Lời Tỏ Tình

Lời Tỏ Tình
Phạm Thành Châu
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam , tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hoà, hiện là cư dân Virginia . Nhà văn Phạm Thành Châu đã cộng tác với các báo Van, Thế Kỷ 21 và có ba tập truyện ngắn đã xuất bản. Nhân vật trong truyện của anh thật tuyệt vời! Họ chung tình quá sức.

***
Sau khi chiếm được nam Việt Nam, năm 1975, Cộng Sản miền Bắc lùa số lớn công chức, quân nhân, đảng viên các đảng phái quốc gia, các nhà tu hành của các tôn giáo miền Nam, ra Bắc “khổ sai biệt xứ”. Liên Xô có Xi-bê-ri thì Việt Nam có vùng núi non Tây Bắc khắc nghiệt, tuy không lạnh bằng Xi-bê-ri nhưng cũng đủ cho tù chết dần.

Chết vì lạnh, vì đói, vì lao động kiệt sức và

vì bịnh mà không có thuốc chữa.
Thông thường, tù phải tự đốn cây, cắt tranh làm lán cho mình ở, phải phá rừng, làm rẫy trồng trọt khoai củ nuôi thân. Nhà nước Cộng Sản không phải tốn phí nuôi tù cải tạo. Ban ngày tù vào rừng lao động, chiều về, vào lán, cán bộ coi tù khóa cửa lại, sáng hôm sau, mở cửa cho tù đi lao động tiếp.
Mấy năm đầu, tù chết quá nhiều nên chính quyền Cộng Sản Việt Nam cho thân nhân tù được gửi thuốc, áo quần (giới hạn) bằng đường bưu điện, về sau được thăm nuôi, nghĩa là được gặp mặt tù và tiếp tế lương thực, mùng mền, thuốc men…giúp tù chịu đựng, tiếp tục khai phá núi rừng và chết chậm hơn.
Trong chuyện nầy, tôi không kể về những sinh hoạt trong nhà tù mà kể về một anh bạn tù nằm cạnh tôi.
Anh Hùng, (nằm cạnh tôi) là người ít nói nhưng thường quan tâm đến người khác. Buổi tối, vào lán, thấy ai có vẻ trầm tư, suy nghĩ, là anh sà đến, nói huyên thuyên những chuyện trên trời dưới đất, chuyện nào cũng khiến người nghe bật cười. Thế là người bạn đó bớt buồn. Khi quay về, anh bảo tôi
– Khá rồi! Lo buồn làm mình suy sụp nhanh nhất.

Nhanh hơn cả bịnh hoạn. Chỉ cần mất ngủ vài ba đêm là không đủ sức gượng dậy.
Ai cũng biết điều đó, nhưng rất khó vượt qua, nhất là những người không được thăm nuôi, thậm chí không nhận được thư của thân nhân gửi vào.

Họ được gọi là “con bà xơ” (nữ tu), ý nói là con hoang trong trại mồ côi do các bà xơ (soeurs) nuôi dưỡng.

Các tù nhân con bà xơ nầy, mỗi khi thấy người nào ra thăm thân nhân, đem đồ tiếp tế vào là họ tránh chỗ khác, tìm những người cùng hoàn cảnh (không có thăm nuôi) mà chuyện trò, ăn mấy củ khoai, củ sắn với nhau. Được tặng thức ăn (thăm nuôi) họ có thể nhận một lần, lần sau thì từ chối.
– Xin cám ơn anh, tôi nhận thì không có gì tặng lại. Anh thông cảm cho tôi. Xin giữ lấy.
Trong tù, chỉ nghĩ đến miếng thịt, cây kẹo cũng đủ chảy nước miếng, vì cơ thể quá cần, nhưng nhận chút thực phẩm của bạn cho, lấy gì trả lại?
Tôi với anh Hùng, may mắn, được vợ thăm nuôi, dù cả năm chỉ được một lần và chỉ được một xách nhỏ. Một gói đường tán đen, gói cá khô, ít đậu và gạo, ít thuốc men, chỉ vậy thôi, vì tiền xe cộ đi hàng nghìn cây số (từ miền Nam ra núi rừng tây bắc), ăn uống dọc đường…hết cả!

Chúng tôi nghèo quá, nhưng vợ chồng gặp mặt nhau là may rồi. Tôi mừng, nhưng anh Hùng lại mừng hơn. Lần thăm nuôi nào anh cũng bảo.
– Đây là lần chót!
Thế nên, mỗi khi được gọi tên ra gặp thân nhân thì anh ngạc nhiên.
– Ai thăm tôi? Bà cụ thì quá yếu, không đi nổi!
Tôi cười bảo.
– Không phải vợ thì ai vào đây?
Theo vợ tôi kể, trong một lá thư gửi cho tôi, chỉ một lần vợ tôi cùng đi thăm nuôi với vợ anh Hùng mà hai người thành bạn thân. Cả hai đều ở trong một con hẻm vùng Đa Kao lại có chồng là bạn nằm cạnh nhau trong tù, cùng hoàn cảnh nên hai người đàn bà thương nhau, thường giúp đỡ nhau trong việc buôn bán mưu sinh.
Vì thấy anh vui hơi quá đáng mỗi khi được thăm nuôi nên tôi tò mò, cố tìm hiểu vì sao? Đúng ra, trong tù không nên biết chuyện gia đình người khác, nếu người đó không tự ý kể ra. Tôi không nhớ mình đã gợi ý cách nào khiến cho anh Hùng kể chuyện vợ con của anh.
Sau đây là câu chuyện theo lời Anh kể.
. . .

– Tôi là con trai độc nhất của bà cụ tôi. Đúng hơn, tôi là độc đinh của cả giòng họ nhà tôi. Nếu mẹ tôi không sinh ra tôi thì coi như họ Hoàng Đắc của tôi tuyệt tự.

Mẹ tôi săn sóc, chăm lo cho tôi, vì tình thương mà cũng vì trách nhiệm bên nhà chồng giao phó, là phải có người thừa tự, lo nhang khói, cúng giỗ để vong linh ông bà, tổ tiên khỏi bơ vơ, thành ma đói, ma khát, vất vưỡng trong cõi u minh.

Thế nên, khi tôi vừa xong tú tài là mẹ tôi lo tìm vợ cho tôi, vì bà sợ tôi vào quân đội, không biết chết lúc nào, sẽ không kịp có con trai để nối dõi tông đường.

Tôi thì không để ý đến chuyện đó. Ngay trong thời đi học, bạn bè yêu cô nầy, cô kia, tôi chỉ biết bài vở và các môn thể thao như đá banh, học võ…
Đến khi thi xong tú tài một, tôi tình nguyện đi sĩ quan Thủ Đức. Mẹ tôi, thời trẻ là đảng viên một đảng phái Quốc Gia, thông hiểu tình hình đất nước, bà cụ bảo tôi “Khi tổ quốc lâm nguy, làm con dân phải có bổn phận cùng với mọi người bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào.

Những tên trốn lính, sống chui, sống nhủi chỉ thêm nhục. Nhưng con phải lấy vợ, sinh con trai để sau nầy lo nhang khói cho ông bà, tổ tiên”.

Mẹ tôi hỏi tôi có để ý cô nào chưa? Tôi thưa rằng “Mẹ xem cô nào vừa ý mẹ thì cưới cho con chứ con không có người yêu”. Mẹ tôi đến nhà các bà bạn, ngắm nghía cô nầy, dọ hỏi cô kia, cuối cùng bà chọn được một cô.

Mẹ tôi nhờ người mai mối, gia đình cô ta đồng ý ngay. Để tôi được gặp cô gái, mẹ tôi mua một ít trái cây, sai tôi đem đến biếu gia đình cô ta.

Hình như cô gái không biết có sự xếp đặt giữa hai gia đình nên cô ta tiếp tôi rất hồn nhiên, vô tư như với bạn bè. Tôi thấy cô cũng xinh, hiền lành, vui vẻ nên về thưa với mẹ tôi rằng “Mẹ thấy vừa ý thì con xin vâng lời”.

Quả thật, cô gái hoàn toàn không biết gì về việc cô sẽ là vợ tôi. Trước ngày tôi vào quân trường, hai gia đình muốn tổ chức lễ hỏi, cưới luôn một lần. Lúc đó, cô gái mới được thông báo. Cô ta phản đối quyết liệt. Hóa ra cô đã có người yêu.
Sau nầy tôi mới biết, người cô yêu là một nhà thơ. Anh chàng có dị tật ở chân nên anh ta khỏi phải đi lính. Nhờ thế anh ta yên tâm vui chơi và ăn bám gia đình.

Hết làm thơ đăng báo tán tỉnh cô nầy, cô kia thì la cà các quán cà phê, quán nhậu. Con gái mới lớn, cô nào cũng mơ mộng. Anh chàng thi sĩ nầy làm thơ ca tụng, tỏ tình với cô vợ tương lai của tôi thì chẳng khác gì bỏ bùa cô ta.

Cô ta yêu mê mệt chàng thi sĩ, quyết cùng chàng “Một túp lều tranh hai quả tim vàng”. Bất ngờ cô bị ép phải lấy tôi làm chồng. Cô tuyên bố thẳng thừng với cha mẹ rằng cô ta sẽ trốn đi với chàng thi sĩ, nếu không trốn được mà bị ép duyên, cô ta sẽ uống thuốc rầy tự tử.

Gia đình cô ta hình như có xích mích gì đó với gia đình “nhà thơ” nên không muốn làm sui gia với họ. Thế nên bà mẹ mới bảo với con gái rằng

“Mầy muốn trốn theo trai thì cứ trốn đi, nhưng không được theo thằng chó chết của nhà đó. Nếu mầy theo nó, thì nhớ ba ngày sau quay về dự đám ma tao.

Còn mầy muốn tự tử thì tao mua cho mầy chai thuốc rầy, nhưng uống nửa chai thôi, để một nửa cho tao. Nuôi mầy khôn lớn để mầy làm nhục cha mẹ…”

Lời tuyên bố đó khiến cô gái không còn lựa chọn nào khác. Thế nên, trước ngày cưới, cô ta hẹn tôi ra một quán nước.
Sáng đó, chúng tôi gặp nhau. Tôi ngồi đối diện. Quán vắng người nên cô ta chẳng cần giữ lời, tấn công tôi ngay “Tôi và anh không hề quen biết nhau, không thù oán nhau, tại sao anh cố tình phá vỡ tình yêu của chúng tôi?

Anh có biết, vợ chồng không có tình yêu mà sống với nhau là sống trong địa ngục không?”
Tôi trả lời “Đây là chuyện hai gia đình với nhau. Cô không bằng lòng lấy tôi thì cứ nói thẳng với ba mẹ cô hoặc nói với mẹ tôi.

Tôi không có ý kiến. Tôi không cần vợ, nhưng mẹ tôi cần có cháu nội trai để nối dõi tông đường.

Tôi sẽ vào quân đội. Chiến tranh rất ác liệt. Đời lính chiến, hành quân liên miên, cưới cô về, được bao nhiêu lần chúng ta gặp nhau?

Để có con, còn khó hơn. Và có thể một ngày, một tuần, một tháng sau đó, tôi tử trận.

Cô sẽ thành quả phụ. Nhanh lắm. Tôi nói sự thật để cô đủ lý do từ chối việc cầu hôn của tôi”

Cô yên lặng lắng nghe. Tôi cũng suy nghĩ, lựa lời một lúc mới nói tiếp

“Nếu bị ép duyên, và nếu không còn con đường nào khác để làm vui lòng cha mẹ cô, cô nên lấy tôi.

Vì sau khi ra trường sĩ quan, tôi sẽ chọn binh chủng tác chiến, tôi sẽ leo lên bàn thờ nhanh lắm. Khi tôi chết rồi, gia đình cô không còn quyền cấm cô về sống với người cô yêu.

Mà dù tôi chưa tử trận, khó khăn của tôi vẫn là phải có con trai cho mẹ tôi an tâm. Tôi đề nghị thế nầy. Sau khi là vợ tôi, dĩ nhiên là tôi đi hành quân, đâu có về nhà thường xuyên được…

Cô cứ hẹn hò với người yêu, miễn sao đừng cho thiên hạ biết, khi nào có bầu, cô ra đơn vị tìm tôi rồi quay về nhà.

Mục đích để hợp thức hóa đứa bé trong bụng cô. Tôi sẽ không ghen tương gì mà mẹ tôi lại mừng vì đã làm tròn bổn phận đối với gia tộc tôi…”

Chưa nghe hết câu, cô chồm qua bàn, thẳng tay tát tôi một tát tai, nảy đom đóm mắt “Tôi cấm anh không được nhục mạ tôi theo lối nói vô học đó. Anh xem tôi là hạng người gì?..”

Rồi cô ôm mặt, gục xuống bàn khóc nức nở. Cô khóc to, như rống lên rồi lấy khăn bịt miệng mình lại để tự kềm chế.

Tôi kinh hoàng, vội qua ngồi cạnh cô, lắp bắp

“Tôi xin lỗi! Tôi xin lỗi! Cô tha thứ cho tôi” Tôi định choàng tay qua vai cô để vỗ về thì cô xô mạnh tôi ra, khiến tôi suýt ngã ngữa. Cô cứ cúi đầu thút thít mãi. Tôi chán nản, nghĩ rằng, tốt nhất về thưa với mẹ tôi rút lui vụ cưới hỏi nầy để khỏi rắc rối, có khi gây oán thù với cô ta và cả người tình của cô nữa.
Tôi đứng lên, đến quày trả tiền. Cô chủ quán hỏi tôi “Có chuyện gì vậy?” Tôi lắc đầu, quay lại bàn nước, ngồi cạnh cô để tránh tia mắt cô đang nhìn đăm đăm phía trước như người xuất hồn.

Tôi nói “Tôi đã hiểu cô, đã biết mối tình của cô. Xin cô yên tâm. Tôi sẽ báo cho mẹ tôi hủy bỏ vụ nầy. Cô được tự do”.

Tôi định đứng lên thì cô ra dấu tôi ngồi xuống. Cô nói mà không nhìn tôi “Anh chẳng có lỗi gì trong chuyện nầy. Gia đình tôi nhất quyết gả tôi cho người khác.

Ai cũng được, ngoại trừ người tôi yêu” Rồi cô quay nhìn tôi, mắt long lên, môi mím lại “Tôi đồng ý lấy anh. Nhưng tôi cho anh biết. Anh chiếm đoạt được trinh tiết của tôi, chiếm đoạt được thân xác tôi nhưng không thể chiếm đoạt được trái tim tôi. Đừng hi vọng tôi sẽ thương yêu anh. Tôi không thù anh, nhưng tôi không thể yêu thương ai ngoài người tôi yêu. Tôi cũng cho anh biết trước rằng, về làm vợ anh, dù đến mãn đời, tôi thề sẽ không bao giờ nói tiếng yêu thương với anh, không bao giờ hôn anh. Mong anh cũng làm như thế”

Tôi giận sôi gan, nhưng cố bình tĩnh “Tôi sẽ giữ lời. Tôi thề sẽ không nói thương yêu với cô, không hôn cô, vì tôi biết chúng ta chẳng hề yêu thương nhau.

Tôi cũng yêu cầu cô nhớ lời thề đó. Sau nầy, nếu tôi tử trận, xin cô đừng giả vờ khóc, vì tôi biết đó là ngày vui của cô, ngày cô được giải thoát để về với người cô yêu.

Không cưới cô thì mẹ tôi cũng tìm một cô khác cho tôi. Từ hôm nay cho đến tuần sau, cô có thể báo cho mẹ tôi biết quyết định của cô.

Mà dù đã là vợ tôi, cô vẫn tự do. Cô có thể gặp người yêu của cô bất cứ lúc nào, chỉ mong cô cố gắng cho mẹ tôi một đứa cháu trai. Xin cô giúp tôi”

Kể đến đấy anh Hùng hỏi tôi “Nếu vào trường hợp tôi, anh sẽ nghĩ sao?

Chúng tôi da~ có ba mặt con với nhau, nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng cô ta còn lưu lại trong gia đình tôi cho đến ngày tôi vô tù như hôm nay”

Anh quay ra sau, lục trong xách nhỏ, lấy ra mấy tấm hình, trao cho tôi “Anh nhìn xem, mấy đứa nhỏ nầy giống ai?” Tôi nhìn và nói ngay “Giống anh chứ giống ai? Con anh phải không? Hai thằng nhỏ nầy là anh em sinh đôi?”

Anh trầm tư “Để tôi dài dòng một chút. Trước khi vào quân trường, tôi cưới vợ. Khi còn đang thụ huấn trong Thủ Đức, được tin vợ sinh, tôi về phép, vào nhà bảo sanh.

Vợ tôi sinh con gái. Tôi ôm đứa bé vào lòng. Lúc đó, tôi không thắc mắc, ai là tác giả của sinh vật bé bỏng đó, nhưng không hiểu sao, tôi thương nó quá. Tôi ngắm nghía nó, hôn nó, thì thầm với nó mà quên cả chung quanh. Lúc đặt con xuống bên cạnh vợ, cô ta nắm lấy bàn tay tôi, nhìn tôi, nước mắt ứa ra.

Cô ta khóc. Tôi hiểu ý nên nói “Xin lỗi! Nhưng tôi thương nó. Lần sau, cố giúp tôi một thằng con trai…”
Tôi ngắt lời anh “Bộ hai người xưng tôi chứ không anh em gì cả sao?” “Cô thì xưng em với tôi, còn tôi, khi chán nản hoặc chỉ có hai người, tôi xưng “tôi” và nói trống không. Khi có người thứ ba thì tôi “anh, em” như vợ chồng bình thường… Sau đó, cô sinh đôi, hai thằng con trai. Khi tôi đi tù thì hai thằng con được gần hai tuổi.
– Hai anh chị thề thốt với nhau rằng sẽ không hôn, không nói tiếng yêu thương với nhau, rồi có giữ lời không?
– Tôi có vợ mà tâm lý không giống những ông khác. Tôi chỉ làm bổn phận. Tôi đâu cần tình yêu mới làm chuyện vợ chồng được. Khi cô ta vừa sinh hai thằng con trai, tôi dự định, hễ hai đứa nhỏ cứng cáp thì tôi sẽ nói với cô rằng muốn li dị thì tôi ký tên ngay để cô được tự do, nhưng tôi chưa kịp nói thì đi tù.

Thế nên, mỗi khi tôi được gọi ra thăm nuôi, anh thường nghe tôi tự hỏi “Ai thăm nuôi mình?” vì tôi cứ đinh ninh là cô ta đã bỏ tôi để về với người tình, để khỏi nuôi mấy đứa nhỏ, khỏi nuôi mẹ tôi, khỏi thăm nuôi tôi.
– Anh có thể nói thật tình cảm của anh đối với vợ anh cho tôi nghe được không? Anh có thương vợ không?
Anh trầm ngâm.
– Chỉ sau nầy, khi tôi vào tù, cô ta không bỏ chúng tôi, lại phải vất vả, bương chải để nuôi sống bao nhiêu người trong gia đình tôi, tôi mới nghĩ rằng cô là vợ tôi.

Nếu chúng tôi có yêu nhau trước đó thì sự hi sinh của cô ta còn có chút ý nghĩa. Đằng nầy…Không ai có thể bắt cô phải cưu mang chúng tôi.

Đó là sự bất công. Trước kia, tôi không màng đến ý nghĩ, tình cảm của vợ tôi. Chúng tôi ít nói chuyện với nhau. Đúng ra là không có dịp. Tôi hành quân liên miên, vài ba tháng về phép một lần.

Hai mươi bốn giờ phép mà gần tối mới về đến nhà, sáng sớm lại phải ra đơn vị. Vả lại, tôi thương các con tôi lắm.

Vừa bước vô nhà, chào mẹ tôi xong là tôi quấn quít với con, hôn hít đứa nầy, bồng ẵm đứa kia, đưa chúng ra đường mua quà, kẹo bánh.

Lần nào về phép tôi cũng ôm con mà cứ nghĩ rằng, đây là lần cuối mình được gần các con. Ra trận, đạn như vãi trấu, bạn bè, đồng đội tôi ngã xuống ngay bên cạnh. Trước sau gì cũng đến lượt mình. Còn vợ tôi, tôi cảm tưởng như giữa hai đứa có một bức tường vô hình ngăn cách, và cô ta, sinh con xong, bồng nó, đưa qua bức tường vô hình đó, trao cho tôi.

Chúng là con tôi. Vì ám ảnh đó mà mọi sự săn sóc, lo lắng của cô dành cho tôi, tôi tưởng như của một cô bạn gái cùng lớp giúp bạn trong một buổi đi chơi chung ngoài trời, vậy thôi.

Mỗi khi tôi về phép, thấy tôi bước vào nhà là cô vội lo nước nôi, khăn tắm, áo quần để sẵn đó rồi chạy ra chợ mua thức ăn, chạy về, chui vào bếp, nấu nướng, dọn lên.

Ăn xong, lại dọn rửa, rồi giặt giũ áo quần cho tôi, phơi phóng, sắp xếp, chuẩn bị mọi thứ trong xách để sáng sớm là tôi chỉ việc đeo lên vai, về đơn vị.

Cô xoay tròn như chong chóng. Tôi thì tắm con, đút cơm cho chúng, rồi chơi đùa, kể chuyện cho chúng nghe, ru chúng ngủ, không màng đến vợ, không nhìn đến mẹ.

Người ngoài nhìn vô, đó là một gia đình bình thường. Mẹ tôi thì vui lắm, cứ khen con dâu ngoan hiền. Bà cụ không biết dĩ vãng của cô, cũng không thấy những đợt sóng ngầm đang kiên trì, thì thầm gọi cô thoát ly.
<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Bây giờ, ở tù kiểu nầy thì chỉ có chết hoặc mục xương trong tù vì chẳng ai biết ngày về. Cái chết đối với thằng lính chiến như tôi thì sá gì, nhưng tôi thương các con quá, chỉ mong được về để lo cho chúng và săn sóc vợ tôi để đền đáp bao khổ nhọc mà cô ta đã phải chịu đựng.
Từ khi nghe anh Hùng kể chuyện gia đình, tôi cũng đâm ra hồi hộp mỗi khi nghe tên anh ta được gọi ra thăm nuôi. Tôi tưởng tượng mẹ anh Hùng hoặc bà cụ nhờ một người nào đó gặp anh và báo tin rằng vợ anh đã bỏ đi lấy chồng rồi.

Nhưng lần nào cũng là chị ta. Lần đầu được giới thiệu là vợ anh Hùng, tôi thấy chị ta, tuy đen và ốm, xác xơ vì sinh kế nhưng còn phảng phất những nét thanh tú và quí phái. Chị ta, thời trẻ, ắt đã làm bao trái tim bọn con trai xao xuyến.
Mỗi lần ra thăm nuôi, anh Hùng, tôi và vài người tù ngồi một bên chiếc bàn dài, đối diện (bên kia bàn) là thân nhân của tù. Đầu bàn có một công an ngồi theo dõi, lắng nghe tù và thân nhân chuyện trò.

Tù chỉ có 15 phút gặp người thân nên ai cũng cố nói thật nhiều, hỏi thật nhiều những điều cần thiết.

Tôi cũng gấp rút chuyện trò với vợ nhưng cũng để ý xem vợ chồng anh Hùng có gì khác thường không? Hình như anh Hùng không nhìn vợ mà hơi cúi xuống vẻ đắn đo, suy nghĩ.

Trái lại chị vợ ngồi nhìn chồng đăm đăm như thôi miên anh ta.
Thông thường, trong lúc gặp gỡ, người vợ để bàn tay bên cạnh cai giỏ quà thăm nuôi, phía khuất tia nhìn của công an, người chồng biết ý sẽ để bàn tay mình lên bàn tay vợ, bóp nhẹ.

Bao nhiêu năm xa cách, chỉ cần chạm nhẹ hai bàn tay với nhau cũng đủ cho vợ chồng ngây ngất, rung động cả thể xác và tâm hồn.

Giây phút đó quí giá hơn bao nhiêu lần ôm ấp nhau mà vợ chồng đã trải qua. Vợ anh Hùng cũng để tay bên giỏ thăm nuôi. Anh Hùng chỉ đụng rất nhẹ vào tay vợ, như vô tình rồi rút tay về. Chị ta vẫn để yên bàn tay và chờ đợi. Anh Hùng lại đụng nhẹ tay vợ lần nữa, rồi lại rút về. Cả hai yên lặng. Rồi hình như anh nói nho nhỏ gì đó với vợ.
Thời gian thăm gặp qua rất nhanh. Lúc chia tay, anh Hùng xách gói quà thăm nuôi đi thẳng mà không ngoái nhìn người thân như các tù nhân khác.
Chúng tôi ở tù trên 10 năm nhưng chỉ ở chung lán trại hơn 3 năm, sau đó bị phân tán đi các trại tù khác. Dù vậy, tình bạn giữa chúng tôi đã như ruột thịt.

Bảy năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau ở trại tù Z 30, Xuân Lộc. Sau đó, chúng tôi cùng ra tù một lần, vào năm 1986.
Chúng tôi, hai thằng tù trung niên mà trông đã hom hem. Tóc đã có sợi bạc, chân tay như những khúc xương khô. Vợ tôi và vợ anh Hùng, sau mười năm vất vả, cũng đã là hai chị nạ dòng đen thui, đầu tóc, áo quần tả tơi vì suốt ngày lê lết đầu đường xó chợ. Hai người mua đi bán lại từng đôi giày cũ, áo quần cũ, răng vàng bạc vụn, đồng hồ hư, radio hư…Nghĩa là ai bán gì cũng mua, ai mua gì cũng có.
Thời bấy giờ, tù về xã hội chỉ làm được các nghề chân tay như đạp xích lô, bán vé số, vá xe đạp…Tôi và anh Hùng, mỗi người một chiếc bàn con, mỗi cạnh hai gang tay, đặt bên lề đường, ngồi bán vé số, kiếm tiền phụ với vợ mua gạo. Lúc đó vợ tôi và vợ anh Hùng mới lấy lại chút bình tĩnh, không còn lo thất sắc mỗi ngày vì lũ con đói.
Đầu thập niên 1990, có chương trình tù cải tạo được đi Mỹ. Gia đình tôi và gia đình anh Hùng đến cùng tiểu bang Virginia nhưng khác thành phố, cách nhau hơn hai giờ lái xe.

Bước chân đến xứ người với hai bàn tay trắng, chúng tôi phải làm gấp đôi người khác, vì lao động chân tay, lương hướng chẳng bao nhiêu. Sáng sớm đã ra khỏi nhà, khuya mới về. Chúng tôi chỉ gọi điện thoại trò chuyện, hỏi han nhau mà thôi.

Tôi không còn để ý đến chuyện xưa của vợ chồng anh Hùng, cũng không bao giờ kể cho vợ tôi nghe. Đàn bà bép xép, một chuyện kỳ lạ như thế thì không bà nào để yên trong bụng được.
Hơn bảy năm ở xứ Mỹ, vài đứa con của gia đình tôi và gia đình anh Hùng đã tốt nghiệp đại học, có việc làm, phụ với cha mẹ lo cho các em nên chúng tôi đã bớt giờ làm việc, có dịp thăm viếng nhau.

Bao nhiêu năm mới gặp lại, thấy anh Hùng khỏe mạnh, hồng hào hơn trước, chị vợ cũng mập tròn, mặt mũi tươi rói, gặp lại vợ tôi như gặp cố nhân, hai người tíu tít hỏi han, chuyện trò vui vẻ. Nơi xứ người bơ vơ nên chúng tôi coi nhau như anh em một nhà.
Đột nhiên, một buổi tối, khoảng mười giờ, điện thoại reo, vợ tôi bắt máy rồi la lên.
– Sao? Chị nói sao? Anh Hùng bị gì mà đưa vô bịnh viện cấp cứu? Chị nói chuyện với ông xã em. Em run quá!
Vợ tôi đưa điện thoại cho tôi.
– A lô! Anh Hùng bị gì vậy chị?
Bên kia đầu giây, giọng vợ anh Hùng hốt hoảng.
– Không hiểu sao. Ăn tối xong ảnh ngồi xem TV. Thình lình, ảnh kêu “Đau đầu quá!” rồi gục xuống bất tỉnh. Em gọi xe cứu thương đến đưa vô bịnh viện. Hiện em đang ở phòng cấp cứu. Ảnh chưa tỉnh. Em rối trí quá! Không biết mình phải làm gì đây?
– Chị báo cho sắp nhỏ biết chưa?
– Dạ rồi. Nhưng đứa gần nhất cũng phải 5 giờ lái xe, đứa ở xa, sáng mai mới đi máy bay về.
– Ảnh không sao đâu. Chị bình tỉnh. Đưa vô bịnh viện là yên tâm.Tụi tôi sẽ đến ngay bây giờ. Lên xe, chúng tôi sẽ nói chuyện sau. Nhớ là phải bình tỉnh. Hai giờ nữa chúng tôi sẽ đến bịnh viện.
Ban đêm, xa lộ 95 không đến nỗi kẹt xe. Từ Richmond hướng về thành phố Falls Church , phía bắc tiểu bang, gần hai giờ, chúng tôi đã có mặt tại bịnh viện. Bịnh viện về đêm thật yên tĩnh. Theo sự hướng dẫn của nhân viên trực, chúng tôi đi rất nhẹ dọc hành lang để tìm phòng hồi sức.
<!–[if !supportLineBreakNewLine]–>
<!–[endif]–>

Anh Hùng nằm trên giường với đủ thứ dây nhợ, ống trợ thở nối với dàn máy sát tường. Một cái máy điện tâm đồ với lằn sóng xanh chạy đều đều, yếu ớt. Chị Hùng quì bên cạnh, nắm tay chồng, thì thầm.
– Anh cố gắng nghe em nói. Em chỉ nói một câu thôi. Em không nói được cho anh nghe thì em đau khổ suốt đời, ân hận suốt đời. Anh có thương em không? Thương em thì nghe em nói. Nghe anh! Tội nghiệp em mà anh…
Chúng tôi đứng bên cạnh mà chị vẫn không hay biết. Vợ tôi cúi xuống vỗ nhẹ vai chị, chị quay lại, đứng lên, ôm vợ tôi, nước mắt trào ra.
– Ảnh không nghe em nói! Ảnh không biết gì nữa. Sao em ngu quá? Không nói khi ảnh còn khỏe mạnh. Mà thình lình, ảnh bị như vầy…
Chị nói lảm nhảm như người mất trí. Vợ tôi không hiểu gì cả nhưng vẫn vỗ về, nhỏ nhẹ.
– Ảnh không sao đâu. Em biết, nhiều người bị như vậy, sẽ tỉnh lại. Chị đừng lo. Bác sĩ nói sao?
– Bác sĩ nói ảnh bị xuất huyết não, đang chuẩn bị, sẽ mổ ngay. Em sợ, người ta mổ rồi ảnh đi luôn. Em mà không nói được cho ảnh nghe, chắc em chết theo để linh hồn em được gặp ảnh, nói mấy lời…
Vợ tôi lại nhìn tôi, không hiểu chuyện gì quan trọng, khẩn cấp đến độ phải nói ra cho người sắp chết nghe. Đáng ra, chính người bịnh mới cần trăn trối trước khi từ giả cõi đời. Vợ tôi, biết rằng chuyện gia đình người ta, không nên tò mò, chỉ trấn an.
– Sáng mai, mổ xong là ảnh tỉnh dậy, sẽ nghe chị nói. Chị yên tâm. Bình tỉnh mà chuẩn bị tinh thần, cầu xin Trời Phật phù hộ ảnh tai qua nạn khỏi.
Nhưng chị ta như không nghe, cứ lảm nhảm.
– Bao yêu thương, săn sóc ảnh giành cho em, em hiểu, em đón nhận, nhưng sao em ngu quá, không nói cho ảnh biết em cũng yêu thương ảnh…
Vợ tôi ngớ ra, tưởng chị điên thật rồi. Vợ chồng yêu thương nhau, đâu cần phải nói ra mới hiểu?

Chỉ mình tôi biết điều đó. Tôi nói với chị ta.
– Xin chị bình tỉnh. Tôi sẽ cố giúp chị xem sao. Tôi với anh Hùng thân thiết còn hơn ruột thịt. Hi vọng, tôi nói ảnh sẽ nghe.
Nhìn điện tâm đồ, thấy những gợn sóng rất yếu ớt, tôi biết, có mổ cũng rất ít hi vọng, nhưng tôi tin, sự sống trong anh ta vẫn còn. Tôi ra dấu cho chị Hùng đến bên cạnh rồi cúi sát tai anh, nói chậm rãi.
– Tôi là Nguyễn văn Chánh, bạn anh đây. Chúng ta ở tù chung, khi còn ở bên Việt Nam , anh còn nhớ không? Anh cố gắng nghe tôi nói, một điều rất quan trọng…

Nếu anh nghe được, anh chấp nhận, xin anh chuyển động mi mắt hoặc con ngươi của mắt anh. Vợ anh đang đứng bên anh đây. Vợ anh nói rằng, chị chỉ yêu thương một người duy nhất trong đời là anh mà thôi. Anh có nghe không, có chấp nhận không?
Mọi người im lặng, chăm chú nhìn đôi mắt đang nhắm nghiền của anh Hùng. Đột nhiên, đôi mi của anh Hùng chuyển động như muốn mở ra rồi nhắm lại.

Tuy rất nhẹ nhưng mọi người đều thấy rõ. Chị Hùng ôm chồng khóc òa lên. Tin rằng anh Hùng có nghe tiếng khóc của vợ nên một lúc sau tôi mới ra dấu cho chị yên lặng, rồi nói vào tai anh Hùng.
– Bây giờ, vợ anh, chị Hùng sẽ nói cho anh nghe. Chị yêu thương anh từ lúc nào. Anh cố gắng nghe vợ anh nói.
Tôi bước lùi cho chị Hùng quì xuống, cúi sát tai chồng và nói, từng tiếng một.
– Anh Hùng. Anh là chồng em. Em yêu thương chỉ một mình anh. Em yêu thương anh từ ngày đầu, từ đêm đầu, từ giây phút đầu em trở thành vợ anh… Em lạy anh. Đừng giận em nghe anh! Xin anh thương em. Em là vợ anh. Tội nghiệp em. Nghe anh!
Nói đến đó thì nghẹn lời, chị đứng lên lùi lại, hai tay để lên ngực, nhưng mắt vẫn không rời đôi mắt chồng. Mọi người nín thở chờ đợi. Rồi đôi con ngươi dưới hai mi mắt nhắm nghiền của anh Hùng chuyển động nhẹ, hướng về phía chị Hùng và dừng lại.

Tôi nói với chị.
– Anh Hùng đã hiểu chị, đã chấp nhận lời yêu thương của chị.
Bỗng chị Hùng lảo đảo, níu tay vợ tôi rồi ngã quị xuống, bất tỉnh.

Vợ tôi đỡ lấy chị, ngồi bệt xuống sàn, ôm chị vào lòng. Tôi bảo vợ.
-Không sao đâu. Bị xúc động mạnh. Để anh đi gọi y tá…
Thật ra, là chị ấy đã trăn trối với chồng.

Phạm Thành Châu

Anh Nguyễn v Thập gởi

Những giấc mơ.

Những giấc mơ.

Cấn Thị Bích Ngọc

” Hay khi người ta đã quá nghèo khổ, quá cơ cực, quá tuyệt vọng thì điều chúng ta băn khoăn nhất không phải là những yêu ghét giận hờn. Vả lại, ở xứ sở này, trong hoàn cảnh chúng tôi, cứ hãy ngu ngơ như cỏ cây, và phẳng lì như phiến đá để tâm hồn được an tịnh hơn là để những suy tư chao động cho lòng thêm chất ngất những niềm đau.”

image

(Viết nhân chuyến đi Đài Bắc, một lần được nghe tâm sự của một cô dâu ViệtNam.)

Có lúc trăng soi dạng lưỡi liềm, nhọn như dao, không khắc vào tim mà lòng vẫn nhói đau. Cũng có lúc trăng chênh chếch như giọt nước mắt khổng lồ thổn thức giữa bầu trời hiu quạnh đen tuyền màu u uẩn. Bao tiếng gió miên man rầm rì giữa hàng cây lá vẫn không làm trăng tươi. Trăng ủ rũ, trăng tư lự, trăng ngẩn ngơ buồn, trăng soi rọi tâm tư lũ con gái chúng tôi.

Tôi nằm bên chồng, nghe tiếng ngáy đều của anh mà thấy lẻ loi, cô độc vô cùng. Chợt thấy thương má, thương mình. Má đã bao nhiêu năm nằm một mình, hẳn má thấy lạnh lẽo, cô đơn trong đêm về tịch mịch. Nhưng còn tôi, hơi thở của chồng xoắn xít quanh đây mà sao sương đêm vẫn hoang lạnh?

Tôi phải tập yêu chồng tôi, vị cứu tinh cho đời sống chật vật của gia đình tôi. Điều này trên lý thuyết cũng không khó lắm. Nhưng trong trái tim ngoan cố của tôi, cho đến bây giờ sự biết ơn vẫn còn rõ nét hơn nỗi rạo rực yêu thương.

image

Tôi như hàng vạn người con gái Việt Nam về quê hương chồng Đài Bắc này để tìm một lối thoát cho cuộc sống vô vọng đã đeo đuổi chúng tôi ngay từ thuở lọt lòng. Quê mẹ nghèo quá, bàn tay mẹ gầy guộc quá, vì thế dù lòng mẹ có thật bao la cũng không giữ được lũ con gái chúng tôi ở lại vùng đất quê hương.

Tôi ra đời sau thời chinh chiến. Nhưng má luôn đăm chiêu thở dài, hòa bình đã về nhưng sao đất nước lại đìu hiu tiêu điều hơn lúc nào hết. Ánh mắt má ngày càng da diết nỗi sầu muộn. Sau ngày thống nhất là ngày hận thù được thăng hoa, ba phải đi vào tù cải tạo. Má là cô giáo một trường tiểu học. Đất nước thanh bình, ai cũng nghèo, người ta cần gạo cơm chứ đâu cần chữ nghĩa nữa. Má như một kẻ thua trận, gồng gánh đưa lũ con về quê ngoại. Má giã từ Sài Gòn nhốn nháo, giã từ dĩ vãng, giã từ cuộc sống an bình ngày xưa. Má tảo tần nuôi con, nuôi chồng. Rồi ba cũng về sau những tháng ngày lao tù học làm người của xã hội chủ nghĩa. Rồi tôi ra đời. Và rồi ba lại ra đi kiếm tìm tự do trên những con tàu chơi vơi. Ba đi tìm tương lai cho cả gia đình, nhưng ba đã không bao giờ trở lại. Ba đã yên nghỉ trong lòng đại dương. Đã không còn phiền não, không còn trầm tư trong đôi mắt ôn nhu ngày nào. Chỉ thương cho Ba, ra đi trước khi được về thăm quê nội ở bên kia bờ Bến Hải. (Tôi đã được nghe chuyện kể về một dòng sông nhỏ nhưng đã có một thời là lằn ranh ngăn cách lãnh thổ độc tài phía Bắc và vùng đất tự do phương Nam). Ba ghé nhân gian ngắn ngủi nhưng để lại nỗi đau dài cho người cô phụ. Nụ cười hiếm hoi trên môi má đã tắt lịm từ ngày ba vĩnh viễn ra đi. Má vượt qua nỗi chết của tâm hồn, gắng gượng sống cho đàn con.

image

Má tôi vẫn mặc cảm, sợ lũ con thất học, cho nên vẫn cố gắng dạy chúng tôi học. Tựa như trong thời buổi gạo châu, củi quế, má bất lực không tìm được thức ăn đưa vào miệng mồm nên để bù lại má ra sức nhồi chữ nghĩa vào đầu chị em tôi. Bây giờ đôi khi nghĩ lại tôi vẫn thầm trách má làm những việc tào lao. Chút vốn liếng sách vở đã không đem được sự no ấm cho gia đình chúng tôi, có chăng chỉ rọi sáng tâm tư khắc khoải, nỗi hoài nghi trong một xứ sở đã thống nhất thanh bình. Nỗi bâng khuâng ngày càng lan tỏa, và cái nghèo túng như những mạng lưới chằng chịt, dù đã vùng vẫy chúng tôi vẫn không tài nào thoát khỏi sự bủa vây của túng quẫn, nhọc nhằn. Chị em tôi bó gối nhìn nhau, nhìn má ngày càng võ vàng vì những cơn bệnh trầm kha không phương tiện chữa trị. Để rồi một ngày, tôi vùng mình đứng dậy, đốt hết những giấc mơ vốn dĩ rất đơn giản đến tội nghiệp của mình, nhắm mắt, khép lòng đi tìm tương lai trong những nơi chốn lạ lùng. Ở đó chúng tôi đã hết là người, đơn thuần là những món hàng, quên hết kiêu hãnh ngượng ngùng, tôi đứng trơ khoe bày tấm thân thể ngà ngọc, danh từ má gọi yêu thương ngày nhỏ. Tại nơi chốn bát nháo đó, nơi mà ranh giới người và vật đã thật mờ nhạt, tôi gặp chồng tôi.

Chồng tôi thoát chết sau một cơn cháy lúc còn bé. Tai nạn này đã để lại những vết tích không xoá được trên gương mặt nhăn nhúm của anh làm cho anh có vẻ dữ dằn, hung tợn.

Cũng may là còn đôi mắt lấp lánh tình người, đôi mắt thật đôn hậu tương phản với nét cau có gây nên bởi những vết sẹo phỏng năm xưa. Cũng may là ngày đầu gặp gỡ, giữa chốn chợ người, anh đã không sờ soạng, nắn bóp tôi cho tôi quên đi cái mặc cảm mình là món hàng biết khóc, biết nói, biết đau, biết tủi.

image

Mãi sau này tôi mới biết tại sao chồng tôi đã chọn ngay tôi gìữa bao nhiêu cô gái khác. Tôi đã biết tại sao anh đã chọn tôi mà không cần vạch mắt, căng miệng tôi ra khám xét như những người đàn ông khác. Tôi không đẹp nhưng tôi có cái may mắn nhang nhác giống cô láng giềng mà anh thầm yêu trộm nhớ ngày xưa. Sau này anh tâm sự, ngay khi chạm mặt tôi lần đầu anh đã giật mình tưởng được tao ngộ cùng cố nhân. Tất nhiên cố nhân đã thật xa ngoài tầm tay với của anh. Tất nhiên, người con gái ngày xưa đã chẳng bao giờ đoái hoài đến cậu thanh niên tật nguyền, dị dạng. Và bây giờ chồng tôi tìm niềm an ủi bên tôi. Đã bao nhiêu lần, tôi vẫn cám ơn thượng đế về sự trùng hợp huyền diệu này. Nó đã cho tôi cơm ăn, áo mặc, tiền thuốc men cho má và một mái gia đình với một người chồng dù dị hình, xấu xí, dù không đồng ngôn ngữ, không đồng quá khứ, dù gia đình chồng nhìn tôi bằng những ánh mắt lãnh đạm, đôi khi rõ nét miệt khinh. Mà có sao đâu những cuộc hôn nhân lệch lạc, má vẫn nói nghĩa vợ chồng bền chặt hơn tình yêu lãng mạn, mong rằng tôi và chồng tôi vẫn sóng bước đồng hành để trong đời sống của tôi không phải chỉ có những mất mát. Tôi nhớ ơn chồng nhưng chưa yêu anh được. Cho đến bây giờ mỗi lần ân ái, tôi vẫn phải nhắm nghiền mắt để che dấu nỗi e dè, ngại ngùng khi khuôn mặt nứt nẻ những vết thẹo dọc ngang của anh thật cận kề. Có lẻ vì chưa yêu nên tôi chẳng hề ghen tuông với người trong mộng của chồng. Hay khi người ta đã quá nghèo khổ, quá cơ cực, quá tuyệt vọng thì điều chúng ta băn khoăn nhất không phải là những yêu ghét giận hờn. Vả lại, ở xứ sở này, trong hoàn cảnh chúng tôi, cứ hãy ngu ngơ như cỏ cây, và phẳng lì như phiến đá để tâm hồn được an tịnh hơn là để những suy tư chao động cho lòng thêm chất ngất những niềm đau.

image

Tuy nhiên cái nghèo đói quá độ cũng có những khuyết điểm của nó. Cái nghèo đã như màn đêm dày dặc chôn kín giấc mơ tươi đẹp thời con gái. Những cánh đóm lập loè trên cánh đồng chết không có đủ sức để thắp sáng những giấc mơ đầu đời. Và những ngọn gió èo uột đã không chở nổi những suy tư của chúng tôi ra khỏi tầm hạn cơm gạo đói no. Hình như vì thế tôi đã đánh mất thói quen mơ mộng, có lẽ như thế lại hay.

Có những buổi chiều ra chợ, tôi thoáng gặp những đồng hương. Những cô gái thất thểu, mỏi mệt lạc lõng giữa rừng người. Tim tôi luôn nao nao nỗi xúc cảm, không phải vì đôi khi phát giác ra những vết tím bầm trên mí mắt vành môi của một hai chị bạn mà là nét đặc thù của nhân dáng Việt Nam trên thành phố Đài Bắc này; những chiếc bóng xiêu xiêu chịu đựng, những ánh mắt thảng thốt, hoang mang và buồn vô tận. Tôi tưởng tượng trong vô vàn cảnh vật, tôi khó mà lẫn lộn được những hình hài tang thương và lẻ loi đó. Các chị nhìn tôi ước ao thèm muốn: chị may mắn, một chồng một vợ. Còn tụi tui không hơn một món hàng hết qua tay người này lại đến tay người khác. Riết rồi không còn biết ai mới thật là chồng…Hay là: kiếp trước tui ở ác, nên bây giờ phải chịu nghiệp quả. Mà thật, tôi đã quá may mắn, tôi không bị đánh đập, không bị chuyền tay từ người đàn ông này qua người đàn ông khác. Nhưng tim tôi vẫn khắc khoải, hồn tôi vẫn cô đơn, tâm tư tôi vẫn chia sẻ niềm tủi nhục của những chị bạn. Có nơi nào trên trái đất tuổi đôi mươi đồng nghĩa với những đường cùng ngõ hẹp như ở quê hương tôi? Tất cả chúng tôi đều ôm ấp một niềm đau, chúng tôi đã không bao giờ có tuổi thanh xuân. Hạnh phúc là một từ trừu tượng, tương lai đồng nghĩa với bấp bênh, vực bẫy. Có ai hiểu những khuấy động trong tâm hồn đã chịu nhiều thương tổn của lũ con gái chúng tôi mà xót xa tội nghiệp?? Chúng tôi thường đọc thấy những nét rẻ khinh trong mắt người bản xứ, tôi thường phân vân tự hỏi mình đã làm gì nên tội ngoài cái tội dám mơ ước thoát cảnh khốn cùng. Chỉ mong sao những người cùng tiếng nói đừng khinh miệt những cánh chim phiêu bạt đáng thương của lũ chúng tôi.

image

Có những chiều nhìn từng đàn chim bay về cuối trời, đôi khi nghe tiếng cánh vỗ chấp chới hai tiếng “về đâu”, “về đâu”; tim tôi rưng rưng khóc. Ở quê nhà tôi cũng nghe tiếng chim kêu trong nắng chiều chập choạng nhưng không thê lương như ở quê chồng. Về đâu, biết đâu mà về. Chúng tôi đã nhận nơi này làm quê hương nhưng tại nơi này biết bao nhiêu thân phận đàn bà Việt Nam đã bị vùi dập. Còn quê nhà tuy không xa tít mịt mờ nhưng như đã khép lối. Tôi nhớ hoài những ngày tuổi nhỏ, bên thân cầu, nhìn đám lục bình lênh đênh giữa dòng sông, lòng cứ thầm hỏi những cánh hoa tim tím này sẽ trôi về đâu. Bây giờ, bâng khuâng nhớ lại những cánh lục bình ngày xưa, tôi chợt ngậm ngùi, số phận mình đã như đám lục bình nổi trôi. Ôi những mảnh đời trôi giạt giữa dòng đời vô tình, biết sẽ ra sao ngày mai.

Thật ra tôi vẫn còn quyến luyến quê hương mình. Một quê hương đã không biết nuôi dưỡng, bảo vệ những người con gái yếu đuối, đa cảm. Để trong đêm về trên thành phố Đài Bắc, có bao tiếng khóc Việt Nam, tỉ tê nức nở, khóc cho mình, cho những giấc mơ sớm bị tàn lụi. Lỗi về ai, trách nhiệm về ai? Trên đất nước với ngọn cờ máu, không ai có can đảm nhận. Và từng đàn thiếu nữ tựa những thiêu thân vẫn cứ ào ạt ra đi như nước tràn thác lũ. Có bao nhiêu thiêu thân đã cháy rụi trong ngọn lửa hững hờ, và có bao nhiêu người được sự may mắn tình cờ như tôi.

Dẫu nhiều cay đắng, dẫu lắm oan khiên, quê hương ta đó, làm sao quên được.

image

Đến một ngày, tôi không có tháng, người uể oải, chếnh choáng với những cơn nôn mửa bất chợt. Rồi giật mình, mình sắp có con. Tôi nhớ mãi cái cảm giác ngất ngây trước những diệu kỳ của đời sống. Lần đầu tiên trong đời, lạc lõng nơi thành phố này, trong tôi có sự kết tạo, có nỗi chờ mong và một tình cảm tuy đang manh nha nhưng đã thật dạt dào, mãnh liệt. Đêm đã thôi âm u trầm mặc, ngày đã bớt lê thê muộn phiền. Tiếng khóc chào đời của con chưa rơi xuống trần, nhưng ước mơ hạnh phúc đã vội vã vươn cao. Ôi cái sinh linh nhỏ bé đang nhỏ từng giọt hồi sinh nhiệm mầu trên tâm hồn héo úa của tôi. Ngọn lửa đã được khơi dậy từ những tàn tro. Tôi đã sống dậy từ bao nỗi chết. Trong tôi bao phác họa muôn màu về một ngày mai khi đứa con bé nhỏ của tôi bước những bước thơ ngây vào đời. Tôi lại bắt đầu nuôi dưỡng những giấc mơ. Rồi từng ngày tháng trôi đi trong háo hức lẫn băn khoăn tư lự. Con chưa mở mắt, nhưng tim đã ấp ủ bao lời tâm sự của má. Quê hương Việt Nam ngàn trùng xa mà những điệu hò ru con đã rất nồng nàn quanh đây. Con sẽ được nuôi dưỡng bằng dòng sữa mẹ, bằng trái tim tha thiết tình hoài hương. Ước ao sao con sẽ yêu thương quê ngoại như má luôn trân trọng nơi chốn má chào đời.

Nếu một ngày nào, theo bước của ba, con về quê ngoại tìm người bạn đời. Con hãy nhìn bằng mắt và bằng tim. Đừng sử dụng đôi tay mà gây vỡ vụn những trái tim mảnh khảnh, nhỏ nhít, đáng thương. Tội lắm cho người con gái. Con có biết sau những nụ cười gần như vô cảm là những tiếng nỉ non, thút thít đến não nề, ai oán. Con có hay sau những thân thể toàn vẹn là những tâm hồn tơi tả với những đắn đo, sợ hãi, tủi hờn bởi quá nhiều giông bão chung quanh.

image

Má ao ước, một ngày con lớn khôn, má để dành được tiền, ta về quê thăm ngoại. Về quê má, con sẽ hỏi tại sao quê ngoại nghèo quá, sao quê ngoại tiêu điều, buồn bã quá. Sao những người quê ngoại mang đôi mắt xa xăm, u hoài, như mắt của má. Má cũng như con đã không bao giờ biết đến một thời trên quê ngoại, mùa giáp hạt cũng là mùa nụ cười nở trên môi mọi người. Tiếng sáo diều dập dìu trên khắp nẻo quê hương, tiếng cười đùa trẻ thơ đã gảy nên những tấu khúc tuyệt vời của làng quê năm cũ, những năm quê ta chưa có ngọn cờ đỏ. Ta có sẽ bao giờ nghe được giọng hò trong thanh trên những cánh đồng thênh thang trĩu nặng bông lúa vàng của những ngày đất nước thật sự thanh bình. Ngày ấy có những thanh niên thiếu nữ sẽ để giấc mơ đầu đời, giấc mộng tình yêu bay bổng vươn cao qua gió ngàn, mênh mang trải trên những cánh đồng bát ngát để thấy tình mình cũng đơm hoa như những cánh đồng ngập lúa. Ôi những giấc mơ no ấm, an hòa bao giờ ta sẽ có…

Lời ngoại kể về quê hương êm đềm của ngày xưa cũ như một chuyện cổ tích. Nhưng má vẫn nuôi niềm mơ ước về một ngày mai quê ta hết nghèo đói cho những người đàn bà Việt Nam không phải thân cò lặn lội đường xa, làm dâu xứ lạ với những ê chề như những người trong thế hệ sinh sau ngày chiến thắng của phương Bắc.

Má sẽ đặt tên con là Sinh, sự Hồi Sinh của niềm hy vọng tưởng đã lụn tắt sau bao gió bão. Má sẽ dạy cho con làm người Việt Nam thật sự, những người sanh ra từ bên này biển Thái Bình với tâm tư chất chứa hồn Quốc Toản, Bắc, Giang. Qua bao đói no thăng trầm, qua bao hệ lụy thử thách, xa quê hương, hướng về quê mẹ, má chợt thấy mình chín chắn trưởng thành, lòng yêu mến quê cha đất tổ trỗi dậy thắm thiết. Hơn bao giờ hết má thấy mình thật gắn bó với quê nhà lận đận.

image

Việt Nam, Việt Nam, quê hương xa xôi quá, còn có bao giờ nhớ đến chúng tôi ? Xin một ngày quê tôi thật sự an bình để những người con Việt Nam có thể trở về nơi đất mẹ. Ngày ấy những giấc mơ sẽ thật sự được trổi mầm, cho trái tim Việt Nam được xanh một màu hy vọng, cho con người Việt Nam được kết sáng những giấc mơ kiêu hãnh. Ngày ấy đêm Đài Bắc sẽ thôi không còn tiếng khóc của những thiếu nữ lạc loài. Ngày ấy chúng tôi thôi hết kiếp luân lưu nhục nhằn.

Xin một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!

Cấn Thị Bích Ngọc

Anh Nguyễn V. Thập gởi

Trải nghiệm kỳ lạ của một bác sỹ sau khi chết

Trải nghiệm kỳ lạ của một bác sỹ sau khi chết

03/01/2011

nguồn: tin 180.com

Trải nghiệm ở bên ngoài thân xác (OBE) và trải nghiệm cận tử (NDE) đã được biết đến từ lâu và vẫn bị tranh cãi, đơn giản bởi giới khoa học chủ lưu không tin là có linh hồn. Tuy nhiên, thật thú vị khi nghe một bác sỹ hàng đầu thế giới nói về trải nghiệm OBE và NDE của chính mình.

Giáo sư Bác sỹ George G. Ritchie (25/9/1923 – 29/10/2007) từng là chủ tịch của Học viện Trị liệu đa khoa Richmond, từng là trưởng khoa Tâm thần học của Bệnh viện Towers, người sáng lập và và chủ tịch Liên Đoàn Thanh niên Thế giới (Universal Youth Corps, inc) trong gần 20 năm. Năm 1967, ông làm bác sỹ tư ở Richmond, và vào năm 1983 ông chuyển đến Anniston, Alabama làm trưởng khoa Tâm thần học tại Trung tâm y tế khu vực Đông Bắc Alabama, Hoa Kỳ. Ông trở về Richmond vào năm 1986 để tiếp tục làm bác sỹ tư cho đến khi nghỉ ngơi vào năm 1992.

Vào tháng 12/1943, George Ritchie đã chết trong một bệnh viện quân đội ở tuổi 20 vì bệnh viêm phổi và đã được đưa vào nhà xác. Nhưng kỳ diệu thay, 9 phút sau ông sống trở lại, và kể về những điều đáng kinh ngạc mà ông đã chứng kiến khi trong trạng thái ở bên ngoài thân xác. Ritchie đã viết về Trải nghiệm cận tử (NDE) của ông trong cuốn sách Trở lại từ ngày mai, đồng tác giả với Elizabeth Sherrill, xuất bản lần đầu năm 1978. Cuốn sách đã được dịch sang 9 thứ tiếng khác nhau.


Trải nghiệm kỳ lạ của một bác sỹ sau khi chết - Tin180.com (Ảnh 2)

Bác sỹ George G. Ritchievà cuốn sách “Được lệnh trở về: Cuộc đời tôi sau khi chết”

Bác sĩ George Ritchie đã kể lại rất chi tiết những gì mà mình đã trải qua trong suốt khoảng thời gian ông chết.

Đó là đầu tháng 12/1943, khi Ritchie được chuyển tới một bệnh viện tại trại Barkeley, Texas, Hoa Kỳ để điều trị bệnh viêm phổi. Ông không biết là mình bệnh nặng tới mức nào. Ông luôn chỉ nghĩ tới việc bình phục cho mau mà lên xe lửa tới Richmond, Virginia để nhập học trường y trong chương trình đào tạo bác sỹ quân y của quân đội. Theo hẹn, vào lúc 4 giờ sáng ngày 20/12, xe quân đội sẽ đến đưa ông ra nhà ga để tới trường.

Trái với mong muốn của ông, bệnh tình của ông không thuyên giảm.

Vào đêm 19/12/1943, bệnh của Ritchie trở nặng. Ông bắt đầu sốt và ho liên tục. Ông lấy gối bịt miệng lại để đỡ làm ồn. 3 giờ sáng ngày 20, Ritchie cố gắng đứng dậy và thay quần áo đợi xe đến. Nhưng ông đã không thể làm được, và bất tỉnh sau đó.

“Khi tôi mở mắt ra, tôi thấy mình đang nằm trong một căn phòng mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Một ngọn lửa nhỏ cháy trong một ngọn đèn ở bên cạnh. Tôi nằm đó một lúc, cố gắng nhớ lại là mình đang ở đâu. Thình lình tôi ngồi bật dậy. Xe lửa! Mình trễ chuyến tàu mất!

Trải nghiệm kỳ lạ của một bác sỹ sau khi chết - Tin180.com (Ảnh 3)
(Ảnh minh họa)

Giờ đây tôi biết rằng những gì mình sắp mô tả sẽ nghe rất lạ thường… tất cả những gì tôi có thể làm là kể lại những sự kiện đêm đó đúng như chúng đã xảy ra. Tôi nhảy ra khỏi giường và tìm bộ đồng phục của tôi khắp phòng. Không có trên thành giường: tôi dừng lại, nhìn chằm chằm. Một người nào đó đang nằm trên cái giường mà tôi vừa mới rời khỏi.

Tôi bước lại gần gường trong ánh sáng lờ mờ, rồi lùi lại. Anh ta đã chết. Hàm răng khép hờ, làn da màu xám thật kinh khủng. Rồi tôi nhìn thấy chiếc nhẫn. Trên bàn tay trái của anh ta là chiếc nhẫn của hội sinh viên Phi Gamma Delta mà tôi đã đeo trong suốt hai năm qua.

Tôi chạy vào đại sảnh, mong muốn thoát khỏi căn phòng bí ẩn đó. Richmond, đó là điều quan trọng nhất – tới Richmond. Tôi bắt đầu xuống đại sảnh để ra cửa bên ngoài.

“Coi chừng!” Tôi hét lên với một người phục vụ trong bệnh viện mà đang rẽ quay sang chỗ tôi. Anh ta dường như không nghe thấy, và một giây sau anh ta đã đi ngang qua chỗ tôi đứng như thể tôi không có ở đó.

Thật lạ lùng. Tôi tới chỗ cánh cửa, đi xuyên qua và phát hiện ra là mình đang tiến về Richmond rất nhanh trong bóng tối bên ngoài. Đang chạy ư? Đang bay ư? Tôi chỉ biết rằng mặt đất tối tăm đang trượt qua trong khi những ý nghĩ khác chiếm lấy tâm trí tôi, những suy nghĩ đáng sợ và khó hiểu. Người phục vụ đã không nhìn thấy mình. Nếu mọi người tại trường y cũng không thể nhìn thấy mình thì sao?

Tôi thấy một con sông rộng, rồi thấy cây cầu dài bắc qua sông để vào một thành phố. Tôi thấy một tiệm giải khát, quán bia và một quán cà phê. Tại đây tôi đã gặp một vài người và hỏi họ tên đường và tên thành phố nhưng chẳng có ai thấy và đáp lời tôi cả. Tôi nhiều lần đập tay lên vai một người khi hỏi nhưng tay tôi như chạm vào khoảng không. Đó là một người có gương mặt tròn và cằm có sợi râu dài. Sau đó tôi đi đến bên một người thợ điện đang loay hoay quấn dây điện thoại vào một bánh xe lớn.

Vô cùng bối rối, tôi dừng lại bên một buồng điện thoại và đặt tay tôi lên sợi dây điện thoại. Ít ra thì sợi dây nằm đó, nhưng bàn tay tôi không thể chạm vào nó. Tôi nhận thấy một điều rõ ràng: tôi đã mất đi xác thân của mình, cái bàn tay mà có thể cầm được sợi dây kia, cái thân thể mà người ta nhìn thấy.

Tôi cũng bắt đầu hiểu ra rằng cái xác trên chiếc giường đó chính là của tôi, không thể hiểu sao lại tách ra khỏi tôi, và việc mà tôi phải làm là phải trở về nhập lại vào nó càng nhanh càng tốt.

Việc tìm đường quay lại khu căn cứ và bệnh viện không có gì khó khăn. Thực sự tôi hầu như trở lại đó ngay tức khắc khi tôi nghĩ đến nó. Nhưng căn phòng nhỏ mà tôi đã rời đi thì ở đâu? Thế là tôi bắt đầu một trong những cuộc tìm kiếm kỳ lạ nhất đời: cuộc tìm kiếm chính mình. Khi tôi chạy từ khu này sang khu khác, đi qua hết phòng này sang phòng khác lúc các bệnh binh đang ngủ – những người lính đều trạc tuổi tôi, tôi nhận ra rằng chúng ta lạ lẫm với chính khuôn mặt của mình như thế nào. Mấy lần tôi dừng lại bên một người mà tôi cứ ngỡ là mình. Nhưng chiếc nhẫn Hội sinh viên không có, và tôi lại vội tìm.

Cuối cùng tôi đi vào một gian phòng nhỏ với ánh sáng lờ mờ. Một tấm khăn trải đã được kéo phủ lên xác người trên giường, nhưng đôi cánh tay của người đó nằm dọc ở bên ngoài. Chiếc nhẫn tôi tìm nằm trên bàn tay trái của thân xác ấy.

Tôi đã cố kéo tấm vải ra nhưng không thể nắm được nó. Và lúc đó là lần đầu tiên tôi nghĩ điều mà đã xảy ra với mình, chính là cái mà nhân loại vẫn gọi là “cái chết”.

Trải nghiệm kỳ lạ của một bác sỹ sau khi chết - Tin180.com (Ảnh 4)

Trong thời khắc tuyệt vọng nhất ấy, căn phòng bỗng sáng rực rỡ, một thứ ánh sáng lạ lùng tôi chưa từng thấy bao giờ, và tôi như bị lôi cuốn theo nguồn ánh sáng ấy. Tôi đã trông thấy những quang cảnh mà từ khi sinh ra cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ được thấy, những cảnh trí mà tôi nghĩ rằng chỉ có ở thế giới bên kia, và tôi không nhìn được rõ các sinh linh ở đó. Có vùng tối tăm u ám, có vùng lại chan hòa ánh sáng vô cùng tươi đẹp với các sinh linh trông như những thiên thần.

Sau đó đột ngột vầng sáng giảm dần, tôi muốn quay về. Trong phút chốc tôi lại thấy những căn phòng, những thân xác bất động trên giường. Tôi tiến tới chiếc giường của thân xác mình. Tôi như bị cuốn hút vào cái thân xác đó. Rồi, từ từ cử động các ngón tay, cuối cùng tôi mở mắt ra. Một lúc sau, một bác sĩ và cô y tá đã ở trước mắt tôi, nét mặt rạng rỡ. Vậy là tôi đã sống lại, đã thật sự hồi sinh…”

Thời đó, thuốc penicilline chưa được phát minh nên việc chữa trị bệnh sưng phổi vô cùng khó khăn, 90 phần trăm người bệnh khó thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Vào buổi sáng ngày 20/12/1943 các bác sĩ ở bệnh viện đã xác nhận rằng George Ritchie đã chết nên người ta chuyển xác ông đến nhà quàn. Tại đây một số thủ tục giấy tờ, giấy khai tử và thủ tục chuẩn bị đưa người chết vào quan tài đã được tiến hành, và người ta chuẩn bị thông báo đi các nơi rằng George Ritchie đã chết. Không ai có thể tưởng tượng được, Ritchie sống lại và mang theo câu chuyện diệu kỳ mà ông trải nghiệm trong giây phút trái tim đã ngừng đập, khi mà mọi dấu hiệu của sự sống không còn.

Những điều George Ritchie kể lại sau khi sống dậy đã làm các bác sĩ trong bệnh viện kinh ngạc. Điều kỳ lạ đáng lưu ý là những gì Ritchie đã kể và ghi chép lại trong tập nhật ký trong 9 phút chết đó về sau đều được chứng minh là có thực.

Một năm sau, Ritchie trở về trại Barkeley và được gởi sang Âu Châu để phục vụ tại một bệnh viện quân y. Trên đường xe đã chở Ritchie đi ngang qua thành phố mà một năm trước trong khi bị coi là đã chết, Ritchie đã tới. Tiệm bán bia, tiệm cà phê, cây cầu dài bắc qua sông, những con đường, những bảng hiệu, cả cái buồng điện thoại năm xưa… tất cả đều có thật trong thực tế. Đó là thành phố Vicksburg thuộc tiểu bang Mississipi, nơi mà chưa bao giờ George Ritchie đặt chân đến.

Trải nghiệm kỳ lạ của một bác sỹ sau khi chết - Tin180.com (Ảnh 7)

George Ritchie sau này trở thành Viện trưởng Viện tâm thần học ở Charlotsville, bang Virginia Hoa Kỳ, và suốt đời ông không thể nào quên rằng mình đã có lần chết đi sống lại, cũng như không thể nào quên các cảnh giới lạ lùng ở bên kia cửa tử.

Giáo sư Bác sỹ George G. Ritchie mất vào ngày 29/10/2007 tại nhà riêng ở Irvington, Virginia, Hoa Kỳ, hưởng thọ 84 tuổi.

“Cái chết chẳng qua là một ô cửa, là một cái gì đó mà bạn bước qua” – George Ritchie

Minh Trí
(tổng hợp)

Cậu bé chờ thư

Cậu bé chờ thư

Những câu chuyện cảm động về cuộc sống

Hồi đó tôi làm giáo sư một trường trung học con trai. Một học sinh tên là Bob, trái hẳn với các bạn, không bao giờ nhận được một bức thư nào cả. Vậy mà buổi chiều nào em cũng mau chân nhất, chạy lại chỗ đặt các hộc riêng chăm chú ngó vào hộc của em cho tới khi thư phát hết rồi mới quay ra.
Không phải là gia đình em quên em đâu. Tiền ăn ở trong trường, tiền tiêu vặt của em vẫn gởi tới đều đều đúng hạn. Tháng sáu, ông Hiệu trưởng nhận được thư xin cho em đi nghỉ ở một trại hè. Thì ra viên thư ký của thân phụ em lãnh nhiệm vụ lo cho em tất cả những chi tiết dó.

Nhưng song thân em không ai viết cho em một bức thư nào cả. Khi em kể lể với tôi rằng ba má em đã ly thân nhau, tôi mới hiểu tất cả nguyên do. Và tội nghiệp em, em vẫn tiếp tục trông thư một cách tuyệt vọng. Tôi thường đem tình cảm sầu thảm của em ra nói với một ông bạn đồng nghiệp, ông Joe Hargrove. ông ấy bảo:
– Nếu em đó ít lâu nữa mà không nhận được bức thư nào cả thì đáng ngại cho em lắm, có thể tai hại.
Thế rồi một bạn học thân nhất của em, tên là Laurent nảy ra một sáng kiến. Laurent ở trong một gia đình hòa thuận, có hạnh phúc, tuần nào cũng nhận được nhiều bức thư của cha mẹ, cả của anh chị em nữa. Một hôm Bob rầu rĩ ngó xấp thư Laurent cấm trong tay. Laurent thấy vậy, bảo ngay:
– Bob, vô trong phòng tôi di, tôi đọc thư của má cho Bob nghe.
Một lát sau tôi thấy hai em ngồi sát nhau cùng bàn tán về bức thư đó. Chiều hôm sau tôi nhận thấy khi phát thư, Bob chẳng những ngó hộc của em mà còn ngó hộc của Laurent nữa. Bob hỏi bạn:
– Lại có thư của má anh nữa hả?
– Không, hôm nay là thư của chị tôi.
Rồi Bob hỏi một bạn khác:
– Anh có thư của má anh không?
– Có !
– Anh cho tôi đọc chung với nhé
? – Ừ! Để tôi đọc lớn tiếng lên nhé!
Từ hôm đó, Bob tha hồ đọc thư của bạn. Khắp tứ phía nhao nhao lên:
– Ê, Bob, hôm nay muốn đọc thư của má không?
Tụi con trai đôi khi có vẻ tàn nhẫn, không giữ ý gì cả, nhưng tuyệt nhiên tôi không thấy một em nào thốt một lời mỉa mai bóng gió hay chế giễu gì em Bob cả. Một hôm tôi kinh ngạc nghe em Bob tự do hỏi ngay Laurent:
– Hôm nay chúng mình có thư không? Như vậy có dễ thương không chứ! Nên thưởng cho các em nhiều kẹo, nhiều bi mới phải ! Laurent mỉm cười đáp liền, không hề do dự: – Có, hôm nay chúng mình có một bức. Chuyện đó làm cho ông Joe Hargrove quyết tâm hành động. Tôi thì tôi cho má em Bob là hạng người ra sao rồi. Nhưng ông Joe đã gặp bà ta nhiều lần, định làm liều xem sao.

Một hôm ông ta lại kiếm tôi, tay cầm sáu bức thư đánh máy và sáu bao thư đề địa chỉ của Bob, dán cò sẵn sàng. ông ta bảo:
– Coi này, tôi gởi cho bà Lennoux đây. Bà ta chỉ cần ký tên: “Má của con” rồi mỗi tuần bỏ một bức vào thùng thư. Tôi đọc những bức thư đó. Viết được lắm, ít bữa sau, Bob cũng lại ngong ngóng đợi ở chỗ đặt các hộc riêng, nhưng chú hết ý vào cái hộc của Laurent. Bỗng học sinh lãnh việc phát thư, la lên:
– Ê, Bob, mày có thư này ! Có thư này! Bob nhẹ nhàng đưa hai tay lên, cử chỉ y hệt một thiên thần đương cầu nguyện, để đỡ lấy bức thư. Em nói ,như thể vẫn chưa tin: – Ờ có tên tôi ngoài bao thư nè! Rồi em la lên:
– A ! Tôi cũng có thư! Tôi cũng có thư! Anh em ơi, có ai muốn đọc thư của tôi không? Những đứa khác cũng vui mừng, đồng thanh la lớn:
– Có ! Có ! Bob, đọc thư của bồ lên, đọc lên? Cuộc phát thư tức thì tạm ngưng lại. Chúng đunBob lên cho đứng trên một cái bàn rồi cả bọn vây chung quanh. Bob ngập ngừng đọc:
– Con cưng của má ! Rồi ngẩng lên nói:
– Tôi không đọc nhanh được ! Laurent bảo:
– Không sao, Bob! Cứ đọc chầm chậm, càng tốt. Đọc chậm mới hiểu rõ từng chữ chớ. Và Bob chậm chạp đọc bức thư đó, lời lẽ âu yếm như bức thư của bất kỳ bà mẹ nào gởi cho con. Tháng sáu, buổi phát phần thưởng, tôi thấy má em Bob lại dự.
Tôi không ngạc nhiên về điều đó vì, sau khi gởi hết mấy bức thư ông Joe viết sẵn cho rồi, bà ta đích thân viết cho con , quả là một phép màu ! Bob đã cho tôi coi bức thư bà báo trước sẽ tới dự buổi lễ. Phát phần thưởng xong, bà ta kéo tôi ra một chỗ, hỏi tôi: – Bà thấy thư tôi viết cho cháu được không?
– Được lắm! Bà ta nói tiếp giọng hơi ngập ngừng:
– Tôi nhờ bà nói về tôi cho cháu Bob nghe…
– Vợ chồng tôi đã hòa thuận với nhau hơn trước, và chúng tôi tính với nhau nghỉ hè này cho cháu về nhà, và… chúng tôi sẽ tìm cách hiểu cháu hơn.
– Xin bà yên tâm, tôi sẽ hết sức giúp bà.
Tôi có cần gì nói thêm rằng không có công việc nào làm cho tôi vui bằng công việc đó không?

Anh chị Thụ & Mai gởi

 

Bộ quần áo cũ.

Sống trong gia đình nên săn sóc cho nhau và tìm hiểu cặn kẽ, đừng vội trách
móc, giận hờn. Thiếu hiểu biết săn sóc kịp thời, là vô tình mình đẩy người
mình thương vào cõi chết sớm hơn, do thiếu tìm hiểu, cảm thông và chăm sóc
muộn màng.

1* Bộ quần áo cũ.
Minh D Sống chung với một ông bố chồng già yếu, bướng bỉnh là
chuyện không dễ. Ông hay than phiền, hỏi những câu không đúng lúc và từ  chối các món ăn cần thiết. Ông hãnh diện về thời trai trẻ, cứ kể đi kể lại  các câu chuyện của thời vàng son. Hồi đó, là chỉ huy trong quân đội…ông  luôn đặt lý trí lên trên tình cảm. Tôi biết ông là người tốt, nhưng có cảm  giác ông sống vì khối óc chứ không vì con tim, thiếu sự thông cảm.

Hôm nay đưa ông đi lễ ở nhà thờ, một lần nữa ông lại mặc bộ đồ vest cũ sờn  rách mang từ Việt Nam sang. Tôi nhẹ nhàng:

-Bố nên thay bộ đồ con mua hôm trước, bộ quần áo này cũ quá.

-Nhưng bố thích mặc bộ này!

Tôi bắt đầu cau có:

-Nhưng mặc như vậy đi chỗ đông người rất kỳ, người ta sẽ nghĩ tụi con bỏ bê  không chăm sóc bố.

Ông già buồn rầu, lập lại:

-Bố thích bộ quần áo này lắm.

Tôi cũng cương quyết:

-Bố nên thay ngay kẻo trễ, con không thấy có lý do gì để bố thích nó.

Ông già trả lời rất gọn ghẽ, chân thành, lâu nay ít khi nào tôi thấy ông
minh mẫn như vậy:

-Chính mẹ đã tặng bố bộ quần áo này để mặc ngày kỷ niệm thành hôn. Khi  chồng con ra trường, bố cũng mặc bộ quần áo này. Ngày đưa mẹ con ra nghĩa  trang, bố cũng mặc bộ đồ này, bố thấy thật vui và xúc động khi mặc nó.

Nước mắt ông già hoen trên mi, rơi xuống gò má nhăn nheo. Tôi hụt hẫng và  hết sức bối rối. Bố chồng tôi sống tình cảm và có lý hơn tôi nghĩ.

Trước khi quyết đoán người nào đó khô khan không có trái tim, tôi nên xét  lại trái tim mình đã.
2* .Bệnh và Lười.

Cũng như các bà vợ khác ở hải ngoại, vợ tui kỳ này làm biếng quá. Đi làm về  là nằm trên giường xem phim bộ, chẳng chịu nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa gì ráo.
Tôi có la, nó ấp úng trả lời:

-Em thấy mệt quá, chẳng làm gì được cả. Nằm nhưng không ngủ được nên mới  bật máy xem phim, chứ không cố ý xem phim.

Con vợ tui chơi chữ ghê, xem mà không xem, nó biện hộ kiểu này ai nghe cho  được.

Tui định bụng hôm nay về mà bếp núc lạnh tanh, sẽ đập tan cái TV ra cho  biết mặt. Về nhà, quả nhiên cơm canh không có, đứa con nhỏ hoảng hốt:

-Ba ơi, anh Hai đưa má vào bệnh viện rồi, má bị xỉu phải cấp cứu.

Tui vội vã vào nhà thương. Người ta đã chẩn bệnh xong. Vợ tui có lẽ bị ung  thư xương. Hèn chi mấy tuần nay nó đau nhức, than thở mà tui nghĩ nó giả bộ  nên không thèm nghe, cũng chẳng đưa đi bác sĩ.

Bệnh ung thư phát mạnh quá, sau vài tuần, bác sĩ cho biết nó không còn ở  với tui được bao lâu nữa. Ung thư ngực thì cắt vú, ung thư xương không biết  cắt ở đâu! Phổi vợ tui cũng có vấn đề, vì bao năm qua phải hửi mùi thuốc lá  tui hút. Tui không dám nói với nó tui đã nghĩ xấu và giận nó không chịu nấu  cơm, dọn dẹp. Cô vợ đầu ấp tay gối bao nhiều năm mà nó đau đớn, bịnh nặng  tui cũng không biết. Vậy mà nó vẫn cố gắng đi làm kiếm tiền, chỉ khi về mới  nằm liệt ra thôi. Tui hối hận quá chừng, trốn vào nhà vệ sinh của bệnh viện  khóc rấm rứt. Thằng Tây đen nhìn tui ái ngại, hỏi tui có OK không. Tui  không biết than thở cùng ai, nên dù tiếng Anh dở ẹt, cũng sổ một tràng. Nó  có vẻ thông cảm nhưng chỉ phán được một tiếng “sorry” rồi đi ra.

Tui trở vào phòng thăm vợ. Mới mấy tuần mà nó ốm nhom xanh lè, tay chân dây  rợ, kim chích chằng chịt. Nó thì thầm:

-Ở đây buồn và ồn quá, em muốn về nhà. Em sẽ nấu món giả cày mà anh thích  đó.

Tui vỗ về:

-Em ráng lo nghỉ ngơi, đừng bận tâm.

Tui ráng nấu mấy món ngon đem vào nhà thương, nhưng nó không ăn được nữa.  Tui lại khóc. Lạ ghê, trước giờ tui rất oai phong, la mắng vợ con mỗi ngày,  uy quyền lắm mà bây giờ mít ướt quá sức …

 

 

Vào cửa quan

Vào cửa quan

Lần đầu tiên làm cái việc đi đút lót mà trên sách báo, văn bản người ta hay gọi là hối lộ, đối với hắn quả là khó khăn. Việc này trước đây hắn thường đùn đẩy cho vợ.

Nhưng hôm qua, vợ hắn bảo:

– Tới đây cái Ly đẻ, em sẽ đi Sài Gòn một thời gian trông con cho vợ chồng nó. Anh phải thay em làm tất cả nên tập lo dần là vừa. Ngày kia, anh đi nộp đơn, em đã chuẩn bị tiền nong đầy đủ.

Hắn ngạc nhiên:

– Đi nộp đơn, lít xăng, chén nước cùng lắm là vài cốc bia, có gì mà phải chuẩn bị.

– Giời ạ. Anh như người trên mây ấy. Bây giờ đi làm cái gì cũng phải có tiền, không thì đừng nghĩ đến chuyện được việc gì.

Hắn vẫn chưa thông:

– Nhà thằng Manh chiếm đất nhà mình, phạm pháp rõ ràng mà kiện nó vẫn phải mất tiền là sao. Tưởng nó muốn giảm tội thì mới phải đút lót chứ?

– Anh chẳng hiểu gì cả. Thằng bị kiện phải đút, thằng đi kiện
cũng phải đút, đứa nào đút nhiều hơn thì mới mong thắng. Đúng sai là ở họ chứ
đâu phải ở pháp luật. Người ta coi luật pháp là cái gì đâu.

Hắn tìm cách thoái thác:

– Anh không đi đâu, ngượng lắm. Người ta làm việc đã được trả lương. Mình làm thế, chẳng hóa ra coi thường người ta, xúc phạm đến nhân phẩm của họ, coi uy tín, danh dự cán bộ nhà nước chỉ bằng mấy triệu đồng sao?

Vợ hắn cáu:

– Chúng nó làm quái gì có nhân phẩm mà xúc phạm. Anh mà biết ngượng thì đừng sống ở cái xã hội này nữa.

Độ này vợ hắn ăn nói bừa bãi quá, mở miệng ra là nói đến tiêu cực xã hội. Hắn đi học, người ta dạy hắn rằng đó là tàn dư của chủ nghĩa tư bản. Thế mới phải trải qua thời kỳ quá độ. Vợ hắn suốt ngày lo chạy chợ rồi chúi đầu vào việc hầu hạ chồng con, làm
sao hiểu được những điều sâu xa ấy.

Từ trước đến nay, bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra làm thiệt hại cho nhà hắn mà toàn do người khác gây nên cả. Vợ chồng hắn gửi đơn từ đi khắp nơi nhưng cuối cùng không cơ quan nào giải quyết. Hỏi riết thì họ trả lời rằng nội dung đơn kiện của nhà hắn “không có cơ sở” hoặc là chuyển đơn về chính cái cơ quan bị nhà hắn kiện để trả lời hắn. Những ai thạo đời thì bảo nhà hắn thua bên kia vì tiền.

Lần này, nhà hắn bị hàng xóm phá tường chiếm mất chục mét vuông đất. Vợ chồng hắn lại phải làm đơn kiện. Chẳng lẽ cứ để cho đứa nào muốn làm gì nhà hắn thì làm.

Hôm đi nộp đơn, vợ hắn dặn dò thật kỹ, còn lường trước tất cả những tình huống
có thể xảy ra. Cô làm sẵn cho hắn mấy cái phong bao mỏng để xử lý ở các cửa.

Hắn tới cổng cơ quan, thấy mở liền dắt xe vào. Một tiếng gọi giật giọng:

– Anh kia! đi đâu?

Hắn giật mình đánh thót:

– Dạ! em vào nộp đơn …

– Đơn gì?

Nhớ đến lời vợ dặn, hắn vội móc ra chiếc phong bì nhét vào túi anh gác cổng. Anh ta chẳng cần đọc xem đơn gì, trả hắn rồi chỉ cho cho hắn lối vào nơi cần nộp đơn tên người cần gặp một cách cặn kẽ.

Hắn nhận chiếc vé gửi xe làm bằng vỏ bao thuốc lá vinataba, rụt tè hỏi:

– Thế để xe ở đâu anh.

Tay gác cổng nhìn cái dáng vẻ ngờ nghệch của hắn, thương hại:

– Anh mới đến lần đầu à. Cứ đi vào, để ở đâu cũng được.

Thế thì tiện, chứ cơ quan rộng mênh mông thế này, đi bộ có mà chết. Xung quanh
lại có tường bao, thật an toàn. Cổng thì đã có bảo vệ kiêm thu tiền. Hắn thấy
nhiều người ra vào nhưng không lấy vé, chắc là người trong cơ quan. Hắn nghĩ:
vậy là cái vé của hắn là vé vào cổng chứ đâu phải là vé gửi xe. Hắn có tự trông
được thì người ta vẫn bắt lấy vé cơ mà. Chẳng lẽ cả cơ quan này là một bãi giữ
xe. Nhưng thôi, đấy là việc của họ, mấy nghìn đồng tiền vé chưa ảnh hưởng gì
đến bát cơm nhà hắn. Hắn đang lo một việc quan trọng hơn nhiều cơ.

Hắn dựng xe trước phòng tiếp dân rồi ngồi chờ. Lúc này có sáu người ngồi ở hàng ghế kê ngoài hành lang. Cửa phòng tiếp dân bịt bằng kính trong suốt nhưng bên trong lại được che bằng rèm màu xanh lơ dìu dịu, cứ mấy phút lại hé cho một người ra để người tiếp theo vào. Kể cũng nhanh. Chừng 30 phút sau thì đến lượt hắn.

Lúc này thì hắn đã có chút kinh nghiệm. Tránh bị quát phủ đầu,
hắn kẹp luôn cái phong bì vào tờ đơn. Cán bộ tiếp dân nhìn đơn đọc tên, địa chỉ
của hắn rồi ghi vào giấy biên nhận. Không thấy anh ta hỏi giấy tờ tùy thân.
“Chắc cái phong bì đã thay cho chứng minh thư” – tự nhiên hắn có ý nghĩ đen tối
thế.

Hắn thăm dò:

– Đơn của em giải quyết có nhanh không ạ?

– Cái đó còn tùy, có thể nhanh, có thể chậm.

Hắn hiểu ý, đặt lên một chiếc phong bì nữa.

Anh ta ra chiều suy nghĩ một lúc:

– Thôi được, đơn của anh tôi sẽ trình ngay. Chắc chỉ trong vòng dăm ngày anh sẽ nhận được giấy mời.

***

Bốn ngày hôm sau thì hắn nhận được giấy mời đến phòng số 21 tầng 2 nhà D3 gặp ông Lưu để giải quyết. Trước khi đi, vợ hắn nhét 300 đô la vào phong bì đưa cho hắn.

Tới nơi, hắn lại bị hỏi y như lần trước. Hắn ranh mãnh:

– Sếp gọi em đến để giải quyết cái đơn hôm trước mà. Chắc anh quên em rồi.

Tay gác cổng nhớ ra, giúi vào tay hắn chiếc vé gửi xe rồi cho hắn vào.

Đến chân cầu thang, hắn gặp thằng Manh, cái thằng đã cướp đất của hắn sáu hôm trước đi xuống. Không  biết nó đi đâu. Chẳng lẽ nó cũng đi kiện hắn, vừa ăn cướp, vừa la làng chăng. Nó nhìn hắn, vẻ mặt vênh váo đầy thách thức. Tất nhiên chẳng đứa nào hỏi đứa nào.

Hắn tới cửa phòng làm việc có gắn số 21, gõ nhẹ hai tiếng rồi đứng chờ.

Một tiếng nói lạnh lùng và đanh gọn:

– Mời vào.

Hắn run run đẩy cửa vào:

– Dạ, chào anh … báo cáo anh, em …

Rồi khúm núm đưa giấy mời ra, lập bập trình bày nội dung sự việc.

Ông cán bộ tên Lưu hỏi:

– Đất nhà anh có sổ đỏ chưa?

– Dạ chưa, nhưng là đất ở lâu năm. Chúng em vẫn đóng thuế nhà đất hàng năm đầy đủ …

Ông ta phẩy tay ra hiệu cho hắn ngừng nói:

– Vấn đề là ở chỗ ấy. Anh chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nghĩa là nhà nước chưa công nhận quyền sử dụng đất cho anh. Thằng kia nó chiếm đất của anh, ai cũng biết. Nhưng về mặt pháp luật, bảo là đất của nhà anh thì không có cơ sở.

“Lại không có cơ sở” – hắn chán nản nghĩ.
Vậy là mình dại rồi. Đúng ra hôm ấy, hắn phải đánh nhau với nhà thằng Manh
không cho nó chiếm đất. Nó có kiện nhà hắn đánh nhà nó thì dựa trên cơ sở nào.
Ai quay phim, chụp ảnh để làm bằng chứng.

Ấy là lúc điên điên lên thì hắn nghĩ thế thôi chứ làm sao mà hắn
dám đi đánh nhau với người khác vì hắn là con người được giáo dục tử tế. Và
chính cái sự tử tế ấy đã hại hắn, làm hắn khốn khổ bao nhiêu rồi.

Sực nhớ ra, hắn rút cái phong bì khẽ khàng đặt lên bàn.

Ông Lưu mở luôn phong bì ra. Đếm xong, ông ta đặt xuống bàn rồi lấy trong ngăn
bàn một cái phong bì khác, rút ra xòe cho hắn xem sáu tờ bạc mệnh giá 100 đô là
Mỹ:

– Của thằng kia đấy. Nó sai nhưng cái lý của nó (ông vỗ ba đầu ngón tay vào cái phong bì của thằng kia) gấp đôi lý của anh (vỗ vào phong bì của hắn). Cái chỗ đất ấy anh bảo của anh nhưng nó cũng cãi là của nó. Thế thì tốt nhất là nên hòa giải, hai bên chia
đôi. Nếu anh đồng ý thì tôi cho gọi cả hai bên đến. Vậy là mỗi bên được một nửa
mà tiền nó lại mất nhiều hơn anh, thế là coi như anh thắng nó. Được cái thuận
cho các anh là hai bên đều biết “giá thị trường”. Nếu phải quay về lấy thêm thì
mất một lần đi lại nữa. Còn nếu anh không nghe, đi kiện đâu thì đơn cũng về đây
thôi. Tôi thấy anh có vẻ thật thà nên tôi cũng nói thật.

Trước khi hắn về, ông ta còn cẩn thận sờ hai túi quần của hắn xem có máy ghi âm, máy ảnh gì không rồi đẩy hắn ra, đóng sập cửa lại.

Hắn khoe với vợ:

– Thắng rồi em ạ. Mà nó lại phải mất nhiều tiền hơn mình. Tưởng
thế nào chứ đút lót cũng dễ. Hết bao nhiêu, người ta nói thẳng, may mà hôm nay
vừa đủ. Nếu thừa chắc họ trả lại. Đỡ phải băn khoăn. Thế mà em cứ dạy anh mãi.

Vợ hắn toe toét:

– Em đã bảo mà. Cái gì cũng có giá của nó. Giá cả rõ ràng như vậy lại hóa hay. Những lần trước mình  thua chỉ tại vì không biết giá. Hóa ra cơ chế bây giờ cũng thoáng thật. Nói toạc, không úp mở.

Rồi cô bắt hắn kể tỉ mỉ diễn biến đưa đến cái chiến thắng hôm nay như thế nào. Nghe hắn kể xong, cô rít lên:

– Giời ơi! thế mà bảo thắng là sao?

Hắn nhớ đến lời phân tích của ông Lưu, liền giải thích lại cho vợ:

– Thì nó được năm mét vuông, mình cũng được năm mét vuông. Mà tiền nó lại mất gấp đôi mình, chả thắng là gì.

– Nó bịp anh rồi. Sao đầu óc anh tối tăm thế. Cả mười mét vuông ấy là đất của mình. Mình sử dụng ổn định từ trước khi có Luật đất đai. Nó chỉ mất sáu trăm đô mà được năm “mét”. Còn mình mất không năm “mét” cho nó lại còn tiền phong bao mấy hôm nay nữa. Vậy thắng ở đâu?

Ừ nhỉ. Tại lúc ấy hắn sợ quá nên không nghĩ ra. Hắn tức lắm. Chợt nhớ tới lời
ông Lưu nói, hắn thách lại vợ:

– Nếu em không nghe thì cứ việc kiện đâu thì kiện. Cuối cùng đơn
cũng về tay ông ta thôi.

Sự thật cay đắng đó không phải là vợ hắn không biết vì chính nhà hắn đã từng nhiều lần gặp phải cũng như biết bao dân oan khác. Nhưng việc hắn nhắc lại lời ông Lưu đã làm cho cô nhụt chí.

Vợ chồng hắn ngao ngán nhìn mảnh đất nhà hắn ngày càng bé đi. Liệu rồi hắn có giữ nổi phần đất còn lại không? Ai là người bênh vực hắn?

Nhưng chờ đến bao giờ?

Hắn chợt nghĩ: ”hay là bán nhà đi chỗ khác ở”. Nhưng hắn vội gạt ngay: đi đâu bây giờ? Tài cán của hắn chỉ cho phép hắn loanh quanh trong biên giới này thôi. Thôi thì đành cố chịu, chờ cho qua cái thời kỳ gọi là quá độ. Nhưng chờ đến bao giờ?

Nguyễn Tường Thuy

Xin cám ơn Anh  Nguyễn văn Triếu gởi

Thằng Khùng – Phùng Quán

Thằng Khùng -Phùng Quán
(Cha chính Nguyễn văn Vinh – Giáo-phận  Hà nội ]
Thằng Khùng (viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân)
“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình
không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính
trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ
cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng
anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều,
do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào
hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể
ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ,
như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng,
tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh
ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười.
Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo
lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ
ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt
chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình
với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều
thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta
viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn
tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi
“thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với
bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh
ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người
chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người
mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai
nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người
chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của
người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp
sơ sài.
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho
người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm
gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên
trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác
người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người
tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc
tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm
hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây
là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu
thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng
úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta
run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…
Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả.
Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu
chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau
đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ
ngợi rất nhiều
về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối
từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho
dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như
than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải
một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác
ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình
phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng
bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước,
hỏi mà đầu không quay lại:
– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây
anh thèm cái gì nhất?
– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ
anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết
viết cũng nên.
– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.
– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với
anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang
ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn
như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu
mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất
chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn
trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng
phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một
người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên
tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt
nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
– Tôi thích nhất là Candide.
– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm
chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình
trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép
lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta
đang đọc thiên truyện Candide
nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ
lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống:
“Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.
– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
– Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả
lời:
– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa .
Rồi anh ta tiếp:
– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần
độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau
mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn
được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn…
– những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong
gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai
hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt,
chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười.
Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè
luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ
rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn
như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên
than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN .
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa
ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo,
tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu
một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan
NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội.  Bài viết của Phùng
Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết
thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa
của Ngài…. Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH, Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
Tấm gương can trường.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc
Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh
về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý
yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis
giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng
viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại
Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở
Limoges .
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.
Ngài học Văn Khoa – Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc
viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài
đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour
Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng
là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển
Đức tại Đan Viện Sainte Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize –
Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài
xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ
Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai
tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế
của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam
xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh
cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe
dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ
Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha
Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh
văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy
Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh
đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn
cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm
Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh,
đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân
Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám
Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau,
và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở
thành đạo đức nhiệt
thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều
người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh
lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng
không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê
cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu
Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng
thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng:
“Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường
Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội
tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới
viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một
nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người
Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên
đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh
trình bày bản hợp tấu “ Ở Dưới Vực Sâu ” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam
do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều
nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,”
“Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh
23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh
Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài
ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà
Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan.
Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ
huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh
Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt
Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long
trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết
đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số
tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người
của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng
dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha
xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ
sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo
chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ
cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết
quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi
chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai
cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:
“Tự do thế này à!”
Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành.
Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét
xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu
trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập
hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ,
gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi
nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi
dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác,
nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế
ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy
tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ngài đáp:
“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải
làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một
bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong
từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý
Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá
nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn
chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ
trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này
xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có
tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ
muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế
Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội
ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông
Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua
một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim,
biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính
quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã
chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài
đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như
khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền,
luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo
Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh
mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP Hà Nội – 2013
BBT (Theo HĐGMVN)
From: Đỗ Tân Hưng

 

Nguyễn Kim Bằng gởi

 

 

ĐI TÌM THÚ VUI ĐIỀN VIÊN !

ĐI TÌM THÚ VUI ĐIỀN VIÊN !

Tràm Cà Mau

Vợ chồng tôi đến Mỹ gần chẵn mười năm. Những lo lắng ban đầu vì sinh kế đã tạm quên. Cũng đã thực hiện được “cái mộng của người Mỹ” là mua được căn nhà khá khang trang. Thêm vào đó, tiền tiết kiệm trong ngân hàng khá dồi dào. Cũng nhờ công sức hai vợ chồng, làm ngày làm đêm, làm không quản ngại khó khăn, không ngại thứ bảy, chủ nhật, đêm khuya, cứ có việc là có làm, có tiền là có chúng tôi. Chúng tôi chưa biết chê làm việc phụ trội bao giờ. Một hôm chủ nhật rảnh rang, thức dậy muộn, còn nằm trên giường, hai vợ chồng nằm gác chân nói chuyện tầm phào. Vợ tôi hỏi:

“Anh có nhớ câu: ‘Một mai một cuôc, một cần câu” của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm hay của ông Nguyễn Khuyến? Câu nầy tác giả muôn nói gì anh nhớ không?”

Được một người nguyên là giáo sư Việt văn các lớp thi Tú Tài hỏi về văn chương, tôi cũng khoái chí, làm bộ hiểu biết, trả lời:

“Ông Nguyễn Khuyến hay Nguyễn Bỉnh Khiêm, không cần phải nhớ ai là tác giả làm chi cho mệt, cứ nhớ là ông Nguyễn thôi cũng đủ rồi. Câu thơ ca ngợi cái thú thanh nhàn khi sống nơi thôn dã.”

Vợ tôi nói tiếp:

“Ngày xưa, anh thường nói với em về giấc mơ khi đất nước hết chiến tranh. Chúng mình sẽ về quê, mua mấy mẫu ruông vườn, và vui thú điền viên. Sống đời thanh thản hạnh phúc. Anh còn nhớ không?”

“Ừ, thì nhớ chứ. Giấc mơ ấp ủ suốt một thời niên thiếu mà. Tiếc thay, sau khi hết mùa chinh chiến, thì đến mùa tù tội. Mà không tù tội, thì cũng không thể nào vui thú điền viên được trong cái xã hội vô cùng kỳ lạ, vô cùng gò ép con người đó. Nghĩ cũng tiếc.”

Vợ tôi nắm chặt tay tôi, nói với giọng tha thiết:

… Bây giờ mình muốn vui thú điền viên cũng đâu có muộn. Cái mộng anh ấp ủ ngày xưa có thể trở thành sự thực dễ dàng. Hay là mình bán nhà, mua một nông trại, lấy hết tiền tiết kiệm ra đầu tư vào chăn nuôi, trồng trọt. Nuôi các thứ gà vịt thả trong vườn, bán cho đồng hương Việt nam mình, trồng các thứ rau ráng mà người Mỹ không sản xuất như rau muống, bí bầu, bạc hà, tần ô, rau răm, rau thơm vân vân, chiếm luôn độc quyền cung cấp cho thị trường. Và gởi máy bay chuyển hàng lên miền đông bắc, tây bắc nước Mỹ mà bán. Không chừng mau phát đạt, mà lại nhàn nhã, có cơ sở vững chắc cho con cái sau nầy tiếp nối.”

Nghe thì khoái, nhưng tôi thở dài:

“Em nghĩ cũng hay lắm. Nhưng anh tiếc công việc đang làm hiện tại. Lương bỗng cũng khá. Công việc làm đã quen. Mình trở thành chuyên viên rồi. Bỏ đi cũng uổng. Vã lại, công việc em đang làm cũng khá bền vững. Bỏ cái bền vững, đi tìm cái bấp bênh, anh cũng hơi ngại.”

Vợ tôi cũng thở dài, tiếng thở dài dài hơn và não nề hơn:

“Công ty em đang làm, cũng chuẩn bị dọn qua một xứ Nam Mỹ, có nhân công rẻ hơn, để cứu vản tình trạng thua lỗ từ mấy năm nay. Em chưa nói với anh, vì ngại anh lo.”

Tôi hỏi vợ:

“Ai bày cho em cái kế hoạch lui về làm nông trại, vui thú điền viên nầy? Em đã nghĩ kỹ chưa, và có chương trình kế hoạch gì trong đầu chưa?”

Vợ tôi trả tời tự nhiên:

“Không ai bày cả. Cách đây mấy tháng, một đêm mất ngủ, em bật truyền hình lên . Xem một phim kể về đời sống ở nông trại thời xưa. Sao mà thanh bình hạnh phúc như trong mộng. Đời sống dễ thương quá. Và những lần đi chợ Á Đông, em thấy họ bán rau muống, rau màu Việt Nam đắt như vàng. Bán khoai mì đắt như sâm nhung. Em nghĩ mình có một nông trại sản xuất ra các thứ hiếm hoi nầy mà cung cấp cho các chợ, thì có thể hốt tiền thiên hạ như hốt lá. Anh xem, những lần tiệc tùng họp bạn, mà có thịt gà tươi “chạy bộ”, ai ăn cũng khen rối rít, xít xoa. Đó là chưa kể mình nuôi vịt bán cho thiên hạ làm tiết canh. Mình cứ đánh đúng vào thị hiếu của họ, thì mặc sức mà hái ra tiền. Chỉ một thời gian ngắn thôi, là hai vợ chồng mình thanh nhàn sung sướng, thong thả, và khi đó thì có thể khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chứ không làm việc túi bụi như bây giờ“.

Nghe vợ vẽ vời hay quá, cái lãng mạn đã ngủ yên trong tôi bỗng dưng thức giấc xao xuyến. Thanh nhàn, sung  ướng, ai mà không ưa, họa là khờ. Và lại còn khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên, chao ôi, đẹp quá chừng. Dù khoái tai với cái mông tưởng của vợ, tôi cũng thử vợ tôi thêm:

“Em cũng biết, nhà anh suốt mấy đời chưa hề làm nông, chưa ai cầm đến cái cuốc, cái cày. Ông nội anh là nhà nho thất chí, suốt một đời mang áo dài the, cắp cái dù đi lang thang nhà bạn bè bàn chuyện cần vương hưng quốc, ba anh thì là nhà giáo, anh suốt đời cầm bút làm việc trong văn phòng, có biết chi về canh nông, về chăn nuôi, mà dấn thân vào đó.”

Vợ tôi hăng hái thuyết phục thêm:

“Anh cũng đã từng bị đi tù cải tạo, học tập lao động mấy năm, cũng đã cuốc đất trồng khoai, cũng có chút kinh nghiệm phần nào rồi chứ. Việc nào rồi cũng quen đi. Anh xem, ngày mới qua Mỹ, mình đâu có biết việc gì, mà rồi việc gì khó khăn đến đâu, cũng làm được cả. Đi qua biển với ngàn hiểm nguy như thế, còn làm được, thì việc gì mà không làm được?”

“Nầy, sao cái luận điệu của em hao hao giống luân điệu của những kẽ tự xưng là nhân dân anh hùng, họ thường bảo rằng vượt Trường Sơn đánh Mỹ còn được, thì việc gì mà không làm được. Anh nói thêm cho em rõ, học tập lao động trong trại tù, là học được cái trây lười, cái làm cho có. Và nếu lao động như thế để kiếm ăn, thì đói cho vẫu mỏ ra.”

Cứ thế, vợ tôi nhẹ nhàng
thuyết phục tôi về một cuộc đời vui thú điền viên, về cái hạnh phúc đơn sơ
trong thanh nhàn, cái an bình trong tâm tưởng, được làm chủ lấy mình, không tùy
thuộc vào công ăn việc làm của người khác, không lo kinh tế nay lên mai xuống,
bấp bênh sụt trồi.

Thấy vợ tha thiết với nông
trại, mà những vẽ vời của nàng cũng đẹp thật, tôi cũng muốn làm vui lòng vợ một
lần. Vợ tôi đã khổ, đã chịu nhiều cay đắng trong đời khi chồng đi tù, khi chồng
tù về, và đã theo tôi đi qua bao đoạn đường chông gai khó khăn của cuộc đời. Mơ
ước của vợ tôi về cuộc sống nông trại, cũng rất chính đáng. Tôi bằng lòng bán
nhà, mua đất làm ăn.

Chưa bán được nhà, mà chúng
tôi đã được mấy ông hành nghề địa ốc lôi chạy. Chạy đôn chạy đáo theo mấy ông
từ vùng nầy, qua vùng kia, để xem đất, để xem các bảng tính toán lỗ lời do các
ông đưa ra. Hình như cuộc đất nào cũng tốt, cũng đem lại một tỉ suất lời cao.
Cuối cùng, chúng tôi cũng mua được một sở đất năm mẫu, cách thành phố Dalas bảy mươi dặm về hướng bắc. Lái xe chừng hơn một giờ thì đến thấu.

Năm mẫu đất nằm giữa đồng
không mông quạnh, gió thổi vun vút, mùa hè bụi lốc xoáy mù. Chủ đất và người
hành nghề địa ốc dẫn tôi đi, lội cỏ lút đầu gối để chỉ các cột mốc ranh giới.
Tôi và vợ đi theo, mà thở hồng hộc, vấp té mấy lần.

Học theo các chủ nông trại
đi trước, chúng tôi mua một căn nhà tiền chế có ba phòng ngủ, hai phòng tắm và
thuê xe kéo về đặt trên thửa đất. Căn nhà trông bên ngoài cũng rất mỹ thuật,
đẹp đẻ. Phòng ốc bên trong xếp đặt rất hợp lý và sáng sủa. Ngồi trong nhà,
không có cảm giác chi là căn nhà tiền chế. Vợ tôi khen, căn nhà nầy còn mới, và
rộng không thua chi căn nhà cũ của chúng tôi. Nhìn cái xe của hãng sản xuất nhà
tiền chế kéo cái nhà về đặt trên sở đất mà ngán. Cái nhà dài lòng thòng, và
rộng bề ngang, kéo đi choán hết bề rộng mặt đường. Hãng phải xin giấy phép đặc
biệt để kéo đi. Cái nhà về đến trước đường cái, chiếc xe từ từ nhích vào nơi
chúng tôi muốn đặt căn nhà, mới chạy được một đoạn ngắn, thì bánh xe lún xuống
đất bùn nhão nhẹt và quay tít. Lui không được mà tiến cũng không xong, tiếng
máy xe gầm lên từng hồi như con thú bị thương. Thì ra vì trời mưa suốt tuần
trước, làm đất mềm và nhão, không đủ sức cho bánh xe cán lên. Ông tài xế râu
ria xồm xoàm và ăn mặc áo da, giống như mấy tay găng tơ trong phim xi nê nhảy
xuống xe và chữi thề om xòm, làm như chính tôi là thủ phạm làm xe ông mắc lầy.
Tôi lãng ra nơi khác, không muốn thấy cái thái độ thiếu lịch sự của gã. Ông đòi
mượn ván gỗ để chêm bánh xe, tôi làm sao có được, y chạy lui chạy tới như gà
mắc đẻ, rồi hét lớn;

“Tại sao không cho biết đất còn mềm, bây giờ làm sao mà lui ra đây?”

“Tôi làm sao mà biết được đất cứng hay mềm mà nói? Đâu phải là chuyện của tôi?”

“Thế thì cái nhà nầy của ai đây? Không phải của anh chắc?”

Ông tài xế lên xe, dùng điện
thoại kêu về công ty và ngồi chờ. Chừng hơn một giờ sau, có chiếc xe khác tới
phụ, lôi chiếc xe bị lún bùn ra. Cái nhà bị đẩy giật tới, giật lui, lúc lắc.
Cuối cùng, cái nhà được tạm thời hạ xuống bên đường lề đường, và lấn ra, choán
gần hết mặt lộ. Cái nhà nằm khơi khơi trên con đường trông rất chướng mắt. Ông
tài xế bảo tôi:

“Cứ để tạm đó, chờ khi nào đất khô rồi kéo vào.”

Tôi vô cùng bối rối. Cái nhà choán mặt đường, xe cộ ngược chiều đi qua không thấy nhau, và phải nhường cho nhau đi qua trong một phần nhỏ hẹp của lòng đường còn lại. Mà chẳng có bảng hiệu, bảng thông báo trước để xe chuẩn bị mà tránh nhau.

“Thế thì bao giờ cái nhà mới được đem vào bên trong” Tôi lo ngại hỏi anh tài xế.

“Không biết. Chờ”

“Để ngoài đường như thế nầy rất nguy hiểm cho người lái xe. Lỡ họ tông hư nhà thì làm sao”

“Anh không phải lo” Ông tài xế trả lời tôi như nói với đứa con nít…

Không biết làm gì hơn, tôi
cùng vợ lái xe về, mà trong lòng không yên. Hôm sau, chúng tôi đến lại cuộc
đất, thì thấy cảnh sát đã gài giấy phạt, và hăm phạt tăng nhiều lần nếu còn để
cái nhà choán đường lưu thông. Tôi đem giấy phạt về công ty bán nhà và than phiền
với hãng. Ông chủ hãng nầy không tiếp tôi, mà giao cho người khác giải quyết.
Anh chàng nầy nói năng rất từ tốn, bảo là hãng sẽ giải quyết ngay, đừng lo. Thế
nhưng cả tuần sau, cái nhà mới được đưa đúng vào vị trí mong muốn. Tôi tưởng
đặt nhà là ở được. Nhưng không. Đi tiêu đi tiểu và nước thải đổ vào đâu? Không
lẽ lấy cuốc đào chút đất trong vườn, sau khi đi tiêu, lấp lại như ở nhà quê
sao? Thế là phải chạy đi mua cái hầm tiêu tự hoại. Mua thì dễ, mà giấy phép đặt
hầm cầu, thì có những chi tiết kỹ thuật bắt buộc phải cung cấp cho văn phòng
quận. Lại mất thêm tiên cho công ty kỹ thuật lập hồ sơ. Cái nhà tiền chế bị
dịch lui dịch tới nhiều lân, làm gảy các ống nhựa bắt sẵn bên trong, cho nên
khi nối đường nước vào, thì nước chảy tung tóe. Ướt hết từ trong ra ngoài. Tôi
đứng nhìn mà ngao ngán. Phải chờ thêm mấy ngày để chờ thợ ống nước đến sửa
chửa.

Khi tôi đến công ty điện,
công ty nước để xin nối điện, nối nước vào nhà, tôi mới giật mình thấy cái bảng
ước tính chi phí bắt điện, bắt nước. Nhà tôi xa đường dây điện chính, phải
trồng thêm nhiều trụ điện khác, mới chạy được đường dây vào. Tôi phải chịu phí
tổn đó. Không ai nói trước cho tôi điều nầy. Dù chi phí cao đến mấy, tôi cũng
phải cắn răng mà ký tên vào tờ giao kèo, thỏa thuận. Không lẻ phải mua máy điện
riêng, lôi thôi chịu chi nỗi. Đã đâm lao thì phải theo lao, chứ làm sao bây
giờ. Đường nước, thì tôi may mắn hơn, nước đã đến cách cuộc đất chúng tôi không
xa lắm, nhưng cũng phải chi tiêu khá nhiều để chuyển nước từ ống chính vào.
Công ty nước đào đất, chuyển ống đến đồng hồ mà thôi, sau đồng hồ nước là mình
phải tự lo lấy. Thợ ống nước tính tiền ngọt lắm, đào xới, lắp ráp, sửa chửa,
chút chút là đòi bạc trăm, bạc ngàn, mình không có dụng cụ, và không có kinh
nghiệm, nên cứ cắn răng mà trả, có kêu ca cũng vô ích. Tôi đứng quan sát các
anh thợ, để học lóm nghề, thì ra cũng dễ dàng như chơi. Chịu khó mua một ít
dụng cụ, thì cũng có thể tự làm được. Nhờ học lóm, mà sau nầy, tôi tự chạy
đường nước tưới cây trong vườn.

Bốn góc nhà, tôi bắt thêm
bốn vòi nước, để dễ câu ra vườn. Đất mùa mưa nhão nhẹt, không chạy xe vào nhà
được, tôi kêu xe đổ sạn trắng, làm thành một vòng cung ngay trước nhà. Cái đỉnh
vòng cung là cửa vào nhà, hai chân vòng cung nối ra đường. Phải đặt ống cống
cho nước trong mương bên lề đường thông thương. Khi xe vào vườn, chỉ cần chạy
một chiều, vào bằng một cửa, ra bằng cửa khác. Vợ tôi ví cái đường vòng cung
nầy với sân tòa Bạch Ốc, cũng sang trọng và đẹp không kém.

Vợ tôi sung sướng ngâm nga :

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ.

Người khôn người tìm chốn lao xao”.

Ngâm đi ngâm lại mãi. Vợ tôi
bàn rằng, làm thêm một cái bệ gỗ bên cạnh nhà, che song gỗ bên trên, mùa hè ban
đêm cả gia đình ra ngồi ngắm trăng, uống trà ăn kẹo ngọt, để nhớ miền quê Việt
Nam. Cũng để xem ông thi sĩ miền Bắc nước ta, bốc thơm đàn anh Trung Quốc rằng
“Trăng nước Mỹ không đẹp bằng trăng Trung Quốc” có đúng không. Nghe đã lỗ tai,
tôi mua gỗ về hì hục, cưa đóng cả tuần mới xong. Tốn tiền, mà sau nầy vì công
việc nông trại tối mắt, tắt mày, chưa bao giờ có thì giờ rảnh ra ngồi ngắm
trăng uống trà, chỉ có những khi mệt vã mồ hôi, ngồi bệt lên sàn nghỉ một chốc
mà thôi.

Bây giờ thì phải làm hàng
rào bao quanh khu vườn lại. Tôi mua cọc sắt, và lưới làm hàng rào. Loại cọc mà
bên Việt nam mình kêu là cọc sắt ấp chiến lược, và loại lưới gọi là lưới B40.
Nhìn vào bảng ước tính giá mua cọc và lưới mà mặt vợ tôi nhăn lại như ăn dấm
chua. Cũng mất mười mấy ngàn đồng. Không thể chịu đựng nỗi chi phí nầy, tôi
quyết định chỉ rào khu chăn nuôi thôi, còn khu trông trọt thì cứ để trống. Ai
mà chạy xe ra đến đây để ăn cắp hoa màu cuả mình. Nước Mỹ chớ đâu phải châu Phi mà lo. Hãng bán cọc sắt và lưới đổ cho tôi một đống lớn trong vườn. Mình phải
tự làm hàng rào lấy, chứ thuê thì tiền đâu mà chịu nỗi. Tôi mua búa tạ và thang
xếp, làm thành cái dàn. Con gái tôi mới mười bốn tuổi, giúp bố giử cây cọc, tôi
leo lên, dùng búa giáng xuống. Sức dộng của búa rung cây cọc sắt, làm tay con
tôi đau buốt và buông cọc ra mà kêu thét lên. Tôi phải làm một nùi vải, chêm
vào tay cho nó cầm. Cứ đóng vài ba búa, là thấy cọc có chiều nghiêng nghiêng,
không đứng thẳng được. Tôi phải leo xuống, dùng dây dọi điều chỉnh rất khó
khăn. Vợ tôi dứng nhìn và nói:

“Đóng cọc theo lối nầy, thì không chừng tốn cả năm trường mới xong được.”

Hai bàn tay tôi đỏ và sưng
lên. Con gái tôi cũng nhăn nhó mặt mày vì cái trò chơi không mấy hứng thú nầy,
và phải đứng ngoài nắng gió cả buổi. Để việc rào dậu chóng hoàn tất, tôi phải
tính đến chuyện thuê người làm phụ. Tôi bàn với vợ, thuê một anh người Mễ. Vợ
tôi ngại sẽ bị lôi thôi với pháp luật, vì thuê người nhập cảnh bất hợp pháp.
Tôi bảo rằng, tôi không ra ứng cử dân biểu, nghị sĩ, thì sợ gì, có ai mất công
mà tố cáo tôi thuê người nhập cảnh bât hợp pháp.

Sáng hôm sau, tôi lái xe về
phía Nam nông trại, đi mất chừng hơn nửa giờ, đến gần khu có cây xăng, nơi đây
các thanh niên người Nam Mỹ thường hay tụ tập, đứng lóng ngóng chờ người đến
thuê đi làm. Xe tôi vừa đậu lại, thì có hơn hai chục thanh niên vây kín, lao
nhao đòi đi làm. Có vài anh còn nhãy lên thùng xe ngồi đó. Không ai biết tiếng
Anh, mà tôi thì mù tịt tiếng Mễ. Họ biết tôi cần người làm, tôi biết họ cần
việc làm, nhưng không ai nói cho ai hiểu là phải làm việc gì.

Tôi nhãy xuống xe, đứng cong
lưng, hai tay đưa lên đưa xuống, ra dấu đóng cọc. Họ à à gật đầu và cười, nói
“Ô kê, ô kê”. Tôi ra dấu, đưa một ngón tay lên, bảo là chỉ cần một người thôi,
thế mà bốn năm người nhảy lên thùng sau xe ngồi, và chục người khác bu theo
nhao nhao, nói gì tôi không hiểu. Tôi chán quá, la lên và khoát tay và lắc đầu,
có ý bão họ là không thuê ai nửa cả, đòng thời ra dấu cho mấy người ngồi trên
xe tôi đi xuống. Phải lâu lắm, tôi mới rời được đám người nầy. Khó quá, mình
không biết nói, mà họ cũng không hiểu mình, và cứ đeo theo đòi đi làm. Tôi lái
xe đi, giả vờ như không thấy những người Mễ hai bên đường đang ra dấu, hỏi tôi
có thuê họ hay không. Dừng xe lại là họ nhào đến, không đi được.

Tôi đang phân vân, chưa biết
phải làm thế nào, thì thấy có một anh Mễ to lớn, mập mạp, đang đi một mình trên
đường, tôi chạy xe chậm lại, và hất đầu làm dấu như hỏi anh ta có muốn đi làm
viêc hay không. Anh vui vẻ gật đầu, tôi mở cửa cho anh lên xe, thì thấy có
nhièu người khác chạy gấp về phía tôi, và la lên, có người níu xe. Tôi phải xua
tay, và rồ máy chạy thẳng. Đến một góc đường xa, tôi dừng xe lại. Hỏi anh Mễ
muốn tôi trả bao nhiêu một ngày. Hai bên không hiểu nhau, anh Mễ cứ đực mặt ra,
như người điếc. Tự nhiên tôi cảm thương anh Mễ , vì anh làm tôi nhớ tới thời
mới tới Mỹ, ai nói gì cũng không hiểu và chỉ cười. Tôi lấy giấy ra, ghi số tiền
tôi muốn trả cho anh ngày hôm nay, cao hơn lương lao động tối thiểu chừng mười
lăm phần trăm. Anh Mễ lắc đầu, ghi số tiền gấp đôi. Tôi ra dấu cho anh xuống
xe. Anh lấy giấy ghi số tiền thấp hơn. Tôi lắc đầu. Cuối cùng, anh bằng lòng
làm việc với số tiền công tôi ghi ban đầu.

Đi bốc người, vừa đi vừa về
mất hơn hai giờ, rồi buổi chiều phải mang trả anh ta tại chỗ cũ nữa. Nhưng
không thể làm việc một mình được.

Tôi dẫn anh Mễ vào, dắt đi
quanh vườn, ra dấu cho anh biết là tôi sẽ đóng cọc hàng rào quanh khu nầy. Hai người
nói chuyện với nhau bằng tay, ra dấu, và tôi nói tiếng Anh, anh ấy nói tiếng
Mễ. Tôi cầm cọc sắt cho anh Mễ đóng. Tôi nghĩ là với cái tướng dáng to lớn vạm
vở đó, anh chỉ đóng ba búa cho mỗi cọc, là đi tuốt xuông đất sâu. Nhưng không
ngờ, anh Mễ dáng búa lên, và gõ nhẹ xuống cây cọc, như sợ cây cọc đau, cứ từ từ
chầm chậm búa xuống, thong thả nhàn nhã và nhẹ nhàng. Đóng mãi mới xong được
một cây cọc. Vợ tôi đứng nhìn. Khi đóng qua cây cọc thứ hai, thì vợ tôi hỏi:

“Anh ơi, ông Mễ múa thể dục
Tài Chi hay sao mà yểu điệu và khoan thai thế. Đóng cọc theo lối nầy, thì biết
đến thuỡ nào mới xong được?”

Tôi cũng nóng ruột với cái
dáng điệu khoan thai của anh Mễ, kêu anh xuống thang, và bảo anh cầm cây cọc
cho tôi đóng. Anh cầm cây cọc chắc lắm, tôi cứ đóng xuống là thẳng đứng. Ừ thì
ít ra cũng xữ dụng được cái sở trường của anh nầy. Tôi tự an ủi là dùng người
như dùng gỗ, dùng cái ưu điểm của anh ấy thôi. Chưa lao động quen, mồ hôi cứ vã
ra như tắm, và tôi uống nước liên tục. Cứ nữa tiếng, là tôi nghỉ ngơi một chốc.
Vợ tôi phàn nàn rằng, thuê người để họ làm, chứ đâu phải thuê người về vịn cây
cọc. Sau nầy tôi mới được các bạn bè cho biết, họ làm theo đồng tiền được trả,
khi cho là ít tiền, thì họ làm ít. Tiền nào của đó, và môt lý do nữa, là họ làm
chậm, thì hy vọng công việc làm được nhiều ngày hơn.

Buổi chiều, trả tiền cho anh
Mễ, anh kỳ kèo đòi thêm, cứ đưa tay ra mãi. Bực quá, tôi cho thêm năm đồng, anh
vẫn chìa tay ra, tôi lắc đầu cương quyết không là không. Vợ tôi thấy tôi cho
thêm tiền, tiếc của la lối :

“Không làm được gì mà anh
còn cho thêm tiền ư?”

Vợ tôi kéo tôi ra nói nhỏ:

“Em nghĩ anh Mễ nầy không
được lương thiện lắm. Cứ nhìn trộm em hoài., làm em sợ. Chắc mình phải mua
súng, để tự vệ. Chứ nơi đồng không mông quạnh nầy, có chuyện gì xẫy ra chẵng
biết làm sao.”

Tôi cảm thấy lo, nói cho vợ
yên lòng:

“Ừ, để rồi tính sau. Dễ mà,
xứ nầy mua bao nhiêu súng cũng được, bất cứ loại súng nào.”

Tôi ra dấu cho anh Mễ lên
xe, để tôi chở trả anh về nơi cũ. Khi đến gần nơi xuống xe, anh nói: “Mà nha
na, mà nha na” (manãna: ngày mai), có ý muốn ngày mai làm việc nữa. Tôi chỉ
hiểu tiếng ngày mai thôi. Lắc đầu, tôi nói “Nô mà nha na.”

Chẳng thể không thuê người
phụ đóng cọc được, hôm sau tôi lái xe về nơi cũ. Khi đi ngang chỗ các anh Mễ,
tôi gia tăng vận tốc chút xíu, thế mà cũng có những cánh tay đưa ra ngoắt tôi.
Lòng tôi lại chợt chùng xuống, và thương những người lìa bỏ quê hương đi kiếm
ăn. Tôi nghĩ đến thân phận mình may mắn hơn, được vào Mỹ hợp pháp, được đi làm
và cũng có cơ hội đồng đều như người Mỹ sinh trưởng tại đây. Tôi liếc mắt tìm
những anh Mễ đứng đơn dộc, và chạy xe chậm lại kềm sát một người đang đi ngược
chiều. Tôi hất đầu làm dấu, anh Mễ gật đầu. Tôi mừng vì anh nầy biết lỏm bỏm
tiếng Anh. Tôi đưa giá, anh bằng lòng ngay. Anh nầy cao, gầy, rắn chắc, tên là
Pedro.

Rút kinh nghiệm ngày hôm
qua, tôi không nói trước là phải làm bao nhiêu hàng rào để họ khỏi tính chuyện
câu giờ. Tôi giữ cọc sắt cho Pedro đóng xuống. Anh đóng ào ào, mỗi nhát búa tạ
của anh làm cây sắt đâm sâu xuống đất, sâu gấp hai lần mỗi nhát búa của tôi.
Tôi bằng lòng lắm. Vợ tôi đem nước cam và thức ăn, cùng trái cây ra đãi trong
khi chúng tôi nghỉ xả hơi. Ngày hôm đó, chúng tôi đóng được gần ba lần ngày hôm
trước. Vợ tôi vui ra mặt và nói với tôi:

“Sao anh không đề nghị cho
Pedro làm khoán , có lẻ mình đỡ mệt, mà đi lo việc khác.”

Tôi cố gắng lắm mới nói cho
Pedro hiểu. Anh bằng lòng làm, và cho một cái giá thấp mà tôi không ngờ được.
Tôi chở Pedro về, và hẹn hôm sau trở lại đón lúc bảy giờ sáng. Hôm sau Pedro
đem theo một người bạn, hai anh thay phiên nhau đóng cọc, và làm mãi cho đến
khi trời tối mịt mới nghỉ. Tôi đãi hai anh nầy cơm nước, bánh trái rất hậu. Vợ
tôi nói “Ngày xưa Tào Tháo đải Quan Công e cũng chỉ đến thế mà thôi.” Chỉ mấy
ngày, Pedro và bạn anh đã hoàn tất cái hàng rào. Họ còn nhổ lên và đóng lại
những cái cọc xiên xẹo, những cái tôi đã đóng lúc đầu.

Hôm hoàn tất hàng rào, tôi
làm tiệc đãi Pedro, thịt nướng ăn với rau, có mấy chục lon bia trợ lực. Trả
tiền, và tính lại thì tiết kiệm được rất nhiều tiền công, nếu thuê hãng chuyên
môn rào, thì tiền nhân công đắt gấp ba lần.

Xong cái hàng rào, tôi mua
hai trăm con vịt xiêm, ba trăm con gà, thả vào vườn. Cho chúng mặc sức mà đi
lại, chạy nhãy và phá phách khu cỏ chưa trồng trọt. Vịt thì ban đêm nó chui vào
gầm nhà tiền chế mà ngủ, tránh sương tránh gió. Cứ đầu hôm, chúng kêu om sòm.
Có khi nữa đêm giật mình vì tiếng vịt kêu. Con tôi cho rằng có lẽ vịt nó nằm mơ
và la hoảng. Tôi nghĩ là vịt nó núp dưới sàn nhà rất tiện lợi, đở tốn tiền làm
chuồng. Nhưng chỉ mới mấy ngày, vợ tôi la các con, hỏi có đứa nào đạp phân gà
vịt và mang vào, làm dính thảm nhà hay không, sao có mùi hôi mãi. Tôi giật
mình, thì ra vịt nó phóng uế đầy ngập dưới gầm nhà. Thế là tôi phải lái xe đi
mua vật liệu, về hì hục đóng chuồng. Đóng một mình thì không được, phải có thợ
phụ. Vợ tôi giúp, và con gái đi học về cũng ra phụ. Tôi phải dùng vòi nước, bò
vào gầm rất thấp của căn nhà mà rửa cho sạch phân. Vừa chật, vừa hôi, vừa khó
chịu, tôi nghĩ mình dại quá, không nghĩ ra sớm cái chuyện vịt phóng uế . Thôi
thì phải trả nợ cái tội thiếu nghĩ xa.

Tôi định rào lưới che hầm
sàn nhà, thì có nhân viên của thành phố đến, cho tôi biết rằng, theo luật thành
phố, thì cái nhà phải mặc quần, nghĩa là che kín phần dưới chân lại, không có
quyền ở truồng, vì mùa đông sợ lạnh bụng. Thế là phải đi đặt hàng, mua vật liệu
để che kín cái chân nhà lại. Tôi cũng mất cả tuần mới hoàn tất cái quần cho căn
nhà. Thức ăn gà vịt, phải qua thành phố bên cạnh mà mua, chất đầy cả chục bao
trên xe, chạy về. Cũng chỉ có một mình tôi lăn xuống xe hơi, bỏ lên xe kéo, và
mang vào chất trong kho. Nặng nề, mệt lữ và bụi bặm. Không quen lao đông, khi
nào tôi cũng thở phì phò, có khi quáng mắt, thấy đom đóm giữa ban ngày.

Phân gà phân vịt tràn đầy cả
sân cỏ, cả lối đi, nhão nhẹt và dơ bẩn. Tôi dùng vòi nước xối rửa mỗi ngày. Sau
nầy, nhìn biên lai tiền nước, tôi giật mình không dám rửa ráy thường xuyên và
xài phí nhiều. Có tháng phải trả cả năm trăm đồng tiền nước, mà chưa bán được
đồng nào nông phẩm.

Gà cũng thả rong, vịt cũng
thả rong. Nhiều lúc chú gà trống lớn vô tình lãng vãng đi gần đàn vịt mái. Ông
vịt xiêm đầu đàn hiểu lầm, phóng đến đánh đuổi chú gà. Thế là có cuộc đọ sức,
như hai võ sĩ thượng đài. Chú gà đâu có chịu thua dễ dàng, nhảy lên, cắn vào
mồng ông vịt, dùng hai chân đạp thốc vào ngực vịt, có lẽ hai cái cựa nhọn cũng
đâm sâu vào địch thủ. Ông vịt dong hai cánh đập tạt vào, mạnh như roi quất. Có
khi làm chú gà lộn ngược nằm lăn ra đất. Cuộc chiến kéo dài, tôi và thằng con
trai ngồi coi khoái lắm, toét miêng cười, và có khi la hổ trợ cho cuộc chiến.
Vợ tôi thì nhãy đỗng lên mà gào:

“Anh không ra mà can chúng
ra, để chúng bị thương, có con chết đấy”

“Con nào chết thì đem nấu
cháo ăn”. Tôi trả lời.

Ông vịt hạ cái đầu xuông
thấp, thẳng ra phía trước như võ sĩ đi xà quyền. Chú gà ngóc đầu lên cao mổ
xuống. Ông vịt hất ngược cái đầu lên, thọc mạnh vào dưới hàm con gà, và hai
cánh vịt đập vào như trời giáng, chú gà ngã lăn quay. Dứng dậy, bỏ đi mà không
chạy trốn, rồi đập cánh bồm bộp, gáy hai tiêng dài, như thổi kèn chiến thắng.
Ông vịt chắc cũng thấm đòn, gờm, không dám đuổi theo.

“Sao con gà mà đấu thua con
vịt hở Ba?”
Thằng con trai tôi hỏi.

“Vì con gà thiếu chính
nghĩa. Léng phéng gần đám đàn bà của con vịt. Vả lại, theo luật quyền Anh, đây
là một cuộc đọ sức không cân xứng, con vịt nặng gần gấp đôi con gà?..”

Tôi trả lời chưa xong,
thì thằng con cắt ngang:

“Chính nghĩa là gì Ba?”

Vợ tôi nghe con hỏi, nạt
tôi:

“Thôi ba nó ơi. Đừng đầu
độc con cái. Thấy gà vịt đánh nhau, đã không can mà còn ngồi xem, tán thưởng.
Làm con nó quen với cái ác, hư đầu óc thơ ngây của chúng.”

Đám gà vịt nầy, ăn mạnh
và lớn mau, đẻ trứng lung tung đầy vườn. Chúng tôi phải đi nhặt cất vào thùng
lớn, mua hộp có ngăn đựng trứng mà chứa. Bây giờ thì phải nghĩ đến cách tiêu
thụ trứng nầy. Vợ tôi bàn rằng, mua một cái máy ấp, bán hột gà lộn hai mươi mốt
ngày, và bán luôn hột vịt lộn.

Cái máy ấp đem về, mỗi
lần ấp được ba trăm trứng. Ấp xong, tôi lựa những cái trứng lớn cho gia đình
dùng. Trứng ấp tại nhà, ăn ngon vô cùng,

Nước trong trứng ngọt
lịm. Tôi ăn một lúc sáu cái. Đứa con gái tôi rùn vai ghê sợ, không dám ăn.
Thằng con trai bắt chước bố, cũng ăn được năm cái, và bị sình bụng suốt đêm nằm
rên ư ử. Trứng ngon quá, đem đi bán thì uổng, tôi bàn với nhà tôi, chủ nhật
nầy, đem về thành phố tặng cho các bạn bè bà con, mỗi người vài chục hột ăn
chơi, hưỡng cái thành quả đầu tiên của nông trại chúng tôi.

Thế là chúng tôi mất thêm
một ngày chủ nhật, chạy từ nhà nầy qua nhà kia, chia cái vui của nông trại cho
bà con. Ai cũng khen, vồn vả tiếp đón, vì mấy khi có trứng lộn tươi như thế nầy
trên đất Mỹ. Chúng tôi ra về, dù đường xa mệt nhọc và tốn xăng, tốn sức, nhưng
lòng vui như hoa nở.

Tôi đi ngoại giao, gặp
các chủ tiệm bán thực phẩm Á Châu, hứa sẽ cung cấp cho họ rau tươi, bầu bí, gà
vịt tươi, trứng lộn, với giá rẻ. Đa số đều vui vẻ, và bảo tôi đem hàng đến cho
họ xem, rồi họ sẽ mua. Về sau, trứng ấp được đem bỏ mối cho các chợ, ban đầu
thì bán rất khá, nhưng càng lúc, thì càng ế ẩm, vì người ta ăn cho vui, ăn để
nhớ hương vị quê nhà, không phải ăn vì ngon, và muốn ăn thường xuyên. Trứng
không để lâu được, các tiệm bán không hết trả lui, tôi phải ôm về, còn phải năn
nỉ bạn bè để tặng không cho họ. Thế mà có người từ chối, và nói thẳng thừng là
không muốn ăn các thứ đó nữa. Đám gà vịt, cũng không bán được bao nhiêu, trong
nhà ăn mãi cũng ớn. Đem cho bạn bè thì nhiều. Người thì làm tiết canh vịt, vịt
xáo măng, gỏi gà, cháo gà, phở gà. Gà tươi nuôi trong vườn thì ăn ngon. Cho thì
họ ăn, nhưng mua thì không mua. Tiền bán gà vịt gom lại, không bằng tiền thực
phẩm mua cho chúng ăn trong vài tháng. Ấp trứng thì lỗ vốn lớn, có lẻ tiền bán
được chưa đủ tiền điện, tiền xăng, chưa kể công vận chuyển.

Khi nuôi vịt, tôi nghĩ
vịt là phải có nước cho chúng tắm, tôi chưa biết vịt có thể ở khô. Tôi thuê xe
ủi đất, hì hục đào một cái hồ lớn, cái hồ chứ không phải là ao. Mấy ngày ròng
rã. Tôi vật lộn với cái máy ủi đất. Đào, xời hắt lên cao. Khi đào xong cái hồ,
thì tôi chợt nhận ra là cái xe ủi đất đang nằm dưới lòng hồ, mà bờ hồ thì cao,
dốc đứng, xe không lên được. Tôi phải hì hục đào một đường dốc xiên cho xe đi
lên. Thế là vợ tôi có dịp để cười và chế nhạo. Đào hồ xong, thì phải xả nước
vào, và hy vọng mùa mưa khỏi phải tốn nước. Cuối tháng đó, đọc cái biên lai
tiền nước mà tôi hoa mắt, chóng mặt. Tôi phải dấu cái biên lai tiền nước, không
cho vợ biết, vì sợ vợ buồn. Cái ao đã đào lỡ rồi, mỗi ngày nước bốc hơi, phải
châm thêm cho đầy. Nghe tiêng nước chảy, mà tôi đau như máu mình đang thất
thoát. Bỗng tôi đâm ác cảm với bầy vịt, ăn thì như hạm, phóng uế vung vãi, bán
thì khó. Để già thì thịt dai, không ai ăn, và họ có lỡ mua một lần, thì lần sau
không dám đụng đến nữa. Vịt già cũng sẽ làm hại uy tín kinh doanh. Làm thịt bỏ
tủ lạnh, thì tôi không đủ can đảm đầu tư thêm cái máy làm gà vịt, không đủ vốn,
mà từ đó sinh ra nhiều chi phí khác nữa.

Cứ nghĩ ra thêm một cái
gì, thì tốn kém thêm tới đó. Có người mách tôi, cứ đem gà vịt ra chợ trời mà
bán vào các ngày họp chợ, từ thứ sáu đến chủ nhật. Lại biết thêm nghề bán chợ
trời. Bán ở chợ trời thì chịu nắng nôi, nhưng nhiều người mua. Về sau, tôi bán
sĩ với giá rẻ cho những người bán lẻ. Như thế thì mau hơn, đở tốn công, đỏ mệt
nhọc.

Tôi dựng giàn trồng bầu
bí, chưa kịp đi mua gỗ đóng giàn, thì có người mách bảo: “Hãy mua ống nước bằng
nhựa, mua thêm các khúc ống nối thẳng, nối cong, nối chữ T, chữ L. Cứ thế mà
ráp vào thành giàn, làm mau như gió. Tội chi mà đóng giàn gỗ cho khổ công mà
mau mục ải.” Tôi nghe theo lời thầy bàn, nghe thì có lý lắm, nhưng khi vào thực
tế thì gặp không biết bao nhiêu ván đế. Thứ nhất là quá tốn kém, thứ hai là
giàn không vững, khi gió thổi thì mấy cái giàn cứ đu đưa nhún nhẫy theo chiều
gió. Thế là phải mua thêm ống nước lớn mà chống chỏi, mà đâu phải là dễ chống,
vì ống nước nhựa trơn lu, không có nơi tựa, mà đông đinh thì xôc xệch lỏng lẻo.
Lại tốn thêm bộn tiền. Phải mua thêm lưới mắt cáo trùm lên cho bầu bí leo. Mỗi
ngày, buổi chiều đi học về, con gái tôi ra vườn tưới cây. Bầu bí lớn mau như
thổi, chẳng bao lâu dàn cây lá sum sê xanh mướt, ra hoa vàng rực, và những nụ
trái nhú ra đẹp như những nậm ngọc. Lũ ong bướm kéo đến nhỡn nhơ . Tôi nhìn mà
lòng vui không xiết. Rồi những trái bầu bí dài thòng, nặng chĩu, phải buộc dây
treo chúng lên.

Vợ tôi bàn rằng, nên thuê
người đổ đất làm một con đường chạy từ ngoài vào đến cuối vườn, để mai đây, khi
nông phẩm nhiều, xe vận tải lớn có thể vào chuyên chở thẳng ra chợ. Tôi thấy có
lý quá, đi giao thiệp,và giao cho nhà thầu đổ đất, cán đường, làm mương thoát
nước hai bên đường. Lại tốn kém thêm ngoài dự trù, nhưng nghĩ lại, mai đây, đở
tốn công thuê người khuân vác từ nhà ra đường. Sau nầy, con đường chưa được hân
hạnh đón chiếc xe vận tải nào đi qua, vì chúng tôi ước tính thì nhiều, mà thành
quả nông nghiệp không gặt hái được bao nhiêu.

Những trái bầu non, nấu
canh tôm ngọt nước, ban đầu thì ngon lắm, vợ chồng khen tấm tắc và như ăn canh
thay cơm, nhưng ăn mãi thì cũng chán. Bạn bè bà con xa gần cũng hưỡng được
thành quả của chúng tôi. Chúng tôi đem bầu bí ra bỏ mối ở các chơ Việt Nam, có
bao nhiêu bán được hết bấy nhiêu. Nhưng đó là thời gian đầu mùa, về sau, dù
xuống giá rẻ rề, cũng không bán hết, phải mang các thứ trái cây héo về, đổ
xuống làm phân xanh. Tôi lại chuyển bầu bí ra chợ trời, bán sĩ cho các gian
hàng, người ta trả giá nào cũng phải bán tháo đi. Bạn bè bà con, ăn mãi cũng
chán bí chán bầu, không ai muốn nhận các món quà nầy, vì ngoài chợ cũng rẻ rề.

Chúng tôi tính toán sai
cả, thì ra cái tưởng tượng khác xa thực tế. Chưa có kinh nghiệm, chưa từng
trãi, cứ vẽ vời trong trí tưởng tượng mà đem ra thực hành. Đôi khi tôi có cảm
tưởng như vợ tôi là vị bí thư tỉnh ủy, cứ vạch hết kế hoạch nầy, đến kế hoạch
kia, mà tôi là nhân dân, chỉ biết thi hành và sai thì sửa và càng sửa thì càng
sai.

Mùa đông đầu tiên, một
buổi sáng thức giấc, dậy đánh răng rửa mặt, mở nước không chảy. Tôi tưởng hãng
cung cấp nước tạm thời khóa nước để sửa chửa. Tôi định sẽ kêu điện thoại than
phiên vì khóa nước mà không báo trước. Nhưng sau tôi mới biết là thời tiết
lạnh, đã làm đông đá nước trong ống. Mấy đứa con tôi không chịu đi học vì chưa
đánh răng súc miệng. Tôi cũng chịu thua. Ống nước bị lạnh đông đá, làm nhiều
nơi bị vở, khi đá tan, nước chảy lênh láng. Lại phải nhờ mấy ông thợ ông nước
đên sửa chửa với tiền công chém rất ngọt. Nhà tiền chế, tường mỏng, mái mỏng,
mùa hè thì thiêu đốt như lò lửa, mùa đông thì lạnh căm căm. Tôi lại phải tốn
thêm tiền mua hệ thông sưởi, hệ thông điều hòa không khí.

Chỉ một thời gian thôi,
tiền tiết kiệm, tiền bán căn nhà, đã đổ hết vào cái nông trại. Thấy cạn tiền
đầu tư cho mùa tới,vợ tôi bàn chuyện đi vay ngân hàng, đem cái nông trại nầy ra
mà cầm cố. Thôi thì cũng liều – Sống trên xứ nầy không có nợ, thì không phải là
người tốt – Một anh bạn tôi bảo vậy. Tôi chở vợ ra ngân hàng làm giấy tờ vay
mượn. Chỉ mấy hôm sau, được giấy báo là ngân hàng đã chấp thuận. Chúng tôi hớn
hở, cứ còn nước thì còn tát, để cứu vãn cái nông trại nầy. Nhưng khi nhìn vào
bản chiết tính chi tiết các phí khoản vay, đủ các thứ chi phí, vay thì ít, mà
nợ tốn kém thì nhiều. Vợ tôi nhăn nho, nói tiếng Việt Nam với tôi, trước mặt
ông nhân viên cho vay:

“Bọn nầy là tụi ăn cướp
ngày, ăn cướp có giấy tờ, ăn cướp có pháp luật che chở. Vay chừng đó, mà chi
phí chừng đó, có chết thì thôi, tôi không mượn đâu. Thôi đi về.”

Không mượn được tiền,
chúng tôi lo lắng lắm. Thôi thì tạm thời chi tiêu bằng thẻ nhựa, chịu lãi suất
cao, cũng còn đở hơn. Tôi thức khuya, dậy sớm chăm nom lũ gà vịt, lũ rau ráng.
Có khi đến mười giờ khuya mà vẫn còn vác nặng trên vai những bao thức ăn súc
vật, còn xối nước tưới cây. Những lúc nầy, tôi cũng bắt chước vợ mà hổn hển
ngâm nga:

“Ta dại ta tìm nơi vắng
vẻ,

Người khôn người tìm đến
chốn lao xao”,

và thấy ông Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm viết sấm ký giỏi quá, dự đoán tương lai cho tôi đúng phóc.
Quả không có ai dại bằng mình., tìm đến nơi vắng vẻ nầy mà lao động khổ nhọc,
đốt hết tiền tiết kiệm trong bao nhiêu năm.

Một hôm nữa khuya thức
giấc, vợ tôi nhẹ nhàng hỏi:

“Anh có nhớ chuyện Tam
Quốc Chí không? Khi đánh nhau, họ hay lập thế trận ỷ dốc. Anh có biết thế trận
ỷ dốc là thế nào không?”

“Trời ơi, nữa đêm mà nói
chuyện Tam Quốc Chí, anh lao động quần quật từ sáng đên khuya, rã người, em để
anh ngủ cho có sức để mai còn lao động tiếp.”

Tôi nghe tiếng thở dài
não nuột của vợ mà động lòng, trả lời ấm ớ cho vợ khỏi buồn:

“Anh không biết chắc ‘ỷ
dốc’ là cái khỉ khô gì. Nhưng có lẻ họ chia quân đóng hai vị trí khác nhau, một
nhóm tác chiến, còn nhóm kia yểm trợ“.

Vợ tôi như bắt được ý,
hăng hái nói:

“Em nghĩ, mình cũng nên
bắt chước người xưa, lập thế trận ỷ dốc mà cứu vãn cái nông trại nầy. Có nghĩa
là anh xin việc đi làm bên ngoài, đem lợi tức về bù đắp, yểm trợ cho khu nông
trại của chúng ta. Nếu một năm sau nữa , mà còn không nên cơm cháo gì, thì bán
quách, chúng ta đi làm công cho người khác. Nếu thành công, thì anh nghỉ việc
bên ngoài, trở về với nông trại.”

Nghe vợ bàn mà tôi tỉnh
ngủ. Ừ, giản dị thế mà cũng nghĩ không ra. Cứ lo lắng hoài. Đàn bà cũng có
nhiều cái suy nghĩ thật hay. Tôi nhẹ nhàng hỏi vợ:

“Nhưng một mình em, có
kham hết công việc trong nông trại nầy chăng? Việc thì bề bộn, nặng nhọc, làm
hoài không hết.”

“Những việc thường
thường, thì em có thể làm được, những việc nặng nhọc, thì chờ anh đi làm về
giúp”

Tôi nghe mà ngao ngán.
Thế nầy là vui thú điền viên trong tuổi xế chiều chăng. Ngày đi làm toàn thời
gian, đêm về làm việc nặng. Nhưng có lẽ không còn giải pháp nào tốt hơn. Ráng
thêm vài năm nữa, may ra thời vận đến.

Nhờ có chuyên môn, tôi
xin được việc làm có đồng lương khá. Mỗi tháng đem tiền lương về nuôi lũ gà
vịt, lũ rau ráng bí bầu. Công ty tôi làm đang đến đến hồi phát triển mạnh, mỗi
ngày tôi làm việc từ mười đến mười hai giờ, mỗi tuần làm sáu ngày. Mịt mờ trời
đất, thế mà đêm về cũng phải lo thêm việc của nông trại nữa. Vợ tôi thỉnh
thoảng phải thuê người phụ làm trong vườn. Lương tôi cũng tạm thời đáp đổi chi
phí của nông trại. Ngày chủ Nhật tôi phải lái xe đưa nông phẩm ra chợ bán.
Nghĩa là không có một ngày nghỉ nào trong tuần.

Thỉnh thoảng nghe vợ tôi
than phiền về chồn cáo bắt mất một số gà vịt, tôi chỉ cười bảo:

“Chia cho chúng tha bớt,
mất càng nhiều, thì em càng đở mệt.”

Chồn cáo xứ nầy khôn
ngoan lắm, chúng biết con chó săn trong nhà đêm đêm đi tuần rảo quanh hàng rào,
rồi vào nằm nghe ngóng canh chừng. Chúng lập kế đánh du kích, để vài ba con kêu
chí chóe xa xa về hướng đông, con chó chạy về hướng đó mà sục sạo. Thừa thế,
chúng lẻn vào hướng tây mà bắt gà vịt lôi đi. Khi lũ gà vịt kêu lên thất thanh,
con chó quay lại, thì chồn cáo đã đem theo được chiến lợi phẩm mà cao chạy xa
bay, ra khỏi vòng rào.

Mấy hôm, thấy lũ vịt
không xuống hồ bơi lội mà đứng trên bờ ngơ ngác, lông lá tả tơi. Tôi ra xem,
thấy mặt hồ đóng váng, như có ai đổ dầu, và quanh bờ thì có những vờ bọt đen
đặc quánh. Tôi vớt bọt, dùng cây mà quậy, thì thấy như có chất dầu. Đem đốt thì
cháy ra khói đen đặc và hôi mùi dầu. Tôi tái mặt, và nhảy cẫng lên mà chạy mau
vào nhà la lớn:

“Em ơi, mình sắp thành tỷ
phú rồi em à. Dưới đất của mình có vàng đen. Dầu, dầu hỏa, mình sắp thành phó
vương dầu hỏa rồi. Thôi, dẹp hết, bỏ hết, chẵng có bí bầu gà vịt chi nữa. Bỏ ra
công sức thì nhiều, mà thu hoạch chăng bao nhiêu. Bỏ ra cả trăm ngàn bạc mà thu
lại chưa được vài ngàn. Trời thương chúng mình, trời đãi chúng mình.”

Vợ tôi chưa tin, tôi ra
hồ nước, vớt dầu vào làm thí nghiệm chứng minh. Vợ tôi thấy dầu cháy, ôm lấy
tôi hôn mà kể công, rằng đó là nhờ nàng đưa ý kiến làm nông trại, mà nay thành
tỉ phú. Cả tuần, chúng tôi bỏ không tưới cây, gà vịt thì cho ăn cầm chừng. Kêu
bạn bè đến, bảo muốn bắt bao nhiêu thì bắt. Giàu rồi, thì kể chi mấy con gà,
con vịt lẻ tẻ. Nhiều đêm hai vợ chông tôi nằm mơ chuyện sang giàu, gởi con qua
Anh Quốc cho học trường lớn nhất., chuyện ngao du khắp thế giới. Tôi chạy ngược
chạy xuôi tìm hãng khai thác dầu. Và niềm vui của tôi xẹp xuống, khi nghe người
ta nói về việc khai thác dầu. Hãng dầu còn xem trử lượng được bao nhiêu, có
đáng khai thác hay không, và khi biết mõ dầu có trữ lượng cao, thì họ chỉ thuê
một khu đất nhỏ,với giá rẻ mạt, không đáng vào đâu. Thế là giấc mơ tỷ phú của
chúng tôi xẹp xuống thảm hại.

Việc trồng trọt và nuôi
gà vịt quá nhọc nhằn, chúng tôi không kham nỗi, vợ tôi bàn chương trình nuôi
dê, bò. Chúng tôi bán tháo hết đám gà vịt, mua hai mươi lăm con dê cái, có con
đã chửa bụng lưng lửng, và một anh dê đực râu xồm, có hai cái sừng quăn lại,
xỉa ra đàng trước. Mua thêm bốn con bò, ba con cái, một con đực. Bọn dê tạp ăn,
lá gì cũng bứt và nhai nuốt, thật là dễ nuôi. Thả chúng long rong trong vườn.
Cách nuôi thật nhàn hạ, không cần chăm sóc chi nhiều. Bốn con bò cũng vậy. Mỗi
ngày, con dê đực làm tình với bọn dê cái liên miên, làm vợ tôi ngượng. Con chó,
cũng to lớn không thua gì con dê, nhưng sống độc thân, mỗi lần thấy con dê đực
nhãy cái, thì nó ghen, chồm lên mà sủa om sòm. Có khi nó nhãy lên, tấn công sau
mông con dê đực. Con dê dực tức giận vì kẽ phá đám, quay lại, dùng sừng ủi đại
vào cho chó. Có khi con chó tránh đòn không kịp. Cũng lăn kềnh ra. Vợ tôi đứng
la lớn, bảo tôi can chúng ra. Sợ con chó bị thương vì cái sừng nhọn của dê. Tôi
cũng nạt nộ, la hét mà hai bên không ngưng chiến. Tôi phải dùng cây roi da, vụt
túi bụi vào cả dê lần chó, chúng mới chịu dang ra.. Vợï tôi nói:

“Con dê nầy hung tợn quá,
có ngày con chó bị sừng dê đâm đổ ruột”

Tôi cười:

“Lỗi tại con chó. Trời
đánh còn tránh bữa ăn. Huống chi nó đang làm cái việc truyền giống thiêng
liêng, mà con chó nhãy vào phá đám. Ví như tụi mình đang vui vẻ, có đứa nào phá
đám, mình có nỗi điên lên không.”

“Thôi ông ơi, ăn nói đàng
hoàng một chút có được không?”- Vợ tôi cằn nhằn.

“Mà con chó nó ghen tức
cũng phải, nó thì chay tịnh, mà con dê thì cứ làm tình lia lịa, không ngứa mắt
sao được?”

Mấy con dê cái bắt đầu
sinh con, những con dê con như cục nhung mềm, môi đỏ hồng, hai mắt long lanh,
dáng đi yếu đuối. Mấy đứa con tôi cưng chúng lắm. Cứ ẵm bồng hoài, đi học về là
ra vườn ẵm dê con vuốt ve.

Chị tôi từ Úc Châu qua Mỹ
thăm, anh chị thấy tôi ở giữa đồng không mông quạnh gió hú vi vu mà ái ngại. Cứ
lắc đầu mãi. Cứ nói mãi câu:

“Cậu mợ tính như thế nầy
là trật lất rồi. Mình đã xa quê hương, thiếu tình đông bào, phải sống nơi nào
phồn hoa đô hội, cho bớt nỗi cô đơn. Lại gần chợ búa, gần bệnh viện, gần các
tiện ích công cọng, có bạn bè, có bà con láng giềng, khi đau ốm, khi trái gió
trở trời có nhau. Lại khi muốn ăn tiệm Việt Nam cũng phải lái xe đi về hơn hai
giờ , phí công quá. Phải tính lại đi.”

Một buổi sáng sớm, cả nhà
ngồi uống cà phê nhìn qua cửa sổ, thấy con dê đực đứng trước cửa chuồng, chổng
râu dê lên đón bọn dê cái. Mỗi khi có con dê cái đi ngang qua, thì dê đực nhãy
lên lưng làm tình. Liên tiếp mười mấy lần, mà thấy chàng dê vẫn tỉnh táo như
thường. Chị tôi phát mạnh vào vai anh rể tôi cười mà nói:

“Ba mầy chẳng bằng một
phần nào của con dê cả.”

Anh rễ tôi bình tỉnh nói:

“Em xem, con dê đực thay
đổi nhiều con dê cái khác nhau, chứ nếu chỉ có một con dê cái thôi, thì nó cũng
chỉ làm một lần, chứ không làm đến lần thứ hai. Nếu có hai chục bà khác nhau,
thì anh đâu có thua anh dê kia chút nào.”

Trưa hôm ấy, một người bạn
cũ của anh rễ tôi ghé nhà thăm, thấy bầy dê và nghe kể lại chuyện tiếu lâm buổi
sáng, mắt anh sáng lên, rũ chúng tôi đi đến tiệm bán thịt dê của người Ấn Độ
nằm về phía Bắc của thành phố. Đi mua thịt dê về nhậu chơi, tăng cường sức khỏe
mà bổ dương. Mấy bà ở nhà, chúng tôi ba người đàn ông lái xe đi. Tiệm rộng lớn,
có hai căn, như một căn chợ. Nồng nặc mùi cà ri, muì hương vị. Đủ loại cà ri,
đủ loại hương vị trong bao ni lông, chất đầy trên kệ. Bên kia thì dê dã lột da
treo lòng thòng nhiều con trần truồng. Khách hàng muốn mua cẳng, đùi, ngực, thì
cứ việc chỉ vào đó. Anh Ấn Độ đầu quấn khăn chà chóp đem cưa dến, cắt ào ào gọn
nhẹ lắm. Chúng tôi mua nguyên cái đùi sau con dê, hơn mười cân Anh. Anh rễ tôi
thấy nhiều cặp ngọc dương (dái dê) tròn trỉnh, trắng tươi, gói trong giấy bóng
rất bắt mắt, xuýt xoa, đòi mua đến năm cặp. Tôi hỏi ai mà ăn hết, anh bảo không
ai ăn thì để cho anh. Mấy khi mà có thứ quý báu nầy trên miền đất văn minh. Anh
thì thầm: “Ăn thứ nầy vào, thì phải biết. Không có hiệu quả sao có ghi trong
sách thuốc người Tàu?”

Chúng tôi mua thêm một ít
hương liệu, rồi hớn hở chạy xe về. Ông bạn anh rễ tôi dành làm bếp, nấu các món
đặc biệt, mà ông nói đùa là món “Ông ăn bà khen”. Ông bạn đem ướp ngọc dương
rồi xào với hành tây, đem ra nhậu trước. Mấy bà biết đó là cái gì, thì cứ la
oai oái ngoãnh mặt đi. Mười viên xào tròn trịa nằm trên dĩa, có hành xắt lát,
có tiêu rắc lấm chấm đen. Trông thật ngon. Tôi bắt chước ông anh, gắp một viên
đưa vào miệng, mới cắn sơ, đã có mùi thum thủm, tôi muốn nhả ra. Trong lúc ông
bạn của anh tôi thì gắp bỏ vào mồm, nhai nuốt ực ngon lành, còn hít hà khen
ngon. Ông anh rễ tôi cũng thưởng thức tận tình và nói:

“Bổ lắm đấy nhé. Cứ ăn
vào là nghe máu chuyển rần rật, mặc sức mà rượt các bà chạy có cờ. Người
Ấn
độ và Trung Hoa biết món ăn
nầy nên đông con là phải”

“Nếu có thêm rượu thuốc
toa Minh Mạng nữa, nhấp vào, thì là một phối hợp hết sẩy” – Bạn ông anh tôi
tiếp lời – “Hồi còn ở bên nhà, tôi thấy mấy ông già trộn huyết dê với rượu,
uống vào thì như thần dược.”

Thịt dê được nấu càri,
thêm nhiều hương vị khác, nước cà ri vàng màu đỏ sền sệt, chấm với bánh mì mà
ăn . Bà chị tôi nói:

“Vẫn còn mùi mồ hôi dê.
Nghe đâu khi làm dê, để thịt khỏi hôi, người ta cho dê uống nước, rồi cột dây,
đánh nó chạy quanh một cái cọc, cho vả mồ hôi ra. Xong xối nước tắm cho nó. Bao
nhiêu mùi hôi đều ra hết. “

Vợ tôi xen vào:

“Ở Mỹ mà làm thế là đi tù
sớm, vì mang tội hành hạ súc vật. Ngon đâu không thấy, đi tù mệt lắm”

Mấy hôm sau, có con dê
cái trong vườn bị thương tích, ông bạn của anh tôi đề nghị làm dê thui mời bạn
bè ăn chơi. Ông nhận trách nhiệm thọc thuyết và lột da dê. Cái chậu đựng rượu
Vodka được chôn lưng chừng xuống mặt đất, ông thọc dao vào cổ dê mà ngoáy. Máu
dê tuôn ra kêu ọc ọc. Các bà khiếp sợ la lên và bỏ chạy cả. Mổ bụng ra, mối
biết con dê có chửa. Cái tử cung chứa bốn con dê con đã tượng hình. Ông bạn anh
tôi xuýt xoa, bảo rằng thứ nầy quý lắm, để ông làm dê “hà nàm” cho mà ăn. Cái
bọc tử cung để nguyên, dổ vào nồi, đặt lên bếp hầm với nhiều vị thuốc bắc. Khi
chí đem xuống, vớt ra dĩa, dùng dao mà cắt từng khoanh, thịt dê con mềm nhũn,
nuốt vào cổ như ăn đông sương. Con dê được xuyên qua cây cọc, quay trên đống
lửa than đá.

Tôi điện thoại mời đám
bạn bè xa gần đến tham dự buổi tiệc thịt dê. Nghe có tiết canh dê, dê thui, dê
“hà nàm”, ông nào cũng hớn hở, đòi mời thêm các bạn bè khác nữa.

Đám đàn ông ăn uống nhồm
nhoàm, miệng môi đầy máu tiết canh, nói chuyện tiếu lâm bao quanh vấn đề tình
dục, không kiêng cử gì cả, và cười ha hả, làm nhiều bà nhăn mặt bất bình.

Buổi tiệc thịt dê thật
vui, anh em ra về hỉ hả, và hẹn có ngày trở lại làm một chầu khác. Tối hôm đó,
tôi nằm chờ kết quả của dê “hà nàm” và tiết canh dê, nhưng không thấy gì cả và
ngủ quên cho đến sáng. Vợ tôi nhìn tôi cười hỏi:

“Có thật thịt dê làm tăng
cường năng lực sinh lý không?”

“Toàn cả chuyện tào lao,
tiếu lâm chơi thôi, đàn ông ưa ăn tục nói phét, bịa chuyện cho vui bữa rượu ấy
mà”

Bọn dê sinh sản nhanh,
mau lớn, và ăn tạp, phá trơ trụi cả khu vườn. Chúng biết đứng lên trên hai chân
sau, mà bứt lá những cành cao. Làm cho khu nông trại tiêu điều trông trải. Mỗi
chủ nhật, tôi đẩy dê lên xe, đem ra bán ở chợ trời. Thấy mình giống mấy anh nông
dân Âu Châu tả trong tiểu thuyết của Pháp, mà ngày xưa thường hay
đọc.. Đem dê bán cũng không phải là chuyện
giản dị, đứng chờ, trả giá, cò cưa. Loại người như tôi không thích hợp với công
việc thương mãi, nên cảm thấy chán lắm.

Một lần đứng bán dê, có
cô thư ký trong sở đi chợ trời, thấy tôi, nhãy đến ôm chầm như gặp cố nhân – Mà
ngày nào không gặp nhau chứ – Cô cười nói huyên thuyên và ôm hôn mấy con dê như
người Mỹ thường hôn chó. Thấy cô thích quá, và hỏi chuyên dê tíu tít, tôi cho
cô một con. Lấy cái áo cũ bao mông nó lại, đẩy lên băng sau chiếc xe hơi sang
trọng của cô thư ký. Con dê phá tan cả vườn hoa của nhà cô và hai vợ chông gây
nhau, suýt li dị. Cô dem con dê trả lại cho tôi ngay tại sở. Tôi lại phải khổ
sở kiếm vải bọc mông con dê, cho lên băng sau chiếc xe mình, chở về. Vợ tôi
thấy con dê la lên:

“Dê bán không hết, anh
mua thêm về làm chi?”

Vợ tôi nhọc nhằn vì cái
nông trại quá, bàn với tôi bán đi, về lại thành phố ở. Phải gần nữa năm mới bán
được đám đất nông trại. Bán lỗ vốn, vì chúng tôi muốn phủi tay cho xong. Căn
nhà tiền chế, người mua đất đòi chúng tôi trả thêm tiền họ mới nhận. Còn không
thì phải dẹp đi. Chúng tôi năn nỉ mãi, họ mới nhận với điều kiện tất cả trang
bị về máy sưỡi, máy lạnh, điên nước để nguyên. Vợ tôi nói:

“Ai đời cho không căn nhà
mà phải năn nỉ người ta. Lại còn đòi hỏi đủ điều.”

Chúng tôi thở phào, thoát
ra được cái “vui thú điền viên“ nhọc nhằn đó, dọn về phố, thuê nhà ở. Dù còn nợ
nần nhiều, nhưng chúng tôi cảm thấy như trút được gánh nặng ngàn cân trong
lòng. Hai vợ chồng đi làm công, chiều về ngồi xem truyền hình, đọc sách đọc
báo. Buổi tối ngủ thẳng giấc không lo lũ chồn cáo du kích tấn công. Ngày nghỉ
rủ nhau đi chơi, đi phố, thăm bạn bè bà con. Thảnh thơi không lo lắng nhiều.
Suốt ba năm làm nông trại, tôi chỉ có được một lần vui toàn vẹn, là lần mời bạn
bè cùng ăn thịt dê. Tôi chưa có một lúc rảnh rang để ngững đầu lên trời nhìn
trăng, chứ khoan nói là khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.

Tôi bảo với vợ rằng:

“Mấy ông thi sĩ, văn sĩ,
cứ vẽ vời ra cảnh thơ mộng để gạt gẫm tụi mình.. Tiêu phí sạch cả tiền bán căn
nhà, tiền tiết kiệm, mà lại ngày đêm đầu tắt mặt tối trong mấy năm . May mà
thoát ra được. Sướng quá. Thôi nhé, từ nay em đừng vẽ vời thêm chuyện thơ mộng
nữa nhé.”

Vợ tôi cười:

“Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có
nói rồi:

“Ta dại ta tìm nơi
vắng vẻ”.

Lỗi tại mình, không chịu
hiểu nghĩa đen mà cứ hiểu nghĩa bóng.
Nên
mới ra nông nỗi.”

Tràm Cà Mau

Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise

Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise
6iykim2000002
Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise
alt
Chuyện có thật
Chàng là giáo sĩ, nàng là nữ tu, chuyện tình của họ so về mức độ mãnh liệt và
cả sự bi đát thì không thua gì Romeo và Juliet. Chỉ khác, họ là nhân vật có
thật. Họ là Pierre Abelard, nhà triết học và thần học lừng danh của nước
Pháp thế kỷ 12, và Heloise, một trang giai nhân mà sắc đẹp của nàng tuy đã hơn
người nhưng nếu so với trí tuệ và phẩm cách thì không kém phần nổi bật. Họ tạo
nên câu chuyện tình bất hủ, chuyện tình được xem là đẹp nhất mà cũng bi thảm
nhất trong lịch sử loài người.
Mối tình bị cấm đoán
Pierre Abelard gặp  Heloise lần đầu tiên khi chàng đã 36 tuổi, còn nàng mới là thiếu nữ tuổi 16. Lúc đó, Abelard đã là một triết gia, một nhà thần học kinh viện lừng danh, là giáo sư xuất sắc trong các lĩnh vực này ở Paris. Còn Heloise là cháu ruột của
Fulbert, một giáo sĩ có chức sắc, giàu có và thế lực. Nàng được hưởng một nền
giáo dục tốt từ nhỏ, và đến tuổi trăng tròn thì đã trở nên thông tuệ hơn người.
Không rõ vì đã biết đến Heloise từ trước và phải lòng nàng nên Abelard mới “thu
xếp” để Fulbert mời chàng đến làm gia sư dạy nàng về triết học, hay ý muốn trau
dồi kiến thức cho cháu gái của Fulbert đã tạo điều kiện cho đôi tài tử giai
nhân gặp gỡ. Chỉ biết rằng không bao lâu sau khi Abelard đến ở nhà Fulbert để
dạy học, giữa hai người đã nảy sinh một tình yêu nồng cháy.
Dù khéo che đậy đến  mấy, mối tình này cũng nhanh chóng bị phát hiện. Ngài Fulbert nổi giận, lập tức chia rẽ đôi tình nhân. Thế là bắt đầu một thiên tình sử qua những lá thư sau này sẽ trở nên những áng văn chương bất hủ đối với nền văn học thế giới. Và
trong một lá thư như thế, Heloise cho biết một giọt máu của tình yêu đã thành
hình trong cơ thể nàng. Biết tin, Abelard tìm mọi cách đưa Heloise đi trốn.
Nàng ẩn náu tại nhà của chính chị gái Abelard, và sinh một đứa con trai đặt tên
là Astralabe.
Không còn đường nào  khác, Abelard phải tìm gặp ông bác của người yêu để nói chuyện và xin cưới nàng. Điều này làm cho cơn giận của Fulbert càng bùng lên dữ dội vì ông vẫn muốn nhắm cho Heloise một người chồng trong đám vương công giàu có. Nhưng rồi ông cũng chấp nhận. Abelard không nghĩ đến chuyện hỏi ý kiến Heloise nên vô cùng sửng sốt khi đã được Fulbert gật đầu rồi thì lại bị nàng chối từ. Heloise
biết rằng, người mình yêu sẽ bất hạnh khi gắn bó cuộc đời với nàng, không muốn
một trí tuệ như chàng phải phiền lụy vì những mối khổ tâm của cuộc sống đời
thường. Nhưng sau một thời gian Abelard vật nài, van vỉ, nàng cũng đồng ý bởi
không muốn chàng tuyệt vọng nghĩ rằng nàng không yêu chàng nữa. Một đám cưới bí
mật được tổ chức rất giản dị. Và ngay cả sau khi cưới, họ cũng ít được gặp
nhau, cũng không gặp gỡ công khai.
Cuộc báo thù tàn khốc
Dù chuyện hôn nhân của  cô cháu cưng đã an bài nhưng Fulbert không bao giờ nguôi mối hận đối với Pierre Abelard, và ngài tự thề sẽ trả thù. Ngài rỉ tai bạn bè, người thân từng chút một về chuyện của Abelard – Heloise, gieo vào lòng họ sự khinh bỉ đối với cặp đôi này, và họ làm nhục thiếu phụ những khi có dịp. Ngài thậm chí còn có ý định
giết Abelard và gả cháu gái cho một người khác.
Xót xa cho cảnh bị hành hạ, lăng nhục của vợ, Abelard bảo nàng hãy tạm lánh vào một tu viện và gửi con về cho chị gái chàng. Biết tin này, Fulbert càng điên giận, nghĩ cô cháu dại dột của mình đã hết lòng yêu một kẻ không xứng đáng để rồi bị bỏ rơi, bị
ruồng rẫy đến mức phải vào nhà tu kín. Để trừng phạt, đêm nọ, Fulbert thuê một
nhóm người xông đến nhà Abelard đè ra thiến chàng.
Về nỗi đau này, Abelard viết: “Khi tôi đang chìm vào giấc ngủ, họ đã đột nhập với sự tiếp tay của một tên đầy tớ của tôi bị họ mua chuộc. Tại đó, họ trút sự trả thù vào tôi
với sự tàn độc nhất và cách trừng phạt đáng hổ thẹn nhất. Tất cả những việc họ
làm khiến cả thế giới kinh hoàng, vì họ cắt lìa bộ phận của cơ thể tôi với với
suy nghĩ tôi là nguyên nhân nỗi đau buồn của họ”. Nỗi đau khủng khiếp cơ thể
không là gì so với nỗi nhục nhã và tuyệt vọng về một hạnh phúc lứa đôi, sau sự
biến này, Abelard chính thức trở thành một tu sĩ thuộc dòng tu Benedek ở
Saint-Denis. Từ đó, cuộc đời chàng dành trọn cho nghiên cứu triết học, thần
học. Còn tình yêu đau đớn đối với Heloise, thứ tình yêu mà thảm kịch và sự chia
lìa không diệt nổi, chỉ được tiếp tục qua những trang thư.
Mất chồng, Heloise cũng nguyện không cải giá. Nàng phủ khăn đen lên đầu, trở thành một nữ tu cùng dòng tu với Abelard. Dù thân thể đã bị bó buộc, trái tim họ vẫn dành cho nhau suốt đời. Những lá thư trao qua đổi lại trong những năm ấy đã trở thành những áng văn chương bất hủ của nhân loại. “Anh biết không, anh yêu dấu? Cả thế giới đều biết, em đã mất anh. Làm thế nào mà số phận khốn khổ với hành động phản bội trắng trợn lớn nhất lại có thể cướp đi anh của em?”; “Nếu mất anh, em còn gì để
hy vọng chứ? Tại sao phải tiếp tục khi trong cuộc hành hương của đời người, em
chẳng còn chỗ dựa nào ngoài anh, chẳng ai chịu hiểu rằng anh vẫn tồn tại và em
bị cấm tất cả những niềm vui khác bên anh, nỗi lòng hân hoan về sự hiện diện
của anh hết lần này tới lần khác có thể cứu rỗi chính em?”, trong thư gửi
Abelard, Heloise đã viết như vậy.
Những năm xa nhau, Abelard tiếp tục đi sâu hơn, xa hơn trên con đường học thuật và phát triển tư tưởng của mình, những tư tưởng được vô số trí thức ngưỡng mộ học hỏi, nhưng cũng khiến cho những kẻ thủ cựu nổi giận. Sự bất đồng đó khiến ông bị cáo buộc tội dị báng bổ, dị giáo, bị đuổi khỏi tu viện, bị quản thúc, lưu đày, bị đốt
sách do mình viết, và không ít lần phải đối mặt với ấm mưu ám hại, thủ tiêu…
Những sự đọa đày đó dần làm Abelard kiệt sức. Ông qua đời ở tuổi 63. Còn Heloise, bà sống thêm 22 năm nữa trong sự tưởng nhớ người đàn ông duy nhất của đời mình, cai quản tu viện nơi bà gắn bó, nuôi dạy những đứa trẻ theo tinh thần khoa học và đạo đức mà mình tin tưởng.
Ngày nay khi đến thăm kinh thành Paris hoa lệ, nhiều người không quên đến thăm nghĩa trang Père Lachaise, nơi an nghỉ những linh hồn cao quý nhất của nước Pháp – những trí thức, nhà văn, nhạc sĩ, thiên tài, và đặc biệt là cặp tình nhân huyền thoại
Abelard –  Heloise. Sau khi lìa đời, họ đã được chôn cạnh nhau ở tu viện mà
Heloise cai quản, và 7 thế kỷ sau đó, họ được đưa về nghĩa trang này, ở bên
nhau vĩnh viễn.
Dũng cảm hơn cả Romeo  và Juliet – đôi tình nhân dám chết khi cuộc đời không cho ở bên nhau -, họ đã làm được một điều đáng cho ta cúi mình kính ngưỡng: tiếp tục sống, tiếp tục chịu đau đớn để cống hiến, để yêu. Và dù cách mặt, họ thực sự đã bên nhau, có nhau suốt cuộc đời và cả khi đã sang bên kia thế giới.
alt

Sưu tầm
From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng gởi

Em Tên Là Nujood, Mười Tuổi, Xin Ly Dị.

Em Tên Là Nujood, Mười Tuổi, Xin Ly Dị.

·
Trên đây là tựa đề cuốn tiểu thuyết kể lại hoàn cảnh đau lòng của các em bé gái ở nước Yemen. Gia đình em Nujood bắt em phải làm vợ một người đàn ông lớn tuổi vào lúc em mới 10 tuổi. Em bị đánh đập, hành hạ, và cha mẹ em từ chối giúp đỡ. Vì thế, em phải tìm cách tự cứu lấy mình. Em chạy đến toà án xin quan toà cho em được ly dị người chồng của em.

·      Câu chuyện thương tâm của em Nujood đã làm thay đổi luật lệ về tục lệ tảo hôn ở quốc gia theo Hồi Giáo. Chúng tôi dịch phần tóm lược cuốn truyện đăng trên Reader’s Digest tháng 1 năm 2013.

“Đầu óc em quay mòng mòng – Chưa bao giờ em trông thấy một đám đông nhiều người đến như thế . Ngoài sân toà án, người ta đang vội vã, tấp nập từ mọi phía, đổ dồn về đây. Chẳng ai trông thấy em: Em nhỏ bé quá so với những người này. Năm nay em mới được mười tuổi, không chừng chưa đủ mười tuổi. Nào có aí biết rõ em bao nhiêu tuổi?”

NGƯỜI TA ĐỒN RẰNG QUAN TOÀ   là người giúp đỡ những kẻ cô thế. Vì  vậy, em phải tìm cho được một vị quan toà, và kể cho ông ta nghe câu chuyện của em. Em mệt bã cả người. Trời nóng bức quá, em còn phải mang tấm lưới che mặt, đầu em nhức như búa bổ, và em cảm thấy xấu hổ quá chừng.

Em dáo dác ngó quanh, để ý canh chừng những người cảnh sát mặc đồng phục. Nếu họ trông thấy em, họ có thể bắt em. Một con bé mười tuổi dám bỏ nhà đi hoang. Em sợ đến run rẩy cả chân tay, em cố tìm xem có người phụ nữ  nào mang lưới che mặt đi ngang qua, để hỏi thăm. Gặp một bà, em vội vàng lên tiếng hỏi thăm: “Cháu muốn tìm gặp một vị quan toà.”

Hai con mắt sau tấm lưới mầu đen mở to ra để nhìn em, ngạc nhiên hỏi: “Em muốn gặp ông quan toà nào?”

“Ông nào cũng được. Cứ dẫn cháu đi gặp một ông quan toà đi.”

Bà ta nhìn em chòng chọc, kinh  ngạc khi nghe em trả lời như vậy.

Cuối cùng, bà ta nói: “Em đi theo tôi.”.

Cánh cửa căn phòng được mở ra. Trong phòng có rất nhiều người, và ở cuối căn phòng, tôi trông thấy một người đàn ông ngồi ở đó với nét mặt gầy ốm, và bộ râu mép. Cuối cùng thì tôi cũng gặp được một vị quan toà. Tôi ngồi xuống, ngả lưng ra sau ghế, chờ đến lượt mình.

Đang mơ màng lim dim chợp mắt ngủ, tôi nghe tiếng người đàn ông hỏi: “Ta có thể giúp gì được cho cháu?”. Tiếng nói của người này nghe rất êm ái, dịu dàng. Tôi đưa tay lên dụi mắt cho tỉnh ngủ, và nhận ra người đang đứng trước mặt tôi chính là vị quan toà có râu mép.

 

Thoả Ước Giữa Cha Tôi và Một Người Đàn Ông

Ở Khardji, một ngôi làng nhỏ bé nơi tôi sinh ra, thuộc xứ Yemen, người phụ nữ không được phép chọn lựa khi lập gia đình. Mẹ tôi, bà Shoya lập gia đình với cha tôi, ông Ali Mohammad al-Ahdel, khi bà mới được 16 tuổi. Bà lấy chồng theo sự sắp xếp của gia đình, không một lời phản đối. Sau đó bốn năm, khi cha tôi quyết định muốn lấy thêm một bà vợ thứ hai, mẹ tôi chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời. Tôi cũng ở trong
trường hợp giống mẹ tôi, nghĩa là đồng ý lập gia đình theo ý muốn của cha mẹ,
không có ý kiến, và cũng không ngờ mình bị lâm vào hoàn cảnh nguy hiểm. Ở tuổi
còn nhỏ, tôi không có nhiều câu hỏi để thắc mắc.

Mẹ tôi sinh ra tôi, và 15 anh chị em khác ngay tại nhà.Tôi thường gọi mẹ tôi là Omma hay Mama. Khi lớn lên, tôi chỉ biết quan sát sự chăm lo việc nhà của mẹ tôi cho đến lúc tôi biết theo đuôi mấy bà chị giúp mẹ làm việc nhà. Tôi cứ theo hai chị lớn, nghe mẹ và các chị bảo làm gì thì làm. Hai chị rủ đi lấy nước ngoài con suối  đem về nhà, tôi cũng đi theo. Khi tôi được hai hay ba tuổi, bỗng dưng xảy ra một vụ đánh nhau dữ dội giữa cha tôi với vài người trong làng. Chúng tôi bị buộc phải dọn đi nơi khác ngay lập tức.

Khi gia đình chúng tôi đến thành phố Sana, chúng tôi bị “sốc” nặng về cuộc sống mới ở thành phố chính trong vùng. Nó hết sức ồn ào, bụi bậm, khác hẳn với đời sống êm đềm ở dưới làng quê.  Chúng tôi sống trong một bin đinh tồi tàn ở khu Al-Qa. Sau  một thời gian dài chật vật tìm việc, cho tôi được phu quét đường cho sở vệ sinh.

Tôi được cắp sách đi học năm đầu ở trường tiểu học, và là họ trò giỏi. Tôi sắp sửa lên năm học thứ hai thì một buổi chiều tháng Hai năm 2008, cha tôi- tôi vẫn gọi người là Aba- đi làm về nói với tôi rằng ông có một tin vui cho tôi.

“Nujood, con sắp sửa lập gia đình rồi.”

Tin này đến với tôi thật là bất ngờ, không biết tử đâu tới.
Tôi thực sự chẳng hiểu gì cả. Lúc đầu tôi cảm thấy hình như đó là điều tốt, vì
tôi sẽ được ra khỏi nhà, ở riêng. Cuộc sống trong nhà chật trội, tù túng đến
ngộp thở. Aba (cha tôi) không tìm được việc làm toàn thời gian sau khi ông bị
mất việc làm phu quét đường cho sở vệ sinh. Vì thế, tháng nào ông cũng lâm vào
hoàn cảnh trả tiền thuê nhà trễ nải. Mấy đứa em trai của tôi đứng ngoài đường
chặn xe hơi ở ngã tư để bán cuộn giấy chùi tay kiếm được vài cắc bạc. Sau đó
đến lượt chị Haifa cũng phải ra đường bán hàng, và rồi đến lượt tôi. Tôi không
thích cái việc rượt chạy theo xe để bán hàng.

Lúc gần đây, Aba thường hay ngồi la cà, nhai lá thuốc phiện  “khat” với bạn bè. Ông bào chữa là nhai lá “khat” giúp ông khuây khỏa, bớt chán đời. Qua ba cái vụ ngồi lê, nhai lá “khat” như vậy, cha tôi được một người đàn ông khoảng trên dưới 30 làm quen với ông. Hắn nóí với cha tôi: “Tôi muốn hai gia đình chúng ta kết nghĩa với nhau.”

Người đàn ông đó tên là Faez Ali Thamer, làm nghể giao hàng. Hắn cũng là dân vùng Khardji giống như gia đình tôi, và đang có ý định đi  tìm vợ. Cha tôi nhận lời cầu hôn của hắn. Thế là sau  hai chị tôi, đến lượt tôi phải lập gia đình ra ở riêng.

Chiều tối hôm đó, tôi nghe lóm được câu chuyện giữa chị Mona và cha tôi.

Chị tôi cằn nhằn cha tôi: “Em Nujood còn bé quá, sao cha lại đem gả chồng cho nó.”.

Cha tôi lý sự: “Đó là cách hay nhất để bảo bọc cho nó. Nó sẽ không bị người lạ hãm hiếp, và không bị làm đề tài để nói xấu hay dèm pha. Người đàn ông này rất đàng hoàng, đứng đắn. Anh ta hứa sẽ không đụng vào người con Nujood cho đến khi nó đủ khôn lớn. Ngoài ra, gia đình mình không có đủ tiền để nuôi cả nhà đông con.”.

Mẹ tôi không nói một lời nào cả. Bà có ý buồn lòng, nhưng ngậm câm không nói ra. Ở nước tôi, đàn ông là chủ gia đình, quyết định mọi chuyện.

 

Đám cưới được tổ chức.

KẾ HOẠCH CHUẨN BỊ ĐÁM CƯỚI CHO TÔI được tiến hành như dự
liệu, và tôi sớm nhận ra những điều bất hạnh sẽ xảy ra cho tôi từ lúc tôi nghe
nói gia đình bên chồng  quyết định sẽ không cho tôi đi học nữa. Tôi thích
đi học, và yêu trường học. Đối với tôi những giờ cắp sách đi học đến trường là
những giây phút thần tiên. Chỉ có ở trường học tôi mới có thể trốn khỏi được sự
tù túng, khó khăn của cuộc sống. Trường học là nơi ẩn náu bình yên cho tôi.

Vào ngày đám cưới của tôi, các cô bạn, chị em họ đứng chờ sẵn hai bên đường để reo hò, và vỗ tay khi họ trông thấy tôi đi ra. Nhưng lúc đó, mắt tôi nhòa lệ, không còn trông thấy ai cả.

Từ phiá sau chiếc xe hơi loại SUV, đậu truớc cửa nhà tôi,
một người đàn ông thấp, lùn nhìn tôi chằm chặp. Ông ta mặc bộ quốc phục “zana”
mầu trắng, trên mép có hàng râu mỏng. Mái tóc cắt ngắn của ông bôi dầu bóng
láng, mặt ông được cạo sơ sài, cẩu thả. Ông ta không được đẹp trai cho lắm.
Người đó chính là Faez Ali Thamer! Chồng tương lai của tôi.

Khi chiếc xe nổ máy, người tài xế lái xe đi. Tôi chợt tỉnh
ngộ và bắt đầu khóc thầm, mặt tôi tì lên cửa kính xe hơi. Tôi nhìn mãi về phía
căn nhà thân yêu của tôi cho đến khi hình ảnh cha tôi nhỏ dần.

Một người đàn bà đứng chờ tôi ở bực cửa căn nhà bằng đá ở vùng
Khardji. Tôi linh cảm thấy ngay bà ta không mấy gì ưa tôi. Bà mẹ chồng mới của
tôi già lắm, lớp da trên mặt bà nhăn nheo như da con kỳ đà. Bà ra dấu cho tôi
bước vào nhà. Bên trong căn nhà bầy biện rất sơ sài, không có bàn ghế tủ giả gì
nhiều. Căn nhà có bốn phòng ngủ, một phòng khách, và một cái bếp nhỏ.

Tôi ăn bữa cơm có thịt do em gái của chồng tôi làm sẵn, ăn
chung với mọi người. Sau bữa ăn, những người lớn tuổi trong làng ngồi nói
chuyện, và  ngồi nhai lá “khat” chuyện vãn với nhau. Không ai để ý đến
tuổi tác quá nhỏ của tôi. Về sau tôi mới hiểu rằng lấy con gái nhỏ tuổi là
chuyện thường xảy ra ở miền quê. Ở một bộ lạc, người ta còn nhắc nhở cho nhau
nghe một câu châm ngôn xưa là: “Muốn có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, thì nên
lấy một cô gái chín tuổi.”.

Tôi cảm thấy an lòng khi được đưa về phòng riêng của mình.
Một tấm chiếu dài được trải trên nền nhà: đó là cái giường của tôi. Mệt quá,
tôi nằm lăn ra ngủ, chẳng cần tắt đèn.

Phải chi tôi được ngủ luôn một giấc dài vô tận thì hay biết
mấy. Khi cánh cửa bị đẩy mạnh, mở ra, làm tôi thức giấc. Chưa kịp mở to đôi
mắt, tôi đã ngửi thấy cái mùi mổ hôi nhớp nhúa, và một thân hình đầy lông lá đè
lên người tôi. Ai đó đã thổi tắt ngọn đèn dầu, làm cho căn phòng tối đen như
mực. Thì ra người đó là hắn ta. Tôi nhận ra hắn vì cái mùi hôi của thuốc lá, và
mùi lá “khát” toả ra từ người  hắn. Hắn cạ người hắn vào người tôi.

Tôi thở dài, năn nỉ: “Đừng, đừng đụng vào người tôi. Hãy để cho tôi yên.”

“Em là vợ của tôi mà! Sao vậy?”.

Tôi đứng bật dậy, cửa căn phòng chưa khép kín. Tôi nhìn
thấy tia sáng mờ từ bên ngoài lọt vào, tôi phóng mình chạy ra ngoài sân.

Hắn đuổi theo tôi.

Tôi hét lên: “Cứu tôi với! Làm ơn cứu tôi.”. Tôi khóc oà
lên.

Tiếng khóc của tôi vang vọng vào giữa đêm yên tịnh. Nhưng
hình như đó là tiếng la hét trong hư không, vô vọng. Tôi chạy thật nhanh, thở
hổn hển. Tôi vấp ngã, và lại ráng đứng dậy chạy tiếp. Nhưng cánh tay cứng rắn
của hắn đã túm lấy được tôi, lôi tôi trở lại căn phòng ngủ, đẩy mạnh tôi nằm
xuống chiếu. Tôi cảm thấy như mình bị tê liệt toàn thân, như người bị trói chặt.

Hy vọng tìm được một người phụ nữ làm đồng minh đến tiếp
cứu. Tôi kêu cứu bà mẹ chồng: “Amma! Dì ơi đến cứu con.”

Không có ai lên tiếng trả lời, hay chạy đến cứu tôi.

Khi hắn cởi bỏ bộ sà rông cuốn trên người. Tôi lăn tròn người
trên chiếu để tự vệ, nhưng hắn bắt đầu lột quần áo ngủ của tôi ra.

Tôi lại tìm cách bỏ chạy, và nói với hắn: “Tôi sẽ về mách
với cha tôi.”.

“Mày muốn về nói gì với cha mày cũng được. Chính ông ấy là
người đã ký giao kèo với tao kia mà.”

“Ông không có quyền đụng vào tôi.”

Hắn bắt đầu cười to, thái độ khinh mạn, đểu cáng.

“Mày bây giờ là vợ của tao rồi. Mày phải làm đủ mọi thứ tao
muốn.”.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy mình như bị cuốn bay đi trong một
cơn bão to, người tôi  bị ném lên không trung, ném vào mưa bão, và tôi
không còn hơi sức để chống cự được nữa. Có cái gì đó đang âm ỉ cháy ở tận sâu
trong đáy lòng. Bất kể tôi gào thét, kêu cứu ra sao, vẫn không có ai đến cứu
tôi. Tôi cảm thấy đau đớn vô cùng. Tôi hét lên tiếng thét cuối cùng, và ngất
đi, không còn biết gì nữa.

 

Tôi quyết định chạy đi trốn.

Tôi phải tự thích ứng với cuộc sống mới thật nhanh, tôi không
có quyền bỏ nhà ra đi, không có quyền than phiền, và không có quyền từ chối làm
bất cứ điều gì. Ban ngày tôi phải rắm rắp tuân lệnh bà mẹ chồng: Đi hái rau,
chùi nền nhà, rửa chén. Khi nào tôi ngừng tay, nghỉ một chút là bị bà mẹ chồng
nắm tóc kéo.

Chồng tôi ra khỏi nhà từ sáng sớm, và trở về  trước lúc mặt trời lặn. Mỗi khi tôi nghe hắn về đến nhà, là tim tôi đau thắt lại vì sợ hãi, hoảng hốt. Khi màn đêm buông xuống là tôi biết chuyện gì lại sắp xảy ra. Cũng những hành động dã man bỉ ổi được tái diễn nhiều lần. Lần nào cũng đem lại đau đớn, và buồn chán cho tôi. Vào ngày thứ ba, hắn bắt đầu đánh tôi. Lúc đầu đánh bằng tay, sau đó đánh bằng gậy. Mẹ hắn ở bên cạnh còn nói đốc thêm vào. Bà bảo con trai bà cứ đánh nữa đi.

Mỗi khi hắn lên tiếng chê trách tôi, là bà lại xúi : “Đánh mạnh vào mắt nó – Nó phải nghe lời con- Nó là vợ của con mà.”.

Tôi sống trong nỗi sợ hãi vô cùng tận. Khi nào có cơ hội ở
nhà một mình, tôi trốn  trong một xó góc nhà, ngồi một mình, ngẩn ngơ suy
nghĩ không hiểu vì sao đời tôi lại khốn khổ thế. Một buổi sáng, chán cái cảnh
trông thấy tôi ngồi khóc cả ngày, hắn bảo tôi là hắn cho phép tôi về thăm cha
mẹ. Cuối cùng thì tôi cũng được toại nguyện, về thăm gia đình một chuyến.

Vừa về đến nhà, gặp cha tôi. Ông nói ngay: “Nujood. Bây giờ
con đã là người phụ nữ có gia đình. Con phải ở với chồng con. Nếu con ly dị
chồng con, anh em, họ hàng của cha sẽ giết cha mất. Danh dự của gia đình là
trên hết.”.

Tôi bèn đi thăm dì Dowla. Bà là vợ thứ hai của cha tôi. Bà
sống với năm đưá con cuả bà trong một apartment rất nhỏ gần nhà của chúng tôi.
Tôi leo hết bực cầu thang, vừa đi vừa bịt mũi vì mùi hôi thối của đống rác, và
dẫy cầu tiêu công cộng gần đó. Dì Dowla mở cửa đón tôi vào với nụ cười rạng rỡ
trên môi.

“Nujood! Con đến thăm dì, làm dì ngạc nhiên quá. Dì mừng được gặp lại con. Vào nhà chơi đi con.”.

Tôi rất thích dì Dowla. Dì có dáng cao và gầy. Dì đẹp hơn
mẹ Omma của tôi nhiều, và dì không bao giờ rầy la tôi. Tội nghiệp dì sống khổ
lắm. Cha tôi hầu như không bao giờ ngó ngàng đến gì. Nghèo quá, dì phải ra
đường đi ăn xin.

Tôi dốc bầu tâm sự kể cho dì nghe hoàn cảnh hiện tại của
tôi. Câu chuyện làm cho dì xúc động mạnh. Dì lặng yên suy nghĩ một hồi lâu,
trong lúc dì pha trà cho tôi uống. Đưa chén trà cho tôi, dì nhìn thẳng vào mắt
tôi, cúi đầu nói thật chậm, và rõ ràng:

“Nujood, nếu không có ai muốn nghe hoàn cảnh của con, con
phải đi đến toà án để trình bầy trường hợp của con.”. Dì nói nhỏ bên tai
tôi.Tôi hỏi lại cho rõ:

“Đi đâu hả Dì?”

“Đi đến toà án làm gì?”

Trong chớp mắt, những hình ảnh các vị quan toà đầu chít
khăn cao, các luật sư đi đứng vội vàng trong toà án, và những người dân thường
đàn ông, đàn bà  ra toà để thưa kiện về những việc rắc rối trong gia đình,
trộm cắp, tranh dành tiền thừa kế. Tôi đã được xem trên truyền hình về sinh
hoạt ở toà án tại nhà một người hàng xóm.

Dì Dowla tiếp tục giải thích thêm: “Con hãy ra toà hỏi thăm xem quan toà có thể giúp gì cho con được không. Công việc của họ là giúp đỡ nạn nhân bị hà hiếp.”.

Sáng hôm sau, tôi nôn nóng ngồi chờ mẹ tôi thức dậy. Bà đến
và cho tôi 150 đồng rials. Bà dặn dò: “Con cầm lấy tiền ra mua bánh mì để ăn
sáng.”.

“Thưa mẹ vâng!”.Tôi ngoan ngoãn trả lời mẹ tôi.

Tôi đi theo con đường quen thuộc để đến tiệm bánh mì. Nhưng
đến phút chót, tôi đổi ý, ra đường lộ chính mà đi.

Tuy vậy, tôi không biết toà án ở đâu. Trong đầu tôi lúc đó
đầy ắp những lo âu, sợ hãi. Bị choáng mắt vì ánh đèn sáng trưng trên đường phố
chính, tôi cố gắng trấn tỉnh, sắp xếp những ý nghĩ lộn xộn trong đầu cho có thứ
tự. Trông thấy một chiếc Taxi chạy ngang, tôi dơ tay ra vẫy taxi. Tôi muốn dùng
taxi đi đến Bab-al-Yemen để gặp chị Mona trước đã.

Xe taxi ngừng. Ngồi vào trong xe, tôi lại đổi ý và nói:
“Tôi muốn đi đến toà án.”

 

Gặp Ông Quan Toà

Chánh án Abdo không dấu nổi sự ngạc nhiên, hỏi lại tôi: “Có phải con muốn xin ly dị, đúng không?”.

“Thưa vâng.”

“Nhưng… bộ con có gia đình rồi hay sao?

“Thưa vâng!”

Trông ông thật là đạo mạo, uy nghi. Chiếc áo sơ mi trắng ông mặc làm tăng vẻ đẹp của nước da mầu ô liu của ông. Nhưng khi nghe câu trả lời của tôi, mặt ông tối sầm lại.

“Nhưng con còn nhỏ quá mà, sao con lại có gia đình rồi?”

Không muốn phải trả lời câu hỏi của ông. Tôi nhắc lại câu
nói của tôi với giọng cương quyết: “Con muốn xin ly dị.”.

Ông bối rối suy nhĩ, lấy tay gãi râu, không hiểu ông có
đồng ý giúp tôi hay không.

Ông tiếp tục hỏi thêm: “Vậy tại sao con lại muốn ly dị?”

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông và nói: “Vì chồng cháu đánh đập
cháu mỗi ngày.”.

Câu trả lời của tôi như một cái tát vào mặt ông. Nét mặt ông trở nên đanh lại, lạnh lùng. Ông hỏi tôi một cách sỗ sàng: “Con vẫn còn trinh hay sao?”

Tôi cay đắng ngậm tủi hờn. Tôi hết sức xấu hổ khi phải nói về chuyện riêng tư này. Nhưng cùng lúc đó, tôi linh cảm rằng ông là người thấu hiểu nỗi đau đớn của tôi, nếu tôi muốn ông giúp thắng kiện, tôi phải nói thật mọi chuyện với ông.

“Không. Con đã mất trinh rồi, con bị chảy máu.”

Ông bị xúc động nặng. Tôi đọc thấy nét kinh ngạc trên mặt
ông. Ông muốn che dấu cảm xúc của mình. Sau đó, tôi thấy ông hít vào một hơi
dài, và nói: “Ta sẽ giúp con.”.

Tôi cảm thấy được an ủi, yên tâm. Tôi nhìn ông run rẩy cầm
chiếc điện thoại trong tay. Nếu trời cho tôi gặp may mắn, ông quan toà này sẽ
can thiệp giúp tôi, và chiều nay tôi có thể trở về nhà cha mẹ mình, chơi với
các anh chị em tôi như trước đây. Được Ly Dị!! Đó là điều tôi ước mơ nhất trong
lúc này. Tôi sợ phải trở về nhà chồng ngồi một mình, khi màn đêm buông xuống,
tôi phải nằm cạnh người đàn ông đó.

Một vị thẩm phán thứ hai bước vào phòng để bàn về chuyện
của tôi, ông làm mọi niềm hy vọng của tôi tan vỡ ra từng mảnh.

“Cháu bé à, chuyện của cháu sẽ phải mất nhiều thì giờ mới
gỉải quyết được. Nó không đơn gỉản như cháu nghĩ đâu. Và điều đáng tiếc là ta
không hứa chắc con sẽ thắng kiện được đâu.” .

Vị quan toà thứ hai này là ông Mohammad al-Ghazi. Ông là vị
quan tòa cao cấp nhất của toà án. Ông nói ông chưa hề thấy một trường hợp nào
tương tự như vụ của tôi. Ông giải thích cho tôi biết ở Yemen, con gái thường
lấy chồng rất sớm, trước khi đến tuổi luật định là 15. Chánh án Abdo gỉải thích
thêm đó là một tập quán cổ truyền có từ lâu lắm rồi. Nhưng theo ông hiểu, không
có vụ hôn nhân, cưới gả lúc còn nhỏ tuổi nào  lại đi đến chỗ ly dị, bởi vì
ông chưa hề thấy một cô gái trẻ tuồi ra toà xin ly dị.

Thẩm phán Abdo gỉải thích xong, và nói với tôi: “Chúng tôi
sẽ tìm cho cháu một luật sư.”.

Họ có biết rằng nếu tôi về nhà, không có sự bảo đảm của họ,
chồng tôi sẽ giam giữ tôi, và tiếp tục đánh tôi?.

Tôi trợn trừng mắt và nói rất cứng với ông: “Con muốn được
ly dị.”. Nói xong, chính tôi cũng phải ngạc nhiên, và lo sợ trong bụng. Không
ngờ tôi dám nói thẳng thừng như vậy.

Ông chánh án Al-Ghazi sửa lại khăn cuốn trên đầu, và nói
với: “ Ta sẽ nghĩ cách giúp con. Không thể cho cháu bé này về nhà được đâu.”.
Lúc đó, có thêm vị quan toà thứ ba, ông Abdel Wahed, tình nguyện giúp một tay.
Ông cho biết nhà ông có dư phòng cho tôi ở tạm. Ông sẽ nhận tôi vào tá túc một
thời gian.

Đến chín  giờ sáng hôm sau, ngày thứ Bảy, chúng tôi
cùng đến văn phòng làm việc của ông Abdel Wahed ở toà án. Có mặt trong phòng
còn có các ông Abdo và Mohammad al-Ghazi. Ông Al-Ghazi tỏ vẻ lo lắng. Ông nói
với tôi: “ Chiếu theo luật Yemen, rất khó cho cháu làm đơn thưa kiện chồng và
cha cháu.”. Giống như nhiều trẻ em sinh ra trong làng quê ở Yemen, tôi không có
giấy khai sinh, và tôi lại quá nhỏ để làm đơn khởi tố, hay thưa kiện. Một hợp
đồng đã được chấp thuận, và ký kết bởi những người đàn ông lớn tuổi trong gia
đình tôi. Theo tập quán của Yemen, hợp đồng như thế là hợp pháp, và có gía trị.

Ông Mohammad al-Ghazi bàn với các vị thẩm phán đồng sự:
“Ngay lúc này, chúng ta phải hành động thật nhanh. Tôi đề nghị chúng ta tạm
thời bắt giam chồng và cha của em Nujood. Nếu chúng ta muốn che chở cho em bé
gái này, chúng ta phải tạm giam hai người đàn ông đó lại, không cho họ được tự
do.”.

Bỏ tù cha tôi! Trời đất! Liệu rằng Aba có tha thứ cho tôi
cái tội tầy đình này hay không? Lòng tôi chan chứa tủi nhục, và cảm thấy mình
tội lỗi vô cùng.

Ba ngày sau đó, tôi có mặt ngoài toà án hầu như suốt cả
ngày, hy vọng sẽ tìm ra được một giải pháp mầu nhiệm nào đó. Tôi sẽ còn phải ra
toà bao nhiêu lần nữa, Chánh án Abdo từng báo trước cho tôi biết rằng vụ kiện
của tôi hết sức dị thường, đặc biệt. Nhưng không hiểu các vị quan toà sẽ xử trí
ra sao khi họ đối đầu với trường hợp như thế này.

Tôi học hỏi và tìm được câu trả lời từ bà luật sư Shada.
Người ta đồn rằng bà Shada là một nữ luật sư giỏi nhất xứ Yemen, bà chiến đấu
hết mình để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Bà là một phụ nữ đẹp, đứng cạnh
bà, tôi ngửi thấy mùi hoa lài thơm ngát. Ngay khi vừa gặp bà lần đầu, tôi đã
thích bà. Bà không mang lưới che mặt. Bà hay mặc tấm áo dài bằng luạ màu đen,
và vấn trên đầu một khăn choàng nhiều mầu.

Khi đến gặp tôi lần đầu, tôi thấy bà tỏ ra hết sức xúc
động, và thương cảm cho tôi. Bà nói: “Trời đất ơi! Cháu còn bé quá.”. Ngay sau
đó bà lật cuốn sổ ghi hẹn của bà, và bà liên tục gọi cho gia đình, bạn bè, và
đồng nghiệp để sửa lại lịch trình làm việc vô cùng bận rộn của bà. Bà nói với
những người này nhiều lần: “Tôi vừa mới nhận bào chữa cho một vụ hết sức quan
trọng..”.

Cuối cùng, bà nói nhỏ bên tai tôi: “ Nujood, em yên trí,
tôi sẽ không bỏ rơi em đâu.”. Tôi càm thấy an toan khi ở cạnh bà. Bà biết dùng
chữ thật đúng để nói về hoàn cảnh của tôi. Âm thanh dịu dàng trong lời ăn tiếng
nói của bà làm tôi thoài mái, yên lòng.

 

Vụ Ly Dị Được Chấp Thuận

Ngày trọng đại đến sớm hơn sự mong đợi của tôi. Rất nhiều người đến dự phiên toà nhờ chiến dịch quảng bá cuả bà luật sư Shada . Tôi chưa bao giờ thấy nhiều máy chụp ảnh, và máy thu hình  như vậy. Đằng sau tấm khăn choàng đầu mầu đen, mồ hôi đổ ra ướt đẫm trên người tôi.

Nhưng tự trong đáy lòng tôi, tôi cảm thấy lạnh căm vì lo sợ, và có nhiều toan tính trong đầu. Tôi ngồi yên, không nhúc nhích. Không biết kết qủa vụ án ly dị sẽ như thế nào? Nếu hắn chỉ trả là không đồng ý cho tôi ly dị thì tôi sẽ ra làm sao? Lỡ hắn cả gan lên tiếng hăm doạ các ông quan toà thì hậu quả như thế nào?

Lo thầm trong bụng, người tôi phát lạnh run: Tôi trông thấy
cha tôi và con ác qủi  xuất hiện. Họ được hai người lính hộ tống đi ra
trước toà. Hai tù nhân trông có vẻ tức giận lắm, tên ác qủi cúi đầu nhìn xuống
đất, rồi đột nhiên hắn ngẩng mặt lên, quay lại nhìn bà luật sư Shada. Hắn mỉa
mai nói: “Coi bộ mày hãnh diện quá hả?” .

Bà Shada tỉnh bơ, không chớp mắt. Cái nhìn của bà cho thấy
bà sẵn sàng thách thức tên này. Tôi học được ở bà nhiều bài học quí báu.

Bà nói nhỏ với tôi: “Đừng thèm nghe hắn nói.”.

Tim tôi đập mạnh. Khi ngước mắt nhìn lên, tôi chợt bắt gặp
tia nhìn của Aba, cha tôi. Trông ông có vẻ tức giận, buồn phiền nhiều lắm. Ông
từng nói với tôi về hai chữ “Danh Dự”. Nhìn vào mặt ông lúc này tôi mới hiểu ý
nghĩa của cái từ phức tạp này. Tôi có thể đọc được trong ánh mắt của ông vừa
tức giận vừa xấu hổ. Tôi giận ông lắm, nhưng tôi cũng không khỏi ân hận dùm cho
ông. Sự kính trọng của người khác dành cho ông rất  quan trọng ở vùng này.

Bây giờ đến lượt quan toà Abdo lên tiếng:

“Ở đây chúng ta có một vụ kiện giữa một cô gái bị ép buộc
phải lập gia đình, không có sự ưng thuận của cô. Sau khi hợp đồng hôn nhân được
ký kết cô không biết, cô gái bị cưỡng bách đem đến sống ở tỉnh Hajja. Ở đây, cô
bị chồng hãm hiếp, vùi dập khi cô chưa đến tuổi dậy thì, và không sẵn sàng cho
chuyện sinh lý. Người chồng đó còn đánh đập, và sỉ nhục cô ta. Cô ra toà hôm
nay để xin toà án cho phép cô được ly dị.” .

Giây phút quan trọng sắp xảy ra khi bản án cho kẻ có tội
được tuyên đọc.

Quan toà phải gõ cái búa bằng gỗ  lên bàn vài lần để
vãn hồi trật tự, yên lặng.

Ông nói với con quái vật mà tôi thù ghét: “Hãy lắng nghe
cho kỹ những gì tôi sắp nói: Anh lập gia đình với một cô gái cách nay hai
tháng. Anh ngủ với cô ta, anh đánh cô ta. Có đúng hay không?”

Tên ác qủi chớp mắt hai ba lần, rồi hắn trả lời: “Không.
Điều đó không đúng. Cô ta và cha của cô chấp thuận cuộc hôn nhân này.”.

Tôi nắm vạt áo bà Shada, kéo mạnh, và nói:

“Nó nói láo.”.

Quan toà quay sang cha tôi và hỏi: “Ông có đồng ý về vụ hôn
nhân này hay không?”.

“Vâng, tôi đồng ý.”

“Con gái của ông bao nhiêu tuổi?”

“Con gái tôi 13 tuổi.”

Mười ba ư? Chưa hề có ai nói tôi 13 tuổi. Tôi vặn vẹo hai
bàn tay vào nhau để trấn an lòng mình.

“Tôi gả con đi lâý chồng đế nó không bị người khác bắt trộm
đem đi.”.

Tôi chẳng hiểu cha tôi muốn nói cái gì. Câu trả lời của ông
rất mơ hồ và khó hiểu, và những câu hỏi sau đó của quan toà càng lúc càng thêm
phức tạp. Người ta bắt đầu to tiếng với nhau. Kẻ bị truy tố lên tiếng biện
minh. Tiếng ồn ào trong phòng xử ngày càng to hơn, trong lúc tim tôi đập loạn
xạ, dồn dập.

Ông chánh án ra hiệu cho chúng tôi đi theo ông sang một
phòng khác, tránh sự bàn tán của công chúng. Ông quan toà hỏi: “Faez Ali
Thamer, anh có làm tình với cô gái trong đêm tân hôn hay không. Trả lời cho tôi
rõ có hay không?”

Tôi nín thở nghe hắn trả lời. “Thưa có”, hắn thú nhận,
“nhưng tôi đã làm rất nhẹ nhàng với cô ta. Tôi rất cận thận. Tôi không hề đánh
cô ta.”

Câu trả lời của hắn như một cái tát thật mạnh vào mặt tôi.
Nó làm tôi nhớ lại những đau đớn, tủi hờn tôi phải chịu đựng.

“Điều đó là sai, không đúng.”, Tôi hét lên cho thỏa cơn tức giận.

Mọi người quay lại nhìn vào tôi. Nhưng chính tôi cũng phải
ngạc nhiên không ngờ mình nóng giận đến thế. Sau đó, mọi việc diễn tiến mau
chóng, thông suốt. Thằng ác quỉ nói rằng cha tôi đã phản bội, không giữ đúng
lời hứa, khi ông không nói thật tuổi của tôi. Đến lúc đó thì Aba, cha tôi lại
nổi giận, khai toạc hết ra là thằng qủi nó hứa với cha tôi nó sẽ đợi chờ, không
đụng vào người tôi cho đến khi tôi khôn lớn. Thằng ác qủi tuyên bố rằng nó sẵn
sàng chấp nhận cho tôi ly dị với một điều kiện là cha tôi phải hoàn trả số tiền
mua đứa con gái về làm vợ. Và lúc đó, cha tôi bèn quật ngược lại. Ông nói rằng
hắn chưa hề trả cho cha tôi một món tiền nào cả. Đôi bên cãi nhau như những kẻ
buôn bán ở ngoài chợ: Trả hồi nào? Trả ở đâu? Trả bao nhiêu?

Cuối cùng, tôi được quan toà cứu thoát bằng án lệnh ông ban ra.

Ông tuyên bố: “Toà án cho phép ly dị.”

 

Tái bút:

Vụ ly dị của tôi đã làm thay đổi đời tôi. Mỗi khi tôi đi ra ngoài đường phố, nhiều phụ nữ, chị em bạn gái níu áo tôi hỏi thăm, và chúc mừng tôi đã thắng kiện. Lúc gần đây, tôi đã rời khỏi nhà chú tôi, trở về sống với cha mẹ tôi. Tất cả chúng tôi đều tìm cách quên đi những chuyện bất hạnh xảy ra cho tôi.

Cách đây vài tuần, những cơn ác mộng của tôi không còn nữa. Thay vào đó, tôi mơ đến một ngày được cắp sách đến trường đi học lại. Sau này, khi lớn lên, tôi sẽ học trở thành một luật sư, giống như bà Shada, để bênh vực những em gái khác nhỏ bé như tôi.

Ghi chú thêm: Cuốn sách về câu truyện có thật của em Nujood được phát hành, và bán rất thành công. Do đó, kết quả thu về đã giúp em và cả gia đình thoát khỏi cuộc sống nghèo túng. Bây giờ gia đình em đã mua được một căn nhà ở Sana để sống, và có lợi tức vững chắc. Một người bạn và cũng là cố vấn cho gia đình tiết lộ rằng em Nujood bây giờ trở thành một thiếu nữ 15 tuổi, em phải chật vật sửa đổi cách ứng sử vì em quá nổi tiếng. Em đang cố trau dồi Anh Ngữ, và muốn du học ở nước ngoài.

Tháng Tư năm 2009, quốc hội nước Yemen nâng tuồi thành hôn luật định của các em gái lên 17 tuổi, nhưng qua ngày hôm sau, đạo luật này bị tiêu hủy. Hiện nay, nước Yemen đang rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị, và đàn ông có thể lấy vợ nhỏ tuổi bao nhiêu cũng được.

Tóm lược cuốn tự truyện của Nujood Ali, cùng với sự phụ giúp của Delphie Minoui

Nguyễn Minh Tâm dịch
theo Reader’s Digest

Cảm Nghiệm Sống

Tu Tại Gia

“Thứ nhất thời tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu… dòng” (2)
(Mượn ý  Ca dao)

Có ba người cùng tôn giáo, một là nhà truyền giáo, một là tài xế lái xe đò và
một nông dân có vợ và 10 con. Ba người đều thâm niên 40 năm chức nghiệp, đã qua
đời trùng hợp cùng giờ, cùng một ngày và cùng được lên trình diện Chúa để xin
vào thiên đàng. Ba người cùng tới cửa một lúc nên Thánh Phê-rô mới nói: Các anh
đều đến cùng một lúc, hãy tự nhường nhịn nhau, vậy anh nào muốn vào trước?
Nhà Truyền Giáo nói:
“Hai anh dành cho tôi vào trước được không?” Bác tài và anh nông dân
kính nể vị lãnh đạo tinh thần, chẳc hẳn người có nhiều công lao, nên đồng thanh
cất tiếng cùng một lúc: chúng tôi xin nhường ngài vào trước.
Nhà truyền giáo rất lấy làm hãnh diện thấy mình được nhường, cúi đầu chào thánh Phê-rô và chững chạc tiến vào cửa Thiên Cung quỳ trước Thiên Nhan tâu:
– Tấu lạy Chúa, con là nhà truyền giáo làm việc thay thế các Tông Đồ, suốt 40 năm chuyên lo rao giảng Lời Chúa nhân từ cho giáo dân, xin cho con được vào Thiên Đàng trước.
Chúa ngắm Nhà Truyền Giáo một cách rất trừu mến, xuất khẩu thành thơ, Ngài
phán:
  1. Bốn mươi năm dạy dỗ Lời Cha
Con giảng giáo dân ngủ gật gà
Đâu hiểu Phúc Âm mà áp dụng
Ra ngoài tạm nghỉ, đợi chờ ta.
Nhà truyền giáo lủi thủi lui ra, bác tài xế nói với anh nông dân: “Chú nhường cho tớ vào trước nhé vì tớ thường   chở chú đi đây… đó đó.” Anh nông dân gật đầu
chấp nhận vào sau chót.
1) Tu dòng không dễ bị cám dỗ – vì một trong những điều hứa là sống đời khó nghèo
. . . người nghèo đến ngay giữa chợ không người chào hỏi “bần nhân đáo thị
vô nhân vấn
” nên ai thèm cám dỗ. . .(đây chỉ là quan niệm cá nhân của kẻ
viết bài này thôi.)
Bác tài nhanh nhảu cũng cúi đầu chào thánh Phê-rô, rồi tiến vào cửa Thiên Cung quỳ xuống, ngẩng mặt lên chiêm ngưỡng Chúa và tâu:
– Tấu lạy Chúa: Con làm tài xế lái xe đò, suốt 40 năm con phục vụ đồng bào,
chuyên chở vợ đi thăm chồng, con đi thăm cha, đem tình thương yêu đến với mọi
người. Thỉnh xin Chúa cho con được vào Thiên Đàng sớm.
Chúa nhìn anh tài xế, Ngài mỉm cười: Ừ, kể ra con cũng có nhiều công to đáng được thưởng, tuy nhiên con tạm ra ngoài nghỉ, chờ Cha xem kỹ lại một số hồ sơ vừa trình lên thưa con, kiện tụng vì bị thương dập mũi, trầy trán. . . gì đó mà Cha chưa kịp xem hết; cũng xuất khẩu thành thơ, Ngài phán:
  1. Xe đò chuyên chở khách đi xa
Thăm viếng chồng, cha cũng tuyệt mà
Đáng thưởng Thiên Đàng nhờ lái giỏi!
Mỗi lần con thắng . . . chúng kêu Ta!”
Bác tài xế cũng chưa được vào, phải lui ra và ngồi chờ.
Đến lượt anh nông dân, anh rụt rè sợ sệt vì nghĩ bụng hai người có công lớn như vậy mà chưa được vào. Còn mình chỉ có cày sâu cuốc bẫm trồng trọt để nuôi vợ, nuôi con, đâu có công lao gì…làm sao vào nổi Thiên Đàng, nên rất hồi hộp lo âu..! Anh trịnh trọng cúi đầu chào thánh Phê-rô và nhỏ nhẹ thưa; bẩm ngài, con được phép và chưa? Thánh Phê-rô gật đầu và  nói:
– Con hãy vào trình diện Chúa đi.
Anh nông dân rụt rè tiến vào, còn cách cửa thiên cung cả trăm bộ anh đã qùy xuống và di chuyển bằng hai đầu gối, gần đến cửa anh cúi rạp đầu khúm núm tâu:
– Bẩm lạy Cha nhân từ: Con là một nông dân dốt nát, nghèo hèn, bốn mươi năm chỉ biết, cày sâu cuốc bẫm, trồng trọt để nuôi vợ và 10 đứa con, bữa tối còn phải phụ bà xã rửa chén, cuối tuần còn phải lau nhà nữa. Xin Cha rộng lòng thương cho con được nương náu dưới mái nhà yêu mến của Cha là sung sướng lắm rồi. Con xin tình nguyện làm bất cứ việc gì con cũng xin vâng theo…!
– Chúa nhìn anh nông dân trừu mến Ngài phán: Con quả thực có công lớn, vì:
– Làm chồng chiều vợ tuyệt vời thay
Nhịn nhục khôn ngoan đáng bậc thày!
Chỉ bốn mươi năm con chịu… nổi
Thiên Đàng, Cha thưởng bước vô ngay.
Qua câu chuyện dí dỏm trên, cho phép ta suy luận. Bất cứ ở trong địa vị nào dù quan trọng hay không quan trọng, mỗi người chúng ta đều là một Tông Đồ của Thiên Chúa. Sự khiêm tốn hoàn thành sứ vụ của mình, không phân biệt dù lớn hay nhỏ đều có là giá trị, chứ không phải giá trị ở chức vụ. “. . . sau khi đã làm tất cả những
gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.(
Lc 17,10)
Chúng ta có yêu thương nhau, chúng ta mới biết nhường nhịn nhau. Vì có “khôn ngoan” mới biết nhịn nhục. Vì sự nhịn nhục và tha thứ sẽ làm cho tình yêu được bền vững, gia đình hòa thuận, mà gia đình chính là nền tảng của xã hội; là một giáo xứ nhỏ trong những giáo xứ của Giáo Hội. Quả thực xứng đáng là bậc
thày vậy!
Cảm  Tác
Thiên Đàng, nhà của Chúa Trời
Là nơi quê thật tuyệt vời, Ngài ban
Cho ai trách nhiệm chu toàn
Yêu thương chân lý, khôn ngoan thực hành.
Bần cùng hay bậc trâm anh
Tề gia khéo léo, mới rành trị dân.
Trần gian Thiên Ý vâng tuân
Đời đời hạnh phúc hồng ân chan hòa.
Ngày về Thiên Quốc hoan ca
Thiên Thần mở cửa, Chúa Cha chúc lành.
Hoài Việt Nguyễn Vĩnh Tường
1-Trích trong Thiên Nga Thoát Nam của tác giả.
– dongcong.net
Anh chị Thụ & Mai gởi

Ông Cha Và Ổ Chứa Nô Lệ Tình Dục

Ông Cha Và Ổ Chứa Nô Lệ Tình Dục

(01/04/2013)

Vietbao.com

Tác giả : Nguyễn Kim Dục

Tác giả sinh năm 1938, cựu sĩ quan an ninh quân đội, sang Mỹ
theo diện H.O. vào năm 1990, hiện đã về hưu và an cư tại Westminster. Ông tham
dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2008 và đã góp nhiều bài viết giá trị. Bài mới sau
đây mang tựa đề “Tu thành Linh Mục nhưng không thích làm “cha”
thiên hạ.” Công việc ông Cha này chọn là cải trang đi vào các động mãi
dâm, những ổ chứa, ổ buôn người, giúp giải cứu những nạn nhân bị buộc làm nô lệ
lệ tình dục.

Một hôm vợ tôi đi đâu về liệng ra 2 vé đi tham dự buổi tiệc gây quỹ tổ chức tại
nhà hàng Paracell. Tôi hỏi:

– Ai đứng ra gây quỹ?

– Một ông Cha.

– Cha nào?

– Em không biết tên.

– Hay nhỉ?

– Em chỉ biết có một Cha đứng ra tổ chức để gây quỹ cho tổ chức cứu giúp những
nạn nhân bán vào các động làm nô lệ tình dục ở các nước Đông Nam Á.

Vợ chồng chúng tôi thấy ai dù Thầy hay Cha đứng ra tổ chức đều rất sốt sắng
tham dự.

Hôm đó vào ngày cuối tuần, chúng tôi đến đúng giờ mà sao thiên hạ tham dự đông
thế, tìm mãi mới có chỗ đậu xe. Buổi tiệc hôm nay không thấy quảng cáo trên
đài, trên báo mà sao thiên hạ bảo nhau đi đông thế. Chúng tôi vào trong thì các
bàn đã đông đủ mọi người chờ giờ khai mạc.

Chả thấy ai giới thiệu tự nhiên nhìn thấy ông Cha xuất hiện trên sân khấu cầm
micro tự giới thiệu linh mục Nguyễn-Bá-Thông, vợ tôi khèo vai tôi nói cha này
đấy làm tôi cũng phì cười. Cha còn trẻ khoảng 36, 37 tuổi là cùng. Cha xưng
“Con” với mọi người tham dự một cách tự nhiên.

Cha cho biết hôm nay tổ chức của Cha với Website onebodyvillage.com phối hợp
với Hopetoday.com tổ chức bữa tiệc gây quỹ để giúp cho những người con gái và
trẻ em bị bán vào các động mãi dâm ở vùng Đông Nam Á. Tổ chức này đã âm thầm
hoạt động từ năm 1998 và đã cứu được biết bao nhiêu người kể cả trẻ em từ các
động mãi dâm không phải cứu họ ra rồi để mặc họ muốn sống làm sao thì sống mà
lập ra những làng nhỏ để họ sống, trong đó dạy học, huấn nghệ hầu có một nghề
tự nuôi sống bản thân để sau này không quay về con đường cũ. Tổ chức đã thành
lập nhiều làng ở Singapore, Campuchia và ở Việt Nam. Những nạn nhân được cứu ra
thường mắc những bệnh xã hội được các bác sĩ ở bên Hoa Kỳ về bên ấy chữa bệnh
như bác sĩ Nguyễn Thanh Tâm mà họ âm thầm đóng góp cả công và của. Thật đáng
quí thay. Công việc của họ không bao giờ thấy họ lên đài tuyên bố này nọ.

Cha nói đưa ra những dẫn chứng lôi cuốn người nghe, mọi người chăm chú nghe cha
nói quên cả ăn, cuối cùng Cha nói thôi bây giờ con xin mời quý ông bà, cô bác
ăn đi đã chứ con chiếu những thước phim hay slide những cảnh con đã chứng kiến
thì quý vô bác ăn mất ngon. Cha liền báo nhà hàng đem đồ ăn ra. Đồ ăn đem lên
hết món này đến món khác ăn mệt nghỉ, tôi thấy nhà hàng cho ăn hậu hĩnh quá
liền ghé tai vợ tôi nói nhỏ “Mình mua có $25 một vé mà cho ăn như vầy thì
hết mẹ nó rồi còn đâu mà đóng góp gây quỹ.” Vợ tôi nói: “Anh đi kiếm
một cái bao thơ mình bỏ tiền vào đấy, ngoài phong bì đề dấu tên rồi đưa cho ban
tổ chức.” Tôi hỏi “Bao nhiêu?”  Vợ tôi dơ một ngón tay. Tôi
biết tôi phải làm gì rồi.

Trong lúc mọi người ăn tiệc có ca sĩ Tâm Đoan lên hát giúp vui 2 bài với sự
điều hành của cô Christine Sa sôi động, làm cho thực khách vui theo ngoài ra
cũng có một số thực khách lên giúp vui nữa,  đó là những người có tấm lòng
đáng quí.

Sau khi ăn xong, Cha lại lên bục nói cha nói chứ không giảng giáo lý, Cha nói
những trường hợp mà cha đã trải qua trong các ổ mãi dâm cha phải thay tên đổi
họ để trà trộn trong nơi chốn đó có khi giả làm người ngoại quốc như người
Singapore để nghe những người gái VN nói chuyện với nhau vì đâu họ ra nông nỗi
này. Phải vào tận hang ổ mới tìm ra đầu mối để đưa những tên đầu sỏ ra tòa.
Công việc của Cha làm rất là nguy hiểm mất mạng như chơi nhưng Cha có niềm tin
có ơn trên cứu giúp nên đã vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm.

Sau đó Cha đã cho chiếu những thước phim chiếu những cảnh những em bé 5, 6 tuổi
bị bán vào các ổ mãi dâm bị hành xác như thế nào. 5, 6 tuổi biết cái gì? Để làm
vật vui chơi cho những kẻ bịnh hoạn. Nhìn những cảnh ấy không ai cầm được nước
mắt! Mọi người theo dõi trên màn ảnh cảnh tượng xảy ra như trong phim do một
đạo diễn tài ba dàn dựng không ngờ ngoài đời lại có những cảnh xót xa, đau đớn,
đốn mạt cùng cực như thế. Cả hội trường mấy trăm người im phăng phắc không một
tiếng động nhưng thỉnh thoảng cũng có tiếng nấc của một vài người không cầm
được lòng. Mặc dầu, buổi tiệc đã tàn từ lâu nhưng không ai muốn bỏ ra về trên
bục Cha vẫn nói, nói những điều mà Cha đã trải qua trong các động, phải cải
trang nhiều cách để không bị lộ một nhà tu đi trụy lạc nhưng cũng không tránh
khỏi những trận đòn thừa sống thiếu chết của những đường dây buôn bán người vì
chúng cho rằng người này không phải tay chơi thứ thiệt mà vào để lấy tin tức.

Sau đó có bác sĩ Thanh Tâm lên trình bày công tác y tế ở các làng mà tổ chức đã
thành lập ở Việt Nam, Campuchia, Lào và Singapore. Họ đã đến các trại chữa bệnh
cho các nạn nhân đã được cứu thoát ra từ các động, xây dựng họ có cuộc sống
lành mạnh để không trở về con đường cũ. Bác sĩ Thanh Tâm là chủ tịch  Hội
Đồng Quản Trị mà cha Thông là một trong chín thành viên.

Nói chung buổi tiệc gây quỹ rất thành công đã trình bày cho mọi người tham dự
biết được việc làm của tổ chức mà lâu nay ít ai được biết.

Buổi tiệc gây quỹ chỉ chấm dứt khi nhà hàng cho biết đến giờ đóng cửa, mọi
người ra về với tâm hồn nặng trĩu, thương cảm những nỗi bất hạnh của những
người con gái bị bán vào những đường dây làm nô lệ tình dục. Mình may mắn được
sống ở Mỹ có cuộc sống bình yên quá, đâu có biết các nơi trên thế giới còn có
những cảnh đáng thương như vừa rồi đã được cha Nguyễn Bá Thông cho biết chính
Cha suốt mười mấy năm nay đã lăn lộn vào sanh ra tử để cứu vớt những người lâm
vào hoàn cảnh bi đát. Cha, hay quá! Tôi tự nhủ bữa nào phải “phỏng
vấn” Cha mới được. Nói phỏng vấn cho oai chứ mình có phải nhà báo, nhà
truyền thông đâu mà đi phỏng vấn! Nhưng mà nhất định phải gặp Cha, nghe cha trò
truyện thêm.

Mấy ngày sau, tôi vào website và tìm ra được số phone của Cha Thông là số phone
này (706) 825-3032 nhưng liêc lạc mấy lần không được phúc đáp, chỉ nghe lời
nhắn là để lại tên và số phone sẽ gọi lại sau. Đợi mãi cũng không thấy Cha gọi
lại, cũng hơi thất vọng rồi cũng quên đi. Bẵng đi một thời gian hơi lâu vào một
ngày đẹp trời Cha gọi lại, ôi thật là sung sướng nỗi vui đến không sao kể xiết.
Cha cho biết mới ở Campuchia về. À, thì ra lúc mình gọi Cha ở nước ngoài làm
sao trả lời được.

– Thưa Cha, Cha đừng xin con với con tội chết.

– Chú là hàng Cha, hàng Chú con nhỏ tuổi phải xưng con mới phải phép.

– Thưa Cha con có đi tham dự buổi tiệc gây quỹ của cha ở nhà hàng Paracell, con
thấy việc làm của Cha con thích quá, con muốn viết một bài báo về Cha, Cha có
đồng ý không?

– Công việc của con cũng chưa được phổ biến lắm, nếu chú viết thì con cảm ơn
lắm.

– Thế bây giờ Cha có rảnh không, con muốn biết đôi điều về Cha.

– Rảnh, chú cứ hỏi.

– Trước hết Cha cho con biết một ít về thân thế của Cha.

– Bố là Sĩ Quan QLVNCH huấn luyện nhảy dù, cấp bậc Trung Tá. Mẹ nữ quân nhân.
Khi Sài Gòn mất vào tay Cộng sản thì bố mẹ đi vào tù trong lúc mẹ con mang thai
con mới một tháng. Ở tù được 8 tháng gần đến ngày sinh, thấy mẹ con ốm yếu,
kiệt sức sắp chết thì họ cho ra về để sanh. Bố con có nhắn ra nếu con gái thì
đặt tên là… và con trai đặt tên là Nguyễn Bá Thông nên bây giờ tên con là
Nguyễn Bá Thông dù đã vào quốc tịch Mỹ nhưng không đổi tên.

– Lúc sanh Cha ra chắc mẹ Cha gặp khó khăn lắm phải không?

– Dạ thưa đúng, sau này con được biết là mẹ con ở trong tù thiếu ăn nên kiệt
sức tưởng là chết ở trong trại nên Cộng sản phải cho mẹ ra ngoài nếu có chết
thì cũng đỡ mang tiếng. Mẹ con sanh con ra èo uột khó nuôi tưởng chết vì thiếu
sữa mẹ con phải ăn bobo thay sữa nên tướng con nhỏ thó không giống như cha con
tướng to lớn.

– Vâng con đã thấy Cha ở trên sân khấu, tướng nhỏ con, mặt búng ra sữa, dáng
thư sinh mà đã khoác áo Cha. Rồi sau đó thế nào, thưa Cha?

– Mẹ con con sống lây lất nay chỗ này, mai chỗ kia. Ba con đi tù sau mười mấy
năm mới được ra, sau đó có chương trình HO gia đình con đã được đi Mỹ. Vào Mỹ
05/02/93 HO15 và đến Chicago Illinois lúc đó con được 16 tuổi, học trung học.
Sau đại học 2 năm người bạn gái khuyên con đi tu, con nghe theo ghi tên vào
trường dòng đến ngày 5/6/2004 con được thụ phong linh mục và làm Phó Sứ cho 3
Giáo Sư các con chiên đoàn là người Mỹ. Con là người Á Châu đầu tiên và duy
nhất địa phận Savannah ở Georgia. Hiện giờ người bạn Mỹ hồi xưa khuyên con đi
tu đã ra bác sĩ sống gần bố mẹ con và săn sóc 2 cụ.

– Thưa Cha, Cha đã học ra Linh Mục sao không làm Mục Vụ mà lại tìm con đường
gai gốc mà đi?

– Ở VN con có thời gian sống trong nghèo đói nên con thông cảm nỗi bất hạnh của
những người cùng cảnh ngộ. Sang đến Mỹ khi thời gian học trung học con đến cùng
bạn bè vào ngày thứ 6 mỗi tuần nấu ăn cho người vô gia cư. Từ năm 1999, con
cùng các bạn đồng chí hướng về Campuchia sống với trẻ bụi đời mới phát hiện ra
có những tổ chức buôn bán trẻ em để làm nô lệ tình dục. Từ đó con bàn với anh
em làm sao cứu giúp những người đó ra khỏi các động. Cũng năm đó thay vì con đã
học y khoa một năm rồi con xin vào học trường dòng để con có rộng thì giờ theo
đuổi mục đích của con.

– Tổ chức của Cha đã cứu giúp được bao nhiêu người giải thoát ra từ các động?

– Ngày hôm nay có 583 em, cộng thêm 128 em trước đó nữa, số này chia ra làm mô
hình gia đình cứ từ 7 đến 12 em làm một nhóm rồi có bác sĩ đến chữa bệnh cho họ
và dạy cho họ một nghề thích nghi với năng khiếu của họ sau này ra khỏi trại có
1 nghề nuôi thân, không tìm đi vào đường cũ nữa. Tổ chức của con không có cứu
giúp họ ra rồi bỏ mặc họ sống ra sao thì ra mà còn giúp họ tìm một cuộc sống
mới. Các mô hình này rải đều khắp các nước Đông Nam Á không cứ ở VN.

– Việc cha ra vào VN, chính quyền sở tại có gây khó dễ cho Cha trong việc đi
đứng?

– Họ có nói thẳng với Cha vào VN không được làm chính trị, chỉ làm công tác
nhân đạo thôi.

– Cha làm công việc này có nguy hiểm không?

– Cá nhân bị các chính phủ bắt 14 lần và bị đánh thừa sống bán chết, có lần đổ
máu tai và một lần gẫy xương sườn bên trái. Đến năm 2008, tổ chức của con mới
ra công khai và có budget 150 ngàn của tư nhân. Tổ chức có mấy trăm anh em chỉ
mình con ra mặt vì nghĩ họ còn có gia đình, còn con không vướng bận gì nên con
chấp nhận mọi hiểm nguy.

– Động cơ nào thúc đẩy cha vào con đường này?

– Cũng do bốn câu thơ của cụ Phan Bội Châu

– Cha có thể cho biết bốn câu thơ như thế nào?

– “Sống tưởng công danh không tưởng nước

Sống lo phú quí chẳng lo đời

Sống mà như thế đừng nên sống

Sống tủi làm chi đứng chật trời.”

(Bốn câu thơ trên Cha đọc chỉ một lần tôi ghi vội không biết có đúng không, nếu
sai xin bỏ qua cho)

– Thưa Cha, gia đình có mỗi một người con mà Cha đi tu các cụ có phản đối
không?

– Không những không phản đối mà còn khuyến khích nữa.

– Ngoài ra có ai phản đối cha không?

– Có hôm nọ trên đài phát thanh ở Houston phỏng vấn con về tổ chức của con, sau
đó đài có cho thính giả gọi vào thì có một người gọi vào chửi con, nói xin lỗi
chú :”Đ.M Cha không đi giảng mà làm chuyện ruồi bu.” Con bị gọi 2 lần
bị chửi.

– Tội nghiệp Cha quá. Xin ơn trên phò trợ Cha. Con cảm ơn Cha nhiều đã dành ít
thì giờ cho con.

– Chào chú khi nào cần chú cứ gọi cho con.

– Kính Cha.

Nguyễn Kim Dục

Nguồn: Việt Báo