Những mẩu chuyện rất ngắn, rất hay

Những mẩu chuyện rất ngắn, rất hay

http://

Quà sinh nhật


Trong năm đứa con của má, chị nghèo nhất. Chồng mất sớm, con đang tuổi ăn học. Gần tới lễ mừng thọ 70 tuổi của má, cả nhà họp bàn xem nên chọn nhà hàng nào, bao nhiêu bàn, mời bao nhiêu người. Chị lặng lẽ đến bên má: “Má ơi, má thèm gì, để con nấu má ăn?” Chưa tan tiệc, Má xin phép về sớm vì mệt. Ai cũng chặc lưỡi: “Sao má chẳng ăn gì?” Về nhà, mọi người tìm má. Dưới bếp, má đang ăn cơm với tô canh chua lá me và dĩa cá bống kho tiêu chị mang đến… (ST)

Sầu Riêng

http://

– Mẹ, sầu riêng rộ. Mẹ mua cho Nội một trái đi Mẹ. Nội nói cả chục năm rồi Nội chưa ăn múi nào hết. – Bên đây sầu riêng mắc như vàng, của đâu mà cho Nội mày ăn cho đủ. Tao hầu Ba mày mệt rồi, thêm Nội mày nữa có nước đem chôn tao sớm. Thằng Tí như bị hụt hẫng trước câu trả lời của Mẹ nó. … Mùa sầu riêng năm sau, Nội nó mất. hôm giỗ đầu, Mẹ nó mua một trái sầu riêng thật to để trên bàn thờ. Mẹ nó nói với mọi người: – Má chồng tôi hảo sầu riêng lắm. Mắc cách mấy tôi cũng ráng mua để cúng Má tôi. Mọi người khen Mẹ nó là dâu thảo. Chỉ có thằng Tí biết. Nó lặng lẽ đến cạnh bàn thờ thì thầm: – Xin Nội tha lỗi cho Mẹ con


BÔNG ĐIÊN ĐIỂN

Xưa, em sống ở quê. Mùa lũ, em ngâm mình mò củ ấu, hái bông điên điển . Tuổi mười lăm ngai ngái mùi bùn.
Em tìm về thành phố. Học đi, học nhảy, học liếc mắt cười tình. Tuổi thiếu nữ đôi mươi vành vạnh, thơm phức và kiêu hãnh.
Một bữa, em chạy ra từ trong khách sạn. Chiếc giày cao gót lật quai lăn tõm xuống cống đen ngòm để lộ đôi chân phèn tứa máu. Em khóc tức tưởi. Nước mắt ân hận làm trôi những thứ bôi trét giả tạo. Khuôn mặt lộ dần những nét quê xưa.
Em chợt nhớ những cánh hoa điên điển sắp tàn còn kịp ửng vàng trước lúc hoàng hôn.
Nguyễn San


EM TÔI


Bám đất Sài Gòn sau 3 năm ra trường, tôi vẫn không xin được việc. Đôi cua dạy kèm, khi chẳng đủ trang trãi lại phải nhờ nguồn “trợ cấp”ở quê. Vừa rồi, đau ruột thừa, nằm viện. Mẹ vượt ngàn cây số vào thăm. Ngày về, dúi vào tay tôi chỉ vàng, bảo: “Của cái Lan, nó dặn con dùng để hồi sức, viện phí và tiền gởi vào cho con trước đây cũng một tay nó cả. Tội nghiệp! Dạy thêm tít mù, còn nuôi thêm cả lợn”.
…Nhớ ngày Lan trượt đại học, thư về tôi mắng chẳng tiếc lời…
Cầm món quà của em, tôi chỉ còn biết nuốt nước mắt vào trong.

Ngày xưa – Huỳnh Văn Dân –


Thuở nhỏ, nhà tôi nghèo lắm. Mỗi chiều, anh em tôi thường tụ lại bên nồi cơm độn khoai sắn, ríu rít như đàn chim về tổ. Thiếu thốn nhưng chúng tôi nhường nhau phần thức ăn ngon nhất, mẹ tôi rất vui lòng.
Khi chúng tôi khôn lớn, có gia đình riêng, ai cũng khá giả. Hôm giỗ ba, có mặt đông đủ, anh Hai tôi phàn nàn với mẹ cây xoài của anh Ba mọc chồm qua sân nhà anh. Chị Ba trách anh Tư đào ao lấn qua phần đất của chị hai tấc. Mẹ tôi trầm ngâm: “Mẹ ước gì được trở lại thời nghèo khó ngày xưa.”

Ca dao thương mẹ – Trung Dung –

Ba bị tai nạn mất khi mẹ chưa bước vào tuổi bốn mươi. Mẹ ở vậy nuôi con.
Con lêu lổng chơi bời, mẹ khóc.
Con ngoan, học giỏi… Mẹ cũng khóc khi đốt nhang cho ba.
Hồi đó, con đâu hiểu sao ít thấy mẹ cười.
Lớn lên, nghe câu hát “… Mẹ đi lấy chồng con ở với ai…” Con lại khóc vì thương mẹ.

Tính Cách

Mẹ tôi buôn bán, chai lỳ trước cái cân cơm áo nhưng mẫn cảm trong nghệ thuật. Những nước mắt tình buồn phim ảnh, những sụt sùi số phận cải lương, bà đều hồn nhiên “ăn theo” một cách ngon lành. Có lần, cha tôi giỡn:
– Coi chừng trôi ti vi….
– Còn sách ông chưa viết ra đã hóa đá – Mẹ tôi trả miếng – Thế cũng mang danh nhà này, nhà nọ.
Một hôm, đang bữa ăn, bỗng nhiên mẹ tôi chạy vụt ra đường chận đường con bé bán trứng vịt lộn.
– Mày biến đâu tài thế. Hì! có chui xuống đất rồi cũng gặp tao – Bà vừa nói vừa giằng mủng trứng, đếm lấy trừ nợ.
– Dì ơi, cho con khất, mẹ con còn ốm!
– Nhà này cũng đang ốm đây – Mẹ tôi cười bù – Khỏi bẻm mép.
Con bé chưng hửng, lã chã nước mắt nhìn cải mủng không, rồi bưng lên, xiêu vẹo bước đi….
Cha tôi cám cảnh, quay mặt, rút mùi soa chấm mắt.
Lâu sau, ti vi phát vở kịch “Cô bé nghèo bán trứng bị xiết nợ”. Lúc ấy, mẹ tôi lại khóc, còn cha tôi thì cười.

(tác giả Nguyễn Thị Hoài Thanh)

Chú bé Lula

Chú bé Lula

Chú bé Lula ,sinh ra vào tháng 10 năm 1945, tại 1 gia đình nông dân ở Ba-Tây ( Brazil- Vì nhà nghèo ,nên từ lúc mới 4 tuổi ,thằng nhỏ đã phải đi bán đâu-phụng ngoài đường ,nhưng vẫn quần áo tả tơi ,và thiếu ăn .

Sau khi được lên tiểu học ,lúc đó đã dọn lên thủ đô Rio de Janeiro,sau buổi họcchú bé thường hay cùng với 2 người bạn cùng lứa đi đánh giầy ở đâu đường ,hôm nào không có khách ,thì coi như là nhịn đói.

Năm 12 tuổi ,vào 1 buổi xế chiều ,có 1 người khách ,là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần đến chiếu cố,3 đứa trẻ chạy lại chào hàng. Ông chủ tiệm nhin vào 3 cặp mắt van xin khẩn khoản đó ,không biết quyết định chọn đứa nào.Cuối cùng ông ta nói : Đứa nào cần tiền nhất ,thì tôi cho nó đánh giầy ,và sẽ trả công 2 đồng „

Công đánh 1 đôi giầy chỉ có 20 xu ,2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn .3 cặp mắt đều sáng lên.


Một đứa nhỏ nói : từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả ,nếu không kiếm được tiền hôm nay ,cháu sẽ chết đói !“

Đứa khác nói: „ Nhà cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay ,mẹ cháu lại đang bệnh,cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay ,nếu không thì lại bị ăn đòn…“ .

Cậu Lula nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ-tiệm ,nghĩ ngợi 1 lúc ,rồi nói : “Nếu cháu được ông cho kiếm 2 đồng này ,thì cháu sẽ chia cho 2 đưá đó mỗi đứa 1 đồng !!”

Câu nói của Lula làm Ông chủ Tiệm và 2 đứa nhỏ kia rất là ngạc nhiên.

Cậu giải thích thêm: “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi ,còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng,nên có sức đánh giầy hơn chúng nó, Ông cứ để cháu đánh đi ,chắc chắn Ông sẽ hài lòng”

Cảm động trước câu nói của thằng nhỏ,Ông chủ tiệm đã trả cho hắn 2 đồng bạc ,sau khi được hắn đánh óng đôi giầy.Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời , đã đưa ngay cho 2 đứa bạn mỗi đứa 1 đồng.


Vài ngày sau, Ông chủ Tiệm đã tìm đến thằng nhỏ Lula, nhận chú bé cứ sau buổi tan học là đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của ông ta ,và bao cả bữa cơm tối .

Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp ,nhưng so với đánh giầy thì khá hơn rất nhiều.

Thằng bé hiểu rằng :Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn ,nên mới đem đến cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời.

Từ đó ,miễn là có khả năng,chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình.

Sau ,Lula nghỉ học đi làm thợ trong 1 nhà máy, để bênh vực cho quyền lợi của những người thợ ,cậu ta tham gia vào công-đoàn ,năm 45 tuổi ,Lula lập ra đảng Lao-Công.

Năm 2002 ,trong cuộc ứngcử tổng-thống ,khẩu hiệu của Lula là : Ba bữa cơm no cho tất cả những người trong quốc gia này .Và đắc cử làm Tổng Thống xứ Brazil.Năm 2006 đắc cử nhiệm kỳ 2 ,cho 4 năm tới.

Trong 8 năm tại chức, Ông ta đã thực hiện đúng lời mình đã hứa :

-93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm.Thực hành đúng tâm niệm : giúp đời !!

Và nước Ba-tây dưới sự lãnh đạo của Ông đã không còn là “con khủng long nhai cỏ” mà đã trở nên “Con mãnh sư Mỹ Châu”. Và xây nên nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới.

Luiz Inácio Lula da Silva : đó là tên của vị tổng thống đã giải nhiệm vào 31.12.2010

NIỀM TIN CỦA HAI CHA CON

NIỀM TIN CỦA HAI CHA CON

Hãy giữ những người mà bạn thật sự yêu thương trong vòng tay của mình, thì thầm vào tai họ, nói với họ rằng: “bạn yêu thương họ nhiều như thế nào…!”

Đây là một câu chuyện cảm động về tình cha con trong cuộc động đất lịch sử tại Armenia năm 1989.

Vào năm 1989 tại Armenia có một trận động đất lớn 8,2 độ Richter đã san bằng toàn bộ đất nước và giết hại hơn ba mươi ngàn người trong vòng chưa đầy bốn phút.  Giữa khung cảnh hỗn loạn đó, một người cha chạy vội đến trường học mà con ông đang theo học.

Tòa nhà trước kia là trường học nay chỉ còn là đống gạch vụn đổ nát. Sau cơn sốc, ông nhớ lại lời hứa với con mình rằng: “Cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa, cha sẽ luôn ở bên con!”  Và nước mắt ông lại trào ra.  Bây giờ khi nhìn vào đống đổ nát mà trước kia là trường học thì không còn hy vọng.

Nhưng trong đầu ông luôn nhớ lại lời hứa của mình với cậu con trai.  Sau đó ông cố nhớ lại cửa hành lang mà ông vẫn đưa đứa con đi học qua mỗi ngày.  Ông nhớ lại rằng phòng học của con trai mình ở phía đằng sau bên tay phải của trường.  Ông vội chạy đến đó và bắt đầu đào bới giữa đống gạch vỡ.

Những người cha, người mẹ khác cũng chạy đến đó và từ khắp nơi vang lên những tiếng kêu than “Ôi, con trai tôi!”, “Ôi, con gái tôi!”.  Một số người khác với lòng tốt cố kéo ông ra khỏi đống đổ nát và nói đi nói lại: “Đã muộn quá rồi!”, “Bọn nhỏ đã chết rồi!”

“Ông không còn giúp được gì cho chúng nữa đâu!” “Ông hãy về đi!”

“Ông đi đi, không còn làm được gì nữa đâu!” – “Ông chỉ làm cho mọi việc khó khăn thêm thôi!”

Với mỗi người, ông chỉ đặt một câu hỏi: “Anh có giúp tôi không?”

Và sau đó với từng miếng gạch, ông lại tiếp tục đào bới tìm đứa con mình.  Đến đó có cả chỉ huy cứu hỏa và ông này cũng cố sức khuyên ông ra khỏi đống đổ nát: “Xung quanh đây đều đang cháy và các toà nhà đang sụp đổ.  Ông đang ở trong vòng nguy hiểm.  Chúng tôi sẽ lo cho mọi việc.  Ông hãy về nhà đi!”

Người đàn ông chỉ hỏi lại: “Anh có giúp tôi không?”

Sau đó là những người cảnh sát và họ cũng cố gắng thuyết phục ông ta “Ông đang xúc động, mọi việc đã xong hết rồi.

Ông đang gây nguy hiểm cho cả những người còn lại, Ông về đi, chúng tôi sẽ lo cho mọi việc!”

Và với cả họ ông cũng chỉ hỏi: “Các anh có giúp tôi không?”

Nhưng không ai giúp ông cả. Ông tiếp tục chịu đựng một mình, vì ông phải tự mình tìm ra câu trả lời cho điều day dứt ông: Con trai tôi còn sống hay đã chết?

Ông đào tiếp… 12 giờ… 24 giờ… ,

sau đó ông lật ngửa một mảng tường lớn và chợt nghe tiếng con trai ông.  Ông kêu lớn tên con: “Armand!” Ông nghe: “Cha ơi, con đây, cha!  Con nói với các bạn đừng sợ vì nếu cha còn sống cha sẽ cứu con và khi cha cứu con thì các bạn cũng sẽ được cứu…”

“…Cha đã hứa với con là dù trường hợp nào cha cũng ở bên con, cha còn nhớ không?  Và cha đã làm được, cha ơi”

“Có chuyện gì xảy ra vậy?  Ở đó ra sao rồi con?”  Người cha hỏi.

“Tụi con còn lại 14 trên tổng số 33, cha ạ, tụi con sợ lắm, đói, khát…”

“… Nhưng bây giờ tụi con đã có cha ở đây.

Khi tòa nhà đổ, ở đây tạo ra một khoảng không nhỏ và thế là tụi con còn sống.”

“Ra đây đi con!”

“Khoan đã cha!

Để các bạn ra trước, con biết rằng cha không bỏ con.  Có chuyện gì xảy ra con biết là cha chắc chắn sẽ không bỏ rơi con!”

*****************************************
Khi đối diện với một thảm kịch tang thương hay một tai họa hiểm nghèo,… thường con người hướng lời van xin về một Đấng Tối Cao?

Con người sẽ cầu nguyện với Đấng Tối Cao khi bị vây hãm với thần chết, với bệnh hiểm nghèo, với những huyền bí ngoài sự hiểu biết của con người?

Cái trực giác sâu kín này đã đến từ đâu, mà mỗi con người chúng ta đều tìm đến trong những giờ phút hiểm nguy của cuộc đời?

 

Sưu tầm

From: langthangchieutim

Anh chị Thụ & Mai gởi

Hai bát phở bò

Hai bát phở bò

riêng tặng những người con hiếu thảo nhân ngày của Cha

phobo

Vào một buổi chiều mùa xuân lạnh lẽo, trước cửa quán xuất hiện hai vị khách rất đặc biệt, một người cha và một người con. Nói đặc biệt là bởi vì người cha bị mù. Người con trai đi bên cạnh cẩn mẫn dìu người cha. Cậu con trai còn rất trẻ, trạc mười bảy, mười tám tuổi, quần áo đơn giản, lộ rõ vẻ nghèo túng, nhưng vẫn không dấu nổi nét thư sinh, dường như cậu vẫn đang là học trò phổ thông…

Cậu con trai tiến đến trước mặt tôi: “Cho hai bát phở bò!”, cậu nói to. Tôi đang định viết hoá đơn, thì cậu ta hướng về phía tôi và xua xua tay. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta, cậu ta nhoẻn miệng cười biết lỗi, rồi chỉ tay vào bảng giá treo ở trên tường, phía sau lưng tôi, bảo tôi rằng chỉ làm một bát phở cho thịt bò, bát kia chỉ cần rắc chút hành thôi. Lúc đầu, tôi hơi hoảng, nhưng sau đó chợt hiểu ra ngay. Hoá ra, cậu ta gọi to hai bát phở thịt bò như vậy là cố tình để cho người cha nghe thấy, chắc là tiền không đủ, nhưng lại không muốn cho cha biết. Tôi cười với cậu ta tỏ vẻ hiểu ý.

Người bồi bàn nhanh nhẹn bưng lên ngay hai bát phở nóng hổi. Cậu con trai chuyển bát phở bò đến trước mặt cha, ân cần chăm sóc: “Cha, có phở rồi, cha ăn đi thôi, cha cẩn thận kẻo nóng đấy ạ!”.. Rồi cậu ta tự bưng bát phở nước về phía mình. Người cha không vội ăn ngay, ông cầm đũa dò dẫm đưa qua đưa lại trong bát. Mãi lâu sau, ông mới gắp trúng một miếng thịt, vội vàng bỏ miếng thịt vào bát của người con.

“Ăn đi con, con ăn nhiều thêm một chút, ăn no rồi học hành chăm chỉ, sắp thi tốt nghiệp rồi, nếu mà thi đỗ đại học, sau này làm người có ích cho xã hội.” Người cha nói với giọng hiền từ, đôi mắt tuy mờ đục vô hồn, nhưng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn lại sáng lên nụ cười ấm áp. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên đó là, cái cậu con trai đó không hề cản trở việc cha gắp thịt cho mình, mà cứ im như thóc đón nhận miếng thịt từ bát của cha, rồi lại lặng lẽ gắp miếng thịt đó trả về.

Cứ lặp đi lặp lại như vậy, dường như thịt trong bát của người cha cứ gắp lại đầy, gắp mãi không hết. “Cái quán này thật tử tế quá, một bát phở mà biết bao nhiêu là thịt.” Ông lão cảm động nói. Kẻ đứng ngay bên cạnh là tôi, chợt toát hết cả mồ hôi, trong bát chỉ có vài mẩu thịt tội nghiệp, được sắt mỏng như lá lúa. Người con trai nghe vậy vội vàng tiếp lời cha: “Cha à, cha ăn đi, bát của con đầy ắp không biết để vào đâu rồi đây này”. “Ừ… ừ, con ăn nhanh lên, ăn phở bò thực ra cũng có chất lắm đấy.”

Hành động và lời nói của hai cha con đã làm chúng tôi rất xúc động. Chẳng biết từ khi nào, bà chủ cũng đã ra đứng cạnh tôi, lặng lẽ nhìn hai cha con họ. Vừa lúc đó, cậu Trương bồi bàn từ bếp đi ra, bê một đĩa thịt bò vừa thái, bà chủ làm dấu ra hiệu bảo cậu đặt lên bàn của hai cha con nọ. Cậu con trai ngẩng đầu tròn mắt nhìn một lúc, bàn này chỉ có mỗi hai cha con cậu ngồi, cậu ta vội vàng hỏi lại: “Anh để nhầm bàn rồi thì phải, chúng tôi không gọi thịt bò.” Bà chủ mỉm cười bước lại chỗ họ: “Không nhầm đâu, hôm nay chúng tôi kỷ niệm ngày mở quán, đĩa thịt này là quà biếu khách hàng”. Cậu con trai cười cười, không hỏi gì thêm.

Cậu lại gắp thêm vài miếng thịt bỏ vào bát người cha, sau đó, bỏ phần còn thừa vào trong một cái túi nhựa. Chúng tôi cứ im lặng chờ cho hai cha con ăn xong, rồi lại dõi mắt tiễn hai cha con ra khỏi quán. Mãi khi cậu Trương đi thu bát đĩa, đột nhiên kêu lên khe khẽ. Hoá ra, đáy bát của cậu con trai đè lên mấy tờ tiền giấy, vừa đúng giá tiền của một đĩa thịt bò, được viết trên bảng giá của cửa hàng. Cùng lúc, tôi, bà chủ, và cả cậu Trương chẳng ai nói lên lời, chỉ lặng lẽ thở dài, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng …

(Sưu tầm )

Anh Nguyễn V Thập gởi

“Tiếng đàn piano nửa đêm”

“Tiếng đàn piano nửa đêm”

Câu chuyện dưới đây tôi cũng đã từng được đọc ở đâu đó rồi, và đã quên. Nhưng sáng nay tôi nhận được thư của anh Nguyễn Đại Hoàng gửi câu chuyện này cho tôi, với mấy lời sau:
“Đây là một câu chuyện nên gởi đến cộng đồng. Xã hội mà có nhiều người biết rung động trước cái đẹp, cái khổ đau thì xã hội ấy vẫn còn cơ hội.” Hoàn toàn đồng ý với nhận định của anh NĐH, tôi đăng bài này lên đây để mọi người cùng đọc, và hy vọng câu chuyện sẽ nhắc mọi người nhớ rằng điều làm cho con người là người chính là ở lòng nhân.

—————-
Tiếng đàn Piano nửa đêm
Một người bạn gởi cho tôi câu chuyện này, không rõ tác giả, một câu chuyện thực sự cảm động và hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa về cuộc sống. Bài viết gần như hoàn chỉnh tôi chỉ sửa một số lỗi chính tả và hiệu chỉnh lại một số đoạn cho rõ nghĩa hơn. Tựa do tôi đặt lại. ( NĐH).

———-Một ngày anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen. Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt :

– Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây ?

Anh cúi đầu trả lời lí nhí trong sự hổ thẹn :

– Ừ thì bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm !

Chị sầm mặt xuống :

– Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không ngóc lên đầu lên được, hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy ?

Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều mà anh muốn nhờ chị. Chị cũng khó khăn lắm mới có thể trả lời từ chối anh :

– Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e sẽ chẳng còn được bình yên nữa !

Anh năn nỉ, nhưng thật sự là anh rất bối rối :

– Con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được, anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi, chỉ nửa năm hay vài ba tháng cũng được, em là phụ nữ em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh lại đón nó về.

Chị thở dài :

-Ông lúc nào cũng mang xui xẻo cho tôi, thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã, có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.

Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn. Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.

Anh và chị trước kia là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động xuất khẩu ở Đông Đức. Chị theo học Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang phía Tây Đức. Chị tốt nghiệp đại học và về làm giáo viên cấp 3 huyện Thái Thụy, Thái Bình. Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.

Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Đức.

Vừa sang Đức, thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt, đa số ai cũng có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán, chỉ có anh là vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta. Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu, để có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời mới được.

Nên không dám mạo hiểm ra làm ăn

“Đồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…”, đó là câu nói của miệng chị dành cho anh, sau khi anh và chị có bé Hương.

Bé Hương sinh thiếu tháng, phải nuôi lồng kính đến hơn nữa năm mới được về nhà. Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh. Giông tố bắt đầu thực sự nổi lên từ đó. Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn, thì hỏi làm được gì chứ. Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.

Bé Hương được 3 tuổi, chị muốn ly dị với anh. Chị nói, ông buông tha cho tôi, sống với ông đời tôi coi như tàn. Anh đồng ý, vì anh biết chị nói đúng. Anh là người chậm chạp, không có chủ kiến và không có chí tiến thân, sống an phận thủ thường. Nếu cứ rằng buộc sẽ làm khổ chị.Bé Hương 3 tuổi mà chưa biết nói. Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc con bé hầu hết là do anh làm. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ.Biết vậy nên chị cũng rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá. Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới.Thành phố Bremen là thành phố nhỏ.

Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố. Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh biết ý chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.

Chị không phải là người vô tâm, nên thỉnh thoảng vẫn gửi tiền nuôi dưỡng con cho anh. Trong những dịp năm mới hay Noel, chị cũng có quà riêng cho con bé, nhiều năm, nếu có thời gian, chị còn đến trực tiếp tặng quà cho con bé trước ngày lễ giáng sinh nữa.

Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ. Tuy chị không biết cụ thể thế nào. Nhưng chị biết dù con bé lớn lên trong tật nguyền hẩm hiu, nhưng anh rất thương nó. Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan. Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà.

Chồng chị đã đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống với chị vài tháng, với điều kiện trong thời gian con bé về sống chung với vợ chồng chị, anh không được ghé thăm. Chị cũng muốn thế, vì chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh.

Vợ chồng chị đã mua nhà. Nhà rộng, nên con bé được ở riêng một phòng. Chị đã xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật ở gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được.

Đi học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Đứa em trai cùng mẹ của nó, mẹ nó, và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.

Em trai nó học thêm Piano, nên nhà mẹ nó có cái đàn Piano rất đẹp để ở phòng khách.

Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Nên từ đó nó không dám đụng đến nữa. Có hôm anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lỏm bỏm,.. đàn..đàn…klavia….con muốn… Anh thở dài và hát cho nó nghe.

Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó. Rồi thưa dần, thưa dần.

Cho đến một ngày anh không gọi cho nó nữa. Sau một tuần đăng đẳng không nghe anh gọi điện thoại. Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học. Chị không biết gì cứ mắng nó dở chứng.

Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn Piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc. Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi Piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn Piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng chị nên chị không quan tâm

Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì.

Chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, mà lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi: “…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió..ôi cha già đi cha biết không…”.

Chị vòng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lòng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó. Nó chìa cho chị một tờ giấy giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát.

Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra nhìn nó hỏi, con biết bố con bị ung thư lâu chưa. Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ. Chị hỏi, bốn tháng rồi hả. Nó gật đầu.

Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi thở dài.

Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ. Đại ý là nó diễn đạt rằng: -” Bố lên ở trên Thiên Đường rồi, mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con..”

Chị cũng ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói, con gái ngoan của mẹ, ngày mai nếu mẹ sắp xếp được công việc, mẹ sẽ đưa con về Hamburg….
————-
Đoạn kết :

Tôi nghe người ta kể chuyện lại chuyện đó, khi đi dự một cuộc biểu diễn nghệ thuật của học sinh khuyết tật và khiếm thị. Khi thấy em gái đệm đàn piano cho dàn đồng ca, cứ khăng khăng đòi phải đàn và hát bài hát “Người Cha Yêu Dấu” bằng tiếng Việt trước, sau đó mới chịu đệm đàn cho dàn đồng ca tiếng Đức. Quá kinh ngạc nên tôi cứ gạn hỏi mãi người trong ban tổ chức. Cuối cùng họ đã kể cho tôi nghe câu chuyện như vậy.

——————————————————————————————–

Lời phụ của Nguyễn Đại Hoàng : Câu chuyện đơn giản, không nhiều tình tiết, đã lấy đi nước mắt của nhiều người đọc. Tôi hình dung được cảnh người cha Việt Nam gầy ốm bệnh tật và đứa con gái tật nguyền tội nghiệp của anh trên đất khách quê người. Tôi như thấy được hình ảnh đứa con gái tưởng nhớ người cha – mà em biết đã mất rồi – qua tiếng đàn Piano. Tôi biết tiếng đàn ấy đau đớn biết bao. Tôi nghe được cả lời ca nghẹn ngào của em Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé,đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió..ôi cha già đi cha biết không…”. Em bé Việt Nam ở phương trời xa lạ kia ơi em thật là vĩ đại ! Tôi hãnh diện vì em biết bao !

NGUYỄN ĐẠI HOÀNG 3/2013

Hai Người Bạn.

Hai Người Bạn.

..1 bên ở Mỹ, 1 bên ở VN..

30 ThángTư Và Chuyện Hai Người Bạn

(04/30/2013)

Tác giả : ThaiNC

Bài số 3883-13-29283vb3043013

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XII, 2012.

Ông tên thật là Nguyễn Cao Thái, sinh năm 1959 tại Huế, vào Saigon 1968, vượt biển đến Mỹ 1979, hiện định cư tại San Jose, CA.

Sau đây là hai bài viết mới: Viết ngắn cho Tháng Tư, và một truyện ngắn.

Bài I. Hàng Triệu Người Buồn

28 tháng Tư…
Ngày này 38 năm trước, tôi là cậu bé 16 tuổi đang ôm khẩu súng Carbin cổ lỗ sĩ trong một phiên gác Nhân Dân Tự Vệ.
Trời mưa. Sấm và chớp. Nhóm của tôi toán ba người đang rút vào nhà một người quen trú mưa chờ dứt phiên gác, và vô tình cùng gia đình họ ngồi nghe tường thuật trực tiếp toàn bộ buổi bàn giao chức vụ TổngThống lịch sử.
“Đây là phóng viên Hệ Thống Truyền Thanh VN, quí thính giả đang theo dõi trực tiếp truyền thanh lễ trao nhiệm chức tổng thống VNCH giữa ông Trần Văn Hương và cựu đại tướng Dương Văn Minh…
“Thưa quí thính giả vào lúc này bên ngoài Dinh Dộc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước…”
Đó là nguyên văn câu tường thuật của người phóng viên trong buổi lễ. Giọng nói đầy xúc cảm của người phóng viên đã in sâu trong đầu tôi suốt bao nhiêu năm dài.
Chính câu nói đó chỉ trong mấy giây thôi, đã thay đổi tôi từ một cậu bé học trò vô tư hồn nhiên thành một… cậu bé khác. Tôi vẫn là một cậu bé, nhưng đã biết suy tư. Tôi bỗng nhận ra tôi là ai. Tôi bỗng nhận ra hai chữ “đất nước” của người phóng viên vừa nhắc đến đó chính là “đất nưóc” hiện tại của tôi đang sống, đang thở. Cái “đất nước” đã nuôi tôi khôn lớn, cho tôi những tháng ngày tươi đẹp của tuổi ấu thơ, đã dạy cho tôi bao điều hay lẽ phải trong trường lớp…
Nhưng cái “đất nước” đó của tôi nó đang hấp hối…
“Thưa quí thính giả vào lúc này bên ngoài Dinh Dộc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước…”
Ôi, tôi vừa nhận ra “đất nước” của tôi, tiếc thay nó chỉ sống đưọc có đôi ngày nữa mà thôi.

Nhà tôi ngay mặt tiền đường Trương Minh Giảng. Quận 3.
Bây giờ thì họ gọi là đường Lê Văn Sĩ. Trước đó, có thời tên là đường Nguyễn Văn Trỗi.
Đây là một trong ba con đường chính dẫn đến phi trường Tân Sơn Nhất của Sài gòn. Từ nhà tôi, mấy ngày nay đã có thể dễ dàng trông thấy những cụm khói bốc lên từ phía phi trường cùng những tiếng nổ ì ầm vọng lại…

Sáng ngày 30.
Bỗng nhiên vắng lặng một cách lạ lùng. Không có tiếng súng. Không bóng người trên đường phố.
Khoảng 8 giờ sáng từng tốp nhỏ những người lính Cộng Hoà từ phía phi trường đi bộ lên. Không đội hình. Không súng ống. Một số không cả ba lô hành trang nào cả. Những người lính đi mà hình như không biết đang đi đâu. Họ chỉ đi…
Một tốp lính khoảng chừng 10 người dừng lại trước nhà tôi. Những người lính rất trẻ. Họ bắt đầu cởi áo lính …
Nhà tôi lúc đó có một người anh họ con ông bác, là Trung úy bộ binh, từ Phan Thiết dẫn được vợ con chạy kịp về SàiGòn mấy ngày trước, tỵ nạn trong nhà.
Anh ấy và ba tôi nói chuyện gì một lúc, tôi thấy hai người gom một mớ quần áo và tiền. Xong, anh tôi ôm mớ quần áo và tiền đó mở cửa bước ra trao lại cho những người lính này. Anh tôi bắt tay vài người, vỗ vai an ủi vài người lính khác… Họ có nói với nhau vài lời nhưng tôi không nghe rõ. Trước khi trở lại vào nhà, anh móc túi lấy gói thuốc trao lại cho một người lính trong đó.

Vài tiếng sau, một đoàn lính khác từ phía phi trường đi bộ lên.
Rất đông.
Họ đi ngay hàng thẳng lối, nép sát dưới những mái hiên. Đội hình kỷ luật. Ba lô súng ống đầy đủ.
Và im lặng.
Toán bộ đội chính quy Cộng Sản Bắc Việt đầu tiên tiến vào Sài Gòn từ ngả phi trường.
Thành phố tôi ở chính thức đổi chủ,
… và đổi tên.

*
Cuối năm 2004, khi nhắc đến cuộc chiến tranh đã lùi xa gần ba mươi năm, cựu Thủ tướng của nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa Võ Văn Kiệt phát biểu: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”.
Bây giờ, đã thêm gần mười năm nữa trôi qua.
Bạn ở trong số hàng triệu người vui, và vẫn còn vui thì cứ vui.
Bạn vẫn còn say men chiến thắng thì cứ tiếp tục “liên hoan” chiến thắng.
Tôi ở trong số hàng triệu người buồn kia… chất chồng theo năm tháng.
*
Sau đây là một truyện ngắn sau 30 tháng Tư

Bài 2 .HAI NGƯỜI BẠN

Suốt những năm trung học, Hào và Hữu là hai thằng bạn nối khố, cặp bài trùng. Họ thân nhau ngay từ ngày đầu tiên ngồi cạnh nhau, và bao giờ cũng sát cánh suốt bảy năm trời mài ghế nhà trường.
Sau khi cùng đỗ Tú Tài tốt nghiệp trung học, Hào ghi danh vào Luật Khoa như dự định. Tưởng bạn sẽ theo mình, hay ít ra cũng tiếp tục đường học vấn, nhưng không, Hữu cho biết hắn sẽ xin vào Hải Quân, thực hiện mộng hải hồ. Hào ngạc nhiên khi nghe hắn nói.

Tương lai, gia đình, và bè bạn không đủ cầm chân hắn.

Hữu cho biết hắn đã suy nghĩ kỹ.

Hải Quân là nơi thích hợp nhất, vừa đáp lại lời kêu gọi của núi sông, vừa là dịp cho hắn được đi khắp miền quê hương gấm vóc.
Năm đầu ở Luật Khoa buồn nản.

Hào cảm thấy thiếu vắng tình bạn thân thiết.

Hữu ra đi biền biệt, thỉnh thoảng chỉ gửi cho Hào một tấm thiệp nhỏ, cho biết từng địa danh hắn đã đi qua… Anh cảm thấy phục bạn mình hơn bao giờ. Hắn đã dám dấn thân nam nhi chi chí, còn anh vẫn mỗi ngày cắp sách đến trường, sống yên vui trong sự che chở của bao người cùng trang lứa, đang từng ngày đối diện với quân thù.
Mặc cảm hèn yếu theo đuổi Hào ngày mỗi lớn.

Khi anh có ý định ra đi như Hữu, thì Mai xuất hiện trong cuộc đời chàng. Những ánh mắt gặp nhau trong giảng đường, những ly nuớc dừa tươi của con đường Duy Tân cây dài bóng mát đã mang đến cho Hào một luồng gió mới.

Buổi hò hẹn hò trong thư viện, từng vòng tay ôm, nụ hôn vội vàng, đã cầm chân Hào trở lại. Anh tạm quên ý hướng ra đi, tạm quên Hữu để phiêu lưu trong tình yêu đầu đời.

Hữu trở lại Sàigòn lần đầu tiên sau một năm trời xa vắng, đến tìm Hào tại trường. Hắn thay đổi hẳn, mái tóc cắt ngắn, da đen sạm, khỏe mạnh trong bộ quân phục màu xanh nước biển.

Chỉ có ánh mắt tinh nghịch và phong cách cởi mở là không thay đổi.

Một lần nữa Hào lại cảm thấy mình nhỏ đi trước bạn.

Không để anh suy nghĩ lâu hơn, Hữu vỗ vai Hào thân mật:
-Đi mày, ra làm vài chai băm ba với tau rồi nói chuyện sau.
Hào vui vẻ theo Hữu ra khỏi trường, quên luôn giờ hẹn với Mai ở thư viện. …
Đơn vị Hữu đang đóng ở Vũng Tàu nên hắn về Sàigòn đều đặn hơn.

Gặp Hào, hắn nói là phép, thỉnh thoảng lại mỉm cười bí mật: tao “dù” về chơi. Hào giới thiệu Mai với Hữu.

Nhưng những cuộc đi chơi tay ba không mấy thú vị.

Hào nhận thấy bạn mình không được vui vẻ cởi mở như trước nữa.

Có thể hắn thấy sự hiện diện của Mai chia xẻ tình thân của Hào.

Cũng có thể hắn thấy lẻ loi. Hào biết bạn mình đang trống vắng.

Đời sống quân ngủ với thời gian ít ỏi đã không cho hắn những cơ hội gặp gỡ. Anh đem cảm nghĩ mình bàn lại với Mai, nhờ nàng giúp đỡ*.
Như dự định, lần sau đó khi Hữu về Sàigòn, Mai đã đến với một người con gái khác, Vân, cô em họ của nàng để giới thiệu với Hữu. Họ tổ chức một cuộc picnic tại Thủ Đức. Buổi đi chơi xa có lẽ mang lại kết quả tốt.

Hào và Mai cố ý tách ra để hai người được tự do. Vân thật hiền và ít nói. Nàng chỉ chăm chú nghe và hưởng ứng những chuyện Hữu kể về những chuyền đi biển và phong tục đặc biệt từng địa phương hắn ghé qua.
Qua mấy lần gặp gỡ, thấy bạn không có dấu hiệu gì tiến triển, Hào hỏi thẳng cảm nghĩ của Hữu về Vân.
-Vân ? Đẹp và dễ thương ghê.
-Vậy mày…. thấy sao?
Hắn tỉnh bơ:
-Tao nhận Vân làm em gái rồi.
Hào sững sờ:
Ban đầu chàng tưởng bạn mình giở trò “em gái hậu phương” để tô điểm cho cuộc tình. Nhưng anh lầm. Hữu thật tình coi Vân như em.

Hào buồn bã kể lại cho Mai và nhờ nàng kiếm giùm…một người khác. .
Cơ hội thứ hai không thể đến. Hữu được lệnh nhổ neo ra một vùng nào đó ở miền Trung. Hắn nói lần này ra đi sẽ rất lâu, chưa biết khi nào trở về.

Hào, Mai và Vân lặng lẽ tiển đưa Hữu rời bến.
Đó là lần cuối cùng hai người gặp nhau.

Đất nước sụp đổ đã kéo hàng vạn người ra biển vượt thoát, trong đó có Hào.

Anh ra đi bất ngờ như tiếng gọi của định mệnh.

Từng khối người chen chúc trên con tàu già nua từ từ rời cảng Sàigòn.

Hào phóng mình bơi theo và leo lên như một mãnh lực huyền bí nào đó đã khiến anh quên tất cả.

*
Sàigòn 1980


Anh thân mến,
Chỉ còn vài tiếng nữa là bắt đầu một năm mới.

Pháo đang nổ báo hiệu cho tất cả mọi người, già cũng như trẻ, trai hay gái, tư sản hay vô sản…đều được thăng thưởng thêm một tuổi.

Có lẽ đây là điều công bằng nhất của thượng đế.

Giữa giây phút thiêng liêng của đất trời này, Mai lại nhớ anh.
Anh ơi, Mai mới ra Bắc thăm ba. Mẹ lại đau nặng và yếu quá nên năm nay Mai đi thay. Mai đáp tàu lửa ở Sàigòn đến một vùng hẻo lánh thuộc Cao Bắc Lạng gần biên giới Tàu. Cả đi lẫn về mất gần một tháng.

Nghĩ lại Mai còn rùng mình thấy sợ. Nếu không có anh Hữu chắc Mai chết mất. Cũng tức cười, anh Hữu vừa ra khỏi tù thì lại đi thăm tù.

Ba anh ấy cùng giam một chỗ với ba Mai nên tụi Mai đi chung.

Lần đầu tiên trong đời Mai đi xa như vậy, và có đi mới biết được thế nào là thân gái dặm trường. Mai chỉ còn nhớ khi tàu ra tới Huế là kiệt lực, không biết gì nữa. Mọi việc anh Hữu lo liệu hết.

Mai ngất xỉu nhiều lần, mỗi lần tỉnh lại thấy gói quà cho ba vẫn còn bên cạnh mới yên tâm, rồi lại thiếp đi. Hình như sau khi xuống sân ga Cao Bằng, tụi Mai đã đi xe hàng, đi xe, đi bộ…và có lúc anh Hữu phải cỏng Mai nữa.

Tội nghiệp anh ấy, ôm hai gói đồ trong tay lại còn đèo Mai trên lưng.

Vậy mà anh vẫn cố gắng theo kịp mọi người vào trại ở trên đồi.

Mỗi khi nghĩ lại cảnh đó Mai chỉ muốn khóc.

Cuối cùng rồi Mai cũng đưa được gói quà đến tận tay ba.

Rồi lại đi bộ, đi ghe, đi tàu về lại Sàigòn …vừa kịp đón Tết.
Không biết mình còn phải chờ bao lâu nữa mới gặp lại nhau?

Anh Hữu bảo nếu em muốn, anh ấy có thể tìm đường giùm.

Người ta đi nhiều lắm anh ơi! Mỗi ngày lại thấy vắng bóng một người quen làm Mai nóng ruột quá. Làm sao bây giờ? Ba vẫn còn tù tội, mẹ đau yếu, lũ em nheo nhóc…cả nhà chỉ còn trông chờ vào Mai.

Mai đã cố gắng hết sức và mỏi mệt lắm rồi! Nếu ba về, chắc sẽ có nhiều hy vọng hơn, nhưng biết đến khi nào?
Kìa, pháo nổ lớn, nhiều lắm! Giao thừa rồi!

Mẹ Mai đang cúng ông bà, riêng Mai nhớ anh muốn khóc đây.

Chờ Mai nhé, viết thư cho Mai nhiều hơn nghe anh.
Chúc anh một năm mới như ý.
Mai.

Hào gấp lá thư lại, thở dài. Anh đọc mãi câu cuối “…chờ Mai nhé” mà tưởng như tiếng nàng vang vọng bên tai. Mai ơi, năm sáu năm rồi anh vẫn chờ, nhưng liệu chúng ta sẽ còn chịu đựng được bao lâu nữa?
Ngẩng đầu lên, chàng nhìn lại Vân, người con gái đã ở cạnh chàng gần hai năm qua.
Ngày gặp Vân thật bất ngờ khi hội nhà thờ địa phương nhờ chàng giúp đỡ phiên dịch cho hai chị em Việt Nam mới được bảo lảnh qua. Nhìn cô gái co ro trong cái lạnh của xứ người, chàng ngờ ngợ nhưng không dám nhận. Chỉ khi Vân ngạc nhiên hỏi “Anh…Hào hả?” chàng mới reo lên mừng rỡ và ôm chầm lấy Vân. Trong một giây, Hào quên mọi người chung quanh, quên Vân là con gái, quên luôn người mới qua chưa quen lối thân mật kiểu Mỹ mà chàng ít nhiều bị ảnh hưởng. Trước mắt chàng không phảI là Vân nữa, mà là những gì chàng bỏ lại sau lưng từ tháng tư năm ấy, là Sàigòn, là em gái chàng, là Mai, là … tất cả.
Sau khi lo liệu xong mọi việc cho chị em Vân, đời sống của Hào bỗng nhiên khởi sắc. Mỗi tuần Vân đã đến. Căn phòng độc thân bề bộn được chăm sóc gọn ghẽ. Nhà bếp từ lâu vắng lạnh được hâm nóng với những món ăn quen thuộc mà Vân khéo léo chắp nối từ những gia vị của Tàu, Đại Hàn… Hào có cảm tưởng như mình đang sống trong cảnh Bích Câu Kỳ Ngộ mà chàng đã học trong một giờ Việt Văn năm xưa.
Nhưng không hẳn. Tú Uyên đã xé bức tranh và cưới Giáng Kiều làm vợ. Còn Hào và Vân vẫn còn một khoảng cách ở giữa: Mai. Đã có những lúc Hào muốn quên tất cả để xây dựng hiện tại và tiến tới hạnh phúc tương lai thì những lá thư của Mai từ quê nhà kéo anh trở lại. Những kỷ niệm êm đềm, những lời hẹn ước đằm thắm còn văng vẳng. Hình ảnh cô sinh viên Luật trẻ trung tươi thắm, theo dòng đời đổi thay đã thành một cô chợ trời lam lũ.
Mai, anh vẫn yêu em nhưng anh không là thánh nhân. Làm sao anh có thể sống mãi với một bóng hình trừu tượng? Nơi đó dù sao em cũng còn một quê hương để yêu, để ghét. Dù sao em cũng còn tình thương của gia đình, bạn bè thân thuộc. Anh ở đây nào có gì ngoài một tấm thân cô độc?
Hào nhìn Vân. Cả năm trời gần gũi mà tình thân không qua một cái nắm tay. Sự quan hệ gắng gượng giữa hai người ngày càng làm Hào bứt rứt.
-Anh ăn đi, cơm nguội hết rồi. ..Tiếng Vân nhắc nhở cắt đứt gìòng tư tưởng. Chàng nâng chén và bắt gặp Vân đang nhìn mình âu yếm. Hào cảm thấy bồi hồi xao xuyến, chỉ muốn bỏ chén xuống, ôm lấy tấm thân nhỏ nhắn kia, xiết mạnh và hôn lên đôi mắt dịu hiền, nói tiếng cám ơn.
-Em tốt với anh quá?
Vân cúi đầu thật lâu, và nói dối với chính mình:
-Em… săn sóc anh giùm cho chị Mai mà.
Hào muốn nổ tung ra như xác pháo. Nếu anh có thể xẻ mình làm hai. Một nửa ở lại chờ Mai, nửa kia giao cho Vân, đáp đền duyên tri ngộ.

*

Sàigòn 1982.
Hào thân mến,


Cám ơn thùng quà của mày đã cho tao một mùa Giáng Sinh êm đẹp. Đừng cười bạn hiền. Tao biết tiếng cám ơn giữa tao và mày quả hơi thừa thải. Nhưng nếu không như thế, tao biết lý do nào để viết thư này? Mấy lần cầm bút rồi lại buông! Có nhiều điều muốn nói với mày quá, mà sao cứ ngập ngừng. Thôi thì cũng đành nói hết một lần.
Ba tao mất rồi, trước Noel khoảng ba tháng. Khi tao ra tới nơi, chỉ còn nấm mồ hoang lạnh của ông dướI hai gốc chuối. Tao ở đó một ngày trời, không biết làm gì hơn là đọc kinh cầu nguyện cho ông. Chẳng hiểu sao đời tao gặp nhiều bất hạnh. Năm 75 khi mày ra đi thì tao mang thân tù tội. Vừa ra tù thì mẹ mất. Bây giờ người thân cuối cùng cũng bỏ ra đi. Tự nhiên tao trở thành một thằng không cha mẹ, không luôn cả thân bằng quyến thuộc. Bạn bè cũ đã từng thằng giã biệt. Bà con tao hầu hết ở ngoài Bắc và cũng không liên lạc. Hết cả rồi! Tao đã có ý định tìm đường qua đó với mày. Sàigòn không có gì cho tao lưu luyến, nếu không vì hoàn cảnh của Mai.
Cuộc sống bên này chắc mày đã biết, qua báo chí, qua thư của Mai. Nhưng Hào ạ, mày không thể tưởng tượng được hoàn cảnh sự thực qua những giòng chữ đó đâu! Mai đã thôi bán chợ trời. Tụi nó bố ráp, kiểm kê, tịch thu… và cho Mai đi cải tạo thương nghiệp 7 ngày, nhẹ thôi mà. Bây giờ Mai dọn một hàng trà đá và thuốc lá lẻ ở bến xe miền đông, gắng gượng qua ngày. Bác gái không làm gì được nữa, chỉ chăm sóc nhà cửa, đau yếu luôn. Tao từ ngày về vẫn chiếc xích lô độ nhật. Một thân một mình dầu sao vẫn dễ chịu hơn. Mỗi sáng, tao tạt ngang qua nhà phụ Mai chở đồ ra bến xe, rồi tà tà kiếm khách. Bữa nào khấm khá thì ghé làm vài ly bia quốc doanh… tối lại đến bến xe giúp Mai dọn về. Cứ thế mỗi ngày mà sống. Thỉnh thoảng ở lại dùng cơm tối với nhà Mai, tìm lại chút hơi ấm gia đình. Bác gái làm tao nhớ mẹ ray rứt.
Hào ạ, tao có lỗi với mày nếu tao yêu Mai không? Thời gian qua tao vẫn cố giúp đỡ Mai giùm mày và hằng đêm vẫn cầu nguyện cho hai người sớm gặp lại. Nhưng Chúa ở cao quá, hay có quá nhiều người cầu nguyện nên chưa tới phiên tao. Mai không thể ra đi trong hoàn cảnh này. Bác trai hầu như tuyệt vọng. Càng ngày tao càng cảm thấy số phận tao và Mai có gì ràng buộc lẫn nhau. Từ những lần tiếp tế đồ cho hai ông cụ. Những lần Mai hớt hải lo buồn khi bị đổi tiền ,gia đình bị kiểm kê tài sản. Người con gái yếu ớt cần một sự chở che, an ủi bên cạnh mà mày nào biết. Mày làm sao tưởng tượng được cô sinh viên tươi tắn ngày nào, nay đã héo hon, mòn mõi, mỗi chiều ngồi trước xe, ôm lấy từng cái ly, từng gói thuốc, bảo vệ di sản cuối cùng của nàng. Hào ơi, trái tim tao cũng không phải bằng đá. Ngày xưa, tình yêu của mày và Mai được tô thắm bằng những buổi chiều công viên, bằng vị ngọt của nước dừa. Hôm nay tình yêu của tao và Mai chỉ là những lon gạo đong, chan hòa những giọt nước mắt.
Tao biết mày vẫn chưa quên Mai và cố gắng đợi chờ. Tình đầu bao giờ cũng đẹp nhưng không có nghĩa là nó sẽ thành. Dù mày không nói nhưng tao cũng đoán Vân và mày đã yêu nhau rồi, chỉ có Mai là chút vấn vương còn sót lại. Đã đến lúc mình không thể chối bỏ sự thực. Bắt đầu già hết rồi Hào. Mình không thể ôm kỷ niệm mà sống, và để tuổi xuân của Mai và Vân phai tàn theo thời gian. Kỷ niệm dù đẹp cũng chỉ là dĩ vãng, hãy nên nhìn vào thực tại và vươn lên nắm lấy tương lai. Vân là em gái tao, mày nhớ chứ? Và tao sẽ rất vui mừng nếu có thằng em… là mày.
Những gì cần nói, tao đã nói hết, mong mày hiểu. Dù sao đi nữa tao cũng đợi thơ mày trước khi làm bất cứ chuyện gì. Chúc mày những ngày tháng đẹp.
Hữu .

Hào lặng lẽ châm điếu thuốc và đọc lại lá thư dài của Hữu. Có phải đây là kết cuộc tốt đẹp nhất cho bốn người? Tâm trạng và lời lẽ của Hữu trong thư cũng giống như những gì Hào đang nghĩ và định viết cho Mai. Không ai có thể sống mãi với kỷ niệm mà quên đi hạnh phúc trước mắt. Chàng không thể để cho Vân chờ đợi lâu hơn, mà ngay cả chính chàng cũng không thể chịu đựng được nữa những ngày dài cô độc. Vân ở đây, vẫn mỗi ngày săn sóc chàng với cả trời thương mến, tại sao chàng cứ để một bóng hình khác che khuất con tim?
Và Hữu, cuối cùng rồi hắn cũng tìm được tình yêu, cho dù là tình yêu của từng lon gạo đong chan hòa những giọt nước mắt như hắn nói. Hắn nào có lỗi gì đâu? Hào cảm thấy thông cảm và thương bạn hơn bao giờ hết. Tại sao số phận cứ dành cho anh những ưu đãi, bình yên, rồi trừ lại bằng những mất mát bất hạnh cho Hữu? Dù sao Hào cũng cảm thấy yên tâm và an ủi vi Hữu là người sẽ đưa Mai đi nốt quãng đời còn lại.

*

Đám cưới của Hào và Vân, Hữu gửi mừng một bức cưa lộng rất công phu do chính tay hắn làm lấy. Những miếng gỗ thông mịn màng do chính Hữu cưa và tỉ mỉ ghép lại theo hình con tem đám cướI Việt Nam ngày trước. Trong thư hắn viết: “Quà cưới của mày cho tao và Mai hậu hĩ quá, làm tao không biết gởi gì cho Vân và mày nữa. Bên đó đầy đủ tất cả, đành gởi tạm cái này gọi là…”
Hào cảm động trước chân tình của bạn. Hắn và chàng là đôi bạn thân nhưng từ lâu Hào biết, trong thâm tâm, Hữu hơn mình về mọi phương diện. Rời ghế nhà trường hắn đã biết chọn cho mình một lý tưởng để noi theo. Ngày bại trận, với phương tiện vượt thoát trong tay, hắn can đảm chọn ở lại để mong thấy quê hương thanh bình. Vỡ mộng, cái giá phải trả là mấy năm cải tạo, hắn vẫn chịu đựng, phấn đấu để sống còn và đùm bọc cho Mai.
Trước đó, trong thiệp cưới của Mai và Hữu gởi cho Hào và Vân, Mai kèm một bức thư ngắn: “… Mai cám ơn anh đã thông cảm cho hoàn cảnh của chúng ta. Từ nay mọi chuyện anh Hữu sẽ viết thư cho anh. Tâm hồn Mai bây giờ đã bình yên, không còn cuống quít với kỷ niệm xưa cũ nữa. Mai cảm thấy tin tưởng hơn vào cuộc sống mới, và vẫn kính trọng anh là một người bạn thân thiết nhất của đời Mai. Vân là một người hoàn toàn, anh phải đối xử tốt với nó và đừng chần chờ nữa”

*
Nhưng dòng đời không bao giờ trôi suông sẻ. Bên kia bờ đại dương, Hữu và Mai đang sống những ngày hạnh phúc. Đứa con đầu lòng của họ đã được ba tuổi. Ngày Mai khai hoa nở nhụy, Hữu đánh điện tín sang, phong cho Hào-Vân làm cha mẹ đỡ đầu đứa bé. Hào cũng vui mừng không kém. Trong giờ phút thiêng liêng được lên chức “bố” hắn vẫn nhớ đến chàng. Thư từ qua lại đều đặn hơn giữa bốn người.
Niềm sung sướng hãnh diện về đứa con Hữu và Mai làm Vân lo lắng suy nghĩ. Đã mấy năm chung sống, hai người ân ái mặn nồng như bất cứ cặp vợ chồng nào hạnh phúc nhất trên đời, vẫn không thấy có triệu chứng gì Vân sẽ cho Hào một đứa con.
Nỗi lo lắng của Vân ngày một lớn dù Hào có an ủi và không mấy quan tâm. Anh vẫn quan niệm, con cái là do trời cho, khi có là… tự nhiên sẽ có.
Nhưng Vân lại không nghĩ như vậy. Nàng bắt đầu dò hỏi, tìm tòi qua sách báo, tìm ra những phương pháp và yêu cầu Hào áp dụng khi hai người gần gũi. Thậm chí nàng còn đi lễ chùa để cầu khẩn (mặc dù đây chỉ có chùa…Nhật Bản). Nghĩa là Vân đã cố gắng hết sức, từ khoa học hiện đại cho đến mê tín dị đoan. Vẫn không thấy kết quả.
Bác sĩ cho hay Vân không thể có con. Đám mây đen đầu tiên xuất hiện trong cuộc sống hai người. Cả mấy tuần Vân chẳng thiết ăn uống, chỉ nằm khóc cho số phận. Hào không biết làm cách nào để an ủi vợ. Chàng hiểu nỗi mong ước có con của Vân lớn đến chừng nào. Đến khi giải pháp xin một đứa con nuôi của Hào mới làm Vân nguôi ngoai.
Họ thực hiện ngay ý định. Những cú phone, thư từ và các thủ tục khác lần lượt qua Hội Cha Mẹ Nuôi, qua Cao Ủy Tị Nạn… đã mang bé Hạnh về với gia đình chàng. Vân và Hào được Cao Ủy cho hay, Hạnh là một số ít người còn sống sót trong chuyến tàu vượt biên bị hải tặc tấn công. Cha mẹ đều vùi thây dưới biển cả. Cô bé sống trong trại không thân nhân, không rõ gốc tích, và đang chuẩn bị được đưa sang Thụy Sĩ nhờ những bàn tay nhân ái. Hai người cảm thấy thương mến ngay đứa bé mồ côi tội nghiệp, và quyết định mang bé về với gia đình.
Sự hiện diện của bé Hạnh đã mang lại gia đình Hào nguồn sống mới. Vân như hồi sinh. Ngày đón đứa bé tại phi trường, Hào và Vân đã nắm chặt tay nhau trong niềm thông cảm sâu xa. Cuộc đời cũng không đến nỗi bất công cho lắm. Tại đây, gần mười năm trước hai người đã gặp lại nhau, vượt qua bao thử thách. Nay cũng nơi này, đang mang về cho họ một đứa con từ bên kia bờ biển xa xôi.
Vân đã chuẩn bị đầy đủ tất cả. Một căn phòng riêng cho con, áo ấm, giầy vớ, búp bê…không thiếu món gì. Nàng dạy cho bé Hạnh kêu chàng là “ba”, gọi nàng là “mẹ”. Mỗi ngày đi làm về, Hào sung sướng khi thấy hai mẹ con quấn quít bên nhau.
Tuy sống trong tình thương yêu của Vân và Hào, hai người thỉnh thoảng bắt gặp bé Hạnh một mình tư lự trong phòng. Bé có một cuốn sổ tay mang theo trong người, hàng ngày vẫn mở ra coi rồi lại buồn thiu muốn khóc, nhưng mỗi khi thấy vợ chồng chàng, nó lại dấu đi. Vân tò mò muốn xem, cuối cùng lại thôi. Hai người đều tin đó là kỷ vật còn lại của cha mẹ ruột nó. Họ phải tôn trọng người đã khuất cũng như sự riêng tư của con. Ngày tháng còn dài để tìm hiểu bé.
….

Hôm nay tại sao bé Hạnh lại đưa cho Vân coi cuốn sổ tay có tấm hình?
Tấm hình tuy đã nhòe vài chỗ nhưng vẫn rõ ràng một gia đình gồm hai vợ chồng và một đứa con, bé Hạnh.
Hai người ở phía sau, chình là Hữu và Mai.
Hào và Vân run rẩy nhìn sửng tấm hình như không thể tin được sự thật.
Chỉ một thời gian không thư từ, Hào đâu ngờ họ đã vượt biên để đi đến một kết quả bi thảm!
Nước mắt chảy dài trên má. Hào đau đớn không thể thốt ra tiếng nấc… Chàng như nghe thấy tiếng sóng biển rì rào lẫn tiếng cười man rợ của loài dã thú.
Có tiếng la hét cầu cứu!
Tiếng phụ nữ!
Tiếng của Mai…
Hào như thấy Hữu thân yếu thế cô vẫn cố xông lại mong cứu người vợ yêu dấu đang dẫy dụa trong bàn tay của loài thú dữ.
Một nhát búa!
Hai nhát búa!
Máu loang lổ!
Một cái đẩy tay tàn bạo đưa người sĩ quan Hải Quân trẻ tuổi năm xưa về với biển khơi. Chuyến hải trình cuối cùng! Hào lại thấy Mai trong phút tuyệt vọng khốn cùng, thoát khỏi bàn tay dã nhân, lao mình xuống dòng nước. Nàng lấy tay che vết thương trên đầu chồng và cùng nhau chìm xuống biển sâu.

*
Hào đón lấy bé Hạnh từ tay Vân. Đứa con của Hữu và Mai đây. Nó đã từ ngàn dặm tìm đến gia đình chàng mà chàng nào biết. Có phải hồn thiêng của hai người bạn đã đưa đứa con mồ côi của họ về cho vợ chồng chàng nuôi dưỡng?
Hữu và Mai ơi, các bạn hãy yên tâm nhắm mắt. Đây là đứa con của chúng ta. Tôi sẽ thương yêu, đùm bọc nó cho đến khi nên người.
Bé Hạnh nằm yên trong lòng. Nó cũng đang khóc và cảm nhận sự thương yêu vô cùng của cha mẹ.
Ngoài kia, trên bầu trời xanh, trong áng mây chiều lờ lững như đang có Hữu và Mai đứng đó đón nhận lời khấn nguyện của Hào.

Họ mỉm cười mãn nguyện, và nương theo làn gió bay về chốn thiên đàng./.

ThaiNC

Chén rượu độc

Chén rượu độc

Chu Nguyễn

Cuối tháng 03, 2013, giới truyền thông Anh quốc được phen giới thiệu một bi hài kịch của một chàng trung niên của vương quốc sương mù. Nhân vật Roger Griffiths đang sống cuộc sống bình thường của một trí thức bậc trung, kinh tế ổn định hạnh phúc bên vợ là Lara và hai con gái kháu khỉnh thông minh, bỗng nhiên trúng số với vé trúng 1,8 triệu bảng Anh tương đương với khoảng 2,6 triệu Mỹ kim. Nhưng trong thời gian chưa đầy 6 năm, anh ta chỉ còn có 7 bảng Anh hay vào khoảng 10 Mỹ kim.

Trúng số thay đổi cuộc đời, có thể tốt hơn hay xấu hơn có khá nhiều thí dụ trong đời sống thường ngày. Nhưng có điều chắc chắn, trúng số đã khiến người ta thay đổi cuộc đời và áp lực thay đổi khiến nhiều nhà tân triệu phú mất hẳn cái bản sắc, cá tính vốn có lúc chưa trúng số.

Nhà văn Vũ Trọng Phụng từng viết truyện Trúng số độc đắc. Nhân vật chính là Nguyễn văn Phúc, thất nghiệp bị gia đình và vợ khinh bỉ, xin việc thì bị chủ Tây vứt đơn vào sọt rác. Nhưng bỗng nhiên chàng trai trúng số và bắt đầu cảm thấy có sự đổi thay nơi bản thân, cả thế giới bên ngoài như đổi hẳn cách nhìn anh ta. Từ đó, tạo ra biết bao bi hài kịch của một người khố rách áo ôm chỉ vì bỗng nhiên trở nên giàu có.

Truyện đời thực không nhằm mỉa mai đời mà tập trung vào người trong cuộc. Hai vợ chồng cầm trong tay món tiền từ trên Trời rơi xuống và rất thường tình, họ bàn tán có nên bỏ việc không, làm cách nào làm giàu thêm nhờ có vốn nhưng rồi tiền bạc làm thay đổi cách sống của họ, “ăn theo thuở ở theo thời” nên chỉ trong thời gian ngắn là tiêu hết của hoạnh tài và đôi lứa “không nhìn về một phía” nữa mà nhìn nhau, trách móc nhau.

Roger Griffiths bào chữa trước lời chỉ tích của vợ: “Cô ấy trách tôi làm tiêu tan 1,8 triệu bảng… nhưng sao cô ấy không nhớ đã tiêu biết bao nhiêu ở Louis Vuitton?”

Nguyên nhân nào khiến tiền bạc trôi nhanh như nước chảy về đông? Không phải kẻ bàng quan đoán mò mà chính người trong cuộc đã cho báo chí biết tình trạng của họ.

Vinh hoa kéo dài 6 năm:

Đôi vợ chồng trẻ Roger Griffiths trước 2005, sống êm đềm và đầy đủ trong một căn nhà bốn phòng ở Boston Spa ở West Yorkshire, Anh quốc, và chẳng bao giờ đóng trễ tiền mortgage. Người chồng kiếm 38.000 bảng mỗi năm. Lương người vợ cũng xấp xỉ. Có thể nói vợ chồng Griffiths “trông lên không bằng ai nhưng trông xuống cũng nhiều kẻ không bằng mình” vì lương của chồng, giám đốc một bộ phận tuyển dụng trong ngành IT, và lương vợ, giáo sư môn nghệ thuật tại một trường trung học, đủ để họ sống hết kiếp trong sung túc. Nhưng họ không tri túc mà muốn trở thành phú ông, sống như triệu phú, và cách duy nhất để nuôi hy vọng là mua vé số quốc gia. Mỗi tuần Griffiths để ra 2 bảng để đánh số. Có trúng số mới được làm triệu phú và sống vô giới hạn nghĩa là tự do, thoải mái và có thể đạt được giấc mơ trong đời mình.

May cho họ, thần tài gõ cửa vào 2005 với vé độc đắc trúng 1,8 triệu bảng Anh.

Đêm nghe tin trúng độc đắc, vợ chồng Griffiths đã tung tiền ra cho dạ tiệc và tưới sâm banh vào chiến thắng. Tiếp đó mua ngay chiếc Audi giá 18.000 bảng và Lara thì vội vàng tổ chức du lãm Dubai cùng chồng con bằng hạng dành cho kỹ nghệ gia và ở khách sạn 5 sao cho thỏa thích. Roger nhớ lại và có ý tự hào về sự xài sang: “Trong mười ngày chúng tôi đã xài hết 15.000 bảng”.

Roger còn kể thêm, Lara thì thích sắm đồ và cả ngày lượn quanh khu bán sắc tay loại xịn Louis Vuiton bất chấp giá cả hoặc chọn trang sức hột xoàn đắt tiền. Còn anh, anh khiêm tốn hơn… chỉ thích chơi xe sang và ăn mặc bảnh bao..

Trở về Anh họ tính mua nhà và chọn một kiến trúc ở Whetherby. Họ đã bỏ ra 18.000 bảng để tân trang như ý và 25.000 bảng để sắm đồ đạc.

Không ngừng tại đó, Roger thay xe Porsshe cho xứng vời danh hiệu phú ông, còn Lara thì đổi Audi sang Lexus. Hai cô con gái cũng được đổi trường, Ruby, giờ đã 9 tuổi, còn Kitti, 6, lập tức được chuyển trường tư, tốn phí 20.000 bảng mỗi năm.

Giàu thì phải sống như triệu phú mới được, họ thường tổ chức đi du lịch, sau Dubai, là New York, Florida và Rome và luôn luôn chọn khách sạn hạng sang như Royal Suite of St. Regis vì có người quản lý riêng.

Thứ bảy nếu buồn, vợ chồng tân triệu phú lên London thuê khách sạn thứ xịn là One Aldwych để hưởng thụ cho tiện nhưng giá không rẻ đâu nhé vì tới 300 bảng một đêm vui. Không sao vì họ có dịp gặp những ngôi sao màn bạc nổi danh và chụp ảnh chung làm kỷ niệm.

Vốn đẹp trai nhưng có tiền thì nên đánh bóng cho hình thức thẩm mỹ như làm trắng bộ răng ám thuốc lá, xài 300 bảng mỗi lần cho việc bơm Botox, tốn hơn 500 bảng xăm hình, trong đó trên bắp vế có cả tên người vợ là Lara.

Roger Griffiths không phải chỉ tung tiền ra mua những xe sang trọng nhất, mà còn toan đầu tư kiếm lời chứ không bằng lòng với số lợi nhuận do tiền gửi ngân hàng trả hằng tháng vào khoảng 340 bảng Anh một ngày, nhất là hai vợ chồng đã bỏ việc mà muốn chơi sang.

Có tiền thì muốn thực hiện giấc mộng khi còn tay trắng mộng đầy, Griffiths có máu nghệ sĩ, anh ta nhớ lại lúc còn học ở đại học cùng bạn bè lập một băng nhạc nhưng không có tiền để phát triển băng này nên sau khi rời trường thì thành viên tan tác. Griffiths bèn tập hợp bạn bè cũ lại và cho ra album mới sau khi đầu tư £25,000 (50.000 Mỹ kim) nhưng số xui, quảng cáo ra rả nhưng chỉ bán được 600 đĩa CD.

Không phải Griffiths không có ý đầu tư. Vợ chồâng anh ta đã bỏ ra 200.000 bảng Anh để lập thẩm mỹ viện, lấy tên là The Spa Lounge ở Boston Spa.

Griffiths cho biết đã làm cật lực để đưa Spa lên nhưng chỉ mấy tháng kinh doanh đầu tiên có lời rồi thì kinh tế khủng hoảng khiến vợ chống anh ta thua lỗ.

Như thế lỗi không hoàn toàn ở Roger Griffiths mà do thời cuộc đã làm tan giấc mộng vàng của vợ chồng anh. Hơn thế nữa, hình như đồng tiền xổ số mang lại không phải không có chút bất hạnh. Trước hết là thân phụ Lara lâm bệnh, chết năm 2009 rồi đêm trừ tịch Tết Tây 2010 một đám cháy bất ngờ phát ra làm tiêu tan biết bao tài sản trong tổ ấm của vợ chồng Griffiths. Cặp này lại bảo hành không đủ mặt nên phải móc túi ra cho việc sửa chữa. Hai tháng sau khi trở về nhà cũ và Lara đau đớn phát giác trong email của chồng có dấu hiệu ngoại tình. Roger chối và bị vợ cật vấn thì cuộc cãi nhau bùng nổ và chàng khăn gói ra đi.

Như trên đã nói, một cuộc đầu tư vụng trong thời gian kinh tế khủng hoảng, đã khiến Griffiths không những mất tiền, mất nhà và hôn nhân tan vỡ. Giờ đây chàng trai nợ nần cùng mình đi làm cũng để trả nổi những “bill” khi có tiền vung tay quá trán và giờ đây, thất thế đành ngửa tay xin tiền cha mẹ giúp lúc cùng đường. Cựu triệu phú tâm sự: “Số tiền giờ đây tôi kiếm được không đủ dùng để trả hóa đơn chồng chất cái thuở hoàng kim. Nếu không có gia đình giúp đỡ thì tôi nguy rồi. Nhìn lại mới thấm thía cầm vé số độc đắc chẳng khác gì nhận ly rượu độc”.

Hoàn cảnh Lara vô cùng áp lực. Không còn chọn lựa nào khác ngoài tiếp tục bơm tiền vào dịch vụ bằng cách cầm cố nhà lấy tiền củng cố cửa hàng. Những lỗ này tiếp theo lỗ khác nên nhà có cơ nguy bị tịch thu.

Trước đó, Roger Griffiths lại bay bướm, tìm của lạ khi có tiền trong tay và khi vỡ nợ thì gánh nặng tiền bạc đổ vào đầu Lara, chàng ta nhanh chóng dọn ra ngoài thuê phòng trọ, còn nàng nuôi con và kiếm tiền hằng tháng nhưng không đủ trang trải nợ nần và có cơ nguy mất nhà.

Cuộc tình 14 năm tan vỡ, chồng đổ cho vợ, vợ đổ tội cho chồng về việc tiêu quá nhanh “món tiền trời cho” và hậu quả tới nước trắêng tay lại mang nợ.

Lara nghĩ tới lần trúng số mà tê tái. Nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt Lara tâm sự với một ký giả: “Tôi đã nhận ra trúng số không tốt như người ta tưởng đâu. Một số người sau khi trúng số lại tệ hơn lúc trước khi hưởng độc đắc, chỉ vì chúng ta thắng được món tiền chứ không kiếm ra nó. Tôi không những phải làm lại từ đầu mà hoàn cảnh còn tệ hại hơn trước khi trúng số”.

Lara cho đến nay khi nhắc lại thất bại của đời mình đều đổ tại chồng vụng tính. Bà than thở: “Anh ấy đưa giấy tờ đầu tư mỹ viện nhưng tôi không đọc và chỉ biết ký tên và khi biết thì đã muộn phải gánh chịu hậu quả thua lỗ”.

Ngày nay Lara phải làm việc với vai trò chuyên viên thẩm mỹ cho mỹ viện mà trước kia của mình nhưng sau này phải bán sau khi lỗ 500.000 bảng Anh.

Trở lại cảnh nghèo sau khi tỉnh giấc mộng nam kha lẽ ra cả hai vợ chồng Roger Griffiths có thể đối phó được nếu Roger vẫn là chàng trai thuở ban đầu. Lara nhớ lại, cả hai gặp nhau khi cùng học ở Đại học Lanscaster và lấy nhau vào năm 1997. Lara tâm sự: “Trong dịp kỷ niệm 10 năm lễ cưới anh ta gửi cho tôi một tấm thiếp cho tôi biết anh tự hào vì có tôi và rằng mỗi giây trôi qua tình yêu của anh dành cho tôi càng tăng thêm”.

Nhưng sau khi trúng số Roger đã biến thành một người khác xa lạ với Lara. Hờ hững và đôi khi nặng lời với vợ, theo đuổi vụng trộm cô gái khác, lạnh lùng với con. Những biểu hiệu này làm hôn nhân từng kéo dài 14 năm tan vỡ. Lara tâm sự: “Tôi chấp nhận lấy Roger vì anh ta là người biết suy nghĩ và rất tốt. Anh ấy săn sóc tôi và con cái và là người cha ưu tú… Giờ đây nhìn lại chúng tôi chỉ trao đổi ý kiến qua text và nhiều khi “gặp nhau ghé nón chạm vai chẳng chào”.

Phải chăng tiền bạc vun xới ái tình và chính nó có thể dập tắt lửa tình và trúng số có thể xây dựng lâu đài hạnh phúc nhưng cũng đôi khi xói mòn chân móng hạnh phúc.

chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Vợ Hiền

Vợ Hiền

Tràm Cà Mau

vietfun.com

1.
Vợ tôi không phải là một người đàn bà có nhan sắc khuynh nước đổ thành. Bởi tôi, vốn tài mạo tầm thường và cũng không có nhiều may mắn bất ngờ để lọt mắt xanh những cô có nhan sắc chim sa cá lặn. Vả lại tôi cũng thường nghe bố tôi tuyên truyền nhồi nhét trong cái đầu từ nhỏ rằng, đẹp đến mấy rồi cũng trở thành méo mó xấu xí, và vợ đẹp là vợ người ta. Vợ tôi cũng không có tài ba xuất chúng, bởi tôi vốn nể sợ và có thành kiến với những người đàn bà tài giỏi, vì họ thường kiêu ngạo và hay thành độc tài vợ trị. Ðộc tài đảng trị thì có thể bỏ nước chạy ra biển chết, chứ độc tài vợ trị thì không chạy đâu cho thoát cả!

Vợ tôi chỉ là một người đàn bà trung bình trên tất cả mọi mặt. Với một vóc dáng tầm thường bên ngoài, không vêu vao xấu xí khó nhìn. Bên trong nàng mang một tấm lòng hiền hậu, bao dung, biết hành xử khôn ngoan khéo léo, để đem lại cho gia đình hạnh phúc êm ấm lâu bền mà tôi vô cùng biết ơn mỗi khi nghĩ đến.

Trong nhiều năm chung sống, chưa bao giờ nàng nặng lời với tôi, chưa bao giờ có cử chỉ hay ngôn ngữ thiếu lịch sự, cũng chưa lần khóc lóc giận hờn đòi hỏi điều này điều kia, hoặc đặt điều kiện làm khó, hay so đo chuyện nhà với gia đình người khác.

Ngoài tình cảm thắm thiết chia sẻ của vợ chồng, nàng âu yếm như một người tình, khoan dung rộng lượng như một người mẹ và hiểu biết như một người tri kỷ.

2.
Năm tôi hai mươi tám tuổi, mẹ tôi nóng ruột thúc hối ép tôi lập gia đình. Bà đưa cái công thức cổ xưa của mấy ông Tàu bày ra là “tam thập nhi lập”. Tôi cũng chưa đến ba mươi, mẹ tôi cứ gán đại thêm cho hai tuổi để dễ bề ép uổng.

Tuổi đó, thích được quen nhiều bạn gái, bạn thôi thì được, nhưng nghe đến chuyện hôn nhân là xanh mặt. Vì qua kinh nghiệm bạn bè, kinh nghiệm giao tiếp trong sở, tôi thấy đa số mấy anh có vợ rồi thì dường như bị khép chặt trong cái vòng “chuyên chính” của bà vợ nhà! Cái vòng tuy lỏng lẻo và êm ái, nhưng bằng sắt, rất chặt và siết cứng.

Một anh bạn thân, lâu lâu giận vợ, đến nhà tôi ở lại, nằm rũ ra trên giường như đống mền rách rầu rĩ nói với tôi:
– Tao chỉ mong có được một ngày an bình, sung sướng như mày, một ngày thôi cũng đủ.

 

Nghe thế thì không sợ sao được? Trong sở tôi có mấy anh bạn bị vợ cào rách mặt và phải lấy cớ là dao cạo râu cắt. Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra, vì mặt mày các anh láng lẫy, trơn tru, có sợi râu nào đâu mà phải cạo cho dao cắt!

Một ông lớn tuổi khác, vợ vào tận sở xé áo và kêu bằng mày tao, còn tố cáo ông mang bằng kỷ sư giả bên Pháp về.

Nhan nhản những tấm gương gia đình u ám trước mắt như vậy, thì chỉ có ngu quá hoặc liều mạng mới không sợ mà thôi.Tôi khất lần mãi không được, phải bẻn lẻn theo mẹ, đi ra mắt, và xem mặt nhiều cô con gái các gia đình mà bà quen biết. Tôi theo lời dạy của một anh quân sư quạt mo, cứ mang bộ mặt đưa ma đến nhà người ta và ăn nói nhát gừng cộc lốc, thì không ai muốn gả con gái cho, và các cô thấy vậy thì cũng ớn lạnh mà dạt ra. Thế mà cũng có nhiều nhà khen tôi hiền lành, muốn gả con gái cho. Tôi tìm đủ lý do nói riêng với mẹ để chê bai từ khước. Cô thì chê mặt dài, cô thì chê mũi lớn, cô khác chê mắt có đuôi, cô thì mồm như có râu. Toàn cả những lý do vu vơ. Mẹ tôi phiền muộn thở dài, vì biết con trai bà cũng chẳng có sự nghiệp gì sáng giá,chẳng có một phong cách đặc biệt nào, mà đòi hỏi quá đáng chăng?

3.
Không nỡ để mẹ buồn, tôi đem Lam, người bạn gái thân thiết nhất về giới thiệu với mẹ, bà vui vẻ chịu ngay. Bà khen Lam láu lỉnh, bặt thiệp và xinh đẹp.Mẹ tôi đến thăm xả giao nhà Lam hai lần để dò xét gia thế, và quyết liệt chống đối cuộc hôn nhân, lấy lý do là mẹ Lam dữ dằn và có cách cư xử thiếu lễ độ với chồng. Tôi nói:
– Con cưới Lam chứ cưới bà ấy đâu mà mẹ sợ?

Mẹ tôi nhất quyết tin rằng, mẹ hổ thì khó sinh được con cừu. Vì cách đối xử của cha mẹ, ảnh hưởng đến tính tình con cái. Cha mẹ dữ dằn, con cái khó mà hiền lành được, vì ngày ngày học cách ăn nói, cách đối xử, tiêm nhiễm những thói quen của cha mẹ, và đem ra xử sự với đời, mà không biết đó là xấu. Tôi cố bào chữa cho Lam, nhưng mẹ tôi đã nhất quyết, không lay chuyển được. Bà nói:
– Mẹ thương con, mẹ không muốn sau này con khổ vì đời sống gia đình thiếu hạnh phúc. Vì không có gì khổ bằng có vợ dữ dằn, hỗn láo, có thể làm người chồng buồn phiền sinh ra rượu chè, cờ bạc, trai gái hư hỏng. Mẹ thương con, lo cho tương lai con nên mẹ không chịu.

Tôi định nói với mẹ rằng, con trai của mẹ cũng chẳng hiền lành chi, mà chê thiên hạ. Nhưng sợ mẹ buồn nên im lặng. Mẹ của Lam biết được ý kiến của mẹ tôi, nổi tự ái, nói nhiều lời tàn nhẫn, tổn thương đến gia đình tôi, và tuyên bố không bao giờ gả Lam cho tôi. Khi bị trắc trở, ngăn cấm thì tình yêu càng thêm tha thiết bốc lửa, và hai đứa tôi càng quyết vượt qua hàng rào ngăn cản của gia đình. Muốn sống cho nhau, và sống chết vì tình yêu.

Một lần chìu ý mẹ, tôi miễn cưỡng đi xem mặt một cô mà mẹ tôi gọi là gia đình phúc hậu đàng hoàng. Tôi chẳng tha thiết gì, chỉ giữ đủ lịch sự tôi thiểu để cho mẹ khỏi mất mặt. Lần đó Lam biết được, nàng giận dữ sỉ vả tôi:
– Anh là một thằng đểu cáng, xấu xa đê tiện, một kẻ hèn nhát núp váy mẹ, không dám làm gì cả. Anh không xứng đáng với tình yêu của tôi.

Tôi nghe mà bàng hoàng, như bị sét đánh. Hai đứa giận nhau. Tôi chợt nhớ tới lời nhận xét của mẹ, và thấy bà cũng có lý phần nào. Nhưng tim tôi vẫn nát tan xót xa vì chuyện tình đổ vỡ.

Ngay sau đó, Lam có người yêu mới là Tuân. Tuân cũng là trong đám bạn bè quen biết lâu dài với tôi, tính tình Tuân hiền lành, chịu đựng, và Tuân đã bền bỉ theo đuổi Lam từ lâu. Nửa năm sau, tôi đi dự đám cưới Tuân, Lam với trái tim vỡ nát, nhưng cũng vui mừng vì Lam lấy được chồng hiền lành và đàng hoàng, có thể bảo đảm đời sống tinh thần vật chất cho gia đình sau này. Tôi thật tình nghĩ rằng, tôi không bằng được Tuân về nhiều mặt. Lam bỏ tôi là phải.

4.
Mẹ tôi làm như lấy vợ cho bà, cứ khóc lóc thúc giục mãi. Tôi tâm sự với một người bạn cũ. Anh cười và nói:
– Hay là cậu thử tìm hiểu Mai, em gái tôi xem sao. Nó cũng sẵn có cảm tình với cậu đó. Mai hiền lành lắm.Ðược bạn khuyến khích, tôi bắt đầu tìm hiểu Mai. Nàng không đẹp, không xấu, chăm chỉ, hiền lành. Trước đây, đến nhà bạn chơi, tôi chỉ thấy Mai thấp thoáng đâu đó sau bàn học, hoặc lẳng lặng rút lui sau khi cúi đầu chào lễ phép.

Dẫn Mai đi chơi, tôi không tìm hiểu được chi nhiều về Mai, vì nàng quá thụ động, khi nào cũng nhẹ nhàng chìu chuộng, ít đưa ý kiến riêng. Khi hỏi ý, nàng thường bảo:
– Dạ, anh cho em đi đâu cũng thích cả, anh vui thì em cũng vui.Tôi đem nhận xét về cái hiền lành của Mai nói với một người bạn. Anh cười hô hố và nói:
– Trời ơi, khi mới quen thì em nào mà không hiền lành như thánh mẫu, dịu dàng như tiên cô. Khi cưới về thì cái đuôi dài thòng mới lòi ra, và dữ như chằng tinh. Em nào cũng vậy cả.

Tôi hỏi thẳng anh của Mai, anh trả lời:
– Con nhỏ hiền lành, biết nhường nhịn và rất dịu dàng. Cậu có phước lắm mới gặp nó. Không phải vì nó là em gái mà tôi khen đâu.

Mẹ tôi đến thăm gia đình Mai nhiều lần, khen mẹ của Mai phúc hậu, hiền lành, cư xử lịch sự, phải phép với chồng. Bà nghĩ rằng, nhất định Mai cũng học được nề nếp gia đình của mẹ, không nhiều thì ít. Bà thúc tôi làm đám cưới ngay. Tôi xin hoãn một thời gian để tìm hiểu thêm, mẹ không chịu và bảo:
– Lấy vợ thì lấy liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha.

Tôi nói rằng, nếu nghe được lời dèm pha đúng, thì cũng là điều tốt, mình khỏi phải xét đoán lầm người. Mẹ tôi lại giảng cho tôi rằng, chín mươi phần trăm cách cư xử của con cái là do ảnh hưởng sinh hoạt tốt xấu của cha mẹ. Cha mẹ gieo vào đầu con cái thứ tư tưởng nào, thì nó sẽ hành động theo lối đó. Thương mẹ, tôi tạm quên kinh nghiệm ghê gớm trong đời sống gia đình của bạn bè và đồng sự, liều thân lấy vợ cho mẹ vui lòng.

 

Có một ông bạn bảo rằng, lại thêm một thằng đàn ông ngu muội đi vào vết xe đổ nghìn năm của nhân loại

.5
Tôi cưới Mai, nàng như cái bóng dịu hiền bên tôi.Tôi thấy mình tan loãng vào tình yêu êm đềm, và chợt nhận ra đời sống gia đình êm ái, thoải mái và hạnh phúc hơn nhiều lần đời sống độc thân. Không thấy gò bó tù túng trong dây ràng buộc của gia đình như nhiều người thường bảo. Mai lo lắng cho tôi những thứ cần thiết lặt vặt trong cuộc sống bình thường, bổ khuyết cho tôi những thiếu sót, dịu dàng an ủi tôi những khi lo buồn. Tôi nói với vợ:
– Anh ngu quá, biết lấy vợ mà sung sướng hạnh phúc như thế này, thì đâu để độc thân đến gần ba mươi tuổi. Uổng thật.

Những khi chúng tôi có ý kiến trái ngược, Mai dịu dàng phân tích thiệt hơn cho tôi nghe, rồi để cho tôi quyết định. Sau khi quyết định xong, dù có trái ý nàng, Mai cũng vui vẻ cố gắng giúp tôi hoàn thành công việc. Không như các bà khác, những lúc chồng làm trái ý, thì các bà mong cho ông chồng thất bại để chứng tỏ ý kiến của bà là đúng, là hay. Mai thường nói:
– Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn. Nếu ai cũng khăng khăng giữ ý của mình, thì chẳng làm nên được việc gì cả.

Cũng có khi quyết định của tôi sai lầm, đưa đến kết quả không tốt. Những lúc này, Mai thường hết lời dịu dàng an ủi tôi, và cho rằng tôi không có lỗi gì cả, ví ai cũng có thể sai lầm, và Mai cho rằng nàng cũng có phần lỗi, vì chưa tận tình giúp tôi đầy đủ ý kiến để làm quyết định. Từ đó, tôi cảm thấy mình phải lắng nghe ý kiến của vợ nhiều hơn.Tôi nghĩ, nếu những lúc này mà Mai dằn vặt, nằng nặc buộc tôi tôi, thì chưa chắc tôi đã thấy mình lầm lỗi. Mai không như một số đàn bà khác, đúng hay sai cũng đổ lỗi cho chồng, và những khi chồng thất bại trong đời, là cái dịp cho các bà chê bai, mai mỉa, nói những lời tàn nhẫn.

Ngoài xã hội, có những lúc tôi vô tình hoặc thiếu may mắn, gây nên những sai lầm với người khác, Mai tự đứng ra, gánh vác hết trách nhiệm thay tôi. Tự ái đàn ông, đâu cho phép tôi để vợ gánh vác trách nhiệm thay mình. Tôi thấy thương và quý vợ nhiều hơn. Mai bảo:
– Chuyện nhỏ, để em gánh vác giúp, anh để tâm trí làm những việc khác ích lợi hơn.

Tôi thầm nghĩ, tôi thì làm chi có việc lớn mà gánh vác.

6.
Những năm mới lấy nhau, tài chánh gia đình khó khăn, đắp trước bù sau hàng tháng. Áo quần đơn sơ, ăn uống dè xẻn. Thế mà Mai bao giờ cũng vui vẻ, chưa bao giờ nghe Mai than thở hoặc so sánh với các bạn bè khác. Nàng thường nói:
– Chúng ta nghèo vật chất, nhưng giàu hạnh phúc, tinh thần thanh sạch, thế là đủ. Ðời sống biết đủ là đủ.

Chính vì Mai không than thở, nên tôi thấy mình có trách nhiệm nhiều hơn về tài chánh gia đình. Buổi chiều về, tôi đi dạy thêm cho các lớp đêm. Ngày nghỉ, tôi mở lớp dạy kèm luyện thi cho từng nhóm nhỏ. Tài chánh gia đình nhờ đó mà dồi dào hơn, có thêm tiền, nhưng Mai không vui, mà chỉ lo cho tôi thiếu sức khỏe sinh bệnh hoạn.

Năm đó, tôi không chịu theo bè cánh với nhóm tham nhũng, chúng đày tôi về một tỉnh nhỏ xa xôi. Tôi buồn phiền lắm. Không đi thì không được, đi thì bỏ hết công chuyện làm ăn riêng tư. Mai khuyên tôi nhẫn nhịn, và gắng tìm vui trong hoàn cảnh mới.

Khi chúng tôi về tỉnh nhỏ, Mai thường an ủi và nâng đở tinh thần tôi, đặt mua các thứ sách báo tôi thích, để giải trí và quên đi phần nào nổi buồn nơi tỉnh nhỏ. Mai xin được việc ở một nhà dạy trẻ, để phụ thêm kinh tế gia đình….

Khi chạy vội về Sài Gòn vào năm 1975, chúng tôi mất tất cả, trở thành trắng tay. Tôi lo lắng và muộn phiền lắm, nhưng nhờ thái độ trầm tĩnh và chịu đựng của Mai mà tôi bớt bối rối. Trước ngày miền Nam sụp đổ, chúng tôi bàn nhau là nên ở hay đi. Ý Mai thì nên đi để bảo toàn tính mạng cho gia đình, khi yên ổn thì quay trở về cũng chẳng mất mát gì. Phần tôi thì vì yêu mến quê hương một cách lãng mạn, quyết ở lại, muốn cùng chia sẻ khổ đau, sống chết cùng quê hương. Chủ nghĩa đối với tôi không quan trọng, tôi nghĩ chính thể nào cũng thế thôi, cũng cùng là người Việt, cùng giòng giống tổ tiên, thì việc gì mà phải bỏ chạy?

Tôi đã lầm to. Thảm họa trùm xuống khắp miền Nam . Ðau khổ, lao tù, đói lạnh, đè nén, áp bức. Tôi cũng ôm gói đi tù như mọi bạn bè, Trong tù, tôi vô cùng ân hận về quyết định sai lầm, để thân xác mình bị tù đày, để vợ con bơ vơ, đau khổ, đói rách, không vốn liếng, không tài sản.

Ba tháng sau khi tôi đi tù, Mai thấy chồng chưa được thả về, đã xoay xở rất mau. Nàng mua áo quần cũ, cắt ra may thành áo quần trẻ em đem bỏ mối tại các chợ trời hè phố. Ðêm nào cũng may đến mười hai giờ khuya. Một mình nuôi chồng tù tội, nuôi con thơ dại, ngược xuôi trong cuộc đổi đời. Những năm tháng nằm tù, có nhiều thì giờ suy nghĩ, tôi mới sâu sắc nhận ra mình mang ơn vợ quá nhiều. Tình cảm nàng dành cho tôi tràn đầy dịu dàng, bao dung, âu yếm và hy sinh. Tôi biết mình là kẻ có phước được vợ hiền….

7.
Khi tôi được ra tù, thể xác tiều tụy, tinh thần suy nhược, đời sống bất ổn, bị đe dọa thường trực. Hàng tuần bị tên công an khu vực đến thúc giục đuổi đi về vùng kinh tế mới, và nói lời hăm dọa. Tôi nản lòng bàn với Mai để dọn về vùng kinh tế mới cho yên thân. Nàng đã khôn ngoan giải thích rằng, bằng mọi giá phải bám vào thành phố, để sống còn và để bớt bị độc tài áp bức, bớt khốn khổ vì cái u mê của chế độ hành hạ. Nàng thường khuyên tôi:
– Mình hãy xem cuộc đời này như một trò chơi không vui, đừng quá quan tâm đến những gì xảy ra cho mình, cho thiên hạ chung quanh. Những đau khổ mà mình đang chịu đựng cũng là một thứ thử thách, làm cho mình lớn thêm lên, trưởng thành hơn, và cứ vui với những gì nhỏ nhoi nhất có thể có trong thời gian này. Không xấu xa nào có thể tồn tại mãi mãi được, ánh sáng tương lai sẽ có ngày chiếu rọi trên quê hương.

Mai đã an ủi, khuyên nhủ và dịu dàng dắt tôi đi qua quãng đời đau khổ trong chế độ lạ lùng vô nhân kỳ quái này. Chúng tôi bữa đói bữa no dắt nhau đi trong đời sống mịt mù của xã hội chủ nghĩa trá hình.

Khi tôi ngỏ ý tham gia một tổ chức phục quốc chống lại chính quyền cộng sản trong thành phố, thì Mai đồng ý ngay. Nàng nói:
– Chúng ta đã vất súng đầu hàng, chỉ mong được bình yên sống và góp phần xây dựng lại quê hương.Nhưng kẻ chiến thắng đọa đày nhân dân xuống vực thẳm. Không cho ai yên sống. Chính họ đã buộc chúng ta đứng dậy, cầm lại súng. Việc đáng làm thì phải làm. Nếu ai cũng trốn tránh cả, thì đau khổ này biết bao giờ dứt được? Nhưng phải thận trọng để khói phí thân làm việc dã tràng.

Cùng với bạn bè cũ mới,chúng tôi tổ chức mua súng, liên lạc với các nhóm kháng chiến khác. Ra một tờ báo bí mật chuyền tay. Mai đã ngược xuôi giúp đỡ chúng tôi, mang tin tức, chuyển vận hàng hóa. Chúng tôi mơ mộng một ngày ánh sáng tự do chiếu rọi trên quê hương, trở lại đời sống không áp bức kẹp kềm.Một vài người trong nhóm bất cẩn, tổ chức bị đổ bể, đa số anh em bị bắt. Tôi chạy thoát được với cái áo có nhiều lỗ đạn bắn thủng bên hông. Mai nhờ người nhắn tôi bình tĩnh chờ nàng sắp đặt.Nàng vay mượn và bán hết đồ đạc trong nhà, đóng tiền cho tôi bí mật vượt biên…

Phút cuối chủ thuyền cho vợ con tôi cùng đi với lời hứa trả tiền sau. Tôi cám ơn Trời Phật đã xui khiến cho chúng tôi còn có bên nhau trong đời.Trên biển đói khát Mai nhường phần ăn uống cho con, cho chồng, với lý do là tôi cần sống hơn nàng, tôi có thể làm được nhiều việc ích lợi hơn. Nhưng theo ý tôi, thì chính Mai mới xứng đáng để sống sót vì đời sống nàng có nhiều ý nghĩa, tốt đẹp hơn.

Những ngày khó khăn nắng cháy cực khổ tại trại tỵ nạn, nàng dành lấy hết tất cả việc vặt vãnh như lãnh thức ăn, xách nước, nấu nướng, chăm sóc con cái, để cho tôi có thì giờ tham gia tiếp tay phụ giúp các công tác chung trong trại. Mai dặn tôi tránh xa những nơi có tranh giành, có chút quyền lợi, chỉ kê vai gánh vác những việc có ích chung mà không ai làm. Với khuyến khích và an ủi của vợ, tôi làm được nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Trong lúc đó, một vài anh bạn tôi, tham gia việc cộng đồng mà như làm việc quốc cấm, bị vợ cằn nhằn, ngăn cản, mỉa mai rằng việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng.

Nhiều người than vãn về những thiếu thốn, khó khăn, cực khổ trong trại tỵ nạn. Mai thì khi nào cũng vui vẻ, lạc quan, và cho rằng tương lai được sống đời tự do đang rõ ràng trước mắt. Những thiếu thốn khó khăn trong trại tỵ nạn là đương nhiên. Ở đây cũng còn sung sướng hơn những ngày tháng sống với chế độ công sản u ám, bất trắc, chèn ép, sợ hãi. Những khi con tôi chê cơm, Mai nhắc nhở cho chúng những ngày khoai sắn qua bữa, những ngày đói khát trên biển khơi, thì chúng vội vàng ăn ngon lành những chén cơm trong trại tỵ nạn.

8.
Chúng tôi đến Mỹ vào mùa Ðông, tuyết phủ ngút ngàn, trắng xóa cả đất trời. Chưa biết có thể làm gì để nuôi sống gia đình trong miền đất mới, nhưng nhờ trợ cấp xã hội trong thời gian đầu, đắp đổi tạm sống qua ngày. Dù không dư giả, tiền trợ cấp xã hội được Mai chia ra làm ba phần: hai phần ba nuôi sống gia đình với chi tiêu dè xẻn tiện tặn, một phần ba gởi về giúp những bạn bè đang đói khó khắc khoải trong lao tù, trong các vùng kinh tế mới….

Hai vợ chồng dắt nhau đi tìm việc, và không nản lòng. Tôi tìm được một chân rửa chén bát tại khách sạn Holiday Inn. Mai tìm được một chân làm bánh ngọt Donut. Chúng tôi tự túc được rồi, và từ đó mà tiến lên, tôi tìm được công việc khác trong hãng tiện có đồng lương khá hơn. Chúng tôi bắt liên lạc với bạn bè xa gần, và ao ước được đóng góp phần nào vào nỗ lực làm vơi khổ trên quê nhà.

Thư của bạn bè hồi âm với lời lẽ bi quan, nhiều người khuyên tạm quên chuyện quê hương đi, mà lo cho đời sống bản thân và gia đình trước đã…

Nhiều đêm Mai thì thầm:
– Chúng ta có yên lòng hưởng hạnh phúc, tự do khi cả quê hương đang chìm đắm trong khổ đau? Chúng ta có quên được bao nhiêu người đang kỳ vọng chúng ta nơi quê nhà? Liệu chúng ta có làm được gì không hay chỉ mải mê lo cho đời sống riêng tư? …

Chưa bao giờ tôi nghe Mai phàn nàn, sanh nạnh với tôi về công việc trong nhà.Chưa bao giờ nàng lên giọng sai bảo tôi hút bụi, quét nhà, rửa chén bát. Nếu rảnh, thì tôi làm, nếu tôi bận xem những trận thể thao hấp dẫn, thì thôi. Nhiều lúc Mai không cho tôi rửa chén bát, giành lấy mà làm, vì những lúc đó nàng rảnh rang.

Chúng tôi cùng làm việc nhà trong tinh thần chia sẻ, không phải trong trách nhiệm phân chia việc nào chồng làm, việc nào vợ làm. Mai chưa bao giờ tranh hơn thua với chồng. Nàng quan niệm rằng, vợ chồng không cần tranh hơn thua nhau, hơn chồng cũng không được gì mà chỉ tổ tình yêu bị tổn thương.. Chưa bao giờ Mai lớn tiếng hay khăng khăng quyết đoán việc gì. Khi nào cũng dịu dàng thảo luận và sẵn sàng chờ lúc thuận tiện để thuyết phục thêm. Tôi đã nghe thấy vợ nhiều người bạn, sẵn sàng xẵng tiếng với chồng, mở miệng ra là nói nặng lời, nói điều chua chát khó nghe, và tôi biết mình may mắn có vợ hiền …Những lúc tôi gặp khó khăn ngoài xã hội, mang bực bội và cái không vui về nhà, Mai thường khuyên tôi rằng:
– Mục tiêu tối thượng của đời người là đi tìm hạnh phúc. Ði làm kiếm tiền cũng chỉ để mua hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực của cuộc sống là gia đình vui vẻ, ấm êm và dễ chịu. Không tội chi đem cái khó khăn bực bội của bên ngoài về nhà cho mất vui, mà phí phạm ngày tháng yên ấm của gia đình. Dù giàu sang danh vọng đến mấy, mà gia đình thiếu hạnh phúc thì đời không còn ý nghĩa gì.

Thế là tôi tìm được nguồn vui và yên tĩnh tâm hồn…

9.
Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai:
– Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không?Nàng nói:
– Sách dạy cho em biết rằng, người cho thì được nhiều hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu thì sẽ được, không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình đang có, thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất.

Tôi thành thực mà nói rằng đã học được rất nhiều điều tốt của vợ tôi. Nàng càng dịu dàng, càng thu mình nhỏ lại, thì tôi càng thương yêu trang trải bù đắp cho vợ nhiều hơn. Mỗi khi đi làm về, thấy nét mặt tươi vui hân hoan của vợ, thì bao nhiêu mệt nhọc bực bội trong ngày đều tiêu tan.Khi tôi phạm phải lỗi lầm, hành động sai quấy, vợ tôi thường an ủi rằng, mình là con người chứ đâu phải là thần thánh chi, mà không có sai lầm. Ðừng buồn, cái thiệt hại này cũng là bài học tốt về sau. Những an ủi, khuyến khích tinh thần của vợ, làm cho đời sống tôi nhẹ nhàng, êm ái, thư dãn, không bị dồn ép, không bị áp lực cuộc sống, không có căng thẳng gia đình như nhiều bạn bè khác.

Trên bước đường tha hương, một lần vợ chồng Tuân-Lam ghé thăm chúng tôi. Tuân là bạn cũ, Lam là người xưa. Vợ tôi biết rõ mối tình cũ giữa tôi và Lam, nhưng nàng tin chồng, và rất lịch sự, vồn vã đón tiếp họ hết lòng. Có lẽ Mai cũng biết chuyện xưa của chúng tôi đã nguội lạnh từ lâu, chẳng ai còn tiếc thương chi. Tuân vẫn hiền lành phúc hậu như xưa, nét mặt chịu đựng. Ðêm khuya tôi vẳng nghe tiếng Lam đay nghiến dằn vặt chồng ở phòng bên cạnh, nói những lời thiếu lễ độ.

Về sau, mỗi lần nghĩ đến Lam, lòng tôi phơi phới, vì may mắn, cuộc đời không phải gắn liền với một người đàn bà như Lam. Tôi biết ơn mẹ nhiều hơn. Kinh nghiệm sống của mẹ đã giúp cho cuộc đời tôi có hạnh phúc hơn. Và tôi biết thương yêu, nể trọng vợ hơn nhiều.

10.
Một chị bạn gia đình không được hạnh phúc, hỏi vợ tôi bí quyết để được chồng thương yêu nể nang. Mai cười mà nói:
– Không có bí quyết nào cả. Chỉ có câu chuyện sau đây, tôi thuộc nằm lòng từ thời còn đi học. Chuyện ở trong sách tập đọc của Pháp. Rằng:
– Có một anh nông dân đem bò ra chợ tỉnh bán. Suốt ngày không bán được phải dẫn bò về. Ðường xa mệt nhọc, con bò trở chứng không chịu đi. Có người gạ đổi con bò lấy con ngựa hồng tung tăng. Anh tưởng được ngựa sẽ thong thả dong cương ra về, nhưng con ngựa lạ chủ không chịu cho anh cưỡi và cũng trì kéo dằng dai. Một người khác dẫn con heo nái ngoan ngoãn đi qua, gạ đổi heo lấy ngựa, anh đổi liền.Ðường xa mệt nhọc, con heo cũng nằm ì không chịu đi, bí quá, anh đổi heo lấy một con dê nái. Con dê càng cứng đầu khủng khiếp, anh vật lộn với dê phờ phạc.Ðêm đã tối mịt mù, một hành khách đề nghị đổi dê lấy một con gà trống lớn. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, anh ôm con gà vào quán đổi lấy bữa cơm. Thế là một bữa ăn trả giá bằng một con bò. Ăn xong, anh nông phu thong thả ra về, vừa đi vừa ca hát khỏe khoắn.

Khi về đầu làng, có bạn quen hỏi đi đâu mà về khuya thế. Anh kể chuyện đi bán bò, và đổi con gà lấy bữa cơm. Người bạn hết hồn, khuyên anh khoan về nhà, mà bà vợ nổi cơn tam bành lên, không khéo vợ chồng xô xát gây ra án mạng. Anh nông dân bảo rằng, chắc vợ anh cũng thấy việc làm của anh là có lý. Người bạn ức quá, đánh cá một con bò, nếu chị vợ mà không gây gổ, thì anh nông dân sẽ được một con bò, còn ngược lại, phải mất lại một con bò khác. Người bạn đi theo núp bên ngoài nghe cuộc đối thoại của vợ chồng anh nông dân. Chị vợ hỏi anh, đã ăn gì chưa, đi đường có mệt lắm không, bò bán có được giá không? Anh đáp rằng đã ăn rồi, con bò không bán được mà trên đường về nó không chịu đi nên đã đổi con bò lấy con ngựa rồi. Chị vợ nói rằng, có con ngựa cũng tốt, nó sẽ kéo xe, giúp mình di chuyển mau chóng hơn. Anh chồng cho biết con ngựa không chịu cho anh cưỡi nên đã đổi lấy con heo nái. Chị vợ cũng tán thành ngay và còn dự trù con heo mùa sau sẽ sinh ra một bầy heo khác, rất có lợi. Anh chồng cho biết thêm, con heo cũng trở chứng không chịu đi nên đổi lấy một con dê cái. Chị vợ tiếp liền, là con dê cũng rất có lợi, từ nay mỗi sáng gia đình sẽ có sữa dê mà uống. Anh chồng lắc đầu và cho biết đã đổi con dê ương ngạnh lấy con gà trống lớn. Chị vợ anh nông phu tiếp rằng, có con gà cũng tốt, mỗi sáng nghe nó gáy cũng vui tai. Anh chồng bảo là buổi sáng ra đi không đem tiền theo, đói quá, đã vào quán đổi con gà lấy bữa cơm.

Nghe xong, chị vợ anh nông phu đến quàng hai tay, ôm vai chồng và nói rằng, anh làm như thế là phải. Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của. Ði cả ngày mệt nhọc đói khát, không ăn chịu sao nổi. Em đã để sẵn khăn, múc sẵn nước, anh đi tắm cho khỏe.”

Mai kết luận rằng: “Muốn được chồng thương cũng rất dễ, đừng bao giờ tranh hơn thua với chồng, việc gì đã lỡ, thì cho qua luôn, vui vẻ chấp nhận, và dịu dàng, nhường nhịn chồng là yếu tố căn bản để được chồng thương”.

11.
Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền chân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: “Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi”.

Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.

Đại Hạ Giá

Đại Hạ Giá

Thời buổi này còn cái gì không hạ giá nhỉ? Sách vở, quần áo, đồ điện tử v…v… hạ giá! Tôi cầm mảnh bằng đại học cạ cục mãi chưa tìm ra việc làm, cũng nhào ra vỉa hè bán sách đại hạ giá. Từ Victor Hugo, Leon Tolstoy, Tagore, Dostoievski… đến Khái Hưng, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng… cả thảy đều bị “hạ” nằm la liệt. Lắm lúc ngồi chồm hổm nhìn xuống các tên tuổi từng “vang bóng một thời”, tôi thầm hỏi:

Nên cười hay nên khóc, thưa chư liệt vị?

Cách đây ít lâu, một ông lão hình dáng tiều tụy mang đến bán hai pho sách dày. Một cuốn là “Hán Việt Từ Điển” của Đào Duy Anh do Khai Trí tái bản. Cuốn kia là “Petit Larousse Illustré” in tại Paris năm 1973. Sách còn tinh tươm lắm, hẳn chủ nhân đã xài rất kỹ. Thấy giá rẻ, tôi mua. Loại ấn bản này đây, gặp loại khách biên biết, bán cũng được lời.

Ngoài bìa và một số trang ruột của mỗi cuốn, đều có ấn dấu son hình ellipse: “Bibliothèque – Đô Bi – Professeur”. À, té ra ông lão vốn từng là giáo chức. Thảo nào! Cất tiền vào ví rồi mà ông cứ dùng dằng nuối tiếc, ngoảnh lại nhìn những tài liệu – tài sản phải đứt ruột bán đi. Ngoái mãi mấy lần rồi ông mới dắt chiếc xe đạp cà tàng đạp về. Mắt ông đỏ hoe. Lòng tôi chợt se lại!

Chiều 25 Tết. Ngồi cạnh các danh tác tôi vẫn lim dim, thấp thỏm, chồm hổm ra đấy. Qua đường không ai thấy, lá vàng rơi trên giấy. Sài Gòn chả có mưa bụi cho đủ khổ thơ Vũ Đình Liên. Nhưng bụi đường thì tha hồ, đủ khổ thứ dân lê lết vệ đường như tôi.

Anh mua bánh bò, bánh tiêu?

Một chị hàng rong đến mời. Tôi lắc đầu. Bỗng chị sững người chăm chú nhìn vào hai bộ từ điển. Chị ngồi thụp xuống, đặt sề bánh bên cạnh, cầm hết cuốn này đến cuốn kia lật lật. Rồi chị hỏi giá cả hai. Ngần ngừ lúc lâu, chị nói:

Anh có bán… trả góp không?

Trời đất ơi! Người ta bán trả góp đủ thứ, chứ sách vở, sách đại hạ giá ai đời bán trả góp? Vả lại, tôi nào biết chị là ai, ở đâu?

Tôi cần mua cả hai – chị nói tiếp – xin anh giữ, đừng bán cho người khác. Khi nào góp đủ, tôi sẽ lấy trọn. Anh thông cảm làm ơn giúp tôi.

Thấy lạ, tôi hỏi chuyện mới vỡ lẽ. Đô Bi chính là thầy cũ của chị hàng rong. Chị Tám (tên chị) bất ngờ thấy có dấu son quen, hiểu ra hoàn cảnh của thầy, bèn nảy ý chuộc lại cho người mình từng thọ ơn giáo dục. Song, bán bánh bò bánh tiêu nào được bao nhiêu, lại còn nuôi con nhỏ, không đủ tiền mua một lần nên chị xin trả góp.

Tôi cảm động quá, trao ngay hai bộ từ điển cho chị Tám:

Chị hãy cầm lấy, kịp làm quà Tết cho thầy. Tôi cũng xin lại đúng số vốn mà thôi, chị à.

Nhưng…

Đừng ngại, chị trả góp dần sau này cũng được.

Chị lấy làm mừng rỡ, cuống quít trả tôi một ít tiền.

Chao ôi, quý hóa quá! Cảm ơn… cảm ơn… anh nhá!

Mai lại, chị Tám trả góp tiếp. Chị kể :

Thầy Bi thảm lắm… Gần Tết, cô lại ngã bệnh… Thầy nhận sách, mừng mừng tủi tủi tội ghê, anh à!… Thầy cũ trò xưa khóc, khóc mãi!

Tôi vụt muốn nhảy cỡn lên và thét to:

Hỡi ông Victor, ông Lev, ông Dostoievski… ơi! Ông Khái, ông Vũ, ông Ngô… ơi! Có những thứ không bao giờ hạ giá được! Có những người bình thường, vô danh tiểu tốt nhưng có những kiệt tác không hạ giá nổi, đó là “Tấm lòng ”.

S.T.

 

BỮA ĂN TỐI Ở NHÀ HÀNG LY HÔN

BỮA ĂN TỐI Ở NHÀ HÀNG LY HÔN

Chỉ đến khi ly hôn – khi hạnh phúc mất đi rồi mới chợt nhận ra mình đã từng thật hạnh phúc, muốn níu giữ lại nhưng… mọi sự cũng đã muộn màng. Tuy vậy, hạnh phúc và tình yêu là thứ vô hình nhưng lại tồn tại mãi với thời gian, nếu con tim ta vẫn còn yêu thương, còn nhung nhớ… thì cảm xúc ấy sẽ trở về.

Anh cưới chị được 10 năm. Giữa hai vợ chồng không còn xúc cảm và hứng thú. Anh ngày càng cảm thấy đối với vợ hầu như chỉ còn là trình tự và nghĩa vụ. Anh bắt đầu thấy ngán chị. Nhất là khi đơn vị vừa nhận về một người phụ nữ trẻ hết sức sôi nổi và cuồng nhiệt bám lấy anh.

Anh chợt có cảm giác cô ta là mùa xuân thứ hai của anh. Sau nhiều đêm suy nghĩ, anh quyết định ly dị vợ. Chị dường như đã trơ lỳ, bình thản, đồng ý đòi hỏi của anh.

Thủ tục tiến hành rất thuận lợi. Sau khi ra khỏi cửa, anh chị đã trở thành cá nhân độc lập và tự do. Không hiểu sao, anh bỗng thấy trống trải vô cùng, anh nhìn chị nói: “Trời tối rồi, hay là đi ăn cơm đã.”

Chị nhìn anh nói: “Vâng. Em nghe nói gần đây vừa khai trương Nhà hàng Ly Hôn, chuyên phục vụ bữa ăn cuối cùng cho các cặp vợ chồng ly dị.Chúng mình đến đấy đi?”

Anh gật đầu. Hai người, một trước một sau lặng lẽ đi vào Nhà hàng Ly Hôn. Anh chị vừa yên vị trong phòng VIP, cô phục vụ đã bước vào nói: “Anh chị dùng gì ạ?”

Anh nhìn chị nói: “Em gọi đi.” Chị lắc đầu: “Em ít khi ăn nhà hàng, không quen gọi món, anh gọi đi.”

“Xin lỗi, nhà hàng chúng tôi quy định, bữa này do vợ gọi món hàng ngày người chồng thích ăn nhất, và chồng gọi món người vợ thích ăn nhất. Đấy là món “Ký ức cuối cùng.”

“Thôi được”, chị hất món tóc xõa trước mặt ra sau, nói: “Gà luộc chấm gia vị nước chanh, đậu phụ rán chấm nước mắm nguyên chất rắc hành thái nhỏ, chân giò luộc chấm mắm tôm, rau cải thảo luộc.”

“Anh gọi gì ạ?” Cô phục vụ nhìn anh. Anh sững người. Lấy nhau 10 năm, anh thật sự không biết vợ anh thích ăn món gì. Anh há hốc mồm, ngồi thừ ra đấy.

“Những món này đủ rồi, đều là món chúng tôi thích nhất.” Chị vội chữa thẹn cho anh. Cô phục vụ cười: “Thực tình mà nói, đến nhà hàng chúng tôi ăn bữa cơm cuối cùng, các anh các chị đều không thể nuốt trôi. Hay là anh chị đừng dùng món “Ký ức cuối cùng” nữa, hãy dùng bữa tối nhà hàng đặc biệt làm cho vợ chồng ly hôn: Đồ uống ướp lạnh. Những người đến đây, không có ai từ chối sự lựa chọn này.” Anh chị gật đầu: “Được.”

Chốc lát, cô phục vụ mang đến hai suất đồ uống ướp lạnh. Trong hai suất có một suất xanh lơ, toàn đá đập vụn; một suất đỏ tươi, còn đang bốc khói. “Bữa tối này gọi là “một nửa ngọn lửa, một nửa nước biển”. Mời anh chị thưởng thức.” Cô phục vụ nói xong lui ra. Trong phòng ăn im lặng như tờ, anh chị ngồi đối diện, nhưng không biết nói gì với nhau.

“Cộc cộc cộc!” Có tiếng gõ cửa nhẹ nhàng. Cô phục vụ đi vào, tay bưng chiếc khay có một bông hồng đỏ tươi, nói: “Anh còn nhớ cảnh tặng hoa cho chị đây không? Bây giờ, khi mọi việc đã kết thúc, không còn là vợ chồng, nhưng là bạn. Bạn bè gặp nhau vui vẻ rồi chia tay, anh tặng chị bông hồng cuối cùng đi.”

Chị rùng mình, trước mắt hiện ra cảnh anh tặng hoa chị 10 năm về trước. Hồi đó, anh chị vừa đến thành phố xa lạ này, hai bàn tay trắng, bắt đầu xây tổ ấm từ số không. Ban ngày, anh chị đi tìm việc làm, ban đêm chị ra hè phố bán quần áo. Anh vào nhà hàng rửa bát. Nửa đêm mới về đến gian nhà thuê chưa đầy 10 mét vuông. Đời sống khổ cực, nhưng anh chị thấy vui, thấy hạnh phúc.

Tết Valentine đầu tiên ở thành phố này, anh mua tặng chị bông hồng đầu tiên, nước mắt chị chảy dài trên má vì sung sướng quá. 10 năm rồi, cuộc đờiđã giàu lên, thế mà anh chị lại chia tay nhau. Càng nghĩ, chị càng tủi, hai mắt ngấn lệ, xua tay nói: “Thôi, thôi, khỏi cần.”

Anh cũng nhớ lại 10 năm qua. Và sực nhớ 5 năm nay, anh không mua hoa tặng chị. Anh vội vẫy tay, nói: “Không, phải tặng.”

Cô phục vụ cầm bông hồng lên, “xoèn xoẹt” một cái, bẻ làm đôi, ném vào cốc của anh chị, mỗi người một nửa. Bông hồng tức khắc hòa tan trong cốc.

“Đây là bông hồng nhà hàng làm bằng gạo nếp, cũng là món ăn thứ ba gửi anh chị. Mời anh chị thưởng thức. Còn cần gì nữa, anh chị cứ gọi tôi”. Nói xong, cô quay người ra khỏi phòng.

“Em… anh…” Anh nắm lấy tay chị, nói không nên lời. Chị rút mạnh bàn tay. Không rút nổi, bèn để yên. Anh chị im lặng nhìn nhau, vẫn không nói nên lời.

“Phụt!” Đèn điện tắt ngấm, trong phòng tối om. Bên ngoài vang lên tiếng chuông báo động đổ dồn, có mùi cháy khét lẹt bay vào.

“Chuyện gì thế?” Anh chị vội đứng lên.

“Nhà hàng cháy rồi, mọi người ra ngoài mau, mau lên!” Bên ngoài có người kêu thét lên. “Anh!” Chị ép vào người anh, “em sợ!”

“Đừng sợ!” Anh ôm chặt lấy chị, “Em đừng sợ, có anh ở bên cạnh. Chúng mình chạy ra ngoài đi.”

Ngoài phòng, đèn điện sáng trưng, mọi vật như cũ, không có chuyện gì xảy ra. Cô phục vụ nói: “Xin lỗi anh chị, đây là món “Sự lựa chọn từ đáy lòng” của nhà hàng gửi tới anh chị.”

Anh chị trở về phòng ăn, ánh sáng chan hòa. Anh cầm tay chị nói: “Vừa nãy là sự lựa chọn từ đáy lòng của chúng mình thật. Anh cảm thấy chúng mình không thể sống thiếu nhau, ngày mai chúng mình đi đăng ký lại!”

Chị cắn môi: “Anh nói thật lòng đấy chứ?”

“Thật! Anh hiểu rồi.” Cô ơi, cho thanh toán.

Cô phục vụ đi vào, đưa cho anh chị mỗi người một tấm phiếu màu hồng rất đẹp nói: “Đây là phiếu thanh toán của anh chị, cũng là món quà của nhà hàng gửi tặng anh chị, gọi là “Phiếu thanh toán vĩnh viễn”, mong anh chị cất giữ mãi mãi.”

Anh nhìn phiếu, mắt đỏ hoe. “Anh làm sao thế?” Chị lo lắng hỏi. Anh đưa phiếu thanh toán của mình cho chị, nói: “Anh có lỗi với em, mong em tha thứ.”

Chị cầm tấm phiếu đọc: “Một gia đình ấm cúng, hai bàn tay làm lụng, ba canh ngồi chờ anh về, bốn mùa dặn anh giữ gìn sức khỏe, năm tháng săn sóc anh chí tình, sáu mươi mẹ già vui vẻ, bảy ngày trong tuần nuôi dạy con cái, tám phương giữ gìn uy tín của anh, chín giờ thường xuống bếp làm món anh khoái khẩu, mười năm hao tổn tuổi xuân. Vì ai… Đó là vợ anh”.

“Anh vất vả thật đấy. Mấy năm qua em thờ ơ với anh quá.” Chị đưa phiếu thanh toán của mình cho anh xem. Anh mở ra đọc: “Một mình gánh vác trách nhiệm, hai vai nặng trĩu cơ đồ, ba canh cặm cụi bên bàn, tứ thời chạy ngược chạy xuôi, vinh nhục biết chia sẻ cùng ai, bể dâu khắc sâu đuôi mắt, nghĩa vụ đối với gia tộc, gập ghềnh chông gai con đường công danh, là người phàm tục làm sao mười phân vẹn mười. Lúc nào cũng tận tình với vợ con… Đấy là chồng em”.

Anh chị ôm chầm lấy nhau, oà lên khóc thành tiếng.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Cha Mẹ nuôi con bằng Trời …..

Cha Mẹ nuôi con bằng Trời …..

Tác Giả: Phụng Vũ

“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”( N.Du
)

Ở xứ Mỹ, tháng 5 có ngày lễ Mother’s day, là ngày các con vinh danh ghi nhớ công ơn của các bà mẹ; đó là một nét đẹp của văn hóa Mỹ, dù nền văn hóa này nghiêng nhiều về hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân hay là vì nghiêng về hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân nhiều qúa nên cần có một ngày để họ nhớ về cội nguồn??
Bây giờ đã qua rồi những rộn ràng của văn nghệ, tiệc tùng, của những bó hoa tươi chúc mừng Mẹ. Suốt cả mấy tuần trước trước ngày lễ Mẹ, các phương tiện truyền thông: radio, tivi, báo chí..đua nhau phát thanh những bài hát, đăng những bài viết nói về Mẹ hoặc quảng cáo những

chương trình ca nhạc, quà, thuốc uống, nhà hàng..để các con chọn lựa cho ngày lễ Mẹ..Đó là tất cả những gì được phô bày trước “sân khấu đời” trong “ tháng 5 của Mẹ”, nhưng có mấy ai vén bức màn nhung để nhìn vào hậu trường sân khấu ấy hầu nhìn thấy những giọt lệ lặng lẽ rơi, để lắng nghe những tâm tư rất thật, rất đời thường và cũng rất buồn của nhiều bà mẹ VN trên xứ người.
Tôi thứ 7 tuần rồi trong chương trình radio “tâm tình với Thái Hà” có đọc một bức thư tâm sự của một bà mẹ : bà có 6 người con, bà đã hoàn tất nhiệm vụ nuôi con trưởng thành, nên người. Bà hiện ở với một người con trai (có lẽ là tốt nhất trong các con của bà), bà chăm sóc nuôi nấng các cháu nội và rất yêu thương chúng. Rồi vì một xích mích nào đó, nay con trai bà đòi đuổi bà ra khỏa nhà. Bà cảm thấy lưu luyến các cháu và bơ vơ nơi xứ lạ quê người, không biết phải đi đâu?, phải làm gì?..Thính giả gọi vào để góp ý , chia xẻ tâm tình với bà. Có một bà gọi vào kể chuyện của mình một cách rất an nhiên, tự tại:
“Tôi cũng qua đây từ lâu, nuôi 3 đứa con ăn học thành tài. Bây giờ tụi nó lo thân tụi nó, tui lo thân tui. Mỗi tháng tôi lãnh tiền gìa của chính phủ ½ để trả tiền share phòng, ½ để ăn tiêu lặt vặt. Thỉnh thoảng, con tôi có đứa nhớ gọi phone hỏi thăm:
–  Má khoẻ không má?
– Cám ơn con, má khoẻ !
Lúc nào tôi đau ốm thì tôi trả lời:
-Má đang bịnh qúa con ơi!
-Vậy má nhớ đi bác sĩ nghen má !
-Ờ, má biết rồi!
Chỉ có vậy thôi, không thăm nom, không giúp đỡ gì hết vì nó còn bận rộn lo cho gia đình của nó. Mình tự lo cho thân gìa của mình, may mà có chính phủ giúp đỡ. Sống ngày nào biết ngày đó, chết là hết nợ đời. Buồn làm gì chị ơi!”
Nghe chị kể chuyện đời mình “tỉnh rụi”,nghe có vẽ bình thuờng trong môt cảnh “không bình thường”, tôi chợt thấm thía một lời hát của TCSơn:
“Rồi người bỗng hết buồn, đã hết buồn
Người chợt nghe đá lên trong hồn.”
Khi nghe radio tới đây, tôi bỗng nhớ đến câu chuyện em của một chị bạn, định goi phone nói chị mở radio cùng nghe để chị cảm thấy đỡ buồn vì “thế gian không phải một mình ta”, nhưng thấy khuya qúa nên thôi.
Hoàn cảnh chị mẹ góa con côi, từ lúc con gái còn rất nhỏ. Một mẹ một con, nhưng chị hy sinh cho con đi vượt biên qua Mỹ để đời con tươi sáng hơn, chị ở lại chăm sóc mẹ gìa..Năm rồi chị được con gái bảo lãnh sang. Ai cũng mừng cho chị vì đã mấy chục năm xa cách, nay mẹ con mới được đoàn tụ. Từ đây chị sẽ được an hưởng tuổi gìa bên con gái duy nhất. Trước khi đi, tiền bán căn nhà, theo yêu cầu của con gái, chị đã chuyển qua hết cho nó vì chị nghĩ:
“Của mẹ là của con, của con là của mẹ”
Con gái chị lại dặn: “Phải giữ yên lặng, không được kể cho ai hết”. Thế là chị nghe lời con giữ yên lặng kể cả với bà chị ruột ở Mỹ, người đã gửi tiên về nhiều lần để sửa sang căn nhà chung của cha mẹ. Chị đi Mỹ trong âm thầm lặng lẽ với tất cả tình thương to lớn và niềm tin cậy vào đứa con gái yêu qúy và nỗi vui mừng vì từ nay có mẹ có con, có nơi nương tựa tình thương vững chắc lúc về gìa..
Nhưng ở đời có ai học được chữ NGỜ..chưa đầy 6 tháng sau, may nhờ người quen,( chị gặp lúc đi chùa,) tốt bụng giúp đỡ. Cán sự xả hội và cảnh sát phải đến nhà con gái chị để bảo vệ cho sự ra đi an toàn của chị. Chị ra đi với một túi xách nhỏ đựng quần áo, nước mắt chảy tuôn, mà lòng thầm cám ơn Trời Phật đã giúp đỡ mình thoát khỏi “địa ngục trần gian”, dù ra đi với 2 bàn tay trắng nhưng lòng vẫn tạ ơn Trời đất.
Ca dao VN có câu:
“Khó đi mẹ dẫn con đi,
Con đi trường học, mẹ đi trường đời”
Nhưng có ai dè “trường đời” người mẹ phải học để đối phó, lại bao gồm cả chính những đứa con, mình dứt ruột đẻ ra, lo bú mớm chăm sóc từng ngày, đặc biệt là lúc con ốm đau, mẹ phải :
“Đêm canh dài thức đủ năm canh”
để lo lắng chăm sóc con với cả tình thương yêu to lớn không gì sánh nỗi..Rồi khi con khôn lớn, con thành đạt, con lại rẻ rúng bội bạc, coi thường, coi khinh mẹ. Mỗi lần, mẹ làm điều gì không vừa ý con quát nạt la rầy, làm lòng mẹ đau đớn biết bao.
Nhìn gương những bà mẹ bị con bạc đãi, có những bà mẹ khôn ngoan đã rút ra bài học cho mình “Đừng bao giờ dốc hết tài sản tiền bạc cho con, Phải biết “phòng thân”, lỡ khi hữu sự, còn có cái dùng..Khi chết rồi để lại di chúc cho con cũng không muộn”
Các bà mẹ VN thường hay “sĩ diện” nên đi đâu thấy người ta “khoe con”, thì cũng phải “khoe con” cho bằng chị bằng em, hay theo như người xưa nói “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại”, nhưng trong chỗ riêng tư thân thiết, hoặc những lúc nỗi buồn u uất lên cao qúa độ, gặp người “đồng cảnh đồng thuyền” thì bao tâm tư uất ức tự động tuôn trào ra. Bấy giờ là lúc ta nghe được những tiếng lòng thực sự của các bà mẹ!
Sáng qua, một buổi sáng âm u, đầy mưa gió, tôi đến một phòng trị liệu (năm giường massage có tia hồng ngoại để trị đau lưng nhức mỏi ) ở khu Bolsa. Không biết có phải vì
“Cảnh buồn, người có vui đâu bao giờ”
hay vì thiên nhiên u ám đã tác dộng đến tâm tư u buồn của các bà mẹ, mà bỗng dưng tôi được nghe nhiều tâm tư sầu nảo và rất thực của các bà mẹ. Thấy không khí trong phòng có vẽ trầm lắng, lại mới đọc tin trên tờ báo cũ trong phòng nói về những bữa tiệc nhân ngày lễ Mẹ, tôi bèn gợi chuyện nói cho không khí vui vẻ với bà bên cạnh:
-Ngày lễ Mẹ, các con chị tặng chị qùa gì?
-Ngày lễ Mẹ, con tôi nó dẫn tôi đi ăn nhà hàng, rồi tặng tôi bó hoa tươi , nhưng cô ơi, môt năm tôi sống 365 ngày, chứ có sống chỉ 1 ngày đó đâu. Tôi cần con tôi thương yêu và kính trọng  mẹ qua những cư xử, thái độ và lời nói hằng ngày. Hôm qua tôi mới làm trái ý nó, bèn bị nó la rầy, tôi giải thích cho nó hiểu thì nó la: “Im, cái tật mẹ, nói cái gì cũng cãi, không bao giờ chịu chấp nhận..” Ôi , tôi có cảm tưởng thời buổi văn minh bây giờ giấy khai sinh bị đảo lộn vị trí con thành mẹ, mẹ trở thành con..
Một bà khác bèn lên tiếng:
-Ôi vậy là còn đỡ, vì nó còn nhớ ngày lễ mẹ, tôi có mấy thằng con trai, ngày lễ mẹ, nó không gọi phone hỏi thăm một tiếng chứ đừng nói gì đến qùa cáp.Thôi kệ ! đời là vậy chị ơi ! bà bạn tôi có con là bác sĩ giàu có sang trọng, nhà ở trên hill, bà ở nhà lo trông cháu và lo com nước. Một hôm bà mệt trong người nên chỉ lo trông cháu mà quên lo cơm chiều. Khi con gái bà đi làm về đã quát hỏi bà: “con không hiểu mẹ làm cái gì mà ở nhà suốt ngày, có bữa cơm chiều cũng không chịu lo là làm sao ??Thật chán qúa sức”
-Vậy cũng chưa tệ bằng bà quen hay tới đây, bà có tật hay quên, môt bữa bà bắt nồi cơm điện mà quên bấm nút. Tới chiều nồi cơm bị chương xình, con bà là bác sĩ về thấy giận qúa bèn gọi xe chở bà vào nhà thương tâm thần.
Ôi đúng là :
“Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể
Con nuôi mẹ con tính từng ngày”
Hoặc “Một mẹ nuôi được tám con
Nhưng tám con không nuôi được một mẹ”
Khi đem con qua Mỹ, cha mẹ nào cũng tâm niệm hy sinh đời mình để đời con được tốt hơn, nhưng tiếc thay khi con “đủ lông, đủ cánh” để bay vào đời thì chúng lại tiêm nhiểm qúa nặng chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa hưởng thụ nên thường chủ trương  “Phận ai nấy lo, không ai làm phiền ai hết” Có đứa con thành đạt giàu có, nhà cao cửa rộng khi được hỏi thăm mỗi tháng có giúp đỡ cho cha mẹ không ? nó trả lời “Cha mẹ vẫn sống bình thưòng, tại sao phải giúp?. Khi nào cha mẹ không có chỗ ở, phải ra đứng đường, không có cơm ăn, phải đi xin mà không giúp, lúc đó mới mang tội bất hiếu”
Ôi ! đúng là lý luận của con cái xứ Mỹ thế kỷ 21. Thật ra ông bà mình cũng đã từng nói
“ Thèm lòng chứ không ai thèm thịt”
Gìa rồi, ăn uống bao nhiêu, cần là cần tấm lòng tình nghĩa hiếu thảo của con cái để ấm lòng lúc tuổi gìa. Hình như tinh thần đạo lý VN: con cái phải ăn nói lễ độ, tôn kính, hiếu thào với cha mẹ như là một bổn phận”trả hiếu” phải làm tròn, nhất là khi cha mẹ về gìa, sang đến Mỹ này, nó đã không cánh mà bay mất hút. Hay là vì thế hệ trẻ ngày nay, trường học không hề giáo dục chúng những đạo đức căn bản nhất của một con người : Tiên học lễ, hậu học văn, bổn phận làm con phải thảo hiếu với cha mẹ, phải biết kính trên, nhường dưới, anh em như thể tay chân, phải sống hòa thuận thương yêu nhau để cha mẹ vui lòng…
Nói tới “trả hiếu”, tôi lại nhớ cách đây đã lâu, khi nghe tin con tôi tốt nghiệp đại học ra trường có việc làm tốt, một anh bạn thân từ thuở còn sinh viên Sàigòn, ở một tiểu bang xa, đã gọi diện thoại chúc mừng và bảo tôi:
-Thôi “trồng cây đã tới ngày có quả”, chị ngồi nhà mà “hưởng phước” để con nó “trả hiếu”. Đi làm chi nữa cho nó cực thân ,bị stress nhiều lắm.
Tôi cười bảo:
-Mình lo cho con, tới lúc nó thành đạt là mừng vì từ nay mình an tâm, không còn phải lo cho nó nữa!. Còn ở đây là xứ Mỹ, chứ có phải ở VN đâu, nói chi đến vụ “trả hiếu”!
-Đâu được, nếu chị nói xứ Mỹ không có vụ “trả hiếu” o.k., nhưng nếu đã chọn chơi theo lối Mỹ thì phải “Fair”. Cha mẹ nuôi con cực khổ mấy chục năm trời để nên người thành đạt!.Vậy bây giờ tính sòng phẳng,( miễn tính lời cho nó) nó chỉ cần trả lại “tương đương”, nghĩa là nó phải “phụng dưỡng” cha mẹ, chăm sóc lo cho cha mẹ đủ mọi mặt như ngày xưa cha mẹ lo cho nó trong mấy chục năm. Đó là chỉ mới nói về phương diện vật chất, chứ chưa nói đền  những gía trị tinh thần, sự hy sinh, tình thương yêu lo lắng cho nó từng ly từng tí..Điều này không gì có thể đền đáp được.
-Anh nói chí lý qúa tôi chịu thua, nhưng chẳng lẽ mình đi kể lể với con. Thôi! để nó tự giác tốt tới đâu, nhờ tới đó.
Nói đúng ra không phải con cái ở xứ Mỹ này, ai cũng tệ hết! Có những đứa con rất có hiếu, lo cho cha mẹ chu đáo. Tôi nghe chị bạn kể có bà khoe có 4 người con, mỗi đứa tự động chuyển vô account của mẹ 500$/1 tháng, vị chi mỗi tháng bà có 2000$ từ các con, để bà chi tiêu theo ý mình cho thoải mái: đi du lịch, làm từ thiện, giúp đỡ bạn bè thân nhân bên VN…Có con thỉnh thoảng dẫn mẹ đi tour du lịch chỗ này chỗ kia, rồi hằng năm lo mua vé máy bay và cho tiền mẹ về VN ăn tết cho vui. Đi đâu thấy quần áo đẹp, bóp xách tay đẹp, mua về tặng mẹ..Nhưng số những bà mẹ có phước như vậy thì hơi ít. Ngược lại có những đứa con còn chiếm dụng luôn số tiền gìa nhà nước cho mẹ mỗi tháng với lý do “mẹ gía rồi cần tiền làm gì?” hay lạm dụng lòng thương cháu của mẹ để biến mẹ thành  Free babysitter cho gia đình mình..
Ở đời nói đi cũng phải nói lại, cũng có một số các cụ gìa “trái tính trái nết” làm phiền các con không ít, nhưng hãy thông cảm cho tuổi gìa của các cụ, như bài “Thư dành cho con”, tôi đọc được trên internet:
“..Nếu mẹ cha mà nhớ, quên tùy lúc
Đừng cằn nhằn cha mẹ ngu khờ
Biết bao lần con quên sách vở ở nhà
Mẹ phải chạy như bay về nhà lấy..
Nếu cha mẹ tay run không cầm nỗi
Một tô cơm mà đánh đổ ra nhà
Xin con dừng mắng gắt hạng người gìa
Vì lúc bé con vẫn thường rơi vãi
Mẹ cha vẫn phải khom lưng nhặt lại..”
Nói chung tuổi gìa rất cần tình thương yêu và sự tôn trọng cha mẹ của các con. Tình nghĩa và đời sống tinh thần rất quan trọng đối với người gìa, thiếu những yếu tố này thì dù Mỹ là “thiên đàng nhiều người mơ ước” các cụ cũng không cần, và vẫn mong muốn trở về VN
…Sau khi nằm giường massage xong, môt chị trông có vẽ chất phác, gốc Trà Vinh, được con trai bảo lãnh qua Mỹ 4 năm, nhưng nhìn sắc vóc và cách phục sức của chị vẫn còn nguyên vẹn hình ảnh một bà mẹ quê miền Nam. Chị ngồi đợi con dâu tới đón về, bèn tỉ tê tâm sự:
-Tui muốn về VN ở qúa, nhưng ngặt con tui không chịu.
Mấy người chung quanh nghe vậy bèn lao xao;
-Xứ Mỹ là thiên đàng nhiều người mơ ước tới mà không được, còn chị “ngược đời” lại đòi bỏ về là sao ??
Chị chủ tiệm có lẽ biết nhiều về chị, vì chị hay tới đây nằm giường massage, vội lên tiếng:
-Trời ơi chị sướng qúa mà không biết, “được voi đòi tiên” Lễ Mother’s day, con chị mới mua cho chị dây chuyền vàng, cô chủ nhà tốt bụng mua cho chị nhẫn hột xòan, đeo tùm lum đầy người mà chị còn chưa vừa lòng ! đòi về VN chị làm gì để sống mà đòi về??
Chị cười buồn nhỏ nhẹ trả lời:
-Cùng đường qúa thì đi “ăn xin” sống cũng được vậy!
Mọi người nghe xong cùng ồ lên:
-Trời!chắc bà này khùng rồi !
Đằng sau những chi tiết vừa được nghe, tôi cảm thấy có cái gì mâu thuẩn, nghịch lý và rất “tội nghiệp”, vì nhìn dáng vẻ chân chất hiền lành của chị, tôi thấy chị không phải loại người bon chen “được voi đòi tiên”. Có thể có một uẩn khúc nào đó mà chị chưa nói ra.
Lát sau, khi có dịp ngồi gần chị, tôi hỏi
-Chị đòi về VN ở, nhưng bên đó chị còn thân nhân không mà đòi về?
Ánh mắt chị mùng rỡ, vì có lẽ tôi là người không lớn tiếng phản đối chuyện chị đòi về VN, chị nhìn tôi trả lời:
-Tui còn 2 đứa con gái ở Trà Vinh, tuy nghèo nhưng sống ở đó tui thấy vui và thoải mái có tình mẹ con, có tình bà cháu, có tình chòm xóm láng giềng, chạy qua chạy lại có nhau. Còn ở đây…
Nói tới đây chị không nói tiếp nữa, mắt bắt đầu rơm rớm. Tôi nắm tay chị:
-Nếu chị nghĩ như vậy thì chị nên về VN sống.
-Đâu phải nỗi khổ nào cũng nói ra được đâu, cô ơi !
Tôi hiểu lòng chị vì “Có những niềm riêng lòng không muốn nói”. Có những bà mẹ có những niềm đau về chồng con, nhưng không dám kể cho ai nghe, vì “nói ra xấu thiếp hổ chàng”, niềm đau về con cũng vậy thôi, có người còn quan niệm “sống để dạ. chết mang theo”
Ở đời có ai lại muốn từ bỏ nơi mình đang sống sung sướng hạnh phúc?? Mỗi người có một cảm nhận riêng về hạnh phúc, về nơi chốn sống cuối cuộc đời của mình. Xin đừng vội lên án, chê trách, khi thấy nó không giống cảm nghiệm riêng của mình, nhưng hãy tôn trọng cảm nghiệm riêng của người khác. Đối với người gìa thì niềm vui về đời sống tinh thần quan trọng hơn đời sống vật chất rất nhiều. Xin hãy yêu thương và tôn trọng cha mẹ thực lòng, để cha mẹ đỡ buồn tủi và ấm lòng lúc tuổi gìa. Không biết các con có hiểu rõ điều này không ? Ở đâu có tình thương, có ấm cúng, ở đó sẽ níu được bước chân cha mẹ gìa. Các con cũng nên nhớ lời ông bà xưa đã dạy “Ở có đức, mặc sức mà ăn” Điều này tôi thấy khá đúng khi quan sát những hoàn cảnh chung quanh, những đứa con hiếu thảo, trời thương cuộc sống ít gặp gian truân và có nhiều may mắn hơn.
Trở lại việc “ước mong trở về cố hương” để sống những ngày cuối đời là chuyện bình thường, tôi thấy trên thế giới có biết bao nhêu người giàu có, thành đạt, có cả những nhà văn đoạt giải văn chuơng Nobel, khi về gìa họ vẫn muốn quay trở về cố hương để sống những ngày cuối đời, tuy quê hương họ vẫn còn nghèo khổ khó khăn. Trong cộng đồng cao niên VN, có nhiều cụ cũng  “tha thiết mong ngày trở về cố hương” sống rồi chết trong lòng quê hương còn hơn là gửi nắm xương tàn nơi xứ lạ quê người, nhưng các cụ còn “tiếc” tiền gìa ! Bởi thế tin”cá tháng 4” loan báo chính phủ đồng ý chi trả một lần ,một số tiền lớn để các cụ về VN an hưởng tuổi gìa. Tin này đã gây chấn động trong giới cao niên, mọi người hồ hởi bàn tán sôi nổi, vì nó đánh trúng vào lòng mong ước sâu xa thầm kín của quý cụ. (Thậm chí sau này đã được đính chính là “tin cá tháng 4” các cụ vẫn còn chưa tin, vẫn cứ hỏi thăm) Đó là chưa kể, bây giờ với chính sách mới gắt gao, các cụ nhớ quê hương về thăm, khi trở lại Mỹ, sở xả hội sẽ gọi lên để trừ tiền vé máy bay vào tiền gìa hằng tháng của các cụ. Không biết ai có sáng kiến “tàn nhẫn” như vậy?
Nhưng không phải cụ nào cũng đặt đồng tiền lên vị trí số 1 trong mọi quyết định quan trọng của đời mình. Tôi biết có nhiều cặp vợ chồng gìa sau khi sống ở Mỹ môt thời gian dài, ky cóp dành dụm được một số tiền kha khá, các cụ đã mạnh dạn quyết dịnh trở về VN để sống những ngày cuối đời trên quê hương yêu dấu như “Lá rụng về cội”. Tôi cảm phục các cụ vì không để đồng tiền “chỉ đạo” cuộc đời mình. Cầu chúc các cụ có thời gian cuối đời yên ả thảnh thơi trên quê hưong mình…
Khi chị Trà vinh ra về rồi, môt chị có lẽ cũng thường xuyên đến đây như chị Trà vinh, khều tay tôi nói nhỏ:
-Chị ơi, “ngó vậy chứ không phải vậy”Tội nghiệp bả lắm, qua đây coi 2 đứa cháu nội cho vợ chồng con trai đi làm, rồi coi thêm 2 đứa con nhỏ cho cô chủ nhà, để cô cho ở free một phòng nhỏ phía sau, thành ra bả cực lắm, tối ngày xà quần với 4 đứa nhỏ,  tối tăm mặt mũi, chưa kể lúc tụi nhỏ ốm đau, lỡ làm gì sai sót, con trai bả dủa bả te tua, nhiếc móc đủ thứ..Thành thử qua đây bả thành “ở đợ” free tới 2 chủ một lượt. Bây giờ chắc thấy bả đòi về VN không ai coi con , nên lễ Mother’s day rồi, nó mới mua cho bả sợi dây chuyền mấy trăm, cô chủ nhà mua cho bả nhẫn hột xoàn nhân tạo rồi đi khoe tùm lum. Thành thử “ở trong chăn, mới biết chăn có rận”
Tôi gật gù:
-À, thì ra là vậy! hèn chi tôi nghe có vẻ nghịch lý thế nào đó !…
Loay hoay chờ đợi tới phiên, vậy mà đã tới trưa, nhìn ra ngoài trời nắng đã lên hực hở khắp nơi. Hy vọng cuộc sống tâm tư của các bậc cha mẹ ở xứ Mỹ này cũng sớm thoát qua cảnh mây mù ảm đạm của buổi sáng âm u, để đón nhận ánh sáng tươi vui của trưa hè nắng đẹp, khi các con thuộc được bài học ca dao VN về chữ Hiếu mà nhạc sĩ Dương Thiệu Tước đã phổ thành bài hát “Ơn Nghĩa Sinh thành”
“Uống nước nhớ nguồn,
Làm con phải Hiếu
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…
Người ơi làm nguời ở trên đời
Nhớ công người sinh dưỡng, đó mới là hiền nhân
Vì đâu ta nên người tài ba?
Hãy nhớ công sinh thành, vì ai mà có ta ?..

Phụng Vũ

chị Nguyễn Kim Bằng gởi

THĂM CHỒNG

THĂM  CHỒNG
Thương tặng chồng và các con tôi,những người đã
chung góp đau khỗ với tôi trên quê hương..
BẠCH – TUYẾT

Chúng tôi yêu nhau khi còn ở Trung học,sáu năm sau mới cưới nhau Và khi đã có năm đứa con,chưa bao giờ xa nhau quá một tuần.Vậy mà khi đất nước được gọi là”giải phóng “năm 75,vợ chồng tôi phải chia tay…không biết bao giờ mới được gặp mặt…
Đứng trước cỗng trường Petrus Ký ,chi ngăn cách có cái cỗng rào ,nhưng tôi cảm thấy đã có cái ngăn cách thật sư rồi ,một sự ngăn cách vô cực!Tôi nhìn bóng dáng của chồng tôi xa dần…xa dần.
Bao nhiêu đau khỗ của người đàn bà bơ vơ với năm đứa con thơ dại -lớn nhứt 11 tuổi và nhỏ nhứt mới biết nói bập bẹ-ngày qua tháng lại sống trong đợi chờ thương nhớ và tuyệt vọng…tôi hận thù cộng sản bấy nhiêu.
Khi nhận được lá thơ đầu tiên của chồng tôi từ miền Bắc ,tôi quyết định phải đi thăm.
Không rành đường đi,không biết nơi đến,trong tay võn vẹn một bao thơ(viết bằng ám số )với chữ Vĩnh Quang(Vĩnh Phú )tôi cùng người dì chồng quãy gần 100 ký lô ra đi sáng mùng bốn Tết mùa Xuân năm 79.
Tôi không biết phải tả làm sao cho hết nỗi sơn trường của một người đàn bà mang trong tay 7 giỏ hành lý nặng, phương tiện chuyên chở không có,đến nỗi khi mệt mõi quá tôi và dì tôi phải mang mỗi lần 1 giỏ một và đi trỡ lại xách tiếp…thành quãng đường dài gấp ba lần.Vậy mà chúng tôi lại đi lạc đường,thay vì Vĩnh Phú Tam Đão gần hơn tôi lại đi Vĩnh Phú  Ấm Thượng.Chúng tôi phải lui trỡ lại 80 cây số…
Đến ngày thứ sáu tôi tới trại Vĩnh Quang A,sau khi trình giấy tờ,hồi họp chờ đợi…Hai người cán bộ cộng sãn đang kè hai bên một người trẻ tuổi ,gương mặt sáng láng…nhưng không đi dược vì thiếu dinh dưỡng.Tôi rụng rời…nhưng không phải chồng tôi ,đó là một sĩ quan trẻ Sài Gòn có thân nhân miền Bắc thăm nuôi. Còn tôi cán bộ cho biết là Vĩnh Quang A không có tên anh ấy ,phải đi bộ thêm 5 cây số nữa để tới trại B.Chúng tôi quãy gánh ,leo núi tới trại B là 3 giờ chiều. Nhưng lại thêm một thất vọng nữa người can bộ cầm phong thơ trã lại “rất tiếc là anh ấy khong có ở đây”.
Sáu ngày đêm chỉ uống nước và ăn vặt…ba lần đi lạc ,tôi chán nãn và muốn khóc thốt lên với dì tôi:”Nếu không tìm ra dược ảnh ,con quăng đồ đạc này xuống hố và nhảy theo…chứ không về nhà khi chưa gặp được mặt chồng” Người cán bộ thấy vậy động lòng?cầm bao thơ một lần nữa…vô trại tìm.
Dì cháu tôi đứng ngay ngoài cỗng chờ đợi.Ba mươi phút sau tôi nhìn thấy từ xa chồng tôi-bốn năm trời mới được thấy mặt-mặc bộ đồ bà ba đen tươi cười khi thấy tôi.Tôi la lên :”Dì ơi…anh Cẩn kìa…tìm được rồi dì ơi…”
Chúng tôi được ngồi nói chuyện ở “phòng tiếp tân”(?) ngăn cách bỡi cái bàn dài
người cán bộ cộng sãn ngồi ở giữa ,vợ chông tôi ngồi đối diện theo sự “hướng dẫn”của cán bộ chứ không được ngồi gần .
Câu đầu tiên anh nói với tôi :”Anh không ngờ được vì em là người đầu tiên từ
Sài Gòn ra thăm ở trại này!”Sau đó anh chỉ ngồi mĩm cười để nghe tôi nói.Còn tôi
thật bình tĩnh ,tôi rất ghét khóc trước mặt kẽ thù.Tôi mốn cho họ thấy rằng dù tôi bị
mất tất cả:mất chồng ,mất của cải ,mất niền tin ,mất tự do…tôi vẫn luôn tươi cười
trước họ. Tôi nói thao thao bất tuyệt chuyện nhà cữa ,chuyện con cái ngoan và học giỏi(thật sự con tôi cũng rất ngoan và học giỏi ,đó cũng là niềm tự hào để tôi sống ).Tôi muốn níu thời gian ngừng lại ,chồng tôi chắc cũng nghĩ như tôi.Anh không hề ăn uống gì cả mặc dù thức ăn đang bày ra cả bàn và tôi biết anh đã thiếu ăn từ năm này đến tháng kia…Anh chăm chú nghe và đắm đuối nhìn tôi như muốn nuốt trọn tôi vào tim óc của anh.
Nữa giờ sau người cán bộ chấm dứt câu chuyện của chúng tôi:”Thôi anh thu xếp đồ đạc để vô trại.”
Chồng tôi đứng dậy nắm lấy tay tôi ,hôn phớt nhẹ lên trán một cái.Tôi rụng rời không phải vì xúc động bỡi cái hôn mà vì thương chồng quá…lo sợ anh ấy phải bị nặng nhẹ kiễm điễm…Chồng tôi gánh quà vô trại ,tôi đau xót ngậm ngùi đứng nhìn bóng dáng anh từ từ khuất dần…
Bấy giờ tôi mới bật khóc,bao nhiêu nỗi uất hận chất chứa bấy lâu nay…tuôn tràn ra.Tôi khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chiều Xuân ở Tam Đão thật ãm đạm ,mưa bay lất phất ,chung quanh tôi là đồi núi chập chờn ,cao ngất.
Dì cháu tôi ở lại trại một mình với cây đèn bão leo lét.Tôi khóc suốt đêm đó ,từ Nam ra Bắc ,6 ngày đi đường vất vã ,gần nhau trong gang tấc mà chỉ được nhìn nhau có nữa tiếng đồng hồ.Bây giờ người trong ngục tối ,kẽ ở ngoài trại…biết đến bao giờ mới đươc gặp nhau đây?
Tiếng kẽng đỗ rùng rợn buổi sáng ,chỉ có ở với cộng sãn mới thấm thía tiếng kẽng này ,nó báo hiệu cho một ngày nô dịch lê thê của dân Việt Nam.Chúng tôi từ giã núi đồi ,từ giã”trại tiếp tân”lạnh lẽo…từ giã người yêu quý nhứt đời…đau xót
,ngậm ngùi xách túi nhẹ ra về.
Mười lăm ngày sau tôi mới về tới nhà gặp lại các con.Tôi bị mất ngủ khi đi thăm chồng về >Nhắm mắt là chập chờn hình ảnh chồng tôi ,nhắm mắt là lờ mờ hình ảnh người sĩ quan trẻ không đi được vì thiếu ăn…chập chờn từng đoàn người tù binh đi làm khỗ dịch ngoài ruộng ,bên núi ,Họ lặng lẽ âm thầm…
Tôi thấy xót xa đau đớn và thương tất cả những sĩ quan cùng cảnh với chồng mình ,họ phải sống nhục nhằn ,đói khát ,đọa đày trong lao tù miền Bắc.Tôi buôn bán trỡ lại và sống thật tiện tặng để có tiền đi thăm nuôi .Ba tháng sau tôi lại tiếp tục đi thăm…cứ như vậy kéo dài hơn 7 năm…
Và “ngày trở về”của anh ấy cũng là một kỹ niệm đẹp khó quên trong đời tôi..
nhưng mà có nghĩa lý gì khi được “tự do”với cộng sãn? Chồng tôi tiếp tục ở vào ngục tù thư hai ,dù được gần vợ con ,anh bị”quản chế”tại nhà thêm 6 năm nữa.
Bây giờ cả gia đình tôi được định cư tại CT theo diện H.O Chúng tôi sống là để chờ cái ngàycon cái mình được sống được thở không khí tự do này!Nhưng chúng tôi rất ngỡ ngàng e ngại…Phải khó khăn lắm mới lèo lái con thuyền cho vững ,cái bến bờ tự do này quá nhiều cám dỗ cho những kẽ thơ ngây ,non dại như con chúng ta.
Các con tôi đã lớn ,đã biết là sau lưng nước Việt Nam thân yêu ,gia đình tôi đã bỏ lại tất cả trong đó có những tình cảm thiêng liêng chân thật của những người ở lại..Chúng phải hiểu rằng vì sao lại bỏ atts cả để ra đi…
…Cầu xin ơn trên gia hộ cho đám con chúng ta ,những người H.O.bạc phước này,phải sống cho thành người làm việc cho xứng đáng ,đừng để mang tai tiếng
tủi hỗ vong linh những người đã bỏ mình trên quê hương ,trong chốn lao tù cộng sãn…tũi hỗ cho những bậc cha mẹ trót mang cái nghiệp H.O.
Nguyễn Ngọc Bạch-Tuyết