KÝ ỨC THÁNG 4: MỘT THOÁNG THIÊN THU

KÝ ỨC THÁNG 4: MỘT THOÁNG THIÊN THU

Bs. VĨNH CHÁNH

Trích Ephata 608

Tác giả là bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Tháng Tư 2013, bài “Không Bỏ anh em, không bỏ bạn bè” ông góp cho Viết về nước Mỹ, hiện đã có hơn 285.000 lượt người đọc. Tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, ông là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sàigòn ngày 30 tháng Tư.

Chỉ vài tháng sau lần thăm nuôi duy nhất kể từ ngày bước chân vào trại cải tạo, và ngay sau Tết 1977, nhiều nhóm tù ở trong trại Xuân Lộc chúng tôi được sàng lọc, phân loại, rồi bất ngờ chở đi giữa đêm khuya. Riêng nhóm chúng tôi khoảng chưa đến 40 người được tập trung cũng vào nửa đêm, đưa lên một xe bịt bùng chở đến một khu rừng hoang dã rộng lớn.

Trong nhiều ngày kế tiếp, láng trại chúng tôi tiếp nhận nhiều toán tù cải tạo từ nhiều trại tập trung khác chở dồn đến, toán đến trước trộn chung với các toán đến sau, lập thành 10 đội.

Mỗi đội có 50 người, chia làm 10 tổ, ở chung trong một căn nhà dài do đội tự cất lấy theo mẫu chỉ định. Tổ chúng tôi có 5 người, gồm một giáo sư biệt phái, một dược sĩ, 2 nha sĩ độc thân cùng một lớp và cùng một khóa trưng tập, và một bác sĩ, là tôi. Bốn người kia sinh trưởng từ Miền Nam, chỉ một mình tôi trọ trẹ tiếng Huế. Bốn người kia thuộc Bộ Binh, tôi lại của Nhảy Dù. Nhìn quanh cả đội, có lẽ tôi là đứa “ác ôn” nhất. Nhưng không vì thế mà các bạn trong tổ “né” hay lạnh nhạt với tôi. Ngược lại, theo thời gian, chúng tôi có với nhau một liên hệ rất mật thiết, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, người này sẵn sàng choàng qua làm giùm công việc cho người khác, nấu nướng cho nhau, chuyện trò tâm sự cùng nhau…

Lán trại của chúng tôi nằm sâu trong rừng, cách con đường xe lửa khoảng một cây số. Một lán trại tù tương tự nằm phía bên kia đường sắt, đối diện với láng chúng tôi. Những khi đi lao động tự giác, như để cắt tranh, chặt tre, đốn cây, làm rẫy, chúng tôi đều bước dọc theo con đường rầy xe lửa, ngang qua một trạm ga nhỏ mang tên Ga Trảng Táo trước khi tiến vào một cánh rừng ở xa hơn và rộng lớn hơn.

Càng về sau, những chuyến đi càng it có hoặc không có lính cảnh vệ đi kèm theo ra bên ngoài trại. Rất nhiều lần, chúng tôi gặp những chuyến tàu chợ chạy ngang, nhiều gói bánh cốm của bá tánh quăng xuống cho tù cải tạo chia nhau ăn. Có một lần tổ chúng tôi nhận được cả chục cây cà rem khi đang còn ì ạch gánh tranh gần con đường sắt. Phải nói là thần tiên khi mút được một cây cà rem mát lạnh giữa nắng trưa trong lúc người ướt cả mồ hôi.

Nương theo bìa rừng, cách đường xe lửa khoảng ba bốn trăm thước hay vào sâu hơn bên trong, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp một vài bạn tù cải tạo được vợ lén tìm thăm. Không biết họ liên lạc với nhau như thế nào mà hay vậy, tôi tự hỏi. Một đôi khi, chính các anh em chúng tôi được nhờ vả canh me cho các cặp vợ chồng ấy để họ an tâm gặp gỡ, tâm tình. Chúng tôi thường tình nguyện đi chặt tre, cắt tranh thế cho phần của các bạn may mắn đó để họ có thêm được thì giờ riêng tư bên vợ hay người yêu.

Các chị thường hẹn hò rủ nhau đi từng nhóm nhỏ hai ba người. Đi cầu may, không chắc gì sẽ gặp hay kiếm được người mình muốn tìm. Dù không gặp gỡ được, rất ít khi các chị nhờ chúng tôi trao giùm quà lại cho chồng. Phần chúng tôi cũng né tránh chuyện nguy hiểm đó, vì quản giáo trong trại thường xuyên lục soát chúng tôi trong những lần điểm danh khi về đến trại.

Sau giờ lao động, trong những lúc rảnh rỗi, cùng với cả trăm bạn tù khác, năm anh em chúng tôi thường hay đứng xa xa, chờ chuyến xe lửa cuối của ngày từ hướng Phan Thiết về Sàigòn đi qua, nhìn cảnh các cô các bà trên xe lửa thảy các gói quà xuống cho thân nhân của họ hay cho các tù nhân đang đứng dọc theo đường xe lửa. Hiện tượng này ngày càng xẩy ra nhiều và khó cấm cản được. Chính nhờ một chút liên hệ với thế giới bên ngoài, dù vẫn có khoảng cách, phần nào đã giúp các bạn tù bớt căng thẳng vì cảnh chim lồng cá chậu, quên đi nỗi nhọc nhằn của lao động cùng cực.

Được tập trung với hành trang đủ cho 7 ngày, để rồi không biết đi về đâu và không biết ngày về, ngoài chuyện thương nhớ gia đình, lo âu cho vợ con không biết xoay sở trong cuộc sống mới, nỗi sợ hãi tận cùng cho mọi người cùng hoàn cảnh là bị lãng quên, bỏ rơi, phụ bạc theo thời gian. Khi niềm hy vọng đoàn tụ quá mơ hồ, những bạn tù được thân nhân lén tìm thăm, tiếp tế, là những kẻ hạnh phúc nhất đời, vì biết mình còn được yêu thương. Tuy nhiên, những gói quà nhỏ do lòng từ tâm của những người có cùng niềm đau, đôi khi gây ra cảnh giành giật hỗn độn, khiến lính cảnh vệ quát tháo ầm ỹ, lăm le bắn chỉ thiên để giải tán đám đông.

Trong một xế chiều của tháng 4, có đến gần cả trăm người đang chờ chuyến tàu hàng chạy qua. Tôi bỗng rời nhóm bạn cùng tổ và bước vội qua phía bên kia đường sắt để tránh hướng mặt trời đang gay gắt chiếu vào mắt, một điều tôi chưa hề làm trước đây vì lệnh trên cấm tù của hai láng trại qua lại chuyện trò với nhau.

Theo sau tiếng còi hú, con tàu giảm dần tốc độ vượt qua ga Trảng Táo. Nhưng khi đến gần chỗ những tù cải tạo đứng hai bên đường, tốc độ tàu tăng nhanh hơn để tránh chuyện tù cải tạo nhảy tàu trốn trại. Tiếng xình xịt, xình xịt nặng nề của con tàu và tiếng ken két của bánh xe nghiến trên đường sắt dội mạnh dần, rung động mặt đất, khiến nhịp tim tôi đập mạnh. Không tính trước và như bị con tàu hút vào, tôi thấy tôi từ từ tiến sát gần đường rầy, gần nhất từ trước đến nay, hình như chỉ cách mươi thước. Tôi bắt đầu nhìn thấy nhiều cô nhiều bà nhoài cả nửa người ra khỏi cửa sổ hay chen chúc đứng trên các thềm nối giữa các toa tàu.

Con tàu chạy ngang trước mặt tôi. Nhiều cánh tay đưa ra, nửa như vẫy chào, nửa như muốn vói nắm lấy những bàn tay bên dưới. Những khuôn mặt đăm chiêu, lo lắng. Những con mắt mở lớn tìm kiếm. Những ánh mắt sáng lên khi nhìn thấy người thân. Những cái nhìn đau buồn xót xa như chia xẻ với người tù trong bộ quần áo lao động thùng thình, bạc màu, rách rưới. Có những cái miệng cười méo trong nghẹn ngào vì chợt thấy một thân hình ốm yếu hao gầy quen thuộc. Có những đôi môi mấp máy như thầm nhắn gởi bao lời. Có những bàn tay đưa lên bịt miệng để kịp ngăn tiếng khóc nức nở. Và có cả những giọt nước mắt rơi xuống, hạnh phúc lẫn chua xót trong một thoáng nhìn thấy nhau.

Một loạt bì thư cột trong viên đá nhỏ để tránh gió thổi bay xa được quăng xuống, cùng với hàng chục gói quà to nhỏ khác nhau, kèm theo là những tiếng gọi tên thật lớn. Người đứng bên dưới chạy dọc theo đường sắt, vẫy vẫy, nói nói, cười cười với người trên tàu. Người nhanh chóng cúi lượm gói quà lẩn mất trong đám đông. Vài người chạy theo thu lượm những bức thư bỏ vào túi… Cảnh tượng cứ thế hiện ra trước mắt tôi, thực nhanh, có khi rõ ràng từng chi tiết nhỏ, có khi chợt đến chợt đi như trong một cảnh phim quay nhanh, hỗn độn.

Chừng mươi giây nữa cái đuôi con tàu sẽ chạy ngang chỗ tôi đứng. Vừa một chớp mắt, qua khung cửa, tôi thấy ba cô gái có vóc dáng nhỏ nhắn đứng cạnh nhau trên toa tàu, nhìn chăm chú vào đám người bên dưới. Từ trong tiềm thức, tôi nhận ra dáng hình và đầu tóc quen thuộc của nàng. Trời ơi, đúng là vợ của tôi, bằng xương bằng thịt, trong chiếc áo ngắn tay màu xanh da trời, bên cạnh cô em và người bạn gái. Dưới ánh sáng vàng rực của cuối ngày, chúng tôi nhìn thấy nhau trong tích tắc, kẻ ở trên tàu, người dưới đất, khoảng cách không xa nhưng tưởng như vạn dặm. Tôi la lớn, gọi tên nàng, và xoay người vội vã chạy theo con tàu.

Em chồm hẳn thân hình ra phía bên ngoài, tay nắm chặt song sắt, đôi mắt mở lớn mừng rỡ như muốn thu nhận tất cả hình ảnh của chồng. Tôi đau đớn nhìn thấy em gầy gò. Đôi mắt của em, ôi con mắt đã từng nhốt hồn tôi vào trong đó, vẫn còn nét tinh anh trong sáng và đoan trang của ngày nào. Tôi bỗng cảm thấy thân hình mình nhẹ hẫng như được đôi tay thiên thần nâng đẩy, tim tôi như ngừng đập trong đê mê, bước chân tôi như đang chạy trên mây, tay tôi rộng với về nàng như thể muốn níu ôm lấy em vào lòng.

Tất cả xung quanh tôi như chậm lại, mơ hồ. Cả hai chúng tôi tròn mắt nhìn nhau trong vô tận. Chỉ có em và tôi hiện hữu trong khoảnh khắc thần tiên này. Qua ánh nhìn, em gởi đến tôi thông điệp: “Anh an tâm. Mọi việc ở nhà bình yên. Em yêu anh. Anh phải sống. Em sẽ chờ đợi với tất cả lòng trung tín”.

Có lẽ tôi đã chạy theo con tàu chừng mấy mươi bước, tim đập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, rồi tôi thấy mình dừng lại. Đứng yên tại chỗ để nhìn nàng được rõ hơn khi con tàu từ từ đưa nàng xa dần tôi. Dù con mắt có đui, dù cái nhìn kéo dài đầy nuối tiếc, rồi cũng đến lúc mờ khuất bóng nhau. Tôi muốn em biết tôi đã yêu em đến chừng nào, tôi ước mong có cánh để bay đến bên em, ôm chặt vào lòng, truyền cho nhau sức sống. Như hiểu tôi sắp oà khóc vì quá xúc động, nàng thoáng nhẹ lắc đầu, ánh nhìn thầm nhắc nhở dặn dò đừng bao giờ bày tỏ sự yếu đuối trước kẻ hành hạ mình. Em đã cho tôi nguồn hy vọng.

Cùng lúc, em gái nàng và cô bạn ngoắc vẫy tôi liên tục, miệng cười tươi rói. Cả hai ra dấu muốn đầy giỏ quà xuống, nhưng có lẽ thấy nàng và tôi không có lấy một cử chỉ đồng thuận, nên cả hai cứ mãi do dự cho đến lúc không còn có cơ hội nữa.

Con tàu xa dần. Tiếng còi tàu báo hiệu sắp quẹo phải và lên dốc con đồi nhỏ đàng trước như xé lòng. Nàng vẫy tay chào tạm biệt trong giây phút phân ly. Văng vẳng tiếng khua động của các toa tàu đưa tôi về với thực tại.

Tôi lặng người trong một trạng thái nữa tỉnh nữa mê, ngẩn ngơ, tâm trí hoàn toàn bị tràn ngập bởi hình ảnh của nàng. Tinh thần tôi rối loạn với cảm giác vừa diễm phúc đê mê trong hạnh ngộ, vừa cay đắng ngậm ngùi với chia ly. Thể xác như lâng lâng ngây ngất của hoan lạc, choáng váng xây xẩm như một triệu chứng mất máu. Sự tình cờ may mắn thấy mặt nhau ngày hôm nay nói lên được định mệnh ràng buộc giữa chúng tôi, làm chúng tôi càng thêm gắn bó. Chỉ trong một thoáng mà cuộc tình ngỡ như thiên thu bất tận. Chỉ một lần nhìn thấy nhau trong đớn đau là cả một ghi nhận nghìn năm không phai. Tuy xa nhau mà tình vẫn còn đầy !

Quay trở về hướng các bạn đứng chờ bên kia con đường sắt ở tuốt phía xa, bước chân tôi lúc đầu chậm nhưng rồi vụt nhanh dần. Trong một kích thích khó dằn lòng, tôi vội vã kể ngay chuyện vừa mới bất ngờ thấy được vợ mình đứng trên toa xe lửa cuối cùng. Nghe qua, bạn nào cũng sững sờ, quá ngạc nhiên trước câu chuyện khó tin vừa xảy ra. Mà phải, khó tin thật, ngoại trừ đây là thiên định.

Không thể nào giải thích vì sao bỗng nhiên trong chiều hôm nay tôi lại nhảy sang đứng phía bên kia đường sắt. Các bạn tỏ vẻ vui mừng cho tôi và không tiếc lời khen vợ tôi chịu khó lặn lội đi tìm chồng, rằng đây thật là một cuộc hạnh ngộ quá đặc biệt. Một bạn còn ý kiến nếu giỏ đồ ăn được quăng xuống, không chắc gì tôi đã lấy được vì khó chứng minh với những người lượm được cái giỏ là của mình.

Hân hoan với niềm vui bất ngờ và diệu kỳ ngoài sự tưởng tượng, cũng như muốn chia sẻ hạnh phúc của mình có được trong chiều hôm nay, tôi kéo các bạn đến ga Trảng Táo, móc hết tiền túi còn lại mua ngay 5 trứng vịt lộn đem vào trại để cùng nhau ăn mừng.

Tối hôm đó, 5 chúng tôi quây quần ngồi ăn chung với nhau, gồm đồ ăn do nhóm ẩm thực của đội phân chia cho tổ, chút cơm bo bo và chút canh bí đỏ nấu với muối, dọn chung với chút đồ ăn riêng của nhau dành dụm qua lần thăm nuôi trước. Để dành món ngon nhất cho cuối bữa, sau một vài câu mở đầu, tôi trịnh trọng đặt từng cái trứng vịt lộn vào tay mỗi bạn. Mọi người ăn một cách chậm rãi, ăn luôn cả cục mề cứng và khen trứng vịt lộn ngon quá.

Không khí vui nhộn hơn nữa, khi nhiều bạn tù khác trong đội biết tin vui của tôi đã không ngần ngại mang nước trà ( nấu bằng các loại lá lấy trong rừng ), cà phê ( pha chế với râu bắp, trộn chung với rễ tranh và cơm cháy ), vài miếng đường tán chặt nhỏ, thuốc lào… đến chung vui với tổ chúng tôi. Một chương trình văn nghệ bỏ túi không chuẩn bị, không hẹn trước, tự nhiên thành hình trong đêm. Trong tình thân ái. Ấm cúng. Cảm động. Khó quên. Bạn nào hát cũng mở đầu bản nhạc với câu gởi tặng cho vợ hay người yêu ở nơi xa, cho các bạn tù, và cho tôi, mà các bạn bông gọi đùa là Dr. Zhivago, một biệt danh dính theo tôi trong thời gian kế tiếp.

Tôi ngồi nghe hát mà lòng xúc động cho thân phận. Tê tái nhớ lại giây phút nhìn thấy em. Nhớ ánh mắt, khuôn mặt, đầu tóc của em. Khi đến bản nhạc Như Cánh Vạc Bay, với đoạn: “Nơi em về ngày vui không em. Nơi em về trời xanh không em. Ta nghe nghìn giọt lệ rớt xuống thành hồ nước long lanh” tôi đã không cầm được lòng và đã khóc nức nở.

Đó là những giọt nước mắt chưa một lần đổ xuống từ ngày vào tù, dù qua bao nhiêu đọa đày bầm dập thể xác, qua bao nhiêu nhẫn tâm chà đạp lên nhân phẩm, qua sự chứng kiến cái chết tức tưởi của những bạn tù khác, nay được dịp vỡ bờ. Một bạn khác ngâm một bài thơ của Hàn Mạc Tử có câu “Người đi một nửa hồn tôi mất, một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” khiến tôi lại càng xúc động mạnh và để mặc cho nước mắt tuôn trào.

Trong đêm, tôi thao thức khó ngủ, dù sau khi đọc một kinh Lạy Cha và 3 kinh Kính Mừng – như Mạ tôi vẫn thường làm trong những lúc tuyệt vọng sau khi Ba tôi mất. Tôi cầu nguyện, thầm nhớ đến những lúc quấn quýt đắm đuối bên nàng. Chuyện nàng bị sẩy thai sau khi cả chồng và cha đều đi tù. Tôi cuộn mình như con sâu nằm trong cái vỏ ngập đầy hình ảnh và tình yêu thương của nàng, cái vỏ luôn cho tôi sức mạnh tinh thần để nâng đỡ tôi vượt qua nhọc nhằn thử thách khi nản lòng đuối sức.

Sau đó nàng còn tìm thăm lén tôi được thêm mấy lần, khi ghé nhà một người làm rẫy không quá xa lán trại, lúc tôi đang lao động ở trong rừng tranh… Khoảng hai tháng sau khi nàng có phép thăm và ở lại đêm với chồng, tôi được thả về nhà trong đợt đầu tiên của trại vào ngày 24.8.1977. Sau phân ly thì đến tương phùng. Cứ như thế chúng mình đã sống chết bên nhau, vượt biển đến bến bờ tự do…

Em yêu dấu, khi ở xứ người, có những lúc tâm hồn anh bị chìm đắm trong bóng tối, có những lúc anh chạy theo phù du mê muội, những lạc lối đáng trách, hình ảnh của em trên chuyến xe lửa ngang qua trại tù cải tạo đã làm anh sực tỉnh, đưa anh về lại con đường chính trực. Con đường của chúng mình, của hạnh phúc trời ban và của thứ tha.

Qua bài viết này, xin vinh danh các bà vợ, các người yêu và gia đình đã yêu thương và mang hy vọng đến cho các tù cải tạo qua những năm tháng đen tối của đời người.

Bs. VĨNH CHÁNH

 

“Tôi Đi Tìm Tự Do Dân Chủ”

“Tôi Đi Tìm Tự Do Dân Chủ”

Con người phải cày bừa như trâu. Cảnh này không bào giờ có ở miền Nam từ thời Đệ Nhất CH, thời Cụ Ngô Đình Diệm 1954 - cách nay 60 năm

Con người phải cày bừa như trâu. Cảnh này không bào giờ có ở miền Nam từ thời Đệ Nhất CH, thời Cụ Ngô Đình Diệm 1954 – cách nay 60 năm

Năm 1979, sau khi “hoàn thành xuất sắc” các đợt đổi tiền, đánh tư sản mại bản, tịch thu tài sản tài phiệt người Hoa… nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra đòn vơ vét mới: loan báo cho phép những người mang quốc tịch Trung Hoa “hồi hương”. Từ lệnh này, các “cơ quan chức năng” trên cả nước mặc sức hái ra tiền bằng dịch vụ bán… quốc tịch Tầu, đăng ký và tổ chức hồi hương.

Người Việt muốn mang quốc tịch Trung Hoa phải trả từ 12 đến 15 lạng vàng một nhân xuất thì được cấp thẻ căn cước mang tên Tàu để đăng ký hồi hương.

Nghe nói đây là một chiến dịch toàn quốc, do chính Phó Thủ Tướng kiêm Bộ trưởng nội vụ thời ấy là Phạm Hùng cầm đầu, ban lệnh cho các sở công an địa phương. Một gia đình hồi hương, trước hết là phải nạp nhà cửa, đất đai. Số vàng kể trên, nhà nước chính thức thu một phần, sản còn lại để cho các quan công an địa phương một phần và chủ tàu lo toan mọi việc và đối đãi với công an địa phương.

Sau bốn năm sống dưới quyền hành chuyên chế của XHCN, gia đình tôi như bao người khác, hiểu rõ chỉ còn cách ra đi. Đành là mất tất cả sản nghiệp để đổi lấy tự do. Chạy vạy bán đồ đạc lo đủ số vàng cho tổ chức để lấy đủ giấy tờ mang quốc tịch Tàu!

Vào một buổi sáng sớm đầu tháng Năm âm lịch, gia đình tôi gồm 5 người, em dâu, em gái, tôi và hai cháu nhỏ 6 và 5 tuổi (em trai và em rể đã di tản từ năm 1975, hiện ở Mỹ) rời bỏ căn nhà riêng và cũng là tư xưởng (tôi làm tiểu công nghệ, nhà khá rộng) ra đi lúc vừa tan giờ giới nghiêm.

Tôi đi xe gắn máy, hai em và hai cháu có bạn thân chở giúp bằng xe Vespa. Hành trang chỉ có 3 chiếc tay nải đựng vài bộ áo quần và ít thuốc cần thiết cho trẻ con. Khóa trái cửa, rồ máy xe, tôi nhìn lại căn nhà do chính tôi xây dựng, rồi cúi đầu đạp xe ra khỏi xóm.

Dù đi với diện “hồi hương”, giấy tờ đầy đủ nhưng vẫn phải bí mật tuyệt đối. Khi đến bến xe đò, một người Tàu hướng dẫn nhóm tôi lên một xe vận tải sắt làm nhà, trong xe có 12 hành khách toàn là dân gốc Việt và 2 tài xế. Xe chạy đi Cà Mau.

Khi đến quận Cà Mau trình giấy, công an nói phải đợi có chuyến tàu mới đi được. Họ chỉ chúng tôi sang Hộ Phòng thuê một gian nhà tạm trú ít bữa. Cả gia đình tôi sang sông thuê một gian nhà nhỏ chờ đợi. Tại đây, chuyện công an tổ chức “hồi hương cho người Hoa” là chuyện công khai, có cả trăm gia đình ăn dầm nằm dề chờ đợi, ngày ngày phải chầu chực chờ lệnh công an.

Ba tuần trôi qua. Một tối công an đến báo ngày hôm sau được khởi hành. Sáng hôm sau, dưới trời mưa tầm tã, nhóm người Việt mang quốc tịch Tàu lên trên 3 chiếc xe đò đi Gành Hào để xuống tàu “hồi hương”!
Gành Hào lúc này đã biến thành cả một “cửa khẩu hồi hương”. Nơi nơi đông chen hầu hết là khách đi diện hồi hương từ mọi tỉnh đổ đến chờ ngày khởi hành.

Tới phiên chuyến chúng tôi ra đi, buổi chiều trời vẫn mưa u ám gió lạnh.

Cả đoàn xếp hàng dài trên bờ sông để xuống thuyền. Chiếc tàu lớn 6 mã lực mang 200 người mở máy từ từ ra biển lúc xẩm tối. Hai bên bờ, đèn đã sáng trong làng xóm. Hai đứa trẻ ngây thơ nằm yên trong lòng mẹ. Em dâu và em gái tôi dưng dưng buồn bã. Còn tôi ngồi trong khoang tối nhìn ra ngoài cây, vườn, với ánh đèn thôn quê dần dần xa, lòng tan nát.

Ra tới biển, trời mưa nặng hạt, gió thổi mạnh, sóng lớn. Nhiều hành khách say sóng nằm ngổn ngang trên sàn thuyền. Bên cạnh thuyền có tàu biên phòng của công an theo sát. Bộ đội biên phòng có nhiệm vụ “bảo vệ” thuyền nhân từ bến đến hải phận quốc tế, nhưng thấy gió bão qua lớn nên đã bỏ về vào lúc nửa đêm. Trước lúc bỏ về, có lệnh cho mọi người trên tầu gom góp tiền bạc tư trang còn lại để “ta ơn các bộ đội biên phòng.”

Sau 2 đêm 1 ngày chống chọi với bão gió, thuyền lại phải quay về Gành Hào. Hai trăm con người trở về bến cũ với hình dạng tơi tả, thảm thương. Sau khi nhà chức trách kiểm điểm, mọi người tìm những gian nhà bỏ trống tạm trú. Không ai còn 1 xu nhỏ vì tối trước trên tàu đã thu góp tất cả mang tặng bộ đội. Các nạn nhân lũ lượt vào chợ bán rẻ những chiếc nhẫn kỷ niệm, chiếc lắc khắc tên người thân, sợi dây truyền đeo ảnh Phật… để lấy tiền độ nhật. Một đôi người vì cũng quẫn quá nên buồn rầu bỏ cuộc quay về.

Một tuần sau, chúng tôi lại xuống thuyền ra đi. Cũng gió bão ngất trời rồi trong 3 ngày liên tiếp, khi thuyền qua biển Thái Lan bị cướp 4 lần. Cướp biển, mặt vẽ xanh đỏ, có súng tiểu liên, bóc lột tàn tệ mọi người. Một số thiếu nữ bị hãm hiếp dã man.

Trong thuyền tiếng khóc uất ức vang dội như át cả tiếng sóng đang gầm thét dã man. Tất cả mọi người đều đau xót căm hờn, tâm thần như bại liệt trong hoàn cảnh phũ phàng. Thực phẩm hết, nước uống hạn chế, trẻ em đói khát nằm dài, những người mẹ rỏ từng giọt nước trên môi khô héo của con…

Đêm ngày thứ năm, thủy thủ trên thuyền reo lên: “Các cô, bác, ông bà yên lòng, chúng tôi đã trông thấy ánh đèn của giàn khoan dầu rồi. Độ 2 giờ nữa sẽ tới nơi thôi” Nửa chết, nửa sống, mọi người trông về phía xa xa thấy có mờ mờ ánh sáng, đó là giàn khoan dầu ngoại quốc tại Mã Lai.

Hai cựu quân nhân VNCH gốc hải quân biết đôi chút ngoại ngữ đeo phao nhào xuống biển tìm cách liên lạc với giàn khoan dầu. Các anh trở về bằng ca nô của giàn khoan mang theo nhiều bình nước và mấy túi bánh mì và cho biết là thuyền phải rời xa giàn khoan độ nửa hải lý, sáng mai sẽ có tàu lớn đến tiếp cứu. Thế là chúng tôi có nước cầm hơi, các bà mẹ bẻ bánh mì nhúng nước lạnh bón cho các con nhỏ.

Sáng hôm sau nắng đẹp, trời xanh biếc, mặt biển vàng tươi ánh mặt trời nhưng sóng gió vẫn lớn. Độ 9 giờ, trên tàu xôn xao vui mừng vì nhìn thấy một chấm trắng từ phía xa tiến lại. Các bạn trẻ hét to: “Chuẩn bị, tàu cứu ta đã đến kia rồi”. Khối trắng tiến gần, trên thuyền đã nhìn rõ lá cờ 3 sắc phấp phới “A, tàu Pháp!”, họ hét vang vui vẻ. Hai thuyền nhân giỏi tiếng Pháp đeo phao vù xuống biển đến tàu liên lạc. Lát sau máy phóng thanh trên tàu gọi cho thuyền tiến đến cạnh tàu.

Trên tàu Ile de Lumière (Đảo Ánh Sang) thả dây xuống buộc thuyền chúng tôi vào mạn tàu rồi cứ một lớp sóng đưa thuyền lên cao sát mạn tàu là một số thuyền nhân được nhân viên trên tàu kéo đỡ lên khoang. Khoảng sau 2 tiếng, công việc tiếp cứu đã xong. Gần 200 người tỵ nạn đã được an bình trong chiếc thủy đỉnh rộng lớn. Tất cả mọi người tắm bằng nước biển trên tàu rồi cứ mặc nguyên quần áo ướt ngồi phơi nắng gió cho khô.
Bữa ăn trưa hôm đó, người lớn được một khúc bánh mì kèm mứt ngọt. Trẻ em thêm vài bánh quy. Tối có thêm cháo, bánh mì dòn và phó mát. Đêm đến, trên boong tàu chúng tôi nằm ngồi ngổn ngang. Vừa tảng sáng máy phóng thanh rầm rã kêu gọi mọi người lên sàn tàu nghe thông điệp của Tổng Thống Pháp.

Máy phóng thanh vang vang tuyên bố là đêm qua, Tổng Thống Pháp quốc đánh điện cho các tàu Pháp vớt 1.500 người trên biển đông, và hỏi các thuyền nhân có ưng đi Pháp không. Tiếng hoan hô vang dậ﹬ ai ai cũng đồng ý, thế là tàu trực chỉ hải cảng Singapore.

Chiều tối ngày hôm sau, tới Singpore, tàu phải đậu xa biển mấy trăm thước. Nhân viên sứ quán Pháp xuống tàu làm thủ tục nhập cảnh. Chúng tôi lần lượt được phỏng vấn: tên, tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ tại Việt Nam… Lời khai được ghi rõ trong cuốn sổ lớn rồi mỗi người được cấp một tờ giấy nhỏ ngang dọc 15 phân tây. Đó là giấy nhập cảnh Pháp quốc của chúng tôi. Thuyền của nhóm tôi đã được cứu vớt đầu tiên nên được đặc biệt ưu đãi, miễn trả vé máy bay đi Pháp.

Các viên chức thức suốt đêm làm giấy tờ. Khi công việc vừa xong thì đã 7 giờ sáng. Tàu được cập bến ngay lúc đó. Một số người ở lại Singapore để chờ đón thân nhân.

Những người đi Pháp rời khỏi tàu lúc 9 giờ. Lên bến đi qua một lối riêng, cảnh sát xét giấy rồi ra thẳng nơi phi cơ Pháp đã đậu sẵn. Phi hành đoàn và hai bác sĩ, 2 nữ y tá đón chúng tôi ở cầu thang máy bay.

Thời gian tại Pháp

Trong phi cơ sáng trưng, sạch sẽ, thơm phức. Bọn thuyền nhân chúng tôi thì lem luốc, hôi hám, dơ bẩn, tiến vào ngồi trên nệm ghế màu xanh lợt. Nơi đuôi máy bay là phòng khám bệnh, giường nằm, bàn ghế trắng tinh, bác sĩ, y tá sẵn sàng đón tiếp bệnh nhân. Bữa ăn dọn lên. Mỗi người một khay có sữa, thịt gà quay, rau trộn, bánh ngọt, phó mát và kẹo. Thằng cháu nhỏ cầm bánh vừa ăn vừa cười tươi vui làm tôi thấy lòng bồi hồi chua sót.

Phi cơ hạ cánh tại phi trường Charles de Gaulle. Nhân viên Hồng Thập Tự chờ đón tất cả lên xe bus về trạm tiếp cư Crétail. Mỗi gia đình được một phòng.

Tối hôm đó, mọi người được tắm nước nóng. Có người đến Paris chỉ mang trên người một chiếc quần đùi. Áo quần giặt xong căng phơi trên máy sưởi, mình quấn khăn tắm vào giường nệm ấm. Sáng hôm sau mới được đưa
đi lựa quần áo cũ.

Ở Crétail một tuần, nhóm tôi được lệnh đi chuyển về Toulouse để chờ giấy phép đi Mỹ. Một buổi tối, chiếc xe bus màu vàng chở 20 người gồm tài xế, 2 người Lào, tới chở đi. Quá nửa đêm, xe đến địa điểm cư trú. Đó là một khách sạn cũ hai tầng lầu có nhiều phòng. Mỗi gia đình một phòng có đủ giường nệm, chăn gối, bàn ghế. Tầng dưới, phía bên cạnh là tửu lầu, mà cũng là phòng ăn của nhóm tị nạn.

Phòng ăn rộng chia làm hai nơi. Bên kia khách của nhà hàng, bên này là chỗ ăn của nhóm thuyền nhân. Mỗi bàn bốn người, thức ăn đầy đủ các loại thịt, cá, tôm…đặc biệt là Chủ Nhật, mục sư George Irwin đến đón đi lễ nhà thờ Tin Lành. Ông là người Mỹ, bà vợ dân Canada, đã truyền giáo tại Nha Trang bảy năm nên nói tiếng Việt rất lịch sự.

Ở khách sạn tạm cư được hai tháng, chính phủ trợ cấp 8 tháng tiền nhà, tiền ăn để dọn ra phố tự túc thuê nhà, kiếm việc làm. Em dâu tôi biết tiếng Pháp nên kiếm được việc ở tiệm ăn. Em gái ở nhà trông hai cháu nhỏ. Còn tôi vì quá suy nhược lại bị đau tê thấp nặng nên được đi dưỡng bệnh tại bệnh viện Luchon.

Luchon (Baguere de Luchon) nằm trong rặng núi Pyrénées, cách Toulouse độ 100 cây số. Đó là một vùng có thời tiết ấm áp, phong cảnh đẹp nhất miền Nam nước Pháp. Bệnh viện trang trí lịch sự, cách chăm lo bệnh nhân rất chu đáo dưới quyền điều khiển của bác sĩ danh tiếng.

Tại bệnh viện, buổi sáng, sau giờ điểm tâm, bệnh nhân tê thấp xuống hồ tắm nước nóng để y tá nắn gân cốt từng người. Buổi chiều, trước giờ ăn xoa bóp tại phòng ấm, và mỗi hai tuần ngâm bùn nóng. Bùn chứa trong thùng gỗ rộng. Bệnh nhân bỏ áo quần thường, mặc đồ riêng bằng nylon trùm từ đầu tới gót chân, ngâm trong bùn ấm 40 phút rồi bỏ bộ đồ nylon, tắm nước nóng, mặc lại áo quần, nghỉ độ nửa giờ mới được về phòng.
Tại Luchon có một ông bác sĩ gốc Việt Nam, Docteur Georges Navaro, nhưng không biết nói tiếng Việt. Bà vợ người Pháp rất dễ thương. Tôi là bệnh nhân Việt Nam duy nhất nên bác sĩ Navaro săn sóc rất tận tâm. Ông còn lái xe đưa tôi đi ngoạn cảnh các công viên, sang bờ biển Tây Ban Nha (cách Luchon 13 cây số) tới xem các người tập bay khinh khí cầu. Dù tôi không thông thạo tiếng Pháp bao nhiêu nhưng tôi rất thân thiện, quý hóa.

Tổ chức trong bệnh viện chu đáo, lịch sự. Bữa ăn thừa dinh dưỡng. Bệnh viện được coi là nơi để dưỡng sức, nghỉ ngơi khi quá suy nhược tinh thần. Vậy nên người địa phương chỉ được phép ở tối đa là 6 tuần lễ, nhưng riêng tôi đã ở dưỡng viện Luchon gần 3 tháng. Khi được giấy nhập cảnh Mỹ tôi mới rời viện.
Được tin nhóm tôi đi Mỹ, Ông Bà mục sư Tin Lành khuyên nhủ tôi nên ở lại Pháp làm việc cho Hội Thánh và giúp bả mở trường nữ công gia chánh để truyền bá văn hóa Việt Nam cho phụ nữ tại vùng Toulouse. Nhưng làm sao tôi bỏ 2 thiếu phụ đang trên bước đường xa lạ tìm chồng, và hai cháu nhỏ thơ ngây đi tìm cha, và nhất là sau hơn 5 năm chẳng biết em trai, em rể hiện nay tình tiết ra sao nữa?

Lên Paris trước một tuần sau khi phỏng vấn, khám sức khỏe, ký giấy vay tiền hội từ thiện Công Giáo mua vé máy bay đi Mỹ, gia đình tôi đi vãn cảnh tại thủ đô Ánh Sáng: Điện Tuileries, Panthéon, nhà thờ Notre Dame de Paris, tháp Eiffel, sông Seine, Khải Hoàn Môn (Arc de Tromphe)…

Vào trung tuần tháng 3, 1980, lúc mờ sáng, gia đình tôi đón xe lửa qua Bỉ (Belgium) rồi lên phi cơ đi Mỹ. Từ biệt nước Pháp vào lúc đèn phố còn chiếu sáng, xe lửa lướt nhanh qua dẫy phố mái nhà cao thấp, tôi mênh mang nhớ lại 9 tháng trước đây được tầu Ile de Lumière vớt cứu, được Pháp quốc chu cấp tài chánh, lo xếp đặt nơi ăn, chốn ở, chữa bệnh một cách ân cần trọng đãi, coi nhóm thuyền nhân tị nạn chúng tôi như thân hữu từ xa đến du lịch. Những sự đãi ngộ quý hóa đó đã làm chúng tôi phấn khởi tinh thần và tin tưởng kính trọng thể chế Tự Do Dân Chủ. Trong thâm tâm tôi thầm ghi ân Pháp Quốc.

Phi cơ đều hòa lướt cánh, lòng tôi rối ren nửa vui sắp đến nơi chủ định, mà buồn vì mỗi phút một cách xa quê hương. Nước và mây đã đưa tôi từ Á Châu qua Âu Châu, rồi nay đến Mỹ Châu, sau 10 tháng đầy âu lo, mong đợi.

Nước Mỹ

Tháng Ba năm 1980, máy bay hạ cánh tại phi trường National Virginia vào lúc mờ tối. Em trai và em rể đã chờ đón tại đó. Sáu năm xa cách, gia đình gặp nhau biết bao là mừng mừng tủi tủi, rồi cùng lên xe về thành phố Virginia.

Bữa ăn đầu tiên tại Mỹ là thịt gà Kentucky gần nhà. Gian nhà đầu tiên tôi đến ở đường số 7, Virginia, gồm hai phòng ngủ và phòng khách, bếp. Căn chung cư cũ kỹ đó, hai em tôi vừa thuê với giá rẻ để đón gia đình. Yên lành tôi ngủ trong chiếc giường kéo ở divan ra. Đó là chiếc giường đầu tiên tại Mỹ.

Sáng hôm sau cả nhà đến quận hạt trình giấy lĩnh thẻ cư trú, thẻ y tế. Tất cả mọi người đều được phụ cấp hàng tháng. Công việc xét kiểm giấy tờ nhanh chóng. Ông tiếp viên luôn nở nụ cười thân thiện và vui vẻ nói “You are welcome”.

Ngoài đường nắng đẹp, lá cây xanh tươi láng bóng. Em trai cho xe chạy một vòng rồi đưa đến chợ Mỹ. Chợ lớn rộng đầy đủ các loại thực phẩm; khách mua xếp hàng thứ tự. Cô gái Mỹ tính tiền, bấm máy thoăn thoắt, nét mặt tươi vui. Lúc nhận xong tiền, cô luôn nói “Thanh you”.

Về thực phẩm, lúc đó dân địa phương không ăn da gà nên bữa cơm đầu tiên nấu tại nhà có món đặc biệt là da gà xào gừng, hành tây. Vì da gà không tốn tiền mua (free) nên dân nghèo ăn đỡ, biến chế thành món ăn rất ngon.

Mấy tháng qua đi, gia đình tôi thuần thuộc sống theo cảnh lao động Mỹ. Sáu giờ sáng, nhóm đàn ông sách hộp đồ ăn ra xe đến trường (các em đang học điện tử tại đại học), sau buổi học, cả hai đi thẳng đến một nhà hàng làm bồi bàn, 8 giờ mới về. Nhóm đàn bà đi học Anh ngữ, trẻ con đến trường mẫu giáo. Riêng tôi bệnh tê thấp và thiếu máu chưa lành nên ở nhà, mỗi tuần hai lần có xe đón đến bệnh viện chữa trị, khám bệnh, chạy điện, tiêm thuốc…

Nửa năm qua đi, tôi đã đỡ nhiều nên được một nhà nhập cảng hạt ngọc – ngọc trai, ngọc thạch – mướn xâu hạt trả công một chuỗi 3 đô. Công việc không nhiều, mỗi tháng chỉ được hơn 100 dollars nhưng tôi rất mừng vì đó là những món tiền đầu tiên tôi kiếm ra ở Mỹ.

Những ngày lễ nghỉ, các em tôi mang cả gia đình đi ngoạn cảnh thủ đô Washinton DC. Tôi đã được viếng tòa Bạch Ốc (White House), Quốc Hội (Capitol), Bảo Tàng Viện (National Gallery of Art), hồ Jefferson, xem hoa anh đào nở bên dòng sông Potomac. Ngắm anh đào gió bay cánh hoa rụng như mưa, tôi chợt nhớ đến năm xưa du lịch Nhật Bản ngồi dưới gốc anh đào đại thụ ở công viên Sinjuky và ngắm dẫy anh đào ở đường lên Niko, nhưng bây giờ nhìn hoa với tâm thần thưởng ngoạn khác ngày xưa!

Xa nữa, tôi theo các hội đoàn đi du lịch New York xem Trung tâm Thương Mại Thế Giới, vòng thuyền quanh tượng Nữ Thần Tự Do tại sông Manhattan và xa hơn, sang Canada nhìn khói nước mịt mù ở thác Niagara, du ngoạn công viên Victoria, thăm nhà thờ Saint Joseph’s tại Montreal, 1000 Islands…

Hơn một năm sau, em trai, em rể tốt nghiệp kỹ sư điện tử, xin được việc làm tại miền tây. Em trai sở làm ở Bắc Cali, em rể ở Nam Cali. Tôi theo em trai về San José thuê một gian chung cư có ba phòng nhỏ, giá rẻ.
Sáng sáng, em tôi đi làm, cháu trai vào tiểu học. Tôi và em dâu thi vào Evergreen Valley College. Em học lớp trên, tôi học lớp cuối. Em có học bổng (Scholarship), còn tôi thì không, chỉ lấy có 4 units. Tôi rất ngỡ ngàng vì mỗi khóa học đều có thanh tra đến phát giấy cho học trò phê bình hạnh kiểm của cô, thầy giáo. Trong khi thanh tra đến, thầy giáo phải ra ngoài để học trò tự nhiên viết lời phê bình lên giấy. Có một câu hỏi tôi nhớ rõ: “Đối với học trò thầy cô có hòa nhã, lễ độ không?” đó là cách thực thi dân quyền, dân ý của nước dân chủ tự do. Tất cả các trường đều vậy. Ngoài việc học, mỗi chiều thứ sáu và ngày thứ Bảy, tôi phụ giúp tiệm bánh ngọt, công mỗi giờ 3 dollars.

Từ khi đến Hoa Kỳ đến nay thấm thoát đã trên hai mươi năm. Em trai, em rể đã nhiều phen chìm, nổi với nghề nghiệp, đã 4,5 lần thay đổi sở làm và cũng vài lần thất nghiệp nằm nhà đợi “Job” hàng 5,7 tháng. Em dâu cố gắng học xuốt 4 năm để lấy bằng kế toán (acounting). Em gái sau khi khá anh ngữ, học nghề phụ tá bác sĩ về răng. Suốt bao năm vần cù làm lụng, học hỏi không ngừng nên hiện giờ hai người đàn ông đã là nhân viên kỳ cựu trong ngành điện tử, và em gái, em dâu tôi đã tìm được việc làm theo khả năng chuyên môn vững chắc. Hai cháu nhỏ lúc rời nước có 6 tuổi, nay đang theo ngành y khoa.

Còn riêng tôi sau hai năm làm lao công bán bánh ngọt, cửa hàng đổi chủ, tôi đi may thuê tại tiệm may áo dài Việt Nam. Ngoài việc may, em tôi nhận “chip” điện tử về cho làm thêm vào buổi tối. Cả gia đình làm lụng cần cù nên nay các em đã có căn nhà khang trang. Phần tôi đã đến tuổi lão được lĩnh phụ cấp (SSI). Bệnh tê thấp, thiếu máu vẫn dai dẳng, lại thêm bệnh đau dạ dày (stomach Ulcer), bác sĩ khuyên nên an tĩnh tinh thần, duy trì tuổi lão…vậy nên sự du ngoạn là một vấn đề trong chương trình cuộc sống còn của tôi.

Vì thế nên sau mười mấy năm lao động cả về thể chất lẫn tinh thần nơi đất lạ, tôi đã đi thăm các thắng cảnh tại miền Tây để bảo vệ sức khỏe, và nhất là mong được hiểu biết thêm cảnh trí, nền văn hóa, cách sinh hoạt đại chúng từng địa phương với bao công trình kiến tạo đặc sắc của nước Mỹ – một hiệp chủng quốc tân tiến, trù phú, hùng cường, có nhiều sắc dân cư ngụ khắp trong 50 tiểu bang rộng lớn.

Tôi đã từng tới công Viên Yosemite, Redwood Basin, Heart Castle, cầu Golden Gate, San Mateo, Gand Canyon, Mystery Spot (Santa Cruz), Mystery (San José), Lake Tahoe, Universal Studio, Disneyland… và cả các nơi giải trí bằng cờ bạc, đỏ đen như Las Vegas, Reno…

Năm thi quốc tịch tại San Jose, khảo thí viên, một ông Mỹ trắng, hỏi tôi trên 20 câu phần chính về lịch sử từ khi lập quốc, rồi hành pháp, tư pháp, thượng viện, hạ viện, dân biểu, nghị sĩ, và hỏi tôi có bị tù không… Câu cuối cùng, ông ta hỏi: “Tại sao bà muốn làm công dân Mỹ?”

Tôi đáp: “Bởi vì nước Mỹ là nước có Tự Do, Dân Chủ”. Ông khảo thí đưa bút và giấy bảo tôi viết. Ông đọc: “I love America”. Khi tôi viết xong, ông ta nhìn tôi mỉm cười: “Rất tối, bà đã đỗ” (Very good. You have passed).
Sau khi ký các giấy tờ thường lệ và viết tên văn bằng công dân Mỹ, tôi chào ông và nói: “Tôi nhớ ơn Mỹ quốc, xin cảm ơn ông! (I am grateful to America. Thank you)”.

Trùng Quang

* *  *
Bà Trùng Quang Sinh ngày 1-1- 1912 tại miền Bắc VN, bà Trùng Quang là nhà thơ, nhà hoạt động văn hoá, xã hội, giáo dục kỳ cựu của phụ nữ Việt Nam.

Tại Hà Nội, bà là hiệu trưởng sáng lập Trường Nữ Công Việt Nữ. Di cư vào Nam từ 1954, bà là hiệu trưởng trường Phương Chính, giảng dạy về Việt ngữ, sinh ngữ, nữ công. Bà cũng là người khai sáng ngành mỹ nghệ làm búp bê Việt Nam với kỹ thuật du nhập từ Nhật và Âu Châu.
Xuất hiện trên sân khấu, cạnh học trò cũ là Kiều Chinh, tác giả Trùng Quang bằng tiếng Anh lưu loát, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa và lòng biết ơn đất nước Hoa Kỳ khi bà Viết Về Nước Mỹ.

 

Hãy mặc cho con bộ đồ màu đỏ

Hãy mặc cho con bộ đồ màu đỏ

Khi con chết, xin cô hãy mặc cho con bộ đồ màu đỏ. Bởi khi đang chơi với các bạn, con muốn mẹ dễ dàng nhận ra con.

Tác giả Cindy Dee Holms
(Mint dịch)

Công việc của tôi là chăm sóc những đứa trẻ mang trong người virus gây ra căn bệnh AIDS. Những mối quan hệ tôi có được với những đứa trẻ đặc biệt này chính là món quà vô giá đối với tôi. Tôi xin kể cho các bạn nghe câu chuyện về lòng can đảm của một cậu bé tên là Tyler.

Khi mới sinh, Tyler đã bị lây nhiễm HIV từ người mẹ. Từ lúc còn là một đứa bé sơ sinh, em sống được là nhờ vào rất nhiều loại thuốc. Đôi khi, em cũng cần phải được trợ giúp thở bằng oxy.

Thế nhưng, Tyler không chịu gục ngã trong bất kỳ một phút giây nào trước căn bệnh chết người này. Chúng tôi vẫn thường thấy cậu chơi đùa hay chạy nhảy dưới sân, vừa mang trên vai chiếc ba lô trĩu nặng thuốc men, vừa kéo lê theo mình chiếc xe đẩy chứa bình oxy để thở.

kid28-5293-1389950693.jpg
Ảnh minh họa: CMS.

Niềm vui trẻ thơ của Tyler đã mang lại cho cậu bé sức mạnh và khiến tất cả chúng tôi, những người biết cậu đều rất đỗi ngạc nhiên và xem đây là một kỳ tích. Mẹ của Tyler nhận thấy cậu bé chạy quá nhanh nên bà mặc cho cậu bộ đồ màu đỏ. Bằng cách ấy, mỗi khi nhìn ra cửa sổ để trông chừng Tyler chơi đùa trên sân, bà đều có thể dễ dàng nhận ra cậu ngay.

Căn bệnh đáng sợ ấy cuối cùng rồi cũng hạ gục ngay cả một cậu bé đầy nghị lực như Tyler. Cậu yếu dần, và bất hạnh thay, cả mẹ cậu cũng trong tình trạng như vậy. Đến lúc thấy cậu bé sống không được bao lâu nữa, mẹ Tyler trò chuyện và an ủi rằng bà cũng sắp chết và bà sẽ sớm bên cạnh cậu nơi Thiên đường.

Vài ngày trước khi qua đời, Tyler ra hiệu cho tôi đến gần bên giường của cậu và thì thầm rằng: “Con sắp chết rồi cô ạ. Nhưng con không sợ đâu. Khi con chết, xin cô hãy mặc cho con bộ đồ màu đỏ. Mẹ đã hứa là cũng sẽ đến Thiên đường với con. Khi mẹ đến, có lẽ lúc ấy con đang chơi với các bạn, và con muốn mẹ dễ dàng nhận ra con ngay”.

 

Bố

Bố

Chuacuuthe.com

th (1)

VRNs ( 24.04.2014) – Sài Gòn-  Nhà tôi ở bên bờ sông. Sau nhà, những chiếc xà-lan gầm rú, những chiếc vỏ lãi nhỏ nhắn mỏng manh suốt ngày xuôi ngược trên sông, chở đầy ăm ắp những cây củ quả, những hàng nông sản chắc là cây nhà lá vườn. Chiếc ô-bạc-lơ bông bí đặt trên mũi đò mở hết công suất:

– Mười ngàn ba kí bắp cải, bắp cải ba kí mười ngàn.

– Ai hành hẹ, dưa leo, củ sắn, dừa tươi, dừa khô, củ cải trắng, củ cải đỏ, khoai lang, dưa hấu hôn?

Trước nhà, tiếng hú của xe cứu thương, tiếng còi giành đường inh ỏi, tiếng xe tải rầm rập. Và tiếng rao của những chiếc loa vuông trên những chiếc xe gắn máy cũ không thể cũ hơn:

– Sò huyết, sò vôi, sò cò, sò lông đây.

– Giấy thơm chùi miệng chùi tay một cây mười ngàn, bà con cô bác ơi.

– Mua ti-vi, ăm-li, tủ lạnh đây.

Và nhất là bài thuyết minh dài dằng dặc về tiến bộ của khoa học. Sau nhiều năm nghiên cứu, người ta đã phát minh ra và đưa vào sử dụng sản phẩm công nghệ cao, bảo vệ môi trường không gì hơn được. Kết luận:

– Keo dính chuột, keo dính ruồi đây.

Bấy nhiêu thứ âm thanh (gọi là tiếng động có vẻ chính xác hơn) xô bồ, suốt ngày đêm ra rả tra tấn thính giác con người, làm tôi muốn điên lên. Rồi mất ngủ, rồi thao thức, nhớ linh tinh đủ thứ chuyện, đủ thứ người. Rồi nhớ da diết một người: Bố. Bố nuôi tôi bằng nghề hàn nồi niêu soong chảo lu khạp của bố. Lời rao hàng của bố không có máy tăng âm, không thét vào tai người ta, nhưng ai đã nghe qua một lần là nhớ ngay, không quên được, vì nó buồn buồn, lại vui vui, nghĩa là buồn cười:

– Hàn nồi hàn niêu, hàn cả tình yêu, hàn cả cuộc đời. Hàn niêu hàn nồi, hàn luôn con người, hàn cả trái tim.

*  *  *

Từ khi lên lớp mười, tôi đã được nghe người ta nói gần nói xa, bóng gió rằng tôi là con nuôi. Các cô các dì tôi thường lườm nguýt:

– Anh nuông chiều nó quá. Nó lớn rồi, anh phải bảo ban dạy dỗ nó, phải nghiêm khắc mới được. Anh không nhớ cha chúng mình thường nói: “Yêu cho roi cho vọt” hay sao?

Tôi trốn học, nhà trường gởi giấy báo về nhà, bố giận lắm. Hôm ấy bố không ăn uống gì. Bố quăng tờ giấy báo đóng dấu đỏ chót của nhà trường lên bàn học của tôi. Tôi thấy rõ bố nén cơn giận:

– Con trả lời bố thế nào đây?

Tôi nói dối, bào chữa:

– Buổi trưa cô giáo dạy môn Tiếng Anh tổ chức mừng sinh nhật, tụi con về trễ 15 phút, cô chủ nhiệm không cho vào lớp.

Cơn giận của bố bùng nổ. Tuy nhiên tôi thấy bố cũng còn cố kiềm chế:

– Con trốn học ngày 2 tháng 3. Sinh nhật cô Nguyễn Thị Mông Triệu dạy môn Tiếng Anh ngày 15 tháng 8, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Con nỡ lòng nào nói dối bố? Hôm nay bố phạt con không phải vì con trốn học, cũng không phải vì tờ giấy báo kia, mà vì con nói dối bố. Đó cũng là phạt chính bố đã không dạy dỗ con thành một người chân thật. Con lên giường, nằm sấp xuống, bố đánh con ba roi.

Bố thẳng tay vụt cái roi trúc lên người tôi. Đau quá, không chịu nổi. tôi gào toáng lên. Bố ném chiếc roi vào góc nhà, nói cộc lốc:

– Còn hai roi. Để đấy. Cho nợ.

Tôi thấy bố lấy tay áo lau nước mắt. Tôi biết, từ nay, tôi không nỡ, không nên mà cũng không thể nói dối bố được nữa.

Chiều, hàng xóm láng giềng xì xầm với nhau:

– Lão già ác thật, đánh con bé đến không đi nổi, đau đến độ nó phải khóc thét lên, cả xóm nghe thấy. Rõ là khác máu tanh lòng.

Đêm, tôi gục mặt vào gối, khóc thầm cho thân phận mình. Tôi nhất quyết phải hỏi bố cho ra lẽ. Hôm sau, tôi xin lỗi bố, rồi hỏi:

– Bố cho con hỏi hai câu, bố đừng giấu con: Thứ nhất con có phải là con của bố không? Thứ hai…

– Bố biết câu hỏi thứ hai rồi.

Khuôn mặt bố căng ra, có vẻ rất nghiêm trọng:

– Bố chờ đợi câu hỏi này của con từ lâu lắm rồi. Bố hỏi con: Có khi nào con không là con của bố không? Thế này nhé! Bố hứa sẽ nói tất cả khi con khôn lớn, vào một dịp đặc biệt nào đó, ngày con vào đại học chẳng hạn (bố con mình ấn định luôn, ngày con vào đại học nhé!). Lúc ấy con đã trưởng thành. Còn bây giờ, nhiệm vụ của con là học và học được không?

*  *  *

Tôi trúng tuyển kỳ thi vào đại học. Đó là ước mơ của tôi, cũng là ước mơ của bố, nhưng đối với bố, đó là ước mơ vượt tầm vì bố phải đi vay nặng lãi làng trên xóm dưới mới có tiền cho tôi đi học. Bố chăm chút cho tôi từng li từng tí, như một người cha, đồng thời như một người mẹ. Tôi thương bố quá, vừa muốn bỏ học cho rồi, nhưng lòng lại dặn lòng phải hết sức cố gắng để không phụ công lao và niềm tin yêu của bố. Tôi cũng đã biết hai năm rõ mười về nhân thân vô thừa nhận của tôi. Tôi không nhắc gì đến lời hứa của bố. Nhưng bố không quên. Bố gọi tôi lên phòng bố:

– Bố trả lời cho con không phải hai mà là tất cả mọi câu con hỏi bố hôm nay, như món quà mừng con vào đại học. Nào, con hỏi đi.

– Thôi mà bố. Chẳng có gì quan trọng đâu.

Bố nhìn xa vắng, như thể đôi mắt bố nhìn ra ngoài cửa sổ, mãi tận chân trời quá khứ xa xăm nào đó:

– Bố nhặt được con trong một thùng rác. Tiếng khóc của con đã cứu con. Lúc ấy, người con tím ngắt, lũ kiến cắn khiến môi, mắt con sưng vù lên. Bố đưa con vào bệnh viện, người ta theo nguyên tắc, chỉ đồng ý chữa trị cho con nếu bố trả tiền viện phí, tiền thuốc men, sữa sần, quần áo, tã lót và các chi phí linh tinh khác, và cam kết chịu trách nhiệm chăm nuôi đứa bé. Ơn Chúa, vì thế mà bố con mình có nhau. Con nghĩ xem, có một người đàn bà, vì một lý do nào đó, do hoàn cảnh đưa đẩy, đã can đảm cưu mang chín tháng mười ngày đứa con của mình, rứt ruột sinh con ra mà không nuôi được, cũng có thể không được nuôi. Người đàn bà ấy, là người mẹ đẻ của con, đau khổ và đáng thương lắm chứ, phải không?  Đáng trách phải là người đàn ông bội bạc, là thành kiến xã hội đối với những người lầm lỡ, là dư luận ác tâm, là những bậc ông bà cha mẹ, là những chức dịch chánh phó trương trùm trưởng tân cựu, miệng lúc nào cũng rao giảng lời Chúa, tha thứ bảy mươi lần bảy, nhưng thực tế lại tự cho mình là quan tòa, kết án nạn nhân là chửa hoang, là lăng loàn trắc nết, là kẻ bôi tro trát trấu, làm ô danh gia đình, dòng họ, giáo khu, giáo xứ, là mọi người thấy người ta chết đuối mà không dám đưa tay ra, dù chỉ một ngón tay. Bố gọi đó là sự bất khoan dung, có được không, con gái? Con còn trẻ, đời còn dài, bố thành tâm mong Ơn Trên run rủi cho con được gặp mẹ con, con sẽ hiểu được thế nào là tấm lòng người mẹ.

Bố sòng sọc rít một hơi thuốc lào:

– Câu hỏi thứ hai. Con hỏi về bố phải không?

Tự nhiên nước mắt tôi trào ra:

– Vâng, nhưng không cần nữa đâu, bố ạ! Bố biết cho, bố là bố, là người thân yêu duy nhất, là điểm tựa đời con, thế là đủ với con, bố ạ!

*  *  *

Tôi ra trường, chưa xin được việc làm, chưa đáp đền công ơn bố được xu teng cắc bạc nào thì bố bỏ tôi mà đi. Bố mất năm bố năm mươi mốt tuổi. Trúng cơn gió độc (chắc là bị tai biến mạch máu não hay nhồi máu cơ tim gì đó), bố hôn mê sâu, không nói được một lời nào với bất cứ ai. Bố được đưa đi cấp cứu ở bệnh viện Chợ Rẫy. Khi đi, bố là một con người; khi về, bố chỉ là một cái xác không hồn. Bố chết như một chiếc lá rụng về cội. Hình như bố không muốn hay không dám làm phiền hà con gái bố và những người thân của bố, dù chỉ một viên thuốc, một hớp nước lã, một thìa cháo hoa, một câu nói cuối đời.

*  *  *

Hôm thứ tư Lễ Tro, sau khi tham dự thánh lễ khai mạc Mùa Chay Thánh, tôi ra Phục sinh đường giáo xứ viếng bố. Tôi nhìn lên nơi bố yên nghỉ. Một con người chỉ còn một dúm tro trong cái tiểu bé tí kia ư? Nắm tro ấy từ đâu đến? Như thế nào? Rồi đi đâu?…Bố đã được dựng nên và được gởi đến, được đặt để trong thế gian này cho riêng tôi, với bao nhiêu lao công khó nhọc, mồ hôi nước mắt. Bố đã là cha, là bạn thiết, là món quà quý giá nhất trên đời Chúa ban tặng cho tôi. Bố đã yêu thương, đã được chẳng bao nhiêu, nhưng mất mát lại nhiều quá. Bố đã “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” (GS). Bố đã là một con người, vậy mà giờ đây, chỉ còn một nắm tro tàn. Quả thật, cuộc hiện sinh kinh hoàng biết nhường bao. Tôi đăm đắm nhìn lên di ảnh của bố. Bố cười, nụ cười hàm chứa một chút đau đớn cam chịu, nhưng vẫn là nụ cười đã thắng vượt nỗi đau, và cả sự chết, một nụ cười không thể bị già nua đi nữa. Có khi đó còn là nụ cười vĩnh cửu không chừng. Nụ cười của bố như muốn nói với tôi rằng:

-Bố đã từ tro bụi mà đến, thì lại tro bụi mà về. Nhưng con hãy tin đi. Nắm tro bụi này sẽ trỗi dậy trong một thân xác thần thiêng ngày sau hết, giống như thân xác hiển vinh của Đấng đã bị treo lên, đã chịu chết, chịu mai táng và phục sinh, vì bố vì con, cho bố cho con.

Thân Thị Vô Dụng

Đường không em anh đếm buớc nhiều hơn…

Đường không em anh đếm buớc nhiều hơn…

Saigon có nhiều truờng đại học ..nhưng có lẽ chỉ Khoa học là ngôi truờng có đường đến thật dễ thương.

Trường Y thì con đường Hùng Vương thật đông đúc, truờng Dược và Nông lâm cùng Đại học xã hội Nhân Văn tức Văn khoa ngày xưa thì đuờng Đinh Tiên Hoàng cũng khá đẹp. Riêng Đại học kinh tế tức truờng Luật ngày xưa, đường Nguyễn Đình Chiểu có cây cao nhưng nhỏ xiú. Còn đường Duy Tân, con đường đã đi vào thơ và nhạc nhờ bài hát “Trả lại em yêu” thì tuy nhạc sỹ Phạm Duy ca tụng “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” nhưng cũng hơi nhỏ hẹp. Chỉ có đưòng Cộng Hoà cũ tức Nguyễn Văn Cừ bây giờ dẫn đến Đại Học Khoa học là đuờng đẹp nhất trong các đường đại học thời trước 75.

Đường rất rộng gồm đường chính và hai đường nhỏ hai bên dành cho xe đạp. Con đường rợp bóng mát của những cây, dường như gọi là “còng me tây”(??), cây thấp gốc to, tàn rộng xoè che phủ trông giống như cái lọng của hoàng hậu.

Tôi rất thích đi bộ trên con đuờng này. Nhớ hồi phổ thông thích đi bộ trên đường Bà Huyện Thanh Quan..Những con đường đẹp bao giờ cũng phải có cây cao, bóng mát nhất là có hai hàng me xanh chụm đầu vào nhau thì thật tuyệt và ….đừng có nhiều xe!!

Bây giờ thành phồ đông đúc hơn xưa, số lượng xe máy tràn ngập nên các con đừơng cũng tràn ngập xe và mất đi rất nhiều vẻ thơ mộng ngày nào.

Có đi bộ để tà áo dài bay trong gió hay nón lá nghiêng vành thì các thi nhân mới có hứng để làm thơ. Còn bây giờ ..tôi bật cuời khi nghĩ rằng, nếu Nguyên Sa về đây nhìn các em phóng xe Dream vù vù, mặc áo dài mà ngồi dạng hai chân, tóc tém hớt cao thì…nhà thơ có viết thơ đuược nữa không nhỉ.

Tôi có một kỷ niệm nhỏ gắn với con đường đại học cuả tôi. Hồi đó tôi chuưa biết đi xe máy nên phải đi xe lam đến truờng. Xe dừng ở đầu bùng binh, đường Hồng Thập Tự tức Nguyễn thị Minh Khai bây giờ rồi tôi đi bộ vào Khoa học trên đường Cộng Hoà… Trứơc khi đến Khoa học, tôi phải đi ngang trừơng Petrus ký tức Lê Hồng Phong bây giờ. Lúc về lại đi ngang Petrus Ký để ra lại đường Hồng Thập Tự đón xe lam về nhà. Tuy lên đại học nhưng gia đình khó nên vẫn bắt tôi mặc áo dài trắng ôm cặp y như ở phổ thông. Thỉnh thoảng tôi mặc áo dài cũ còn nguyên phù hiệu Gia Long. Khi đi ngang Petrus Ký để đón xe lam ở đầu đường HồngThập Tự về nhà, một anh chàng áo trắng quần xanh mang phù hiệu Petrus Ký đi theo. Tôi nhút nhát không dám nói gì hết mặc cho anh ta độc thoại. Mà không hiểu sao anh ta gặp tôi mấy lần như thế. Toàn là khi tôi đi về nên anh ta hoàn toàn không biết “chị Hai” đã là sinh viên.

Một lần anh ta “rống lên ” :

Nắng Saigon anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
(thơ Nguyên Sa)

Tôi bật cuời và ứng khẩu:

Lầm nghe em, chị đâu phải Gia Long
Sinh viên đó, xin đừng theo chị nữa
Ráng học đi coi chừng đi quân dịch
Hẹn gặp em trong sân truờng đại học …năm sau !

Thế là cây si đỏ mặt, không còn đi theo nữa. Tuổi trẻ nghịch ngợm thật. Nhưng cuộc đời có những cái ngồ ngộ không lý giải đuợc ..Có nguời mới nhìn đã thấy ưa, có nguời gặp hoài thấy phát ghét!

H là một trong cái mặt mới gặp ..mà không ghét. Có lẽ vì tôi là Bắc kỳ nên luôn có cảm tình với dân Bắc kỳ như mình. H đi theo tôi, trêu chọc, cứ tưng tửng, chẳng biết là thật hay giả..

Một lần hắn đua cho tôi bài thơ dễ thuơng :(cũng không biết thơ của hắn hay là của ai ?)

Đố em biết đuờng đến truờng mấy ngả
Con đuờng nào anh đếm buớc nhiều hơn
Gốc cây nào anh thuờng quen đứng đợi
Nhớ nhung gì khi bóng ngả hoàng hôn?

Gặp ngay “nữ văn sỡi “Lan Chi. Vậy là đâu có …thuơng yêu con nguời ta một ly ông cụ nào đâu mà cũng hoạ lại chơi :

Em vẫn biết đuờng đến truờng nhiều ngả
Đuờng không em anh đếm buớc nhiều hơn
Gốc me tây anh vẫn thuờng đứng đợi
Nhớ em nhiều khi bóng ngả hoàng hôn!

Đúng không các bạn trẻ?

Đuờng không em anh đếm buớc nhiều hơn

Hay là bây giờ không còn thơ mộng như thời xưa nữa? Nghĩa là đuờng không em, anh chạy sẽ nhanh hơn ?

Hoàng Lan Chi

Lâm Kim Trọng gởi

Thiên thần mang áo lính

Thiên thần mang áo lính

Qua dòng nước mắt, cha tôi kể cho người đàn ông xa lạ nghe chuyện mẹ mình đang nằm chờ chết trong bệnh viện.

Tác giả Jeannie Ecke Sowell
(Mint dịch)

Gia đình tôi có một giai thoại mà cha tôi thường hay kể cho chúng tôi nghe. Đó là câu chuyện về bà nội tôi.

Năm 1949, cha tôi trở về nhà sau chiến tranh. Trên mọi nẻo đường khắp nước Mỹ, bạn có thể thấy những người lính đang xin đi nhờ xe để trở về với gia đình mình. Chuyện đó đã trở thành bình thường ở Mỹ lúc bấy giờ.

Không may là, niềm vui sướng được trở về đoàn tụ với gia đình của cha tôi nhanh chóng lụi tàn. Bà nội tôi bị bệnh rất nặng phải đưa vào bệnh viện. Thận của bà có vấn đề. Bác sĩ nói, bà phải được truyền máu ngay nếu không sẽ không qua khỏi đêm nay.

Vấn đề là máu của bà nội thuộc nhóm AB – một loại máu cho đến ngày nay vẫn còn rất hiếm chứ đừng nói gì đến thời đó, cái thời mà chưa có các ngân hàng máu hay các chuyến bay phục vụ cho công tác y tế.

Tất cả mọi người trong gia đình đều đến làm xét nghiệm, nhưng chẳng ai có nhóm máu giống bà. Không còn hy vọng gì nữa, bà nội đang hấp hối. Cha tôi rời bệnh viện mà nước mắt ròng ròng. Ông phải đi đón mọi người trong gia đình đến để nói lời chia tay với bà nội.

 

nguoilinh1-4979-1395976565.jpg

Trên đường đi, cha tôi gặp một người lính vẫy tay xin đi quá giang về nhà. Đang buồn như vậy nên cha chẳng còn tâm trí đâu mà đi giúp người khác. Nhưng, dường như có một sức mạnh nào đó khiến ông dừng xe lại cho người lạ mặt đó bước đi nhờ.

Trong lúc tâm trạng rối bời, cha cũng không hỏi xem người lính đó tên là gì, nhưng khi vừa lên xe ông ta đã nhìn thấy những giọt nước mắt của cha và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Qua dòng nước mắt, cha tôi kể cho người đàn ông xa lạ nghe chuyện mẹ mình đang nằm chờ chết trong bệnh viện vì bác sĩ không thể nào tìm ra người có nhóm máu AB giống như bà. Và nếu họ không tìm được trước đêm nay, bà chắc chắn sẽ chết.

Không khí trong xe chợt chùng xuống. Rồi người lính xa lạ đưa tay mình cho cha tôi, lòng bàn tay xòe ra. Nằm gọn trong bàn tay ông là một chiếc thẻ bài vừa tháo trên cổ xuống, trên đó ghi: “Nhóm máu AB”. Rồi người lính nọ bảo cha tôi quay xe trở lại, đưa ông đến bệnh viện.

Bà nội tôi sống thêm nhiều năm sau nữa. Thế nhưng, cho đến tận bây giờ, cả gia đình tôi không một ai biết tên người lính đó. Cha tôi vẫn thường tự hỏi, liệu người đàn ông đó có phải là một quân nhân hay chính là một thiên thần trong trang phục người lính?

 

Người Mỹ gốc Việt hồi hương ???..!!!

Người Mỹ gốc Việt hồi hương ???..!!!

Hồi hương…!!!
Kể từ sau năm 1975, vì biến cố chính trị, số người Việt Nam lưu vong sống trên các đất nước tự do có thể tính bằng con số triệu. Có mọc rễ hay không trên xứ người nhưng phần đông Việt kiều trong thâm tâm luôn nhớ về quê hương nơi chôn nhau cắt rún, nơi chứa nhiều kỷ niệm từ nhỏ cho đến lớn, nơi có đồng bào cùng màu da, cùng tiếng nói. Nhất là những người lớn tuổi về hưu, con cái đã trưởng thành, đã nên người thay thế cha mẹ ra đóng góp cho xã hội thì họ lại thường cảm thấy cô đơn lạc lõng bên xứ người và muốn trở về để gởi nắm xương tàn trên quê hương mình mặc kệ những bất đồng chính kiến, mặc kệ ngày nào đã bất kể sống chết, bỏ lại tất cả để ra đi tìm tự do.
Ông Tâm là một trong số người muốn trở về cố hương đó. Ông là sĩ quan cấp tá của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau năm 1975, dĩ nhiên cũng như các sĩ quan khác ông cũng phải đi học tập cải tạo một thời gian dài, nhà cửa bị tịch thu, con cái không được học đến nơi đến chốn vì lý lịch xấu. Ngày ông còn trong tù thì vợ ông đã mất vì quá lao lực, và suy dinh dưỡng. Ra tù ông lại phải sống thấp tha thấp thỏm lo sợ không biết một ngày đẹp trời nào đó bọn ác ôn bắt bỏ tù trở lại; rồi gia đình bị bắt đi kinh tế mới; cuộc sống dưới chế độ mới thiếu thốn, khổ cực trăm bề nên ông cố sống cố chết tìm cách đưa con cái vượt biển. Cũng may nhờ bạn tù giúp đỡ nên chuyến vượt biển thành công. Sau một thời gian ở trại tị nạn gia đình ông được sang định cư ở Hoa Kỳ.
Ông Tâm qua được xứ sở tự do thì ngã bịnh mất khả năng lao động nên được hưởng tiền bịnh do tiểu bang cấp cho. Bốn người con đứa đi học nghề, đứa ra làm việc và từ từ đều lập gia đình có cuộc sống ổn định bên xứ người. Nhưng vì công việc nên mỗi đứa con lại ở một tiểu bang, chỉ thi thoảng mới gặp nhau. Còn cô gái lớn thì ở cùng một tiểu bang với cha.
Ông Tâm ở riêng một mình. Ông không muốn làm phiền đứa con nào vì tính ông độc lập lâu nay, cứ ngại làm mất tự do và đời sống riêng tư của con cái, và ông cũng thích sống một mình cho thoải mái. Ông mua một cái mobile home giá rẻ, cho một hai người thuê phòng ở chung để có thu nhập trả tiền đất, và nhờ bạn bè làm mai giới thiệu cho ông một bà góa để đỡ phòng không chiếc bóng.
Bà góa này tên Tình, coi xấu người mà đẹp tính. Bà Tình hiền lành, dễ tính, biết chịu đựng, biết im lặng nghe ông nói mà không tranh cãi gì cả. Ông chỉ con chó mà nói là con gà thì bà cũng ừ cho đó là con gà; ông bắt bà im thì bà không dám hó hé lấy một tiếng mà nín thinh cả mấy ngày trời cho tới khi ông cho nói bà mới dám mở miệng… Con cái của ông đều quí mến bà mẹ kế này và nhiều khi còn binh bà để phản đối ông quá ăn hiếp:
– Sao cô hiền quá vậy? Ba con nói ngang nói ngược mà cô không cãi cứ để ổng ăn hiếp hoài.
Bà Tình cười hiền lành:
– Thì cô coi như cha, cãi làm chi với cha cho mệt.
Bà Tình làm ở nursing home săn sóc chiều chuộng người già, người bịnh cũng quen nên mới có thể ở chung với ông Tâm được. Tính tình hai người khác nhau như hai thái cực nên có lẽ ở với nhau để bù đắp cho nhau. Bà Tình dễ tính bao nhiêu thì ông Tâm khó bấy nhiêu. Ngày xưa sống trong quân kỷ quen, ông dùng kỷ luật sắt trị lính và trị cả gia đình. Con cái phạm lỗi là ông đét đít không tha. Ði thưa về trình, đúng giờ đúng giấc không được sai một phút. Chiều tối là cửa đóng then cài, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ra vào cửa phải đóng, quên là bị phạt mở ra đóng lại 100 lần cho quen. Ở xứ Mỹ, bạn bè con cái có bất thình lình ghé ngang nhà thăm ông mà không gọi điện báo trước chớ hòng ông mở cửa tiếp. Có ông bạn thân sẵn đi câu về ghé tặng ông ít cá tươi, gọi cửa hoài ông không mở, chỉ đứng trong nhà ngó ra nên người bạn phải treo bị cá trước cửa rồi bỏ đi. Nhiều, nhiều kỷ luật và nội qui được đặt ra lắm nên đám con không gần gũi cha cho mấy, đứa nào cũng sợ ông như sợ cọp. Bạn bè ai cũng lắc đầu, bảo ông là chướng.
Vậy mà bà Tình cũng hay, sống với ông được đến 4 năm mới chia tay vì có một ngày ông cấm không cho bà về thăm lo cho con cái và cháu ngoại riêng nữa. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng bà phản đối, chống lại ông. Ông Tâm muốn gì bà cũng chiều ngoài việc này. Tấm lòng người mẹ bao la như biển, lúc nào cũng lo lắng, bảo bọc, và hy sinh cho con thì ông Tâm chẳng thể nào mà chia cách được. Ông Tâm lâu nay quen ra lệnh và bà Tình thì quen tuân theo nên lần này nghe bà phân trần ông đã nổi giận mất khôn mà quát lên:
– Ở trong nhà này phải giữ kỷ luật, phải đi về cho đúng giờ giấc. Mấy hôm nay cứ tối mịt mới về nhà, cứ lấy cớ là về thăm cháu bịnh. Cháu bịnh thì có mẹ nó lo. Bà dẹp đi. Bà đi với thằng nào? Từ nay không có đi thăm cháu chiếc gì nữa. Còn không thì bà đi luôn đi. Nhà này không chứa đàn bà vô kỷ luật, thúi tha, mất dạy.
Bà Tình mở lớn mắt nhìn ông Tâm. Còn gì để nói nữa. Ðã biết rằng khi nổi giận thì ăn nói hồ đồ, nhưng bà không ngờ ông Tâm lại thốt những lời khó nghe và không tôn trọng bà như thế. Bà Tình lẳng lặng vào phòng thu xếp hành lý bỏ gọn trong cái va ly nhỏ. Không nói thêm một tiếng để chào từ giã ông Tâm đang mặt hầm hầm, bà xách va ly ra xe nổ máy chạy đi và không quên gọi cho đứa con gái của ông để báo cho nó biết:
– Chào con, cô chia tay với ba con rồi và sẽ không trở lại nữa đâu. Con nhớ ghé lại săn sóc cho ổng nhen.
– Cô đi luôn à? Con cũng lo sẽ có ngày này vì tính Ba nóng quá. Cô ơi, có gì cô bỏ qua cho vì con biết Ba thương cô lắm.
Cô Tình bùi ngùi nói:
– Cô biết Ba con tính nóng nên lâu nay nhịn và chiều ổng cho xong. Già rồi sống nương tựa với nhau cho vui. Con cái khôn lớn tách riêng thì mình lại càng phải dựa vào nhau để sống và an ủi cho nhau. Có điều Ba con không cho cô về thăm con cháu là không được. Lại còn ghen tuông nói bậy và không tôn trọng cô nữa nên cô buồn lắm. Thôi để tách nhau một thời gian xem sao.
– Cô ơi! Cô ráng giữ sức khỏe nhé. Mai con sẽ qua thăm Ba và khuyên ổng làm hòa lại với cô.
Hôm sau cô con gái đến thăm và khuyên cha:
– Cô Tình hiền và được quá mà sao Ba để cho cổ đi vậy? Ba làm hòa với cổ đi.
Ông Tâm sửng cồ:
– Hiền cái gì mà hiền. Bây giờ dám mở miệng cãi lại rồi còn bỏ đi nữa. Ba không cần thứ bà chằn đó. Ba chỉ thích loại đàn bà nghe lời ba 100 phần trăm, không được cãi mà nói gì cũng phải nghe.
Cô con gái bất mãn nghĩ thầm chứ không dám nói ra:
– Vậy thì ba đi kiếm người câm mà lấy đi. Mà phải vừa câm vừa điếc chứ nghe chửi mà không cãi được chắc họ đánh lại thôi.
Cô Tình bỏ đi không trở lại. Ông Tâm tự ái không làm hòa xin lỗi. Ông lại lủi thủi một mình sống kiếp độc thân góa vợ. Bạn bè cũng giúp ông đánh tiếng mai mối nữa nhưng không bà nào chịu đèn sống chung với ông được đến một tuần. Sức khỏe của ông lại chẳng được tốt cho lắm, bị cao máu, cao mỡ, phải thông tim, phải cắt túi mật, mà lại phải tự lo chợ búa nấu nướng một mình thật mệt mỏi và buồn chán. Cô con gái mỗi tuần chỉ ghé qua thăm cha chớp nhoáng được 1 vài lần vì còn phải đi làm, phải lo cho gia đình con cái. Nhiều khi ông ngồi đó, nỗi cô đơn gặm nhắm, nghĩ đến một ngày thình lình từ giã cõi đời mà con cái không hay để đến khi sình thối lên lối xóm mới biết. Rồi nghĩ đến quê hương bà con bạn bè đông đúc, ra ngõ là có hàng quán cơm tiệm khỏi lo miếng ăn nấu nướng hàng ngày, vui biết bao nhiêu. Ông nghĩ đến một ngày về quê hương, kiếm một miếng đất trồng cây ăn trái, trồng bông hoa cây kiểng, vui thú điền viên sống cho qua tuổi già, có gì chết chôn cạnh mộ bà vợ hiền cũng đỡ lạnh lẽo. Ông chỉ sợ tụi công an đỏ làm khó dễ, nhưng rồi lại tự an ủi mình hy vọng già rồi chắc tụi nó cũng để yên.
Lâu nay ông Tâm cũng thỉnh thoảng liên lạc với một ông bạn thân ở quê nhà tên Phan. Ông Phan có nhà đất ở vùng ngoại ô xa xôi, làm nghề thầy lang vườn, tính tình thuần hậu, chân chất. Ngày trước 75, ông Phan phá đất núi làm rẫy nên ngày nay ông có nhiều đất trên núi lắm. Ông Tâm ngày trước đã giúp đỡ ông Phan rất nhiều và thương tính tình ông Phan nên thường xuyên lui tới thăm nhau. Nay nghe ông Tâm than buồn và có ý trở về sống ở quê hương, ông Phan hăng hái bảo:
– Anh về đi, tôi sẽ tặng anh một mẫu đất sát cạnh nhà tôi để xây nhà ở cạnh nhau sớm hôm hủ hỉ cho vui.
Ông Tâm cảm động:
– Cám ơn anh nhiều. Nhưng tôi biết anh giờ cũng không khá giả gì mấy, tôi không dám nhận đâu. Cho tôi gởi tiền mua lại miếng đất đó để anh có tiền mà lo cho gia đình. Tôi về ở cạnh anh cuối đời anh em có nhau là vui rồi. Chỉ sợ về đó cộng sản làm khó dễ thôi.
Ông Phan đoan chắc:
– Chỗ tôi ở xa làng xa xóm, công an khu vực quen biết thân tình, dễ chịu lắm. Anh về đi không sao đâu. Với lại lớn tuổi rồi tụi nó không để ý làm khó dễ nữa đâu đừng lo. Thỉnh thoảng anh cho nó gói thuốc lá ba số 5 là nó cảm ơn anh lắm lắm, sai gì cũng được.
Bên đòi tặng, bên đòi mua, tình nghĩa tràn trề thật cảm động ứa nước mắt. Cuối cùng ông Phan cũng tặc lưỡi thở dài mà nhận tiền ông Tâm gởi về trả tiền mua miếng đất và xây nhà sẵn giùm để ông Tâm về có nhà ở ngay.
Cô con gái ông Tâm nghe cha đòi về Việt Nam ở thì phản đối:
– Ba à, về đó làm sao sống được với Cộng sản. Tụi nó gian manh thấy Việt kiều có tiền không để yên cho Ba đâu. Ba đã liều thân ra đi mà trở về làm gì.
– Tụi con không hiểu đâu. Ai cũng có cội có nguồn, ba đã già rồi, sống nay chết mai. Ba muốn trở về bỏ nắm xương tàn trên quê hương chứ chết bờ chết bụi ở đây buồn lắm. Ba về ở cạnh bác Phan, có bạn có bè hủ hỉ với nhau đỡ buồn. Ba đã gởi tiền về mua đất xây nhà ở cạnh nhà bác Phan rồi. Bác Phan bảo công an khu vực ở đó dễ lắm mà dân tình cũng hiền lành.
Cô con gái cãi:
– Thì bác ấy muốn ba về ở cạnh nên nói sao cũng được mà. Tụi con đều ở bên đây, Ba về đó lấy ai coi chừng?
Ông Tâm cay đắng:
– Ba ở bên này các con cũng đâu thường xuyên tới thăm được. Con cái ở mỗi đứa một phương mỗi năm họa hoằn về thăm Ba được 1 lần. Còn con thì bận bịu, tất bật suốt ngày. Ba về đó có gia đình bác Phan sát vách, bác bảo sẽ chăm sóc cho Ba. Bác Phan tốt lắm, cho Ba miếng đất để xây nhà mà Ba không lấy đó.
– Ðiều này con không biết. Phải ở lâu mới biết lòng người. Ba về đó lỡ bịnh hoạn đi bác sĩ bệnh viện cũng khó khăn. Nhà bác Phan con nhớ là ở tuốt trên núi khô khan nóng nực, đường đất cheo leo, nhất là không có điện phải xài đèn dầu leo lét, và lại xa thành phố vừa buồn vừa bất tiện. Ba ở đó không tốt đâu.
Ông Tâm cãi:
– Hồi Ba chở tụi con lên nhà bác Phan đến nay cũng hơn chục năm rồi. Càng ngày càng thay đổi tiến bộ chứ. Nghe bác Phan nói đã có điện rồi, dân cư cũng đông đúc hơn nhiều, đã có đường cho xe hơi chạy tới tận nhà.
Cô con gái hỏi nhắc lại:
– Rồi đêm hôm lỡ lên cơn đau tim làm sao đi cấp cứu? Kêu được xe chở được đến nhà thương chắc cũng đã xong đời rồi. Ba bây giờ đâu còn khỏe nữa, ở đây được một nền y khoa tốt gần như là nhất thế giới phục vụ, chăm sóc thường xuyên không tốt hơn sao.
Ông Tâm nghe con gái cản đầu cản đuôi nêu đủ lý do đã không nghe ra mà lại đâm bực. Ông nghĩ chắc lũ con sợ mình về Việt Nam không còn được lãnh tiền già tiền bịnh nữa và sợ phải gởi tiền nuôi cha nên cứ ngăn cản thế kia. Ông bực bội nói:
– Ba đã quyết định rồi. Con đừng cản nữa. Ba về đó tự lo được không cần mấy đứa con phải gởi tiền về giúp mà cứ nói ra nói vào.
Thấy cha bực mình, cô con gái im lặng không cãi nữa. Cô biết tính cha ngang bướng ít khi chịu nghe lời ai khuyên nhất là lời khuyên của con cái mà ông lúc nào cũng nghĩ là con nít con nôi hỉ mũi chưa sạch. Cô hỏi giọng quan tâm:
– Ba tính khi nào thì đi? Ba có muốn con giúp đăng báo bán căn nhà này và đồ đạc không?
Một tuần sau ông Tâm bán được căn mobile home với giá gấp đôi ông đã mua 7 năm về trước. Nhờ đã trả off nên nay ông ôm trọn gói. Ông lại còn “được” hai lần tai nạn xe cộ vào mấy năm trước, chỉ ê ẩm và hư xe sơ sơ nhưng nhờ mua bảo hiểm hai chiều nên được bồi thường vài chục ngàn đô. Tổng cộng được một số tiền cũng khá. Ðã gởi ông Phan tiền mua đất và xây giùm cái nhà gần bằng tiền bán mobile home, vị chi ông còn được tiền đền bảo hiểm xe vài chục ngàn đô. Thời điểm bấy giờ ở Việt Nam tiền đô có giá trị, vật giá cũng rẻ nên theo ông Phan tính toán mỗi tháng ông Tâm chỉ cần tiêu 100 đô là đủ sống. Tằn tiện một chút ông tiêu đến nhắm mắt xuôi tay là vừa. Vậy là bán nhà xong, thu dọn đồ đạc cần dùng vào 2 thùng lớn, ông Tâm Việt kiều bái bai đất nước tự do Hiệp Chủng Quốc đàng hoàng lên máy bay hồi hương, chả bù ngày nào trốn chui trốn nhủi ra đi.
Cả nhà ông Phan gồm vợ con, dâu rể, cháu nội cháu ngoại gần 20 người thuê xe vào Sài Gòn đón bạn vàng hồi hương. Ai nấy cũng tươi như hoa, cười đón Việt kiều thật niềm nở, thân tình. Bà con xa không bằng láng giềng gần, từ nay có gì chạy qua chạy lại đỡ đần nhau cũng vui đấy chứ, hai bên cùng có lợi.
Xe chạy xuyên đêm đến trưa thì về tới quê ông Tâm ở Ninh hòa. Thị trấn giờ tấp nập hơn hồi ông ra đi nhiều. Ông Tâm nhìn lại một số cảnh vật quen thuộc mà lòng bổi hổi bồi hồi nhớ lại những tháng ngày xa xưa với bao thăng trầm vinh nhục. Ngày bỏ quê hương ra đi ông đã thề với lòng chỉ trở về khi không còn Cộng sản, nhưng nay nào có đâu ngờ tự mình lại thất hứa phá bỏ lời thề. Ông như con cá hồi ngược dòng cố sống cố chết vượt bao gian nan bơi về nơi nó sinh ra. Ông đã từ bỏ nơi chốn bình yên có gia đình, sự tiện nghi và nhất là sự tự do để tìm về một chốn mà ông biết trước là địa ngục trần gian chỉ vì nỗi nhớ quê hương trong ông thật tha thiết, mãnh liệt, và nỗi ao ước muốn sau này được yên nghỉ trong lòng đất mẹ hiền.
Ðúng như lời ông Phan nói trước, chiếc xe trung 20 chỗ ngồi cũng len lỏi trên con đường đất gập ghềnh chạy đến tận ngõ nhà mới của ông Tâm. Căn nhà mới quét vôi xanh, mái tôn xám, trông gọn nhỏ và xinh xắn y như trong hình của ông Phan gởi qua. Nhưng xung quanh đất đai có vẻ khô rốc đầy sỏi đá, cây cối lưa thưa và còi cọc, trông thảm thiết như cây cối mọc ở sa mạc.
Ông Phan nói giọng phân bua:
– Cả tháng nay trời không mưa nên cây cối như vậy đấy. Anh dặn tôi mua ít cây ăn trái về trồng nhưng với thời tiết này ngó mòi mấy cây này khó lên nổi.
Ông Tâm an ủi bạn:
– Từ từ rồi tính. Trời không mưa chắc phải làm vòi tưới.
Ông Phan lắc đầu tỏ ý như chuyện này chắc khó rồi ông bảo tài xế đậu xe trước cửa nhà mới của ông Tâm để dỡ hành lý xuống. Vừa bước xuống xe, cái nóng hầm hập cháy bỏng của vùng núi táp vào người cộng thêm sự mệt mỏi của chuyến hành trình vượt đại dương làm ông Tâm choáng váng lảo đảo đứng không vững. Ông Phan vội đỡ ông Tâm bước lên thềm và sai thằng con lấy chìa khóa mở cửa ngay. Một lúc sau ông Tâm mới định thần lại và ngắm căn nhà mới của mình. Nhà chỉ có một phòng khách nhỏ, một phòng ngủ nhỏ đặt vừa cái giường 2 người nằm, một gian bếp nhỏ xíu cỡ 3 mét vuông và một phòng vệ sinh cũng nhỏ xíu. Tổng cộng cả căn nhà chắc khoảng 20 mét vuông. Ðồ đạc sơ sài mới chỉ có bộ bàn ghế gỗ cũ kỹ và cái giường gỗ trải chiếu hoa chắc ông Phan đem từ nhà ông ấy qua.
Ông Phan nói:
– Anh nằm nghỉ ngơi một chút, tôi biểu sắp nhỏ về bưng cái quạt máy qua cho anh và nấu cơm rồi mời anh qua xơi.
Mấy ngày đầu gặp nhau vui vẻ vô cùng. Quà cáp từ bên Mỹ mang về cái gì cũng lạ, đẹp, thơm, và giá trị. Gia đình ông Phan mọi người từ lớn tới nhỏ cứ rảnh ra là tìm tới ông Tâm để nghe kể chuyện hấp dẫn của cuộc sống bên Mỹ. Từ sớm đến tối rộn ràng vui lắm. Ông Tâm bắt đầu mua sắm thêm đồ đạc cần thiết bày biện cho căn nhà của mình. Ông cũng mua tặng bạn mình bộ sofa, cái bếp ga, và cái tủ lạnh. Gia đình ông Phan rất mừng cảm ơn rối rít và càng ân cần coi ông Tâm như thần tài trên trời rơi xuống. Coi vậy mà cũng không tốn kém chi lắm, từ cái lớn tới cái nhỏ, mua đủ thứ mà chỉ tốn xấp xỉ 1200 đô vì đồng đô la lúc này có giá lắm.
Người xưa có câu ca dao:
Thức lâu mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết lòng người thực hư.
Sau tuần lễ đầu tiên vui vẻ, ân cần là những phiền phức, khó chịu dần dần kéo tới. Vợ và con ông Phan thường qua mượn đồ không trả, bọn nhóc thường hay vô tư cầm nhầm món này món nọ nên đồ đạc trong nhà không cánh mà từ từ bay mất. Ông Tâm bực mình lắm nhưng ngại không nói ra. Tính ông cái gì ra cái đó. Xin thì ông cho mà mượn thì phải trả dù là một xu.
Thêm nữa ở lâu ông Tâm dần dần biết được giá cả, vật liệu xây dựng và trị giá đất thời điểm bấy giờ mới hay cái nhà của ông trị giá thật sự chỉ bằng một nửa số tiền ông đã chi. Vậy mà phải mang ơn nghĩa với người ta mới đau. Theo ông thấy ông Phan vẫn là con người đơn thuần, có lòng tốt với bạn bè nhưng vợ con dâu rể của ông thì trái ngược, thích lợi dụng, xin xỏ và có lòng tham không đáy.
Căn nhà mới là do đứa con lớn của ông Phan lo liệu việc xây cất và có lẽ nó đã bỏ túi số tiền chênh lệch khi mua toàn vật liệu xấu và xây quá đơn giản, thiếu tiện nghi. Phòng vệ sinh với loại cầu tiêu trệt ngồi chồm hổm phải múc nước dội. Không có bồn rửa mặt và nhất là không có hệ thống nước máy. Nước dùng để nấu ăn, vệ sinh tắm rửa phải chứa trong hai thùng nhựa lớn mà mấy đứa con nhà ông Phan gánh đổ hàng ngày từ giếng nhà bên ấy. Thấy bất tiện quá nên ông Tâm lại bỏ tiền ra xây hồ chứa nước, bắt máy bơm để bơm thẳng vào nhà và dĩ nhiên là ông phải làm cho cả hai nhà. Ðã không biết đủ rồi chứ, vợ con ông Phan còn xin xỏ ông Tâm giúp đỡ sửa sang đủ thứ cho nhà của họ làm như ông Tâm mang nợ từ kiếp trước không bằng.
Ông Tâm không phải hạng người tính toán keo kiệt. Nhưng cái gì cũng có giới hạn, đâu phải ông là triệu phú và dễ bị dụ. Ông thấy rõ mình bị lợi dụng, bòn rút từng ngày từng ngày một cách trắng trợn. Nơi ông ở hơi vắng vẻ đìu hiu xa thị trấn, lỡ đêm hôm khuya khoắt bịnh hoạn thì phải nhờ hàng xóm láng giềng nên ông bấm bụng chịu đựng tạm thời. Ông đánh tiếng bà con ở thị trấn nhờ thuê một người giúp việc lo dọn dẹp nhà cửa cơm nước riêng cho ông để khỏi phải nhờ vả lệ thuộc nhà ông Phan nữa.
Cô con gái bên Mỹ biết được tình cảnh của ông Tâm thì nhắc cha:
– Ba liên lạc kêu cô Xuân ra ở với Ba để săn sóc cho Ba đi. Con biết cô Xuân vẫn chưa có chồng. Con nghĩ có cổ sẽ an tâm tin cẩn hơn và Ba sẽ có người hủ hỉ đỡ buồn.
Cô Xuân là… bồ nhí của ông Tâm thời ông còn ở trong quân đội phải đi biệt phái xa nhà tận miền Tây. Hai người dây dưa dan díu với nhau gần 2 năm thì ông được phân công tác trở về quê nhà, chia tay với nàng. Rồi nước mất nhà tan ông phải đi học tập cải tạo một thời gian dài. Cô Xuân vẫn chưa lấy chồng, thỉnh thoảng gởi thơ vào tù thăm ông. Sau khi vợ ông mất, cô đến nhà lạy bàn thờ xin lỗi ngày xưa đã phá hoại hạnh phúc của gia đình và xin phép mấy người con được thỉnh thoảng thăm nuôi ông trong tù. Con của ông tư tưởng cũng thoáng nên bây giờ đã gợi ý cho cha liên lạc với cô Xuân để nối lại tình xưa an ủi nhau lúc tuổi già.
Thật ra chẳng đợi con nhắc, ông Tâm cũng đã có ý định đó khi trở lại quê nhà. Cô Xuân thua ông đến 20 tuổi. Ngày ông quen cô thì cô mới 22 tuổi, không đẹp nhưng hiền lành. Cô là con nhà gia giáo nhưng chắc vì duyên nợ từ kiếp trước nên đã phải lòng và yêu ông dù biết ông đã có gia đình. Ðến lúc chia tay với nhau cô vẫn ở vậy không lấy chồng và nghe nói đến nay vẫn còn ở căn nhà cũ với gia đình người em.
Nhà cửa sắm sửa tạm ổn xong, ông Tâm viết thơ liên lạc mời cô Xuân đến ở với ông và cô bằng lòng ngay. Cô Xuân không muốn ông Tâm thuê người làm mà tự mình đảm nhiệm chợ búa, cơm nước và dọn dẹp nhà cửa. Sau hơn 20 năm xa cách cô mới được cơ hội ở chung với người yêu nên vui mừng lắm và tự nhủ sẽ hết lòng săn sóc chàng.
Vậy là gia đình ông Phan mất đi một nguồn thu nhập là lo ăn uống và coi sóc nhà cửa cho ông bạn vàng. Ðến khi ông Tâm từ chối không cho đứa con dâu ông Phan mượn tiền làm vốn đi buôn; không cho thằng Ba của ông Phan mượn tiền mua cái xe cúp đời mới; rồi còn thay ổ khóa và yêu cầu người của nhà ông Phan đừng tùy tiện vào ra nhà của ông mà không gõ cửa thì chiến tranh bắt đầu.
Mấy người đàn bà nguýt háy khi thấy bóng ông Tâm ra vườn:
– Già mà không nên nết! Vài bữa nó dụ hết tiền là sáng mắt.
Hoặc:
– Tưởng Việt kiều là ngon lắm.
Ðúng là ở đời, trâu buộc thường ghét trâu ăn. Bạn bè anh em ai giàu sang ai cùng khổ cứ ở cách xa tít mù chẳng thấy mặt nhau thì thôi, nhưng nếu cái giàu và cái nghèo mà ở sát cạnh nhau thì trước sau cũng sinh ra rắc rối, đố kỵ, tị hiềm. Ông Phan mỗi ngày bị vợ con tác động, nói xấu ông bạn vàng nên cũng bị ảnh hưởng dần. Lại thêm thái độ ông Tâm khi bực dọc thường tỏ ra nét mặt lạnh lùng băng giá nên ông Phan cũng tự ái. Thế là chiến tranh giữa hai nhà càng ngày càng gây cấn. Láng giềng tốt ngày xưa giờ không cho nhà ông Tâm bơm nước giếng để xài, đóng cái cổng chung không cho dùng, phá cây không cho sống… Ðủ thứ cản trở… và cuối cùng đưa nhau ra tòa mới chỉ sau một năm hân hoan đón Việt kiều về nước tay bắt mặt mừng.
Ông Phan kiện đòi lấy nhà đất lại với lý do ông Tâm chiếm đoạt đất xây nhà trái phép. Nhưng cũng may từ khi nhờ vả ông Phan xây nhà, ông Tâm có lần viết thơ hỏi đã gởi tất cả bao nhiêu tiền và ông Phan đã viết thơ trả lời. Có bằng chứng giấy trắng mực đen và có cả thủ tục “đầu tiên” (tiền đâu) nên khi ra tòa ông Tâm đã thắng là ông không chiếm đoạt đất xây nhà trái phép. Nhưng ông Tâm là Việt kiều, đâu được phép mua nhà đất và cũng không được phép ở lâu thường trú trên đất nước Việt Nam. Ông có quốc tịch Mỹ, có visa về Việt Nam nhưng chỉ có thể ở Việt Nam trong vòng 2 năm thôi. Căn nhà này ông không được chủ quyền đứng tên làm chủ. Cuối cùng ông thỏa thuận sang tay để rẻ lại cho bà con của tòa án với giá trị tương đương 5 ngàn đô la Mỹ. Tính ra lỗ hơn hơn chục ngàn đô cho căn nhà và quan trọng nhất là lỗ mất trắng tình bạn.
Ông Tâm mua một căn nhà khác cũng ở xa thị trấn và nhờ cô Xuân đứng tên. Từ ngày về nước ông đã biết được cách chi tiền cho công an khu vực để mua hai chữ yên thân. Cứ mỗi tuần, họ tới thăm và mời “chú Ba” ra nhậu với tụi cháu. Dĩ nhiên chú Ba phải chi cho độ nhậu dù có tham dự hay không. Rồi Tết nhất, rồi mỗi dịp lễ lộc hoặc có chuyện gì trong gia đình họ ông cũng lì xì chút đỉnh. Thành thử ông không cần phải ra khỏi nước để làm lại visa nhập cảnh mà họ cũng không hỏi han làm khó dễ gì cả.
Ðủ thứ chi tiêu chứ không phải như trước kia ông dự trù chỉ cần mỗi tháng một trăm đô. Ăn uống chẳng bao nhiêu nhưng còn những khoản chi không tên mà ông không dự trù trước. Về sống ở đây, không những ông phải chi tốn cho công an mà còn chi cho bạn bè đàn em. Một vài người lính ngày xưa làm việc dưới quyền ông nay gặp lại đều có cuộc sống khó khăn nên nhờ ông giúp đỡ và ông không nỡ chối từ. Một số người nịnh hót nâng ông lên tận mây xanh rồi mượn tiền và hứa chắc như đinh đóng cột sẽ trả nhưng rồi lại trốn mất. Ông như con mồi béo bở, cứ gặp 10 người là đến 9 người xin tiền, mượn tiền nên sau một thời gian ông tránh ra đường sợ gặp người quen mất công từ chối.
Ra đường thì nghi ngại, phải tránh gặp mặt người quen. Ở nhà hoài thì bực mình, dễ gây nhau. Cô Xuân giờ đây không nhu mì hiền lành như ngày xưa nữa. Cô hay mỉa mai, cãi lại. Cô còn hay đi về không đúng giờ giấc, hay lê la nhà hàng xóm, hay giận hờn, và cũng hay xin tiền gởi về giúp đỡ các em của cô có vốn làm ăn. Ông sinh ra nghi ngờ không biết cô đến với ông vì tình hay vì tiền nữa.
Ðúng là “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Lấy nhau rồi… chán quá cỡ người ơi.” Về phần cô Xuân thì ngày xưa chỉ nhìn thấy một ông Tâm oai hùng, đẹp trai, uy quyền hét ra lửa. Chàng dịu dàng, chiều chuộng nàng ra phết mỗi khi hẹn hò gặp nhau. Bây giờ thì là một ông lão hết xí quách, hom hem, nhăn nhó, cau có, lại còn khó chịu, độc tài, dễ nổi đóa, ngang như cua và chỉ coi cô như một bà quản gia kiêm đủ thứ hầm bà lằng. Người yêu của cô thay đổi nhiều quá, chẳng giống ngày xưa tí nào cả. Cô bất mãn, cãi lại thì bị ông mắng nhiếc đuổi đi. Cô về quê thì các em lại khuyên cô trở lại với “chồng.” Dầu gì cô cũng đã là một bà cô già, may phước lấy được Việt kiều mỗi tháng có tiền gởi về giúp đỡ gia đình thì đừng dại gì mà bỏ.
Hai người cứ làm hòa rồi lại giận nhau. Cô khăn gói về quê được mấy lần thì đi luôn. Kể ra hai người cũng ở với nhau được hơn 2 năm dài đủ để hát bài “Hai năm tình lận đận, hai đứa cùng xanh xao. Hai năm trời mùa lạnh, cùng thở dài như nhau. Hai năm tình lận đận, hai đứa cùng hư hao. Hai năm tình lận đận, hai đứa đành xa nhau…”*
Ông Tâm hết tình và tiền cũng không còn nhiều. Cũng may ông còn được mấy người con có hiếu, mỗi năm rủ nhau đóng góp gởi về cha già tiêu xài. Ông vẫn cương quyết không về lại Mỹ, không chấp nhận cái sai của mình. Ông tự đánh lừa mình vẫn không nhờ vả con cái khi ghi nợ số tiền các con gởi về coi như mượn tạm để sinh sống vì ngày xưa khi đòi về lại Việt Nam sống ông đã tuyên bố không cần các con gởi tiền về giúp đỡ. Ông cho là căn nhà ông đang ở lên giá gấp 10, khi ông mất con cái bán mà trừ nợ.
Ông Tâm bây giờ phải chi tiêu nhiều lắm. Ngoài tiền ngoại giao với con số không ít còn phải chi cho sức khỏe rất nhiều. Ngày còn ở Mỹ, ông mang đủ chứng bịnh trong người nhưng nhờ y tế của Mỹ rất tốt, lại miễn phí cho người già và bịnh nên ông đi bác sĩ và thuốc men thường xuyên. Nhờ vậy bịnh cao huyết áp, cao mỡ của ông không gì đáng lo ngại. Trở về Việt Nam, ông sống xa thị trấn, bác sĩ nông thôn chẳng có năng lực bao nhiêu, thuốc men không đầy đủ lại thêm ăn uống nhậu nhẹt không kiêng cữ nên sức khỏe của ông giảm sút hẳn. Ông phải nhờ người quen giới thiệu một bác sĩ giỏi ở thị trấn và bao tất cả chi phí để vị bác sĩ kia đến tận nhà khám cho thuốc khi ông trở bịnh. Tiền bác sĩ, tiền thuốc men, và cả tiền quà cáp cho bác sĩ ngốn của ông mỗi tháng rất cao mà bịnh thì chỉ khống chế được giai đoạn ngắn rồi tái đi tái lại. Ðau nhức vẫn hoàn đau nhức, đau tim vẫn hoàn đau tim, và… khó chịu vẫn hoàn khó chịu có khi còn nặng hơn xưa.
Phải, ông Tâm càng ngày càng khó tính. Từ ngày cô Xuân bỏ đi không trở lại, ông nhờ giới thiệu người làm tới nhà lo việc nội trợ và để phòng khi ông bị lên cơn tim bất thình lình thì kêu bác sĩ hoặc đưa đi cấp cứu nhưng không ai có thể ở với ông được hơn tuần. Ông cấm họ không được ra khỏi nhà ngoại trừ thời gian giới hạn cho đi chợ, dễ nỗi giận la mắng ầm ĩ và làm tình làm tội đủ điều nên không ai ở được. Cũng may ông thuê được người nấu ăn mang đến nhà hàng ngày và dọn dẹp sơ nhà cửa. Nhưng cũng vì vậy mà ông càng ở riệt trong nhà và càng ngày càng thu mình trong căn nhà nhỏ, chỉ khi nào rất cần thiết mới ra ngoài.
Con cái về thăm khuyên cha:
– Ba qua lại Mỹ sống với tụi con đi. Ba ở đây mà cứ ru rú trong nhà như vậy thì dễ bịnh lắm.
Ông bảo:
– Sức khỏe của Ba giờ không đi xa được đâu. Ba ở nhà quen rồi, buồn thì ra vườn chăm ngó mấy cây xoài, cây mít cũng vui.
– Nhưng Ba ở có một mình lỡ có chuyện gì bịnh hoạn bất tử ai biết mà cứu?
– Có chị đưa cơm mỗi ngày 2 lần ghé qua đưa cơm nước mà. Với lại Ba có thuê chồng của chỉ mỗi ngày qua nhổ cỏ làm vườn giùm. Không sao đâu, Ba có chuyện gì họ biết liền.
Cô con khuyên:
– Ba chịu khó đi đây đi đó cho thoải mái chứ cấm cung mãi như vầy à?
Ông Tâm lắc đầu:
– Ba ra đường mà cứ sợ gặp người lợi dụng mình thì càng không thoải mái hơn.
Nhưng đâu phải không ra đường cứ ru rú ẩn mình trong nhà là yên. Cứ mỗi tháng vài lần, công an khu vực lại tới hỏi thăm “chú Ba” một cách thân tình:
– Chú Ba ơi, có khỏe không ra quán nhậu vài chai bia với tụi cháu cho vui.
Lâu lâu bọn chúng nài nỉ quá ông Tâm phải ra quán uống 1 ly bia rồi lấy cớ sức khỏe yếu bỏ về, không quên trả trước tiền độ nhậu. Còn thì ông hay móc túi dúi cho chúng vài trăm ngàn cho yên:
– Chú hôm nay bị đau dạ dày. Cầm ít tiền ra đó uống giùm chú vài ly.
Nhiều khi bọn chúng đang nhậu ngoài quán cũng nhớ đến chú Ba gọi phone mời ra tham dự. Dĩ nhiên chú Ba không thể đến nhưng cũng phải biết ý cháu chắt mà hứa sẽ… tiền đi thay người. Vậy mà ông còn khoe với con gái:
– Chút ít tiền chi ra mà Ba sai gì tụi nó cũng làm.
Nói chữ sai là nổ cho vui vậy thôi chứ lâu lâu có rắc rối bên làng xóm cãi cọ ồn ào hoặc bọn lưu manh ở đâu tới phá làng phá xóm ông gọi phone kêu công an khu vực tới can thiệp. Có chú Ba chịu chi thưởng tiền đi nhậu nên khi chú Ba gọi phone là bọn chúng tới giải quyết ngay làm hàng xóm cũng nể nang ông lắm. Rồi có lần con chó cưng của ông chạy ra đường bị thất lạc cũng nhờ mấy cháu kiếm lại giùm. Dĩ nhiên cũng phải hậu tạ.
Chỉ một năm sau khi ông Tâm khoe với con gái về đám “cháu hờ dễ sai” của mình, chuyện xấu xảy ra. Ông nhận được giấy của sở nhà đất thông báo có đơn kiện ông chiếm dụng nhà ở trái phép của cô Trần Thị Xuân và đòi ông phải bàn giao nhà cho cô ta 10 ngày sau. Thơ đến trễ nên 10 ngày sau trong thơ tức là ngày mai. Ông Tâm giật mình nghĩ lại căn nhà mình đang ở ngày đó mua đứng tên cô Xuân chủ quyền vì cô là công dân của nước Việt Nam. Cô bỏ ra đi đã mấy năm nay, mỗi tháng ông đều gởi tiền cho cô sinh sống đã không biết ơn rồi chớ nay lại trở ngược kiện cáo đòi chiếm nhà.
Ông Tâm gọi điện thoại ngay cho cô Xuân nhưng phone reng không ai trả lời. Ông cố gắng gọi liên lạc với 1, 2 người em của cô Xuân nhưng mọi người hình như tránh mặt, không thể nào liên lạc được. Họ tránh mặt là phải vì đã thông đồng ép cô Xuân kiện sở nhà đất đòi lấy căn nhà ông Tâm đang ở để có tiền bù việc làm ăn thua lỗ. Và họ đã đi đêm với sở nhà đất, với công an khu vực nên ngay ngày hôm sau ông Tâm bị đám cháu hờ công an khu vực với những gương mặt lạnh lùng vô cảm cùng với nhân viên nhà đất trục xuất ra khỏi căn nhà ông đang trú ngụ.
Muốn được yên thân gởi nắm xương tàn trên quê hương đâu dễ với tình hình đất nước nhiễu nhương bất ổn, với bọn lãnh đạo bất lương thích đi đêm như hiện nay chuyên xài luật rừng.
Ông Tâm đang trên máy bay trở về Mỹ sau khi được Việt Nam phẫu thuật mổ cho sáng mắt để biết rằng, dùng tiền đi mua lòng người mà nhất là bọn gian tham sẽ không được bền vững trước sau cũng bị phản bội. Và lâu nay cũng chính vì đồng tiền ông đã mất đi bạn bè, người yêu và nhất là sự tự do trên quê hương mình

Kimtrong Lam gởi

Vạn vật đều có tánh linh

Vạn vật đều có tánh linh

Tôi đã từng chứng kiến một cảnh chết rất bi tráng. Cái chết đó làm rung động cỏi lòng sâu thẳm của tôi. Từ đó tôi nguyện suốt đời không làm tổn hại bất cứ một sanh mạng cho dù là bé nhỏ…

Một lần nọ đi săn Linh dương, chúng tôi được chứng kiến đời sống và bản chất của chúng.

Linh dương có hình dạng giống sơn dương nhưng có khiếu nhảy rất giỏi, mỗi con trưởng thành nặng khoảng 30 kg ,tính tình thuần hậu , là loại động vật mà bọn thợ săn thích nhất. Lúc đó đội săn bắn chúng tôi bí mật bao vây khắp vùng nơi một đàn linh dương đang cư trú, áp hơn 60 con linh dương vào mõm đá trên vách núi cao, nghĩ rằng như thế sẽ làm cho chúng rơi hết xuống mà chết cho đở lãng phí cung tên.

Nhưng không ngờ, khoảng 30 phút sau, một con linh dương đực đột nhiên kêu lên một tiếng. Tất cả linh dương lập tức phân thành hai nhóm: môt nhóm già và một nhóm trẻ.Tôi nhìn rất rõ nhưng không hiểu vì sao chúng lại phân theo già trẻ như vậy. Lúc đó, một con linh dương đực từ trong nhóm già đi ra, con này lông dài xuống ngực, trên mặt có nhiều nếp nhăn ngang dọc, hai cái sừng bị mòn đi. Vừa nhìn tôi đã biết con linh dương này già lắm rồi. Nó đi ra đứng phía trước, nhìn về hướng nhóm trẻ kêu một tiếng “be”. Một con linh dương trẻ liền bước ra. Một già một trẻ của hai nhóm đi đến vách núi đoạn mệnh. Sau đó lui lại vài bước, đột nhiên con linh dương trẻ hướng về trước chạy như bay, liên tiếp linh dương già cũng chạy theo. Con trẻ chạy đến ranh giới của vách đá, rùng mình một cái, hướng về phía khe suối đối diện mà nhảy. Con già liền kế theo sau cũng từ vách núi đá mà nhảy. Cứ một trẻ một già thời gian nhảy có trước sau một chút, tư thế nhảy cũng có khác. Con già nhảy thấp hơn , có nghĩa là có trước có sau, có cao có thấp.Tôi rất kinh ngạc, lẽ nào chết cũng phải từng đôi sao? Tôi nghĩ những con linh dương này trừ khi có ráp cánh mới nhảy qua được vách núi bên kia. Đúng vậy, con trẻ vừa nhảy được khoảng 5,6 mét thì rớt xuống ,trên không trung vẽ ra một đường cong rất đáng sợ. Tôi nghĩ nhiều nhất là vài giây nó sẽ rơi vào trong sâu thẳm. Đột nhiên một việc lạ xuất hiện. Con linh dương già nhờ vào kỷ thuật thành thạo của mình, tại chổ con trẻ từ điểm cao nhất trong nháy mắt nhảy xuống và toàn thân xuất hiện ở dưới móng của con trẻ, những con linh dương trong nhóm già nắm thời gian rất chính xác, ngay lúc mà toàn thân xuất hiện ở dưới móng của con trẻ thì cũng đúng lúc thời điểm cao nhất của đường cong nhảy, giống như hai chiếc tàu vũ trụ ở trên không trung hoàn thành nhiệm vụ tiếp nhận, bốn móng chân của nhóm trẻ đạp mạnh trên lưng của những con già, giống như nhờ vào cái cầu để nhảy qua vậy, nó ở trên không trung lại nhún một lần nữa và rơi xuống đất lại một lần nữa dồng lên cao. Mà các con linh dương trong nhóm già giống như xác phế của tên lửa đã di chuyển hết chất đốt sau đó tự động rời khỏi tàu vũ trụ,thậm chí nó càng bi thảm hơn xác phế tên lửa,sức mạnh của những con linh dương trẻ đạp nhún xuống giống như đôi cánh của con chim bị gãy ngang rớt thẳng xuống đất. Nhưng sức của những con trẻ nhảy lần thứ hai không xa như lần thứ nhất Độ cao cũng chỉ bằng nữa lần trước nhưng cũng đủ để vượt qua khoảng cách hai mét cuối cùng.Trong nháy mắt chỉ thấy những con linh dương trẻ rơi xuống ngọn núi đối diện thích thú kêu lên một tiếng “be” quay qua tảng đá đằng sau khuất dạng, cú nhảy đã thành công.

Lúc gấp gáp từng đôi từng đôi từ trên cao vòi vọi nhảy xuống, vùng cao trên khe suối như vẽ ra những đường cong làm người ta rối tung, thì từng con linh dương già đã rơi xuống thịt nát xương tan.

Tôi không ngờ đến giờ phút đồng loại sắp tuyệt diệt thì đàn linh dương đã nghĩ ra biện pháp hy sinh một nữa để giành lại một nữa cơ hội sanh tồn cho đồng loại.Tôi càng không nghĩ đến những con linh dương già sao mà ung dung khoan hồng chọn lấy cái chết, cam tâm tình nguyện, bỏ thân mệnh mình mở ra một con đường sống còn cho đời sau. Tôi vì thế mà cảm động nên từ đó về sau thề không sát hại. Do tận mắt nhìn thấy một cảnh chết vô cùng bi tráng làm rung động lòng tôi. Tôi cảm thấy rất xấu hổ. Từ đó về sau, nguyện không sát hại bất cứ một sanh mạng nào dù là rất nhỏ.

Vạn vật đều có tánh linh

Một buổi tối cuối thế kỷ 20, lúc ở trường đại học Hồ Nam khi xem một màn ảnh làm cảm động trời đất, tôi không cầm lòng được khóc ré lên!

Tỉnh Thanh Hải có một vùng sa mạc thiếu nước trầm trọng, mỗi người một ngày chỉ dùng 2 lít nước do đội quân đóng quân ở rất xa vận chuyển lại. Hai lít nước không chỉ dùng để uống, mà còn vo gạo, rữa rau… còn phải cho gia súc kéo uống, gia súc kéo thiếu nước không thể được, khát à!…

Có một ngày, bổng ở đâu hiện ra một con bò già, mà được mọi người cho là nó rất trung thành và thật thà. Nó quá khát giẫy giụa tuột ra khỏi dây cương mạnh mẽ xông vào con đường trong sa mạc mà đoàn xe chuyển nước đi qua, đợi một hồi đợi đoàn xe chuyển nước đến, nó chạy nhanh đến đứng sững giữa đường. Các chiến sĩ chuyển nước trước đây cũng đã gặp qua tình hình chặn đường của những con gia súc như vậy nhưng những con động vật trước không buất khuất kiên cường như con bò này.

Đoàn vận chuyển nước có quy định. Xe chuyển nước giữa đường không để mất đi một giọt, càng không thể tuỳ tiện cho nước. Những quy định này xem ra cũng thật khắt khe nhưng vì bất đắc dĩ. Từng giọt nước này đều là khẩu phần của mỗi người rồi.

Trong sa mạc người và vật đều như vậy, nó đứng đó một hồi lâu như vậy , thậm chí làm tắt đường, các tài xế phía sau bắt đầu chưởi rũa. Có vài tài xế tính tình nóng nảy dùng dầu châm đốt con bò tội nghiệp đó nhưng nó vẫn không động đậy, kiên cố như núi Thái, không chịu dùn bước. Đến khi chủ nó tìm đến, ông ta rất hổ thẹn nắm một cây roi dài quất lên trên thân yếu ớt của nó. Toàn thân như nát nhừ, không thể đi được, cây roi cũng nhuốm đỏ màu máu, nhuốm đỏ thân nó, nhuốm đỏ cả một vùng cát vàng sa mạc và nhuốm đỏ cả một buổi chiều tà. Nó kêu lên một tiếng thảm thiết hoà với tiếng gió tàn khồc u ám lạnh lẻo của sa mạc hiện ra cảnh tượng sao mà bi tráng. Người tráng sĩ đứng kế bên bật khóc, người tài xế bị cản xe cũng oà lên khóc. Cuối cùng, người tráng sĩ nói: “thôi, để tôi vi phạm luật lệ vậy. Tôi chấp nhận xử phạt”. Anh ta cầm bát của mình lấy khoảng 2 lít nước trong xe để trước mặt con bò, nhưng nó không uống bát nước trước mặt mà nó đã cực khổ có được, nó ngước mặt lên trời rống lên một tiếng dài, dường như nó đang kêu gọi.Trong ráng chiều, không xa từ phía sau đống cát chạy ra một con bò con. Con bò mẹ bị thương nặng nhìn con bò con tham lam uống sạch bát nước, le lưỡi ra liếm liếm đôi mắt đáng thương của bò con. Con nghé cũng liếm mắt mẹ. Mọi người lẳng lặng nhìn. Những giọt nước mắt chảy dài của tình mẫu tử lăn xuống .

Tia nắng cuối ngày đã tắt, hai mẹ con không đợi chủ gọi, lặng lẻ cùng chúng tôi đi về. Một buổi tối của cuối thế kỷ 20, khi tôi xem cảnh này trên ti vi, tôi hiểu ra cái khổ của mẫu thân. Tôi và vô số những người đang ngồi trước ti vi đã bật khóc, những giọt nước mắt nóng hổi cuồn cuộn trào ra.

Vì thế, tôi thành kính khẩn cầu quý vị xem xong mẩu chuyện này nên đối xử tốt với tất cả những sanh mệnh dù lớn hay nhỏ xung quanh ta bởi vì chúng đều có tính linh, đều có cha mẹ, con cháu, gia đình của chúng. Chúng cũng như con người chúng ta, đều có khát vọng được vui vẽ, hạnh phúc. Chúng ta thế nào đành lòng làm tổn hại chúng ư? Lại cầu mong bạn hãy đối xử tốt với mẹ, bởi vì đối với chúng ta, mỗi người mẹ đều có tình thương đậm đà và thắm thiết hơn con bò mẹ kia rất nhiều!…Xin thành tâm, thành tâm khẩn cầu tất cả đều biết yêu thương và tôn trọng mạng sống lẫn nhau để có một cuộc sống thật bình yên. Xin kính chúc tất cả quý vị đều hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc của cuộc sống.

Trích Internet- Như Nguyện dịch

 

Nhật ký một bạn tù!

Nhật ký một bạn tù!

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Tôi quen biết cả hai vợ chồng anh Nam. Gia đình chị Nam là nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Cha chị, anh Khoa, là bạn học của tôi ở trưởng tiểu học xã. Lúc tôi làm việc ở Bệnh viện Đà-Nẵng, thì anh là xã trưởng xã Giao Hòa, gần quê tôi. Cha anh bị liệt vào hàng phú nông, đã bị du kích VC ở xã chôn sống, thời chống Pháp, chỉ vì ông chỉ trích biện pháp “tiêu thổ kháng chiến” trong đám giỗ gia đình ông. Người chỉ huy vụ thủ tiêu ông, là cháu kêu ông bằng bác, tên Cội. Cái “giỏi” của Cộng sản, là có thể khơi dậy ở người cháu lòng căm thù, để giết bác ruột. Khoa, lúc ấy, cũng là du kích, chứng kiến cái chết thê thảm của cha, mà không làm gì được. Sau đó, anh lẻn ra vùng Quốc Gia, và thề trả thù cho cha. Anh đã dẫn lính Bảo An, trong đêm tối phục kích tiểu đội du kích VC ở xã, và giết chết Cội. Thời Đệ nhị Cộng Hòa, xã Giao Hòa nằm trong vùng tranh chấp. Ban ngày, Khoa cùng Địa Phương Quân về đóng trong làng, ban đêm rút về quận. Con của Cội, lúc ấy, là “chủ tịch xã” (VC) ban đêm thường hay lẻn về đe dọa dân chúng, và thâu lúa gạo của dân.

Tết Mậu Thân, 1968, con của Cội cùng “bộ đội” miền Bắc đột nhập quận, bắt được Khoa. Chúng dẫn Khoa về làng Giao Hòa, họp dân chúng lại, mở “tòa án nhân dân” xử Khoa, chúng hành hạ Khoa rất tàn nhẫn trước khi giết chết. Chị Khoa, vận đồ tang, về làng xin xác chồng đem về chôn tại quận. Bọn Cộng sản đã không cho, lại giết chết luôn chị Khoa, chỉ vì quá uất hận, chị đã thốt lên những lời mỉa mai trong khi khóc lóc trước mộ chồng.

Hai vợ chồng Khoa chỉ có một cháu gái tên Thu, lúc ấy mới 10 tuổi. Thu bơ vơ được ông Quận trưởng Đại Lộc, Quảng Nam, nhận về nuôi cho đi học. Nam cùng quê với tôi. Cha chết sớm, vì ăn phải nấm độc, trong nạn đói thời “kháng chiến chống Pháp”. Mẹ Nam ở vậy nuôi con. Khi đồng quê mất an ninh, bà ra Đà-Nẵng giúp việc trong nhà cho tôi. Nam đậu Tú tài, vào học trường Nông Lâm Súc. Ra trường, thì bị động viên vào trường Võ Bị Thủ Đức. Nam được chọn đi học khóa Tâm Lý Chiến, rồi về phục vị tại sư đoàn 1. Ông quận trưởng, cha nuôi Thu nay là Đại tá Trung đoàn trưởng, cấp trên của Nam. Thấy Nam chăm chỉ, hiền lành, ông đã cố ý tạo cơ hội cho Nam và Thu gần nhau, hiểu nhau. Đám cưới hai người do tôi tổ chức vào cuối năm 1974. Hai vợ chồng ông Đại tá không có con, lại có căn nhà lớn ở Đà-Nẵng, nên đôi tân hôn sống chung với ông bà.

Cuối năm 1978, Sĩ quan trại tù Kỳ Sơn chuyển lên trại “cải tạo” Tiên Lãnh. Trước đó mấy ngày, tù chính trị và phần lớn các đội lưu động chuyển đi “trại thôn Năm”, để chỗ cho “trại viên” mới. Một chiều ảm đạm, các trại viên cũ đều bị nhốt lại trong phòng, cửa sổ đóng kín. Nghe tiếng máy nhiều xe cam nhông đổ lại trước cổng trại. Tôi lúc ấy làm y tế trại, được lệnh ra nhận thuốc Tây mà các vị Sĩ quan mang theo, để nhập vảo tủ thuốc ký gửi. Các “cán bộ” trại đang ráo riết lục soát “trại viên” mới. Từng đống áo quần treillis, giày da đi trận, xắc đeo lưng bị tịch thu. Đồng hồ, bút máy, nhẫn đeo tay, tiền giấy phải đem ký gửi. Mỗi người nhận lại hai bộ đồ vải màu xám với một ít dồ dùng cá nhân. Công an đã đánh phủ đầu bằng cách lột sạch di tích tù binh, và nhắc nhở một kỷ nguyên thường phạm khắc nghiệt bắt đầu. Tôi gặp lại Nam, nhìn nhau mà không dám nói một lời. Vài tháng sau, Nam được ra làm chăn nuôi, nhờ có bằng kỷ sư Nông lâm súc. Lúc đầu chỉ ra chăn nuôi ban ngày. Ban đêm phải trở về ngủ chung trong phòng giam. Nam vốn ít nói và hiền lành, lại cứu được nhiều gia súc trong một nạn dịch, nên được “quản giáo” chăn nuôi dần dần tín nhiệm, đưa ra ở hẳn trong trại chăn nuôi. Thường ngày Nam dẫn một đàn bò độ 30 con, đi ăn trên những đồng cỏ quanh trại. Tuy không có thăm nuôi, song Nam không thiếu thốn nhiều về ăn uống. Nhờ lang thang với bầy bò, Nam có dịp “cải thiện” bằng cách bẫy chim và thú rừng, đào sắn. Anh cũng trồng rau, bầu bí quanh khu chăn nuôi. Mỗi khi bò đẻ, Nam lấy nhau nấu ăn. Nam cũng hay cho tôi đồ “cải thiện” mỗi khi có dịp vào trại khám bệnh.

Một lần đi đỡ đẻ cho một sản phụ ở bệnh xá dân, tôi có dịp đi ngang qua gò đất mà Nam hay đem bò ra đó gặm cỏ. Đỉnh gò có một miếu hoang, tường gạch, mái ngói, song mang dấu tàn phá của thời gian. Miếu nằm trọn vẹn dưới bóng mát của một cây đa to lớn, có nhiều rễ phụ. Bên cạnh miếu có một nghĩa địa nhỏ. Nam cho biết là có quen một giáo viên chế độ cũ (VNCH), bị đày lên dạy ở trường tiểu học gần đó. Anh nầy thường gửi thư giúp Nam qua bưu điện, khỏi sự “kiểm duyệt” của trại. Nam dẫn tôi vào miếu và chỉ chỗ kín, để khi nào có dịp ghé qua, mà không có Nam, thì giấu thư vào đấy, và Nam sẽ gửi đi giúp. Tôi đã dùng lối nầy gửi thư về nhà vài lần cho đến khi Nam được phóng thích.

Nam ra trại được hai năm, thì bỗng một hôm, nghe nói có một “trại viên” cũ, treo cổ chết ở một cây đa ngoài trai. Lúc ấy, tôi không còn làm y tế nữa, không có dịp để kiểm chứng người chết là ai, song tôi vẫn ngờ ngợ người ấy là Nam. Cho đến khi tôi dược phóng thích. Tôi trở lại chỗ miếu hoang; vào chỗ kín mà trước kia tôi giấu thơ cho Nam gửi về nhà, xem thử. Nếu quả thật Nam đã trở lại đây tự tử, chắc Nam sẽ để lại cho tôi một lá thư tuyệt mệnh. Nam để lại cho tôi không những một lá thư, mà cả một tập nhật ký, viết trên những tờ giấy rời. Kể từ lúc Nam chết cho đến giờ đã năm năm rồi. Tập nhật ký bị mối mọt đục nhiều chỗ, phải dồn vào một bao nylon. Tôi trở ra, đứng dưới gốc cây đa, xem thử Nam đã treo cổ ở cành nào. Lá đa xanh nghít, xào xạc. Dưới chân đồi con sông lượn khúc, khói lam quyện vào mái tranh một căn nhà ven sông, vươn lên bầu trời xanh thẳm. Nam đã chọn chỗ để an giấc nghìn thu. Mộ Nam là một nấm đất nhỏ, cỏ mọc lưa thưa, trong nghĩa địa cạnh miếu. Một tấm bảng gỗ mang tên họ Nam cùng với ngày tháng chết cắm ở chân mộ. tôi quỳ xuống cầu nguyện cho Nam, mặc dù lúc sống, Nam là một Phật tử. Đang lúc suy tư, tôi nghe tiếng chân đạp trên lá sau lưng. Tôi quay lại, thì một trung niên bước tới giới thiệu. Hóa ra là ông giáo viên tiểu học, thường chuyển thư cho Nam ngày xưa. Ông với Nam đã thành bạn thân. Chính ông đã nhận là bà con với nam và xin với xã được chôn cất Nam trong nghĩa địa bên miếu. Ông kể là Nam đã ở lại nhà ông một đêm. Sáng ra Nam lên đồi và không trở lại nữa. Nam còn cẩn thận gửi cho ông giữ một số tiền vừa đủ để chôn cất Nam, trước khi ra đi. Ông cũng chôn theo Nam lon gô mà Nam đeo trên vai, bên ngoài có ghi: “tro của em yêu dấu”. Tôi cám ơn tấm thịnh tình của ông. Về Saigon, tôi giở nhật ký Nam ra xem:

“02-09-79. Hôm nay “quốc khánh XHCN”. Trước kia, miền Nam không có ngày lễ nầy, vì phe Quốc Gia mặc nhiên xem ngày đó là trò hề, khởi đầu cho “cách mạng vô sản quốc tế”, loại bỏ dần dần mọi tham gia của người yêu nước thuần tuý không Cộng Sản. Tất cả trại viên” đều được nghỉ lao động. Riêng chăn nuôi, thì phải dẫn bò đi ăn. Nằm dưới gốc cây đa, thấy những lá non gió đẩy đung đưa trên nền trời xanh, lại nhớ bài thơ:của Huy Cận

“Nằm im dưới gốc cây tơ,

Nhìn Xuân trải nhựa muôn tờ lá non:

Giữa trời hình lá con con,

Trời xa sắc biển lá thon mình thuyền.

Gió qua là gió triều lên,

Hây hây gió đẩy thuyền lên biển trời.

Chở hồn lên tận chơi vơi,

Muôn chèo của nhạc, muôn lời của thơ.

Bâng khuâng như thể bao giờ,

Lênh đênh nào biết bến bờ là đâu!”

“Cuộc đời có lắm buồn phiền, là bể khổ. Có những phút phiêu diêu như thế này, để quên thân phận tù đày. Vẫn nhớ Thu không nguôi. Lời bài hát “Nắng chiều” làm anh nhớ đến lúc chúng mình mới quen nhau: “Anh nhớ trước đây, dáng em gầy gầy, dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh”. Mẹ đã trở về làng cũ Túy La, sống với gia đình chú Chín, giúp chú làm tằm. mỗi năm mẹ thăm nuôi hai lần, cũng đơn sơ, đạm bạc. Mẹ cũng không có tin tức gì về Thu.

07-10-79. Gửi thư về cho Thu nhiều lần với địa chỉ nhà cũ ở Đà-nẵng, nhưng không có hồi âm. Không biết bây giờ, em trôi giạt về đâu. Chúng mình lạc nhau ngay ở bờ biển Sơn Chà (Sơn Trà) khi nhóm binh sĩ và sĩ quan Biệt động quân đứng thành vòng tròn, mỗi người trên tay một quả lựu đạn đã mở chốt. Khi họ la lên là “đồng bào hãy tránh xa”, anh và em mạnh ai nấy chạy. Nghe một loạt nổ chát chúa và hơi gió tạt từ sau đến. Họ tự tử tập thể, chắc là vì quá tuyệt vọng. Khi anh trở lại hiện trường, thấy cảnh người chết banh thây, mùi máu tanh tưởi, anh vội rời xa, vì nghĩ chắc là em đã thoát. Rất tiếc, là trong lúc hốt hoảng, anh quên không nắm tay em cùng chạy. Mặc dù lúc đó Việt cộng đang ở đèo Hải Vân bắt đầu pháo kích vào Sơn Chà, anh vẫn vừa chạy vừa ẩn núp, để tìm em. Tìm mãi em không được, anh trở về nhà cha nuôi em, song nhà vắng tanh. Anh ở lại đó, chờ em về. Song vẫn biệt tăm. Nghe lịnh “ủy ban quân quản” thành phố, anh ra trình diện, và bị tập trung vào Vĩnh Điện, rồi Kỳ Sơn…” (nhật ký bị rách nát nhiều trang không đọc được).

“… Xa em đã gần bốn năm. Chúng mình sống bên nhau chưa đầy sáu tháng. Những kỷ niệm thân thương không hề phai nhạt:

Bốn năm trời xa em,

Chúng ta mất biết bao ân ái mặn nồng.

Nhớ đến lúc bên nhau hai đứa trần truồng…

Khắn khít uyên ương, thiên đường nguyên thủy…

Anh quỳ bên em ngất ngây thờ lạy,

Vẻ mỹ miều của thân thể trinh nguyên,

Anh hôn lên vầng trán bình yên,

Lên đôi má hây hây say tình e thẹn.

Lên đôi môi nở hoa dâng hiến,

Ôi ngọt ngào là miệng lưỡi của em.

Hơi thở thơm tho, anh mãi mãi thèm…”

(bài thơ lại bị mối đục thủng đoạn kế tiếp). Một mảnh giấy rời, có câu thơ còn đọc được. Bài thơ chắc dài, chỉ còn chục câu, gợi nhớ thương, lo lắng cho vợ lúc đi chăn bò.:

“Gió sớm mai mát rượi, như bàn tay yêu thương,

Biết bao giờ trở lại bên em, ôi cả một thiên đường!

Tiên Lãnh vào Thu, núi rừng đẹp lắm:

Trời lộng xanh cao, cỏ đồi dệt thảm,

Lấp lánh, lao xao, chạy theo nắng ấm,

Vẳng bên tai, chim gió, hát lưng trời.

Cảnh vật an bình, xao xuyến lòng người,

Ngồi dưới gốc cây đa, bên ngôi miếu cổ,

Nhìn đàn bò thong dong gặm cỏ,

Mà tâm hồn bay bổng, hướng về em.

Em ở nơi mô, cuộc sống có êm đềm!

Mà chẳng đến thăm anh tù đày khốn khó?

Lo cho em, chắc nhiều trắc trở,

Xin cầu Trời phù hộ cho em.

20-09-80. Được phóng thích ngày 28-08-80, nhân dịp “quốc khánh”. Trong giấy ra trại cho về nguyên quán làng Túy La. Hai mẹ con dựng một nhà tranh nhỏ, trên miếng đất ngày xưa, sớm chiều có nhau. Kỷ niệm thơ ấu, những ngày hồi cư đói khát, cha chết, không có vải làm khăn tang, trở lại trong giấc ngủ đầy ác mộng. Việc đầu tiên là tìm tông tích của Thu. Lên Giao Hòa hỏi thăm, chẳng có đầu mối gì, chỉ biết thêm là người giết cha mẹ Thu, đã vào tù vì tham nhũng, khi hắn ta làm “chủ tịch Hợp tác xã nông nghiệp quận”. Nghe nói, là hắn “có thể bị xử tử”.

09-10-80. Lo làm ăn, đầu tắt, mặt tối, mà chỉ đủ hai mẹ con, ngày hai bữa, ăn bắp, ghế cơm. Mẹ nhắc hồi nhỏ, mình nói ngọng, kêu bắp là bú, kêu gạo là gụ, và năn nỉ nấu “nửa bú, nửa gụ” cho dễ ăn. Nay hai mẹ con ăn “nửa bú, nửa gụ” thế là tốt rồi. Ra Đà-nẵng nhiều chuyến dò la tin tức Thu. Lúc nào cũng khấn thầm Trời Phật phù hộ tìm ra tông tích nàng. Mộng mị thấy nàng trong giấc ngủ thường xuyên. Tình cờ một hôm vào quán mì Quảng gần chợ Cồn, gặp lại Thúy, bạn học Thu, nay là giáo viên tiểu học. Thúy nói là rất mừng, gặp lại tôi, để thông báo là có thể Thu đã chết trong ngày chạy loạn ở Sơn Chà. Tôi bàng hoàng chết điếng. Em Thu! Em ra đi không một lời từ biệt! Thúy cho biết là cùng Thu chạy về mũi Sơn Chà, giữa rừng người hoảng hốt. Một quả đại bác rơi gần đó. Khi Thúy chổi dậy, thấy chung quang người chết nằm la liệt. Thu nằm bất động, rên khe khẻ, máu rỉ ra từ một vết thương trên trán. Thu thều thào nhờ Thúy báo tin cho Nam. Sau đó Thúy may mắn xuống một thuyền nhỏ ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi, vào được Saigon. Lúc trở về Đà nẵng, thì chẳng biết tôi ở đâu để nhắn tin.

12-10-80. Có người mách là có thể đến bệnh viện Đà-nẵng xem danh sách những người bị thương và chết được xe cứu thương mang về đó trong những ngày cuối thắng 03-75. Tôi đến nhà xác bệnh viện. trong quyển sổ cũ, giấy đã vàng, tôi tìm được tên em. Phải lên nghĩa địa Hòa Khánh để tìm mộ. Song mộ lại dời đi Gò Cà trong đợt dời mộ năm 1976 do “lệnh chung của tỉnh”. Nghĩa địa Gò Cà mênh mông, bao trùm nhiều đồi trọc cát sỏi. Cũng may, là anh ra tù sớm. Mộ bia của em, một tấm gỗ nhỏ, đã ngã nằm ra đất, chữ viết bằng loại sơn xấu đã nhòe nhoẹt dưới nắng mưa. Anh bới mộ em lên. Không nhầm lẫn được: hàm răng dưới em có chiếc răng cời bên trái. Trán còn mang lỗ thủng mà chị Thúy có nhắc đến. Chiếc áo lụa em bận ngày chạy loạn chưa hư nát hết. Lượm từng cái xương của em, mà nước mắt tuôn ra không ngớt. Em nhìn anh bằng cặp mắt của hư vô. Bỏ xương vào một hủ sành, anh mang về Túy La.

11-11-80. Cái thằng thôn trưởng thật hắc ám. Mỗi tuần hắn bắt trình diện một lần và khai báo, mặc dù chẳng có gì lạ. Những tạp dịch trong thôn, hắn bắt mình “xung phong” làm. Ngay chuyện gỡ mìn quanh đồn bót cũ, cũng là mình. Lúc nào cũng coi mình là “thù địch”. Trồng dâu, hái dâu, làm cỏ, nuôi tằm, công việc xoay như chong chóng. Những ngày giữ bò còn “sướng” hơn bây giờ.

Đã đốt xương em, cho vào một lon gô, để ở đầu giường, để được gần gụi em. Tối tối, lại trò chuyện cùng em. Trong lòng anh chẳng ai thay thế được em. Có nhiều cô gái trong thôn tỏ tình, nhưng anh dửng dưng, nguội lạnh. Tâm hồn giống như một ông già. Những lúc cô đơn, hay làm việc một mình, tự nhiên lại thốt lên: “đời sao buồn quá” hoặc ngâm se sẽ: “buồn ơi xa vắng, mênh mông là buồn”. Bái hát của Từ Công Phụng nói về nỗi cô đơn, khi người yêu đã mất nghe thấm thía quá: “kể từ khi em đem cô đơn mọc lên phố vắng, khi em đem nụ cười khỏi đời, từng chiều rơi, ta nghe như cõi lòng tê tái. Nghe giữa đời còn gọi tên nhau”. Đoạn giữa của bài hát đúng như lúc chúng mình đứng ở bãi biển Sơn Chà, một đêm sao sáng đầy trời, em ngước mắt nhìn anh, chờ đón nụ hôn, trong khi bài tình ca du dương, từ một quán xa vọng tới: “ngày ấy cho nhau một lần, một lần tiếng hát đồng lõa, đưa anh vào vùng trời lấp lánh, bằng những ánh sao trời vào đôi mắt ngước trìu mến”. Anh muốn tìm lại ánh mắt của em ở thế giới bên kia!

06-12-80. Những bài học về tư tưởng yếm thế hay quanh quẩn trong đầu. Có một thi sĩ Tầu không nhớ tên, đã viết:

“Tích ngã vị sinh thì,

Minh minh vô khả tri.

Thiên công hốt sinh ngã.

Sinh ngã lục hà vi?

Vô y sử ngã hàn,

Vô phạn sử ngã cơ,

Hoàn nhỉ thiên sanh ngã,

Hoàn ngã vị sinh thì”.

Tạm dịch:

“Khi tôi chưa sinh ra,

Hỗn mang nào có biết.

Trời bỏ tôi ra đời,

Ôi số phận cay nghiệt,

Không áo để che thân

Không cơm đói muốn chết,

Trả lại Trời công sinh

Trả lại tôi thời chẳng biết”.

Cuộc đời bi thảm quá. Chỉ muốn trở về với hư vô, (nhật ký rách vụn nhiều trang). Mấy trang chót còn đọc được:

15-07-82. Mẹ đã ra đi một cách êm thắm. Thường ngày mẹ dậy rất sớm. Song hôm nay mặt trời đã lên cao mà mẹ vẫn chưa thấy dậy. Lại giường mẹ xem sao, thấy sắc mặt hơi tái, sờ tay thấy lạnh ngắt. Thì ra, mẹ đã ra đi trong giấc ngủ. Mẹ lúc nào cũng sống âm thầm như chiếc bóng. Lúc giã từ vĩnh viễn, mẹ cũng không muốn quấy rầy con. Thương mẹ, thương em quá chừng. Ma tang đơn giản. Chôn mẹ cạnh mộ cha sau vườn:

Bởi con nghèo, nên mẹ chết âm thầm,

Kẻ giàu có, thì linh đình ngày xuống huyệt.

Mẹ chết rồi, con không còn gì để ràng buộc với thế gian này nữa. Con muốn trở về gốc cây đa, mà con đã trải qua nhiều giờ phút suy tư về kiếp sống con người, và yên nghỉ cùng Thu. Ở một nghĩa địa cổ Hy Lạp, người ta phát giác một bia mộ ghi những lời sau đây: “hỡi những người qua đường, hãy nhẹ chân, vì đêm nay là đêm cuối cùng ta ngủ được ngon giấc”. Ông ta lúc sống chắc trải qua những khổ đau cùng cực, nên mất ngủ triền miên. Tôi thì không đến nỗi như ông, song giấc ngủ dài yên lặng của nấm mồ, tôi thầm mong ước được như thế”.

Thì ra, nhật ký không viết cho tôi. Mà chỉ là những gửi gắm riêng tư. Nam cũng không ngờ là tôi trở lại miếu hoang nầy. Chiến tranh, chết chóc, chia ly, thời thơ ấu thiếu thốn, đau buồn đã hằn lên tâm hồn Nam nhiều đau thương!

Cha chết sớm, chưa kịp dạy Nam yêu đời. Nếu Thu còn sống, chắc Nam cũng yêu đời như ai.

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

(Trích trong: Tình Yêu Hiện Sinh Một Kiếp Người)

Câu chuyện Trời đánh… không chết

Câu chuyện Trời đánh… không chết

Chu Nguyễn

Thực là một phép lạ! Vào lễ Giáng sinh 1971, một cô gái tuổi teen có tên là Juliane Koepcke cùng mẹ đáp máy bay ở Lima tới khu rừng Amazon. Giữa đường sét đánh trúng máy bay. Phi cơ tan xác, hành khách và phi hành đoàn tử vong. Riêng Juliane rơi từ cao độ 10,000 feet xuống rừng sâu thoát chết. Kỳ lạ hơn nữa, sau 11 ngày lạc trong rừng mưa nhiệt đới, tới lúc kiệt sức chạm trán với tử thần lần thứ hai Juliane lại được cứu thoát!

Câu chuyện ly kỳ sau đây lược dịch từ bài Skyfall trên tờ Readers’ Digest, số tháng Một, 2014.
Juliane Koepcke trưởng thành ở Lima, Peru, trước tuổi 14, theo cha mẹ dọn tới vùng rừng mưa nhiệt đới Peru, nơi song thân của cô là Maria và Hans-Wilhelm Koepcke đã dựng một trạm nghiên cứu về sinh vật học có tên là Panguana Biological Research Station. Sau hai năm theo cha mẹ miệt mài trong rừng mưa nhiệt đới, Juliane quay trở về Lima hoàn tất bậc trung học.
Vào ngày 24 tháng 12, 1971, Juliane lúc đó 17 tuổi, cùng mẹ đáp máy bay từ Lima tới thăm cha vào dịp Giáng sinh. Sau đây là lời kể lại của cô về chuyến đi đầy bi kịch và kinh hoàng:

* * *
Những ngày tháng của tôi ở Lima thực tuyệt vời. Mặc dù đã có những kinh nghiệm sống nơi rừng rậm, nhưng tôi vẫn còn là một nữ sinh thơ ngây. Tôi nghỉ hè ở Panguana và đi học cùng bè bạn tại Lima. Mẹ tôi có ý định sớm đáp máy bay tới Pucallpa, một thành phố có phi trường sát Panguana, nhưng tôi năn nỉ bà tạm hoãn lại chuyến đi cho tôi đi cùng vì vào các ngày 22, 23 tháng 12 tôi có một buổi khiêu vũ tại trường và phải dự lễ tốt nghiệp trung học. Bà bằng lòng và quyết định chúng tôi sẽ bay vào ngày 24.
Phi trường đông đúc khi chúng tôi tới khu chờ đợi vào buổi sáng trước ngày Giáng sinh. Ngày hôm trước, nhiều chuyến bay bị hủy và giờ đây hàng trăm hành khách xếp hàng dài trước quầy bán vé. Vào lúc 11 giờ sáng chúng tôi lên máy bay. Mẹ tôi và tôi ngồi sát bên nhau ở hàng ghế gần áp chót. Trên băng ghế có ba chỗ ngồi, tôi luôn luôn chọn nơi sát cửa sổ như thường lệ, mẹ tôi ngồi sát kế bên tôi và ngoài cùng gần lối đi là một ông to con, bệ vệ. Mẹ tôi thực ra không thích đi máy bay mấy nhưng vì nghề nghiệp, một nhà nghiên cứu về điểu học (ornithologist) nên bà có thành kiến một con chim sắt bay được là điều bất thường không tốt.
Nửa giờ đầu tiên của chuyến bay từ Lima tới Pucallpa thì chẳng có gì đáng nói. Chúng tôi được ăn sáng với sandwich và thức uống. Khi các tiếp viên phi hành bắt đầu dọn dẹp, chúng tôi bay vào vùng trời bão tố sấm sét kinh hồn. Ngày chợt biến thành đêm và bầu trời chớp nhoáng lên từ khắp phía. Hành khách nghẹt thở khi máy bay chao đảo quá mạnh. Túi xách, hành lý, quần áo, mọi thứ lủng củng từ ngăn đựng ở phía trên đầu rơi tứ tung xuống dưới. Khay đựng sandwich bay trong không khí và đồ ăn thức uống thừa bắn tung vào mặt mũi hành khách. Mọi người la hoảng bốn phía.
Mẹ tôi trấn an tôi bằng những lời không mấy an tâm: “Hy vọng không sao đâu!”
Tôi chợt thấy một luồng sáng lóe lên từ phía cánh phải. Không hiểu đó là một tia chớp hay một tiếng nổ. Máy bay bắt đầu chúi mũi xuống. Từ nơi tôi ngồi ở phía sau máy bay, tôi có thể nhìn về phía buồng lái. Tai tôi, đầu tôi ù ù và toàn thân tôi tê bại vì tiếng rít của máy bay. Tôi nghe mẹ tôi gắng bằng giọng trấn tĩnh: “Không sao đâu!”

Nhưng máy bay đã mất cao độ. Mọi người la hét và bỗng nhiên tiếng động cơ tắt ngúm. Tôi mơ hồ nhận ra, mẹ tôi không còn ở bên tôi nữa và bản thân tôi cũng không còn ngồi trong máy bay nữa. Ở cao độ 10.000 ft tôi bị gắn chặt vào ghế ngồi vì dây an toàn. Chỉ riêng tôi rơi trong không gian. Bốn bề yên tĩnh tôi chẳng nhìn rõ những gì quanh tôi. Dây an toàn thắt chặt lấy bụng tôi tới mức tôi khó thở.
Tôi chỉ thoáng thấy rừng mưa nhiệt đới Peru nhấp nhô từ từ hiện ra rõ hơn trước mắt tôi với những lùm cây như những bông cải xanh khổng lồ vươn lên như muốn nuốt chửng lấy tôi. Tôi thấy mọi vật như qua lớp mây mù rồi lại ngất đi.

Khi tôi tỉnh lại, thân tôi rơi vào giữa rừng cây rậm rạp. Dây an toàn đã bung ra nên tôi tỉnh táo hơn, tôi co mình vào lưng băng ghế ẩm ướt vì bùn đất và nằm ở đó suốt ngày đêm.
Sáng hôm sau chẳng bao giờ tôi quên được những gì mắt tôi nhìn thấy: những cây cổ thụ có tàn lớn trên đầu tôi tỏa đầy ánh sáng vàng vàng phủ lên vạn vật xanh biếc. Tôi cảm thấy trơ trọi, bơ vơ. Chỗ ngồi của mẹ tôi trước đây trống rỗng.
Tôi không đứng dậy được. Tôi nghe tiếng đồng hồ tay của tôi kêu tích tắc nhưng không nhìn được giờ. Tôi phát giác mắt bên trái của tôi sưng vù và tôi chỉ nhìn được qua khe hở ở mắt phải. Kính của tôi rơi đâu mất nhưng cuối cùng tôi cũng có thể nhìn được giờ, lúc đó là 9 giờ sáng, tôi cảm thấy kiệt sức và cứ thế nằm bất động trên mặt đất.
Một lát sau tôi gắng ngồi dậy nhưng lại nằm vật ra vì kiệt sức. Một lát sau, tôi gắng ngồi lên, sờ lên xương vai bên phải, thấy đau nhưng hy vọng nó không gãy. Bắp chân trái bị xẻ ra một vết như do một vật kim loại sắc tạo ra nhưng lạ thay nó lại không chảy máu.
Tôi thụp xuống bò bốn chân tay để tìm mẹ tôi. Tôi gọi tên người nhưng chỉ có rừng sâu trả lời tôi mà thôi.

Với những ai chưa từng ở rừng mưa nhiệt đới thì xem ra khó tránh được hoảng hốt. Hàng cổ thụ soi bóng bí mật xuống nền rừng. Nước róc rách không ngừng. Rừng mưa nhiệt đới thường có mùi ẩm mốc do cây cỏ tàn úa gây ra. Côn trùng ngự trị rừng rú và tôi gặp đủ loại quấy rầy: kiến, bọ dừa, bươm bướm, châu chấu và muỗi. Một số côn trùng sẵn sàng đẻ trứng nơi vết thương trên da thịt con người và ong dại bám cứng tóc như muốn làm tổ.
Cũng may tôi sống quen hoàn cảnh này trong thời gian khá dài, đã quen tiếng rừng, với hình ảnh đặc biệt biến ảo phi thường nơi rừng rú. Chưa có gì về rừng núi mà ba mẹ tôi chưa dạy cho tôi và giờ đây tôi chỉ cần moi móc trong khối não bị chấn động của mình để đối phó với nghịch cảnh.
Tôi chợt cảm thấy khát khô cuống họng. Những giọt nước còn đọng trên lá cây giúp tôi giải khát. Tôi đã gượng lần quanh nơi tôi ngồi và ý thức được rằng trong rừng dễ lạc lối nên cố gắng đánh dấu nơi mình đang ở.

Chung quanh tôi, tôi không hề thấy dấu vết của nơi máy bay gặp nạn, không có khung kim loại, không có xác người và đồ đạc. Nhưng may mắn tôi nhặt được một bịch kẹo. Tôi nghe thấy tiếng máy bay bay trên đầu, tôi nhìn lên nhưng bóng cây quá rậm, nên chẳng có cách nào người trên máy bay nhìn thấy tôi, tôi có cảm giác bất lực bao trùm tâm trí, tôi phải ra khỏi rừng rậm thì hy vọng nhân viên cứu hộ mới có thể phát giác nạn nhân là tôi. Nhưng trong một thoáng tiếng động cơ biến mất.
Từ xa vẳng lại tiếng nước róc rách mà trước đây tôi không để ý. Tôi lần về phía đó. Không xa tôi tìm thấy một khe nước nhỏ. Phát giác này làm tôi hy vọng. Không những tôi tìm ra nguồn nước uống mà còn giúp tôi thêm tin tưởng khe nước sẽ dẫn tôi tới nơi được tiếp cứu.
Tôi gắng lần theo sát khe nước nhưng rất nhiều thân cây chắn ngang đường hay cỏ hoang mọc dày bít lối đi. Dần dần khe nhỏ mở rộng và biến thành giòng suối, nhưng có phần đã cạn nên tôi có thể đi sát giòng chảy. Vào khoảng 6 giờ chiều, trời sẩm tối, tôi tìm nơi có thể trú ẩn nơi suối khô để qua đêm và tôi ăn thêm một cây kẹo.
Vào ngày 28 tháng 12, chiếc đồng hồ mà bà nội cho đã chết máy và từ đó tôi đếm ngày và tiếp tục đi tìm sinh lộ. Giòng suối mở rộng, biến dần thành giòng chảy lớn hơn nữa và cuối cùng thành một con sông nhỏ. Vì đang là mùa mưa nên khó tìm ra trái cây để ăn và tôi chỉ còn trông cậy vào những viên kẹo cuối cùng. Tôi không có dao để tách quả hạt, cũng chẳng có cách nào bắt cá hay nấu nướng. Vả lại, tôi không dám ăn thức nào khác vì cha mẹ tôi thường dặn, phần lớn những thứ mọc hoang dại đều có thể chứa chất độc, nên tôi lánh xa những thứ trông có vẻ ngon lành nhưng tôi không biết tên chúng. Lúc đói tôi chỉ còn biết uống cho no bụng nguồn nước sông mà thôi.
Mặc dù đã đếm thời gian trôi đi nhưng tôi có thể đã lẫn lộn giữa ngày 29 và 30, không biết là ngày thứ năm hay thứ sáu tôi lạc trong rừng rậm. Tôi nghe thấy tiếng chích chích tranh ăn dữ dội của một loài chim thường kiếm ăn ở ven sông bãi lầy vùng bán nhiệt đới như Nam Mỹ và thực phẩm chính của chúng là rắn các loại (loại thực-xà-điểu hay hoatzin). Đặc biệt loại chim này thường không ở xa nơi có người cư ngụ. Tôi phấn khởi hẳn lên vì khi ở Panguana tôi thường nghe thấy âm thanh này.

Với nguồn hy vọng mới, tôi rảo bước theo âm thanh này. Cuối cùng tôi đứng trên bờ một con sông lớn nhưng chẳng thấy bóng ai cả. Tôi nghe tiếng máy bay từ xa vọng lại rồi âm thanh tan dần. Tôi nghĩ rằng họ đã bỏ cuộc tìm kiếm nạn nhân sau khi cứu mọi hành khách trừ tôi.
Cơn bất bình dâng lên trong lòng. Sao phi công không quay trở lại vào lúc cuối cùng tôi đã ra khỏi rừng rậm? Rồi cơn giận nhường chỗ cho cảm giác tuyệt vọng. Tuy nhiên tôi không bỏ cuộc vì biết rằng nếu đã có sông ngòi thì thế nào gần đó cũng có người cư ngụ.
Bờ sông cây cỏ mọc dày ngăn bước tôi đi, tôi biết loại sứa độc (stingray) thường ở ven bờ sông, nên tôi thận trọng dò từng bước. Bước như thế quá chậm nên tôi quyết định bơi và lội ra giữa giòng vì ở đó không có sứa độc. Nhưng tôi phải coi chừng loài cá có răng nhọn hoắt -piranhas- nhưng tôi biết “cá răng cọp” chỉ nguy hiểm ở nước tù mà thôi. Tôi cũng ngại sẽ gặp cá sấu loại caimans nhưng thông thường loại này không tấn công con người.
Hằng đêm khi mặt trời lặn, tôi tìm một nơi tương đối an toàn để nghỉ ngơi. Muỗi mòng bao quanh tôi, ù ù bên tai tôi và có con còn muốn chui vào tai, vào mũi tôi khiến tôi khó lòng chợp mắt. Tình trạng còn tệ hại hơn nếu trời mừa. Những giọt nước lạnh như quất vào người tôi, thấm qua bộ quần áo mùa hè mỏng manh tôi mặc và về hùa với gió lạnh như cắt làn da tím tái. Trong những giờ phút đó, tôi co ro trong bụi hay dưới lùm cây và cảm thấy chưa bao giờ trơ trọi như vậy.
Ban ngày tôi tiếp tục lội nhưng mỗi lúc một lả người. Tôi uống nước đầy bụng nhưng thèm ăn một chút gì và nghĩ tới thực phẩm. Mỗi buổi sáng, ngồi dậy càng cảm thấy khó khăn nhất là phải dầm mình xuống nước lạnh. Dù sao tôi tự nhủ, tôi phải tiếp tục tìm đường sống.
Vào một buổi sáng tôi cảm thấy đau ở phần lưng trên. Khi tôi sờ tay lên chỗ đau thì thấy đẫm máu. Thì ra mặt trời đã làm tôi lột da khi tôi lội giữa sông và sau này tôi mới biết mình đã bị phỏng cấp hai.
Thời gian trôi qua và tai ù mắt quáng tệ hại hơn trước. Thỉnh thoảng tôi nghe thấy tiếng gà gáy hay nhìn thấy một mái nhà nhưng tôi quá mệt nên không biết đó là sự thực hay ảo giác.
Cứ thế tôi trôi theo giòng nước tới ngày thứ mười. Tôi thường đụng vào gỗ trôi trên sông và gắng vượt qua không để bị gãy xương cốt.

Tới chiều tối , tôi tới một bờ sông phủ đá cuội và thấy đây là nơi nghỉ rất tốt và cứ thế tôi thiếp đi vài mươi phút. Khi tôi tỉnh lại thì có cảm giác có vật gì lạ xuất hiện gần đó. Tôi giụi mắt nhìn đi nhìn lại và rõ ràng thấy một chiếc thuyền.
Tôi bơi lại và vịn lấy thuyền. Lúc đó tôi mới thấy một lối đi đã nhẵn từ bờ sông đi lên đồi. Tôi hoàn toàn tin rằng sẽ tìm ra người ở gần đâu đó. Nhưng vì quá mệt nên hàng tiếng đồng hồ tôi mới lên được phía trên.
Khi lên tới đồi tôi nhận thấy một căn lều nhỏ nhưng vắng bóng người. Từ đó có con đường dẫn vào rừng. Tôi tin rằng chủ thuyền sẽ xuất hiện vào lúc nào đó, nhưng chờ hoài không thấy bóng ai. Trời phủ bóng đêm và tôi ngủ trong lều đêm đó.

Sáng hôm sau tôi tỉnh dậy vẫn không thấy ai cả. Trời bắt đầu mưa, tôi bò vào bên trong căn lều và lấy tấm nhựa phủ lên người cho đỡ lạnh.
Mưa ngừng vào buổi chiều, tôi không còn sức để đứng lên và tự nhủ sẽ ở lại căn lều này thêm một ngày nữa rồi sẽ tiếp tục đi.
Vào lúc hoàng hôn, tôi nghe có tiếng người, tôi nghĩ có lẽ mình tưởng tượng nhưng âm thanh gần hơn. Khi ba người từ rừng xuất hiện và thấy tôi thì họ ngừng bước mở to mắt ngạc nhiên.
Tôi dùng tiếng Tây Ban Nha bảo họ: “Tôi là đứa con gái trong tai nạn máy bay LANSA. Tên tôi là Juliane!”

* * *
Mấy người kiểm lâm tìm ra Juliane Koepcke vào ngày 3 tháng 01, 1972, sau 11 ngày cô sống sót trong khu rừng nhiệt đới, và đưa cô bé tới chỗ an toàn.
Chín mươi mốt hành khách, kể cả bà mẹ của Juliane, đã chết trong chuyến bay số 508 của hãng LANSA và Juliane là người sống sót duy nhất. Giờ đây cô gái trưởng thành và trở thành một nhà sinh vật học kiêm chủ quản thư viện ở Bavarian State Collection of Zoology. Juliane thường trở lại Panguana, nơi cô thừa hưởng phòng thí nghiệm do cha mẹ để lại, để nó tiếp tục hoạt động đón chào tất cả các khoa học gia trên thế giới.

Từ Lâm Kim Trọng gởi

Vài Kỷ Niệm Với Công Ty Đại Dương

Vài Kỷ Niệm Với Công Ty Đại Dương

Tác giả : Chu Tất Tiến

Năm 1981. Đi tù “cải tạo” mới về, lên trình diện Phường, “con bé” Chủ Tịch, tên Mỹ (1), hầm hầm nhìn tôi, nói:

– Anh có việc làm gì chưa? Nếu không, thì chuẩn bị đi lao động xã hội chủ nghĩa 3 năm nữa. Thành phần như anh cần cải tạo nhiều.

Tôi nhìn “con bé” Chủ Tịch mà máu nóng trong người tôi dồn lên mắt. Đúng là đồ mất dậy! Mới năm nào… Khi ấy, “con bé” Mỹ mới có khoảng 13,14 tuổi gì đó, ở sâu bên trong hẻm, chưa biết vắt mũi cho sạch, vẫn thỉnh thoảng chạy qua nhà tôi, đứng nhìn vào nhà. Tôi vẫy con bé vào, và cho nó kẹo bánh hoài. Con bé nhe răng cười, nói ba tiếng “cám ơn chú” rồi chạy biến vào trong hẻm. Bây giờ, con bé lên làm Chủ Tịch Phường! Chừng như nhớ lại những ngày tháng đó, nó xấu hổ, nên phải lên mặt, ra cái điều ta đây. Tôi muốn chọc quê nó vài câu, nhưng nhớ lại, bọn Việt Cộng đâu có trái tim người, nói gì nó cũng chẳng cho lọt vào tai, uổng phí thời gian.

Tôi nghiến răng, cố hít hơi sâu vào lồng ngực rồi mới thở ra, nói bừa:

– Tôi sắp có việc làm rồi.

Con bé nhìn tôi trừng trừng một lát rồi nói:

– Tôi cho anh một tuần, nếu không có việc, thì về nhà gói quần áo, lên trình diện Phường.

Lẳng lặng quay ra, tôi không thèm chào nó nữa. Cái đồ Cộng Sản mất dậy!

Về đến nhà, tôi không dám nói cho gia đình hay, mà lôi cái xe đạp ra, đạp đến nhà bạn bè, tìm hỏi xem ai biết có việc gì thì chỉ bảo. May quá, ngay đợt thăm viếng đầu tiên, tới nhà T., một anh đồng môn Quốc Gia Hành Chánh, anh ấy bảo:

– Ông đi với tôi đến công ty Đại Dương. Tôi có thằng quen, hồi xưa cũng Quốc Gia Hành Chánh, nhưng bây giờ nó làm lớn lắm. Nó có thể cho ông việc làm.

Thế là tôi đạp xe đi theo T. đến Công Ty Đại Dương. Hồi đó, nghe nói Giám Đốc Công Ty này là Charles Đức, chồng của đào cải lương Bạch Tuyết, chấp nhận tuyển dụng các cựu tù cải tạo mới về. Lòng tôi mừng khấp khởi. Phen này đỡ khổ rồi! Nếu họ nhận cựu tù cải tạo vào, thì chắc cũng là những người tốt…

Đến nơi, T. dẫn tôi vào ngày Phòng Tổ Chức, là nơi quan trọng nhất của mọi cơ sở của nhà cầm quyền. Phòng này lo đặt chỉ tiêu, tuyển dụng nhân viên, điều động nhân lực, sa thải hay nhận vào làm đều do một tay Trưởng Phòng Tổ Chức, cho nên uy quyền sinh sát ghê gớm lắm.

Sau khi xưng tên với tay thư ký gác cửa ngoài, và được Xếp cho vào, T. giới thiệu tôi với Xếp là một người dong dỏng, khuôn mặt khắc khổ, ít nói, lạnh lùng, không thấy nở một nụ cười nào. Anh ta nghe bạn tôi nói về tôi xong, là hý hoáy viết ngay vài chữ vào một miếng giấy nhỏ, bảo bạn tôi dẫn tôi xuống phòng làm lương để lo việc lương lậu.

Thật không ngờ, việc làm lại dễ thế! Tôi cảm động đến lập bập quên không chào hỏi tay Trưởng Phòng Lương. Bạn tôi đưa miếng giấy cho tay Xếp lương một cách thành thạo, có vẻ như anh đã từng giới thiệu nhiều lần rồi.

Tên Xếp phòng lương, già già, cằm bạnh ra, dưới cái mũi to và cặp mắt lồi, nhìn trừng trừng vào tôi, nói vắn tắt:

– Lương lao động 30 đồng một tháng, nhưng mà đừng lấy lương, thì tôi cho làm!

Gì mà kỳ vậy? Bạn tôi nhìn tôi, hỏi ý xem tôi có chịu làm không lương không. Giờ phút đó, thì còn chọn lựa gì nữa! Nếu không về báo cáo là có việc, là đời tàn trong ngõ hẹp, vì đi tù cải tạo, còn có gia đình thăm nuôi, nhưng đi lao động xã hội chủ nghĩa là “mút chỉ cà tha”, không ai biết mình ở đâu mà tìm! Tôi gật đầu, nhận điều kiện làm việc không lương.

Chừng như đã biết hết câu trả lời, tên xếp kia viết một miếng giấy nhỏ, hất tay cho tôi, nói trống không:

-Cầm giấy này, tới số.. đường Nguyễn Tri Phương, Khánh Hội, trình diện.

Tôi gật đầu rồi đi ngay, sau khi cám ơn người bạn tốt đã giới thiệu tôi vào làm. Hồi ấy, bạn tôi, nguyên Phó Quận thời Cộng Hòa, đi tù về làm nghề đứng đường, thu mua “dàng dụn, bạc dụn, đồng hồ, máy móc” linh tinh, kiếm sống cũng khá, tuy có vất vả và đen đúa, nhưng lại tự do, thoải mái, muốn đến “sở” giờ nào thì tới…Khi đến ‘”sở” là góc đường Lý Thái Tổ, anh chỉ để có mỗi một miếng bìa nhỏ ghi mấy chữ: “Thu mua vàng vụn, bạc vụn, đồng hồ, máy cũ..” rồi kéo cái ghế xếp ra, ngồi nhìn xe chạy. Có ngày ngồi từ sáng đến tối, chả có ma nào hỏi, nhưng cũng có ngày, liên tiếp hai ba người, thuộc chế độ cũ, đói ăn, mang những đồ linh tinh đến bán. Anh trả giá, mua xong, thì đi lại những điểm thu mua lớn, và bán lại, lấy tiền lời mua gạo.

Làm việc đó thật là nhàn rỗi! Còn tôi đạp xe đi đến Sở thật sự, chả biết ra sao.

Tới đúng địa chỉ là một “bin-đinh” cũ của người di tản buồn nào đó, có cánh cổng sắt xộc xệch như răng bà lão, nhìn vào trong thấy tối um um. Thấy tôi dựng xe, đứng nhìn nhớn nhác, môt tay bảo vệ chạy ra, hất hàm:

– Anh kia! Làm gì đứng đó?

Tôi nhếch miệng cười xã giao rồi đưa tờ giấy đen đúa ra. Tay bảo vệ cầm lấy, nhìn tôi một lần nữa, rồi chạy vào trong. Chừng một hai phút sau, một tên mập mạp đi ra, cùng với hai ba trự ăn theo phía sau. Tên mập cười hô hố:

– Ồ! Ma mới đây rồi! Muốn đi làm hả? Được, ta đi ăn sáng nhé!

Rồi phất tay vào trong cho đám lâu la tiến ra. Tôi chới với, nhìn lũ người ăn bám này mà hết hồn. Tiến đâu ra mà chi cho lũ này? Chỉ còn cách lập bập nói:

– Xin lỗi các anh, tôi không chuẩn bị, anh cho tôi về nhà lấy tiền..

Tên mập kia trở mặt nhanh như cắt, phẩy tay:

– Thôi! Về thì về luôn đi! Đừng trở lại nữa!

Rồi quay vào, vừa đi vừa lầm bầm cái gì, nghe như “đù mẹ.. thằng…”

Tôi thở ra, chán nản, quay xe về Công Ty Đại Dương. Tới nơi, tôi xin vào thẳng gặp xếp Trưởng Phòng Tổ chức và trình bầy rằng ở đó không nhận! Xếp không nói không rằng, viết một tờ giấy lọ lem khác đưa cho tôi địa chỉ và dưới ký tên.

Lần này, để chắc ăn, trước khi tới nơi, tôi chạy về nhà, thủ một ít tiền vào túi, rồi mới đến trình diện. Nhưng sự thể lại khác hẳn. Tên trưởng công trường, da ngăm đen, miệng vêu như miệng nhái, nhìn tôi nói dõng dạc:

– Tôi nhận cho anh vào làm. Lương ở đây là 30 đồng, nhưng anh không được lấy lương, và phải làm thông tầm, nghĩa là làm một lèo từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Buổi trưa, ăn cơm tại chỗ, nhưng không được mang cơm theo. Phải nộp một lon gạo để ở đây, người ta nấu cơm cho ăn. Muốn ăn canh thì nộp thêm 1 đồng nữa. Chịu không?

Thật đúng là quân bóc lột. Công Ty Đại Dương này phải đặt lại tên là Đại Ác mới đúng. Làm đã không có lương, mà còn phải nộp thêm tiền. Một lon gạo giá 1 đồng, thêm một đồng canh nữa là hai đồng, một tháng như vậy, làm 26 ngày, phải nộp thêm 52 đồng, trong khi lương công nhân viên hồi đó có khoảng 30,40 đồng! Tôi muốn chửi thề quá đỗi, nhưng lại nhớ đến cái “con bé Chủ Tịch” ở nhà đang hầm hầm muốn ăn thịt tôi, tôi phải nghiến răng gật đầu.

Trưởng Công trường, tên Quang, sau này mới biết nó nguyên gốc Đại Úy Công Binh, vì có vợ là Cách Mạng lớn, nên được cử làm Xếp Chúa ở đây. Tên khốn này, có đứa con gái khoảng 18, 19 gì đó, ngày nào cũng vào với bố, đi lanh quanh, tìm đồ để “chôm”. Chiều nào cũng thấy nó mang một bao cát ra cửa, trong đó chứa những vật liệu sửa xe hơi, như bạc đạn, pít tông… là đồ ăn cắp của xưởng, mang về bán lại làm giầu. Bảo vệ thấy nó thì cho qua, còn tụi công nhân như tôi, phải chìa túi xách mình ra cho nó khám.

Ngay ngày đầu làm việc, tôi tưởng như đã biến thành môt thứ nô lệ thời La Mã. Tên Quang chỉ cho tôi một đống sắt là những thanh sắt ở thành cầu bị phá hỏng, cong queo và bảo tôi cầm búa tạ, đập “nguội”, (không nướng trên lửa) cho thanh sắt thẳng ra! Hãy tưởng tượng thanh sắt dài cong, có chiều ngang khoảng hơn 20 xăng ti mét, được đúc thành chữ “i” La Mã giống như hai chữ T nối lại với nhau, kiên cố như thế nào, mà bắt tôi đập “nguội” cho thẳng! Nếu nướng cho đỏ lên, thì cũng khó mà đập cho thẳng, đằng này lại đập “nguội”.

Đột nhiên, tôi nổi máu xung lên, vác búa tạ nặng 5 kí lô dang thẳng cánh tay, đập xuống. “Choang!” cái búa bật trở lại, chút nữa thì bắn vào mặt tôi, vỡ mặt! Bọn nô lệ cũ vẫn đứng nhìn tên ma mới này làm việc, thấy vậy thì cười lên hô hố. Tôi nóng tiết, quay búa liên tiếp “choang! Choang!”. Miếng sắt cũng nẩy lên theo cái búa.. Quay chừng 10 cái búa, là tôi thấy chả vai của tôi muốn lìa cái thân thể còm nhom của tôi. Đầu váng, mắt hoa, tay mỏi.. Tôi muốn rủ người xuống, nhưng nghe thấy những tràng cười nhạo của bọn kia, danh dự của một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lại bùng lên, làm tôi nghiến răng, quay búa…. Đến khi tôi không điều khiến được cánh tay nữa thì mới chịu ngừng lại, ngồi bệt xuống đất. Lúc ấy, tôi thèm chết quá chừng! Phải chi chết được, nhắm mắt xuôi tay, không thở nữa, thì sướng biết mấy! Nhưng thực tại lại trừng trừng nhìn tôi, thách đố. Tôi đứng dậy, tiếp tục đập…”Choang! Choang! Choang!”..

Sức người có hạn. Tôi đập búa chừng môt tiếng đồng hồ thì nằm lăn ra, nín thở! Bọn vô lại lại cười ồ. Có đứa nói lớn:

– Đù má! Mấy thằng cải tạo chả biết làm đéo gì!

Nghe thấy thế, tôi cố ngồi dậy, thở một lúc, lấy tay trái xoa bóp tay phải cho dãn ra, rồi lê cái thân còm đứng dậy, tiếp tục đập. Đống khung sắt khổng lồ cứ nhìn tôi, dỡn mặt, nhẩy lên, nhẩy xuống…

Tới giờ ăn cơm. Tên phát cơm gọi tôi:

– Ê! Anh kia! Lại lấy cơm.

Nhìn tô canh “toàn quốc”, nghĩa là tô đầy nước, chứa mấy lá cải, hai ba chú tôm bé như cái tăm trốn dưới đáy tô, tôi chán đời dễ sợ. Thà là tù cải tạo…

Nhưng thôi, đời chó má thế, cứ chấp nhận đi. Tôi hát trong miệng: “Lâu dần đời người cũng qua…”

Làm được hai ngày, thì tên xếp Chúa thấy đống sắt vẫn trơ trơ, bảo tôi đổi việc. Khi mới nhận tôi vào làm, nó cố tình chơi tôi, vì nếu là Sĩ Quan Công binh, nó phải biết muốn uốn sắt thép, phải nung lửa! Không một lực sĩ nào có thể đập sắt nguội như thế! Thay vì đập sắt, nó bảo tôi kéo đá! Chỉ cho tôi cái xe cút kít có một bánh xe sắt và hai cái càng cua thò ra ngoài một cái hộp hình khối Pyramid lộn ngược, nó bảo tôi phải múc đá xanh cho đầy vào rồi kéo chạy lên dốc trên, đổ xuống cho người ta dậm ra, đổ xi măng vào. Tôi ra nhận xe, mà phẫn nộ, vì mọi xe đều có hai người, môt kéo, một đẩy, còn tôi chỉ có một mình mà lại là chiếc xe bự nhất. Bọn khốn kia nó muốn giết tôi chết vì đau tim! Uất quá mà không biết nói sao, nếu đòi hỏi, bọn chúng lại ồ lên “đồ cải tạo biết đéo gì”, thì nhục, tôi nghiến răng kéo đá. Vì hai tay đưa ra phía sau, làm ngực căng ra hết cỡ, bắp thịt ngực còm của tôi dàn ra mỏng dính, muốn lòi xương sườn ra ngoài da. Hai bắp chân tôi chạy trên lớp đá xanh lạo xạo được vài chuyến thì cũng muốn từ giã tôi mà ở lại đống đá kia. Tôi thở không ra hơi, nhưng vẫn cố..”Cố lên, cố lên, cố lên..mày ơi! Thà chết, không thể chịu nhục!” Tôi cứ xúc, cứ kéo, cứ chạy như cái máy không hồn, để buổi trưa được ăn tô canh “toàn quốc” do chính mình bỏ tiền ra mua. May mà hồi đó, tôi chưa đến 40 tuổi, còn sức mạnh, nhất là tôi đã tập võ từ khi còn nhỏ, rồi đi sang Mỹ, được huấn luyện “Biệt Động” (Ranger) tại Georgia năm ấy, nên không chết lăn quay với những công việc nô lệ kia.

Điều làm tôi chấp nhận công việc khốn nạn này, đã làm không lương như trâu, lại phải nộp tiền cho chủ, là việc “con bé Chủ Tịch” không còn quấy quả tôi nữa. Công Ty Đại Ác kia, đã giúp cho những người tù cải tạo như thế đấy! Tôi nghĩ, không lẽ người đồng môn làm Trưởng Phòng Tổ Chức lại mù, điếc, nên không biết thực tế của những con người khốn khổ này?

Thôi, kệ! Ta sống với Trời, không sống với loài người gian ác! Mặc cho Trời định đoạt!

Làm được đúng một tháng, hôm ấy, kiểm điểm thành tích công tác tháng vừa qua. Cả bọn nô lệ ngồi xếp bằng trên đất đá, nghe tên Quang, Trưởng công Trường nói chuyện. Sau khi nói vớ vẩn vài câu ca ngợi Bác Đảng, đột nhiên, nó chỉ tay vào tôi, nói thật to:

– Địt mẹ chú mày! Tao biết chú mày đéo biết làm gì, nhưng tao thương hại, nên cho chú mày làm việc ở đây. Chú mày liệu mà làm việc đàng hoàng nghe chưa?

Nghe mấy lời khốn nạn của một thằng từng là Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa nói với người cũng từng là chiến hữu của nó, máu nóng trong người tôi xông lên khiến tôi hoa mắt, ù tai, muốn xỉu!

Trong lòng tôi, lúc ấy, chỉ có lòng căm thù, căm thù, muốn giết người, muốn bóp cổ nó, muốn làm Ma cà rồng, làm Franskeintein hút máu nó, phải hút máu cho đến khi nào nó xanh lè, dẫy đành đạch rồi chết.. Tôi gào lên trong đầu những câu chửi tục nhất mà mấy tên ma cô, đĩ điếm vẫn xài.. nhưng chỉ ở trong đầu thôi, nên cơn uất nghẹn càng lúc càng tăng, khiến tôi gục xuống. Bọn khốn kia, thay vì chạy lại đỡ tôi lên, lại cười ồ:

– Xem kìa! Thằng kia trúng gió rồi!

Tai tôi càng ù thêm, nhưng bất chợt, máu nóng quân đội tôi chợt trở về, tôi gượng ngồi dậy, không nói gì, chỉ nhìn trừng trừng về phía trước, thấy mông lung, không gian như mờ mờ ảo ảo, chẳng có chi là thực…

Thằng khốn nạn tên Quang kia, chừng như cũng có chút sót ruột, nên hất hàm bảo cả bọn:

– Thôi, đi về!

Tôi lảo đảo đứng dậy và ra cửa. Vẫn thấy đứa con gái của thằng Quang vác một bao cát đựng đồ gì bên trong, kêu lục cục.

Hôm sau, tôi không đến làm nữa. Đủ rồi! Đủ rồi! Còn gặp lũ chó má kia nữa làm gì? Làm như nô lệ, không có lương, lại phải nộp tiền! Đời này có sự oái oăm như vậy sao? Phải! Có đấy! Có trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của những tên lãnh đạo là “người chết biết đi” (Walking dead), không có tim, tai đã bịt chặt, mắt cũng bị mù, nhưng tay luôn nắm cò súng…

Vì thế, Đại Dương thật sự bao la vẫn đón người vượt biên, dù chết trên biển hay bị hãm hiếp tơi bời! Mẹ Việt Nam ơi! Mẹ chẩy máu nhiều quá!

Chu Tất Tiến.

(1) Con bé Mỹ này, năm 2010 (?), gạt tiền đồng bọn, bị đồng bọn chém giữa trụ sở, nhưng không chết, chỉ bị thương tật. Còn con bé Phó Chủ Tịch tên Hồng thì bị chém chết thẳng cẳng ngay giữa Phường 15, Quận Phú Nhuận, Saigon.

Thằng Ăn Cắp

Thằng Ăn Cắp

Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị… thảy đều không hiểu chuyện nầy!!

Cảnh chỉ có ở Việt Nam thời nay.

( Ảnh trên: Nhục hình tội phạm của xả hội Việt  Nam, hiện nay )

(Năm 12 tuổi, tôi đọc ở đâu đó một truyện cổ tích Ấn Ðộ. Truyện rất ngắn, ít tình tiết, kể về một thằng ăn cắp. Hồi đó tôi không hiểu ý nghĩa. Ðem hỏi cha tôi thì người chỉ nói: “Lớn lên con sẽ hiểu. Người nào không có lòng công chính, không là người chân thật thì cũng không hiểu.”
Thường bọn móc túi nơi đám đông, quân đào tường, khoét vách nhà người ta để trộm tiền bạc, đồ đạc… là những vật cụ thể, hữu hình, thì chúng bị gọi là kẻ cắp. Ðiều đó dễ hiểu. Còn lòng danh dự, sự công chính, lương tâm là những thứ trừu tượng, những ý niệm, thảy đều có thể bị ăn trộm hay sao?

Ở một làng bên xứ Ấn Độ, có một thương gia nghèo. Ðời sống khó khăn, nạn cường hào ác bá quá đỗi lộng hành khiến bác ta sống không nổi, phải bỏ đi một xứ xa sinh sống. Sống nơi đất khách quê người lâu ngày, lòng riêng vẫn tủi. Lại thêm tuổi đà xế bóng, tính ganh đua, lòng ham muốn cũng mỏi mòn. Một hôm chạnh nhớ cố hương, bác quyết định trở về. Bán hết tài sản lấy tiền mua vàng, gói vào một túi vải giấu trong túi hành lý khoác vai, bác lên đường về quê hương.

Trong vùng quê người thương gia, giữa một cánh đồng, dân trong vùng xây một ngôi chùa nhỏ để các nông phu buổi trưa ghé vào lễ Phật và nghỉ ngơi. Một cây bồ đề lâu năm che bóng rợp xuống một sân nhỏ lát gạch, một cái giếng khơi, nước mát và trong vắt, cũng là nơi cho khách bộ hành ghé chân nghỉ ngơi, giải khát, hoặc đôi khi ngủ qua đêm trong chùa. Chùa không có người coi. Phật tử trong chùa đều là nông dân. Lúc rảnh việc thì tự ý tới làm công quả quét tước, dọn dẹp, chăm sóc cho đám cây cỏ sân chùa lúc nào cũng hương khói quanh năm.

Sau nhiều ngày lặn lội đường xa, người thương gia về gần đến làng cũ. Trời đã xế trưa, nắng gắt. Ði ngang qua chùa, bác ghé vào nghỉ chân dưới gốc bồ đề. Ra giếng nước giải khát, rửa ráy sạch sẽ xong, bác vào chùa lễ Phật. Trong chùa vắng lặng. Bác thắp hương quỳ trước bàn thờ Phật. Ngước nhìn lên, nét mặt đức Thế Tôn vẫn trầm mặc như xưa nay, hơn mười năm qua không có gì thay đổi. Cảnh vật như đứng ngoài thời gian. Lễ xong, người thương gia rời chùa. Thấy bóng chiều đã ngả, đường về còn khá xa, bác liền rảo bước, bỏ quên túi hành lý trong chùa.

Buổi chiều hôm đó, một nông dân nghèo khổ trở về làng sau một ngày làm việc ngoài đồng. Ngang qua chùa, ngày nào cũng vậy, bác ghé vào lễ Phật trước khi trở về nhà. Lễ xong, bác trông thấy một túi vải to để gần bàn thờ. Bác ta nghĩ thầm: Không biết túi vải của ai đi lễ đã bỏ quên. Nhỡ có người tham tâm lấy mất thì tội nghiệp cho người mất của. Âu là cứ mang về nhà rồi viết bảng thông báo để trả lại cho người ta.

Về đến nhà, bác nông dân gọi vợ con ra, trỏ vào túi vải, nói:
– Ðây là vật người ta bỏ quên trong chùa. Nay mình cứ tạm kiểm kê rõ ràng, đầy đủ, mai mốt có người đến nhận đúng thì trả lại cho người ta.

Giở ra xem, thấy có gói vàng to, người nông dân nghiêm giọng dặn vợ con:
– Vàng của người ta là một vật rất nguy hiểm. Nó làm nảy lòng tham. Mọi điều bất chính, bất lương, mọi sự đau khổ cũng từ đó phát sinh. Mẹ con mày chớ có dúng tay vào mà khốn!
Bác cất cẩn thận bỏ túi vải vào rương, khóa lại.

Người thương gia rảo bước về gần đến làng, nhìn xa xa ráng chiều êm ả, những làn khói bếp vương vấn trên rặng tre quen thuộc. Cảnh xưa vẫn còn trong trí bác so với nay như không có gì thay đổi sau hơn mười năm xa cách.

Vừa đến cổng làng, người thương gia mới sực nhớ đã bỏ quên túi hành lý ở chùa. Lo sợ, hốt hoảng, bác vội quay lại con đường cũ, vừa chạy vừa kêu:
– Khổ thân tôi! Thế là tôi mất hết cả sản nghiệp dành dụm từ hơn mười năm nay! Bao nhiêu công lao trôi sông trôi biển cả rồi! Khổ thân tôi chưa!

Người đi đường ai thấy cũng ngạc nhiên.
Tới chùa thì cảnh vẫn vắng tanh, bên trong chỉ có một cụ già đang lễ Phật. Người thương gia vội túm lấy cụ già, hốt hoảng hỏi:
– Túi đồ của tôi đâu? Vàng của tôi đâu?

Cụ già ngạc nhiên:
– Túi đồ nào của bác? Vàng nào của bác?
– Thì cái túi hành lý tôi để quên hồi xế trưa trong chùa này!

Cụ già vẫn bình thản:
– Quả thật lão không thấy túi đồ của bác. Lão đã sống thanh đạm cả đời, nỡ nào trong chốc lát vứt bỏ lương tâm mà tham của người. Bác cứ bình tĩnh. Của mất, có duyên thì còn có ngày lấy lại, vô duyên thì của cầm trong tay cũng mất. Túi đồ của bác đã thất lạc, bác lại mất luôn cả cái tâm công chính, đỗ vấy cho người là cớ làm sao? Gần đây có một xóm làng, buổi chiều nông dân thường lễ Phật trước khi về nhà. Bác thử tới đó hỏi xem. Thói thường, thấy vàng là tối mặt lại. Nhưng cũng còn tùy. Cũng còn có nhiều người tốt.

Người thương gia nghe ra, nhận thấy mình vô lý, bèn xin lỗi cụ già rồi theo lời chỉ dẫn, tiếp tục đi tìm. Tới làng, ông ta hỏi nhiều người mà không ai biết. Nghĩ rằng sản nghiệp dành dụm trong mười năm của mình nay phút chốc như chiếc lá vàng rơi theo gió đưa, biết đâu là bờ bến mà tìm! Ðành phó mặc cho bước chân tình cờ may rủi. Khi tới cuối làng, giữa vườn cây cối um tùm có một căn nhà lá nhỏ tồi tàn. Trước cửa treo một tấm bảng đen, với hàng chữ trắng viết to: “Tôi có nhặt được một túi vải bỏ quên trong chùa. Ai là chủ xin tới nhận lại.”

Người thương gia mừng quýnh đập cửa, gặp anh nông dân ra mở hỏi:
– Bác là chủ túi đồ bỏ quên trong chùa?
– Vâng, chính tôi. Tôi đã để quên trong chùa hồi xế trưa nay. Xin cho tôi nhận lại.
– Nếu đó là của bác thì bác phải nói xem túi đồ của bác như thế nào? Trong đựng những gì?

Người thương gia trả lời:
– Ðó là túi vải, trong đựng một ít lương khô đi đường.
Người nông phu nói:
– Thế thì không phải túi đồ của bác.
– Thú thật với bác, cũng còn một số vàng trong một gói vải khác màu đỏ.

Người nông phu nghe tả đúng các đồ vật và số lượng vàng đựng trong túi vải, biết chắc người tới hỏi là chủ nhân bèn mở rương ra, nói với người thương gia:
– Quả thật đó là túi đồ của bác. Xin mời vào nhận.

Người thương gia nhận đủ số vàng, lòng vui khôn tả. Bác thấy cảnh nhà người nông dân nghèo nàn mà lại không có lòng tham, để tỏ lòng biết ơn, bác chia đôi số vàng gói vào một miếng vải đưa cho người nông dân. Bác nói:
– Vàng của tôi tưởng đã mất, may sao lại gặp tấm lòng quý của bác. Tôi xin biếu bác một nửa để tỏ lòng thành thật biết ơn.

Người nông dân ngạc nhiên:
– Trả lại món vật không phải của mình chỉ là một việc bình thường, có ơn gì mà được đền?
– Bác đã làm một điều thiện. Ðược đền ơn là đúng lẽ.

Làm việc thiện là nghĩa vụ tự nhiên. Đạo lý xưa nay vẫn dạy như vậy. Đó không phải là cái cớ để đòi hay nhận tiền thưởng. Cũng như lòng yêu dân tộc, yêu tổ quốc không phải là cái cớ để được trả công. Vàng của bác do công sức làm ra thì bác hưởng. Tôi có góp công lao gì vào đó mà chia phần? Thôi, xin bác hãy để tôi được sống yên vui trong cái nghèo của tôi hơn là sống giàu có nhờ vào của cải người khác. Như thế cũng là một cách ăn cắp.

Người thương gia không còn lý lẽ gì để nói thêm bèn khoác hành lý lên vai, bất thần vất gói vải đựng nửa số vàng lên bàn rồi bỏ chạy. Ý định của ông ta là bắt buộc bác nông dân phải nhận sự đền ơn, nhưng bác vội nhặt gói vàng rồi đuổi theo, miệng hô hoán:
– Bớ người ta, thằng ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp.

Dân trong làng nghe tiếng hô hoán liền đuổi theo bắt được người thương gia dẫn trở lại trước mặt bác nông dân, hỏi:
– Hắn đã ăn cắp vật gì của bác?
Hắn định ăn cắp cái tâm công chính và chân thật mà tôi có được từ ngày tôi học Phật!

Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị… thảy đều không hiểu chuyện nầy!!

Lính Thuỷ Sưu tầm