Mẹ lạnh lắm phải không?

Mẹ lạnh lắm phải không?

me-lanh-lam-phai-khong

Vào một đêm Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người bạn nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một mương sâu với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị . Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị bò người phía bên dưới cầu. Đơn độc giữa những chân cầu, chị đã sinh ra một bé trai. Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đưa con bé xíu, vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao tải, chị trùm vào người và kiệt sức bên cạnh con.

Sáng hôm sau, một người phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà mẹ nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng. Bà đem đưa bé về và nuôi dưỡng.

Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào một ngày lễ giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.

“Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả – bà mẹ nuôi nghĩ – cậu sẽ lạnh cóng!”

Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: “mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?” Và cậu bé oà khóc…

From: KittyThiênKim & Nguyễ Kim Bằng gởi

Nỗi niềm bất hạnh

Nỗi niềm bất hạnh

Giới thiệu của Giao Chỉ, San Jose.

Thưa quý độc giả,

Bây giờ là cuối năm 2014. Chúng ta sắp bước vào năm thứ 40 trải qua 4 thập niên từ 1975 đến nay. Chia sẻ với đau thương của nhân loại, dân Việt đã có biết bao nhiêu câu chuyện về nỗi niềm bất hạnh. Trên mạng lưới điện toán hàng ngày chúng ta đã phải xóa đi tin tức sai lầm và những chuyện đánh phá tao lao nhưng đôi khi phải dừng lại để nghe những câu chuyện vui buồn có ý nghĩa. Xin chuyển đến các độc giả thân yêu của tôi một câu chuyện buồn. Cô gái thuyền nhân 18 tuổi bị hải tặc thảm sát toàn gia, bắt cô gái đi giam giữ riêng. Xin để quý vị đoc câu chuyện của cô gái thuyền nhân Việt Nam kể lại niềm bất hạnh với lời giới thiệu của người cha bất hạnh.

Xin cảm ơn cháu Thùy Nhiên đã viết lại tấn thảm kịch. Xin cảm ơn đại úy quân báo TTM Nguyễn Bá Quang đã giới thiệu tác phẩm của con gái. Xin cảm ơn các bạn đã chuyển cho tôi những câu chuyện tuy đau thương nhưng rất cần được kể lại cho thế hệ tương lai. Đây là một trong hàng ngàn câu chuyện và hình ảnh lưu trữ trong viện bảo tàng thuyền nhân. Sau này con cháu chúng ta sẽ biết được ông cha đã trải qua những đau thương ra sao để đến được miền đất tự do.

Cháu Thùy Nhiên và đại úy Quang, chúng ta hãy sống cho xứng đáng với những người đã trải qua niềm bất hạnh mà nay không còn nữa.

alt

BỌN HẢI TẶC VỊNH THÁI LAN

Đôi lời vào truyện: Tôi tên Nguyễn Bá Quang, là một sĩ quan QLVNCH cấp bậc Đại Úy thuộc đơn vị 101 P2/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ở tù CSVN tại trại tù Tiên Lãnh, Quảng Nam, Đà Nẵng suốt hơn 12 năm. Qua Mỹ với diện HO.5 năm 1991. Hiện cư ngụ tại Reda, Califonia.

Trong thời gian tôi ở tù chưa được thả, gia đình vợ con tôi vượt biển tìm tự do tại Cà Mau tỉnh Minh Hải. Trong chuyến vượt biển hãi hùng ngày 22-2-1985 vợ và sáu người con trai của tôi đã bỏ xác trên biển cả vì bọn hải tặc làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có cả nhạc phụ của tôi và các em vợ cùng các cháu đã chết một cách tức tưởi trên chuyến tàu đau thương ấy. Chỉ còn sống sót người con gái yêu thương của tôi tên Thùy Nhiên và dì ruột của cháu là Phạm Thị Sa.

Năm 1975 mất nước, con gái tôi mới có tám tuổi. Khi CS Bắc Việt chiếm miền Nam chúng dọa nạt, đấy ải gia đình của các sĩ quan QLVNCH đi cải tạo tại các trại lao động khổ sai. Vợ con tôi phải đi kinh tế mới tại Cà Mau, Minh Hải, việc học hành khó khăn, cháu chỉ học tới lớp bảy rồi phải bỏ lỡ dở đi buôn cá tại vùng ven sông thuộc Cà Mau để kiếm tiền nuôi gia đình và các em trai còn nhỏ tiếp tục đi học, vì thế nên cháu chỉ có thể thuật lại Nỗi bất hạnh của đời tôi một cách trung thực.

Là ba của cháu, tôi cũng chỉ sửa những lỗi văn phạm, chính tả. Qua sự thúc bách của tôi, cháu mới có thể thuật lại câu chuyện thương tâm, vì mỗi lần nhớ lại những cảnh đau thương tang tóc của gia đình thì cháu đâm thẫn thờ, ngơ ngẩn hết mấy ngày, và lòng tôi cũng quặn đau vô vàn. Hiện cháu đã lập gia đình và sống với chồng con tại Úc. Sau đây là câu chuyện của con gái tôi, nỗi bất hạnh của cháu, cũng là nỗi bất hạnh của tôi.

Nguyễn Bá Quang

 

altalt

Nỗi bất hạnh đời tôi

Thùy Nhiên

Sau bao tháng ngày mẹ và các anh chuẩn bị ghe thuyền, từng can dầu, tom góp từng gói lương khô như gạo sấy, thuốc men v….v…một cách bí mật. Ông ngoại, gia đình bà dì ruột, gia đình của cha Liêm, từng tốp, từng tốp len lỏi trong đêm tối lần lượt đến điểm tập trung tai bãi Đá Bạc Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải.

Tất cả chúng tôi yên lặng lên thuyền, gồm có 22 người đã có mặt đầy đủ. Tiếng nổ dòn của máy lướt sóng ra khơi, mọi người chúng tôi nín thở hồi hộp.

Qua mấy giờ lầm lũi chạy trong đêm, trời đã sáng, ánh nắng chan hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt Nam, mọi người thở ra nhẹ nhỏm, vui mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được chặng đường  đầy nguy hiểm và bất trắc nhất, vì nếu chẳng may mà bị VC bắt lại, thì bị tù tội, tịch thu tài sản, tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát được khỏi bọn công an VC đang miên man trong đầu óc mọi người, bỗng nhìn đằng xa có chiếc tàu lớn hiện ra, tim tôi đánh thình thịch, tàu của ai đây? Của CS hay của thế giới tự do? Càng lại gần thì càng hồi hộp, một thoáng chán nản và sợ sệt hiện rõ trên nét mặt mọi người khi nhìn rõ màu cờ máu Liên Xô, Thuyền của chúng tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu lớn, cứ thế tiến thẳng, đã qua thêm một sự nguy hiểm, và cũng vì thế thuyền đã chệch hướng đi như ban đầu đã định trước của mình. Chạy thêm vài giờ nữa thì đằng trước hiện lên một chiếc thuyền đánh cá treo cờ VC (cờ đỏ sao vàng), bên hông tàu thấy hai chữ Kiên Giang, giây phút trọng đại, mọi người như nín thở, từ thuyền bên kia phát loa yêu cầu thuyền chúng tôi ngừng lại để cho họ kiểm soát.

Không thể để bị bắt, rồi phải ngồi tù, tài sản bị mất sạch, nên thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực. Một loạt đạn AK nổ dòn bắn về phía chúng tôi, tài công lúc đó là anh Hai Liêm của tôi bị thương ở cánh tay, Mẹ bị thương ở bả vai, ông Ngoại bị thương nhẹ ở đầu. Thuyền bắt buộc phải ngừng lại. Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu nhất sắp xảy ra. Thuyền Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ VC, công an mang theo súng, bọn chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người một kể cả những em bé 3, 4 tuổi, tịch thu một số vàng và tiền bạc (đô la) mà mọi người mang theo, chúng lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở lại vào bờ giao cho công an địa phương xử lý. Ông ngoại tôi là người lớn tuổi nhất trong thuyền, ôm vết thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt, cố gắng năn nỉ giải thích: Các anh cho chúng tôi đi, nếu đưa chúng tôi trở lại bờ Việt Nam thì các anh chẳng có lợi gì cả, chúng tôi bị tù tội, tiền, vàng của các anh vừa tịch thu thì cũng phải giao nạp cho công an thôi. Sau đó bọn họ cho chúng tôi đi, và chỉ hướng cho tàu chạy.

Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một cách nặng nhọc, chậm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện, khi chiếc thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, nhưng dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp và lo sợ, tất cả như nín thở, những đứa nhỏ cũng biết được những gì quan trọng sắp xảy ra nên chúng ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động.

Tiếng nói ở thuyền bên kia là một tiếng lạ không ai hiểu gì, lúc đó cha Liêm là người biết tiếng Anh nói xin họ giúp đỡ. Toán người kia như không nghe biết, với cử chỉ hung hăng dữ tợn, cặp vào thuyền chúng tôi la hét lục soát từng người một. Một lần nữa vơ vét sạch những gì tàu Kiên Giang VC vơ vét còn sót lại. Thấy kết quả lục soát chúng chẳng được là bao, chúng đi tìm từng bộ mặt một, nhất là nhìn chằm chằm vào những người đàn bà con gái. Mẹ tôi còn trẻ đẹp nhưng vừa bị thương mất máu co ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không để ý tới. Chúng đến gần tôi và chị H, bạn gái của anh Hai, chúng liền nắm áo chúng tôi kéo qua thuyền chúng nó.

Trước cảnh dã man này mấy anh tôi không kềm hãm được nên đã có phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới được 18 tuổi, cô kia xấp xỉ tuổi tôi hoặc lớn hơn một tuổi ) nên đã la ó phản đối. Mẹ tôi cúi lậy xin chúng tha. Ông ngoại, cha Liêm năn nỉ nài nỉ chúng chẳng nghe. Chúng đẩy chúng tôi qua thuyền chúng. Phẫn uất trước hành động tàn bạo này, mấy anh tôi đánh trả lại chúng. Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự mấy anh. Lúc đó chúng lôi chúng tôi xuống nhốt dưới hầm tàu tối đen. Từ đó không hay biết chi nữa những việc xảy ra bên ngoài.

Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy cho tàu chạy, sau đó quay trở lại đâm vào thuyền chúng tôi làm vỡ thuyền, thuyền chìm, chuyện xảy ra tôi sẽ kể tiếp phần sau khi tôi gặp lại người dì ruột tại trại SongLa.

Ngồi trong hầm tàu tối đen mà lòng tan nát, tôi chấn tĩnh mình bằng lời cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, hiện ra trước mặt tôi là hình ảnh của mẹ, các anh, em tôi và ba tôi. Mẹ, các anh em tôi giờ đây trên biển cả mênh mông đã trôi dạt về đâu rồi? Đã được tàu của thế giới tự do vớt chưa? Ba tôi trong trại tù CS tại trại Tiên Lãnh, Quảng Nam Đà Nẵng, ba là sĩ quan QLVNCH ở tù 10 năm rồi tương lai sẽ ra sao đây. Tôi nhớ hết những người thân thương, đầu óc tôi rối bời như có trăm ngàn mũi kim nhọn đâm vào quả tim bé nhỏ của tôi tan nát. Chưa bao giờ tôi nghĩ đến hoặc tưởng tượng ra hoàn cảnh mà tôi phải gánh chịu như hôm nay. Nước mắt tràn đầy ra má mà chẳng hay biết gì, nước mắt đã làm dịu cơn khủng hoảng của tôi. Một niềm hy vọng loé lên trong đầu, chắc mẹ và các anh em của mình còn sống sẽ được tàu vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ tự do và mình sẽ được gặp lại.

Ở trên tàu của bọn cướp được vài hôm, chúng chuyển tôi qua tầu đánh cá thứ hai, còn chị H. thì ở lại trên tầu của chúng nói tiếng Thái với nhau tôi không hiểu một tí gì cả chỉ biết cảm nhận theo linh tính của mình, thấy tàu này chuyên lo đánh cá, chắc là họ vừa đánh cá vừa làm hải tặc ăn cướp chăng? Một tuần sau chúng lại chuyển tôi qua tàu khác, cứ thế lênh đênh trên biển cả qua ngày thứ 51, ngày này chúng chuyển qua một tàu khác nữa, người trên tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những chiếc tàu trước đây.

Vào khoảng nửa đêm một tên đàn ông vào kéo tôi dậy, nhìn cặp mắt nó, thấy dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Người tôi run bần bật, miệng thầm đọc kinh xin ơn trên phù hộ cứu giúp. Chúng nó sờ mó và bắt cởi hết quần áo, chúng nói gì với nhau tôi không hiểu, chỉ biết kẹp hai chân cứng lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, và nhìn vào vết thẹo nổi đỏ trên cánh tay tôi. Lúc nhỏ khoảng hai tuổi bị tai nạn phỏng dầu làm đường đến 50% khi chữa lành vẫn còn vết thẹo luôn ửng đỏ. Không biết ai xui khiến cho tôi cứ nhìn vào vết thẹo ấy và kêu la thảm thiết. Bọn chúng nói với nhau những điều gì, tôi cảm nhận như chúng e ngại về vết thẹo của tôi là bị bệnh phong cùi gì chăng? Sau khi bàn bạc chúng đã xô tôi xuống biển không cho một vật gì có thể trôi nổi trên mặt biển.

Nước lạnh làm tỉnh hẳn người, tôi đã thoát qua những bàn tay con quỷ dữ, cố gắng với hai chân để người mình nổi lên trên mặt nước ( ở Cà Mau tôi sống bên sông nên bơi lội cũng khá giỏi. Trên biển giữa đêm đen, có gì ghê rợn bằng. Tôi cố sức mình chống chọi với bao ý nghĩ bi thương, bản năng sinh tồn lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin mẹ Maria bổn mạng hãy cứu giúp tôi. Một lần nữa hình ảnh của mẹ, anh, em và Ba tôi ở trại cải tạo lại hiện ra như khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi với tử thần để ráng sống may đâu có người cứu vớt. Vì thế mà đã qua được năm tiếng đồng hồ dưới biển lạnh.

Trời đã hừng đông, một tia hy vọng đến với tôi, nhưng người càng ngày càng bị lạnh cóng, sắp sửa không chịu đựng nổi nữa rồi, thì may thay, nghe có tiếng động cơ của thuyền chạy đến. Tôi cố giơ tay lên nhưng thân hoàn toàn cóng cứng, rất may trên thuyền họ nhìn thấy, dừng thuyền lại và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là một chiếc thuyền làm ăn lương thiện để tôi còn được sống an bình. Thật quả như lòng mong ước, tôi được những người này săn sóc tận tình, cho quần áo để mặc, cho ăn uống đàng hoàng và dùng máy vô tuyến gọi police (cảnh sát ) Thái cho tàu ra đón tôi vào bờ và đưa đến trại Song La và đến trại Sikiew.

alt

Hằng ngày ở trại, cô đơn lạc lõng, thân gái dặm trường, hằng đêm nguyện cầu cho lòng vơi đi ít niềm đau. Mong chờ mẹ, anh em sẽ đến với mình, nhưng càng ngày càng thấy bặt tăm vô âm tín, lòng buồn rười rượi. Mỗi khi có người mới nhập trại tôi thường đến để cầu mong gặp người thân. Hôm nay bất thần tôi thấy dì Sa, em của mẹ thất thểu bước vào trại, dì cháu gặp lại nhau, nước mắt tuôn trào như mưa, và Dì đã kể lại những gì xảy ra kế tiếp khi tôi bị hải tặc bắt qua tàu của chúng.

Sau khi bọn hải tặc bắt con và H qua tàu của chúng. Vì không chịu nổi những uất ức các anh con đã phản ứng mãnh liệt đánh lại chúng nó. Nhưng chúng có súng, nên các anh con đành thúc thủ. Chúng lồng lộn lên lục soát nát bét trên tàu, bắt mọi người cởi bỏ hết quần áo chỉ cho mặc một quần lót mỏng, lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi rú máy cho tàu chạy.

Mọi người chưa kịp hoàn hồn thì thấy tàu hải tặc quay đầu trở lại, và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông thuyền của mình đánh rầm, thuyền vỡ làm đôi, một số người văng xuống biển. Đồ vật nặng chìm xuống nước, những vật nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mỗi người đều bơi lội, vớ lấy can đựng dầu, đụng nước làm phao. Các anh con, Chương, Long bơi vớt những tấm ván để kết làm bè, kèm lên phần thuyền còn lại nổi trên mặt nước. Phần bè và thuyền nổi cho mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài, hai em con. Ông ngoại và anh Liêm đã ra đi trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả hai đều bị thương.

Trời bắt đầu sập tối, nỗi kinh hoàng xâm chiếm lòng người. Màn đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong cảnh thập tử nhất sinh, lạnh đói và khát, nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau, cùng nhau sống chết. Thấy các em con vì đói khát và lạnh, quá tội nghiệp nên Chương liều bơi, lặn xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn. Nhưng đã lâu không thấy Chương trở lại, mẹ và Dì kêu gào thật lâu chẳng có tiếng trả lời. Hễ người nào chịu không nổi buông tay ra là đi vĩnh viễn. Thấy những người thân lần lượt ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây hỡi trời, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp, hộ phù. Phía bên kia có Linh mục Hồ Quang Liêm và người em Hồ Quang Lập cùng mấy người bà con của cha trong đêm đó cũng ra đi.

Ngày thứ hai kể từ ngày đắm thuyền chỉ còn có dì, mẹ và mấy đứa nhỏ vì được ngồi trên bè, nên chống được sự lạnh cóng. Mẹ con bị thương máu ra nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả đi, hơi thở yếu dần, dì gọi mẹ không trả lời nổi, mẹ tức tưởi ra đi. Đạt, Hoài hai em của con ôm mẹ khóc thảm thiết, dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ mẹ lại bên cạnh không xa rời, dì khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con xuống lòng đại dương. Còn lại con Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát lặng lẽ ra đi. Dì như người mất hồn, không còn biết gì nữa, đặt con mình xuống nước cho dòng nước trôi xuôi, đau đớn vô cùng.

Ngày thứ ba chỉ còn lại Dì, Em Đạt của con, mệt quá gục trên tấm ván, bỗng nó ngồi nhổm dậy nói: Để con lấy nước cho dì, con thấy có dòng suối trong xanh, nước ngọt lắm dì ơi nó định bước xuống nước để đi Dì cầm tay nó kéo lại: Con ơi không có đâu, đó chỉ là ảo ảnh mà thôi, con ngồi xuống đây đọc kinh với với dì xin ngài ban phước. Sau khi kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó lại kêu lên khát nước quá dì ơi con chịu hết nổi rồi. Dì nói trong vô thức hay con uống đại một hớp nước biển xem có chống chọi được không? Sau khi uống một miếng nước vào bụng, tức thì cháu ôm bụng rên la khủng khiếp, nước bọt trào ra nơi, nước bọt giống như bọt xà phòng trào ra, trào ra, cháu lịm người dần và nằm bất động, người cuối cùng ở bên cạnh dì cũng ra đi.

Còn lại một mình đang nằm chờ chết dưới ánh nắng như thiêu như đốt bỗng thấy có đám mây đen kéo đến trời đột nhiên dịu xuống, một vài giọt mưa rơi trên mặt dì, dì liếm từng giọt nước, nhưng người dì đã kiệt sức không còn hay biết gì nữa cả. Khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên thuyền đánh cá của người Thái Lan. Theo tàu họ trên biển, 15 ngày sau thì được đưa vào trại Batani, qua trại SongLa và dì gặp con tại đây.

Ôi ! Những biến cố đó trong đời  làm tôi điên dại, sống dưới ánh nắng mặt trời mà như trong hang âm u. Tôi đã mất mẹ, mất anh, mất em, mất ông ngoại, cậu, cháu và những người thân yêu, 18 người đã chết tức tưởi, bỏ mình trên biển cả … Đó là tất cả NỖI BẤT HẠNH CỦA ĐỜI TÔI.

Mẹ ơi ! Sao mẹ nỡ xa lìa con, xa lìa ba, ba đã chịu bao nhiêu điều cay đắng tủi nhục trong ngục tù Cộng Sản. Các anh ơi ! Các em ơi ! Tất cả đã xa lìa tôi, vĩnh viễn ly biệt tôi một cách tức tưởi: Khổ đau tột đỉnh, hận thành non cao, Biển xa sóng lớn dạt dào, nhớ anh, em, mẹ có ngày nào nguôi.

Thùy Nhiên, viết từ Úc Châu

* Viết để kính dâng linh hồn mẹ Phạm Thị Khanh, Ông ngoại Phạm Văn Đình, Cậu Phạm Văn Tiếng, các Anh: Nguyễn Bá Liêm, Nguyễn Bá Chương, Nguyễn Bá Long, các em, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Bá Đạt, Nguyễn Bá Hoài, Chú nguyễn Văn Dậu, các em con dì Nguyễn thị Minh Châu, Nguyễn thị Minh Xuân, Nguyễn Minh Toàn và Linh mục Hồ Quang Liêm, chú Hồ Quang Lập và các anh bà con với cha Liêm mà tôi không nhớ tên.

* Viết cho Ba là Nguyễn Bá Quang. Ba và con cùng chịu NỔI BẤT HẠNH trên cuộc đời này.

“THẦN BÒBOUL” Tượng Chúa Hài Ðồng Ban Nhiều Ơn Lạ .

Mến chúc Qúi Bằng hữu và Gia đình Một Mùa Giáng Sinh nhiều Ơn Lành, tràn ngập niềm vui và Hạnh Phúc .

TQB.

“THẦN BÒBOUL”

Tượng Chúa Hài Ðồng Ban Nhiều Ơn Lạ .

Hồi ký của Trần Quốc Bảo :

Ðể chuẩn bị cho cuộc thăm viếng Thái Lan của bà Rosalynn Carter, – phu nhân Tổng Thống Hoa Kỳ, – vào đầu tháng 11 năm 1979, Bộ Ngoại Giao và An Ninh Mỹ đã phải âm thầm hoạt động trước nhiều tháng trời.

Mục tiêu của cuộc viếng thăm này là bà Rosalynn Carter muốn đích thân quan sát tìm hiểu về thảm cảnh tại các Trại Tị Nạn trên đất Thái Lan, điều mà báo chí và các hãng thông tấn, truyền hình… đã nhiều lần tường thuật như là một vết thương đại thảm khốc do cộng sản gây ra cho lịch sử nhân loại vào thời bấy giờ.

Chắc chắn ông Carter, vị Tổng Thống mà nụ cười luôn luôn đậu trên môi, một lúc nào đó đã phải chau mày, suy tư về thảm họa kinh hoàng của hàng trăm ngàn người đang sống tại các trại tị nạn Ðông Nam Á.  Không một bản tường thuật nào sẽ sống động và thành thật hơn những nhận xét của chính vợ ông, bà Rosalynn.

Vậy nên nhiệm vụ của 14 người trong “phái đoàn tiền sát” được cử qua Thái Lan đầu tháng 10-1979 thực là quan trọng.  Phái đoàn sẽ đến Thái Lan như những người du lịch, sẽ tìm hiểu và ghi nhận trước tất cả mọi khía cạnh của vấn đề; một bản phúc trình tỉ mỉ về tị nạn sẽ được thiết lập với những nhận xét và đề nghị thật chuẩn xác, để cuộc tới thăm của bà Ðệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ sẽ chỉ là duyệt lại các điều mà bà đã biết từ trước.

Riêng tôi, một trong 14 nhân viên của phái đoàn tiền sát, tôi hoàn toàn không hay biết mảy may gì về mục tiêu, mục đích của cuộc ra đi này.  Tôi lại cũng mù tịt về mọi lãnh vực ngoại giao và an ninh của Mỹ.  Thế mà tôi lại được đi trong phái đoàn, điều mà chính tôi cũng phải ngạc nhiên.  Trong 14 người, thì 11 là Mỹ chính hiệu “con nai trắng”, còn 3 ngoại kiều là một cô Cam-bốt, một giáo sư  Thái Lan và tôi là Việt Nam.  Sở dĩ có tên tôi là bởi một sự bất ngờ rất tếu.  Tôi có anh bạn trong “Hội Nhà Thờ Bảo Trợ”, tên John, anh này là cựu sĩ quan, trước từng ở Việt Nam hai năm, làm cố vấn cho đơn vị tôi.  Ngẫu nhiên nay gặp lại nhau, anh rất khoái tôi.

Thường thường tụi tôi có các buổi họp mặt weekend là có John.  Anh ta cũng ngồi xếp bằng tròn quanh mâm nhậu, bóc lon la-de và nốc một hơi trăm phần trăm y chang như các tay tổ trong băng độc thân vậy.  John nói được một ít tiếng Việt, ăn được nước mắm, khoái món phở tái, chả giò … và đôi khi chúng tôi nhậu khan với nhau bằng mực khô nướng, củ kiệu, John cũng xáp vô nhai khô mực ra rít lắm.

Bởi cái chỗ thân tình ấy nên tụi tôi coi John như một người bạn chí thiết.  Một lần đang cơn nhậu, John hỏi chúng tôi, ngoài tiếng Mỹ có ai biết nói tiếng Lào không?  Tôi phét lác nhận là nói được và xổ ra một tràng tiếng Lào líu lo líu lường… làm cho cả bọn cười bò.  Thật tình tôi có học được một ít tiếng Lào trong thời gian hành quân Hạ Lào, lâu không nói thì nay cũng đã quên nhiều, nói bậy bạ dỡn chơi thì được, chớ còn phiên dịch thông ngôn thì không nổi.

Thế mà nửa tháng sau tôi nhận được giấy mời lên Văn phòng Ngoại giao.  Người tiếp tôi chính là John.  Anh ta nói muốn dành cho tôi cơ hội để về thăm miền Ðông Nam Á trong nhiệm vụ tiền sát như đã nói trên.  Tôi thú thật với John tôi quá kém về Lào ngữ.  Nhưng anh ta trấn tĩnh tôi rằng, có một nữ nhân viên Cam-bốt nói tiếng Lào giỏi sẽ giúp tôi, và có thể phái đoàn cần tôi trong nhiệm vụ giao dịch tiếng Việt nữa.

Chúng tôi đã đến Thái Lan như những du khách, và đã nhờ Hồng Thập Tự địa phương đưa đến các trại Tạm cư Tị nạn.  Hai trại lớn mà chúng tôi đã ở lại nhiều ngày là trại U-thong (phía Tây Bắc cách Bangkok trên 300 dặm) hiện có 36 ngàn người Lào tị nạn; và trại Sa-kaeo nằm trên quốc lộ số 8 cách Bangkok 650 dặm về phía Ðông, chứa tới 200 ngàn dân Căm-bốt tị nạn.

Có ai tưởng tượng được (vào thời điểm năm 1979) chỉ ở một trại tạm cư thôi mà con số những người tị nạn Căm-bốt đã lớn lao đến thế không?  Hàng trăm ngàn người đó đang sống vô cùng thiếu thốn, đói khổ và bệnh tật, ở chui rúc trong các tàng cây, những lều lá xiêu vẹo mà họ gọi là cái nhà.  Thiếu thực phẩm, thuốc men, quần áo. – Một vài hình ảnh khiến ta có thể tưởng như lớp người đó đang sống ở thời thượng cổ, thời đại sống trong hang hốc, ăn lông, ở lỗ.  Sau này khi bà Rosalynn Carter đến viếng thăm đã phải thốt lên:  “Thật quả là thê thảm, những cảnh tượng này tôi chưa hề bao giờ thấy như vậy, đã làm cho tôi xúc động kinh hoàng.”  (“It’s like nothing I ‘ve ever seen, it’s emotionally overwhelming”).

Nếu muốn viết về chuyến đi Thái Lan  của tôi thì sẽ có một chuyện dài, nhưng tôi không thể đưa lên báo bản phúc trình chỉ dành riêng cho vị Ðệ Nhất Phu Nhân đọc.  Ở đây, tôi muốn kể lại một câu chuyện nhỏ- một kỷ niệm mà mãi mãi tôi không quên.

Buổi chiều hôm đó, sau những giờ đã làm việc khá mệt mỏi, chúng tôi chia nhau bánh mì và thịt hộp để ăn bữa tối, Saleng (cô gái Căm-bốt trong phái đoàn) gọi tôi:

– Anh có muốn đi coi “Ông Thần Con Nít” không?

Tôi vừa nhai bánh vừa cười, hỏi đùa:

– Có Ông Thần Con Nít hả?  Vậy Saleng làm ơn bồng ông Thần Bếby ấy tới đây, tụi mình chụp hình phỏng vấn, chớ đi nữa thì… mệt quá rồi.

Saleng nghiêm sắc mặt:

– Anh chớ nói dỡn, Thần Con Nít thiêng lắm, Thần đã cứu nhiều người ta và đã đưa họ đến đây tị nạn.

Tôi hỏi một hơi:

– Sao cô biết? Thần con nít là Ông Thần gì ? ở Ðâu?  Cứu ai?  Chuyện đầu đuôi ra sao?

Saleng liếc xéo tôi:

– Bộ anh muốn ghi vô biên bản phúc trình hả?  Muốn biết thì đi! Đi tôi dẫn tới cho coi.

Tôi uống cạn ly cà phê rồi ngoắc John cùng đi theo.  Chúng tôi lên một ngọn đồi nhỏ, chung quanh toàn là dân di tản Căm-bốt ở chen chúc dưới các lùm cây tàng lá.  Những cảnh sống cơ cực hiện ra trước mắt trong suốt mấy ngày nay đã làm chúng tôi quen rồi.  Các em nhỏ, phần lớn là ở trần truồng, gầy gò, xanh xao và bệnh hoạn.  Các ông già bà cả ngồi trầm lặng như những pho tượng.  Nhiều cặp mắt lo âu nhìn về phía chúng tôi, không biết họ đang nghĩ gì.  Nhưng có điều chắc chắn là nếu ai bảo họ trở lại với quê hương cộng sản của họ thì họ lắc đầu cương quyết phản đối ngay.

Saleng dừng lại ở đỉnh đồi – nơi có những đá lớn chồng chất – trên một tảng đá, tôi thấy có bầy biện như một bàn thờ, cắm nhiều cây nhang, có một cặp nến đỏ viết chữ Miên chằng chịt như đạo bùa.

Một bầy trẻ con chừng 20 đứa ốm o đang cầu kinh và ca hát chung quanh.  Vài người lớn thấy chúng tôi, rê lại gần đứng nhìn.  Ðến gần bàn thờ, tôi và John đã ngạc nhiên khi nhận ra vị “Thần Con Nít” mà Saleng đặt tên cho, chính là tượng “Chúa Hài Ðồng nằm trong máng cỏ”.  Tượng bằng thạch cao lớn cỡ bằng quyển tự điển, một góc bị bể nên bàn chân Chúa mất một nửa.

Rất tự nhiên, John và tôi cùng qùy gối xuống cạnh những em bé trần truồng.  Chúng tôi làm dấu Thánh Giá.  John hát lên một bài ca Sinh Nhật bằng tiếng Mỹ, tôi cũng ca tiếp bài “Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời…”  Cử chỉ cung kính của chúng tôi trước vị Thần Con Nít đã phút chốc gây cảm tình với các em bé và bà con cô bác tị nạn Căm-bốt.  Số đông đã bu lại quanh chúng tôi có tới năm sáu chục người.  Họ nói chuyện ồn ào, và Saleng làm nhiệm vụ thông dịch cho chúng tôi hiểu.  Trong đám đông đó, Saleng dẫn tới giới thiệu với chúng tôi một bà già tên Lam-Pranak và con gái bà, bé Bòboul.  Câu chuyện ly kỳ “Thần Bò-Boul” đã sẩy tới cho hai mẹ con bà, đầu đuôi thế này:

Ông Lam-Pranak, vị đại úy thời Lon-Nol, bị Miên cộng hạ sát năm 1975.  Hai đứa con của ông đã bị ném vô lửa trước mắt ông, trước lúc chúng bắn ông.  Vợ ông và 4 đứa con khác trốn về tỉnh Kompong Kdey, một năm sau bị phát giác và cũng bị bắt.  Miên cộng nhốt năm mẹ con bà Pranak cùng với khoảng 400 người khác thuộc “chế độ cũ” trong một Nhà Thờ Chánh Tòa đổ nát ở tỉnh nhỏ Khum Samrong.

Chính tại nơi đó, con gái út của bà, em bé Bòboul, đã tìm thấy tượng Chúa Giêsu Hài Ðồng nằm trong máng cỏ.  Thoạt đầu, em chỉ thấy đẹp và muốn giữ chơi như một búp-bê.  Nhưng rồi bà mẹ em đã nghiệm thấy dường như có một uy quyền, một phép lạ nào đó ẩn tàng trong Búp-bê Thần này.  Cứ mỗi lần Bòboul bị đau ốm, mà em được ôm lấy Búp-bê Thần thì em liền được khỏi bịnh.  Rồi nhiều em nhỏ khác bị nhốt trong Nhà Thờ đau ốm cũng đã được ơn cứu chữa ấy.  Chí đến các người lớn bệnh hoạn cũng đã được khỏi khi cầu xin Búp-bê Thần; và lòng sùng kính tôn thờ tự nhiên dâng lên.

Trước con mắt nhòm ngó dữ dằn của bọn lính Miên cộng, những người tù khốn khổ trong Nhà Thờ đã không dám lập nên một bàn Thờ cho Vị “Chúa Con Nít” của họ.  Ðền đài của Chúa Giêsu Hài Ðồng nơi đây chính là cái túi vải rách rưới đeo trên lưng em bé Bòboul, một đứa trẻ gầy gò bẩn thỉu.  Ðến nỗi chính danh hiệu cao cả của Chúa cũng chẳng ai biết nữa.  Ðoàn người tù tội đã dùng ngay tên em bé để gọi Chúa Hài Ðồng, bây giờ tên Ngài là “Thần Bòboul”.

Nhiều đêm, cửa Nhà Thờ mở ra, những họng súng chĩa vào, vài tên Miên cộng thò đầu vô gọi tên một số người.  Những người bị gọi đi trong đêm sẽ không bao giờ trở lại.  Họ đến quỳ gối bên em bé Bòboul, hôn tượng Chúa Hài Ðồng:

– Lậy Thần của Bòboul, bây giờ con sắp đi vào cõi chết, con muốn khi chết đi được Thần của Bòboul thương con, đem con về cõi Trời với Thần!

Cầu nguyện xong, họ hôn em Bòboul và vĩnh biệt ra đi, trong khi đó Bòboul vẫn ngủ say sưa không biết gì cả.  Số tù nhân vô tội vơi xuống lần lần.

Một đêm nọ, bà Pranak bị gọi tên.  Bà choáng người như bị sét đánh, gọi cả bốn con dậy, mẹ con ôm lấy nhau khóc mướt rồi bà cầu nguyện:

– Lậy Thần của Bòboul, xin cứu con, xin cho con được sống với bốn đứa nhỏ này, cha nó đã bị bắn, hai anh nó đã bị đốt lửa; xin Thần hãy cứu con để chúng nó còn có mẹ, và để mẹ con chúng con suốt đời thờ lạy Thần.

Bà hôn các con rồi ra đi trong đêm tối theo lũ Miên cộng…

Chừng hơn tiếng đồng hồ sau, cánh cửa hậu Nhà Thờ bỗng hé mở.  Bà Pranak len lén bò vào.  Bà thì thào với các con:

– Mẹ và nhiều người bị đẩy xuống một cái hố, tụi nó xả súng bắn càn rồi lấp đất lên, và bỏ đi.  Mẹ không bị trúng đạn, moi đất chui lên được về đây với các con.  Ðúng là Thần của Bòboul đã cứu mẹ!

Năm mẹ con lại ôm nhau khóc… và tạ ơn Thần. – Việc bà thoát chết, mò mẫm đêm khuya trở lại Nhà Thờ (đúng ra là nhà tù), cũng như việc lính gác ngủ vùi và cửa Nhà Thờ hé mở, cho đến bây giờ, bà Pranak vẫn không hiểu tại sao được như vậy. Bà chỉ một mực tin rằng đó chính là Thần Bò-Boul ra ơn cứu mạng

Ngày chế độ Pol-Pot bị lật đổ, bọn lính canh tù trước khi tháo chạy đã thảy đại vô Nhà Thờ 3 trái lựu đạn.  Bé Bòboul thất kinh, cầm tượng giơ ra ngăn cản.  Lạ thay, cả 3 qủa đạn đều tịt ngòi lăn long lóc trên nền Nhà Thờ.  Một người trong toán tù đã liều mình nhặt vứt ra ngoài.  Khi qủa lựu đạn cuối cùng ném ra khỏi cửa sổ, cả 3 đã phát nổ dữ dội khoét thủng một lỗ ở chân tường, và do đó đoàn tù đã thoát ra rồi tản mát, mạnh ai nấy chạy trốn vượt biên giới qua Thái Lan tị nạn.

Bé Bòboul lạc gia đình, một mình chạy nhủi ở trong rừng, hết lòng cầu xin, hai ngày sau thì gặp lại được mẹ và anh em như cũ.

Khi năm mẹ con dắt díu nhau vượt biên tại Ban Nong Pru chính là chỗ quân đội hai bên đang canh phòng ghìm nhau rất cẩn mật.  Bé Bòboul cầm tượng Chúa đi trước dẫn đầu cho gia đình đi ngang qua hai trạm lính canh gác, lạ thay, thấy lính Miên cộng và lính gác Thái đều ôm súng ngủ khì.  Câu chuyện thuật lại như khôi hài và hoang đường vậy.

John tỏ ra đặc biệt chú trọng đến mọi chi tiết của câu chuyện.  – Anh hỏi và Saleng thông ngôn:

– Cho đến nay, Chúa Hài Ðồng còn tiếp tục làm phép lạ không?

Bà Pranak trả lời:

– Không! không phải phép lạ, Thần của Bòboul không làm phép ra lửa, ra ánh sáng đâu.  Thần chỉ cứu người thôi.  Ai cầu xin Thần sẽ được, nhưng phải ở hiền, ở tốt, đừng có dữ dằn, ai yêu thương người ta, Thần của Bòboul mới cho ơn.  Thần còn cho ơn nhiều nhiều, phải tin Thần thì mới được chứ!.

Tôi ngạc nhiên đến sững sờ nhìn bà Pranak, có phải bà vừa đọc một đoạn Thánh Kinh nào đó cho tôi nghe không?  Tôi nhìn kỹ mặt bà, gương mặt cằn cỗi xám xịt, hàm răng vàng khè, cặp mắt đục và mệt mỏi.  Bà quê kệch, xấu xí và rách rưới, nhưng tâm hồn bà dường như tràn ngập niềm tin và sự vui mừng.

Bốn đứa nhỏ của bà cùng với lũ trẻ tị nạn khác đang xúm quanh John nhai kẹo cao-su.  John nhờ Saleng giảng dịch cho chúng hiểu sơ lược về Chúa Cứu Thế, mà bức tượng của Bòboul chính là Thánh tượng Ngài.  Thật mà nói, tôi thấy lũ nhỏ chăm chú vào việc nhai kẹo nhiều hơn là lắng nghe câu chuyện Thánh Sử.

Khi chúng tôi từ biệt bà con tị nạn để về lều, John chưa kịp nói Good Night thì một thanh niên chạy tới rối rít lên:

– Ðem Thần của Bòboul tới mau, xin cứu vợ tôi, nó sắp đẻ rồi, chẳng có cô mụ bác sĩ gì ráo, khéo nó chết mất!  Lạy Thần, xin cho vợ con của con được sống.

Tượng Chúa Hài Ðồng được rước đi tức khắc.  Chúng tôi cũng cấp tốc trở về lều.  Khi John trở lại với một bác sĩ thì mọi sự đã song.  Một em bé tị nạn đã sinh ra bằng yên,  Người sản phụ đang thiu thiu ngủ, và người chồng đang quỳ dưới đất chắp tay lạy Chúa Hài Ðồng như tế sao.

Bà Rosalynn Carter, sau này khi đến thăm trại, đã bồng đứa bé đó trên tay và ứa lệ nói rằng:  “I want to go home as fast as I can and mobilize people and do all we can to help the people here”.  [Tôi muốn trở về Mỹ càng sớm càng tốt để vận động dân chúng làm tất cả những gì chúng ta có thể làm được để giúp dân chúng nơi đây.]

Trần Quốc Bảo

Richmond,VA/USA

TIỀN GIÀ & TÌNH GIÀ

TIỀN GIÀ & TÌNH GIÀ

Với 12 bài viết trong năm, cho thấy một sức viết mạnh mẽ, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersy, bà vui vẻ tự sơ lược tiểu sử “22 năm dạy học trong nước, 22 năm làm culi job trên đất Mỹ”. Bài mới được tác giả coi là một tạp ghi, tạm gọi là món quà cỏn con gởi đến quý bạn với lớp tuổi không còn trẻ nữa.

* * *

I- Trong bữa cơm tối, Chúc Minh nhìn lên tờ lịch trên tường, nói lớn:

– Ô, tuần sau là sinh nhật của tui đó nha, quý vị chuẩn bị quà cáp đi là vừa…

Hiển, chồng nàng từ trong bếp nói vọng ra:

– Trời đất, gần ăn tiền già rồi còn đòi quà sinh nhật.

Cả nhà cười vang vì sự chế giễu của Hiển. Chúc Minh xịu mặt. Hai đứa này chỉ hơn 40, không còn trẻ nữa, nhưng chưa phải là già. Mọi người biết rằng Hiển chọc ghẹo Chúc Minh cho vui thôi chứ anh chàng này nổi tiếng là nịnh vợ: Năm nào sinh nhật cô nàng anh cũng bày tiệc linh đình vì anh ta là chef cook của một nhà hàng Mỹ danh tiếng ở vùng San Diego này.

Tôi thoáng nghĩ ngợi về chuyện “ăn tiền già” qua câu nói của Hiển, thằng cháu rể rất dễ thương của vợ chồng tôi. Tiếng Việt thật lạ lùng, cái gì biểu hiện phúc lợi lập tức có chữ “ăn” đi kèm. Từ “ăn đám cưới, ăn đám giỗ, ăn tiệc, ăn chơi…” bây giờ ở Mỹ có thêm cụm từ “ăn tiền già, ăn tiền bệnh, ăn tiền thất nghiệp, ăn tiền SSI…”

Những người đi làm như chúng tôi khi về hưu sẽ không dùng từ “ăn tiền già” hay “ăn tiền trợ cấp” mà được gọi bằng “hưởng tiền hưu bổng”, tức là tiền mình đóng thuế trong thời gian làm việc, tùy theo mức lương cao hay thấp và thời gian làm việc ngắn hay dài.

Tự nhiên tôi cảm thấy cụm từ “ăn tiền già” mang ý nghĩa ngồ ngộ, đặc biệt cho thấy sự đãi ngộ người già, dĩ nhiên, chỉ có ở những quốc gia văn minh, giàu có. Điều này cho thấy rõ nhất sự quý trọng con người, đặc biệt sự quan tâm của xã hội khi biết rằng cuộc sống của họ đã đi gần đến chỗ “the end”. Bản thân tôi cũng đang nghĩ ngợi đến ngày nghỉ hưu, lúc đó hai đứa tôi sẽ trở thành hai con khỉ già ngồi chong ngóc thu lu trong nhà nhìn lá rụng.

Tự nhiên tôi lại có chút buồn khi nghĩ đến lúc về hưu, nghĩa là đoạn cuối của cuộc đời mình trước khi xuôi tay yên nghĩ. Tiền già tức là số tiền trợ cấp nhỏ cho người già trên 65 tuổi mà trước đó không cần có làm việc hay không, với điều kiện phải có quốc tịch Mỹ. Được biết số tiền này sẽ chênh lệch ít nhiều tùy theo tiểu bang mình cư ngụ và sẽ được đi kèm theo bảo hiểm y tế gọi là Medicare hay Medicaid. Một cặp vợ chồng già mỗi tháng sẽ có $1,440 ($720/người) và vài trăm tiền foodstamp để mua thức ăn.

Trước đây foodstamp in trên giấy đóng từng tập nhỏ cỡ tờ vé số, bây giờ chính phủ bỏ vô thẻ, người sử dụng sẽ “quẹt” như quẹt credit card. Số tiền này sẽ giúp cặp vợ chồng già sống ung dung đầy đủ, có thể đi chơi đây đó đôi lần trong năm nếu không phải trả tiền nhà và sức khỏe tốt không đau bệnh chi nặng nề.

Trường hợp thứ nhất tôi được biết về khoản tiền già này đối với vợ chồng người bạn ở San Jose là họ chỉ giữ lại $300 cho mỗi người, số còn lại phải phụ với con trả tiền mortgage. Nếu không ở chung với con mướn nhà ở thì hơi vất vả vì mướn apartment một phòng ngủ phải trên dưới $1,000/tháng. Nếu cặp vợ chồng già bạn tôi xin được housing của chính phủ thì tuyệt vì chỉ trả tiền nhà vài ba trăm một tháng.

Trong một bài viết về nước Mỹ tôi đọc đã lâu rồi, câu chuyện viết về bà mẹ già ở một mình nhưng quanh năm con cháu chia phiên nhau nghỉ phép về ở với bà, cho nên tuổi già của bà quá đỗi yên vui, vô vàn hạnh phúc! Cụ bà ấy phải được gọi là người hạnh phúc nhất trên đời này. Nếu người ta gọi tuổi trẻ là tuổi hồng, tuổi ngọc, thì bà cụ này phải được gọi là “tuổi hột xoàn” vì được con cháu trân quý, săn sóc chu đáo quá.

Trong tháng Tám, viết về nước Mỹ liên tiếp đăng tải hai bài nói về người Mẹ làm tôi xúc động bồi hồi. Đó là bài “Bà mẹ quê” của Philato và “Người Mẹ cô đơn” của Phan.

Bài trước là tình cảm của tác giả khi nói về mẹ mình một đời vất vả vì con, đến lúc “ra đi” con không gặp được Mẹ vì còn đang bôn ba “cải tạo”. Tác giả nghĩ đến kỷ niệm ấu thơ của mình khi sáu tuổi, nửa đêm thức giấc vì đói được mẹ mình cho củ khoai vùi bếp lửa thơm lừng mà theo ông không có bữa ăn nào trong đời ông ngon bằng. Thú thật khi đọc đến đoạn văn đó, tôi cũng cảm thấy trái tim mình thổn thức trước tình yêu mẹ con mà bóng của họ in hẳn lên phên vách nứa bếp lửa bập bùng. Đó là hình ảnh của bà mẹ trong nước không có tiền già.

Hình ảnh “Người Mẹ cô đơn” của Phan phải nhờ người dưng (là tác giả Phan) chở dùm đến chỗ trọ mới trong khi các con của bà bỏ lơ bỏ mặc. Bà mẹ này ở Mỹ có tiền già trợ cấp của chính phủ nhưng không có tình cảm mẹ con. Tự nhiên tôi lại nghĩa đến thân phận mình khi về hưu, khi bóng xế đầu non, khi vạt nắng cuối cùng của một ngày vội tắt.

Trường hợp thứ nhì tôi được biết về mảng đời thực của một người già ở Little Saigon lần thăm Cali hè vừa qua, làm tim tôi thêm một lần trật nhịp.

Buổi sáng hôm ấy, dậy sớm hơn mọi người tôi ra sân quơ vài động tác thể dục. Bỗng tôi thoáng thấy chiếc nón lá trồi lên hụp xuống ở khu vực chứa rác của khu nhà townhouse. Ở miền Đông Bắc mấy chục năm tôi có bao giờ thấy được chiếc nón lá? Tò mò, tôi bước lại gần. Một bà cụ già, già lắm, chắc phải gần tám mươi, bước ra khỏi khu vực thùng rác. Tôi chào. Bà cụ chào lại tôi. Cả hai không nói thêm lời nào. Tôi chợt hiểu khi nhận thấy dưới chỗ chân bà vừa bước ra, lổn nhổn vỏ chai coca, chai bia, nước suối… trong túi nhựa nylon. Bà cụ giở nón ra quạt cho mát. Mái tóc trắng bù xù và nụ cười dúm dó. Bà cho biết bà đang hưởng tiền già, nhặt thêm vỏ chai kiếm thêm chút đỉnh gởi về bên nhà cho đám cháu con nghèo khổ. Tôi choáng váng vì xúc động, thương cảm cho bà mẹ già, chân tôi như bị ai đóng đinh không bước đi được và nghe tim mình như bị ai trói chặt. Trời ơi, người mẹ Việt Nam nơi xứ người khổ sở đến thế hay sao?

Có lẽ cũng vài phút trôi qua, bà khách hỏi tôi:

– Cô à, cô có sao không vậy?

Tôi vùng thoát khỏi cơn mê, gượng gạo trả lời:

– Không sao, thưa bà, tôi từ xa đến chưa quen giờ giấc, thiếu ngủ nên thấy chóng mặt…

Người mẹ già băng qua đường với bao nylon đựng đầy vỏ chai trên tay. Tôi vẫn đứng yên, nhìn bóng bà xa dần, tay chân lóng ngóng.

II- Chúng tôi không thể ở lại San Diego để mừng sinh nhật Chúc Minh tuần tới vì đã hết ngày phép. Con nhỏ có vẻ không vui. Tôi nói với nó mai mốt về hưu có thể chúng tôi về Cali ở với chúng nó. Nó mừng rơn, gặng hỏi tôi: Thiệt hông dì? Thế rồi nó nói dì dượng xuống đây, con chừa cái Master bedroom cho hai ông bà, bao ăn ở chỉ charge $500 thôi. Tôi nói ô kê với điều kiện là sáng ăn tôm hùm chiều cháo bào ngư tối đi coi văn nghệ, vợ chồng nó cười ha hả.

Đến phi trường L.A. chân tôi tê cứng không bước xuống xe được, ông xã mới vịn tay tôi đỡ xuống xe. Vợ chồng Chúc Minh được dịp la bài hãi:

– Trời ơi hai ông bà già tình tứ quá!

Tôi cười:

– Già thì có tình già chứ, gừng càng già càng cay, mấy đứa bay không nghe người đời nói vậy sao?

Suốt 6 giờ đồng hồ từ L.A về đến N.J tôi cứ nghĩ ngợi về chữ “tình già”, tựa đề bài thơ mới đầu tiên của Phan Khôi xuất hiện trên báo năm 1932:

Hai mươi bốn năm xưa

Một đêm vừa gió lại vừa mưa…

.. Ôi tình nghĩa đôi ta thì rất nặng

Mà lấy nhau ắt là không đặng…

Lời thơ ngây ngô như lời nói, đầy đủ “thì, là, mà” nhưng gây sóng gió không nhỏ trong buổi đầu hình thành thơ mới. Người đời thường cho rằng vợ chồng về già chữ tình không còn, sống với nhau về nghĩa. Tôi không biết đúng sai, có điều tôi nhận thấy vợ chồng già tình cảm không còn sôi nổi, bộp chộp như hồi trẻ mà thấm đẫm hơn, sâu lắng hơn. Chắc vì lý do đó ca dao có câu:

Con cá làm ra con mắm

Vợ chồng già thương lắm mình ơi

Người xưa không sai chút nào khi dùng chữ “thương lắm”. Ủa, vậy người trẻ không “thương lắm” hay sao? Không hẳn là vậy, vợ chồng trẻ yêu nhau đắm đuối say mê nữa là đằng khác, nửa bước không rời. Nhưng chữ “thương lắm” dùng cho vợ chồng già mang một ý nghĩa dài lâu hơn, nghĩa là họ đã trải qua mấy chục năm dài lận đận với nhau, xẻ ngọt chia bùi. Theo tôi, câu hát trên nói về tình nghĩa vợ chồng lúc về già còn mang ý nghĩa cần thiết nữa. Qua rồi tuổi thanh xuân khi con cái đã đủ lông đủ cánh bay khỏi tổ ấm gia đình, chúng nó có vợ có chồng, có con cái, có nhà riêng, thì chỉ còn lại hai vợ chồng già trong cái mà người Mỹ gọi là “Empty nest”. Bây giờ ông nhìn bà, bà nhìn ông, cả hai mái đầu đều bạc, nay nóng lạnh, mai nhức đầu… Nếu không dựa vào nhau thì còn biết trông cậy vào ai

Trong tháng 7/2014, bài viết của tác giả Philato “70, chán mớ đời” khiến tôi đọc đến mấy lần vì thấy mình trong đó. Thực là chán quá chừng ở cái tuổi trên dưới 70, nghĩa là tuổi già lãng đãng khi nhớ khi quên, bước cao bước thấp, bệnh hoạn hà rầm…

III- – Bộ bà không biết đến thì giờ sao? Sáng đi làm, giờ này gần 12 giờ đêm còn đọc sách?

– Nhớ đóng cửa sổ lại, đêm nay chỉ có 42 độ, bà dễ ngươi là bệnh đó nghe!

– Nếu bà thấy mệt quá xin nghỉ hưu trước đi, một mình tôi làm gói ghém cũng đủ qua ngày mà…

Đó là những lời ông đã nói với bà cho thấy sự quan tâm âu yếm, nhưng bà chỉ ừ hử cho qua chuyện. Ông lớn tuổi hơn bà, người nghỉ hưu trước phải là ông mới đúng chứ?

Thời gian trôi nhanh hơn mình tưởng. Chúng ta chưa kịp hưởng tuổi thanh xuân của mình thì tuổi già hấp tấp đến gần. Tuổi bảy mươi còn toan tính gì được nữa đâu, chỉ mong còn chút vui bên con cháu, Thu đã sang thì mấy chốc Đông tàn?

Trước Noel đúng một tuần, năm nay, là 40 năm tình chồng vợ của hai đứa tôi. Tôi thấy lòng một chút bâng khuâng. Ôi tình yêu là hơi thở một đời và tình già rộng mở những bao dung cho một thời tàn lụi. Chúng tôi muốn gởi trao đến bạn đọc tất cả sự nồng nàn của tình già vì chúng ta làm sao biết được bao ngắn bao dài thời gian chúng ta còn ở bên nhau đâu?

Buổi tối ông thấy khó thở vì tim đập nhanh. Bà hơi lo cứ thức giấc canh chừng ông.

– Ông uống thuốc chưa? Uống nước cam không tôi pha cho.

– Bà ngủ đi, tôi uống thuốc rồi, chút là khỏi thôi.

– Nếu không được khỏe, mai tôi nấu cháo gà với sâm, kỷ tử cho ông ăn nha. Đừng ăn cơm khó tiêu. Nhớ đắp mền cho ấm người…

Tình già vậy đó. Nhưng không phải lúc nào cũng cơm lành canh ngọt. Cũng có lúc cãi cọ, khích bác, chế giễu lẫn nhau.

– Trời ơi sao ông lụi đụi quá vậy ông già?

– Bộ bà không già sao?

Có những lúc vì áp lực công việc ở sở, vì những gút mắc vụn vặt của gia đình, vợ chồng già cũng hục hặc với nhau, giận hờn nhau. Nhưng “giận thì giận mà thương thì thương” nên dễ dàng “huề vốn” với nhau lắm.

Sở dĩ tình già bền bỉ, theo thiển ý của chúng tôi, là ngoài tình yêu còn có sự quý trọng và bao dung, trên hơn hết là sự nhường nhịn nhẫn nại. Có phải người Việt Nam, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam lớp trước (như tuổi già của chúng ta hiện nay) ít muốn thay đổi, không thích mạo hiểm trong tình trường?

Để kết thúc bài viết tôi xin gời đến quý bạn đọc câu ca dao:

Anh buồn còn chốn thở than

Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya.

Nhang đã tàn lại được thắp giữa khuya cho thấy sự lạnh lẽo cô đơn biết là chừng nào. Tình già đôi lúc cũng như thế. Tình già, có thể là tình vợ chồng dài lâu ân nghĩa, cũng thể là tình bạn thâm giao, chúng ta hãy cố gắng giữ gìn, sưởi ấm tình nhau.

Song Lam

Bà mẹ Việt đoàn tụ cùng con ở Arlington

Bà mẹ Việt đoàn tụ cùng con ở Arlington

by tvduc

Có bà mẹ Việt Nam, gốc Long An, sinh quán Sài Gòn, lớp ngoài 50, đến Mỹ được 10 năm, diện đoàn tụ. Sở di trú hỏi rằng đoàn tụ với ai. Đoàn tụ với con trai. Con trai đâu rồi. Chết rồi. Chết ở đâu. Chết ở Iraq. Cháu là thủy quân lục chiến Mỹ. Tôi tên là Nguyễn Thị Kim Hoàn, con trai tên là Lê Ngọc Bình.

Bà mẹ Kim Hoàn đoàn tụ với con trai ở nghĩa trang Arlington.

Bà mẹ Kim Hoàn đoàn tụ với con trai ở nghĩa trang Arlington.

Tuy Kim Hoàn khai như vậy nhưng liên hệ mẹ con rất phức tạp. Hồ sơ được dân biểu đưa cả lên Quốc hội, sau cùng mới giải tỏa. Luật sư Hoa Kỳ do Thủy quân lục chiến (TQLC) Mỹ yêu cầu đã biện hộ cho bà mẹ Việt Nam. Xin vắn tắt nói cho gọn câu chuyện dài dòng.

Một hạ sĩ quan TQLC Mỹ gốc Việt anh hùng đã hy sinh tại Trung Đông để cứu đồng đội ngày 3 tháng 12.2004.

Anh đã xông ra cổng trại, hạ sát tài xế đang lái xe bom lao vào căn cứ. Bom nổ , anh bị thương nặng, cưa 1 chân, nhưng vẫn không cứu được.

Trước khi chết, hạ sĩ Lê Ngọc Bình trối trăng rằng hãy liên lạc với mẹ anh. Nguyễn Thị Kim Hoàn còn ở Việt Nam.

Bạn của Lê Bình khai rằng mộng ước của anh hạ sĩ trẻ gia nhập thủy quân lục chiến Hoa Kỳ là để trở thành công dân và sẽ lo đoàn tụ với mẹ tại Mỹ.

Bây giờ mỗi tuần, hàng tháng, qua nhiều năm. Mẹ con đoàn tụ tại nghĩa trang Arlington, VA.

Ngày giỗ cùa hạ sĩ Lê Bình cũng là ngày lịch sử trong nhật ký hành quân của căn cứ thủy quân lục chiến Mỹ thoát nạn xe bom 500 cân nổ ở cổng trại Terbil.

Đó là ngày 3 tháng 12 năm 2004, cách đây 10 năm.

Cũng như mọi năm, mùa lễ hội năm nay, trong lúc mọi gia đình gặp nhau từ lễ Tạ ơn đến Giáng sinh ở khắp nơi trên thế giới thì Kim Hoàn sẽ gặp con trai yêu quý của cô tại Arlington.

Cho con đi du học Hoa Kỳ

Cô Kim Hoàn họ Nguyễn lấy chồng họ Trần và sinh hạ được con trai duy nhất tên Bình. Trần Ngọc Bình.

Một buổi sáng mùa thu năm 1991 hai vợ chồng đưa cháu Bình 7 tuổi lên đường đi du học Hoa Kỳ. Gia đình vợ chồng trẻ, không có sự nghiệp lấy tiền đâu mà cho đứa con trai duy nhất đi Mỹ du học cấp tiểu học.

Câu chuyện rắc rối với giấc mơ Mỹ quốc bắt đầu. Cô em chồng họ Trần lấy anh chàng họ Lê vừa trúng số di dân được phép nhập cư vào Mỹ. Vợ chồng anh Lê không có con bèn nhận cháu Bình làm con nuôi. Như vậy là thằng Bình con cô Kim Hoàn từ họ Trần chuyển qua họ Lê để được đi du học theo diện tỷ phú Việt Nam.

Kim Hoàn không bao giờ quên được đứa con trai trong buổi tiễn đưa từ phi trường Tân Sơn Nhất. Cô chỉ có 1 con trai duy nhất. Đời sống vợ chồng đã bắt đầu không hợp. Chỉ có đứa con là niềm vui gia đình.

Thằng bé gầy ốm, ngoan ngoãn, hết lòng thương yêu mẹ, nay bỗng chốc trở thành xa cách. Tờ giấy viết tay đồng ý cho làm con nuôi người ta, ký trong nước mắt.

Cô không ngờ rằng sau này, dù còn sống cũng đã có lúc mất con. Sau cùng đứa con chỉ trở lại khi đã nằm sâu dưới lòng đất.

Nhưng ngay lúc chia tay ở phi trường, cùng với bao gia đình giàu có tiễn con đi Mỹ, Kim Hoàn cố vui trong niềm hy vọng tương lai.

Chẳng quản ngại những phiền phức về giấy tờ. Cô tin chắc rằng thằng Bình thương yêu của cô sẽ không bao giờ bỏ cô. Nó sẽ trở về hoặc cô sẽ ra đi. Mẹ con rồi sẽ gặp nhau. Đâu có ai ngờ rằng niềm vui đã nằm trong thiên tai.

Bạn của Lê Bình khai rằng mộng ước của anh hạ sĩ trẻ gia nhập thủy quân lục chiến Hoa Kỳ là để trở thành công dân và sẽ lo đoàn tụ với mẹ tại Mỹ.

Bạn của Lê Bình khai rằng mộng ước của anh hạ sĩ trẻ gia nhập thủy quân lục chiến Hoa Kỳ là để trở thành công dân và sẽ lo đoàn tụ với mẹ tại Mỹ.

Hạnh phúc thật gần

Cậu bé Trần Ngọc Bình của mẹ Kim Hoàn nay trở thành Bình Lê đi Mỹ được vài tuần là cu cậu nhớ mẹ, nhớ nhà.

Ở với các cô dượng, nhưng vẫn nhớ mẹ ngày đêm. Đứa bé 7 tuổi hý hửng lên đường đi Mỹ nhưng chim non vẫn chưa quen rời tổ mẹ. Mẹ con vẫn cố liên lạc qua điện thoại và những lá thư hiếm hoi.

Mẹ viết cho con rất nhiều nhưng chỉ nhận được rất ít. Ai cũng biết rằng thằng Bình 7 tuổi thì chữ nghĩa Việt ngữ được bao nhiêu.

Nhưng hạnh phúc biết bao, năm cháu 12 tuổi thì cô dượng về chơi cho Bình về thăm nhà. Trải qua 5 năm ở Mỹ nhưng Bình vẫn còn là con trai của mẹ Kim Hoàn.

Mẹ chiên khoai cho con trai ăn xem có khác gì khoai chiên của Mỹ. Con kể chuyện Hoa Kỳ và hứa hẹn có ngày khôn lớn sẽ đem mẹ qua Mỹ.

Mẹ con đều không biết rằng bây giờ đâu còn liên hệ thân quyến để sau này hợp lệ đoàn tụ. Con mình đã thành con người ta. Tuy nhiên đứa bé 12 tuổi vẫn giữ mãi quyết tâm.

Sau lần về thăm viếng rồi lại ra đi. Nước mắt mẹ con lại rơi xuống với niềm hy vọng vào tương lai đoàn tụ.

Vẫn là Tân sơn Nhất chia ly 5 năm trước, bây giờ giã biệt lần thứ hai. Chẳng biết đến bao giờ gặp lại.

Hạnh phúc rời xa

Sau khi cháu Lê Bình ra đi thì đời sống vợ chồng cô Kim Hoàn sóng gió. Anh chồng họ Trần là cha ruột của cháu Bình ly thân rồi ly dị với mẹ Kim Hoàn.

Từ đó gia đình cô em chồng bên Mỹ cũng như nhà chồng ở Việt Nam tuyệt giao không còn liên lạc. Không có địa chỉ mới, không có điện thoại. Mẹ Kim Hoàn hoàn toàn không có tin tức gì về đứa con trai thân yêu trong 4 năm dài.

Ở Việt Nam, mẹ đau thương khổ sở vì đứa con còn sống mà như là mất tích. Trong khi đó, suốt thời gian ở trung học Bình Lê tỏ ra rất xuất sắc.

Cháu là thành viên của ban nhạc thiếu nhi trong nhà thờ. Bình tập chơi tất cả các nhạc cụ. Trumpet, Key Board và Drump. Anh còn gia nhập đội Thiếu sinh quân trong trường và trở thành tiểu đoàn trưởng đơn vị Eagle. Con đường này sau này đã dẫn em theo binh nghiệp.

Nhưng thằng Bình của mẹ lớn dần và ngày đêm đòi cô dượng phải cho tin tức của mẹ. Lê Bình biết là mình không phải con mồ côi. Bình biết là mẹ còn chờ đợi ngày đêm ở Việt Nam. Cháu đòi phải liên lạc cho bằng được.

Sau cùng cậu thiếu niên 18 tuổi tốt nghiệp Edison High School ở Fairfax đã trở về Việt Nam thăm mẹ lần thứ hai. Nét mặt vẫn trẻ thơ nhưng Lê Ngọc Bình đã cao lớn, rắn rỏi và đầy nghị lực.

Mẹ con lại từ biệt trên sân bay Tân sơn Nhất. Mẹ Kim Hoàn thấy con trưởng thành đầy tương lai nhưng không hiểu sao chợt thấy nhiều lo ngại. Cô nói rằng tiễn con ra đi lần thứ 3, sau đó bị ốm mấy tháng.

Phần Lê Bình, anh thấy rõ con đường trước mặt. The Few, The Proud, The marine. Không cho mẹ biết, anh gia nhập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và lập tức được gửi qua Trung Đông đánh trận Iraq năm 2003.

Từ Iraq trở về đơn vị bên Okinawa, Bình mới điện về cho mẹ biết con đi lính. Con nói bây giờ bình yên rồi. Đánh trận Irag xong rồi. Mẹ con thời kỳ sau này liên lạc nhiều qua email.

Mẹ viết thư email lên tiếp, con trả lời vừa ngắn vừa thưa thớt. Tình yêu con tràn ngập tuôn trào trên máy điện toán. Quyết tâm sẽ đưa mẹ qua Mỹ, vào quân đội là con đường để sớm đạt mục đích.

Những lá thư

Trải qua nhiều tháng giữa hai kỳ dưỡng quân, mẹ con trao đổi email. Xấp bản sao những lá thư trong hồ sơ Lê Ngọc Bình tặng cho VietMuseum tràn đầy nước mắt.

Thất vọng về chuyện gia đình, mẹ Kim Hoàn trải dài tâm sự qua đứa con trai xa cách. Hôm nay là ngày sinh nhật của con. Con đang làm gì.

Giáng sinh năm nay con ở đâu. Năm con 5 tuổi mẹ dẫn còn đi xem đèn nhà thờ. Con biết không.

Thời kỳ mất liên lạc, mẹ tưởng chừng không sống nổi. Sao con đi lính mà không cho mẹ hay. Cô dượng ký tên cho con nhập ngũ cũng không cho mẹ biết.

Bình thân yêu của mẹ. Hôm nay mẹ ngồi viết email cho con lúc 12 giờ khuya. Thiên hạ đốt pháo đón giao thừa. Mẹ nhớ lúc con còn nhỏ ngồi bên mẹ. Hạnh phúc biết bao.

Bây giờ không biết đến bao gởi mẹ con mới đoàn tụ. Đến khi nào nhắm mắt, mẹ có con bên cạnh là mãn nguyện. Mẹ mới gửi quà cho con. Nhưng nghe có bão tuyết nên thư từ bị chậm.

Rồi mẹ Kim Hoan hết sức vui mừng nhận được thư của con. Mẹ thương của con. Bình viết. Con rất thương mẹ. Con mong mẹ vui và đừng lo cho con nữa. Con đã tự lo lấy từ năm 12 tuổi.

Bây giờ đi lính là con đường con lựa chọn. Trước hết phải đi lính. Sau này quân đội cho con tiền đi học, chính phủ cho con quốc tịch. Con đón mẹ qua. Con lập gia đình. Chắc chắn mẹ con sẽ đoàn tụ.

Đoạn kết một thảm kịch

Tiếng bom nổ ở trại lính bên Trung Đông đã làm tan nát giấc mơ đoàn tụ của cô Kim Hoàn ở Sài Gòn.

Lời trăn trối của hạ sĩ truy thăng Lê Ngọc Bình lập tức được thi hành. Trong một ngày tòa lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn làm giấy tờ và lấy vé máy bay cho cha mẹ anh qua Mỹ.

Hai vợ chồng cũ ngồi bên nhau trong chuyến bay theo diện “du lịch” Mỹ, mỗi người suy tư một ngả.

Kim Hoàn về tạm trú bên nhà em chồng là cô dượng nuôi cháu Bình. Những ngày đầu tiên trên đất Mỹ chắc chắn không phải là những ngày vui.

Phần đất nước xa lạ, phần thương con, lại thêm hoàn cảnh không hoà thuận với gia đình bên chồng cũ.

Thậm chí ngay khi thiên hạ đi đón xác Lê Bình về, Kim Hoàn cũng không được báo cho biết để tham dự.

Chỉ đến khi chôn cất cô mới có mặt tại giây phút đau thương. Sau đó. Người chồng cũ đã có gia đình mới ở Việt Nam, nên trở về. Kim Hoàn xin ở lại.

Vì không còn là mẹ chính thức của tử sĩ anh hùng Lê Ngọc Bình nên hồ sơ không hợp lệ. Thủy quân lục chiến phải tìm một luật sư tình nguyện và thỉnh cầu dân biểu địa phương trình một dự luật đặc biệt để người mẹ xấu số có được thẻ xanh.

Giấc mộng đoàn tụ bây giờ mới thực sự có kết quả.

Đoàn tụ ở Arlington

Kim Hoàn đến Mỹ theo điện du lịch, tất cả mọi thứ đều phải tự lo lấy. Quét nhà, trông em, phụ bếp. Cô đã trải qua tất cả.

Không nghề nghiệp, không Anh ngữ, không kinh nghiệm, cô phải làm bất cứ nghề gì để sinh tồn… Sau cùng cô đi học công việc sơn móng tay làm đẹp phụ nữ thủ đô Hoa Kỳ.

Cô nói, thì ít ra cũng gọi là một nghề. Làm Nail. Đó là công việc hàng ngày. Nghề riêng là đoàn tụ hàng tuần hàng tháng với con trai.

Mùa Xuân chim hót chào đón mùa hè nở hoa. Mùa thu lá rụng dọn đường cho tuyết rơi mùa đông. Nghĩa trang cho cô giấy phép lái xe vào khu 60 đến thăm con.

Nửa năm đầu nghĩa trang mở cửa đến 7 giờ chiều. Nửa năm sau 5 giờ đóng cửa sớm. Arlington mênh mông 250 mẫu với hàng trăm ngàn ngôi mộ từ trăm năm qua, ngày nay trở thành quen thuộc.

Ngày 3 tháng 12 năm nay tưởng nhớ ngày con trai tử trận, Kim Hoàn sẽ lại đến với cháu Lê Ngọc Bình. Người anh hùng mang huy chương anh dũng bội tinh với ngôi sao bạc.

Cô khấn vái. Bình thương yêu. Phải chi năm 7 tuổi mẹ không cho con đi Mỹ. Mẹ không bỏ con. Mẹ chỉ muốn con có tương lai. Mẹ cũng hy vọng một ngày sang Mỹ đoàn tụ với con ở thiên đường.

Cho con đi theo cô dượng, mẹ làm đúng hay sai. Năm con 20 tuổi, phải chi còn đừng đi lính. Con quyết định đi lính, để rồi đoàn tụ với mẹ ở đây. Con làm đúng hay sai.

Mẹ đang sống ở đây. Thiên đường hay địa ngục. Giữa buổi chiều lạnh vắng. Cô Kim Hoàn lấy tay soa trên bia mộ rồi đưa lên môi.

Người mẹ hôn đứa con nằm dưới ba thước đất, trong lòng nghĩa trang Arlington.

Giao Chỉ

Chuyện tình của lão Jim

Chuyện tình của lão Jim

Người viết: Mônica Têrêsa Túy Nga

Lão Jim ơi,

Mình là cái bà được Thiên Chúa cho sinh ra và lớn lên tại vùng ven biển có con sông Cái Lớn của tỉnh Kiên Giang thuộc Miền Nam Việt Nam . Mình hân hạnh được biết lão qua một bài thơ tự do dài trên 100 câu, mang tên “Lời nguyện của lão Jim”, do một người ký tên tắt là DH chuyển dịch ra tiếng Việt, và do cha giáo cũng là cha sở mới về của mình hiện nay cho in ra để gởi tặng cho từng học viên trong lớp học Kinh Thánh vào mỗi tối thứ sáu hằng tuần.

Thú thật với lão nha lão Jim thân mến! Bài thơ đã làm chao động lòng mình dữ quá, và nó cũng đã đánh động mạnh mẽ vào tâm linh của mình, về một cách cầu nguyện có thể bị người đời cho là thấp hèn …. vậy mà lại có sức hút mãnh liệt đối với Chúa Giêsu. Còn với mình, đến đỗi mình không nghĩ lão là một nhân vật hư cấu. Mà chính lão, lão Jim nghèo khổ, tâm tính bình dân hài hòa, đi tới đâu là mang niềm vui đến tới đó cho mọi nơi, là một người hoàn toàn có thật!

Vì vậy, hôm nay mình ngồi viết những dòng suy tư này. Hy vọng dù lão đang ở nơi đâu, lão đang ở trên trời với Thiên Chúa Cha, hay lão đang còn lang thang trên cõi tạm này, lão cũng đều nhận được bài chia sẻ này của mình, và mình xin lão, lão hãy cầu nguyện cho mình và cho những ai chưa từng biết Chúa nữa, nha lão Jim!!

“Con chào Chúa, hôm nay con lại tới

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Được tâm sự, được giãi bày cùng Chúa

Và tội con, xin Chúa hãy thứ tha

Con vụng dại, không biết sao cầu nguyện

Nhưng con luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày

Ôi Giêsu! Bạn của lòng con hỡi!!

Hãy nhìn xem: Jim đang ở nơi đây!”

Lão “luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày”, như đôi tình nhân không bao giờ quên nhau, dù chỉ trong một giây phút vắn vỏi bay qua, là lão đã “gãy đúng chỗ ngứa” của Chúa Giêsu, và làm cho Người luôn nghe khoái tỉ tê trong lòng rồi, lão có biết hay không hả lão Jim??

Rồi theo mình, vì yêu thương lão vô cùng, nên Chúa không muốn lão có cảnh sống giàu sang, vì người sang giàu ít khi biết nghĩ tới Chúa. Chúa muốn lão sống một cuộc đời cô đơn hiu quạnh và phải lê lết đi tìm miếng cơm manh áo trong một công xưởng, ở cách xa Thánh đường. Giờ trưa, mọi công nhân khác ăn trưa xong rồi đi nằm nghỉ, chờ vào giờ của ca làm chiều. Còn lão, hằng ngày lão lợi dụng giờ này, để đi tới Thánh đường tìm gặp Chúa Giêsu, với “Túi đồ ăn đeo lủng lẳng bên lưng” …Đã vậy, râu tóc của lão lại còn quá lôi thôi nữa.  Cái áo khoác ngoài của lão thì “chắc lượm của chó tha!” Nên:

“Ông tu sĩ lòng nghi ngờ quá đỗi

Sợ lão ta muốn trộm cắp chi đây?”

Vì thế, lão phải đính chính  sự hiện diện của mình:

“Ông thấy đó! Tôi chỉ vào đây một lát

Vì xưởng tôi, từ đó cũng xa đây

Tôi chỉ quỳ và chuyện trò cùng Chúa

Lời cầu xin ….chỉ đơn giản thế này:

Con chào Chúa, hôm nay con lại tới

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Được tâm sự, được giãi bày cùng Chúa

Và tội con, xin Chúa hãy thứ tha

Con vụng dại, không biết sao cầu nguyện

Nhưng con luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày

Ôi Giêsu! Bạn của lòng con hỡi!!

Hãy nhìn xem: Jim đang ở nơi đây!”

Và, thế là:

“Vị tu sĩ bỗng thấy mình ‘cả đẩn’!

Nói với Jim:Thôi chuyện chẳng có gì

Và không sao, cứ tới đây cầu nguyện

Cửa Thánh đường luôn chào đón mỗi khi

Hết giờ, Jim đứng lên vội vã

Miệng lão cười và nói tiếng cám ơn”

Còn vị tu sĩ thì:

“Trái tim lạnh bỗng trở nên bừng ấm

Gặp Giêsu, Tình Chúa đắm chìm

Dòng lệ rơi và trái tim thổn thức

Ông học theo lời nguyện của lão Jim:

Con chào Chúa, hôm nay con lại tới

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Được tâm sự, được giãi bày cùng Chúa

Và tội con, xin Chúa hãy thứ tha

Con vụng dại, không biết sao cầu nguyện

Nhưng con luôn nghĩ tới Chúa hằng ngày

Ôi Giêsu! Bạn của lòng con hỡi!!

Hãy nhìn xem: Con đang ở nơi đây!”

Bỗng một ngày …và ít hôm kế tiếp nữa, vị tu sĩ không nhìn thấy bóng dáng của lão Jim ở đâu. Nóng lòng ngài tìm đến công xưởng để hỏi, ngài mới biết lão Jim đã bị bệnh rồi.

“Ở nhà thương, nhân viên đều lo lắng

Còn lão Jim cứ làm họ phải cười

Họ chẳng hiểu tại sao Jim hạnh phúc

Khi không có hoa, không ai tới thăm nuôi?!

Vị tu sĩ nói với người y tá:

Tôi thấy lão vẫn luôn cô độc

Bạn bè nào có để mà cầu!

Thật không ngờ lão Jim cười ha…hả…

-Ông nói sai, cô y tá cũng sai!

Có điều này, tôi chưa cho ai biết

Người ở đây, Người luôn ở nơi đây!

Mỗi buổi trưa Người luôn ghé đến

Người là bạn tôi, là bạn rất thân quen

Nắm tay tôi, bên giường Người ngồi xuống

Và tôi nghe, một giọng nói êm đềm:

Bạn Jim hỡi, hôm nay tôi lại đến

Lòng hân hoan, ôi hạnh phúc thật là!

Kể từ khi ta kết tình bằng hữu

Tội của anh, tôi đã thứ tha

Tôi lắng nghe mỗi lần anh cầu nguyện

Và tôi luôn nghĩ tới bạn hằng ngày

Này anh Jim! Bạn của lòng tôi hỡi!

Hãy nhìn xem: Giêsu đang ở nơi đây!!”

Lão Jim à,

Vì trang viết có hạn, nên mình chỉ trích ra những câu thơ làm nổi bật chuyện tình của lão với Chúa Giêsu mà thôi. Và hai câu thơ cuối bên trên là hai câu kết thúc.

Nhà thơ thật là lắc léo ở chỗ không cho biết sau đó Chúa Giêsu có rước linh hồn lão về Trời cùng Người hay không? Nhưng dù đã có hay chưa có thể có, do Người còn cần lão làm chứng về Người trên nước thế gian này, thì lão cũng đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để Người luôn ấp ủ vào Trái Tim sốt nóng của Người rồi. Lão sướng nha!!!

Và, cuối cùng trong bài viết hôm nay, mình muốn nói với lão rằng: Vâng! Lão là vị Thầy xuất sắc dạy mình cầu nguyện cùng Chúa Giêsu. Một chuyện làm đơn giản, không cần cầu kỳ hoa mỹ chi cả…Mình cám ơn lão vô vàn. Mình yêu Chúa Giêsu và mình cũng yêu lão nữa …Lão  Jim yêu mến ạ!!

M. T. TN

Sự Im Lặng Ngọt Ngào

Sự Im Lặng Ngọt Ngào

Buổi chiều ngày 24 tháng 12 năm 2004, Wendy, cô sinh viên năm thứ hai đại học Dược Khoa đang đứng đợi chuyến xe lửa của thành phố New York để trở về nhà.

Tất cả các anh chị em của cô đều hẹn là sẽ về nhà đúng 7 giờ để đoàn tụ trong buổi cơm chiều thân mật cùng cha mẹ, theo truyền thống của gia đình họ. Bỗng Wendy để ý đến một cặp nam nữ đang đứng cách cô vài bước, họ đang ra dấu bằng tay để truyện trò với nhau.

Wendy hiểu được “tiếng nói” ra dấu bằng tay, vì trong những năm đầu đại học cô đã tình nguyện làm việc trong trường tiểu học dành cho người khuyết tật, nên cô đã học được cách ra dấu tay, để trò truyện với những người câm điếc.

Vốn tính chịu khó học hỏi, Wendy đã khá thông thạo “tiếng nói” này. Nhìn vào cách ra dấu của hai người khuyết tật ở trạm xe, Wendy đã “nghe lóm” được câu chuyện của hai người.  Thì ra, cô gái câm hỏi thăm đường đến một nơi nào đó, nhưng chàng thanh niên câm thì “trả lời” là anh không biết nơi chốn đó. Wendy rất thông thạo đường xá trong khu vực này, nên cô mạnh dạn đứng ra chỉ dẫn cho cô gái.  Dĩ nhiên cả ba đều dùng cách ra dấu bằng tay, để “nói” trong câu chuyện của họ.

Khi xe lửa đến trạm, thì Wendy và hai người bạn mới quen đã kịp thời trao đổi địa chỉ e-mail cho nhau.  Những ngày sau đó, ba người tiếp tục trò truyện dùng tin nhắn của điện thoại cầm tay, rồi dần dà họ trở thành bạn thần giao cách cảm với nhau.
Chàng trai tên là Jack và cô gái tên là Debbie.  Jack cho biết anh đang làm việc cho một hãng xuất nhập cảng, và ở cách nhà Wendy không xa.

Từ những tin nhắn điện thoại, e-mail thăm hỏi xã giao lúc đầu, cả hai dần dần tiến đến chỗ trở thành bạn thân lúc nào không hay.  Đôi khi Jack đến trường đón và mời cô đi ăn. Cả hai thích khung cảnh êm đềm trong công viên, nên thường yên lặng đi bên nhau trong những giờ phút nghỉ ngơi.

Tuy phải ra dấu để trò truyện nhưng Wendy không cảm thấy bất tiện, mà cô lại có dịp trau dồi “tiếng nói bằng tay”, để nghệ thuật ra dấu của cô càng lúc càng tinh xảo hơn. Đến mùa thu năm đó thì hai người đã thân thiết như một cặp tình nhân. Wendy đã quên hẳn Jack là một người khuyết tật, cho nên lần đầu tiên khi Jack ra dấu “I Love You”, thì Wendy đã nhẹ nhàng ngả đầu vào vai anh.

Sau những giờ học, thỉnh thoảng Wendy cũng vào “phòng trò truyện” (chatroom) đấu láo với bạn bè. Mỗi khi Wendy đặt câu hỏi, “Bạn có thể có tình yêu với một người câm điếc hay không?”, thì hình như không có bạn bè nào của cô có được câu trả lời dứt khoát.  Điều này đã khiến cho Wendy bị dày vò không ít.

Vào dịp lễ Tạ Ơn năm đó, Jack tặng cho Wendy một bó hoa hồng kèm theo câu ra dấu, “Wendy có chịu làm bạn gái của mình không?” Wendy vừa vui mừng vừa kinh ngạc, nhưng tiếp theo đó là những sự mâu thuẫn khổ sở trong tâm. Wendy biết rõ là cô sẽ gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của những người thân.

Quả nhiên, cha mẹ cô khi biết rõ sự việc đã dùng đủ mọi phương thức để mong lôi kéo đứa con gái “lầm đường lạc lối” trở về.  Thôi thì hết chú bác, cô dì, lại đến các anh chị em, bạn học, được cha mẹ cô vận động tới để thuyết phục cô.

Đứng trước áp lực này, Wendy chỉ có thể phân trần với gia đình về nhân cách cao cả của Jack. Cô cho mọi người biết là thái độ lạc quan cùng đầu óc thực tế và tích cực của anh đã khiến cô cảm thấy gần gũi anh hơn là với những bạn trai mà cô đã từng quen biết trước đây.

Gia đình sau khi nghe cô giải bày đã không còn quá khắt khe phê bình nữa.  Mọi người dự định là sẽ gặp mặt Jack trước rồi mới có thể đánh giá cuộc tình của hai người.

Cả nhà đồng ý là sẽ gặp mặt Jack vào trưa ngày 25 tháng 12, sau khi mọi người đã hưởng được một đêm Giáng sinh bình yên cho tâm tư lắng đọng.   Wendy đã có quyết định trong đầu là nếu như cha mẹ và anh chị của cô có những cử chỉ cùng hành động khinh miệt Jack, thì cô và Jack sẽ đi đến nhà thờ để xin ơn và sự chúc lành của Thiên Chúa.

Trên đường dẫn Jack đến nhà, tâm trạng hồi hộp của Wendy đã không thoát khỏi cặp mắt quan sát của Jack.  Chàng mỉm cười ra dấu cho nàng:

– Wendy yên tâm, bảo đảm với em là cha mẹ em sẽ hài lòng. Anh cho họ biết là anh sẽ thương yêu em, chăm sóc em suốt đời.

Đó là lần đầu tiên trong đời, cô sinh viên Trường Dược rơi những giọt lệ cảm động.  Vừa vào đến nhà, Wendy nắm tay Jack đi đến trước mặt cha mẹ.  Nàng nói:

– Thưa ba mẹ, đây là Jack, bạn trai mà con thường nhắc đến.

Câu nói của nàng vừa thốt ra, thì tất cả những hộp kẹo bánh, hoa tươi trên tay Jack tức thời lộp độp rơi xuống đất.  Chàng nhào tới ôm nàng trong vòng tay khỏe mạnh của chàng.

Một điều mà Wendy không thể ngờ được, là nàng bỗng nghe một giọng nói thảng thốt phát ra từ miệng của Jack:

-Trời đất, em biết nói à?

Đó cũng chính là câu mà Wendy muốn hỏi Jack.

Mọi người ngoài cuộc đều ngẩn ngơ ngạc nhiên, trong khi hai người trong cuộc thì ôm nhau cười, nói, la, hét, nhảy nhót như điên dại. Thì ra Jack cứ ngỡ Wendy là một cô gái câm, thế mà anh vẫn sinh lòng quyến luyến, mà còn muốn tiếp tục đi đến hôn nhân. Wendy cũng tự hào có quyết định sáng suốt, vì đã chọn được người tình trong mộng tuyệt vời nhất thế gian

“…Thượng Đế của chúng ta đang ngự ở trên cao, hình như cũng đang che miệng cười cho trò đùa mà ngài đã đạo diễn suốt một năm qua…Dành cho những ai yêu, nhưng chưa dám thổ lộ cùng người mình yêu.”

Anh chị Thụ Mai gởi

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Linh hồn nhẹ nhàng khi ‘thoát xác’

Cuối tháng 4 / 1987, người ta chở bà Mary Houghton, 68 tuổi vào bệnh viện Boston vì chứng đau tim. Bệnh nhân ngưng thở lúc 6 giờ tối, mọi cứu chữa đều vô hiệu và bác sĩ tuyên bố bệnh nhân đã chết. Xác bà được tạm đặt trong một căn phòng riêng chờ thân nhân đến làm giấy tờ tẩm liệm. Khoảng 11 giờ đêm, bà Houghton tỉnh lại bấm chuông gọi y tá. Bác sĩ trực đến khám và xác nhận bà lão đã hồi sinh.

Trường hợp bệnh nhân tắt thở vài giờ sau lại sống dậy không có gì lạ lùng với y giới nhưng bà Houghton đã nhớ lại những diễn tiến sau khi chết và kể lại như sau:

“Tôi đang ngồi ở nhà đọc báo thì thấy choáng váng, xây xẩm mặt mày và tự nhiên hôn mê. Khi tỉnh dậy tôi cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, chung quanh tôi là một lớp sương khói dày đặc khiến tôi bỡ ngỡ không biết mình đang ở đâu. Tôi lên tiếng gọi nhưng vô hiệu. Tôi mò mẫm đi trong lớp sương mù đó được một lúc thì nhận thức rằng có lẽ mình đã chết. Tôi biết mình mắc chứng đau tim đã lâu, bác sĩ nói rằng tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa nên tôi không lấy thế làm buồn.

Ðiều bất ngờ là khi vừa chấp nhận điều này thì tôi thấy mình đang đứng ngay bên cạnh giường quan sát thân thể của tôi nằm bất động trên đó. Sau một lúc xúc động tôi cố gắng trấn tĩnh và tự chủ rằng mình sống như thế cũng là đủ rồi. Trong khi xúc động thì luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên đen tối, khó chịu, tôi có cảm giác như bị lôi kéo vào một vũng bùn nhầy nhụa, hôi hám. Tôi bèn lên tiếng cầu nguyện thì thấy trong mình dễ chịu lạ thường, lớp ánh sáng bao quanh dần dần trở nên quang đãng hơn.


Một lúc sau tôi thấy thân thể nhẹ hẫng như có thể bay bỗng lên được. Tôi bèn để cho nó tự nhiên và thấy mình lơ lửng trên không nhìn xuống phía dưới. Lúc ở trên cao nhìn xuống, tôi thấy có một chùm chìa khoá màu đỏ của ai để trên nóc tủ thuốc. Tôi thầm nghĩ ai lại để chìa khoá ở đó làm chi ? Ðang suy nghĩ vẫn vơ thì tôi thấy mình đã đi xuyên qua trần nhà để lên lầu trên và thấy hai người y tá đang xem một trận đấu bóng rỗ trên ti-vi, trận đấu vừa kết thúc khi đội Los Angeles Lakers thắng Boston Celtics, và một người y tá đánh cuộc thua phải trả cho bạn đồng nghiệp 20 mỹ kim. Tôi thong thả đi dọc theo hành lang bệnh viện và gặp rất nhiều người như tôi cũng đang lướt đi, không ai nói với ai lời nào.

Ða số có vẻ vội vã, có người hoảng hốt là đàng khác. Tôi thấy một thanh niên đang đứng cạnh xác mình một cách đau khổ, tôi lên tiếng an ủi nhưng có lẽ anh không nghe được lời khuyên bảo của tôi. Vì một lý do gì không rõ, tôi hiểu ngay sự bận tâm của anh ta vì đã không hoàn tất được một số việc. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh ta cố sức chui lại vào cái xác đã lạnh cứng nhưng vô hiệu. Anh đâm ra hoảng hốt khiến tôi cũng mất bình tĩnh theo nên tôi đành bỏ anh ta ở đó mà đi chỗ khác. Tôi nghĩ đến các con của tôi và lập tức thấy mình đang đứng trước mặt đứa con gái lớn. Con gái tôi đang khóc. Tôi muốn ôm lấy nó nhưng tiếng khóc của nó làm tôi thấy khó chịu.

Mỗi khi trong người khó chịu thì lớp ánh sáng bao quanh tôi lại chuyển sang một màu đen tối, nhầy nhụa khiến tôi sợ hãi. Tôi cố gắng trấn tĩnh tâm hồn và nghĩ đến hai đứa con trai thì thấy mình đang đứng ngay bên cạnh chúng. Hai đứa đang bàn việc chôn cất cho tôi. Thằng Michael phàn này về việc tôi đã không chịu mua bảo hiểm nhân thọ.. Cả hai chỉ nghĩ đến số tiền mà chúng sẽ phải chi ra hơn là nhớ thương đến mẹ của chúng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể đọc rõ tư tưởng của các con tôi như vậy. Càng đứng đó tôi càng bực bội vì hai đứa cứ cãi nhau mãi về việc chôn cất và việc phân chia gia tài nên tôi lại bỏ đi.

Tôi không biết sẽ đi đâu. Tôi chẳng có thân nhân hay bạn bè nào cả. Ðến lúc đó tôi mới bắt đầu nghĩ lại cuộc đời của mình. Hình như tôi đã sống một cách ích kỹ, không giao thiệp với ai và cũng không có ai là bạn thân thiết. Cả một quá khứ bỗng hiện ra trước mắt tôi như người đang xem phim chiếu bóng. Tôi thấy rất rõ những quyết định của mình, những lỗi lầm mà tôi đã tạo ra. Những việc mà tôi nghĩ là tầm thường, không đáng kể đều hiện ra rõ rệt và phản ảnh tâm trạng của tôi khi đó; vì sao tôi đã hành động như vậy; tại sao tôi lại làm việc đó… Hơn bao giờ hết tôi thấy mọi sự việc một cách khách quan vô tư chứ không chủ quan như trước. Tôi không hiểu tại sao mình lại có thể bình tĩnh nhận xét như thế được.

Tôi bắt đầu cầu nguyện và tự nhiên thấy lớp ánh sáng bao quanh bỗng sáng chói một cách lạ lùng. Tôi thầm nghĩ phải chăng tôi có thể hành động khác khi xưa khi biết rõ những nguyên nhân, hậu quả việc làm của mình. Tất cả có thể quy về một điều duy nhất: Tôi là một người quá tự hào về mình, quá hãnh diện về những giá trị viển vông, tạm bợ mà không hề biết rằng những điều đó hoàn toàn vô giá trị khi người ta từ bỏ cõi sống này. Chính vì tự hào mà tôi đã khoác lên mình những mặc cảm tự tôn, coi thường người khác, bất chấp dư luận và nghĩ rằng tôi luôn luôn có lý trong mọi công việc. Hậu quả là tôi có một đời sống khô khan, không bạn bè thân thiết, ai ai cũng muốn xa lánh tôi, ngay cả những đứa con của tôi nữa. Phải chăng tôi có thể chuộc lại những điều đã làm? Chưa bao giờ tôi lại có ý nghĩ lạ lùng như vậy. Lần đầu tiên tôi hối hận một cách chân thành và tự nhiên tôi lên tiếng cầu nguyện.


Tự nhiên tai tôi bỗng ù đi, luồng ánh sáng bao quanh tôi trở nên sáng chói một cách lạ lùng, tôi thấy bình tĩnh như có một sự an ủi lớn lao nào đó vừa đến với tôi, và tôi cương quyết rằng tôi sẽ chuộc lại những lỗi lầm khi xưa. Tôi chắp tay cầu nguyện Thượng Ðế hãy cho tôi một cơ hội nữa và luồng ánh sáng chung quanh tôi tự nhiên sáng chói một cách mãnh liệt khiến tôi phải nhắm mắt lại và bất chợt tôi nghe được các âm thanh quen thuộc. Tôi thấy mình đang nằm trên giường bệnh viện… Tôi đã tỉnh lại”.

Lời khai của bà Houghton đã được bác sĩ Elizabeth Kubler Ross kiểm chứng rất kỹ. Hai nhân viên trực trong bệnh viện xác nhận họ có đánh cuộc với nhau về trận bóng rỗ, kết quả trận banh xảy ra đúng như lời bà Houghton đã thuật lại. Hai đứa con trai của bà Houghton cũng xác nhận họ đã cãi nhau về việc bảo hiểm và tiền chôn cất. Ðiều bất ngờ là một bác sĩ trực đánh mất chùm chìa khoá xe hơi màu đỏ từ mấy tuần trước, nhờ lời khai của bà Houghton mà ông nhớ rằng trong lúc vội vã, ông đã ném đại nó lên nóc tủ thuốc. Chiếc tủ này rất cao, gần chạm đến trần nhà, một người đúng dưới đất không thể nhìn thấy nó được nên mặc dù tìm kiếm mãi mà vẫn không ai thấy… trừ khi họ đứng trên trần nhà nhìn xuống.

Cám ơn chị Nguyễn Xuân Lang gởi

Một Ngày Không Thể Quên truyện Phương Lan PPS Vi Sơn

Một Ngày Không Thể Quên truyện Phương Lan PPS Vi Sơn

httpv://www.youtube.com/watch?v=HrJOa4Pk3j4

Một Ngày Không Thể Quên

Hôm nay là ngày quyết định sẽ đưa mẹ vào Viện dưỡng lão.
Cả đêm qua thao thức không ngủ được, Phượng trằn trọc xuốt đêm, nghĩ ngợi lan man hết chuyện này sang chuyện khác, lòng rối như tơ vò. Gần sáng nàng mới mệt mỏi thiếp đi, nhưng vừa chợp mắt được một lát, Phượng bỗng choàng tỉnh dậy vì một mùi khét từ nhà bếp xông lên làm nàng tỉnh hẳn ngủ. “ Thôi chết rồi, mẹ lại quên tắt bếp ” Phượng nói thầm như vậy, rồi không kịp xỏ dép, nàng hốt hoảng chạy thật nhanh xuống nhà dưới. Căn bếp mù những khói, hơi khét từ cái nồi đang nấu trên bếp bay tỏa khắp căn phòng, lửa xanh vẫn liếm quanh đáy nồi. Phượng vội vàng tắt bếp gas, bê cái nồi đặt qua một bên, rồi mở tất cả các cửa cho khói bay ra, may quá, nàng xuống kịp, nếu không cả nhà lại bị một phen hoảng vía.
Từ khi mẹ bị bệnh lú lẫn, Phượng phải khoá ống gas mỗi khi đi làm, nhưng hôm nay nàng ở nhà nên không khóa, vì có dè đâu bà cụ lò mò xuống bếp sớm thế. Phượng đứng im, định thần một lúc cho tim bớt đập, rồi mới chậm rãi bước ra cửa sau.
Nàng gặp mẹ từ ngoài vườn đi vào, tay cầm một nắm lá gì dài dài, xanh xanh. Thấy con gái, bà Trình mỉm cười vui vẻ:
Sáng bảnh mắt rồi, giờ này mới ngủ dậy à? May cho cô, tôi là má ruột, nếu là má chồng, thể nào cô cũng bị rầy.
Phượng nhìn lên bầu trời trắng đục, vừng đông chưa ló dạng, bóng đêm còn lảng vảng, cô khoan khoái hít một hơi thật sâu làn không khí mát mẻ của buổi ban mai, rồi quay sang mẹ, hỏi:
Má ra vườn chi sớm thế?
Má ra hái ít hành ngò để bỏ vô nồi cháo…
Vừa nói bà vừa đưa nắm lá lên khoe, Phượng suýt bật cười, nhận ra đó chỉ là một nhúm cỏ, nàng thở ra một hơi dài:
Má lại quên tắt bếp, mà má định nấu món gì vậy?
Má nấu cháo gà. Lâu lâu cũng nên đổi món, sáng nào cũng ăn bánh mì hoài, khô khan quá.
Phượng nhìn vô trong nồi, chỉ thấy lổn nhổn một ít gạo sống, và hai con gà bằng nhựa, đồ chơi của mấy đứa nhỏ, mẹ nàng đã bỏ tất cả vô một cái nồi với một chút nước, và bật bếp… Bây giờ tất cả đều cháy thành than, nhưng còn nhận diện ra được, Phượng nhăn mặt:
Sao má để lửa lớn thế?
Má muốn nấu cho lẹ để ba ăn xong còn kịp đi làm. Thôi, con lên lầu đánh thức ổng đi, má ở dưới đây pha cho ba ly cà phê.
Thấy Phượng vẫn đứng im, bà dục:
Sao không đi đi, còn đứng đó? trễ giờ rồi.
Phượng đau xót nhìn mẹ:
Má, nhớ lại đi! ba đi xa rồi mà, ba đâu có nhà?
Thiệt à? ba đi xa thiệt à?
Bà nhớ hôm đó không biết là ngày gì mà nhà bà đông người lắm, khách khứa ra vô tấp nập, đủ mặt bà con họ hàng và cả những người bạn bè. Gia đình hai đứa con trai lớn của bà từ hai tiểu bang khác cũng về họp mặt đông đủ. Lũ cháu nội, con của Sơn, Hải hiệp cùng hai đứa cháu ngoại con của vợ chồng Phượng thành một đám giặc, rượt đuổi nhau lung tung khắp nhà, làm bà chóng cả mặt. Nhưng bố mẹ chúng trái lại, rất khẽ khàng, họ chỉ thì thầm bàn tán, người nào cũng có vẻ mặt quan trọng, người nào cũng mặc quần áo trắng lùng thùng, trông chẳng ra làm sao. Phượng cũng đưa cho bà một bộ quần áo trắng bằng vải sô, và biểu bà mặc vô. Bà hỏi chi vậy? nó nói mặc áo vô để đi tiễn ba. A! bà hiểu rồi, đây là lúc tiễn ông lên đường, vì ông sắp phải đi xa…
Bà nhớ mấy hôm trước, bệnh ông có mòi thuyên giảm, không thấy ông rên rỉ, những cơn đau hình như cũng rút lui, không còn hành hạ ông như mọi ngày. Bà ngồi bên giường, canh cho ông ngủ. Ông nằm im lìm, mắt nhắm nghiền, một cái mền mỏng đắp lên tới ngực, che thân hình ốm nhom chỉ còn da bọc xương thấy tội quá, căn bệnh ung thư quái ác đã lấy đi của ông hết da thịt. Ông ngủ không yên, lúc tỉnh, lúc mơ, thỉnh thoảng lại ú ớ… Nhưng đến trưa, thì ông hoàn toàn tỉnh táo, ông cầm tay bà dặn dò:
Tôi sắp phải đi xa, bà đừng khóc nhé? Hãy can đảm lên…
Ông còn nói nhiều nữa, nhưng bà nghe tiếng được, tiếng mất, vì ông nói không rõ, ông chỉ thều thào… Bà tưởng ông nói sảng, chứ đang đau mà đi đâu? vợ chồng chưa bao giờ xa nhau, lần nào đi xa, ông cũng cùng đi với bà, chẳng lẽ cuộc hành trình lần này, ông lại đơn độc một mình? Bà khuyên ông nằm nghỉ, không nên nói nhiều, ông nhìn bà lờ đờ, rồi ông thở ra một hơi dài, nhắm mắt lại. Sau bà, đến lượt các con xúm quanh giường nghe ông dặn dò, đứa nào mắt cũng đỏ hoe. Rồi ông thôi không nói nữa, ông nằm im, từ từ chìm sâu vào giấc ngủ, giấc ngủ cuối cùng của đời người, mắt ông khép kín, nét mặt thanh thản không chút ưu phiền. Các con lặng lẽ rút kui, để mẹ riêng tư với cha. Bà nghĩ chắc ông mệt nên ngủ say lắm, không thấy ông trở mình. Bà sờ thử, thấy tay chân ông lạnh ngắt, bà vội vàng lấy thêm mền đắp cho ông, trời mùa đông rét mướt, những người già thật khổ, nhất là ông lại đang bệnh…
Bà chờ ông tỉnh dậy, để nghe ông xác nhận rằng ông chỉ nói chơi thôi, nhưng ông cứ ngủ hoài. Bà rón rén, không dám cử động mạnh, sợ phá giấc ngủ của chồng, chả mấy khi ông ngủ được yên giấc. Bà muốn ngồi đây hoài, không muốn rời ông, để khi ông tỉnh, trông thấy bà, ông yên tâm. Tội nghiệp, từ dạo đau nặng, ông đổi tánh giống như con nít, hay hốt hoảng, sợ hãi, hơi một tí là giận hờn… Bà ngồi bên ông không biết bao lâu, cho tới khi một đứa con kéo bà đứng lên, nói:
Má ơi! gần tối rồi, má phải đi ăn, từ sáng tới giờ má chưa ăn gì cả.
Bà đâu có thiết ăn? bữa cơm không có ông mới buồn làm sao, bà nói:
Tụi bay và mấy đứa nhỏ cứ ăn trước đi, đừng để phần cho má. Má không thấy đói, má muốn ngồi đây với ba thêm một lúc nữa.
Nhưng chúng nó cương quyết kéo bà ra khỏi phòng, nói ba mệt để cho ba nghỉ. Thằng Sơn còn kéo cái mền phủ kín cả mặt ba nó, cái thằng thiệt vô ý, vô tứ quá, trùm kín thế làm sao ông thở được?
Trời ơi! có bỏ ra không? ba bây ngộp mất thôi.
Bà la lên phản đối, bắt Sơn phải kéo cái mền xuống như cũ, bà mới chịu ra khỏi phòng. Từ lúc đó, tụi nó thay phiên nhau canh gác, không cho bà vô với ông nữa, nói đã có tụi con…
Bà vẫn không tin rằng ông sẽ đi xa, vậy mà ông đi thiệt mới lạ chứ? sự thật mà cứ ngỡ như trong một giấc mơ. Cuộc tiễn đưa khá long trọng, có cả kèn trống. Bà và các con mặc áo trắng tiễn ông đi. Trời mưa sụt sùi, các con đi cạnh bà cũng sụt sùi, bà không bằng lòng, gắt:
Ba không bao giờ bỏ má đâu, ổng đi rồi ổng lại về, tụi bây khóc lóc chi vậy? để ba bây nóng ruột.
Bà kiên nhẫn đợi ông về, chỗ ngồi của ông trên bàn ăn, bữa nào bà cũng bầy chén, đũa, để ông nhớ rằng ông vẫn còn chỗ trong gia đình này. Nhưng sao ông đi đâu mà lâu quá? Bà ngậm ngùi nói với con gái:
Dạo ba con ở nhà, sáng nào ba cũng chở thằng Thái đi học, còn má ở nhà coi con Uyên…
Rồi sực nhớ ra điều gì, bà hối:
Con lên coi tụi nhỏ dậy chưa? bồng con Uyên xuống đây cho má thay tã.
Phượng nhìn mẹ thương xót, Uyên đã chín tuổi rồi, mà sáng nào bà cũng đòi bồng đi thay tã, trí nhớ của bà dừng lại ở ngày ông vĩnh viễn ra đi. Phượng ôm vai mẹ đi vô trong nhà, nàng bật TV lên rồi nói:
Chắc cháu Uyên còn ngủ. Má ngồi đây coi chương trình truyền hình Việt Nam, đừng xuống bếp nữa nghe má? để con lên lầu coi tụi nhỏ ra sao.
Bà Trình gật đầu, vơ lấy cuộn len và cái áo đan dở lên ngắm nghía:
Được, con đi đi! má vừa coi TV vừa đan nốt cái áo cho ba. Mùa đông sắp tới rồi, ba cần có áo ấm, mấy cái kia cũ cả rồi.
Tánh bà tham công tiếc việc, chẳng muốn ở không, bà coi việc chăm lo miếng ngon, áo ấm cho chồng, cho con, cháu là bổn phận và cũng là một thú vui của bà. Ông mất đã tám năm, mà ngày nào bà cũng đan áo cho ông, đan gần xong, rồi lại tháo ra đan lại, như vậy cả mấy chục lần.
Phượng lên lầu, vào buồng mẹ, kiểm soát lại một lần chót cái va li lát nữa sẽ đem theo. Va li đựng toàn quần áo và những vật dụng cá nhân của bà Trình. Khi biết chắc không còn quên món gì, Phượng đóng nắp lại, ngồi thừ người rất lâu. Lúc soạn cái va li này, nàng đã không cầm được nước mắt, mỗi món đồ của mẹ đều gợi lại những kỷ niệm. Nhìn chiếc ghế đu mẹ thường ngồi, Phượng tưởng như được nghe tiếng ru của mẹ. Trên cái ghế ấy, bà đã ru cháu, lúc còn bé thơ, Thái và Uyên không chịu ngủ nếu không có tiếng ru của bà. Ngày xưa, cũng những tiếng ru “ ầu ơ, ví dầu ” đó đã đưa Phượng vào giấc ngủ êm đềm, bây giờ thì đến các cháu… Những buổi sáng tinh mơ, khi các con cháu còn nằm trong chăn ấm, bà đã thức dậy, lui cui nấu nướng, lo bữa sáng ngon lành cho cả nhà. Những buổi tối mùa đông rét mướt, bà thức rất khuya, ngồi bên lò sưởi đan áo ấm. Những khi trái nắng, trở trời, bà không quản ngại thức suốt đêm, trông chừng, dỗ cho cháu ngủ yên giấc… Bà đã nuôi con, nuôi cháu lớn lên bằng tất cả tình thương của bà. Tình mẹ bao la như một dòng sông, nước chảy miên man, vô tận. Qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc sống, mẹ lúc nào cũng sát cánh bên đàn con, tận tụy hy sinh, bảo vệ, che chở, giúp đỡ… Gia đình lúc nào cũng đầm ấm, yên vui, mọi người quây quần đông đủ dưới một mái nhà. Thế mà lúc cuối đời, mẹ lại phải đơn độc một mình. Ôi chặng đường cuối cùng bao giờ cũng là một chặng đường buồn thảm.
Phượng hiểu nỗi cô đơn của mẹ trong những ngày sắp tới, nàng thấy lòng xót xa, nhưng chẳng còn cách nào khác. Ý định đưa mẹ vô viện dưỡng lão thật ra đã manh nha có từ lâu, kể từ khi bà Trình có triệu chứng lú lẫn và có những hành động có thể gây nguy hiểm. Nhưng Phượng còn nấn ná chưa chịu thi hành, tại thương mẹ nên không nỡ. Cho tới mấy tháng gần đây, tình trạng trở nên tồi tệ, khi bà Trình hay mặc quần áo ngủ đi lang thang ra phố một mình và không biết đường về, hàng xóm phải đi tìm dùm. Một lần, bà suýt bị đụng xe lúc băng qua đường, may người tài xế thắng xe lại kịp, bà chỉ bị trầy trụa sơ sài. Bà mỉm cười ngu ngơ lúc được cảnh sát đưa về, mọi người hỏi bà đi đâu? bà nói bà đi đón ông. Tội nghiệp, ngày nào bà cũng đi đón ông, nhiều lần bà thức dậy từ hai, ba giờ sáng, vô phòng đánh thức mấy đứa cháu, biểu sửa soạn đi đón ông ngoại. Từ đó, sợ các con mất ngủ, mỗi buổi tối, sau khi đưa mẹ vô phòng riêng, Phượng phải khoá cửa lại. Có đêm nàng nghe tiếng đập cửa thình thình, mẹ đòi mở cửa cho bà đi chợ…
Bà Trình thích nấu nướng lắm, phải công nhận ngày trước, bà nấu ăn rất ngon, nhưng từ dạo bị mất trí nhớ, bà chẳng bao giờ tắt bếp. Mấy lần, bà suýt làm cháy nhà vì cái tật hay quên đó, vì vậy, trước khi đi làm, Phượng đã phải tắt ống gas và khoá cửa, sợ mẹ ra ngoài rồi gặp nạn. Như vẫn chưa yên tâm, nàng khoá cả ống dẫn nước vì mẹ hay mở vòi nước mà không tắt, làm nước chảy lênh láng khắp nhà, ướt cả thảm, may sao bà chưa trợt chân té ngã. Phượng đi làm mà trong bụng cứ phập phồng, không yên…
Tình trạng này không thể kéo dài, không thể để bà cụ ở nhà một mình được nũa. Một cuộc họp gia đình đã diễn ra giữa Phượng và hai người em trai ở tiểu bang khác. Vì sinh kế, không ai có thể bỏ việc để ở nhà săn sóc mẹ, nên tất cả đều đi đến quyết định là phải cho mẹ vào nhà dưỡng lão, nơi đó bà cụ sẽ được chăm sóc tử tế. Phượng đã đi thăm dò nhiều nơi, sau cùng nàng chọn cho mẹ một nhà dưỡng lão có người Việt Nam để mẹ đỡ cô đơn. Cuộc hẹn đưa mẹ vô viện sẽ là 11 giờ sáng nay.
Phượng vô phòng đánh thức hai đứa con để chúng ăn sáng và sửa soạn đi học, xong nàng bước vô phòng ngủ của hai vợ chồng. Dũng đã thức và đang cạo râu, chàng nhìn vợ qua gương và hỏi:
Nãy giờ em ở dưới nhà à?
Phượng gật đầu, kể cho chồng nghe về nồi cháo, và nói má đòi thay tã cho con Uyên, khiến Dũng bật lên cười. Thường ngày Phượng không bao giờ cảm thấy khó chịu vì những tiếng cười vô tư của chồng khi chứng kiến những hành động ngây ngô, nhiều khi rất con nít của mẹ, nàng biết chồng không có ý châm biếm, chàng cười chỉ vì buồn cười mà thôi. Dũng mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, chàng thiếu tình mẫu tử nên rất quí mẹ vợ. Phượng cho là mình may mắn và vẫn thầm cám ơn chồng, nhưng không hiểu sao hôm nay Phượng lại thấy bực mình vì tiếng cười vô tư của chồng mà nàng thấy là không đúng lúc, Phượng có cảm tưởng như chàng là người ngoại cuộc, nàng cau mày trách:
Anh có im đi không? em đang rối ruột đây!
Dũng ngạc nhiên ngó vợ, nhưng rồi chợt nhớ ra hôm nay là ngày gì, chàng lập tức ngưng ngay tiếng cười vô ý thức của mình. Im lặng một lúc, chàng mới nói, giọng băn khoăn:
Hôm nay anh không thể nghỉ làm để đưa má đi được.
Không sao, tự em sẽ đưa má đi, như vậy tốt hơn. Anh đưa hai đứa nhỏ tới trường và đón về dùm em, vì không biết em sẽ phải ở lại với má bao lâu…
Được, được, em cứ thong thả lo cho má. Xong việc, nhớ điện thoại vào sở ngay cho anh, cho biết tình hình ra sao.
Phượng đứng trên đầu cầu thang, nhìn hai đứa nhỏ ôm hôn bà ngoại trước khi đi học, có cảm tưởng như đó là những cái hôn vĩnh biệt, lòng nàng đau như dao cắt.
Đợi cho chồng và hai con đã ra khỏi nhà, Phượng mới xuống bếp sửa soạn bữa ăn sáng cho mẹ. Ý nghĩ đây là bữa ăn cuối cùng của mẹ ở nhà, khiến Phượng thấy tim se lại, nàng nhớ tới một đoạn phim được xem đã lâu, nói về bữa ăn cuối cùng của người tử tội, nàng bỗng thấy lòng rưng rưng. Phượng tự nhủ thôi đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa, cứ để việc gì phải tới, sẽ tới. Vừa làm nàng vừa hát nho nhỏ, cố tìm hiểu ý nghĩa của lời ca, nhưng không thể. Dọn bàn xong, nàng mời mẹ ra ăn. Bà Trình nhìn mặt bàn ê hề những thức ăn, hỏi con:
Sao con làm nhiều đồ ăn thế?
Phượng nhìn đi chỗ khác, nói:
Má ăn đi, thay cho bữa trưa luôn thể.
Con cũng cùng ăn với má chứ?
Phượng gật đầu, nàng ngồi vào bàn, nhưng không tài nào nuốt được. Nhìn mẹ ăn ngon lành, nàng có mặc cảm phạm tội vì đang đánh lừa mẹ. Đợi bà ăn xong bữa, Phượng ngập ngừng mãi mới mở miệng nói dối:
Má có muốn đi phố một lúc không? vô phòng thay đồ đi, con chở má đi chơi.
Đi chơi thiệt sao? thích quá.
Mắt bà mẹ sáng lên với vẻ vui mừng, được đi ra ngoài, bà sung suớng lắm. Thường ngày cứ bị nhốt ở nhà, bà thấy bực bội, năm thì mười hoạ mới được con chở đi chơi, những dịp ấy đối với bà vui như một ngày hội. Thấy Phượng xách theo va li, bà hỏi:
Đi du lịch à?
Vừa nói bà vừa nhìn quanh khắp căn nhà như để kiểm soát một lần cuối cùng, theo thói quen trước khi đi xa. Không hiểu sao Phượng có cảm tưởng những tia nhìn của mẹ có vẻ lưu luyến rất tội nghiệp, chắc bà có linh cảm sẽ không được trở về đây nữa? Không muốn kéo dài giây phút đau lòng, nàng vội vã đưa mẹ ra xe. Phượng ngồi vào tay lái, tâm trạng bất an nên Phượng lái xe mà đầu óc để tận đâu đâu, mấy lần bị xe khác bấm còi inh ỏi. Bà mẹ bất chợt lên tiếng:
Dũng lái xe giỏi hơn con, sao không để cho nó lái?
Rồi như chợt nhớ ra điều gì, bà hỏi giọng lo lắng:
Đi du lịch mà sao không có Dũng và hai đứa nhỏ?
Phượng ậm ừ, tránh không trả lời, nàng cho xe ra khỏi xa lộ và tìm hướng vào thành phố. Viện dưỡng lão kia rồi, từ xa đã thấy một toà nhà đồ sộ sơn màu vàng nhạt, trông như một cái bệnh viện. Khi quẹo xe vô cổng, Phượng nhìn đồng hồ, 11 giờ 15, trễ mất mười lăm phút. Nàng hoảng lên, trời! làm thế nào nếu họ không tiếp và cho một cái hẹn khác? chắc nàng không có can đảm…
Đậu xe xong, Phượng kéo mẹ đi như chạy tới phòng hướng dẫn, nơi đó người ta chỉ cho nàng phải đi lối nào. Viện dưỡng lão có ba dãy nhà bao quanh một khu vườn rộng có trồng hoa, và nhiều cây lớn cho bóng mát. Nơi đây có nhiều cụ già chống gậy đi thơ thẩn một mình, hoặc túm năm tụm ba ngồi trò chuyện trên những băng đá, đó là các cụ tương đối còn mạnh khoẻ. Cũng có những cụ già ngồi trên xe lăn, đang được những người khán hộ đẩy đi quanh vườn để sưởi nắng. Khi hai mẹ con sắp bước tới cái cửa tự động để vô tòa buyn đinh chính giữa, bà mẹ bỗng chùn lại không chịu đi nữa, bà hỏi với một giọng lo lắng:
Đây là đâu? trông không có giống khách sạn tí nào. Má không muốn vô, con đưa má về đi, má không muốn đi du lịch nữa.
Phượng dỗ:
Vô một chút thôi má, vô làm giấy tờ xong rồi về.
Tới phòng nhận bệnh, Phượng trình giấy tờ và được mời vào, cửa được đóng lại ngay sau lưng. Bà y tá người da trắng, trông có vẻ hiền lành tử tế, mời hai mẹ con ngồi, rồi tự giới thiệu:
Tôi là Ingrid, y tá trưởng ở đây. Còn đây là…
Phượng vội đỡ lời:
Bà Nguyễn Thị Trình, mẹ tôi. Xin lỗi cô Ingrid, mẹ tôi không nói được tiếng Anh…
Không sao cả, ở đây có bốn y tá là người Việt và cũng có một số bệnh nhân là Việt Nam, mẹ cô sẽ không cô đơn đâu.
Được vậy tôi rất mừng.
Sau khi chờ cho Phượng điền một lô những giấy tờ liên quan đến bảo hiểm y tế, tên tuổi, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật và những thuốc men mẹ nàng đang dùng, cô Ingrid cầm xem sơ qua một lượt rồi nói:
Sáng mai chúng tôi sẽ đưa bà cụ đi khám bác sĩ để lập hồ sơ bệnh lý. Bây giờ tôi cho người đưa bà cụ đi nhận phòng.
Cô Ingrid bấm chuông, và một người tá mới xuất hiện, Phượng gật đầu chào và hỏi:
Tôi đi theo được chứ?
Dĩ nhiên! mời hai người theo tôi.
Cô y tá đi trước dẫn đường, hai mẹ con lúp xúp theo sau, bà mẹ đi sát vào con gái như tìm sự che chở, bà chỉ yên tâm khi có con ở bên cạnh. Họ đi thang máy lên lầu hai, tới trước căn phòng sơn màu xanh, có đề bảng số 204 B, cô y tá dừng lại, gõ nhẹ vào cửa hai tiếng, rồi mở toang cửa phòng:
Đây là phòng của mẹ cô, ở chung với một bà cụ cũng người Việt Nam.
Rồi cô quay đi, sau khi chỉ cho Phượng chỗ để quần áo, cô ghé sát vào tận tai nàng thì thầm:
Hai mẹ con từ giã nhau đi nhé, lát nữa tôi sẽ quay lại.
Phượng thấy tim nhói lên một cái, nàng đưa mắt nhìn mẹ, bà Trình đang nhìn theo cô y tá với một vẻ sợ sệt. Đợi cô ta đi khỏi, Phượng mới đưa mắt quan sát, căn phòng tương đối sáng sủa, tường sơn màu xanh dịu mắt, có một cái cửa sổ trông xuống vườn hoa. Ngoài một cái TV ở chính giữa, treo ở trên cao, và một cái bàn hình vuông có bốn cái ghế kê ở cuối phòng – chắc dùng làm chỗ tiếp khách – những đồ đạc còn lại, thứ nào cũng có hai cái: hai tủ đựng quần áo, hai bàn đêm và hai cái giường, một cái để trống dành cho mẹ nàng, và trên cái giường kia có một bà cụ đang nằm xây mặt vào tường. Thấy có tiếng động, bà ta quay lại, nở một nụ cười méo mó:
Người mới hả? ở đây tụi tui kêu là… con so. Tui tên Năm, ở đây trên ba năm rồi. Không sao đâu bà cụ! vô đây làm bạn với tui cho vui, nằm một mình buồn lắm. Cái giường kia bỏ trống cả tháng nay, người nằm đó chết rồi, chết vì chứng ung thư máu…
Bà Trình rùng mình, kéo tay con gái:
Ở đây toàn người bịnh, sợ quá, má muốn về nhà. Đi về lẹ lên đi con! mình ở đây khá lâu rồi đó, đã tới giờ con đi rước mấy đứa nhỏ, còn má phải sửa soạn bữa cơm chiều…
Phượng thở dài, lòng cô chùng xuống, tội nghiệp mẹ luôn luôn nhớ bữa cơm chiều… Đối với bà, bữa cơm chiều là quan trọng nhất, vì là giờ phút xum họp của tất cả mọi người trong gia đình trở về nhà sau một ngày làm việc mệt nhọc. Bằng tất cả thương yêu, trìu mến, mẹ chăm sóc miếng ngon cho cả nhà, hạnh phúc của mẹ là được nhìn thấy các con cháu sung sướng. Nếu mẹ biết sẽ chẳng bao giờ còn có những bữa cơm gia đình, sẽ chẳng bao giờ mẹ còn được tựa cửa ngóng trông con, cháu trở về? Phượng thấy lòng bất nhẫn quá, nhưng nàng biết sẽ phải cuơng quyết, nếu không, sẽ không còn cơ hội nào nữa. Tim đập nhanh trong lồng ngực, Phượng dìu mẹ ngồi xuống giường…
Đây là giây phút quan trọng nhất, Phượng ngập ngừng mãi, không biết phải mở đầu như thế nào. Sau cùng, nàng hít vô một hơi thật sâu để lấy thêm can đảm, rồi bằng tất cả cố gắng, nàng nắm lấy tay mẹ, giọng run run:
Má nghe con nói! Đây là phòng của má, má hãy ở đây đêm nay, ngày mai con và Dũng sẽ đưa mấy đứa nhỏ vô thăm má…
Ồ không… con ơi! Mẹ nàng kêu lên thảng thốt, vùng ôm chặt lấy con gái như sợ cô chạy mất, má không muốn ở đây, má chỉ thích cái phòng riêng của má, cái giường của má. Má nhớ hai đứa nhỏ, nhớ cái bàn thờ có hình của ba con…
Phượng ứa nước mắt, nàng cũng ôm mẹ thật chặt:
Má hiểu cho con, con cũng đâu có muốn xa má. Nhưng tình thế bắt buộc, má cần người săn sóc, mà con thì không thể… Má ở đây con yên tâm hơn, vì luôn luôn có các bác sĩ, y tá thường trực ngày đêm, chăm lo sức khoẻ cho tất cả mọi người.
Bà mẹ vừa khóc vừa nói:
Má không cần bác sĩ, má chỉ cần các con cháu. Giọng bà bỗng dưng tỉnh táo một cách lạ lùng, má biết dạo này má già cả, lẫn cẫn, không còn giúp ích gì cho mọi người, má vô dụng rồi. Chắc con giận má hay sơ ý, mấy lần suýt làm cháy nhà? Má cũng ân hận lắm, hãy cho má thêm một cơ hội nữa, má hứa sẽ không gây phiền phức cho con nữa đâu. Má hứa sẽ nhớ tắt bếp, má cũng sẽ không đi lang thang ra đường một mình, má sẽ ở nhà suốt ngày đợi con, cháu về…
Tới đây thì Phượng không thể chịu đựng nổi nữa, nàng cũng bật khóc lên thành tiếng, nước mắt chảy ròng ròng:
Ồ không phải vậy đâu má, nhưng mà…
Phượng nghẹn ngào, không biết sẽ phải tiếp tục ra sao, hai mẹ con ôm nhau, cùng nức nở… Bỗng cánh cửa bật mở, cô y tá hồi nãy trở lại, thấy cảnh đó thì thở dài, làm việc ở đây đã lâu, những cảnh này đối với cô quen thuộc quá, nhưng mỗi khi phải chứng kiến, lòng cô không khỏi se lại. Chờ cho hai mẹ con bịn rịn thêm một lúc nữa, cô mới nhẹ nhàng an ủi:
Mới đầu thì ai cũng vậy, nhưng chỉ dăm bữa, nửa tháng nữa thôi, mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy cả.
Rồi cô quay qua, nói riêng với Phượng:
Sáng mai sẽ có y tá người Việt Nam, hy vọng bà cụ sẽ thấy thoải mái. Cô yên tâm, chúng tôi sẽ săn sóc mẹ cô tử tế. Bây giờ cô nên về đi, như thế sẽ dễ cho chúng tôi hơn.
Bà cụ nằm giường bên bỗng lên tiếng:
Dùng dằng mãi cũng chỉ đến thế, chẳng ích gì. Cô cứ về đi, không sao đâu, tôi sẽ an ủi mẹ cô dùm cho.
Vâng cháu xin nhờ cụ.
Bà mẹ nghe thấy thế, thì vội vàng níu chặt lấy áo con gái. Phượng nhẹ nhàng gỡ tay mẹ ra, dỗ dành:
Má thấy chưa? bác Năm tốt lắm, các cô y tá cũng vậy, ở đây ai cũng chỉ muốn giúp đỡ má thôi mà. Má yên tâm đi, chẳng việc gì phải sợ hãi cả. Bây giờ con phải về đón mấy đứa nhỏ nghen má.
Thế con có trở lại không?
Có chứ, nếu má đừng gây lộn xộn, chiều mai con sẽ đưa các cháu vô thăm má.
Phượng dịu dàng đặt một cái hôn lên trán mẹ, nàng ôm xiết mẹ một lúc rồi buông ra:
Má! con phải đi, mai con sẽ trở lại.
Con sẽ không bỏ má ở lại đây một mình chứ?
Con sẽ vô thăm má thường xuyên mà. Phượng nói với mẹ mà như một lời nhắc nhở với chính mình, con hứa mỗi cuối tuần sẽ đến đón má về. Thôi bây giờ má đi nghỉ đi, con phải về lo cho các cháu.
Nói xong, Phượng đứng dậy, cô y tá lẹ làng đứng chen vào giữa hai mẹ con, và đẩy nhẹ lưng Phượng:
Cô đi ngay đi, lẹ lên!
Cô ta nắm lấy cánh tay bà mẹ, nhưng bà dằng ra, run rẩy chạy theo con ra cửa:
Con ơi! đừng bỏ má, van con đừng bỏ má!
Phượng ngập ngừng, quay lại, nhưng cánh cửa đã được khép lại sau lưng nàng, như một bức tường ngăn cách giữa hai mẹ con, ngăn cách những con người già nua, bệnh tật khốn khổ ở bên trong với thế giới vui tươi, sinh động ở bên ngoài. Phượng nghe tiếng mẹ gào lớn:
Con ơi! con ơi…
Phượng rùng mình, có cảm tưởng như vừa nghe tiếng kêu cứu của người tử tội trước khi bị lên máy chém. Nàng bịt tai lại, vùng bỏ chạy, nhưng những tiếng gọi của mẹ vẫn đuổi theo. Phượng biết suốt đời nàng sẽ không bao giờ quên được tiếng gọi “ con ơi ” ai oán của mẹ.

PHƯƠNG – LAN

Niềm vui của anh em, không ai lấy mất được‏

Niềm vui của anh em, không ai lấy mất được‏

“Có chị nọ, một hôm mời người thợ sơn về sơn mấy bức tường nhà của chị, để đón xuân. Người thợ vừa bước vào cổng, thấy chồng chị bị mù loà, cả hai mắt. Bèn đem lòng xót thương.

Người chồng mù, lại luôn lạc quan yêu đời. Khiến, anh thợ sơn làm việc mấy ngày trời ở nơi đó, rất ăn ý. Anh không bao giờ nhắc nhở về những điều đáng thương đáng tiếc, của người mù.

Công việc hoàn tất. Người thợ sơn đưa cho chủ nhà biên lai tính tiền. Chủ nhà phát hiện ra rằng: số tiền lẽ đáng phải thanh toán, sao rẻ hơn mức thuận thảo, lúc ban đầu. Bèn, hỏi anh thợ:

-Bác tính toán cách nào mà sao bớt giá, quá nhiều vậy?

-Mấy ngày nay, tôi làm việc gần cận chồng của chị. Nay, thấy lòng mình rất vui. Thái độ của anh, trong cuộc sống giao tiếp với đời, khiến tôi cứ nghĩ mãi về cảnh tình của đời tôi, chưa đến nỗi tệ. Nên, tôi bớt cho anh chị một phần, khác với giá đã định hôm trước. Coi như đây, là để bày tỏ chút tình cảm, đối với anh. Làm việc ở đây, anh chị đã khiến tôi thấy rằng: đời mình không đến nỗi thiếu thốn. Khổ sở. Chỉ mỗi thế.

Nhìn hai người, một chồng một thợ, chị thấy cả hai cùng ở vào hoàn cảnh chẳng khá hơn gì người khác. Vì anh thợ sơn, chỉ mỗi cánh tay. Thế mà, anh chẳng thấy đời mình mang sắc mầu tím ngắt, những nỗi buồn.

Về với đời thường, chị vợ bèn nghĩ thêm: Thái độ nguời đời, có nhận định xấu/tốt vui/buồn sao đi nữa, cũng chẳng thay đổi được nhân sinh quan ta vẫn sống. Cùng lắm, chỉ đổi được quan niệm về cuộc đời ngắn ngủi, của mình thôi. Tuyệt nhiên, chẳng làm sao đổi thay toàn bộ cuộc sống, của người khác. Ta không thể chỉnh đốn cảnh đời sao cho phù hợp với cuộc sống mình đã chọn. Thật ra, ta chỉ có thể điều chỉnh thái độ của mình trong giao tế với người khác, thôi.

Trong cuộc sống, bất ai có cái nhìn lạc quan hơn, thì khi đối diện sự thật, sẽ thấy mình sống vui tươi. Hoà hợp. Vui, để chấp nhận. Vui, để cùng sống với người khác. Bởi, người người nếu biết cách điều chỉnh thái độ mình giao tiếp, sẽ nhìn sự vật theo con mắt lạc quan. Yêu đời. Sẽ thấy đời là chuỗi ngày vui. Đáng sống. Trái lại, ai muốn người đời thuần phục ý mình, thì khi việc không may xảy đến, sẽ thấy khổ đau. Tuyệt vọng. Thậm chí, dễ chán chường. Tự vẫn.

Xét cho cùng, đời người dù mang dáng mầu tím ngắt/tím đanh hay lanh chanh mầu hy vọng, cũng đều tuỳ tâm. Tuỳ tính. Tùy thái độ của mình khi nhìn sự việc. Chỉ mỗi thế.”

Nhìn sự việc, mà định mầu rất-tươi-vui của mùa Tím, ta thấy thánh sử viềt về sắc mầu phụng tự, cũng trích dẫn Lời Chúa trong Kinh Sách, như sau:

“Anh em cũng vậy,

bây giờ anh em lo buồn,

nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em,

lòng anh em sẽ vui mừng;

và niềm vui của anh em,

không ai lấy mất được.”

(Ga 16: 22)

LỜI ƯỚC HẸN…

LI ƯỚC HN…

Cả hai đang ở độ tuổi 17. Họ gặp nhau trong 1 bệnh viện khi đang đi dạo. Trong 1 chớp mắt, hai trái tim non trẻ rộn lên 1 niềm xúc động sâu sắc. Họ đọc trong mắt nhau 1 niềm xúc động sâu sắc. Họ đọc trong mắt nhau một nỗi thương cảm bi ai. Kể từ hôm đó họ không còn cô đơn nữa.

Đến 1 ngày ,cả 2 được thông báo rằng bệnh tình của họ không có cách nào chữa trị được nữa. Trước khi được gia đình đón về nhà, họ ngồi bên nhau 1 buổi tối, hẹn cùng nhau vượt qua số phận ….Họ hứa mỗi tuần sẽ viết cho nhau 2 lá thư để chúc phúc và an ủi nhau. Rồi hôm sao họ chia tay nhau.

Thấm thoát đã 3 tháng trôi qua. Cô gái ngày càng yếu ớt. Một hôm cô gái cầm trong tay bức thư chàng trai gửi đến rồi thanh thản khép đôi bờ mi, miệng thoáng mỉm cười mãn nguyện. Bà mẹ cuống cuồng gọi con. Nhưng cô gái đã ra đi, bà gỡ lá thư trong tay cô gái và đọc :”…khi số phận đùa giỡn với sinh mạng của em, em không nên sợ hãi vì bên cạnh em luôn có anh và mọi người quan tâm đến em. Anh đang khỏe dần lên ,anh sẽ đến với em một ngày gần đây, em sẽ không cô đơn “.

Hôm sau, bà mẹ mở tủ của con gái, phát hiện ra vài chục lá thư do con gái bà viết, bỏ sẵn vào phong bì, dán tem đàng hoàng. Phía trên tập thư là mẩu giấy cô gái viết cho bà mẹ : “mẹ ơi, đây là tập thư con viết cho 1 người bạn trai mà chúng con đã có lời hẹn ước đi cùng nhau suốt quãng đời còn lại. Nhưng con thấy mình yếu đi nhanh chóng, sợ không giữ được lời hứa ấy. Con đã viết sẵn những lá thư này, mỗi tuần mẹ gửi giúp con 1 lá cho anh ấy để anh ấy nghĩ con vẫn còn sống và đang an ủi anh ấy vượt lên trên bệnh tật. Con chỉ mong anh ấy đủ niềm tin để sống tiếp. Con gái của mẹ “.

Bà mẹ lần theo địa chỉ ghi tên bìa thư để đến nhà chàng trai. Bà nhìn thấy trên bàn là một tấm ảnh của một thanh niên trẻ, tràn đầy sinh khí và sức sống được viền dải băng đen. Bà vô cùng ngạc nhiên khi biết chàng trai ra đi cách đây 1 tháng.

Bà mẹ chàng trai nước mắt lưng tròng chỉ vào chồng thư đặt bên cạnh khung ảnh và kể rằng: “con trai tôi đã mất cách đây 1 tháng, nhưng trước khi ra đi, nó dành 3 ngày 3 đêm để viết những lá thư này. Nó nhờ tôi mỗi tuần gửi cho cô bạn gái nào đó 1 lá. Nó bảo cô gái đó cũng đang mong chờ sự cổ vũ, an ủi của nó .Thế là cả tháng nay tôi thay con trai gửi những lá thư này đi, không biết cô gái đó có nhận được không ?…”

Bà mẹ cô gái lao đến ôm chầm lấy bà mẹ của chàng trai và khóc không thành tiếng. Khi cả 2 bà mẹ đã hiểu ra tất cả, 2 bà quyết định vẫn cứ hàng tuần gửi cho nhau 1 lá thư mà con họ đã để lại. Họ bảo làm như thế vì 1 ước nguyện cao cả.

S.T.

TÌNH MẸ BAO LA NHƯ BIỂN THÁI BÌNH!

TÌNH MẸ BAO LA NHƯ BIỂN THÁI BÌNH!

Vô Danh

…..Với chị, đơn giản, tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị dành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy….

Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như, nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con trai bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ. Cha qua đời vì cơn bạo bệnh. Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi, chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.

Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oằn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:

– Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn một tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra.

– Có thế nào con cũng không được bỏ học. Con là niềm tự hào của mẹ. Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm .

Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ. Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm. Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má, cậu mới sững người lại. Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nở…

Nghe mẹ, cậu khăn gói vào trường nhập học. Lòng cậu nặng trĩu. Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần…

Ít lâu sau, có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ. Chị nộp gạo cho con trai. Chị là người đến muộn nhất. Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.

Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị, nói:

– Chị đặt lên cân đi. Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi.

Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại, giọng lạnh băng:

– Thật chẳng biết nên nói thế nào. Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn. Đấy, chị xem. Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, cả cám gạo nữa, đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi, gạo thế này, chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được.

Thầy vừa nói vừa lắc đầu.

– Nhận vào.

Thầy nói, không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh.

Mặt người mẹ đỏ ửng lên. Chị khẽ khàng đến bên thầy nói:

– Tôi có 50.000 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?

– Thôi, chị cầm lấy để đi đường uống nước.

Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng lên, chân tay thừa thãi vì chẳng biết làm thế nào. Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.

Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai. Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày, lắc đầu. Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm:

– Chị lại nộp loại gạo như thế này sao? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì, chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này. Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được? Chị nghĩ thử xem, với loại gạo hổ lốn thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?

– Thầy thông cảm. Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế ! Người phụ nữ bối rối.

– Thật buồn cười cái nhà chị này ! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào!

Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.

Người mẹ im bặt, mặt chị trở nên trắng bệch, nhợt nhạt. Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp, bước cao ra về. Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.

Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo. Chị lại đến. Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ. Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.

Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra. Lần này, nét giận dữ in hằn trên mặt thầy.

Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:

– Tôi đã nói với chị thế nào. Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa. Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi thế này. Chị mang về đi. Tôi không nhận !

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất. Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát. Chị khóc. Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn. Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ. Khóc vì lực bất tòng tâm.

Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế. Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng. Một bên chân quắt queo lại.

– Thưa với thầy, gạo này là do tôi… Tôi đi ăn xin, gom góp lại bao ngày mới có được. Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này, tôi làm ruộng thế nào được nữa. Cháu nó sớm hiểu chuyện, đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng. Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con tôi thất học. Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm… Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho. Không nộp gạo, con tôi thất học mất !

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế. Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn. Chị đi khắp hang cùng, ngõ hẻm xóm khác xin gạo. Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về. Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng. Thầy đứng lặng hồi lâu rôi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên. Giọng thầy nhỏ nhẹ :

– Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ ! Chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị. Thôi thế này, tôi nhận. Tôi sẽ thông báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hỗ trợ cho học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt. Chị gần như chắp tay lạy thầy. Giọng chị van lơn:

– Xin thầy. Tôi có thể lo cho cháu, dù không đủ đầy như các bạn nhưng tôi lo được. Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được. Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này. Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về.

Lòng thầy xót xa.

Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng. Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối. Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này. Ngoài ra, học lực của cậu rất khá, đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.

Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường. Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của Thủ Đô. Trong buổi lễ vinh danh những học sinh ưu tú, khi tên cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.

Có một điều rất lạ rằng trên sân khấu hôm ấy, có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất. Ai cũng thắc mắc,không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.

Trong buổi lễ trang nghiêm ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài. Cả trường lặng đi vì xúc động. Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra. Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về.

Thầy nói:

– Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực. Những hạt gạo đáng quý này, tiền, vàng cũng không thể mua nổi. Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc. Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu từng bước khó nhọc bước lên sân khấu.

Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

– Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý. Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng vô cùng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả, mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông. Run run vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình. Với chị, đơn giản, tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.

Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:

– Mẹ ơi!!!!!!