quá trời vì quá mừng. Qua được cơn bịnh này thì tui hơi chậm lớn và cũng hơi chậm nói – nghe Má nói như dậy. Giờ ngồi nghĩ lại thấy thương ổng bả quá trời.

Khi được 5 hay 6 tuổi tui hay theo Tía ra đồng coi dùm Tía mấy cái cần câu trong lúc ổng làm ruộng. Ngồi hổng có gì làm, tui thường lượm gạch hay sỏi để chọi chim, rắn hay chuột đồng. Nhiều hôm tui chọi trúng được vài con chuột hay chim đem về cho Má nướng. Còn cá trê Tía câu Má kho tiêu ngon lắm. Thỉnh thoảng Tía uống rượu đế với mồi cá kho tiêu, và khi uống rượu Tía nói nhiều hơn mọi ngày. Phải nói là cuộc sống khá êm đềm.

Tới 8 tuổi tui mới đi học, nhưng tui học dở lắm, chắc là tại quá ham chơi. Khi rảnh tui làm ná bắn chim (thay vì chọi đá như hồi nhỏ). Tui cũng hay chơi bắn bi với tụi nhỏ hàng xóm. Phải nói là tui dùng ná rất giỏi vì ngày nào tui cũng đem chim, vịt trời hay chuột về cho Má làm đồ ăn. Khi bắn bi cũng vậy, tụi bạn thua tui dài dài, thành ra có tiền mua bánh tráng, xôi với “cà lem” ăn. Chỉ có học là tui dở thôi. Học đó rồi quên đó. Phải học lớp Năm đến 2 hay 3 lần mới được lên lớp Tư.

Có lần tan học, trên đường về, tui theo bạn bè vào vườn mía đỏ bỏ hoang (thân mía màu ưng đỏ hồng, mềm và ngọt khỏi chê luôn). Muốn được mía lớn tui phải đi tuốt vô trong sâu. Đang kéo chiến lợi phẩm ra, thì tui thấy đau điếng dưới chưn.Nhìn xuống thì trời ơi, một con trăn bự đang cắn chặt vô cái bắp chuối. Tui cố kéo chưn ra nhưng hổng xong vì con trăn mạnh quá. Thân nó trườn tới và quấn luôn chưn kia.

Biết là hổng xong nếu tiếp tục cái đà này, tui la cầu cứu nhưng vì ở tuốt trong sâu, hổng ai nghe. Hai chưn bị trăn cột xiết rồi, tui ngã xóng xoài – chuyện đi thăm ông bà là cầm chắc trong tay. Hai chưn đã tê cứng. Chợt nghĩ tới Tía và Má, tui như bừng tỉnh và quơ đại cái cặp táp. Đang dùng cái cặp táp da đập vô đầu con trăn, cây viết văng ra. Tui dùng cây viết đâm túi bụi vào mắt con trăn. Đâm hết mắt này rồi đâm qua mắt kia. Chắc là bị tui đâm khá sâu vào mắt, con trăn tự nhiên nhả chưn ra, lăn lộn, hổng xiết nữa, và bò đi nơi khác.

Hôm đó Má khóc nhiều lắm. Má cứ lẩm bẩm cám ơn ông bà che chở. Má nói là cái số tui chưa rụng. Tía tới vườn mía hoang và bắt được con trăn mù cổ bà chảng. Đem ra chợ bán thịt được gần hai chục đồng. Lúc đó 1 lượng vàng chỉ có 65 đồng. Tía nói sẽ dùng tiền này cho tui khi đi học xa, hay lúc cưới vợ. Tía cấm hổng được đi vô rừng mía đó nữa. Nói cho cùng, sau cái vụ trăn quấn thì có cho tiền tui cũng hổng dám vô.

Tui học ạch đụi tới năm 15 tuổi mới học xong lớp Nhứt. Thấy tui học chậm, Tía cho tui ở nhà phụ làm rẫy. Mùa hè năm sau nhóm trẻ tụi tui đá banh thắng nhóm bên cồn Cát 3-2. Tui đá vô “gôn” luôn 2 trái trong vài phút chót vì tui chạy lẹ lắm. Được 80 đồng phần thưởng, tui dẫn “đội banh nhà” ra chợ ăn gỏi đu đủ và uống nước mía.

Thắm, cô bán nước mía, nhận ra tui, nhưng tui hổng nhận ra cổ. Hỏi ra mới hay là tui học cùng lớp với Thắm 6 năm trước. Cổ khác hẳn con nhỏ ốm nhom, đen thui hồi đó. Thắm giờ có da có thịt, da bánh mật, nói chuyện có duyên, và biết buôn bán.

Sau lần đó, tụi tui kết nhau. Đưa Thắm về nhà, Tía và Má mừng lắm. Má nói là Má luôn muốn tui có người anh để giúp đở bảo bọc vì tui chậm chạp và thật thà. Nay có người bạn đời giỏi như Thắm đến với tui, Má vui lắm. Tám tháng sau, tụi tui lập gia đình. Khoảng 1 năm sau khi cưới vợ thì tui phải nhập ngũ.

Chỉ sau vài tháng trong Quân Trường Quang Trung, vì được nhiều sự chú ý của các huấn luyện viên cao cấp bởi tui chạy đua rất mau (chắc vì muốn thắng đá banh để có tiền mua nước mía), và tui bắn súng hết xẩy (hay là vì chọi đá bắt chuột, dùng ná bắn chim, bắn bi kiếm tiền mua đồ ăn… hồi nhỏ), tui được huấn luyện đặc biêt để trở thành xạ thủ.

Khi mãn khóa ở Quang Trung, tui được chuyển đi Kontum với cấp bực binh nhì trong đội Biệt Kích. Nhiệm vụ của tui là trốn trên những đồi cao có nhiều cây, quan sát, truyền tin và bắn tẻ khi được lịnh. Có khi tui đi chung nhóm 3 hay 5 người, và có khi chỉ có mình ên. Thường được thả trên rặng Trường Sơn vào những đêm sương mù dầy đặc.

Những lúc đi xa, tui nhớ Thắm, nhớ Má và Tía lắm. Cái sướng của công việc này là tui dùng sở trường của mình (chạy mau và bắn giỏi) để phục vụ đất nước. Tui cũng khoái vụ trốn trên núi cao vì hồi nhỏ thích chơi Năm Mười. Xếp tui dặn là bất cứ ai hỏi thì tui phải nói tui là lính kiểng gác kho gạo trên Đà Lạt.

Mà cũng hay, vì sau khi núp trên núi vài tháng nên da trắng và tóc dài, tui dòm cũng giống lính kiểng lắm chớ bộ. Sau mỗi lần đi công tác vài tháng tui được nghỉ phép cả tháng với rất nhiều tiền (hình như là tiền tử) khi về thăm gia đình. Tiền bạc dồi dào, tui mua đồ cho mọi người mút chỉ. Vì vậy bạn bè, hàng xóm thương, che chở và giúp đỡ tui.

Lần đó sau khi về thăm nhà chưa được 2 tuần lễ, tui bị gọi về gấp vì có chuyện lớn. Đi lẹ ra Ô Môn, vô sân bay Trà Nóc, bay thẳng về KonTum để nhận lịnh. Trước khi được điều động lên một địa điểm bí mật trên rặng Trường Sơn để thăm dò như các lần trước, tui được dặn là phải cố gắng nhiều vì 2 đồng nghiệp Biệt Kích (BK) đã mất tích trong vùng đó.

Điều may mắn lần này là tui tìm được 2 người BK kia không xa nơi đáp xuống. Một người đang bị bịnh. Máy truyền tin bị hư, và đạn dược thiếu thốn tại một số lớn quân nhu bị rớt mất khi thả dù. Tụi tui núp trong 1 hang núi có nhiều cây rậm rạp. Điều không may mắn lần này là tụi Việt Cộng biết được sự có mặt của nhóm BK vì họ tìm ra số quân nhu và dụng cụ bị rớt. Họ lùng kiếm ráo riết. Để được an toàn, tụi tui im hơi lặng tiếng và chỉ bắn khi thiệt cần.

Sau cùng cũng phải bắn trả vì tụi nó tới quá gần, nhưng tụi tui bắn thật ít vì thiếu thốn đạn dược. Bọn việt cộng dù đông hơn, nhiều đạn hơn, nhưng hổng dám mạnh dạn tiến lên vì bọn chúng ở vị trí dưới thấp, trong khi nhóm tụi tui phía trên cao bắn xuống phát nào trúng phát nấy. Cầm cự được hơn 6 tiếng đồng hồ, thì nhóm tui gần như hết đạn. Chỉ còn vài trái lựu đạn để tử thủ. Tui không nghĩ là mình qua được con trăng này. Nghĩ tới Thắm, Tía và Má, tui chạnh lòng.

Trong cơn nguy hiểm như chỉ mành treo chuông, bỗng nhiên máy bay trực thăng tiếp cứu tới. Máy bay phải đánh đông phạt tây (điệu hổ ly sơn) và dùng hỏa mù để cứu nhóm tui. Trong phi vụ này, tui bị thương vì té gẫy tay và được đưa về Chẩn Y Viện Cộng Hòa điều trị.

Sau thời gian dưỡng thương, tại tay hổng còn khỏe và chính xác như ngày trước, tui được chuyển về một quận lỵ nhỏ gần Suối Dây, tỉnh Tây Ninh với cấp bực Hạ Sĩ Nhứt và giã từ cuộc sống BK Đặc Biệt từ đó.

Khoảng 4 tháng sau thì Thiếu Úy Đức (TUĐ) người Bắc tới làm Phó Quận Trưởng. Tui được lựa làm gạc đờ co (bảo vệ) cho ông Phó. Vài lần đang lái xe jeep chở ông Phó đi quan sát ngoài biên giới quận thì tụi cộng phỉ bên kia rừng tràm bắn lén. Vừa nghe tiếng nổ là tui phản xạ đẩy TUĐ nằm xuống, che cho ông, và cùng lúc tui nhả hàng loạt đạn về phía tiếng nổ.

Sau vài lần như vậy, tui được tin cẩn hơn và trở thành cánh tay trái của ổng. Tui luôn khuyên ổng phải cẩn thận, vì đây là vùng xôi đậu không biết ai là địch, ai là thù. TUĐ là thượng cấp, nhưng ổng cũng xem tui như người nhà.

Một lần đưa ổng đi xem nhà cửa của dân làng do nhóm lính sửa chữa, TUĐ gặp cô Hân (con gái bà chủ căn nhà ở cuối quận, kế bên con sông nhỏ ngăn cách khu rừng Tràm âm u bên kia). Theo như tui thấy thì hình như lúc gặp cô Hân, TUĐ bị tiếng sét ái tình hay sao đó vì ổng đứng như trời trồng và nói năng lắp bắp. Thấy kỳ quá, thêm nữa khu này nguy hiểm khi trời sâm sẩm tối, tui nói thay cho ổng:

– Trễ rồi, Thiếu Úy. Mình phải đi dzề. Chào cô.

Cô Hân đẹp, ăn nói khéo léo… chắc là người bên kia, gài lại đây. Tía của cô vắng mặt. Hay là ông ta đã tập kết ra Bắc? Thêm nữa, tên Ba Thọt (ở đối diện nhà cô) – một người có tiểu sử và hành động rất khả nghi – thường qua lại nhà cô thăm viếng.

Mỗi sáng khi cô Hân đi làm ngang văn phòng quận, tui thấy cô cố tình đi chậm lại. Hay là cô đang nghe ngóng tin tức? Hay là xem cá có cắn câu chưa? Hay là đang dò xét tình hình trong văn phòng quận để tường trình cho phe bên kia?… Hàng trăm câu hỏi, nhưng hổng có câu trả lời. Thôi, tốt nhứt là đề phòng thì vẫn hơn.

Vài tháng sau, Kontum, Ban Mê Thuột và nhiều vùng cao nguyên thất thủ. Rồi Bảo Lộc-Madagui vào tay bọn qủy đỏ…

Một buổi chiều tháng tư, tụi cộng phỉ đem xe tăng, súng lớn tới tấn công quận. Đại Úy Long quận trưởng mất tích. TUĐ và các anh em quân đội tụi tui liều chết bắn chặn quân địch. Trước hỏa lực quá mạnh của địch, lực lượng tiểu đoàn phòng thủ quận tan rã. Kẻ chết, người bị thương, người chạy trốn.

Tui và TUĐ đều bị thương nhẹ. Cùng đường, hai thầy trò chạy về phía cuối quận. Đinh ninh là Ba Thọt hay cô Hân sẽ chờ để bắt sống hay thanh toán tụi tui ở đó, tui cầm chắc khẩu tiểu liên sẳn sàng mạng đổi mạng. Khi chạy tới gần con sông cuối quận (gần nhà cô Hân), TUĐ ngã quỵ vì kiệt sức.

Đang đỡ TUĐ lên, thì cô Hân chạy ra mở cửa rào ra dấu cho tụi tui vào nhà gấp. Khi vào trong, cô băng bó cánh tay của TUĐ. Cô đưa cho tụi tôi 2 nắm cơm và ít nước lạnh để ăn cầm hơi. Trong lúc tui và TUĐ ăn, cô lấy 2 ruột xe đạp, bơm lên, và đưa cho tụi tui. Cô ta chỉ tay vào con sông sau nhà:

– Hai anh thả nổi chừng 8 hay 9 cây số tới nhà thờ Suối Dây. Nhớ tìm người linh mục gốc Nam Định xin giúp đỡ. Chừng nào khỏe lại thì đi. Nếu tình hình lộn xộn quá, thì trốn qua Kampuchia. Hai anh đi cho lẹ trước khi họ tới đây.

Lúc đó tui mới biết là mình sai. Cô Hân là người ơn, chứ không phải là vẹm như tui nghĩ. Món nợ cứu mạng này lớn lắm.

Khi tụi tôi xuống sông thì trời đã tối. Nương theo dòng nước hai thầy trò tới nhà thờ Suối Dây khoảng 2 giờ sáng. Người Linh Mục dấu tụi tui ở đó gần 3 tuần lễ dưỡng thương. Khi gần như hồi phục hoàn toàn, TUĐ và tui chia tay. Hôm đó cả hai đều khóc. TUĐ nghẹn ngào:

– Hạ Sĩ Nhất Sơn. Tôi bao giờ cũng xem chú… như người nhà. Cám ơn chú… đã làm việc với tôi trong 2 năm qua, và… đã giúp đỡ tôi trong cơn hoạn nạn này. Nếu còn duyên thì anh em mình sẽ gặp lại.

Sau khi từ giã TUĐ và người Linh Mục, tui về Cần Thơ đoàn tụ với gia đình. Mất mấy ngày mới về tới Sài Gòn. Thành phố giờ có tên mới – cái tên của kẻ sát nhơn. Tui hổng quen dùng cái tên mới đó. Phải mất thêm cả tuần nữa mới quá giang về đến cồn Dừa vì xe cộ bị đình trệ sau ngày đổi đời – cái ngày mà hàng vạn người vui, nhưng hàng triệu người buồn. Khi bước vô nhà, Má bật khóc vì quá mừng. Thắm thấy tui tiều tụy quá cũng khóc. Tía thì nhờ người hàng xóm đi mua ít đồ ăn mừng ngày đoàn tụ.

Hai hôm sau, ba tên công an tới nhà chỉa súng bắt tui đi lên xã. Tên xã trưởng là một tên Bắc Kỳ răng hô mã tấu bẩn thỉu với khuôn mặt khắc khổ nhăn nheo như một cái mền rách. Hắn đập bàn đánh phủ đầu với giọng Bắc đặc sệt vô văn hóa:

– Mày có biết tội phản động làm việc cho CIA cũa Mỹ Ngụy nặng như thế nào không? Tội ác của mày lớn lắm. Mày có nợ máu với nhân dân.

– Thưa đồng chí xã trưởng…

– Ai là đồng chí với bọn phản động như mày.

– Dạ thưa xã trưởng. Tui chỉ là lính kiểng gác kho ở Đà Lạt. Tui có bắn giết ai đâu?

– Tao có hồ sơ của mày. Đừng chối cãi nữa. Nhận tội đi. May ra được đảng khoan hồng.

– Thưa xã trưởng, chắc là có người trùng tên, chứ tui đâu có làm gì như dậy.

– Giam thằng này lại. Đồ ngoan cố, mất dạy. Tuần tới đưa nó lên phòng công an tỉnh để giải quyết.

Tui bị nhốt 8 ngày trước khi bị chuyển lên ty công an tỉnh Cần Thơ. Khi vào gặp tên trưởng phòng công an, tui không dè đó là thằng Huân trong đội đá banh ngày nào. Nó ăn gỏi đu đủ bò khô và uống nước mía với tui sau các trận đá banh vài lần. Thêm nữa mỗi lần tui về thăm nhà, tui đều có mua đồ cho thằng Huân và cho dì Tám má nó. Tui cũng nói là làm lính kiểng trên Đà Lạt, khi nó hỏi.

Thằng Huân nhận ra tui ngay. Tui chỉ trả lời bằng những gì mà sếp cũ của tui dặn nói. Tui đổ thừa là có người trùng tên. Nhờ thằng Huân dễ dãi, tui thoát nạn.

Tui đi tù cộng sản mấy ngày dành cho Hạ Sĩ Quan. Sau đó về làm rẫy với gia đình ở cồn Dừa.

Xã hội dưới tay bọn đảng CSVN xuống dốc như xe hổng thắng. Ai cũng nghèo, đói, và khổ cực. Gia đình tui làm rẫy, cũng bữa đói, bữa no, nhưng đỡ hơn nhiều người. Tui lại bắn chim sẻ, vịt trời như hồi nhỏ. Tiếp tục bắt chuột đồng, bắt cá lóc hay cá trê dưới ruộng làm khô lén để dành cho những ngày mưa gió.

Hai năm sau Thắm cho gia đình tui một tin vui là thằng con trai đầu tiên. Rồi năm sau nữa thì thằng thứ hai. Khi miếng ruộng duy nhất của gia đình bị xung công, Tía rầu rĩ sanh bệnh và ra đi năm sau đó. Mất đất trồng trọt, gia đình dọn về Ô Môn năm 1979. Vợ chồng tui làm công làm mướn bất cứ thứ gì ở chợ Ô Môn để kiếm tiền.

Đã 8 năm từ ngày rời Suối Dây, tui hổng có tin tức gì về Thiếu Úy Đức (TUĐ). Tình cờ năm 1983 khi đi mua bán đồ ở chợ Cái Răng, tui gặp Đại Úy Long (ĐUL) Quận Trưởng năm nào. ĐUL mới được thả về từ trại tù khổ sai của cộng sản trước đó 6 tháng, và còn đang bị quản chế. Đi đâu cũng phải xin phép và trình diện mỗi tuần. Thấy tình trạng ĐUL thảm quá, tui cho ổng 1 con khô mực và nửa ký gạo dấu trong sách tay. ĐUL nói là có gặp TUĐ trong trại tù cộng sản mùa thu năm 1977.

Khoảng 2 năm sau, nghe nói là TUĐ vượt ngục rồi bị bắn chết ở gần biên giới Lào làm gương cho kẻ khác. ĐUL cũng cho biết là khi được thả, trên đường về ổng nghỉ một đêm tại quận lỵ ngày xưa vì không còn xe về Sài Gòn. Quận tiêu điều lắm. Tui hỏi về mấy người ở cuối quận kế bên con sông nhỏ. ĐUL nói là 2 căn nhà đó đã bỏ hoang, xiêu vẹo, không người ở. Nghe làng xóm nói là bà già (má cô Hân) đã chết và chôn trong ngôi mộ nhỏ sau nhà. Đứa con gái (cô Hân) thì biệt tăm. Hình như đã chết trôi vì người ta tìm thấy dép của cổ và cục xà bông ở bờ sông sau nhà.

Tui nghe xong cảm thấy choáng váng như bị trúng gió. Hôm đó tui về nhà khóc. Vợ tui hỏi. Tui kể lại sự tình. Tội nghiệp vợ tui. Thắm làm một bàn thờ cho TUĐ trên nóc tủ kế bên bàn thờ của Tía và Má, và tối đó cúng 1 chén cháo trắng.

Làm ăn ở chợ Ô Môn khó khăn, gia đình tui mướn một miếng đất cách Ô Môn 20 cây số để trồng khoai mì và khoai lang. Tui dậy 2 đứa nhỏ làm bẫy bắt chuột đồng, làm ná bắn chim… Vợ chồng tui thì quen cảnh nghèo rồi. Chỉ tội 2 đứa nhỏ thiếu ăn và tương lai mù mịt. Nhiều đêm nóng nực hổng ngủ được, tui cứ nhớ lại những ngày tui ở Suối Dây. Nhớ TUĐ và nhớ cả người đã cứu hai thầy trò. Chỉ biết chắc lưỡi thở dài cho người vắn số.

Sau nhiều kế hoạch kinh tế do những “đỉnh cao trí tuệ” của đảng cộng sản đưa ra đều bị thất bại thê thảm, chính quyền thả lỏng và có ý muốn đi theo kinh tế thị trường tự do. Cuộc sống dân nghèo trở nên dễ thở hơn một chút. Gia đình tui bắt đầu nuôi heo để thanh toán số khoai lang ung thúi khi bán hổng hết.

Làm sao tui quên được buồi chiều hôm ấy. Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1995, khi tui đang làm rẫy, ngăn nước không cho vào đất trồng trọt quá nhiều, thì Thắm ra rẫy gọi về nhà có khách. Khi về nhà thì thấy 2 người ăn mặc sang trọng có vẻ đàng hoàng. Tui không nhận ra người đàn bà, nhưng người đàn ông thì nhìn quen lắm.

Sau vài giây ngỡ ngàng, người đàn ông nhìn tui và nói một cách ngậm ngùi trong nước mắt:

– Chú Sơn có nhận ra tôi không? Anh Đức đây!

– “Hả … Ôi trời, Thiếu Úy Đức… ông Phó!” Tui trả lời khi nước mắt bắt đầu ứa ra vì quá mừng.

– Đừng gọi như vậy. Gọi là anh hay anh Đức vì chú là em của tôi mà.

– Dạ, dạ… ông Phó, à quên…  anh Đức. Tưởng là anh đã… Gia đình tui làm bàn thờ cho anh mười mấy năm nay.

– Thắm ơi, đây là anh Đức. Thằng Tân, thằng Hoàng, ra chào Bác Đức.

– Còn đây là bà xã của anh.

– “Dạ, chào chị. Dạ, chị tên gì?”  Tui hỏi.

– “Chú nhìn kỹ xem ai? Cô Hân ở Suối Dây đó.”  TUĐ trả lời.

Tui lặng cả người và đứng chết trân. Người ơn của tui bằng xương bằng thịt ngay trước mặt. Thời gian như dừng lại. Nước mắt bắt đầu chảy tràn trên mặt, và giọng nói lạc đi:

– Tui hổng có dè có ngày này… 20 năm rồi. Cám ơn anh chị … đã nhớ đến tui… Tui mừng quá. Sao… tới bây giờ anh chị mới tới ? Tui có nằm mơ hông?

TUĐ lau nước mắt, rồi chậm rãi nói:

– Chuyện dài lắm. Sẽ kể sau. Bây giờ anh chị mời cả nhà đi ăn mừng. Tốn cả tuần đi kiếm cô chú đó.

* * *

Nghe anh kể lại chuyện trốn khỏi trại tù năm 1979, và bao nhiêu lần vượt biên hụt, tui nể quá. Chuyện chị giả chết trôi để trốn khỏi Suối Dây và những lần vượt biên bị bắt thì cũng ly kỳ quá trời. Rồi đến khúc hai người gặp lại nhau bên Mỹ, tui mừng như là chuyện của mình. Tui hãnh diện có được ông anh và bà chị dâu giỏi như vậy.

Mấy bữa sau, vợ chồng anh mướn xe đưa gia đình tui đi thăm Suối Dây. Trên đường về, có ghé Vũng Tàu tắm biển. Thấy thương bà xã và 2 đứa con tui quá. Lần đầu tiên vợ con tui được đi xe hơi, được đi ra khỏi Cần Thơ, được lên Sài Gòn, được đi Suối Dây, được ra tắm biển Vũng Tàu, được đi ăn nhà hàng, được uống nước ngọt cô ca cô la…

Trước khi về Mỹ, tui hổng dè vợ chồng anh lại giúp một số tiền lớn để mua một cửa hàng gần chợ Ô Môn buôn bán nông phẩm cho gia đình tui đỡ cực. Anh chị nói sẽ về thăm thường xuyên hơn.

Tối hôm đó tui thắp nhang cho Tía và Má. Tui thì thầm “Má ơi, Má luôn muốn là con có người anh để che chở cho con. Má ơi, điều Má muốn đã xẩy ra. Con cám ơn Tía và Má.”

Như tui đã nói, cuôc đời tui như có sự an bài hay sắp xếp. Vào sanh ra tử bao lần, mà hổng sao. Duyên phận củng thẳng tắp. Khúc sau cuộc đời, cực thiệt, nhưng lại có thêm người anh nuôi và chị dâu hổ trợ. Bây giờ tui hổng có kỳ vọng nào hơn là sẽ có một ngày cái nhóm mắc dịch, khốn nạn, vô thần, vô đạo đức này tan rã cho tui nhờ và cho người dân bớt khổ.

(Nguyễn Vô Danh)

Nguồn : Sài Gòn Trong Tôi .

Hình chỉ có tính cách minh họa, không phải những nhân vật trong bài viết.


TRANG VĂN CHƯƠNG MIỀN NAM

From: Tu-Phung

 Nên trân quý những gì ta có – Tràm Cà Mau- Truyen ngan HAY

Tràm Cà Mau

Có thì vui. Không cũng  vui . Được mất đều vui .

 Ông Tư thường hay đùa, trêu chọc bạn bè rằng: “Đời người đàn ông có hai lần sung sướng: Lần cưới vợ, và lần vợ chết. “Bây giờ vợ chết, ông mới ý thức được cái câu đùa nghịch đó vô cùng bậy bạ và bất nhân, không nên nói. Có lẽ anh chàng nào nghĩ ra câu nầy là kẻ độc thân, chưa có kinh nghiệm chết vợ. Ông ân hận và tự giận mình.

Sau khi chết vợ, ông như mất hồn, lãng đãng, trí óc để trên mây. Nhiều lần trên đường về nhà, ông đi lạc, lái xe qua khỏi nhà rồi mà không biết. Ngày xưa, ông hay bực mình mỗi khi được bà nhắc nhở đi lối nầy, quẹo góc kia, và bà cũng nổi nóng la nạt ông mỗi khi đi lạc đường. Bây giờ, mong được nghe lời cáu kỉnh gây gổ đó, mà không có được. Ông thở dài và đau nhói trong tim như có vật nhọn đâm vào. Không thể ngờ, vợ ông không còn trên đời nầy nữa. Bây giờ bà nằm ngoài kia, nghĩa địa hoang lạnh âm u. Không còn chầm chập kiểm soát từng hành động của ông để mà phê bình sửa sai.

Mở cửa, bước vào nhà, ông nói lớn như khi bà còn sống: “Em ơi! Anh đi làm về.” Trước đây, nếu không nghe tiếng trả lời, ông chạy vụt lên lầu tìm vợ. Bây giờ, ông lẳng lặng đến thẳng bàn thờ, thắp ba cây nhang, lạy bốn lạy. Ông thầm nghĩ, người ta chỉ lạy vợ khi vợ đã chết rồi, tại sao không ai lạy vợ khi vợ còn sống? Dù có gây nên tội lỗi tầy đình, cũng không ai lạy vợ bao giờ.

Ông nhìn tấm hình màu, ảnh bán thân của bà, có nụ cười thật tươi, hai vành môi uốn cong, đôi mắt sáng tinh anh, có ánh tinh nghịch. Ông thấy bà còn đẹp lắm, nét đẹp dịu dàng. Thế mà bao nhiêu năm nay, ông không hề biết, và chưa một lần nhìn ngắm kỹ cái nhan sắc của vợ. Sống lâu ngày bên nhau, thấy nhau, nhưng quên nhìn ngắm, chỉ thấy hình thể tổng quát của nhau. Cũng như nhiều ông có vợ thiếu nhan sắc, cũng không bao giờ biết vợ họ xấu. Những ông lấy được vợ đẹp, lâu ngày, cũng chẳng còn biết vợ mình là đẹp. Nhiều bà đi xâm môi, xâm lông mày xong, về nhà, ông chồng cũng không hề biết có sự thay đổi trên mặt vợ.

Ông Tư gieo mình nằm vật ra tấm ghế bành, hai tay ôm mặt khóc rưng rức như đứa bé đi về vắng mẹ. Tiếng khóc buồn bã vang dội trong căn phòng vắng. Ông ước sao chuyện thật hôm nay là một giấc mộng dữ, để khi ông thức dậy, thấy còn có bà bên cạnh. Có thể ông sẽ bị vợ cằn nhằn trách móc một điều gì đó như thường ngày, nhưng thà còn có những phiền hà của vợ, còn hơn là nằm đây một mình.

Ông đã khóc như thế cả tháng mấy nay, mỗi lần đi làm về. Bước vào căn nhà vắng vẻ lạnh lẽo, không còn bóng dáng người vợ thương yêu, làm trái tim ông se sắt, tâm trí ông trống rỗng mịt mờ. Nỗi đau cũng tan dần theo giòng nước mắt, rồi ông thiếp đi trong một giấc ngủ buồn, ngắn. Khi thức dậy, ông nhìn quanh, đâu đâu cũng có bóng dáng, có kỷ niệm với bà. Tất cả đều còn đó. Vật dụng, đồ đạc của bà trước khi chết, vẫn còn để y chỗ cũ, giữ nguyên trạng. Ông không muốn thay đổi chuyển dịch gì cả. Trên bàn trang điểm, vẫn còn chiếc lược nằm nghiêng nghiêng, thỏi son dựng đứng, hộp phấn, những chai thuốc bôi tay cho mịn da, tất cả đều không xê dịch, không sắp xếp lại. Ông tưởng như hương tay của bà còn phảng phất trên từng món vật dụng.

Mỗi bữa ăn, không còn ai thúc hối, hò hét dục ông ngồi vào bàn ngay, sợ cơm canh nguội lạnh. Bây giờ, ông tha hồ lần lửa, không tha thiết đến bữa cơm. Có khi chín mười giờ mới bắt dầu ăn, qua loa cho xong, miệng nhạt phèo. Thường ông để thêm chén dĩa đũa muỗng đầy đủ cho bà. Rồi thì thầm mời vợ ăn, tưởng như bà còn sống, ngồi đối diện và cùng chia vui hạnh phúc trong từng giây phút của thời gian. Ông có ảo tưởng như bà còn ngồi đối diện, đang lắng nghe ông nói. Hôm nay bà làm biếng phê bình, không mắng trách khi ông làm rơi cơm canh ra bàn. Với cách đó, ông tự dối lòng, để có thể nuốt trôi những thức ăn, mà vì buồn chán, ông không còn cảm được hương vị ngon ngọt.

Nhiều khi thức giấc nửa đêm, vòng tay qua ôm vợ, ôm vào khoảng trống, ông giật mình thảng thốt, chợt hỏi thầm, bà đi đâu rồi? Khi chợt nhớ bà không còn nữa, nước mắt của ông chảy ra ướt cả gối. Có khi úp mặt khóc rưng rức, khóc cho đã, cho trái tim mủn ra, và thân thể rã rời. Chiếc giường trở thành trống trải, rộng thênh thang. Ông vẫn nằm phía riêng, bên kia còn để trống, dành cho bà. Ông ôm hôn cái gối, mùi hương của bà còn phảng phất gợi bao kỷ niệm của tháng ngày hạnh phúc bên nhau. Khi không ngủ được, ông bật đèn nằm đọc sách, bây giờ ông không sợ ai cằn nhằn, ngăn cấm đọc sách giữa đêm khuya. Trước đây, nhiều khi ông tha thiết thèm đọc vài trang sách trước khi đi ngủ, mà vợ cứ cằn nhằn mãi, làm ông mất đi cái thú vui nầy. Bây giờ ông nhận ra vì thương chồng, sợ ngày hôm sau ông buồn ngủ, mệt, nên bà ngăn cản, bảo là chói mắt không ngủ được.

Ông tiếc, vợ chồng đã hay cãi vã những chuyện không đâu, chẳng liên quan gì đến ai, mà làm mất đi cái vui, cái hòa hợp của gia đình. Có khi chỉ vì tranh luận chuyện con khỉ bên Phi Châu, mà đi đến to tiếng, giận hờn, khóc lóc, làm vợ chồng buồn giận nhau, dại dột như hai đứa trẻ con ngu dại.

Tại sao phải gắt gỏng, đâu có được gì, mà làm nhau buồn. Bây giờ muốn nói lời ân hận, thì làm sao cho bà nghe được. Ông tự xét, ông là một con người tệ mạt, thiếu hiểu biết. Khi có hạnh phúc trong tay thì không biết trân trọng, để đến khi mất đi, mới ân hận, mà không còn kịp nữa.

 

Nếu được làm lại, ông sẽ đối xử với bà tử tế hơn, nói nhiều những lời êm ái dịu dàng. Sẽ không nổi giận khi bà làm chuyện ngang phè, sẽ nhường nhịn bà nhiều hơn, và sẽ phớt tỉnh mỗi khi bị bà chê bai, mai miả. Nhất là bày tỏ cái lòng ông, nói ông yêu thương bà, yêu thương lắm lắm. Đâu có gì ngăn trở, mà những ngày bà còn sống, ông không nói được những điều đó. Ông chợt nhớ có ngưòi viết rằng, vợ chồng phải đối xử như ngày mai thức dậy sẽ không còn nhau. Vì chẳng ai được sống mãi, và cũng không biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra trong giờ sắp tới, cho ngày hôm sau. Cuộc đời con người vốn bấp bênh trong định mệnh.

Lấy kinh nghiện đó, nhiều lần nói với những người bạn mà vợ chồng còn được sống bên nhau, cho họ biết rằng, họ đang có hạnh phúc quý báu, họ nên trân trọng giữ gìn, kẻo mai đây, khi chiếc bóng, thì tiếc thương cũng đã muộn màng. Đa số có lắng nghe, và tin lời ông là đúng, nhưng họ quên phứt ngay sau đó, và không thực hành điều hiểu biết.

Mẹ ông mất trước vợ sáu tháng. Ông cũng buồn, thương. Nghĩ rằng mẹ già thì chết là chuyện thường tình. Nhưng khi mất vợ, ông cảm thấy đau đớn và buồn khổ vô cùng tận. Buồn hơn mất mẹ mười lần. Ông tự cảm thấy xấu hổ, vì mất mẹ mà lại không đau buồn bằng vợ chết! Có phải ông đã thương vợ hơn thương mẹ chăng? Có phải ông là đứa con bất hiếu? Ông cũng không biết, và không so sánh được hai cái đau vì mất mát. Nhưng rõ ràng, ông đã ngã gục khi chết vợ.

Có khi quẩn trí, ông muốn chết theo bà. Sao cuộc sống vô vị quá chừng. Rồi mai mốt cũng già, bệnh, đâu có thoát được cái chết. Chết bây giờ, nếu còn linh hồn, thì còn gặp lại vợ ngay. Nhưng ông sực nhớ nhiều lần bà nói không muốn gặp ông lại trong kiếp sau. Bà đâu có thù ghét ông mà nói câu đó nhỉ. Nói chi cho ông đau lòng lúc nghe, và còn đau cả đến tận bây giờ. Ông nghe nói, có một loài chim, khi một con chết đi, thì con kia ngày đêm kêu thương, bỏ ăn bỏ ngủ, than gào cho đến chết. Chim còn chung tình đến thế, mà ông thì còn sống, còn ăn, còn ngủ, còn đi làm, còn giữ tiền bạc. Chẳng bằng được loài chim sao?

Trong căn nhà nầy, đâu đâu cũng có dấu vết của bà. Mở tủ đựng ly chén ra, ông đứng nhìn xem, bên trong sắp đặt thứ tự, gọn gàng. Có những thứ mà bây giờ ông mới thấy, và không biết công dụng nó làm gì, khi nào thì dùng đến. Bà đã mua sắm, sắp đặt cẩn thận. Ông cầm một cái ly, biết vật nầy đã có bàn tay vợ đụng đến, ông ghé môi hôn, tưởng đang hôn bàn tay bà. Ba bộ ấm pha trà xinh xắn, bà mang về trong dịp đi du lịch bên Nhật, để cho ông thù tiếp bạn bè. Bà thương ông đến như vậy đó.

Hơn cả chục chai rượu nho, rượu mạnh trong tủ kiếng, cũng do một tay bà mua. Bà không biết uống, nhưng hễ nghe ai khen rượu ngon, rượu quý, thì bà cũng cố mang về cho chồng một vài chai. Ông thường dặn nếu không biết uống rượu thì đừng mua, vì khẩu vị của mỗi người khác nhau. Cũng như mình khen mắm nêm thơm ngon, nhưng cho Tây ăn, thì họ bịt mũi mà oẹ ra. Bây giờ đứng đây, đưa tay sờ vào những chai rượu màu nâu sẫm, lòng ông đầy ân hận, đáng ra lúc đó, ông phải nói những lời tử tế ngọt ngào cám ơn, và bày tỏ cái hân hoan với tình thương chăm sóc của vợ. Những khi đó, ông đã nói những lời chân thật như đất ruộng, làm phụ tấm lòng yêu thương của bà. Ông định nhấp vài hớp rượu để tưởng nhớ đến ơn vợ, nhưng rồi đặt chai xuống, và thì thầm hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương: “Em ơi! lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai?” Mắt ông cay cay, tim đập sai nhịp.

Tủ áo quần của bà còn nguyên vẹn đó. Những chiếc áo giản dị, màu sắc khiêm tốn. Bà phải chờ cho đến khi bán hạ giá thấp nhất mới dám mua. Bà cần kiệm, không dám hoang phí. Đi đám cưới, tiệc tùng, bà không cần phải thay đổi áo mới, kiểu nầy, kiểu kia. Bà nói: “Ngay cả ông chồng, còn chưa nhớ được kỳ trước mình mặc áo nào, màu gì, huống chi thiên hạ. Họ đâu có dư thì giờ mà vớ vẩn nhớ đến cách phục sức của cả trăm người trong bữa tiệc. Mà dù cho họ có nhớ đi nữa, cũng không sao, đâu có gì quan trọng. Chắc cũng chẳng ai chê mình không có áo quần mới khi tham dự tiệc tùng.” Cái đơn sơ giản dị chân thành của bà làm ông thương và mến phục.

Áo quần của ông, cũng do bà tìm tòi mua giúp. Khi thấy cái áo quần tốt, màu sắc trang nhã, giá cả tương đối được, bà hối hả kêu ông chạy gấp đến tiệm thử liền. Ngay cả áo quần lót, vớ, cà-vạt, cũng do bà mua cho ông. Bà đem áo quần đã cũ sờn vất đi, thay vào các thứ mới. Ông cứ tự nhiên dùng, chưa bao giờ biết kích thước đúng của chính ông. Đã có bà lo hết. Bây giờ không còn bà, ông mới thấy rõ ràng hơn những gì đã nhận được xưa nay mà vô tình không nghĩ đến. Cầm chiếc quần được lên lai trong tay, nhìn đường kim mũi chỉ cẩn thận, ông thấy rõ tình thương của bà gói ghém trong đó. Áo quần mùa đông, mùa hè của ông cũng được bà sắp xếp riêng từng ngăn cẩn thận. Bà đã cho giặt sạch, kỹ lưỡng trước khi được treo xếp vào ngăn tủ áo quần, để dành mặc vào mùa sau. Từ khi có bà trong đời, ông mất dần đi khả năng tự lo, tự lập mà ông vô tình không biết.

Ông nhớ những khi tham dự tiệc tùng, trong lúc ăn uống, khi có chút rau, thịt mắc vào kẽ răng, không dùng lưỡi cạy ra được, bà nhìn ông, biết ngay. Bà len lén mở ví, kín đáo chuyền tay cho ông một cây tăm bọc trong giấy. Ông xem đó như chuyện tự nhiên. Cũng có khi ông quay qua bà hỏi khéo: “Em còn cây tăm nào không?” Bà mở ví, đưa cho ông ngay. Trong lúc ăn, có món ngon vừa ý, bà thì thầm nhắc ông. Hoặc khi lấy thức ăn, bà chọn cho ông miếng ngon nhất. Những lúc đó, ông hơi ngượng, liếc mắt nhìn quanh bàn. Phần ông, thì cứ dặp đại, chưa bao giờ phân biệt miếng ngon, miếng dở. Gắp được cục xương không dính chút thịt cũng cứ vui. Trong bữa ăn, khi thấy ly nước của ông cạn, bà châm, thêm, ông hoàn toàn không quan tâm đến.

Bà biết rõ ông ưa thích món ăn gì, để mỗi ngày nấu nướng. Khi nghe ông khen món nào đó, thì hôm sau, bà nấu ngay cho ông ăn. Ông chỉ lờ mờ nhận ra hảo ý của bà, nhưng không biết nói một câu nịnh cho vui lòng vợ.

Nhiều lần ông bà rủ nhau đi du lịch xa, ông có nhiệm vụ lên mạng mua vé máy bay, đặt khách thuê sạn. Thế là xong. Phần bà lo cho tất cả các mục còn lại. Từ áo quần thường, áo lạnh, áo ngủ, đồ lót, vớ, giày phụ, dép, bàn chải răng, kem, kiếng phụ, tăm, thuốc cấp cứu, thuốc dùng ngừa bệnh, điện thoại di động, giây cắm điện thoại, máy hình, máy điện toán xách tay và các thứ phụ tùng cần thiết. Danh sách của bà đủ bốn mươi tám món. Bà cũng không quên mang theo một ít thức ăn khô, phòng khi lỡ đường. Nhiều khi thấy va-li căng kè, nặng nề, ông gào to: “Đi chơi chứ đâu phải là dọn nhà? Sao không mang theo cả cái tủ lạnh cho tiện.”

Một lần đi Âu Châu, cuộc đình công kéo dài, điện tắt và trời bão tố. Ông bà bình tâm nằm trong khách sạn, không chút nao núng, vì đã có sẵn một ít thức ăn khô mang theo. Thường trước khi đi, bà đọc kỹ và kiểm soát lại chuyến bay, lộ trình, các hãng đưa đón, khách sạn, ngày giờ của các ‘tua’ du lịch. Bà bắt ông xuất trình giấy thông hành, căn cước, thẻ tín dụng, tiền bạc, kiểm soát lại từng chút một, để khỏi quên bất cứ vật gì. Ông cảm thấy khó chịu vì bị vợ xem như đứa trẻ con. Nhưng khi vợ mất rồi, ông đi xa mà để quên đủ thứ, nghĩ lại càng thương bà hơn.

Ông thường ham mê xem các trận đấu thể thao. Nhiều lần ông đang đi chơi với bạn, bà sợ ông bỏ mất trận đấu, kêu điện thoại nhắc nhở: “Anh nhớ chiều nay 5 giờ có trận chung kết bóng rổ đó nghe!” Ông cám ơn bà, và thu xếp về cho kịp giờ khai đấu.

Từ khi có gia đình, ông phụ thuộc quá nhiều vào vợ. Không có bà, ông như rơi xuống một vực sâu, tối tăm mù mịt, ngày tháng tẻ nhạt. Không gian và thời gian dường như thành trống rỗng.

Mỗi chiều tan sở, ông bâng khuâng không biết đi đâu,về đâu cho đỡ thấy quạnh hiu. Khi vợ còn sống, phải lo về ngay, không dám ngồi quán cà phê lai rai, về nhà vợ hạch hỏi không dám trả lời thật. Có khi ông điện thoại cho bạn, hỏi chiều nay ông đến chơi được không, và xin được ăn cơm tối. Bạn biết ông đang buồn, đơn lẻ, nên thường niềm nở chấp nhận. Nhiều lần, ông mua một vài món ăn ở tiệm, đem đến nhà bạn góp vào mâm cơm chiều và sau bữa ăn, uống trà, cà phê. Ngồi trong ghế bành, đôi khi không nói gì, cầm tờ báo lật qua lật lại, thế mà thấy bớt cô đơn trong lòng yên ổn. Rồi cũng phải về cho gia chủ đi ngủ. Ông ra xe, nỗi buồn lại dấy lên thấm thiá. Trời đất như rộng thênh thang. Đường về nhà hiu quạnh. Nghĩ đến căn nhà trống vắng, lòng ông rưng rưng.

Mỗi khi mở tủ lạnh tìm thức ăn, thấy trống không, chẳng có thứ gì ăn được. Vài ba cây trái đã đen điu thồi? rữa thối. Mấy bó rau đã đổi màu đen, khô quéo. Chai nước lọc cũng cạn. Không còn gì. Trong nhà không có bàn tay đàn bà, thì xem như chẳng còn có cái gì cả. Ông thầm thán phục những người bạn độc thân. Không biết làm sao họ có thể sống sót đến tuổi già, mà vẫn vui vẻ, yêu đời, nói cười. Họ đã làm gì cho tiêu tán quãng thời gian trống rỗng sau giờ tan sở nhỉ?

Như một thói quen, những chiều tan sở, ông chạy thẳng ra nghĩa địa, thơ thẩn bên mộ bà. Trong nghĩa địa hoang vắng nầy, ông thấy bớt cô đơn hơn là về nhà một mình. Cắm vài bông hoa, thắp nén hương. Rồi ngồi trò chuyện, như khi bà còn sống. Nói đủ thứ chuyện, nói nhiều hơn cả khi ông bà còn bên nhau. Ông độc thọai, và ông cứ tin ở dưới lòng đất, bà đang lắng nghe ông tâm sự. Khi có người lạ đi đến gần, ông hơi xấu hổ, nói nhỏ lại, chỉ thì thầm thôi. Ông sợ thiên hạ lần tưởng ông đau bệnh thần kinh. Rồi ông hát cho bà nghe. Hát những bài kỷ niệm, mà ngày trước, ông bà cùng song ca trong những buổi “Karaoke” tổ chức tại nhà bạn bè. Tai ông, vẫn còn văng vẳng giọng bà thánh thót hoà lẫn với tiếng hát trầm ấm trên môi ông. Ông hát từ bài nầy qua bài khác đến khô ran cả cổ. Nhiều khi ông nằm dài trên cỏ, bên tấm bia mộ ngang bằng, nhìn lên trời cao mênh mông và tưởng tượng có bà đang thân thiết nằm bên cạnh. Nghe được cả hơi thở của bà. Hơi thở có mùi hương quen thuộc của ngày nào. Ông thèm nghe vài lời cằn nhằn trách móc của bà.

Khi bóng đêm bắt đầu phủ xuống trên nghĩa địa, ông mới uể oải đứng dậy ra về. Ông nấn ná không muốn khu mộ, nhưng vốn yếu bóng viá và sợ ma, không dám ở lại khi đêm đen bao trùm khu nghĩa địa hoang vắng. Ông thì thầm: “Ngày mai anh sẽ đến thăm em.” Có những ngày chủ nhật, ông cứ mãi thơ thẩn quanh khu mộ. Ông nhận ra rằng, bây giờ ông yêu thương yêu vợ hơn nhiều lần khi bà còn sống. Tình cảm ông tha thiết, nồng nàn hơn xưa rất nhiều.

Mùa đông mưa dầm dề, gió thốc từng cơn trên nghĩa địa trống trải, ông trùm áo mưa, ngồi co ro run rẩy trong buốt giá bên mộ bà. Ngày nghỉ ông ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều. Tâm trí miên man mơ hồ vô định.

Chỉ mới một năm thôi, ông hốc hác, gầy rộc, vì mãi miết đắm chìm trong thương nhớ, khổ đau. Nhiều người khuyên ông nên đi bác sĩ tâm lý để điều trị, để tránh sa vào tình trạng suy sụp trầm trọng. Ông nghĩ, bác sĩ cũng không giúp gì được khi trong lòng ông thương nhớ bà. Bác sĩ không thể làm bà sống lại, không thể làm phép lạ cho ông quên buồn.

Một buổi sáng khi nắng vàng rực rỡ nhảy múa trên khu nghĩa địa, gió mát mơn man cỏ cây, tiếng chim kêu văng vẳng. Ông Tư rầu rĩ mang bó hoa hồng đến đặt lên mộ bà, định than vãn vài câu cho bớt nỗi buồn thương không dứt được trong lòng. Ông ngạc nhiên thấy một tờ giấy cuộn tròn trong bình đựng hoa. Ông giật mình, ô kià, lạ chưa, có nét chữ của bà. Ông mở tờ giấy ra đọc. Một bài thơ của ai chép tay chữ viết giống hệt nét chữ bà. Những chữ h, chữ g và cả cách đánh dấu hỏi ngã. Ông run run đọc:

“Đừng đứng khóc lóc bên mồ em. Bởi em đâu còn dưới đó nữa. Em đang là ngàn gió bay cao trên đồng nội, là ánh dương quang lóng lánh giữa biển trời. Em đang tắm trong mưa thu mát dượi. Em đang trên cao, ngàn sao của giải ngân hà. Và một sáng mai kia, tiếng chim đánh thức anh. Thì hãy biết đó là tiếng em kêu anh. Thôi đừng khóc bên mồ em, chúng ta sẽ gặp lại nhau sau…”

Ông đọc đi đọc lại đến ba lần, và chợt nhớ ra đây là lời bản nhạc phổ từ bài thơ của bà Mary Elizabeth Frye viết trong cơn xúc động trên một mẫu giấy vụn. Trước đó bà Frye nẩy chưa hề bao giờ làm thơ. Bài thơ nầy về sau rất nổi tiếng, phổ biến rộng rãi trên khắp thế giới, được phỏng dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau. Ông đã từng nghe trong các đám tang người Mỹ. Nhưng khi đó, ông chẳng hề để ý. Bây giờ được đọc lại, ông thấm thiá và ngộ ra: Đúng. Bây giờ bà đâu còn nằm dưới đó nữa. Bà đang ở trên miền cực lạc. Bà đang sung sướng trong một thế giới khác, không có khó khăn, vất vả, không giận hờn ganh ghét, không có chiến tranh giành giựt, và không phải “Đổ mồ hôi trán mới có được miếng cơm vào mồm.” Thế thì, tại sao lâu nay ông phải âu sầu thương tiếc khóc lóc. Ông đã tự làm khổ ông, tự đọa đày trong vũng đau thương. Nếu bên kia thế giới mà bà biết được ông khổ sở rầu rĩ như thế nầy thì bà vui hay buồn? Ông tự hỏi, ông đau đớn vì thương bà hay tự thương mình? Bà đang hưởng lạc phúc, thì ông phải mừng, chứ sao lại sầu khổ? Nếu ông tự thương mình, thì phải chống tay đứng dậy, làm cho ngày tháng còn lại nầy được vui vẻ, hạnh phúc và lành mạnh hơn là chìm đắm trong tối tăm mịt mù. Ông đến trước bia mộ và thì thầm: “Đúng, em đâu còn nằm dưới lòng đất nầy nữa. Thân xác là cát bụi phải về với cát bụi. Không còn là em nữa. Em đã bay cao với gió trên mây vàng long lanh, đang rong chơi nơi thiên đường cực lạc. Anh phải biết mừng cho em. Phần anh, phải đi nốt tháng ngày còn lại trên hành tinh nầy với những bước chân vững vàng, vui vẻ và hạnh phúc cho riêng mình. Đó là bổn phận cấp thiết đối với bản thân.” 

Ông lái xe ra về, lòng nhẹ thênh thang. Con đường có nắng vàng reo vui, cây cỏ xanh ngắt yêu đời. Tiếng nhạc vui rộn rã vang vang trong xe, ông đã tìm được ý nghiã cho tháng ngày vắng bóng vợ. Ông tin rằng, nếu chết là chưa hết, chưa vĩnh viễn tan biến, thì ông sẽ gặp lại bà trong tương lai, ở một nơi an bình hạnh phúc hơn ở cõi trần thế nầy. Nhưng nếu chết là hết, là xong, thì cũng khỏe. Bà đã khoẻ, và mai đây ông cũng sẽ theo bước bà tan vào hư không.

Về nhà, ông ngồi vào bàn, lập một chương trình sinh hoạt mới cho ngày tháng còn lại. Trước đây ông không dám về hưu vì sợ cô đơn, sợ không có việc chi làm bận rộn rồi sinh ra quẩn trí mà phát bệnh. Nhưng bây giờ, ông đã có một chương trình năng động, phủ kín thời gian trong tuần, còn sợ không đủ thì giờ để thực hiện. Nhưng không sao, với ông thì thi hành được chừng năm mươi phần trăm cũng đã là thành công rồi.

Mỗi sáng ông dậy sớm, đi đến phòng tập thể dục, chạy bộ trên dây?, cử tạ, bơi lội, tập yoga, tắm nước nóng. Sau đó họp bạn già uống cà phê, bàn chuyện trời đất thời thế. Về nhà đọc vi thư bạn bè, giải quyết các công việc lặt vặt. Rồi ngủ ngay một giấc ngắn. Tự nấu nướng lấy, mặc dù có thể đi ăn tiệm, hoặc mua thức ăn về. Ông học cách nấu ăn trong liên mạng vi tính. Đọc bốn năm bài dạy khác nhau, rồi chọn lựa, kết hợp, tìm ra cách nấu hợp với khẩu vị mà ông nghĩ là ngon nhất. Từ đó, ông ghiền xem truyền hình dạy nấu ăn, Ông nấu được những món ngon tiếp đãi bạn bè.

Có một bà góa ỡm ờ đề nghị: “Anh nấu ăn ngon thế nầy, mà ăn một mình cũng buồn và uổng quá. Hay là nấu cơm tháng cho em đi, mỗi ngày tới bữa em đến ăn. Hôm nào anh bận, thì báo trước, em sẽ đi ăn tiệm.”

Ông cười lịch sự đáp: “Cám ơn chị quá khen và đề nghị. Xin cho tôi suy nghĩ lại, xem có đủ sức phục vụ chị không, rồi sẽ trả lời sau.”

Ông bóng bẩy nhấn vào hai chữ ‘phục vụ” làm bà kia đỏ mặt e thẹn. Ông không thể tưởng tượng nổi có người nào đó thay thế được vợ ông. Mỗi khi nói chuyện thân thiết với bà nào đó, mà trong lòng ông có dấy lên một chút cảm tình, thì ông thấy như mang tội với người vợ đã khuất, ông đã thiếu chung thủy. Cứ áy náy mãi.

Ông tham gia các chương trình du lịch xa, đi chơi trên du thuyền. Ông gặp nhiều bạn bè, đàn ông, đàn bà, cùng vui chơi. Tham dự các trò đùa tập thể trên du thuyền. Nhiều bà góa thấy ông cô đơn, nhắm muốn tung lưới bắt mạng, nhưng ông cũng đủ khôn ngoan để né tránh. Ông nói với bạn bè rằng, mình già rồi, khôn có lõi, không còn ngu ngơ dại dột như thời trai trẻ, để nhắm mắt chui đầu vào tròng. Đôi khi ông cũng muốn có bạn gái, có chút chất “mái”, dù không làm gì được, nhưng mơ hồ thấy có sự thăng bằng nào đó trong tâm trí.

Ông đã cùng bạn bè tham gia các chuyến du lịch xa, Âu Châu, Ấn Độ, Phi Châu. Bây giờ còn đủ sức để đi, có điều kiện tài chánh thong thả, tham gia kẻo mai mốt khi yếu bệnh, khỏi luyến tiếc. Đi theo đoàn đông đảo bạn bè, thì giờ rất sát, eo hẹp, làm ông không kịp nghĩ, kịp buồn.

Trên du thuyền, gia đình người bạn giới thiệu bà Huyền cho ông, bà đẹp, duyên dáng, hơi trầm tư, đôi mắt mở to như khi nào cũng ngạc nhiên ngơ ngác, cánh mũi thon, môi hình trái tim chúm chím. Bà Huyền xa chồng đã hơn ba năm. Lòng ông Tư mơ hồ dấy lên chút cảm tình vì bà đẹp, hiền thục, ít nói. Mấy lần hai người ngồi gần nhau trong bữa ăn. Bà Huyền hé lộ một chút tâm sự riêng tư cho ông nghe, rằng bà may mắn chạy thoát đến Mỹ vào năm 1975, bà lặn lội thân cò nuôi chồng theo đuổi đại học trong bao nhiêu năm. Nhờ may mắn trong thương trường, tiền bạc có thời vô như nước. Gia đình vui vầy tràn đầy hạnh phúc. Rồi tai họa đổ xuống, chồng bà say mê một cô nhỏ tuổi hơn con gái ông, cô nầy làm công cho cơ sở thương mãi của gia đình. Ông chồng li dị bà để vui duyên mới. Bà nói rằng, chẳng trách gì ông, một phần cũng lỗi tại bà không phòng xa, để cho ông chồng và cô gái có dịp tiếp xúc thường xuyên. Lửa gần rơm thì phải cháy. Chia đôi gia tài, bà cho ông cơ sở kinh doanh, bà không cần làm nữa, tài sản có thể sống đến khi già chết.

Ông Tư cũng cảm mến bà Huyền vì cái giọng nói dịu dàng ngọt ngào, trái tim nhân áí, và tâm từ bi của bà cùng tấm lòng cao thượng. Khi nhắc đến ông chồng cũ phản bội mà không thù hận, không gay gắt giận hờn.

Bà Huyền biết kiên nhẫn lắng nghe, tôn trọng ý của người khác, dù có khi bất đồng quan điểm. Ông Tư cảm thương cho một người đàn bà biết điều như thế mà gặp phải hoàn cảnh không may. Cái tình cảm trong lòng ông đâm mầm nhú mộng êm ái. Đôi khi ông cũng giật mình, sợ trái tim ông yếu đuối, đổi cái quan hệ bạn bè với bà Huyền thành tình yêu. Ông không muốn mang mặc cảm phản bội bà vợ bên kia thế giới. Nhưng cũng là chuyện lửa gần rơm, mối giao hảo thân thiết của ông với bà Huyền càng ngày càng khắng khít. Đã có vài lần ông toan tính thổ lộ cho bà Huyền mối tình cảm chân thành của ông, nhưng rồi vốn nhát, nên lại thôi. Ông tự cười, đã chừng nầy tuổi, trên đầu tóc trắng nhiều hơn tóc đen, mà vẫn còn nhút nhát như thời mười sáu tuổi. Cuối cùng, chính bà Huyền đã mở đường dẫn ông vào cuộc tình già. Khi ông đi gần đến quyết định mời bà Huyền về sống chung, thì bạn bè can gián, cho ông biết bà Huyền là một trong ba người đàn bà nổi danh đanh đá độc ác nhất của thành phố nầy. Ai cũng biết, mà chỉ riêng ông Tư không biết mà thôi. Ông không tin một vài người, nhưng phải tin khi nghe nhiều người khác nói. Ông quyết tâm tìm hiểu, và vô tình gặp ông Duẫn là người chồng cũ của bà Huyền trong một buổi họp mặt. Ông lân la đến làm quen. Thấy ông Duẫn hiền khô, không rượu, không trà, không cả cà phê thuốc lá, và nói năng lịch sự dịu dàng. Bạn bè lâu năm của ông Duẫn cũng xác nhận anh nầy là một ‘ông Phật đất’. Hoàn toàn không hề có chuyện gian díu với một người đàn bà nào. Bà Huyền cũng không nuôi ông Duẫn một ngày trong đời như bà nói, bà đã đặt chuyện, cứ nói mãi, nên tin là có thật.

Ông Tư mạnh dạn hỏi thẳng Duẫn: “Anh nghĩ sao, nếu tôi cưới bà Huyền, vợ cũ của anh?”

Ông Duẫn gãi đầu, và nói ngập ngừng: “Ô… ô, không nghĩ sao cả. Đó là chuyện riêng của bà ấy với anh. Tôi không can dự gì. Chúng tôi đã li hôn lâu rồi. Tại sao anh hỏi tôi câu đó?”

Ông Tư hạ giọng: “Không phải tôi xin phép anh, mà tôi muốn hỏi ý kiến của anh về bà ấy. Nhận xét của riêng tôi, thì bà Huyền là một người đoan trang, trinh thục, hiểu biết, có trái tim nhân ái. Nhưng theo nhiều người khác thì đó là một trong ba bà ác độc nhất của thành phố nầy. Có thật vậy không?”

Ông chồng cũ của bà Huyền ngửng mặt lên trời mà cười ha hả: “Khoan khoan, đừng nói thế mà tội cho người ta. Phần tôi, nếu không nói tốt cho bà ấy được, thì cũng không có quyền nói xấu. Tôi không dám có ý kiến gì cả. Có thể bà ấy không hợp với tôi, nhưng lại hợp với người khác. Có thể tại tôi bất tài, không tạo được hạnh phúc cho gia đình. Biết đâu, bà ấy với anh đồng điệu, hai người có thể tạo nên thiên đàng dưới trần thế nầy.”

Ông Tư ngại ngần và chùn chân, âm thầm lảng xa dần bà Huyền. Bà nầy biết được ý định, mắng ông Tư một trận nên thân, chửi ông hèn nhát, bần tiện, keo kiết, không đáng xách dép cho bà. Ông Tư nghe xỉ vả chửi mắng mà mừng húm. May mà chưa có cam kết gì với bà Huyền. Từ đó, ông đâm ra có thành kiến với bất cứ người đàn bà nào muốn tiếp cận với ông.

Ông Tư đã hết suy sụp tinh thần, tự tổ chức cho ông một đời sống có ý nghĩa, có nhiều niềm vui nhỏ nhặt trong đời sống, tránh xa mọi phiền toái của thế gian. Trong nhà ông treo một tấm biển lớn, chữ viết theo lối bút họa, ghi lời của một người bạn:

“Có thì vui. Không cũng vui. Được mất đều vui.”

Tràm Cà Mau

From: Tu-Phung

Những ngày cuối của thủ đô yêu dấu – Lâm Nguyễn

Lâm Nguyễn –
22 tháng 4, 2024
Sáng 28 Tháng Ba, ba cứ dẫn cả nhà đi tới đi lui. Tàu mỗi lúc mỗi ít mà người thì mỗi lúc mỗi đông. Mình không nhớ rõ ràng từng chi tiết lắm nhưng cái hình ảnh mấy trăm ngàn con người ứ đọng lại trên bến tàu để giành giựt 1 chỗ trên tàu và thỉnh thoảng lại có những tiếng rơi nặng nề xuống biển thì không làm sao mình quên được.
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, bối rối, kinh hoàng, cùng quẫn. Kẻ đi tới, người đi lui, khóc lóc, kêu réo dội lên nghe thật dễ sợ. Mấy bao gạo sấy cứng như đá nhưng cũng được tụi mình chiếu cố tận tình. Suốt một ngày vất vả, lang thang khắp các xó xỉnh của bến cảng, đợi chờ, hy vọng rồi tuyệt vọng, cả nhà mệt lả. Mình tưởng như không thể nào đi nổi nữa (Lúc đó mình là đứa con lớn nhất trong nhà chỉ mới 11 tuổi).
Đêm đến. Người đến mỗi lúc một đông. Cả nhà đứng trên bến. Mình còn nhớ rõ lúc đó có một chiếc tàu đậu ở ngoài xa. Nhũng người đứng trên bến kêu la í ới nhưng chiếc tàu không vào được. Nếu lúc đó chiếc tàu tiến vào, mấy chục ngàn người mà ùa xuống, chắc chắn sẽ chết mấy trăm lần so với những ngày qua vì điều chắc chắn là chiếc tàu sẽ chìm lỉm.
Lúc đó có một người lính có lẽ vì hoảng quá đâm ra liều lĩnh nên nhảy đại xuống biển và cố gắng bơi ra chiếc tàu. Mặt biển tối sẫm nhưng cũng thấy đầu ông lúc trồi lên lúc chìm lỉm. Mọi người trên bờ hồi hộp theo dõi, thỉnh thoảng lại cổ vũ: “Gắng lên, gắng lên, gần tới rồi” và hàng trăm tiếng “Ồ” bật lên mỗi khi thấy ông ta bị chìm có lẽ vì đuối sức. Cứ thế mọi người kể cả tụi mình hồi hộp theo dõi nhưng cuối cùng ông ta mất tăm. Mọi người cũng chẳng còn hơi sức, tâm trí đâu để mà than thở, hay tỏ một câu thương xót cho cái chết bi thảm của ông. Hình ảnh ấy cứ bám riết tâm trí, ám ảnh mình suốt chuyến đi.
Ba dẫn cả nhà ra ngay giữa bến. Ngoài khơi có một chiếc tàu to đang tiến vào. Nhưng rồi nó cũng không dám vào sâu hơn nữa vì mỗi lần tiến lên được chút ít là “họ” từ trên núi pháo xuống mặt biển ầm ầm. Có một ông lính to cao mặc đồ bộ binh, mũ giáp đàng hoàng cầm đèn pin chớp chớp 3 cái một, hình như là để ra hiệu cho tàu vào. Thình lình ở phía bên phải bỗng chớp lên một vệt sáng dài như sấm chớp. Mình nghe tiếng ông ta hét to: “Pháo, nằm xuống”.
Ba dúi đầu tụi mình xuống. Cả nhà vừa kịp nằm dài ra là :”Ầm, ầm”. Lúc đó mình mới thật sự thấy khiếp sợ. Ngày hôm qua, tuy bị nhưng họ pháo rải ra, thưa thớt hơn và cả nhà ở trong một phòng kín. Còn bây giờ thì liên tiếp không ngớt. Tưởng chừng như bao nhiêu tiếng động kinh khiếp của trái đất đều đổ dồn vào đây. “Ầm ầm” liên tục làm mọi người không ngóc đầu dậy được. Tụi mình nằm im thin thít.
Người tỵ nạn cộng sản từ Đà Nẵng, Huế và các thành phố thất thủ khác của miền Nam Việt Nam, chen chúc hành lý trên xe buýt, cố gắng kiếm thức ăn và nước uống khi họ từ Thành phố Cam Ranh hướng về Sài Gòn (Bettmann / Getty Images)
Sau này nghe ba nói lại mình mới biết là lúc đó ba đã cố ý cho cả nhà nằm túm tụm vào nhau để lỡ có rủi quả nào rớt trúng thì bị hết cả nhà còn hơn là người còn người mất. Pháo cứ trên núi dội xuống trên đầu mọi người. Giữa bến không có một tàng cây hay một túp nhà nào. Mọi người buông xuôi, mặc cho may rủi. Nằm lồng lộng giữa trời để hứng những quả pháo không có mồm có mắt. Nghĩ lại mình còn thấy ghê sợ. Pháo vừa ngớt, ba kéo hết ra một cái hầm dầu ca-dôn. Nói là hầm nhưng thật ra đó là một đường ống giống như những cái cống chứa đầy dầu trơn nhẫy. Tụi mình phải nửa ngồi nửa đứng, hai tay bấu vào vách đá, lưng dựng vào vách này, chân bíu vào vách kia. Láng quáng sảy chân rơi xuống cũng chết. Mình không hiếu lúc đó hai cu Kỳ và Tí (5 và 3 tuổi) lấy sức đâu mà bíu vào vách đá như vậy. Tê dại cả chân tay đầu óc. Pháo gần khoảng 1 tiếng thì ngớt dần và ngưng hẳn. Lúc đó trời đã rạng sáng. Sáng 29/3.
Lúc này soát xét lại thì đồ đạc lẫn lộn đâu hết, chỉ còn một xách gạo sấy, 1 xách quần áo trong có cái radio cassette. Còn cái xách Boeing của nhà trong đựng những bộ quần áo quý của má thì mất tiêu. Nhưng cũng chẳng ai có vẻ tiếc rẻ (khi cả nhà mình vừa thoát khỏi cái chết). Còn hơi sức đâu mà nghĩ tới những chuyện vớ vẩn nữa.
Mặt trời lên. Một cảnh tượng hiếm có đập vào mắt mình. Trên bến la liệt những đồ vật, xe cộ, người bị thương, bị chết nằm ngổn ngang. Xe cộ nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Xen giữa những hàng xe cộ là đồ vật. Quần áo, ti vi, máy quạt, va-ly, túi xách, kể cả những đồ vật đắt tiền và thậm chí mình còn thấy cả những đôi hài, sandale, hoặc đôi giày cao gót của đoàn người di tản cởi bỏ và vất lại.
Ba má lại thất thểu kéo tụi mình ra đi. Dọc đường, mình thấy máu me và tiếng rên rỉ xin cứu vớt, xin nước của người bị thương vang lên không ngừng. Có một người đàn bà bị thương nặng, 4 đứa con vây quanh bà ta khóc lóc nhưng bà xua đi và nặng nhọc nói:
– Thôi mẹ gần chết rồi, mấy đứa con đi đi. Chạy theo họ chứ không là bị pháo kích nữa đó.
Bốn đứa nhỏ vùa chạy theo sau đoàn người nhà mình vừa quay lại nhìn bà mẹ và khóc nức nở. (Cảnh tượng này suốt đời mình không bao giờ quên được). Không biết máu của ai văng lên cái xách đồ mà dính be bét trên quần áo. Vào đến Cam Ranh, nhà mình mới hay.
Có người chết rồi mà mắt mở trừng trừng. Có người bị thương đau quá rên siết thật thê thảm. Có người nuốt nước mắt bỏ thân nhân bị chết ở đó và ra đi. Chưa bao giờ mình thấy đồ đạc nhiều như vậy. Đồ đạc nằm chỏng chơ trên cảng, lăn lóc ngoài đường. Giá lúc ấy có ai mà chụp được cảnh đó hẳn bức ảnh đáng giá ngàn vàng.
Khung cảnh cảng ngổn ngang, bừa bãi và vắng lặng vì bây giờ, sau trận pháo kinh thiên động địa, mọi người lại hoảng hốt ra đi. Đi về đâu? Cũng chẳng ai biết chắc họ sẽ đi về đâu. Nhưng thấy người khác đi, mình cũng đi. Cứ như những con kiến hoảng hốt bò quanh miệng chén nước sôi. Cùng quẫn, tuyệt vọng, bơ phờ, kinh hoàng, ngần ấy thứ in hằn lên từng khuôn mặt già cũng như trẻ.
Cứ đi, dù không có cái đích cuối cùng, kéo nhau đi hoài, đi hủy dù không có phương tiện. Cả nhà cùng đoàn người chạy loạn lại kéo nhau về Sơn Chà – Chợ Chiều. Từ Cảng Tiên Sa đi ra Chợ Chiều cũng 9, 10 cây số. Đi ngang dãy nhà ở Tiên Sa mà hồi xưa gia dình mình ở, mình thấy ở đó đã bi pháo dội đổ nát hết.
Lúc đó mình mới 11 tuổi, QG 9, Bé Ba 7, Bé Tư 6, cu Kỳ 5, cu Tí 3 và Bé Tí 2. Lại thêm bà Tuyên cùng hai đứa con: đứa 1 tuổi, đứa hai ngày tuổi. Thật là nheo nhóc. Ba thì xách đồ, chị Lụa bồng bé Tí, má bồng đứa con lớn của bà Tuyên, bà Tuyên bồng đứa mới sinh.
Ba dặn mình phải níu tay Bé Tư. Bé Ba đi với QG. Còn Kỳ và Tí thì đi sát bên ba. Lên đường, không phấn khởi, không tin tưởng, không có đích như những chuyến đi chơi. Tới đâu hay tới đó. Cả nhà mình như trôi đi trong một khối biển người khổng lồ, cuồn cuộn, nối tiếp nhau tưởng chừng như không bao giờ hết được.
Dọc đường đi, nhiều cảnh tượng kinh khủng đã đập vào mắt mình. Và người! Người từ Sơn Chà, từ Đà Nẵng lại đổ trở ra Tiên Sa.
Người vô kẻ ra. Đúng là môt bầy kiến vĩ đại đang bò quanh miệng chén nước sôi. Thật là bế tắc. Mọi người lại nhìn nhau bàng hoàng, ngơ ngác. Bây giờ phải đi đâu, đến đâu. Đứng im một chỗ cũng không thể bình tĩnh được nên phải chạy tứ tung ngoài đường. Rốt cuốc hàng đoàn người dài dằng dặc đi ngược chiều nhau, nhìn ngó nhau, thắc mắc, lo sợ và tuyệt vọng.
Có những cái đã in sâu trong óc mình. Mình đã gặp dọc theo con đường (ngay trước cổng vào khu hải quân ở Sơn Chà) một người đàn ông mặc bộ đồ thủy quân lục chiến nằm vắt tay lên trán, bên cạnh là chiếc xe Honda chất đầy đồ đạc. Trông ông ta có vẻ thản nhiên quá. Lại ngủ nữa à? Không ai biết được là ông ta đã chết rồi, người chạy loạn thương tình xếp lại tư thế nằm của ông cho ngay ngắn. Có thể giờ này vợ con ông đang đi tìm ông. Trông tư thế nằm của ông có vẻ vô tư quá. Trông như 1 bác nông dân đang say sưa đánh giấc sau khi làm những đường cày.
Tái bút:
Hành trình chuyến đi còn kéo dài đến hơn 10 ngày mới đến được Sài Gòn nhưng không hiểu sao lúc đó mình chỉ viết đến đây thì dừng. Tuy nhiên, cách đây vài năm, mình có nhớ lại nên viết kể tiếp về chuyến đi với đích đến cuối cùng là Sài Gòn. Chuyện cá Ông cứu thuyền là có thật. Năm 2018, mình đã đưa ba má ra đảo Bình Ba (ba má sau khi lục lọi trí nhớ đã xác định tên đảo) để thắp hương tại Lăng Cá Ông, cảm tạ Ông đã cứu chiếc ghe không bị lật chìm giữa biển.
Cuối cùng, điều mình muốn nói là qua chuyến đi chết chóc này, mình muôn vàn cảm tạ, biết ơn ông bà Tổ Tiên phúc đức đã che chở cho cả nhà toàn vẹn cho đến khi đặt chân lên đất Sài Gòn dù thân hình xơ xác, tiều tuỵ đúng nghĩa đen đầu trần chân đất.

Những Ngày Tháng Tù Đày Không Thể Quên – Thanh Thương Hoàng.

Kimtrong Lam

Thanh Thương Hoàng.

Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà cộng sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1 trước đó “đánh” tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), 2 anh em vua tàu thủy Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc, Kịch, Đạo diễn Điện ảnh, Đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi khám Chí Hòa.

Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử hình. Sau 2 năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai. Tưởng cũng nên kể ra đây tôi là người trong giới Văn nghệ đầu tiên, mới nhập trại đã bị tống ngay vào “biệt giam” (cachot) khu B1, phòng 11 trại Phan Đăng Lưu. Có lẽ họ tưởng tôi là nhân vật quan trọng, là tay sai của CIA được dựng lên làm Chủ tịch Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam hoạt động trong báo giới. Vì ngoài Bắc chức vụ này “to” lắm, do đảng đưa ra và quyền hạn cũng như quyền lợi ngang bộ trưởng.

Trong cùng dẫy biệt giam khu B1 có những nhân vật tên tuổi như Thượng Tọa Thích Huyền Quang, Thượng Tọa Thích Quảng Độ, Linh mục Đỗ Bác Ái, Tiến sĩ Mai Văn Lễ (cựu Khoa trưởng Khoa Luật đại học Huế), Luật sư Nguyễn Hữu Doãn, Luật sư Nguyễn Khắc Chính, Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ, Nhà báo Hồ Văn Đồng, Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến,Nhà Văn Nhà báo (nguyên dân biểu) Hồ Hữu Tường. Những người này lần lượt vào biệt giam sau tôi 1, 2 tuần. Đầu dẫy khu biệt giam buồng số 1 là “tướng phục quốc Nguyễn Việt Hưng”. Tôi rất tiếc khi đó không biết nhiều về nhân vật này. Ông là người đầu tiên cầm đầu một số dăm bẩy người trấn trong nhà thờ Vinh Sơn (đường Trần Quốc Toản) đánh CS với vài vũ khí thô sơ, khi CS vào Saigon mấy tháng. Sau đó ông bị CS xử bắn.Vụ “vùng lên” khởi đầu chống đối CS này đã gây tiếng vang rộng lớn làm trấn động dư luận khắp nước khi đó. CS phải điều động bộ đội công an cảnh sát vây hãm quanh khu vực Nhà Thờ mấy ngày liền mới trấn áp được. Tôi nghĩ chúng ta thật vô tình khi ở ngoài này, trải qua mấy chục năm, không thấy một ai nhắc nhở tới ông (người được gọi là tướng Nguyễn Việt Hưng mà dư luận khi đó đồn đãi là biệt danh của Tướng NCK hoặc Tướng cảnh sát NNL ở trong mật khu lãnh đạo cuộc chiến đấu với rất nhiều “hồ hởi phấn khởi”). Theo tôi đây là người chiến sĩ quốc gia can trường bất khuất, dám đứng ra chống CS ngay từ ngày đầu, chúng ta nên tỏ bày lòng ngưỡng mộ và khâm phục. Phía sau dẫy biệt giam B1 là dẫy biệt giam B2 có giáo sư Vũ Quốc Thông, ông chủ nhiệm nhật báo Lẽ Sống Mới Ngô Công Minh (vào đầu năm 1975 làm phụ tá Tổng Trưởng Thông Tin), ông Tống Đình Bắc, Trưởng ty Công an nổi tiếng sát cộng Miền Tây, ông chủ Nhà sách Khai Trí và một vài người nữa từng giữ chức vụ cao chế độ cũ. Riêng ông Ngô Công Minh sau khi lên trại tù lao động Gia Trung với chúng tôi hơn tháng thì CS đưa ông đi nơi khác. Từ đó không ai biết tin tức về ông. Có dư luận nói ông bị đem thủ tiêu vì mấy tay tổ văn nghệ, báo chí CS (từng quen biết ông trước kia) muốn cướp không ngôi nhà lớn của ông ở Saigon và vàng bạc của cải. Theo tôi, ông không phải nhà hoạt động chánh trị, chỉ là nhà báo thuần túy nên không thể bị sát hại vì lý do chánh trị. Khi tù về tôi có dò hỏi tin tức ông nhưng không ai biết một cách chính xác.

Trong thời gian “nằm” biệt giam tôi cũng có vài việc để nhớ xin kể ra đây. Cứ mỗi tháng tù biệt giam được cho ra ngoài cắt tóc. Bọn “thế nhân” chúng tôi tất cả đều bị “gọt” trọc đầu kể cả vị Linh mục, nhưng với 2 vị Thượng Tọa Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ thì cai tù lại bắt để tóc. Hai cụ phản đối, cai tù thản nhiên: “Đó là chính sách Nhà nước!” Việc thứ hai là vì biệt giam mới làm chưa lắp ống dẫn nước nên mỗi ngày chúng tôi chỉ được từ 2 tới 3 phút vòi nước ở ngoài thọc vào để làm vệ sinh. Tôi không biết nên thản nhiên chà xà bông gội đầu (bằng xà bông giặt). Đang làm nửa chừng vòi nước rút ra mặc cho tôi nài nỉ. Báo hại đêm đó đầu tôi bị xà bông làm ngứa ngáy khó chịu không tài nào nhắm mắt ngủ yên được. Cũng vì “nước” tôi phải tự “tranh đấu” với mình mãi mới nuốt xong phần cơm tù. Tôi chỉ có 2 cái tô nhựa: một dùng đựng cơm, một dùng đựng canh. Vì phải chứa nước làm vệ sinh (khi đi cầu) tôi nhịn tắm lấy nước chứa vào cái tô lớn màu xanh. Trong khi đi “làm việc” (hỏi cung) tôi viết mấy chữ bằng bút chì dặn anh tù hành sự để cơm vào nửa tờ giấy báo cũ, còn canh để vào tô nhựa màu đỏ. Nhưng anh ta đổ hết nước trữ đi, để cơm canh vào 2 cái tô và đặt ngay trên bệ cầu tiêu chưa được dội nước còn nồng nặc mùi phân của mình.Tôi ngồi hơn nửa tiếng đồng hồ nhìn 2 tô cơm canh muốn ứa nước mắt tự “tranh đấu” với mình. Ăn hay nhịn? Nếu ăn, khó nuốt trôi miếng cơm vì tởm lợm. Nhưng nếu không ăn sẽ bị đói tới trưa hôm sau. Tôi lại mắc chứng đau dạ dầy từ ngày CS chiếm Saigon nên sẽ khốn khổ lắm. Cuối cùng tôi đành nhắm mắt nuốt vội chút cơm canh lạnh ngắt với hai hàng nước mắt.

Tôi bị nhốt biệt giam hơn 10 tháng, vào một buổi sáng trời âm u, được gọi tên mang đồ ra khỏi buồng giam. Phía chéo buồng giam, tôi liếc nhìn thấy nhà văn Duyên Anh để mặt sát ô vuông cánh cửa sắt phòng giam tập thể hướng về phía tôi nói khá lớn: “Nhớ ghé nhà tao nói với vợ tao…” Tôi chỉ nghe được tới đây thì bị viên cai tù nạt nộ cấm nói. Thì ra Duyên Anh tưởng tôi được tha về nhờ tôi tới nhà nhắn tin vợ.

Khi đi đến trước sân “nhà khách” trại giam tôi thấy vài người quen ngồi đó với đồ đạc cá nhân lỉnh kỉnh.Chúng tôi chỉ đưa mắt chào nhau. Mấy phút sau họ điểm danh từng người xong còng tay lại đưa lên chiếc xe hơi bít bùng chuyển về cơ quan An ninh nội chính (Nha Công an thành phố Saigon cũ đường Trần Hưng Đạo). Cùng trên chuyến xe có tiến sĩ Mai Văn Lễ, thạc sĩ Vũ Quốc Thông, ông Tống Đình Bắc và một vài người nữa (giờ tôi quên mất tên). Trong lúc ngồi ngoài sân cơ quan chờ làm thủ tục gì đó, các bạn tù của tôi bàn cãi sôi nổi về dự đoán chúng tôi được đưa lên đây làm giấy tờ tha. Có vị còn “cá” một chầu ăn uống linh đình ở Chợ Lớn. Rồi lần lượt từng người được gọi tên đem hành lý đi vào phòng… biệt giam! Tôi được gọi tên sau chót (may mắn cho tôi vì biệt giam hết chỗ (?) – viên công an tiếp nhận tù nói vậy) nên được nhốt vào khu tập thể A (làm từ thời Pháp). Gần 100 người đủ thành phần già trẻ lớn bé, tư sản, chính trị gia, Linh mục, Mục sư,Thượng tọa, Đại đức, trộm cắp, buôn lậu, nhốt chung trong 1 phòng dài trên 10 mét, bề ngang nhỏ hẹp, u tối, ẩm ướt, thiếu ánh sáng và khí trời. Phòng có 2 “sàn”, sàn trên cao khoảng 1 mét. Mỗi người được cấp manh chiếu rách cáu bẩn, nồng nặc mùi chua mồ hôi người tích tụ lâu năm đã kết thành “cao”. Ở trên tôi nói may mắn không phải vào lại biệt giam vì mấy tháng sau anh Mai Văn Lễ được thả khỏi biệt giam vào phòng tôi kể cho nghe thảm cảnh trong buồng biệt giam anh đã “chết trong cõi sống” mấy tháng qua. Buồng biệt giam Sở An ninh nội chính được xây từ thời Pháp thuộc có tuổi đời trên mấy chục năm. Tường bẩn thỉu lam nham đầy cáu bẩn đen đúa, sàn xi măng ẩm ướt quanh năm. Mùi mồ hôi, mùi phân, nước tiểu người tích tụ bao năm tạo thành một thứ mùi hôi hám khó tả, ngửi phải muốn nôn ọe ngay. Khủng khiếp nhất là cái cầu tiêu đã nứt nẻ và vỡ nhiều mảnh, mỗi khi trời mưa nước từ trong lỗ cầu dâng lên tràn lan khắp buồng với những cục phân chưa tiêu hủy. Nếu mưa lâu khoảng một giờ, nước cầu tiêu dâng ngập buồng giam hơn gang tay, tù chỉ còn biết đứng dựa vào tường chờ cho nước rút hoặc ngủ đứng. Và khi nước vừa rút hết, sàn si măng còn ẩm ướt, tù mới ngả lưng nằm thì một hai chú chuột cống khá to, lông lởm chởm ghẻ lở khắp mình trông dơ dáy khủng khiếp chui lên từ miệng cầu, thản nhiên gặm bàn chân tù, đạp đuổi nó cũng cứ gan lỳ không chạy! Có lẽ từ lâu nó sống bằng xương thịt tù bị chết chưa kịp mang đi. Anh Mai Văn Lễ kết luận: “Đúng là tầng chót địa ngục trần gian, có một không hai trên thế giới!” Tôi được biết Linh mục Hoàng Quỳnh,người lãnh đạo giáo dân khu Bùi Chu Phát Diệm nổi tiếng chống CS bằng vũ lực hồi còn ngoài miềnBắc. Linh mục bị bắt từ ngày đầu tháng 5/1975, bị giam và chết trong “tầng chót địa ngục trần gian” này. Khi họ đem xác Linh mục đi trên cái băng ca, thân thể teo tóp gầy đét bé nhỏ như đứa trẻ lên 10.

Sau 2 ngày đêm 15 chiếc xe vận tải lớn,trước đây dùng chở heo, chở mấy trăm tù ngồi bó gối trên sàn xe chật cứng nhúc nhích cánh tay cũng không được. Với bao gian khổ đói khát trên con đường dài mệt lả người, chập choạng tối chúng tôi tới trại tù lao động cải tạo Gia Trung (thuộc tỉnh Pleiku) nằm trong khu rừng núi hoang vu. Nghe nói nơi này khi trước là mật khu của CS. Trại Gia Trung lúc bọn tôi tới đã có 3 trại giam, mỗi trại cách nhau khoảng cây số. Trại nào cũng đầy nhóc người: từ 700 tới 1000. Tù đa số là các viên chức cấp nhỏ, địa phương quân, nhân dân tự vệ và đông nhất vẫn là tù hành sự từ các nơi đưa tới, có án hoặc chưa có án. Có cả tù chưa đến 10 tuổi, đói quá liều ăn tô bún riêu ở chợ không tiền trả bỏ chạy bị bắt.

Những nỗi đói khổ nhục nhã, sống cuộc đời trung cổ, sách báo đã nói nhiều từ hơn 30 năm, tôi xin miễn kể ra đây. Sự khổ sở nhục nhã chúng tôi còn có thể chịu đựng được. Nhưng cái khủng khiếp nhất đối với chúng tôi là sự vô vọng ngày trở về đoàn tụ với gia đình, với đời sống ngoài xã hội. Bọn cai tù bắt chúng tôi “học tập” chính sách Nhà nước là đem vợ con lên vùng đất tù đày này cuốc đất trồng khoai sinh sống (như ngoài Bắc đã thực hiện). Tất nhiên chúng tôi không thể làm theo họ. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh đời mình chứ không thể để vợ con đã khốn khổ ngoài đời lại phải gánh thêm cảnh tù đày.

Trong những năm tháng không tên dài dằng dặc như bao thế kỷ sống như cây cỏ, như súc vật, chúng tôi hết cả hy vọng, hết cả chờ mong thì có những tin tức như những làn gió mát mang theo hơi sống tới: tin đồn về chương trình HO, người Mỹ sẽ cứu chúng tôi đem sang Mỹ. Trong thời gian này các con tôi gửi thư cho tôi nói bóng nói gió là 2 hội Văn Bút QuốcTế và ViệtNam đang ráo riết can thiệp vận động cho anh em cầm bút chúng tôi. Và các con tôi cũng báo tin có nhận được “quà” của 2 hội gửi. Thời gian này bọn tù chúng tôi “hồ hởi phấn khởi” lắm. Chỗ nào cũng bàn tán về chương trình HO (mỗi người tán một kiểu toàn có lợi cho mình) với bao hy vọng tốt đẹp. Và chúng tôi cũng hết lời ca ngợi Tổng Thống Carter– vị ân nhân vĩ đại– sẽ lập cầu Không vận đưa chúng tôi từ VN qua Mỹ sống một đời ấm no tự do tươi sáng. Tôi cũng nghe nói tới tên một bà lúc ấy còn rất xa lạ với chúng tôi: bà Khúc Minh Thơ. Biết bao giai thoại đồn đại thêu dệt về bà được dựng lên. Qua câu chuyện và lời bình luận của anh em tù,tôi có cảm tưởng bà Khúc Minh Thơ như một bà tiên đang cầm cây đũa thần giúp chúng tôi từ vực thẳm lên. Rồi ngày tháng tiếp tục lặng lẽ trôi qua, tất cả mọi việc vẫn như cũ không có biến chuyển gì xẩy ra, chúng tôi lại tiếp tục buồn nản thất vọng lê cái thân tù đày mòn mỏi héo hắt trong quốc nạn khổ sai. “Mong nhưng không đợi không chờ” như câu thơ của Giáo sư Vũ Quốc Thông làm và đọc cho tôi nghe.

Sau gần 10 năm thân thể rã rời hư hao chỉ còn bộ da bọc xương, tinh thần suy sụp chán nản chẳng còn gì để mong để chờ và cũng hết cả “cú” tha bất ngờ thì anh Doãn Quốc Sỹ được gọi tên tha, năm sau anh Hồ Văn Đồng rồi thời gian sau nữa là giáo sư Vũ Quốc Thông. Những người này được tha về làm sự hy vọng tưởng tắt ngấm trong chúng tôi lại lóe lên, dù là ở cuối đường hầm mù mịt.

Có lẽ do nguồn từ gia đình ký giả Cao Sơn lên thăm nuôi nói đài VOA vừa loan tin tôi và họa sĩ CHÓE (Nguyễn Hải Chí) hiện bị giam tù ở trại Gia Trung, Pleiku. Thế là ầm cả trại đến nỗi viên quản giáo đội tôi cũng tò mò hỏi anh tù nấu nước có biết tôi không và hiện ở đội nào (vì đài VOA chỉ loan bút hiệu của tôi nên anh ta không biết). Báo hại tôi từ khi có tin này không được tự động đi gánh phân người từ trại ra ngoài đồng nữa, phải về đội cuốc đất chặt cây đào mương như mọi anh em tù khác. Gánh phân tuy có vất vả bẩn thỉu hôi hám mất vệ sinh thật nhưng chỉ nửabuổi là “thanh toán” xong các hố xí. Thời gian còn lại thoải mái xuống suối tắm giặt và đi “va tạt linh tinh” kiếm củ khoai mì hay vài cọng rau lang “cải thiện”cho “ấm” cái bụng thường trực rỗng. Nếu tôi nói đã hơn một lần “tự động” ăn… phân người, có lẽ nhiều người không tin cho là tôi nói quá để kể khổ thân phận tù đày dưới chế độ cộng sản. Lần thứ nhất quãng hơn 10 giờ, tôi vừa đói vừa khát ghé vào chỗ chòi đun nước uống của đội để uống nước. Anh bạn được phân công đun nước, nguyên đại úy cảnh sát quốc gia, vốn quý mến tôi, thấy tôi đến, anh mắt nhìn chỗ khác nhưng miệng nói nhỏ: “Bác đi tới phía bụi cây bên trái”. Tôi biết là “có gì” rồi. Tới nơi nhìn vào trong bụi cây tôi thấy nửa trái dưa chuột nhỏ. Tôi cầm lên bỏ vào miệng nhai liền. Có lẽ trong đời tôi chưa bao giờ ăn miếng dưa chuột ngon đến thế (tôi vốn không thích ăn dưa chuột).Vừa nuốt xong nửa phần dưa chuột tôi chợt nhớ ra, ngừng nhai, tiến lại chỗ anh bạn đun nước, nói: “Này ông ơi, có phải trái dưa này “tẩm” phân người?” Anh bạn gắt nhẹ: “Đã bảo, bác cứ ăn đi, không chết đâu mà sợ!” Nghe anh bạn nói, tôi biết mình đã lỡ ăn rồi (hơn nữa cũng tại đói) nên tiếp tục cố nhai và nuốt nốt phần dưa chuột còn lại. Nguyên do thế này: Trong vườn ươm giống của đội trồng rau có 1 giàn dưa chuột. Khi dưa mới kết trái to hơn ngón tay đã bị tù (và cả cai tù) hái trộm ăn hết nên ban giám thị trại tù ra lệnh lấy phân tươi của người hòa với nước rồi hàng ngày quết vào những trái dưa chuột cho hết bị trộm. Nhưng tù vẫn hái trộm ăn sau khi rửa sơ qua. Thế là lần thứ nhất tôi ăn phân người. Lần thứ hai thì chính do tôi (và mấy ông bạn) chủ động ăn phân người. Tôi và mấy “đồng sự” được “bố trí” dọn phân cầu tiêu các phòng giam. Một số anh em tù hình sự ra ngoài đồng làm việc đã hái và ăn tươi nuốt sống các trái bắp. Vì ăn trộm nên không kịp nhai (sợ cai tù thấy) các bạn tù hình sự cứ thế mà nuốt. Bắp già hạt cứng dạ dầy không tiêu nổi, hôm sau đi cầu ra nguyên cả hạt. Chúng tôi lúc đầu còn sợ bẩn sợ hôi và bệnh nhưng sau khi sôi nổi “bàn thảo”, chúng tôi đi tới việc lấy những hạt bắp này đem ra suối rửa, luộc hai ba lần cho hết mùi hôi rồi ăn một cách ngon lành thoải mái! Nhiều bạn tù biết chuyện cũng xin ăn ké. Tôi được “ấm bụng” ít ngày thì bị “ngưng công tác” (vì tin đài Voa loan)? Đó là hai dấu ấn khủng khiếp trong trại tù cho tới ngày hôm nay, mỗi khi nghĩ tới tôi vẫn không khỏi rùng mình tự hỏi không hiểu sao mình lại có thể “ghê gớm” đến thế!

Còn một chuyện nhỏ nữa mà tôi cũng khó quên. Tôi vốn bị quy kết “học tập cải tạo” xấu, tư tưởng không ổn định và trây lười lao động nên thường xuyên bị ăn 13 ký một tháng (5 ký gạo, 8 ký khoai mì, nhưng bọn cai tù và bọn nhà bếp đồng lõa ăn chặn mất 2 ký gạo nên chỉ còn 3 ký). Trong 7 năm sống ở trại Gia Trung tôi được gia đình “thăm nuôi” có 3 lần. Đáng nhớ nhất là lần hai con tôi (còn vị thành niên: một trai 15 tuổi và một gái 13 tuổi) đi xe đò hơn ngàn cây số lên thăm bố với gói quà khoảng 10 ký. Khi đến cây số 25 (quốc lộ 18) thì xuống xe, lúc đó là 2 giờ đêm. Trời rất lạnh lại ở chốn rừng thưa hoang vắng không biết đường vào trại, hai anh em phải ngồi dựa lưng vào nhau chờ sáng trong lòng vừa sợ vừa lo mọi thứ, nhất là với thú dữ và kẻ cướp.

Sáng hôm sau tôi được gọi thăm nuôi. Tôi cố làm nét mặt lạnh lùng vô cảm để tránh trận nước mắt của 2 con tôi khi nhìn thấy thân thể tiều tụy mòn mỏi hết sinh lực của bố chúng. Như đã viết ở trên vì tôi học tập cải tạo xấu, lao động kém nên chỉ được nhận 2 ký đồ thăm nuôi.Tôi nhìn thấy 1 gói bột trắng khoảng 1 ký,tôi tưởng là bột gạo hoặc bột sữa nên lấy gói này và 1 gói xả xào mắm ruốc vừa đủ 2 ký. Hai con tôi đứng trước cửa nhà thăm nuôi nhìn theo, tôi biết chúng đang khóc nhưng không đủ can đảm quay lại nhìn:tôi sợ không cầm được nước mắt và òa khóc. Tôi nghe tiếng con gái tôi nói trong nước mắt: “Bố ráng giữ gìn sức khỏe để còn sống trở về với các con”. Vào tới buồng tôi mở ngay gói bột ra pha nước vào cái tô nhựa và ngoắng cho tan bột. Bột bị ngoắng sủi bọt lên trắng xóa. Đang đói đang khát tôi đưa lên miệng uống liền một ngụm lớn. Nhưng chất bột vừa trôi vào cổ họng, thấm vào lưỡi đắng chát và nóng rát, không có mùi vị gì có thể gọi là sữa cả, dù là sữa quá “đát”, tôi muốn nôn ọe vội nhổ ra ngay. Thì ra đó là xà bông bột (mà tôi cứ đinh ninh là bột gạo hay bột sữa). Kể lại cho anh em trong trại nghe ai cũng ôm bụng cười. 2 con tôi thật ngây thơ đem xà bông bột cho tù giặt quần áo! Sau này tù về tôi mới biết hai con tôi cũng vô cùng khốn khổ trong chuyến về này. Vì xe đò hết chỗ chật cứng, chủ xe bảo 2 con tôi muốn đi thì lên mui xe mà “nằm”. Bát đắc dĩ chúng phải làm theo. Mấy lần suýt chết khi xe chạy qua những cái “cầu” thấp nhỏ bắc ngang đường, chỉ sơ sẩy một chút là bị vướng gạt ngã xuống đường chỉ có chết, nếu không thì cũng vỡ đầu gẫy chân tay.

Đầu năm 1985 tôi bất thần được gọi tên tha về cùng một số anh em quân nhân. Ngoài tôi không có thêm tên anh bạn văn nghệ sĩ nào. Các anh mừng cho tôi thì ít, lo lắng chán nản thất vọng cho mình thì nhiều. Viên quản giáo trở nên tử tế với tôi, gã chạy vào phòng nói: “Mừng cho anh nhé. Có thuốc men gì cho tớ xin”. Tôi cho gã mấy viên thuốc cảm, gã đòi lấy hết nhưng tôi không cho để cho anh em tù nghèo không thăm nuôi.

Trại tù phát cho chúng tôi 50 đồng tiền đi xe, trong khi giá xe về Saigon 150 đồng. Đi bộ từ trại tù ra tới quốc lộ 25 gần 5 cây số. Chúng tôi phải nài nỉ mãi bà chủ xe đò mới “thông cảm” lấy 50 đồng. Xe đầy nhóc người ì ạch chạy như rùa bò trên con đường vòng vèo dốc núi cheo leo đầy bất trắc, nguy hiểm. Tôi và 3 anh tù đi cùng chuyến xe không một đồng bạc dính túi, phải nhịn đói nhịn khát 2 ngày đêm liền cho tới khi về tới nhà ở Saigon. Một anh có “sáng kiến” đem bộ quần áo tù mới tinh được trại tù phát khi tha, gạ bán cho mấy người trên xe để lấy tiền ăn, nhưng đều bị từ chối vì ai cũng sợ xui khi mặc đồ tù.

Rời nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn sống mấy năm thì “phong trào HO” nở rộ và tên tuổi bà Khúc Minh Thơ được anh em tù về hết lời ca ngợi công đức. Bà là ân nhân của tù cải tạo. Tôi vì nghèo, tiền ăn không có lấy đâu ra vàng đút lót hối lộ để được đi HO. Nhưng nghe theo lời các bạn đồng nghiệp cũ may mắn thoát sang Mỹ trước, viết thư về khuyên tôi cứ đến đường Nguyễn Du nộp đơn kèm theo những giấy tờ can thiệp (từ trước tới nay) của các tổ chức như Hội Văn Bút Quốc Tế,Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Liên Đoàn Ký Giả Quốc Tế, Hội Nhân Quyền..v..v… Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy, 2 lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ 1 cây viết vẫn có thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm trước đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp – một thứ công dân hạng bét – ngay trên quê hương đất nước mình. Nhưng tới cuối năm 1998 tôi được anh bạn nhà văn Hoàng Hải Thủy từ Mỹ gửi thư về báo cho biết tôi và Nhà văn Uyên Thao được bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Bảo Vệ Gia Đình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam đã tận tình can thiệp với Bộ Ngoại Giao Mỹ để chúng tôi được sang Mỹ định cư. Chính Hoàng Hải Thủy sốt sắng giới thiệu 2 chúng tôi với bà Khúc Minh Thơ và cộng tác mật thiết với bà trong công việc vận động. Con đường hy vọng, con đường sống, lại mở rộng trước mắt tôi.

Buổi tối ngày 18 tháng 5 năm 1999 tôi lên máy bay giã biệt quê hương tăm tối sang Mỹ định cư. Tôi lại được sống lại dưới bầu trời tự do dân chủ như tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Tuy nhiên nhiều đêm vẫn giật mình thức giấc vì những ám ảnh não nề thê thảm khốn cùng của những năm tháng tù đày.

Thanh Thương Hoàng.


 

Bài vọng cổ đầu tiên và cuối cùng-Truyen ngan HAY-Phạm Hồng Ân/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

April 26, 2024

Phạm Hồng Ân/SGN

Tôi nhớ căn phòng này anh hai tôi nằm. Tấm màn xanh che ngang, phía trong là chiếc giường chị hai tôi, kề cận… để hai vợ chồng có thể trông nom nhau trong những đêm hôm vắng lặng, nơi khu nursing home cổ kính này.

Tôi nhớ số phòng, tất cả con số cộng lại bằng con 3. Đây là second floor. Vậy chỉ có phòng 201 hay 210 mà thôi. Phòng 201 tôi đã đến rồi.

Đó là phòng có hai ông già Mỹ ốm nhách ốm nhom, vừa thấy tôi bước vô, hai ông đã vội vàng xổ một tràng ho xù xụ để chào mừng. Còn phòng 210 thì là phòng của hai bà già mập ú. Họ cũng giương cặp mắt kèm nhèm ngó tôi trưng trửng, như ngó người hành tinh lạ vừa lạc vào cõi trần ai lai khổ. Tôi gãi đầu, tháo lui, rồi đi ngược ra hành lang, vòng phía cầu thang thoát ra bên ngoài. Đặt đít xuống cái băng gỗ nhơm nhớp cát bụi, tôi kiểm soát lại trí nhớ lem nhem của mình một lần nữa.

Một tháng trước, anh chị hai tôi nằm đây. Một tháng sau – thời gian quá dài, bao nhiêu cuộc đổi thay có thể xảy ra? Biết đâu anh hai tôi nhuốm bệnh nặng phải chuyển đi nơi khác? Biết đâu chị hai tôi đã bình phục, trở về với gia đình? Trong lúc tôi đang phân vân với những nghi vấn nặng nề thì có giọng ca vọng cổ mùi mẫn cất lên, làm đầu óc tôi dịu lại và trái tim bắt đầu se thắt.

“Những thân cây cao là những thân cây chịu nhiều phong ba bão táp, nhưng là những thân cây bám sâu vào đất, bền bỉ trung kiên ngăn gió dữ mưa cuồng”.

Giọng ca của một chàng thanh niên nào đó, phát ra từ phía sân sau nursing home. Giọng ca bất ngờ đã làm tôi xúc động. Không phải vì lời ca hay, cũng không phải vì người ca điêu luyện, mà vì nó kéo tôi trở về một kỷ niệm xót xa, vì bài vọng cổ đó là bài chính tay tôi viết ở trong một trại tù, và chỉ dành riêng cho một người…

Tôi luống cuống mò xuống sân sau, nơi có bóng mát của những hàng cây phơi lá dưới ánh nắng ban trưa. Cậu thanh niên vừa ca vừa đẩy xe lăn cho một ông cụ đi dạo. Tôi chờ cậu dứt câu, liền đưa hai bàn tay lên vỗ vào nhau liên hồi. Ông cụ cũng mỉm cười, vỗ tay phụ họa.

-Hay, hay quá! Giọng ca của cậu làm tôi nhớ đến giọng ca Út Trà Ôn ngày trước.

Cậu thanh niên bẽn lẽn, ngó tôi từ đầu tới chân.

-Cám ơn chú. Ông cụ thích vọng cổ. Con muốn ca cho ông vui vậy mà…

Tôi tiến đến xe lăn chào ông cụ và nắm chặt tay cậu thanh niên.

-Chú thứ sáu. Cứ gọi chú là chú Sáu. Chú muốn hỏi cháu bài ca này ở đâu cháu có vậy? Chú không thấy nó xuất hiện trên đài hoặc trên tivi trong nước và ngoài nước bao giờ?

-Cháu tên Phùng. Làm việc ở đây. Chuyên đẩy các ông cụ bà cụ đi dạo sau giờ cơm. Cháu ca vọng cổ khi nào có ai yêu cầu. Bài ca cháu hát do dượng út của cháu ghi lại. Dượng nói, đó là bài ca “tủ” của người bạn gái vượt biên chung với chú.

Tôi hồi hộp.

-Người bạn gái vượt biên? Bây giờ cô ta ở đâu? Dượng cháu ở đâu? Họ đang định cư nơi San Diego này?

-Không. Cô đó cháu không biết ở đâu. Còn Dượng Út đang sinh sống tại Virginia. Năm nay ổng già, về hưu rồi.

Tôi bám theo Phùng, tiếp tục lần ra manh mối.

-Dượng Út cháu tên gì? Ông ta cũng biết ca vọng cổ?

-Dượng Út tên Hiện. Dượng chỉ là một tay đờn vọng cổ tài tử. Theo ổng kể, tết năm 1976 là cái Tết đầu tiên của người Việt nơi xứ Mỹ. Họ buồn nhớ quê hương quá, nên tụ họp với nhau tổ chức đờn ca xướng hát cho vui. Lúc đó, giới nghệ sĩ cải lương không có ai hết. Chỉ có dượng Út cháu biết đờn và người bạn gái của dượng biết ca. Thế là họ lên sân khấu diễn bài này. Không ngờ bà con cô bác vỗ tay hoan nghinh quá xá.

Biết không thể tìm hiểu thêm được điều gì khác. Tôi tỏ vẻ ái mộ dượng út Phùng để xin số phone ông ta. Trước khi từ giã, tôi không quên hỏi thăm về  tình trạng của anh chị hai tôi. Phùng vui vẻ trả lời, hai ông bà đó được mấy đứa con rước về rồi. Họ khỏe lắm.

Lúc tôi mới tập thả ngụm khói thuốc đầu tiên trong đời, thì Kim Xuyến cũng vừa bỏ trò chơi nhảy cò cò với đám con nít chung xóm để bắt đầu ru em bằng những bài bản vọng cổ mùi mẫn. Kim Xuyến có giọng ca trong vắt, như lưỡi dao sắc, cắt nhè nhẹ trái tim người. Nhà Kim Xuyến kế sát nhà tôi, cách nhau bởi một tấm vách lá mong manh, nên trái tim tôi ngập tràn vết cắt.

Tuy vậy, cả hai chưa bao giờ tự mở miệng làm quen. Nhưng, từ một thần giao cách cảm nào đó, tôi biết hàng ngày Kim Xuyến âm thầm gửi đến tôi những tình cảm thầm kín qua từng câu vọng cổ bi thương não nuột. Niềm im lặng cứ theo thời gian kéo dài, cho đến một ngày tôi chuẩn bị đi lính, Kim Xuyến mới chận đường, thốt lời thăm hỏi.

-Nghe nói anh sắp đi lính, vui quá, em muốn đến chia tay với anh.

Câu nói đầu tiên mà như dao cắt trong lòng. Tôi ngậm ngùi.

-Đi lính, người ta buồn thấy mồ. Sao cô lại nói vui?

Kim Xuyến bụm mặt, cười khúc khích.

-Đi lính vui chớ sao buồn? Được đi đây đi đó, biết chỗ này chỗ nọ. Còn hơn là ngồi một chỗ, như em, chán thấy ông bà ông vải!

-Không sao. Cô muốn vui thì tui vui. Còn bây giờ, cô có nhắn gửi gì không? Sáng sớm, tui sẽ lên xe đi rồi.

Kim Xuyến mân mê tà áo.

-Em biết anh làm thơ nhiều lắm. Thơ anh tặng cho cô này cô nọ ở trong trường, ai cũng đồn um lên. Còn em, chẳng bao giờ thích thơ. Em muốn anh tặng em một bài vọng cổ, kỷ niệm. Anh có dám không?

Kim Xuyến lúng lắng mái tóc dài. Hình như có những sợi tóc thướt tha, theo gió, muốn quấn chặt đời tôi, bắt đầu từ giây phút này.

-Tội chi mà không dám. Nhưng cô ráng chờ. Tôi sẽ đi tìm thầy học nhịp vọng cổ. Sau khi nhuần nhuyễn, sáng tác tặng cô một bài, khỏe re.

Bỗng Kim Xuyến nhào tới, vỗ vào vai tôi nghe cái độp, rồi cắm đầu cắm cổ chạy một hơi.

-Anh nhớ nha! Em chờ bài vọng cổ của anh đó!

Tháng Tư năm 1975, quân Bắc phương tràn xuống, chiếm trọn miền Nam. Những thằng lính còn lại, như tôi, bị đối phương lùa vào các trại tù. Đầu tiên, tôi bị tạm giam ở trại Mỹ Phước Tây. Đó là một đồn lính Địa phương quân của Việt Nam Cộng Hòa, quân Bắc phương trưng dụng biến thành trại tù một cách công khai. Vì là trại tạm giam nên có cả tù quân sự lẫn hình sự, tù nam lẫn tù nữ.

Đêm Mỹ Phước Tây buồn. Chúng tôi ngồi tụ vào nhau hút thuốc, ôn lại kỷ niệm và thầm oán trách cuộc đời. Đêm quá nửa khuya, chúng tôi vẫn chưa ngủ, ly nước trà vẫn chuyền tay nhau, những mẩu tâm sự vụn vặt vẫn tiếp nối trong bóng đen tràn ngập ưu sầu.

Bỗng có tiếng ca vọng cổ cất lên, vang vang một cách ai oán. Tiếng ca đào của một thiếu nữ đang ở trại tạm giam? Tiếng ca trong vắt, như lưỡi dao sắc, cắt nhè nhẹ trái tim tù nhân, khiến anh em chúng tôi ngẩn ngơ, nhìn nhau, rối bời cả gan ruột. Tiếng ca réo rắt xoáy vào ký ức tôi, làm tôi choáng váng, ôm ngực. Hình ảnh Kim Xuyến hiện lên, quay cuồng trong trí. Sáu câu vọng cổ nói lên sự tích Bá Nha Tử Kỳ.

Phải chăng nàng muốn nhắc nhớ đến tấm chân tình năm xưa, đến lời hứa hẹn ngày trước? Phải chăng nàng đang tìm kiếm, trách móc cố nhân đã nhẫn tâm bội ước, bội thề? Chờ cho đến dứt câu số sáu, tôi đưa hai bàn tay lên miệng làm loa, hướng thẳng về phía tiếng hát, la lớn.

-Có phải Kim Xuyến vừa hát không? Có phải không?

Một giọng nói trong trẻo, thân quen, từ phía bên kia vang lên.

-Ừa. Chính em đây. Còn anh, anh là ai vậy?

Tôi mừng quá, la lớn hơn.

-Anh Sáu đây! Em có nhớ không?

-Trời đất! Làm sao quên được. Anh còn nợ em một bài vọng cổ, phải không?

-Tối nay anh sẽ thức suốt đêm để sáng tác sáu câu tặng em. Mai này em sẽ ca bài đó lên cho các anh chị em ở đây nghe nha!

-Anh nói anh nhớ nha! Còn chuyện hát hò là nghề của em. Sẵn sàng.

-Xuyến ơi! Lý do nào em vào trại giam này vậy?

-Thì… giống anh. Đi lính.

-Hả? Đi lính? Đi hồi nào?

-Em mới vào quân trường. Đang học, họ vô “hốt” không còn một mống.

-Bây giờ, em ngủ đi. Ngon giấc nha! Sáng mai xuống nhà bếp lấy nước, anh sẽ qua bên đó gặp em.

-Dạ. Anh cũng ngủ ngon nha!

Đêm đó, tôi thức trắng để sáng tác sáu câu vọng cổ theo lời hứa với  Kim Xuyến. Đêm sau, tất cả trại tù đều không ngủ. Họ đốt thuốc, uống trà… ngồi chờ tiếng hát trong vắt, sắc như dao… xuất hiện. Mảnh trăng lưỡi liềm vừa lên đến ngọn tre, tiếng hát Kim Xuyến chợt trỗi lên, cao vút giữa thinh không.

“… Những thân cây cao là những thân cây chịu nhiều phong ba bão táp, nhưng là những thân cây bám sâu vào đất, bền bỉ trung kiên ngăn gió dữ mưa… cuồng. Trời đất đổi thay vẫn một dạ một lòng. Em muốn đứng ngàn năm nơi góc nhớ, tưởng tiếc từng đồng đội đã ra đi. Nhưng thời gian vẫn là cánh cửa cách ngăn, một ống khóa lạnh lùng và tàn nhẫn. Anh và em hãy cùng phá tung cánh cửa, tháo khóa cách ngăn mới mong nói chuyện xum vầy…”

Bài ca ẩn giấu niềm yêu nước của chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đựợc tiếng hát mượt mà của Kim Xuyến ngân vang khắp trại tù, làm hừng hực ý chí của hàng trăm tù nhân chính trị. Rồi cũng chẳng bao lâu, tới một ngày, chúng tôi bị “xúc” lên các xe nhà binh, mỗi nhóm mỗi ngã, chia nhau đến những trại tù xa xôi khác. Từ đó, tôi không còn gặp Kim Xuyến nữa.

Nhờ số điện thoại của Phùng, tôi liên lạc với Hiện một cách dễ dàng. Hiện hứa sẽ chỉ nơi Kim Xuyến trú ngụ, với điều kiện tôi phải qua Virginia chơi một chuyến. Tôi vội vàng thu xếp công việc, chuẩn bị cho cuộc hành trình đầy thú vị của mình.

Virginia mùa Hè, nắng ấm, phố biển như trải tơ vàng. Hiện sống ở Chesapeake, rất gần Virginia Beach. Mùa này, du khách rất đông. Biển luôn náo nhiệt, ồn ào. Nhà Hiện, đúng là nhà của một nghệ sĩ nòi. Xung quanh tường, anh treo đầy các nhạc khí cổ nhạc. Tôi thấy, nào là: Đờn nguyệt, đờn nhị, đờn tranh, đờn sến, guitare, violin… Ngoài ra, còn có cả sáo trúc, cây cuỗn (nhạc cụ trong hát bội), tỳ bà… Tôi mải mê và tò mò táy máy các nhạc khí, suýt chút nữa đụng vào cây đờn bầu đang nằm khép nép một góc trong phòng khách.

-Anh chơi đờn bầu nữa sao? Tuyệt vậy?

Hiện kéo ghế cho tôi ngồi, rồi châm hai tách trà thơm phức.

-Tôi bắt đầu chơi nó vài năm nay. Độc huyền hợp với tuổi già. Nó chậm rãi, sâu lắng và xót xa. Nó dày vò những hoài niệm.

Tôi nôn nao, tiến sâu vào vấn đề. 38 năm rồi, tôi chưa gặp lại Kim Xuyến. Tôi muốn đối diện nàng ngay, bây giờ, để coi nàng mập hay ốm, tròn hay vuông thế nào?

-Trễ rồi. Anh làm ơn cho số phone hoặc địa chỉ Kim Xuyến. Tôi phải thăm cô ta ngay.

Hiện vói tay lên bàn, quơ chai Cordon Bleu xuống, rót đầy hai ly nhỏ.

-Khoan đã. Làm với tôi vài ly cho ấm bụng, rồi chúng ta cùng đi…

Tôi cầm ly rượu, ực một hơi.

-Anh biết nhiều về Kim Xuyến?

Hiện cầm ly rượu lên, cũng ực một hơi.

-Kim Xuyến trốn trại ở Mỹ Phước Tây và vượt biên ngay. Chúng tôi cùng chuyến thuyền và may mắn được tàu Mỹ vớt đem thẳng về nước. Tôi và nàng quen nhau vì duyên văn nghệ: Nàng ca, tôi đờn. Thế là chúng tôi gắn bó nhau từ đấy. Bài ca đầu tiên nàng hát ở hải ngoại là bài ca anh sáng tác. Rồi đi đâu, nàng cũng hát bài đó. Nàng hát trong các buổi lễ hội, trong dịp Tết, trong các kỳ ra mắt sách, ở khắp nơi – bất cứ nơi nào có cộng đồng người Việt.

-Nàng chỉ trình diễn có một bài ca tôi sao?

-Còn nhiều bài ca khác nữa chứ! Nhưng bài ca anh được mở đầu. Vì bài ca anh gợi lại lòng yêu nước của người Việt tỵ nạn. Tôi cũng thuộc lòng. Những đứa cháu tôi cũng thuộc lòng. Có nhiều người thuộc lòng.

Tôi vội vàng chồm dậy, đi tới đi lui, nóng lòng nhìn đồng hồ.

-Trễ rồi. Tôi van anh, làm ơn cho gặp cô ta.

Hiện đứng lên một cách nặng nhọc.

-OK. Bây giờ chúng ta đi ra biển.

Tôi trợn mắt, ngạc nhiên.

-Ra biển? Sao lại ra biển?

Một dòng nước mắt tự dưng chảy dài xuống má Hiện. Hiện ôm mặt, buồn bã.

-Thì… thì Kim Xuyến ở biển. Người ta đã đem tro cốt nàng rải ngoài khơi. Nàng… mất rồi.

Tôi chới với. Dường như gian phòng của Hiện đang nghiêng ngửa, quay cuồng. Dường như hai đầu gối tôi không thể điều khiển được nữa. Bất ngờ, tôi chợt khụy xuống, một cách yếu ới.

-Hả? Trời ơi! Kim Xuyến mất rồi sao? Mất hồi nào?

-Cách đây năm năm. Nàng lâm trọng bệnh…

Tôi và Hiện mướn du thuyền đâm thẳng ra biển. Tôi bảo tài công cứ chạy ra khơi, chạy đến khi nào thành phố Virginia Beach nhỏ lại bằng cái nắm tay. Chiều xuống mịt mùng. Sóng đẩy sóng, trườn lên nhau, vỗ nát mặt biển. Mũi tàu đập sùng sục trong nước. Khí trời như khói như sương bao phủ xung quanh chúng tôi một màn huyền ảo lạ thường. Trong màn huyền ảo mênh mông đó, tôi trườn ra mũi tàu, phình mắt ngó xuống trùng dương thăm thẳm.

Bỗng tiếng ca trong vắt vang lên từ đáy sâu. Tiếng ca như lưỡi dao sắc cắt nát trái tim người. Tôi vội vàng đưa hai bàn tay lên miệng làm loa, hướng thẳng về phía tiếng ca, la lớn: KIM… XUYẾN, KIM… XUYẾN… Cứ thế, tôi tiếp tục la cho đến khi khàn giọng, tắt tiếng. Phía sau, Hiện đứng sững như tượng đá, nước mắt rớt như mưa, nhạt nhòa khuôn mặt…