Kén Chồng Cho Con

Kén Chồng Cho Con

Tác Giả: Hoàng Dũng Tuấn

Ở xứ Mỹ này, thời đại văn minh mà nói chuyện cha mẹ kén chồng cho con thì nghe lạ tai. Vậy mà chuyện đó lại xảy ra., chính tôi cũng có dính dáng vào. Chẳng phải ông bà giàu có, sợ gặp thằng rễ đào mỏ, cũng chẳng phải cô gái thuộc loại ngây thơ, e thẹn, kín cổng cao tường, không dám tiếp xúc với ai. Thực sự cô đã băm đi băm lại nhiều lần rồi và năm nay ắt cũng gần bốn mươi cái xuân xanh. Cô cũng xông xáo vào xã hội để kiếm sống, cũng nói năng giao thiệp rộng rãi. Cô lại đẹp nữa. Vậy mà gặp cậu nào còn độc thân là ông bà vui vẻ mời ghé nhà. Chẳng thấy ai quí khách hơn ông bà, nhưng sau đó, hình như không đạt tiêu chuẩn nào đó, ông bà lại mời chàng khác viếng thăm chuyện vãn. Những chuyện trên tôi chỉ nghe trong cộng đồng người Việt ở Virginia bàn tán thế thôi. Oâng bố cô gái tôi biết vì trước bảy lăm tôi là nhân viên dưới quyền ông. Cả đến cô gái tôi cũng biết nữa, nhưng hiện nay những tiêu chuẩn chọn khách đông sàng của ông bà thì ai cũng mù tịt. Đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi, job thơm, chống cộng? Tất cả chỉ là giả thiết. Sở dĩ tôi thêm tiêu chuẩn chống cộng vào đây vì trong các cuộc mít ting của người Việt đòi nhân quyền, tự do cho đồng bào trong nước, ông bà đều dẩn cô gái theo. Để tăng cường sức mạnh cho cộng đồng hay để ông bà chọn anh chàng nào tố cộng hăng say? Hay để cho cô dễ tìm chồng giữa chốn ba quân? Tất cả vẫn còn trong vòng bí mật. Chỉ có một điều là bọn con trai, từ mới lớn cho đến sồn sồn đều suýt soa là cô quá đẹp. Đẹp dịu dàng, đẹp quí phái, thấy cô chỉ muốn ngắm mãi rồi thở dài vì biết mình không hy vọng gì.
Tôi xin dài dòng về những gì tôi biết về ông bà và cô gái của họ.
Năm 1973 tôi tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, được bổ về làm phó quận một tỉnh miền Trung. Lúc đó ông ta là đại tá tỉnh trưởng. Tên ông ta có họ Tôn Thất, tức là bà con với các vua triều Nguyễn. Ở Huế, người ta thường gọi những người thuộc hoàng tộc là mệ. Mệ đây không phải để chỉ các bà già mà là những người, già, trẻ, lớn, bé có họ hoàng tộc đều là mệ tuốt. Các mệ đi đâu, ở đâu cũng vậy, đều có một phong thái rất đặc biệt. Dù giàu, nghèo, sang, hèn họ đều có cách sống phong lưu, cách nhìn, cách nói trịch thượng không cố ý. Nó như có sẵn từ trong máu, thứ máu di truyền hoàng tộc mà chính họ cũng không biết được.
Trong thời gian làm việc ở quận, thỉnh thoảng tôi phải về tỉnh họp. Thấy mệ đại tá tỉnh trưởng tôi nhận ra ngay phong thái đó. Mệ như một ông vua con với bá quan. Thân mật nhưng có khoảng cách rõ ràng. Mệ hết lòng với dân nhưng phục vụ dân như một thiên mệnh hơn là bổn phận, tưởng như chức tỉnh trưởng do Trời ban cho chứ không phải do tổng thống bổ nhiệm. Chẳng bao giờ mệ giữ kẻ điều gì. Mệ muốn là mệ làm. Tôi xin kể một chuyện thực. Một lần mệ báo sẽ ra quận thanh tra. Tay quận trưởng cùng đoàn tùy tùng trong đó có cả tôi ra bãi đáp nghênh đón mệ. Trực thăng hạ xuống, mệ xuống đứng yên vài phút cho tay quận trưởng trình diện, xong mệ lẵng lặng đi quanh hàng rào phòng thủ quận chi khu. Mệ đi trước, phía sau là phái đoàn rồng rắn đi lòng vòng qua các giao thông hào, ụ súng, vọng gác. Đột nhiên tay quận trưởng lùi lại, ra dấu cho tất cả cùng lùi lại, yên lặng. Trời ạ! Mệ đứng tè ở góc vọng gác. Chuyện này – chỉ có sai về thời gian thôi – tôi mà sáng tác, nói láo, xin Trời đánh tôi.
Mệ có một thói quen buồn cười mà ai cũng bàn tán. Khi làm việc ở tòa hành chánh tỉnh, mệ thường đến các ty phòng nội thuộc. Vừa nói mấy câu là mệ vỗ vỗ túi áo rồi hỏi “Có thuốc không?” Ai cũng biết trước nên thủ sẵn một gói thuốc mệ thường hút, đưa ra, mệ lại hỏi “Có quẹt không?” Đưa quẹt cho mệ, mồi thuốc xong mệ bỏ tất cả vào túi áo mình rồi đi nơi khác. Có điều lạ là không ai biết mệ vất thuốc với quẹt ở đâu mà ngay sau đó chính mệ tìm cũng không ra, rồi mệ lại hỏi “Có thuốc không?”. Mà chẳng phải mệ nghiện thuốc, mệ chỉ bặp bặp vài hơi là cắm điếu thuốc xuống cái gạt tàn, nói mấy câu, lại mồi thuốc, hút tiếp, lại dụi bỏ. Ngồi họp mà có mệ là tôi được cái thú đếm xem mệ hút bao nhiêu điếu thuốc trong buối họp. Đến ngày mất nước, mệ không bỏ chạy, mệ đi tù. Lúc ở trại Long Thành tôi có gặp mệ. Vẫn vẻ phong lưu, bất cần thiên hạ, nên trông mệ chẳng mất phong độ gì cả. Sau đó mệ được đày ra Bắc. Chẳng biết bao lâu, cuộc đời dâu bể – Khi tôi qua Mỹ, ở Virginia, tình cờ gặp mệ một lần. Chuyện này hồi sau sẽ rõ.
Còn chuyện tôi biết cô gái út của mệ cũng có nguyên do. Năm đó, gần đến Tết, tay thiếu tá quận trưởng của tôi ngồi than thở là tết nhất mà không có quà cáp cho xếp thì thật khó coi. Hắn ta rầu rĩ bảo “Nhưng trong túi moa, tài sản có mấy nghìn, biết mua cái gì bây giờ? Một cành mai thì chắc có đứa đem đến rồi, mà thứ mai chấm trần nhà kia, tiền đâu chịu thấu. Một cặp bông hồng hay vạn thọ thì hẻo quá!” Tôi đề nghị mua một món đồ cổ gì đó, các mệ chỉ thích đồ cổ để bày trong tủ thôi. Thế là hắn giao tôi nhiệm vụ đó. Tôi về đến tiệm đồ cổ, chỗ chân cầu Gia Hội mua một cái tô, không biết cổ thực hay giả, lơn tơn đến dinh tỉnh trưởng. Mệ đại tá không có nhà, chỉ có cô gái út ra tiếp. Cô mới mười lăm, mười sáu mà đẹp kỳ lạ. Tôi ngồi tán tỉnh tía lia, đáng lẽ để cái tô lại , nhưng tôi ôm về, hẹn với em hôm sau đến nữa. Dĩ nhiên tôi đến vào giờ công vụ thì làm sao ông bố có nhà. Thế là tôi và em nói chuyện sa đà, đến chiều tôi lại ôm cái tô về. Sở dĩ tôi đến được nhiều lần như thế là vì tôi về thuật lại với tay quận trưởng. Tay chịu chơi này sai tài xế lấy xe Jeep đưa tôi đến dinh tỉnh trưởng. Thấy xe quận quen thuộc, tay gác cổng không thắc mắc gì.
Tuy nhiên, một lần mệ tỉnh trưởng về sớm “Moa nghe mấy bửa ni toa cứ ôm cái tô vô ra đây mãi. Rứa là đủ rồi hỉ! Chờ ít năm, con Uùt Mai lớn chút nữa, lúc đó, mỗi lần đến đây, toa cứ nộp một cái tô, cái đĩa cổ chi đó là được. Moa hứa với toa nhưng không bảo đảm gì cả nghe!” Dù sao thì em cũng đã cho tôi hôn em một lần và chúng tôi cũng có tặng hình nhau gọi là “Để kỷ niệm những ngày mới quen nhau”. Hình em mặc váy đầm, tóc thắc bím, ôm búp-bê. Hình tôi tặng em là cảnh tôi đứng vênh mặt trước trường Hành Chánh, chụp hôm tốt nghiệp, coi rất bảnh trai. Sau tấm hình tôi ghi cho em một câu đúng điệu nhạc vàng”Anh hứa yêu em suốt một đời”.
Đáng lẽ cuộc tình của tôi với em còn dài, nhưng sau đó sập tiệm. Tôi đi tù, ông bố em cũng đi tù. Em như cánh chim giữa cơn bão, phiêu bạt về phương trời nào tôi không rõ. Hình em tặng tôi cũng đánh mất từ lâu. Cho đến khi nghe chuyện ông bà kén chồng cho em, tôi vẫn không hình dung được em ra sao, vì lâu quá, nhưng vẫn nhớ là em rất đẹp. Và nếu trước kia, đứng trước em tôi tự tin bao nhiêu thì nay tôi không dám gặp cả em nữa vì mặc cảm tự ti. Ra tù, thân tàn ma dại, qua xứ Mỹ tôi cũng chẳng hơn gì con gà mắc mưa: Tôi đứng bán Mc Donald.
Cho đến một sáng chủ nhật, tôi ghé tiệm chạp phô mua ít vật thực. Vừa ra khỏi xe tôi thấy một chiếc xe nhỏ chạy trước, xe cảnh sát chớp đèn chạy sau. Hai xe ngừng lại trước tiệm chạp phô. Tay cảnh sát xuống xe đến hỏi thăm sức khỏe người lái xe, có lẽ vi phạm giao thông gì đó. Hóa ra đó là vợ chồng mệ đại tá tỉnh trưởng của tôi ngày trước. Tôi thấy tay cảnh sát Mỹ xì xồ mấy câu nhưng mệ Tôn Thất của tôi vẫn tỉnh bơ, chẳng nói năng một tiếng cứ ngồi nhìn tay cảnh sát, như người xem TV nhìn cái quảng cáo. Không vui, không buồn, không sợ, không xun xoe…, và cứ trơ ra như thế. Có lẽ tay cảnh sát tưởng ông bà không biết tiếng Mỹ nên đến nhờ tôi thông dịch. Tôi nói “Sorry, he chinese, me Vietnamese, no talk, no hear!” Hắn ta chán cả tôi nên lắc đầu, lên xe bỏ đi. Lúc đó, mệ mới nhìn tôi cười chím chím rồi hai ông bà vô tiệm. Tôi có thể đến chào hỏi, tự giới thiệu để chuyện trò nhưng kẹt vì biết ông bà đang kén rễ nên tôi nghĩ tốt hơn đừng để họ tưởng mình có ý đồ gì. Nghe nói có mấy tên bác sĩ, kỹ sư đẹp trai, đi xe đắc tiền còn bị loại , sá gì đến tôi mà đèo bòng nên tôi phe lờ. Trong lúc tôi đứng trước quày đồ khô thì ông ta đến bảo:
“Toa thấy moa có lanh trí không, làm rứa là hắn chịu thua, mình khỏi bị ticket”.
“Tôi thấy đại tá mới biết cách đó. Cái khó là giữ vẻ mặt sao cho tay cảnh sát vừa chán nản vừa thông cảm mới được. Tôi mà làm thế hắn còng tay ngay”.
Ông ta ngạc nhiên.
“Ủa, răng toa biết moa?”
Lúc đó tôi mới bảo là tôi có làm phó quận trong lúc ông làm tỉnh trưởng. Thế là chúng tôi vui vẻ chuyện trò. Lát sau bà vợ ông ta đến, sau khi giới thiệu nhau, chúng tôi đã trở nên thân mật. Đàn bà đều giống nhau, thích tò mò chuyện đời tư người khác: “Chớ vợ con mô mà đi chợ một mình rứa?”
“Tôi chẳng có vợ con gì cả. Như lúc nãy, ông đại tá biết, tôi ra trường năm bảy ba, đến năm bảy lăm sập tiệm. Tôi đi tù về không ai thèm nhìn, đến khi có vụ HO thì chẳng hề quen biết mà cũng có người kêu gả con cho, tôi chán quá, không thèm lấy vợ nữa.” Ông ta xen vào:
“Moa mà như toa đi chợ chi cho mệt. Ghé tiệm, quán ăn nào đó, ăn xong trả tiền, khỏi phải chợ búa phiền phức”.
“Nhưng tôi còn bà mẹ, mọi khi tôi đưa bà cụ đi chợ, mấy hôm nay bà cụ mệt, dặn tôi mua các thứ về bà cụ nấu.”
Chuyện trò đến đấy thì tôi xin cáo từ, ông bà có mời tôi ghé nhà, cho số nhà, số điện thoại đàng hoàng. Tôi không có thì giờ thăm viếng linh tinh, vả lại tuổi tác chênh lệch mà gia cảnh cũng không thích hợp nên tôi quên luôn. Bẵng đi một thời gian, một sáng chủ nhật đi chợ, tôi lại gặp ông bà. Họ coi bộ mừng rỡ lắm, nhất định mời tôi ghé thăm nhà, uống trà nói chuyện cho vui. Nể tình, tôi theo họ về nhà. Đó là một căn apartment, chẳng giàu sang gì, nhưng cách bài trí sắp xếp trong nhà ra người phong nhã, trí thức. Lúc ngồi ở phòng khách, cô gái Uùt của ông bà có pha trà mời tôi. Tôi không dám nhìn, sợ bất nhã, nhưng thoáng thấy, tôi nhận ra ngay cô bé ngày xưa và cô vẫn đẹp, còn đậm đà hơn trước nữa.
Thực ra tôi biết thân phận mình nên dững dưng. Sáng hôm đó, ông bà nghe tôi nói lại những nhận xét, cảm tưởng của tôi lúc ông ta làm tỉnh trưởng, họ cười như chưa bao giờ vui đến thế. Dĩ nhiên tôi chẳng dại gì nhắc đến chuyện tôi tán tỉnh cô út của ông bà, coi nham nhở quá, vả lại cô ta mà nghe được, ghét tôi ra mặt thì chẳng vui gì. Những lần sau đó, ông bà có gọi điện thoại mời tôi tôi đến uống trà trò chuyện. Tôi không thích nhưng có cô gái út ra mời khách, nghe mấy tiếng “Mời chú ạ!” ngọt như đường và tuy chỉ thấy có hai bàn tay mà tôi đã vấn vương người đẹp rồi. Một lần nhân chủ nhà vô ý, tôi nhìn quanh tìm cô ta thì y như là cô đang làm gì đó ngay trong tầm mắt tôi. Lúc đó cô đăm đăm nhìn lại tôi và tặng tôi một nụ cười. Tôi chới với, ngất ngây như say rượu. Cả tuần lễ sau, hình ảnh người đẹp cứ ở mãi trong đầu tôi. Nhưng tôi đã lớn, lại ở tù ra nên chín chắn chuyện đời chứ không bộp chộp như mấy cậu thanh niên. Giá như tôi tốt nghiệp đại học Mỹ, có job thơm, tôi đã đường hoàng nhào vô một cách tự tin. Về ngoại giao thì tôi có chút cảm tình của ông bà rồi, đối với cô ta, nếu không mặc cảm tôi đâu có khù khờ, ú ớ như bây giờ. Thế nên tim tôi rung động nhưng đầu óc tôi tỉnh táo. Tôi cứ dặn tôi”Yêu thì cứ yêu cho đời có chút hương vị, nhưng chớ dại mà biểu lộ cho người ta biết, chắc chắn bị từ chối , lại rước thêm cái xấu hổ vào thân, nhớ nhé!” Có câu hát “Khi cố quên lại càng nhớ thêm. “. Tôi thì khác, hể cố quên là tôi quên bẵng. Tôi lại hay nãn chí, thấy chẳng hy vọng gì nên tôi cứ lơ là dần.
Cho đến một buổi sáng, tôi nghe điện thoại reo.
“Thưa chú, ba mạ cháu mời chú qua uống trà.”
Các cô gái Huế mà pha giọng miền Nam nói chuyện thì nghe như chim hót, ngọt ngào ngây thơ không thể tả. Tôi giả giọng Huế hỏi lại.
“Ba mạ cháu ở mô rứa?”
“Dạ ở nhà”.
“Còn cháu ở mô?”
“Dạ cũng ở nhà”.
“Rứa là biết rồi đó. Cám ơn cháu, chú qua ngay bây chừ.”
Tôi phân vân, tại sao ông bố không gọi mà để cô gái gọi tôi? Khi tôi đến, mọi việc vẫn như trước, người đẹp ra mời trà, rồi chuyện trên trời , dưới đất. Đến khi giả từ, ông bà lại hỏi:
“Bà cụ có mạnh giỏi không?”
“Dạ, cám ơn. Oâng bà già nào lớn tuổi không bệnh này thì bệnh kia.”
Tôi tố thêm một đòn về gia cảnh của tôi.
“Tôi đi làm không đủ tiêu, bà cụ phải giữ trẻ cho người ta. Tôi thật xấu hổ, không nuôi nổi mẹ.”
Tưởng ông bà dội ngược không ngờ lại hỏi địa chỉ và bảo sẽ đến thăm. Kể dài dòng chỉ tổ mất thì giờ. Đại khái họ đến thăm lúc tôi đi làm. Mẹ tôi chất phác nên gần như ông bà nắm vững gia phả và đời tư của tôi. Theo mẹ tôi kể, ông bà cứ suýt soa rằng tôi có hiếu, họ rất quí trọng những người con có hiếu. Oâng bà cũng nói về gia đình họ, về cô út đã lớn mà không chịu lấy chồng. Cứ bảo sợ gặp người không tốt, bỏ cha mẹ già không ai săn sóc tội nghiệp. Mẹ tôi vừa kể vừa cười coi bộ tôi lọt mắt xanh của gia đình kia rồi. Tôi không nói gì, sợ mẹ tôi buồn, nhưng tôi bắt đầu nghi ngờ về thái độ của họ. Họ có điên mới đem gả cô út xinh đẹp như hoa cho một thằng không ra gì như tôi. Còn cô út nếu bằng lòng thì thần kinh cũng không hơn gì bố mẹ. Nhưng rõ ràng họ đã lộ ý rồi. Tôi đánh cờ tướng loại khá, khi đối phương đi một nước cờ, nếu không hiểu mục đích của nước cờ đó, tuyệt đối tôi không tấn công. Tôi bắt đầu đưa giả thiết, nhưng không giả thiết nào đứng vững. Thế nên tôi rút quân về thủ bằng cách báo với họ ý định sẽ đi tiểu bang khác làm ăn, ở đây sống khó khăn quá (Tôi chuẩn bị đi thực). Xong tôi chờ đối phương đi nước thứ hai.
Hôm đó, thứ bảy đầu năm, cộng đồng Việt Nam có lệ chào quốc kỳ trước chợ Eden. Tối thứ sáu, đi làm về, tôi được điện thoại của mẹ cô gái gọi.
“Sáng mai Tuấn có đi chào cờ ngoài Eden không?”
“Dạ cháu cũng chưa có ý định, phải đưa bà cụ đi chợ, e trễ mất”.
“Tuấn cố gắng đưa bác và em Mai ra Eden sáng mai lúc chín rưỡi. Xe của em bị hư, còn ba nó phải ra sớm, chuẩn bị trước cho buổi lễ”.
“Dạ cháu sẽ cố gắng đưa bác và cô Mai ra đúng giờ.”
Nước cờ đến đây đã rõ mục đích. Họ đẩy cây xe ngon lành đến trước miệng con chốt, nhưng nguyên nhân vẫn còn trong vòng bí mật. Oâng bố đã lùi một bước để bà mẹ đứng ra đạo diễn, rủi thất bại vẫn giữ được tướng an toàn.
Sáng đó, thấy tôi ăn mặc tươm tất, mẹ tôi lại cười. Đàn bà nhạy cảm chuyện này lắm, huống gì đó là một bà mẹ. Bà biết tôi đã yêu cô gái. Chính tôi cũng không hiểu mình yêu cô ta từ lúc nào. Tình yêu không đến trực tiếp từ cô gái mà đi vòng từ bố mẹ cô ta. Tôi không cần biết nguyên nhân, nhưng sự sắp xếp của họ khiến tôi cảm động và tôi tin chắc rằng sự sốt sắng đó đã được thúc đẩy từ cô gái cưng của họ. Nhưng tôi với cô ta đâu có tình ý nhau bao giờ?
Đến nơi tôi để hai mẹ con vào đứng với đồng bào. Tôi thối thác chào quốc kỳ. Khi mới đặt chân lên đất Mỹ, lần đầu thấy lại lá cờ vàng ba sọc đỏ, tôi đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ. Ngày Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi cũng khóc cả buổi mà không hiểu sao lòng mình tan nát đến như vậy. Ngày đầu tiên cắp sách đến trường, tôi đã chào cờ hát quốc ca…Tình yêu nước đến lặng lẽ trong tim tôi theo thời gian như tình tôi thương mẹ, khi mất nước , mất mẹ mới thấy mình bơ vơ. Kẻ mất nước như mất hồn, như người thất tình.
Quên thì thôi, nhớ lại lòng cứ thẩn thờ, ngơ ngẩn.”Ôi! ngựa Hồ hí gió Bắc”…Một lý do nữa là tôi nghĩ “Đứng cạnh cô thì thích quá rồi, nhưng rủi cô xích ra xa tôi hoặc bỏ đi chỗ khác thì có nước độn thổ mới hết nhục.” Thấy người ta tử tế tưởng bở” Tôi yêu cô, ông bà tử tế với tôi , nhưng chuyện cô yêu lại tôi là viễn vong, vô căn cứ. Cho nên khi nghe tôi bảo sợ bị xúc động khi chào cờ phải đi tránh chỗ khác, bà mẹ thông cảm nhưng cô gái xụ mặt lại. Thấy cô như giận, tôi mừng trong bụng, muốn đổi ý nhưng đã muộn rồi nên đành lãng ra, vào một tiệm sách tìm đọc vớ vẫn nhưng hồn vía để cả ngoài kia, lòng tự trách “Chào quốc kỳ chảy nước mắt có gì mắc cỡ. Dễ gì được đứng gần người đẹp. Dại quá! Biết bao giờ mới có dịp như thế này”. Nghe chào cờ xong, tôi đi ra, định cà rà theo nói chuyện với cô ta nhưng mẹ cô nhờ tôi đưa bà về sớm, còn cô gái thì ở lại với bố. Tôi đành vâng lời. Về đến nhà, bà mẹ lại bảo tôi vô nhà nhờ chút chuyện. Tôi lại vâng lời. Tôi ngồi ở phòng khách. Chẳng cần rào đón, sau khi hỏi tôi sẽ đi tiểu bang nào, ngày nào đi, đột nhiên bà vào thẳng vấn đề. Bà nói về cô út hiếu thảo của bà không chịu vượt biên, ở lại với mẹ, vất vả, tần tảo để thăm nuôi bố. Qua xứ Mỹ, nói gì cô cũng không chịu lấy chồng, sợ bỏ cha mẹ già không ai săn sóc. Cô ra điều kiện chỉ lấy người có hiếu với cha mẹ thôi. Nay thấy tôi thương mẹ , cô đồng ý ngay. Tôi nghe mà tưởng mình mơ. Đời nay mà có cha mẹ hạ mình năn nỉ gả con gái xinh đẹp, nết na cho một thằng chẳng ra gì như tôi!? Tôi biết ông bà sốt ruột thật vì cô gái đã lớn mà cứ ở vậy, nhưng lý do chữ hiếu hình như là cái cớ thôi, chứ nguyên nhân nội vụ thì chưa rõ. Thế nên tôi xin phép bà được gặp riêng cô Mai để nói chuyện thông cảm nhau trước khi tôi quyết định về ân sũng đó. Bà mẹ chịu liền. Thế rồi một buổi chiều, tôi đến gõ cửa, cô ra mở cửa. Cô chào tôi mà không cười, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng tôi nhận được từ đôi mắt cô những tia nhìn như reo vui.
“Chào chú ạ!”
“Chú đến thăm Mai”.
“Dạ, mời chú vào”
Cô lùi lại, tôi bước vào, cô gần như đứng sát bên tôi. Cô mặc một bộ đồ lụa trắng, hơi rộng nên trông thướt tha. Mặt cô bầu bỉnh, có đánh chút phấn hồng, mắt đen nhánh. Vì cô thấp hơn tôi nên khi cô ngước nhìn , đôi mắt cô đẹp hết sức, vừa long lanh vừa như ngạc nhiên điều gì.
“Có ông bà cụ ở nhà không?”
“Dạ không, mời chú ngồi”
Cô ngồi đối diện. Cô rót nước trà rồi mở hợp bánh ra.
“Mời chú”
Tôi cầm tách trà lên nhấm nháp rồi làm bộ suýt soa như bị nóng lắm. Bấy giờ cô mới cười. “Trà còn nóng, cháu vừa mới pha”
Tôi cầm tách trà nửa chừng và nhìn cô. Cô cúi mặt xuống. Chúa ơi! Cô đẹp thế kia, trong trắng thế kia sao lại chịu đi bên cạnh cuộc đời bầm dập của tôi được. Thật khó tin. “Mai biết vì sao chú đến thăm Mai không?
“Dạ không”.
“Thế mạ có nói chuyện này không?”
“Dạ có”.
Không khí như căng thẳng, tôi phải sửa giọng nhẹ nhàng hơn. “Chú xin lỗi làm Mai bối rối. Bây giờ chú đề nghị thế này, mình kể chuyện linh tinh gì đó cho vui.”
“Dạ”
“Trước hết chú kể chuyện của chú cho Mai nghe. Chú học hành chánh ra trường làm phó quận được hơn một năm thì đi tù sáu năm.. Ra tù, chú làm đủ nghề:đạp xích lô, bán vé số…Qua đây chú đi chùi nhà rồi bán Mc Donald. Kể ra thời đi học có vui chút đỉnh , đi làm cũng vui nhưng sau đó chán ngấy, hết đi tù thì làm những nghề mạt hạng.” “Chú lập gia đình sẽ hết buồn ngay”.
“Không đơn giản như Mai tưởng đâu. Muốn tiến đến hôn nhân phải có tình yêu. Vì có yêu người ta mình mới chịu đựng được những va chạm, khó khăn khi sống với nhau. Cho nên phải cẩn thận khi muốn lập gia đình. Không yêu thà sống một mình còn hơn.” Cô ngước lên nhìn thẳng vào mắt tôi.
“Chú đã lập gia đình và đã thất bại, đã tan vỡ rồi phải không?”
“Chú chưa lập gia đình, và chú có yêu ai đâu”.
“Cháu không tin, tuổi chú mà chưa yêu ai, cháu không tin”
“Chú cũng không tin cả mình nữa. Có người có biết bao nhiêu mối tình, nhưng chú thì chẳng có gì, khi đi làm có yêu chút đỉnh, nhưng sau đó chẳng còn nhớ nhau nữa. Nước mất nhà tan, vui thú gì mà yêu với đương”.
“Chú tính xem đã yêu bao nhiêu người và bây giờ còn nhớ người nào?”
“Trước kia cũng có quen một cô, cũng anh anh em em vài câu, nhưng chỉ khoảng vài tuần. Cô ấy có cho chú hôn một lần trên trán. Rồi nước mất, tình cũng mất luôn. Cô ấy đã quên hẵn chú rồi. Lâu quá rồi! Thế Mai có mối tình nào lâm ly kể cho chú nghe với”. “Chuyện của cháu cũng chẳng lâm ly gì. Lúc đó cháu mới lớn, có yêu một anh, rồi cũng như chú , khi mất nước, quá khổ, tâm trí đâu mà yêu ai.”
“Nghe nói sau bảy lăm, Mai không vượt biên, ở lại Việt Nam với mạ kiếm tiền thăm nuôi ba trong tù.”
“Lúc lộn xộn, trước ngày đầu hàng, mạ cháu bán được căn nhà. Hú vía, nếu trễ mấy ngày là bị chúng vô tịch thu rồi. Nhờ thế, mấy chị của cháu mới có tiền vượt biên, nhưng sau đó thì nghèo lắm. Cháu với mạ cháu phải ra đường bán quần áo cũ, bọn công an rượt chạy muốn chết.”
Kể đến đấy cô lại cười, thật hồn nhiên. Tôi biết cô đã hết bối rối rồi.
“Có lẽ cũng giống như chú, sau đó không nhớ nhau, không gặp nhau, không nghĩ đến nhau nữa. Thế là xù. Phải không?”
“Đâu có như chú gì cũng quên. Mấy năm sau đó, cháu biết được anh ấy vẫn ở Saigon, cháu đến thăm mấy lần”
“Gặp nhau mừng mừng tủi tủi, kể lễ tâm sự nhớ thương nhau. Chà, mùi dữ”. “Anh không biết cháu, ảnh không nhớ ra cháu, cháu cũng không nhắc nữa. Thật bực mình, người đâu mau quên”.
“Chỉ cần nhắc vài câu là anh ta nhớ ra ngay”.
“Gần cả chục năm, biết đâu anh ấy đã lập gia đình thì sao. Nên cháu chỉ đi ngang qua, nhìn cho đỡ nhớ mà không nói chuyện bao giờ. Đến khi dọ hỏi được biết là anh ấy còn độc thân thì tìm không ra. Anh ấy đã đi HO rồi.”
Rồi cô thở dài.
“Bây giờ cháu cũng còn bực. Tức muốn chết được.”
“Chú biết rồi, vì thế nên Mai giận đời, định đón một chiếc xe hoa nào đó, leo đại lên cho đỡ cô đơn chứ gì?”
“Cháu cũng muốn thế cho bỏ ghét, nhưng cháu yêu anh ấy…Rồi lại giận anh ấy, thấy cháu rõ ràng mà không thèm nhìn”.
“Để chú đoán có đúng không nghe. Đó là một chàng sĩ quan Đà Lạt đẹp trai, hào hoa, làm dưới quyền ông cụ. Anh ta gặp cô nữ sinh đẹp quá, hai người yêu nhau. Theo chú có lẽ anh chàng cũng ở tù mút mùa như bọn chú. Nhưng sau khi ra tù, nhờ gia đình khá giả, anh ta đi buôn loại mánh mung như thuốc Tây, trầm, vàng chẳng hạn. Nghề này mau giàu lắm. Anh ta đi xe Dream, hút thuốc có cán. Lúc đó Mai ngồi bên đường với mạ bán quần áo cũ nên mặc cảm không nhìn mặt. Còn anh ta vì lâu quá nên quên người đẹp thuở nào, vả lại khi có tiền thì bao người đẹp khác chạy theo, phải không?”
“Chú đoán đúng một phần. Anh ấy cũng đi cải tạo, nhưng sau về nghèo lắm. Bán vé số ở Saigon.”
“Chú cũng từng bán vé số, cứ nói tên, nói chỗ anh chàng hành nghề là chú biết ngay.” Cô cười bí mật.
“Đố chú biết đó. Anh ấy bán vé số chỗ nhà thờ Đức Bà, trước Bộ Xã Hội cũ”.
“Chú có ngồi đó, chú biết rõ. Có phải đại úy Minh, thiếu tá Tuấn, trung úy Đại…Cũng không phải luôn. Chú chịu. Nhưng những người đó đều có gia đình cả rồi mà.” Tôi nhìn đồng hồ.
“Bây giờ cho chú nói lý do chú đến gặp Mai. Hôm chú được mạ Mai nói về chuyện chú với Mai, chú rất bất ngờ và cảm động. Chú cám ơn lòng tốt của Mai đã để ý đến chú. Vì chú sắp đi xa nên nhân tiện chú nói vài điều mong Mai thông cảm. Về phần chú, thú thực chú có yêu Mai, tình yêu đâu từ trước kia bây giờ sống dậy, nhưng chú biết thân phận mình nên yên lặng. Rồi bất ngờ nghe đề nghị đó chú không hiểu vì sao. Chú thua sút mọi người về mọi phương diện, chú cháu mình cũng chưa hề chuyện trò, tình ý gì nhau và chú chắc Mai cũng không hề yêu chú. Vậy thì lý do nào? Xin Mai cho chú motä thời gian, hy vọng chúng ta tìm hiểu nhau rồi sẽ quyết định cũng không muộn. Tuần tới chú sẽ rời Virginia, chúc Mai ở lại tìm được một tình yêu, và lời chú khuyên Mai nên sống cho con tim mình, cho tương lai của mình. Ba mạ đâu có sống đời với mình, phải không? Phải có tình yêu trước khi quyết định tiến đến hôn nhân, chứ đừng nghe lời ba mạ, sau này hối cũng không kịp”. Nói xong tôi định đứng dậy. Cô ngước nhìn tôi vẽ giận dữ.
“Thật, xin lỗi chú chứ chú … ngu quá! Chú khuyên cháu nên lấy người mình yêu. Vậy chứ cháu yêu chú thì sao?”
“Trời đất! Làm gì có chuyện đó…Không lẽ chỉ mấy lần bưng nước trà mới chú mà lại yêu chú được?!”
“Chú nói thật không? Cháu cho chú biết điều này. Theo cháu. Đi ngã này.”
Cô đi trước, tôi rụt rè theo sau. Căn apartment chỉ có hai phòng, cô mở cửa một phòng đi vào.
“Vô đây”.
Tôi sợ quá, chỉ dám đứng ở cửa nhìn vào. Cô chỉ vào một tấm hình cở tấm bưu thiếp để trên bàn nhỏ cạnh đầu giường:
“Chú biết ai đây không? Sau tấm hình viết gì không?”
“Chú đâu thấy gì, xa quá. Hình như anh chàng nào đứng đấy. Cho chú xem kỹ, có thể chú nhận ra anh chàng bán vé số tốt phước được lọt vào mắt xanh của Mai”.
Cô gỡ tấm hình trong khung ra, đưa tôi.
“Nhìn kỹ xem là ai”.
Tôi không tin ở mắt mình. Đó là hình tôi, chụp hôm tốt nghiệp trước trường Hành Chánh, sau tấm hình vẫn còn rõ câu hát nhạc vàng “Anh hứa yêu em suốt một đời”. Tấm hình tôi tặng cô cách đây hơn hai mươi năm cô vẫn còn giữ, hình cô tặng tôi thì tôi vất nơi nào, lúc nào không rõ.
“Oái!hình chú đây mà!”
Cô ngồi trên giường, xây lưng về phía tôi, hai chân co lên, trên đầu gối là cái gối. Cô úp mặt vào gối yên lặng. Vai cô rung lên nhè nhẹ. Cô khóc, có lẽ vì giận tôi vô tình. “Cho chú xin lỗi. Chú vẫn nhớ chuyện cũ, nhưng tưởng Mai đã quên. Sao không nhắc, một câu thôi là chú hiểu ra ngay”.
“Đâu có dịp nào. Hôm chào cờ ở Eden cũng bỏ đi…Mà biết còn nhớ người ta không hay đã yêu ai rồi?”
“Chú nhớ chứ, nhưng chú mặc cảm, đâu có dám mơ đến giây phút này. Hỏi thực Mai, rủi chú bảo đã yêu ai rồi thì sao?”
“Mặc kệ…Người ta tìm muốn chết!”
Yên lặng một lát.
“Hôm nào đi?”
“Bây giờ có họa là điên mới bỏ đi. Trúng số độc đắc chú cũng không mừng bằng. Chú không biết nói gì để cám ơn Mai. Chú..chú…”
Cô quay lại, mắt còn đỏ hoe. Cô chỉ cái khung hình còn nằm trên giường.
“Chú, chú hoài. Bộ ai ăn thịt sao cứ đứng ngoài đó. Bỏ hình lại vào khung, để lại trên bàn cho em, rồi ngồi xuống đây, em hỏi. Lúc ở tù ai thăm nuôi anh?”
“Có thăm chứ không có nuôi. Mẹ anh nghèo quá, các anh của anh cũng ở tù cả”. “Em cũng đoán vậy nên cố tìm mà không biết anh ở trại nào, gia đình ở đâu để thăm nuôi. Em lo quá!”
Rồi cô lại cười, nhưng nước mắt chảy dài trên má.
Đây là chuyện cổ tích đẹp nhất trong những ngày buồn thảm nhất của nước Việt Nam Cộng Hòa. Cũng còn nhiều chuyện cổ tích sáng ngời hơn, đẹp đẻ hơn, ai cũng biết nhưng không bao giờ kể ra. Đó là quả tim của những bà mẹ, những bà vợ, những người con dành trọn cho con, cho chồng, cho cha đang ngắc ngoải trong ngục tù Cộng Sản.
Nhưng chuyện cổ tích nào cũng phải có tiên, Phật xuống hóa phép mầu cho những người hiếu hạnh , chung thủy được viên tròn hạnh phúc. Ở đây mấy cô tiên là chị của vợ tôi. Các cô vượt biên, học thành bác sĩ, tiền vô như nước. Thương cô em ở lại cùng mẹ nuôi cha, các cô bao thầu hết mọi chi phí đám cưới – dĩ nhiên tôi cũng chẳng có xu teng nào – lại còn giúp em một cơ sở nhỏ làm ăn…Hôm đám cưới, mấy chị em mừng rỡ, tíu tít chuyện trò có khi quên cả chàng rễ.
Vợ chồng tôi phải đi từng bàn tiệc chào mừng quan khách, bà con, bạn bè. Mỗi nơi, cô dâu chú rễ phải uống với khách một ly rượu nhỏ. Vợ tôi chỉ thấm môi nên tôi phải uống hết. Nhiều ly nhỏ thành ly cối. Tôi không biết uống rượu nên say mềm. Bố vợ tôi cũng say. Oâng say vì vui nên nói hơi nhiều. Khi khách khứa đã về cả rồi, ông đến bên cạnh, vỗ vai tôi lè nhè.
“Cụ mi rứa là tốt phước. Không có ai chung tình như con út Mai của moa. Cụ mi biết không? Hắn hành vợ chồng moa đi tìm cụ mi chết xác luôn. Bốn năm đi bốn nơi. Nam Cali tìm cụ mi, Bắc Cali tìm cụ mi, xuống Texas tìm cụ mi, qua đây tìm cụ mi. Chỗ mô cũng tham gia cộng đồng, cũng hội họp. Hắn nói moa có hứa với cụ mi rồi thì phải tìm cụ mi cho hắn. Nhưng moa có nhớ hứa hẹn chi mô. Mà vợ chồng moa không biết cụ mi là ai, mặt mũi ra răng. Tấm hình, mấy chục năm, có ai trẻ mãi không già! Rứa mới chết chớ. Rứa là gặp đứa mô tuổi bằng cụ mi cũng rước về nhà cho con nhỏ ngó mặt. Hú vía, hắn còn đòi đi Canada và Úc tìm cụ mi nữa đó. Mà moa nói có ai đi HO qua đó mô… Đáng lẽ tôi còn dài dòng, nhưng tạm chấm hết ở đây vì tôi nghe vợ tôi nôn oẹ, ói mữa gì trong phòng tắm. “Trăng mật cho cố, bây giờ ói mật xanh mật vàng. Rõ khổ!”.

Một đời người, một ước mơ

Một đời người, một ước mơ

Nguoi-viet.com

Cô Hai Vườn Chuối

Trời tối đen như mực. Trên chiếc ghe nhỏ chỉ đủ sức chứa hai người, đứa trẻ 11 tuổi đang nằm ngủ co ro, gối đầu lên chân một người phụ nữ. Trước, sau là hai người đàn ông đang chăm chú nhìn vào màn đêm phía trước, đôi tay không ngừng chèo.

“Bi, dậy đi con, leo lên ngồi cạnh bác Tuấn đi, để Má tạt nước ra,” tiếng của người phụ nữ khẽ nói. Đứa nhỏ choàng thức giấc, nước đã vào nửa mạn thuyền.

“Ráng ăn đi con, đường còn xa lắm. Cơm với trứng chiên con thích ăn nè.”

“Ủa sao mình nấu cơm được vậy Má?”

“Của mấy cô chú bên thuyền bên kia đưa qua. Ăn đi con.”

Đứa nhỏ cầm chén cơm ăn ngon lành. Món ăn nó thích nhất mà. Thêm vào đó là một ngày một đêm không có gì vào bụng.

“Ráng đi con. Rồi mọi chuyện sẽ tốt hơn,” ông linh mục Tuấn (nó luôn gọi như thế) vừa nói vừa đều tay khua mái chèo.

Nó không biết tốt hơn về cái gì, nó chỉ biết rằng Má không cho nó quay đầu nhìn lại ngôi nhà của mình trong buổi sáng bước ra cửa, dù biết rằng phía sau có Ngoại đang nhìn theo cho đến khi Má và nó khuất khỏi con hẻm. Nó chỉ biết rằng trong đêm cuối cùng ngủ ở nhà, Má nói với nó là “mình đi đến một nơi mà con sẽ có khoảng sân rộng phía trước nhà để trồng hoa.”

***

Hơn hai mươi năm rồi, tôi vẫn nhớ không sai một chi tiết nhỏ nào trong đêm hôm đó. Chuyến đi vượt biển lần đó không thành.

Thế rồi tôi quay trở lại trường học. Má quay trở lại với chiếc xe đạp cọc cạch mỗi ngày đến sở làm. Lúc đó, tôi nào biết đồng lương cắc cỏm ba cọc ba đồng của cái thời “xếp hàng mua gạo”, hay “mua thịt theo chỉ tiêu” nó đáng sợ biết chừng nào. Vì tôi nào có được “tận hưởng” một ngày nghèo khó. Tôi vẫn được theo học theo cách “trưởng giả”, đó là được cô giáo đến nhà dạy thêm. Cái thời 7 ngày cúp điện hết 6 ngày rưỡi đó làm cho bọn con nít chúng tôi thích thú vì mỗi tối được chơi đèn cầy, đóng vai hoàng tử công chúa. Vì thích thú nên tôi đâu có thấy cái vất vả của Má ngồi quạt cho tôi mỗi khi tôi ngồi học bài.

Tuổi thơ của tôi cứ thế lớn lên trong sự hồn nhiên và những tiếng cười trong vắt. (Hình: tác giả)

Tuổi thơ của tôi cứ thế lớn lên trong sự hồn nhiên và những tiếng cười trong vắt. Má vui và thưởng cho tôi những tháng tôi được xếp đầu lớp. Má bắt tôi nằm xuống để tự tôi đếm từng nhịp roi vào những lúc tôi không nằm trong “top 3” của lớp. Má mang tôi đi khắp mọi nơi. Những người bạn Gia Long của Má trở thành “bạn già” của tôi. Có thể vì như thế mà tôi thấm nhuần cái mộng tưởng của những cô nữ sinh Sài Gòn ngày xưa. Có thể vì như thế mà tôi thuộc nằm lòng tất cả những bài hát “Vàng” một thời. Và cũng có thể vì như thế, mà tôi cũng luôn khắc khoải trong suy nghĩ của tôi về một Sài Gòn hoa lệ “đâu hết rồi giọng hát Khánh Ly.”

Rồi sau này, cái ngày đưa tôi ra phi trường, Má bỏ vào hành lý của tôi 1 lá thư.

Chuyến bay dài hơn mười tiếng, lần đầu tiên đi xa nhà đến nửa vòng trái đất. Tôi không sao ngủ được dù đèn trong máy bay đã tắt. Mọi người xung quanh đã ngủ say. Có lẽ họ đã quen với những chuyến bay dài thế này. Tôi lấy lá thư của Má ra xem.

Má tôi, sinh viên luật khoa, Đại học Luật Saigon và là thư ký của Phó thủ tướng VNCH Phan Quang Đán. Ngày 30 Tháng Tư, 1975 cũng là ngày chấm dứt tất cả ước mơ, sự nghiệp của Má tôi, cũng như của rất nhiều những người ưu tú của thế hệ đó.

Má tôi đã gói ghém tất cả những mộng ước, những bay bổng của một thời nữ sinh Gia Long nhiều mộng đẹp và gửi vào tương lai của tôi. Tôi rời khỏi Việt Nam với vỏn vẹn $300. Hơn ai hết, tôi hiểu, Má tôi là người dân bình thường. Rất bình thường!

Chiếc máy bay cất cánh đưa tôi rời khỏi Việt Nam cùng với những kỷ niệm của 1 thời đi học, trường lớp bạn bè, và hơn tất cả là 1 ước mơ cháy bỏng mà những người thuộc thế hệ của Má tôi, những người nữ sinh Áo Tím, Gia Long phải gác lại vì biến loạn. Lúc đó tôi như kẻ mang trọng trách thực hiện ước mơ mà Má tôi và những cô, dì, chú, bác, chưa, và không làm được.

Tôi bắt đầu những ngày tháng một mình nơi xứ người. Thời đó, dễ gì để có được cuộc gọi điện thoại về nhà. Vì cước phí rất cao. Tất cả chỉ qua email. Tôi không có máy tính riêng. Má cũng chưa biết dùng internet. Mỗi sáng tôi đến trường rất sớm, tranh thủ vào thư viện để gửi mail. Má cũng đạp xe đến một tiệm internet để nhờ đọc và gửi mail cho tôi. Thời gian đó, những lá thư điện tử của Má có sức mạnh vô cùng để tôi có thể thức dậy vào lúc 4 giờ sáng, học bài ,đến trường, rồi đi làm thêm, và khi về đến nhà là 1 giờ sáng.

Ngôi trường đại học, nơi tôi thực hiện ước mơ của mình và của một thế hệ của Má tôi. (Hình: tác giả)

Má tôi biết hết những điều đó cho dù tôi không một lần kể ra. Có lẽ tình thương yêu và sự từng trải cùng với nghị lực phi thường của người phụ nữ đã mang đến cho Má tôi những nhạy bén kỳ lạ.

Những năm tháng nơi xứ người, tôi sống với người dưng khác họ cũng có, người “dưng cùng họ” cũng có, sống một mình cũng có. Tôi hiểu được giá trị của cái gọi là “gia đình”, và hơn thế nữa, tôi hiểu được cái gì gọi là “nước mắt chảy xuôi”. Sau khi hoàn thành xong nhiệm vụ học tập, tôi nhận được cũng khá nhiều thành công trong công việc. Tôi tự hào tất cả những điều đó do tôi đã cố gắng và có được bằng chính bước đi của mình. Nhưng chưa một vinh quang nào, mức lương nào, hay cái title nào trên cái name card có thể làm cho tôi hãnh diện bằng câu nói của mọi người “Má con đúng là người phi thường”, hay là lời nói từ những người bạn: “Mày có hai Bà Mẹ trên cả tuyệt vời”.

Bao nhiêu năm qua, Má tôi vẫn làm bạn với chiếc xe đạp cũ kỹ mỗi ngày đến chỗ làm. Tôi cũng không muốn Má nghỉ làm. Vì tôi hiểu tuổi già sẽ làm cho người ta rất dễ cảm thấy cô đơn. Má vẫn ủng hộ tôi trong những gì tôi làm, tôi muốn. Má thương cả những người bạn của tôi như chính con của bà.

Tôi cũng gặp thất bại như người ta. Cũng đánh mất niềm tin trong một lúc nào đó trong đời. Cũng sai lầm trên bước đường mình đi. Cũng cố chấp cho rằng mình đúng trong những quyết định sai lầm.

Má không bỏ rơi tôi. Chưa bao giờ rời xa tôi. Má luôn đứng ở nơi nào đó, rất gần, trong cuộc đời tôi…dù Má không sanh ra tôi.

Cái Lủng, cô gái bán chè đậu

Cái Lủng, cô gái bán chè đậu

Nguoi-viet.com

Tác giả: Tô Vũ
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

“Em lạy các anh mờ! (mà). Cho em về đi, em còn có chồng và con ở nhà…mờ…!”

Tiếng van lơn khóc lóc nài nỉ của cái Lủng oang oang át hẳn cả tiếng máy xình xịch của chiếc tàu kéo (tug boat) đang nặng nề rề rà kéo chiếc sà lan chở đầy nhóc những con người chạy loạn vào chiều 30 tháng 4 năm 75 ở bến tàu Sài Gòn.

Chiếc sà lan (một loại phà không máy) của hãng Caric bên kia sông đã cặp bến từ xế trưa, giờ nay chất đầy trên đó hằng mấy trăm sinh mạng mặt mũi còn mang đầy nét hoảng hốt sợ sệt. Một số người đứng, số còn lại đang cố ngồi im trên sàn trong lúc người tài công chiếc tàu kéo đàng trước xoay người dùng hai bàn tay chụm lại trên miệng la lối rát cả cổ:

“Bà con cô bác ơi! làm ơn đứng vô trong một chút kẻo rớt hết xuống sông đó.”

Di tản trên chiến hạm Mỹ, tháng 4, 1975. (Hình: Getty Images)

Chiếc sà lan chở đã khẳm chỉ còn cách mặt nước vài ba tấc đang lắc la lắc lư như người say ruợu, nếu chỉ chở thêm vài chục người nữa có thể sẽ chìm xuống lòng sông ngay. Lủng đang bán chè đậu trên bờ cạnh chiếc sà lan cặp cuối đường Nguyễn Huệ ấy thì bị đoàn người đông như kiến chen lấn và xô đẩy Lủng lên sà lan luôn.

Cầm cái đòn gánh trên tay Lủng khều khều cái dây buộc mong kéo chiếc phà lại hầu nhảy lên bờ, nhưng chợt nghe cánh tay trái đau nhói như có ai đang nắm chặt kéo Lủng lại. Lủng thất vọng la toáng lên nhưng chẳng có ma nào thèm nhìn đến nó. Lủng chán nản lặng nhìn con phà rẽ nước theo chiếc tàu kéo mà lắc đầu chịu trận, đôi dòng lệ tuôn tràn trên vẻ mặt còn đầy nét thảng thốt.

Lủng nhìn chiếc phà từ từ tách bến mà trong ruột thì nóng nảy bồi hồi chẳng biết làm sao. Nó đứng đó bất động, một tay buông thõng làm rơi chiếc đòn gánh xuống sàn. Con tàu và chiếc sà lan nặng nhọc từ từ tiến ra giữa dòng sông Saigon vào một chiều tháng 4  đen đầy náo động, và trong lòng những người ở trên sà lan bấy giờ cũng như đám người còn lại trên bờ cũng giao động không kém!

Những chiếc máy bay trực thăng di tản của hạm đội Thứ Bảy Hoa Kỳ cùng toán trực thăng của không quân Việt Nam Cộng Hòa rộn rịp bay sà sà bên trên ngọn cột cờ thủ ngữ hướng về phía biển. Tiếng cánh quạt trực thăng đập xoành xoạch làm kinh hãi đoàn chim chiều đang đậu trên các cây sao gần đấy, chúng hoảng sợ bay túa ra mỗi con đi mỗi ngả.

Một chiếc trực thăng khác bay trờ qua trên đầu chiếc sà lan, chở đầp ắp những người di tản đang lắc lư chao mình qua lại. Đám người dưới sà lan hoảng hốt hỗn loạn một số ngồi thụp xuống né tránh số còn lại ngước mắt nhìn lên, có kẻ lại cố dòm tìm trong đám đông trên trực thăng xem có ai là bà con hay thân nhân quen biết. Nhưng chiếc trực thăng vội bẻ hướng lướt lên cao thật nhanh về phía Thủ Thiêm rồi mất dạng dưới rặng dừa nước.

Lủng nhìn theo thấy bóng hai người đàn ông đang cố bám chặt vào hai cái càng đáp của chiếc trực thăng bên cạnh anh xạ thủ đại liên người Mỹ. Một người cố ôm như muốn cuộn tròn người vào cái thanh sắt đó trong lúc tiếng gió của chong chóng trực thăng quạt nghe phành phạch làm tung cả chiếc áo trắng đã đứt hết khuy nhưng hãy còn dính lại một phần bên vai trái.

Lủng lại gào lên khản cả tiếng nhưng chẳng có ai thèm đáp! Ai ai cũng đang ở trong tình trạng hoảng hốt nhọc mệt vì chen lấn và nỗi sợ sệt nhìn thấy rõ nét trên những gương mặt nhễ nhại mồ hôi vì không biết mình sẽ đi về đâu và sẽ ra sao? Họ chỉ biết nhanh chân rời bỏ cái thành phố này cái đã, cái thành phố thân yêu mà có thể ngày mai ngày mốt đây sẽ là những ngày đầy bất trắc!

Thân ai nấy lo hơi đâu ai mà để ý đến tiếng khóc la của một cô gái nhỏ một tay đang ôm chặt cái nồi nhôm.

Có tiếng “tõm” lớn như tiếng một vật gì nặng vừa rơi xuống sông, mọi người đứng ở góc đó nhớn nhác hẳn lên, nhốn nháo hỏi han rồi lại ngồi xuống vì sợ sà lan lật. Cũng có mấy người đàn ông dạn dĩ đứng phắt lên nghển cổ dòm xuống dòng sông đầy lục bình trôi với ánh mắt tìm kiếm. Bỗng có tiếng người đàn ông đứng gần lan can khóc ré lên:

“Trời ơi, trời… cứu giùm con tôi với bà con ơi! Nó mới rớt xuống sông rồi, tôi không biết lội bà con ơi!”

Mọi người ngó chăm chăm vào người đàn ông mặc chiếc áo trắng đã ngả màu cháo lòng đang run rẩy như cầy sấy mặt cắt không còn chút máu, rồi lại nhìn nhau xem có ai nhảy xuống tiếp cứu không. Nhưng đám đông hoàn toàn im lặng, ai ngồi đâu ngồi đó, ai đứng đâu đứng đó, thoáng vài giây có mấy tiếng chép miệng thở dài lẫn những ánh mắt lấm lét nhìn nhau sợ sệt. Tiếng người đàn ông khóc con lại rú lên nghe áo não giữa ban chiều vang dội cả một khúc sông, tiếp đến có tiếng đấm ngực thình thịch của ông, rồi soạt một cái – tiếng khóc im bặt, chỉ nghe thêm một tiếng “ùm” nữa dưới sông! Mọi người hoảng hốt nhốn nháo đứng lên. Một người đàn bà cất tiếng chửi đổng: Mẹ cha chúng nó, đàn ông thanh niên cả đám mà chết nhát hết chẳng có đứa nào cứu giùm người ta! Có tiếng chửi thề của một thanh niên mặc mỗi chiếc quần xà lỏn đen vai để trần nhễ nhại bực dọc đáp lại một cách bặm trợn:

“Đ.m. thân ai nấy lo bà ơi, bà có giỏi thì nhảy xuống cứu đi!”

Lủng cũng ngồi trong đám người đó lấm lét nhìn xuống dòng sông một cách sợ hãi, tay chân run rẩy chứng kiến thảm cảnh vừa mới xảy ra mặt mày xanh như tàu lá chuối non. Nó im bặt ngay không dám khóc nữa, nhưng trong miệng vẫn còn lúng búng những tiếng rên ư ử như con heo vừa mới bị cắt tiết. Lủng quay qua nhìn người đàn ông ngồi cạnh mình, bây giờ Lủng mới nhận rõ là anh ta độ trên dưới ba mươi, khuôn mặt khắc khổ với chiếc cằm hơi bạnh, trên người khoác một chiếc áo thun màu cứt ngựa đã sờn rách bỏ ra ngoài chiếc quần dài rằn ri. Lủng đoán anh ta là lính chi đó và anh ta đang cố nắm chặt cánh tay phải của Lủng. Lủng dằn mạnh cánh tay cố giật ra và kêu tiếp:

“Ông ơi, đừng có nắm tay tui nữa, nắm chặt đau quá đi, tui không có nhảy xuống sông đâu mà ông sợ.”

Nãy giờ từ lúc anh chàng này cố đẩy Lủng từ dưới bến tàu lên sà lan bấy giờ mới lên tiếng:

“Thôi, im mẹ nó đi, đừng có la khóc, tối rồi sắp qua kinh Cần Giờ đó, tụi VC mà nó nghe được là nó pháo cho chết cả đám đó mẹ!”

Lác đác có vài tiếng súng rời rạc cuối kho năm, Lủng ngước mắt nhìn về phía kho, người là người chen chúc nhau bên cạnh cầu tàu. Tiếng la, tiếng kêu khóc râm ran cả một góc trời. Có tiếng ca nô rẽ nước chạy vụt qua bên phải chiếc sà lan bắn tung tóe nước lên làm một số bà con ngồi cạnh bìa ướt như chuột lột. Lủng ngồi yên, hai tay bấy giờ ôm chặt nồi chè còn một nửa. Chiếc đòn gánh đã lót dưới đít tự bao giờ để khỏi ướt chiếc quần lãnh đen còn mới. Lủng vẫn còn hậm hực, thút thít phân bua: Tui có muốn đi đâu, tui đang bán chè trên bờ mờ!…, mấy người ai đi thì đi chớ sao lại đẩy tui rồi kéo tui lên đây mần chi…hu hu…chồng ơi, con ơi! Tiếng than van của Lủng bây giờ lại bị át bởi tiếng xình xịch của chiếc tàu kéo. Bà con ai nấy mệt nhoài, có người tìm được một chỗ nằm dài trên sàn ngoẹo đầu như ngất xỉu chỉ còn thấy lồng ngực là còn thoi thóp.

Bảy giờ tối, trời đã chạng vạng, ánh sáng yếu ớt trải trên dòng sông làm khó nhìn thấy rõ mặt người. Sà lan đang đi vào một khúc sông nhỏ hai bên dày đặc những đám ô rô và dừa nước. Anh thanh niên ngồi kế Lủng quay mặt lại hướng mắt nhìn về phía Saigon lần chót. Saigon đèn đuốc vẫn sáng choang một góc trời, anh ta chậm chạp lắc đầu thở dài thọc tay vào túi quần móc gói thuốc Salem lấy ra một điếu đưa lên miệng. Tiếng bật lửa zippo trên tay anh kêu nghe đánh “tách,” một vệt sáng lóe lên anh vội đưa ngọn lửa vào điếu thuốc thì có tiếng thổi phà như ai vừa thổi cho tắt ngọn lửa. Một giọng nói sợ sệt vừa đủ nghe của một người đàn ông đứng tuổi ngồi kế bên:

“Trời ơi cha nội, bộ muốn chết hết cả đám hay sao mà bật lửa hút thuốc vậy cha? Tụi VC mà nó thấy ánh sáng là nó pháo cho một quả chết tươi hết bà con sao?”

Tiếng cằn nhằn vừa dứt thì có tiếng Lủng thay vào…

“Ông ơi ông, phà nầy đi đâu dzậy?

Tiếng anh thanh niên cằn nhằn đáp:

“Thì kéo ra Cần giờ rồi ra biển tìm tàu Mỹ để đi chớ đi đâu mà hỏi.”

Lủng lại nức nở: Cha mẹ ui, tui có muốn đi Mỹ đâu, tui đang bán chè mờ, tối nay chồng con tui không thấy tui về nó chờ chết thôi…trời ơi là trời…! Sau đó chỉ nghe tiếng Lủng rên ư ử lùng bùng trong miệng và như có bàn tay ai đang bụm miệng nó lại.

***

Sau một ngày làm việc mệt nhọc vì phải di chuyển nhiều, Phong vừa về đến nhà vội vàng vất chiếc cặp da đựng giấy tờ trên bàn viết, tụt ngay đôi giày và để nguyên cả áo quần lăn đùng lên giường đánh một giấc cho đến gần nửa đêm. Hạnh, vợ Phong phải đi làm ca đêm từ 6 giờ chiều đến 1 giờ sáng mới về. Trước khi đi nàng cũng đã lo cơm nước buổi tối sẵn sàng cho chồng để khi Phong về thì chỉ có việc lôi trong tủ lạnh ra hâm lại. Các con của Phong đứa gái phải đi babysit cho đám con ông bà sponsor ở làng kế cận và hai cậu con trai thì phải đi học lớp đêm ở Đại học cộng đồng cách nhà ba blocks đường. Hôm nay là ngày Phong phải ra phi trường Cleveland từ sáng sớm để đón thêm ba gia đình người Việt di tản nữa mới đến định cư tại thành phố này sau khi họ đã hoàn tất thủ tục tại trại tị nạn Indiangap tiểu bang Pennsylvania miền Đông Hoa kỳ. Lo thông dịch và gìới thiệu cho bà con với các sponsors mới của họ. Sau đó Phong lại phải đi đón một số bà con khác đã hết hạn ở với sponsors để đưa họ ra thuê phòng trong những chung cư rẻ dưới phố. Rồi đến việc phải chở họ đi làm các thủ tục giấy tờ, giới thiệu các công tư sở đã nhận họ vào làm. Ngần ấy việc trong ngày đã là ngất ngư, nên mỗi chiều tan sở về đến nhà là Phong mệt nhoài chả thiết ăn uống gì chỉ lên giường mong đánh một giấc cho đã con mắt.

Phong nhận công tác Field Rep. của thị xã Cleveland bang Ohio này từ đầu tháng 10 năm 1975, đúng 6 tháng sau khi rời Việt Nam sang Mỹ cùng với gia đình. Thật ra công việc cũng chẳng lấy gì làm khó khăn cho lắm, chỉ là cái phải di chuyển nhiều nên lắm lúc Phong cũng không có cả thì giờ dừng lại đâu đó để ăn trưa nên mỗi trưa vừa lái xe vừa cạp hamburger và tu (uống) soda là chuyện thông thường. Nhưng hôm nay đặc biệt có một gia đình hai vợ chồng trẻ mới đến song chưa có sponsor nên Phong phải lo liệu cho họ ngay một chỗ ở trong căn chung cư nửa là hotel nửa apartment sáng nay ở dưới phố. Người chồng là một quân nhân cấp úy và cô vợ, chồng giới thiệu là vợ mình nhưng cô vợ thì cố gạt ra và luôn bảo rằng tôi chỉ là bạn di tản cùng ông ấy chớ không phải vợ con chi hết. Phong chưa hết ngạc nhiên thì cô “vợ” nói tiếp:

“Ông này là thiếu úy Phụng, còn tui tên là cái Lủng, mấy bà Bắc kỳ di cư xóm tui hay gọi tui là: cái Lủng bán chè đậu (cười). Mấy tui là bạn di tản chớ không phải là dzợ chồng, nhưng đi đâu ông này cũng cứ giới thiệu tui là dzợ của ổng ….nghe kỳ woá!”

Trong khoảng thời gian làm công việc tái định cư cho đồng bào bà con người Việt mình, Phong cũng đã gặp nhiều trường hợp tương tự như vậy nên cũng không mấy ngạc nhiên cho lắm. Dẫu vậy nhiều đám sau một thời gian ngắn ở chung với nhau, đôi khi chỉ một vài tháng thì họ cũng thành chồng thành vợ, hoặc chung sống như đôi tình nhân già nhân nghĩa non vợ chồng. Nghĩ đến đó nên Phong phần vì tôn trọng quyền tự do riêng tư của họ, phần thì cũng không muốn hiểu thêm những chuyện rắc rối đó làm chi đôi khi làm cho họ khó xử và cũng lẫn cho mình nên ít khi Phong hỏi thêm, nhưng trường hợp này có dính dáng tới vấn đề nhận lãnh tiền trợ cấp chung (welfare) nên Phong định bụng để đó đến ngày mai sẽ hỏi rõ hơn vì bấy giờ đã chiếu tối rồi.

Sau khi lục tủ lạnh hâm đồ ăn tối, bỗng có tiếng chuông điện thoại reo vang. Phong nhấc máy nghĩ bụng chắc Hạnh hôm nay lại được về sớm nên gọi mình đến đón. Nhưng không, đầu dây bên kia là tiếng một nhân viên trực ở Sở Cảnh Sát địa phương:

Thưa, có phải ông Phong ở văn phòng Human Relations không ạ?

Dạ chính tôi đây..! Có việc gì đó thưa ông?

Xin ông vui lòng đến sở cảnh sát quận ngay vì chúng tôi đang có một việc cần nhờ ông giải quyết và thông dịch giùm gấp.

Vâng ạ, tôi sẽ đến ngay, nhưng ông vui lòng cho biết việc gì đấy ạ?

Có một cặp vợ chồng Việt Nam vừa đánh lộn với nhau trong chung cư A số…đường…lúc 11 giờ tối nay, chúng tôi được người quản lý chung cư gọi đến, song chúng tôi đều không biết lý do và cũng không biết rằng tại sao họ lại đánh nhau, vì cả hai vợ chồng đều không biết nói tiếng Anh…họ chỉ cho chúng tôi địa chỉ và điện thoại của ông và ra dấu xin gọi cho ông.

Vâng ạ, tôi sẽ có mặt trong 10 phút nữa, chào ông.

Phong gác máy vơ vội khúc bánh mì thịt nguội, xỏ đôi giày chạy vội ra xe, sau khi nguệch ngoạc cho vợ vài chữ: “Vì có việc gấp anh phải xuống Ty Cảnh sát địa phương giải quyết một vụ hai vợ chồng Việt Nam đánh lộn nên em cứ đi nghỉ trước, đừng chờ anh sẽ về ngay.”

Đến Ty Cảnh sát Phong ngạc nhiên khi nhìn thấy Lủng và ông Phụng ngồi mỗi người mỗi nơi mặt mũi hai người đều có dấu vết trầy trụa và riêng cái Lủng (từ đây xin gọi tên cô ta là “cái Lủng” như cô ta đã tự giới thiệu) thì bó gối ngồi thút thít một mình. Thấy Phong đến, cái Lủng đứng phắt dậy chạy đến định ôm Phong phân bua gì đó, nhưng Phong vội nhẹ nhàng đỡ lấy tay cô và dìu xuống chiếc ghế kế bên. Vị cảnh sát trực bắt tay Phong và tự giới thiệu cấp bực của mình. Phong cũng tự giới thiệu là nhân viên Field Rep. của thị xã chuyên lo về việc tái định cư cho những người Việt Nam mới đến Mỹ. Sau những lời chào hỏi xã giao, vị sĩ quan trực cho biết rằng tối nay có một cú điện thoại từ chung cư A xin Cảnh sát đến ngay vì có đám đánh lộn. Hóa ra là ông Phụng và cái Lủng! Ông Phụng thấy Phong thì có vẻ như xấu hổ, mặt cúi gầm xuống và không nói lời nào chỉ biết vo ve điếu thuốc trong tay khi nghe Lủng đang dài dòng phân bua:

“Thưa thầy, ông này quá lắm thầy ơi, tui hết chịu nổi rồi thầy. Ổng kéo tui
lên sà lan đậu trước bến tàu Sè goòng bắt tui đi theo ổng di tản qua đây, chớ tui đâu phải là dzợ con chi của ổng đâu?! Tui đâu có muốn đi Mỹ! Tui đang bán chè mờ!…tự nhiên người ta xô đẩy nhau lên xà lan gồi (rồi) ông này (Lủng chỉ thẳng vào ông Phụng) ổng kéo tui theo đẩy tui tuốt lên trển lwuôn”!…(lại khóc) Ông Phụng ngắt lời:

“Tui đâu có kéo bà, tại bà làng chàng trước mặt tui không trèo lên được xà lan nên tui tưởng bà cũng đi tui đẩy bà lên chớ bộ!”

Dừng một chút lấy hơi, Lủng lại hu hu kể tiếp:

“Tui có nói gồi chớ, tui kêu khóc khản cả cổ mà ông cứ núm tay tui lợi, không cho tui nhảy lên bờ, ngừ chi mà ác độc dzậy, tui còn chồng còn con ở nhà mờ!!”…(lại khóc hu hu).

Phong thấy tình cảnh quá thương tâm bèn định an ủi cả đôi bên thì Lủng lại kể tiếp:

“Thầy biết hôn?! Tối hôm nay ổng còn đòi ngủ mí tui, tui hổng chịu, ổng tát tui đau wá, tui tát lại ổng, dzậy là ổng thượng cẳng chân hạ cẳng tay làm tui đau quá trời tui la làng la xóm may nhờ mấy thầy phú lít này tới cản chớ không ổng giết tui gồi…cha wơi, mẹ wơi! hu hu…”

Tiếng cái Lủng thút thít bắt đầu kể lể lại cuộc di tản bất đắc dĩ với một giọng rền rền liên tục đôi khi xen lẫn tiếng nấc. Phong ngồi yên lắng nghe mà hồn để tận đâu đâu. Tiếng cô gái như tiếng kinh kệ đều đều vang vọng từ xa. Phong cố gắng lắm nhưng đôi mắt chàng bắt đầu nặng trĩu, hai mí mắt như muốn sập xuống phải cố gắng lắm mới ngồi yên được…

“Em lạy các anh mờ!…

…Cho em về đi, em còn…co…có.. chồng…chồng….và con ở nhà mờ!….”
***
Los Angeles, California…

Phong đang bận đóng mấy cái đinh để treo mấy tấm hình trong quán ăn của mình thì bất ngờ một người đàn bà trạc 23-24 tuổi đẩy cửa bước vào. Cô ta vận trên mình một chiếc T-shirt màu vàng nhạt bỏ trong cái mini-jupe màu xanh đậm ngắn cũn cỡn cao lên quá đầu gối nom thoáng như một cô học trò trường bà xơ nhưng đã quá lứa tuổi học sinh mặc đồng phục. Phong định mở miệng cho biết quán ăn chưa mở cửa, nhưng người đàn bà đã nhanh nhẩu mở lời trước.

“Dạ thưa thầy…có phải thầy là thầy Phong không?”

Phong ngạc nhiên nhíu mày cố lục tìm trong trí nhớ xem mình đã gặp cô gái trẻ này ở đâu?

Chưa kịp lên tiếng thì cô ta đã đon đả tiếp:

“Thầy không nhớ ra em sao? Em là cái Lủng đây nè, cái Lủng bán chè đậu di tản qua Ohio 3 năm trước đây mà thầy!…”

Phong trố mắt nhìn người đàn bà reo lên một tiếng thật to.

– Ồ, cô Lủng..!

Hạnh, vợ Phong trong bếp nghe có tiếng người nói léo nhéo đàng trước phòng ăn vội chạy ra xem. Phong kéo chiếc ghế định mời cô ta ngồi thì Hạnh chạy lại nhìn chồng và cô gái. Phong cười, xoay mặt qua phía vợ giới thiệu người đàn bà.

“Đây là cô Lủng, cô Lủng mà 3 năm trước ở Cleveland đó em có nhớ không? cô gái mà ông thiếu úy Phụng cứ nhận là vợ… mà.. mà cái đêm hai anh chị đánh nhau anh phải đi thông dịch dưới Ty Cảnh sát Cleveland đó…”

Hạnh nhớ ra và reo lên:

“À.. em nhớ ra rồi, phải cái đêm anh về nhà với xe cảnh sát còi hụ làm em hết hồn tưởng chuyện gì xảy ra cho anh đó mà!”

Hạnh gật gật cái đầu vui vẻ chào cô gái và mời cô ta dùng nước hay cà phê xong nàng quay qua nói với chồng:

“Anh ngồi tiếp cô ta nghe, để em bảo người làm lấy cà phê vì em phải vào ngay trong bếp xem nồi phở kẻo nó cạn nước.”

Phong nhìn vợ gật đầu từ từ quay mặt lại tươi cười nhìn cô gái từ đầu đến chân rồi chép miệng vừa cười vừa nói thật to:

“Trời đất ơi! cô mà không xưng tên thì tôi cứ tưởng là bà đầm xòe nào ấy chớ, đâu ngờ là cô Lủng, cái Lủng ..” Phong hạ thấp giọng tiếp trong tiếng cười:

“Cái Lủng bán chè đậu đây mờ..!”

Phong cố kéo dài tiếng mờ.. và cả hai người nhìn nhau cùng cười giòn tan.

“Thế bây giờ cô làm gì ở đâu? Ủa có còn ở với ông Phụng không? Xuống đây tự bao giờ?

Lủng đáp, “Dạ em xuống đây gần hai năm gồi, ở chung nhà với cô bạn gái và đi làm ắt xâm ly (assembly) cho hãng cà phe Mất wèn (Maxwell) đó thầy.”

“Tại sao cô biết tôi ở đây mà tới thăm?”

“Dạ, cô bạn làm chung sở có đến đây ăn phở và về nói cho em biết, cô cũng nói tên thầy nữa nên em định tới coi có đúng thầy không, nào ngờ đúng chóc..!”

“Vậy hả, trái đất tròn he!” Phong đáp.

“Thầy chờ chút nghe, em ra xe kéo nó dzô thăm thầy luôn. Khoe với thầy em mới sắm chiếc Toyota mới để mai chiều em tới chở thầy cô đi chơi…”

Nói xong rồi Lủng cười ngặt nghẽo đủng đa đủng đỉnh lắc lắc xâu chìa khóa vừa đi ra phía cửa hai chân nhảy con sáo. Phong nhìn theo cô gái lắc đầu lòng bàng hoàng ngỡ ngàng. Chỉ mới 3 năm trước đây Lủng còn là một cô gái bán chè đậu quê mùa hiền lành như thôn nữ, dáng dấp hồn nhiên mắt còn đầy vẻ rụt rè e lệ khóc lóc khi kể lại cho Phong nghe chuyện di tản bất đắc dĩ của mình. Vậy mà mới có 3 năm, nay đã thoát xác thành một cô gái khác nhí nha nhí nhảnh chảnh chọe hơn đầm. Ngẫm nghĩ Phong cười lên thành tiếng. Hạnh ở trong bếp nghe tiếng cười của chồng hỏi với ra:

“Ủa? cô ta còn đó không mà anh cười to thế?”…

Phong không đáp vì có tiếng cô gái mở cửa dắt vào thêm một cô bạn mới…Sau những lời chào hỏi xã giao, Phong hỏi Lủng tiếp:

“Thế còn ông Phụng thì sao? Cô còn ở với ông ta không?”

“Gỗ gá cặp lợi mà thầy! chớ có dziên nợ gì đâu?” (Rổ rá cặp lại mà thầy chớ có duyên nợ gì đâu?)

Đang vui nghe Phong hỏi mặt Lủng bỗng chùng xuống và nàng lại bất đầu kể lể thiên tình sử bất đắc dĩ của“cái Lủng bán chè đậu,” mà đã một lần chính người trong cuộc ngân nga, nay lại cũng với cái giọng rền rền vang vang như kinh nhật tụng về chiều.

Câu chuyện năm xưa mà đêm đó Phong đã cố gắng hết sức vừa nghe vừa cố mở to hai con mắt thật lớn để chống lại cơn buồn ngủ sau một ngày dài làm việc; và cũng mỗi lần khi nhắc đến câu chuyện cái Lủng – cậu Phụng trên là Phong lại mỉm cười tay mân mê cái lọ dầu cù là Mac Phsu nằm trong túi mỗi khi gặp bạn bè hay đồng hương thăm hỏi:

Bây giờ cậu làm chi?

Tôi ấy à?… Bây giờ tôi làm cái việc đi xoa dầu cù là cho bà con di tản mới đến!

Đó là câu trả lời ưng ý nhất của Phong sau khi tay bắt mặt mừng gặp lại bà con bạn bè trên xứ Mỹ, đặc biệt nhất là cái quãng thời gian bất đắc dĩ của một cán sự xã hội Field Rep, ở xứ Cleveland, cái xứ sở quanh năm lạnh lùng giá tuyết.

CHÚ CHÓ TRUNG THÀNH

CHÚ CHÓ TRUNG THÀNH

Khổng Văn Đương

Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg. Cũng như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh !  Mỗi lần muốn gọi, chỉ cần:  “Êu, Êu” là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương ! Thường ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.
Từ ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.

Một hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no. Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. “Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi ?” – Mẹ tôi bảo thế.
Có một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người ?  Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín. Cho đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui ra !  Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng !…

Người ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt… Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy ?  Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi ! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng…

Đêm hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm… Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm ?  Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò ?  Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở về !  Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau. Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn. Lạ lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại… Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.

Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.

Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà !

Khoảng chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay. Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.

Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi. Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương song !  Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân nhão !  Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm. Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.

Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào. Cả xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời !  Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con người !

Khoảng hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.
Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm !.

Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn ! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời ! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa. Không mấy ai để ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt. Nó ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà ?  Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm…

Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về ?  Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt lợn luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.

Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.

Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình :  Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt…
Chúng tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi… Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi :  Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người…

Khổng Văn Đương

Dương Phong gời

SAO NỠ LÒNG

SAO NỠ LÒNG

Nguyễn Thị Thanh Dương

Bà Thục đậu xe xong thong thả đi lên lầu 2 bằng thang bộ, bà vẫn thích thế để thêm dịp vận động cơ thể, hơn là dùng thang máy cho tiện nghi và mau chóng.
Unit 1 phòng ngủ của bà trong khu apartment này được thiết kế gọn xinh, địa điểm lại gần khu thương mại Việt Nam cũng như chợ Mỹ nên bà rất vừa lòng.
Bà Thục thay quần áo và nằm ra chiếc ghế mây nghỉ ngơi, bà vừa ra chợ Việt Nam vào dịch vụ gởi tiền để chuyển 10,000 đồng về cho người em trai. Thế là bà đã làm tròn lời hứa hẹn với em và với tình cảm trong con người bà, lòng bà thảnh thơi, nhẹ nhỏm và vui mừng khi nghĩ đến gia đình em trai, chắc là vợ chồng con cháu họ đã sung sướng biết bao nhiêu.
Bà Thục thuê căn apartment với giá trợ cấp của chính phủ dành cho người có lợi tức thấp kể từ khi bà đủ tuổi về hưu 2 năm nay, bà sống ở Mỹ đơn độc không chồng, không con, mà ở Việt Nam cũng chẳng còn ai thân thích gần gũi ngoài gia đình ông Thức, đứa em trai duy nhất, cha mẹ bà đã lần lượt qua đời kể từ khi sau 1975.

Ngày xưa gia đình bà nghèo, nhưng cha mẹ bà cũng chắt chiu nuôi 2 chị em bà ăn học, đứa con gái là bà học hành chăm chỉ giỏi giang bao nhiêu thì thằng em học hành vừa lười vừa dở bấy nhiêu.

Cô Thục đã trở thành 1 dược sĩ. Cô dược sĩ Thục ngày ấy đã đi làm và phụ giúp cha mẹ đắc lực trong cuộc sống hàng ngày, còn Thức học không xong, thi rớt Tú Tài Thức đi lính, ngành tác chiến nay đây mai đó. Cô Thục thương em lận đận, mỗi khi em về phép ngoài các món ngon nấu cho em ăn, cô còn cho em tiền khi trở lại đơn vị.
Cô Thục không mấy xinh đẹp, có bằng cấp, ngành nghề sáng giá, nên hình như đó là những lý do khiến các chàng trai không thích đến gần, và cô miệt mài hi sinh cho gia đình nên hầu như không có cơ hội đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Tuổi xuân trôi qua lúc nào không hay.
Sau 1975 cũng như bao nhiêu gia đình khác, cuộc sống nhà cô Thục trở nên chật vật khó khăn, rồi Thức lấy vợ sinh con, bấy nhiêu người sống cùng trong một nhà đã trở nên chật chội và tài chính càng lúc càng khó khăn hơn.

Năm 1989 cô Thục đi vượt biên tìm tự do và thêm lý do không kém phần quan trọng là vì kinh tế để có thể giúp đỡ gia đình hữu hiệu hơn, chuyến đi vượt biên cuối mùa đã khiến Thục phải chờ đợi ở Thái Lan hơn 4 năm sau khi đậu thanh lọc mới được phép đến Mỹ định cư.
Sang Mỹ ở lứa tuổi về chiều, 49 tuổi rồi, Thục chợt nhận ra mình đã lãng quên chính mình hơn nửa đời người, học lại thì không thể mà lấy chồng cũng không xong.
Cô Thục đã đi làm những công việc trong hãng xưởng để có tiền sinh sống và gởi giúp tối đa những đồng tiền của mình kiếm được về gia đình ở Việt Nam.
Rồi cô Thục cũng lấy chồng.
Nhưng chỉ là một cuộc hôn nhân gượng gạo, cố gắng kéo dài được mấy năm cho có đôi, có cặp thì người chồng đã chia tay trả Thục trở về vị trí độc thân như cũ, thế là cô Thục già chấp nhận duyên phận thiệt thòi hẩm hiu, ở vậy cho đến giờ.

Thỉnh thoảng bạn bè cũng có ý giới thiệu cho bà một ông độc thân góa vợ nào đó, để đỡ đần và bầu bạn cùng nhau cho vui nhà, nhưng bà từ chối ngay, đời chắc gì vui, duyên chắc gì may? lỡ gặp ông khó tính khó nết, hay ông ngã ra ốm đau bệnh hoạn nằm một chỗ thì bà phải hầu hạ, còn nếu ngược lại bà ốm đau nằm một chỗ chưa chắc ông kia hầu hạ được gì.
Cuộc sống độc thân tuổi về hưu tuy có lúc buồn mà thảnh thơi, hàng ngày bà xem các phim truyện trên ti vi vừa để giải trí vừa để duy trì tiếng Anh của mình, rồi nghe nhạc, đọc sách, một đam mê ngày cô Thục còn trẻ để tìm lại cảm giác thú vị của ngày xưa.
Với đồng lương lao động tằn tiện bao lâu nay bà Thục cũng để dành được một món tiền, bà cất kỹ trong nhà băng.

Từ ngày về hưu bà sống bằng những đồng tiền hưu trí của mình cũng gọi là đủ, vì bà không có nhu cầu gì nhiều ngoài hàng năm vẫn gởi chút tiền về Việt Nam cho gia đình Thức hiện vẫn sống tại căn nhà cũ, nơi xóm nghèo xưa do cha mẹ để lại.
Xưa bà Thục thương thằng em vất vả đời lính, nay lại thương em vất vả cảnh nghèo, nên bà vẫn không ngừng gởi về đỡ đần cho em.
Bà Thục đã đưa chồng về thăm Việt Nam 1 lần để giới thiệu chồng với gia đình mình. Sau cuộc hôn nhân gãy đổ bà buồn chán và tủi thân, không có ý định về Việt Nam nữa. Nhưng những chuyện buồn vui của cuộc sống nơi xứ người bà vẫn tâm sự với người em ruột thịt của mình cho vơi nhẹ lòng, hai chị em đã luôn gần gũi từ thuở ấu thơ đến khi khôn lớn và cho đến bây giờ cả hai cùng tuổi xế chiều.

Bà kể từ chuyện bà bị bệnh cao máu, cao mỡ, và bệnh cườm mắt, phải uống thuốc và nhỏ mắt mỗi ngày mấy lần cho đến hết cuộc đời, đến những chuyện vặt vãnh hàng ngày. Từ chuyện bà về hưu và tiết kiệm xin được ở nhà giá rẻ dành cho người già, xin được tiền food stamp, đến chuyện bà dành dụm được món tiền phòng thân sau này.
Tóm lại bà Thục hài lòng với cuộc sống vật chất bảo đảm, dù cô đơn một mình một nhà.
Mới đây ông Thức đã gọi phone cho bà và tha thiết đưa ra một đề nghị mong chị giúp đỡ, thay vì chị gởi cho chút tiền mỗi năm và mỗi khi gia đình em cơ nhỡ thì em xin chị giúp hẳn một món tiền để có vốn làm ăn là 10 ngàn đô la.

Bà Thục đã suy nghĩ rất kỹ, bà đã gìa rồi và một ngày nào đó sẽ chết đi, số tiền dành dụm tuy không nhiều, nhưng là tất cả mồ hôi công sức của bà phải được hữu ích cho người thân của mình. Bây giờ họ đang nghèo khổ, họ đang cần tiền. Thế là bà Thục đồng ý
Và hôm nay bà đã làm xong nhiệm vụ thân thương ấy.
Hai hôm sau bà Thục nhận được phone của ông Thức, người em hoan hỉ báo tin đã nhận 10 ngàn đô của bà và không tiếc lời cám ơn chị. Lòng bà Thục ấm lên, vui lên, nhiều gấp cả chục lần niềm vui của người em.

Từ nay bà Thục sống thanh thản hơn dù món tiền dành dụm của bà đã vơi đi, bà sẽ viết lại một tờ di chúc nếu sau này bà chết, sau phần chi phí cho hậu sự, còn bao nhiêu, dù ít ỏi, nhờ người ta gởi những đồng tiền còn lại về cho Thức.
Vậy mà 3 tháng sau ông Thức gọi phone sang, bà Thục chưa kịp vui mừng hỏi han em đã làm ăn gì chưa thì ông Thức buồn rầu tuyên bố:
– Chị ơi, nhà em mới vừa bị kẻ gian đột nhập xông thuốc mê và lấy cắp hết 10 ngàn đô rồi !
Bà Thục bàng hoàng nghe em nói tiếp:
– Chị có thương em, thương các cháu chị, thì xin chị giúp em lần nữa…
Bà Thục không còn sức cầm lấy chiếc điện thoại nữa, bà buông phone và buông người ngồi phịch xuống ghế như một kẻ không hồn.
Bà đã mất ăn mất ngủ mấy ngày đêm, 10 ngàn đô là bao công lao và tấm lòng của bà gởi về, thế mà bị mất đi một cách gọn gàng êm thắm, nhẹ tênh như bông gòn, như mây bay, gió thoảng, hay như một trò đùa, một màn kịch vụng về không hơn không kém.

Bà không thể nào tin được.
Nhưng em trai bà nỡ lòng nào dựng lên màn kịch này để lừa dối bà, để xin thêm tiền của bà? Bà dằn vặt tự hỏi và không thể trả lời.
Cuối cùng bà Thục quyết định sẽ về Việt Nam bất ngờ, đối diện với em mình để tìm hiểu sự thật cho ra lẽ.

Từ phi trường Tân Sơn Nhất, bà Thục thuê xe Taxi đưa bà đến một khách sạn tại Gò Vấp, bà biết căn nhà cũ sẽ không có chỗ thoải mái cho bà vì theo lời ông Thức kể bấy lâu nay là hai đứa con đã lập gia đình và một đứa còn độc thân đều ở chung với vợ chồng Thức, nhà đất ở Việt Nam rất đắt đỏ, Thức tiền bạc đâu mà lo cho các con chỗ ở riêng.
Cuộc sống là sự tuần hoàn như cây cối, già cỗi thì chết đi, cây con thì sinh sôi nẩy nở…xưa căn nhà ấy có cha mẹ và 2 chị em bà, nay căn nhà ấy đã đông hơn, thêm lên mấy đầu người rồi.

Buổi chiều hôm sau bà Thục tìm về xóm cũ tại khu cầu hang quận Gò Vấp.
Khu xóm nay đã đổi khác rất nhiều nhưng bà làm sao quên được lối cũ, cảnh xưa. Kia vẫn là đường rầy xe lửa dẫn đến ga Xóm Thơm, và bên này là nhà cửa chen chúc.
Bà vừa đi vừa dò tìm theo những dấu vết cũ, cuối cùng bà Thục cũng tìm ra đúng số nhà, nhưng đứng trước căn nhà bà kinh ngạc, không tin đây là sự thật vì căn nhà to đồ sộ và cao ngất 4 tầng lầu, chứ không phải là căn nhà trệt tầm thường ngày xưa cô Thục từng ở từ thuở sinh ra đến khi lớn lên với cha mẹ mình nữa.
Bà ngại ngần, bà ngẩn ngơ, không dám gõ cửa, mà đi ra một quán nước ở đầu con hẻm, đối diện xéo xéo với nhà ông Thức, bà gọi một ly nước uống để định thần lại cho tỉnh táo, kẻo bà tưởng mình đang mơ.

Hay là bà đã nhìn lầm số nhà? Không, chắc chắn là không vì bà đã nhìn kỹ mấy lần rồi.. Hay là em trai bà đã bán nhà cho người khác? Cũng không, vì bà mới gởi số tiền 10 ngàn đô về địa chỉ nhà này.

Khi cô hầu bàn bưng ly nước ra thì bà Thục vờ hỏi bâng quơ:
– Căn lầu 4 tầng kia sao mà đẹp thế…
Cô gái vui vẻ tiếp chuyện:
– Dạ, bởi vì căn lầu đó ông bà Thức mới xây vài năm nay, kiểu đẹp, nhà mới nên ăn đứt mấy căn lầu khác.
– Ông bà Thức giàu có sướng thật…
Cô hầu bàn xuýt xoa:
– Ông Thức còn xây cho hai đứa con có gia đình ra ở riêng mỗi đứa một căn lầu tương tự căn này nữa đó. Căn này thì ông bà ở chung với thằng Út còn độc thân. Ba cha con ông Thức cùng làm chủ một xưởng cưa gỗ xuất khẩu, giàu có lắm lắm luôn, nhất xóm luôn.
Bà Thục cũng xuýt xoa:
– Số họ thật may mắn, làm ăn thành đạt nhỉ.
– Còn nữa bác ạ, nghe nói mới đây người thân ở nước ngoài gởi cho họ 10 ngàn đô nữa cơ, đã giàu có mà tiền ở mãi đâu cứ tự nhiên chảy vào túi.
Thế là bà Thục đã hiểu, gia đình ông Thức đã ăn nên làm ra từ lúc nào nhưng Thức không hề kể cho bà nghe, mà vẫn chăm chỉ than thở xin xỏ bà dù mỗi lần chỉ vài trăm đô, và cuối cùng là món tiền 10 ngàn đô. Nhưng họ chưa chịu dừng lại ở đó, lại nói bị mất cắp để xin thêm, có lẽ vì thấy bà đồng ý cho 10 ngàn đô dễ dàng quá chăng?
Ông Thức biết bà không có ý định trở về thăm Việt Nam nữa, bà ngại đi xa vì đi đâu cũng phải mang theo mấy loại thuốc men lỉnh kỉnh như con mọn, lại sợ ngã bệnh bất ngờ, và vì nơi đó những kỷ niệm buồn nhiều hơn vui, nơi đó cha mẹ bà đã không còn nữa, thằng em trai của bà đã gìa đi, và các cháu thì dường như xa lạ. Bà chỉ liên hệ với họ qua phone và gởi tiền về giúp em, giúp cháu khi cần thiết là đủ vui rồi.

Bà Thục thất vọng không ngờ em bà đã đổi thay đến thế, nó đã lợi dụng lòng tốt và tình thương của bà dành cho nó từ thuở còn thanh xuân cho đến giờ..
Bà Thục giận lắm, định quay trở về khách sạn, không gặp em, không bao giờ gặp nó nữa, bà sẽ trở về Mỹ và quên đi thằng em đã đối xử với bà không còn tình nghĩa. Nhưng sau khi uống hết ly nước, lòng tự giằng co, bà vẫn quyết định đến nhà ông Thức.
Bà bấm chuông cổng, tiếng chó sủa inh ỏi rồi có người ra mở cổng. Chính là Thức, ông ta ngơ ngác nhìn bà chị rồi thảng thốt kêu lên không biết vì vui mừng hay vì kinh ngạc như bà đã kinh ngạc khi nhìn thấy ngôi nhà:
– Trời ơi, chị Thục hả?
– Vâng, tôi là Thục đây.
– Trời ơi, sao chị về không báo trước để em và các cháu ra phi trường đón ?
Bà theo chân em vào nhà, căn phòng khách rộng lớn với đồ đạc bóng bẩy sang trọng làm bà Thục chóa cả mắt vì bà quen với phòng khách nhỏ gọn ở căn apartment của bà rồi. Từ bộ bàn ghế, vách tường, đến kệ trang trí đều là sản phẩm của gỗ qúy với kiểu dáng đẹp, sành điệu và qúy phái, đúng với phong cách thành đạt của ông chủ kinh doanh đồ gỗ xuất khẩu.
Vợ ông Thức cũng từ dưới nhà chạy ra hớn hở:
– Chị về chúng em mừng quá, hành lý chị đâu? Nhà em rộng rãi xin mời chị…
– Cám ơn em, chị không biết nhà đã xây lại rộng đẹp thế này nên đã ở khách sạn rồi
Sau vài câu thăm hỏi thông thường, bà Thục buồn buồn và nghiêm trang đi vào vấn đề:
– Các em đã làm ăn khá giả, có cơ ngơi thế mà không cho chị biết để chị mừng với, mà còn gây cho chị cảm tưởng là các em vẫn nghèo khó như xưa và xin chị món tiền 10 ngàn đô là thế nào?.
Ông Thức vội lên tiếng bào chữa:
– Nhờ trời thương gia đình em mới phất lên những năm sau này. Em xin lỗi chị, chỉ vì muốn vun đắp tom góp cho con cháu em mới xin tiền chị…
Bà Thục cay đắng:
– Kể cả việc em bịa đặt ra bị mất 10 ngàn đô để xin thêm lần nữa? em tưởng chị giàu có lắm sao?. Chị đã chắt chiu bao lâu mới để dành được số tiền ấy.
Ông Thức cố giải bày:
– Dù gì cuộc sống bên Mỹ chị cũng được bảo đảm lúc tuổi gìa, nhà nước lo hết, có đồng vốn nào chị không cho các cháu thì cho ai bây giờ? Cho trước thì khỏi cho sau, con cháu em cũng như con cháu chị…
Vợ Thức xen vào cho câu chuyện chuyển sang hướng khác:
– Nếu chị muốn về sống ở Việt Nam thì chúng em mời chị về đây ở chung căn nhà này như ngày xưa. Bây giờ những 4 tầng lầu, chị cứ ở hẳn 1 tầng tha hồ rộng rãi, lại có chị có em…
Tình chị em gì khi mà họ đang sống trong giàu có, vợ chồng, con cháu đông đủ quây quần bên cạnh mà vẫn moi móc những đồng tiền dành dụm của bà, một người gìa sống đơn độc nơi quê người, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng trông chờ vào xã hội, vào người dưng giúp đỡ, hơn nữa bà Thục không bao giờ có ý định về sống ở Việt Nam nên bà từ chối ngay:
– Chị ở Mỹ quen rồi, ở đấy có mọi tiện nghi và lợi ích, về đây khỏe mạnh thì không sao, lỡ ốm đau sao bằng bên Mỹ được.
– Chị nghĩ thế cũng phải, nhưng bất cứ lúc nào chị thay đổi ý định thì cứ trở về, chúng em luôn chờ đón chị.
– Cám ơn hai em.
Khi bà Thục đứng lên từ gĩa vợ chồng ông Thức, người em ái ngại cầm bàn tay chị, cố biện minh lần nữa:
– Mong chị hiểu cho chúng em, đằng nào những món tiền dành dụm chị không cần tới, mà bên này thì con cháu đông, công việc làm ăn lúc này lúc khác chẳng biết đâu được, chị bên ấy một thân một mình, có đồng nào cho các cháu là chắc chắn nhất, không đi đâu mà thiệt chị ạ.
Vợ ông Thức vẫn ngọt ngào mời chào:
– Mỗi ngày chị đến ăn cơm với chúng em và các cháu cho vui nhé? chị đồng ý đi để ngày mai em làm món ngon đãi chị.
– Ừ, mai chị sẽ đến đây, chị ăn thế nào cũng được mà…
Vợ chồng ông Thức gọi xe taxi đến và vui vẻ tiễn chân bà Thục ra cổng, đợi người chị vào xe họ mới quay vào nhà.
Bà Thục ngồi trên xe, quay nhìn ngôi nhà lầu 4 tầng lần nữa, từ trong đáy lòng bà Thục vui mừng khi thấy cảnh nhà em trai giàu có, và cũng từ trong đáy lòng bà cảm thấy một sự đổ vỡ, tan nát. Đôi mắt bà rưng rưng nhỏ lệ.…
Bà biết rằng ngày mai, cũng như mỗi ngày sau đó, trong thời gian còn ở Việt Nam, bà sẽ đến đây ăn cơm với em, với các cháu.
Đấy vẫn là tình cảm, là tình ruột thịt bà dành cho họ, bà không nỡ quay mặt với họ, dù rằng bà đau đớn vì mất đi hình ảnh người em ruột thân thương gần gũi ngày xưa, dù rằng bà xấu hổ giùm người em ruột tham lam, tính toán và ích kỷ bây giờ.
Và nỗi đau đớn ấy, sự xấu hổ ấy sẽ theo bà về Mỹ, và theo bà cho đến hết cuộc đời …

Nguyễn Thị Thanh Dương

Lâm Kim Trọng gởi

Người Thợ Điêu Khắc

Người Thợ Điêu Khắc

Ông sống tận cuối làng, cô đơn và khó tính. Không giao du qua lại với ai. Ngày lại ngày, có việc thì cặm cụi đục đẽo, không việc thì lúi húi chăm sóc miếng vườn nhỏ, trồng dăm bụi sắn, vài luống rau và ít bụi hoa. Người trong làng thỉnh thoảng ghé đến nhưng thấy bản tính ông ghẻ lạnh nên cũng chẳng ai muốn chơi. Nguồn thu nhập chính của ông là khắc tượng gỗ. Danh tiếng ông khá lẫy lừng, nhiều ngôi chùa ở những nơi xa tìm ông để đặt hàng. Từ những bức tượng Phật Thích Ca uy nghi, to lớn cho đến những pho tượng chỉ bằng nắm tay, ông đều nhận cả.

Một ngày kia có vị Linh Mục đến đặt hàng làm ông ngỡ ngàng. Đây là lần đầu tiên trong đời điêu khắc của ông có một “ông Cha” giao tiếp với ông, thứ đến là loại hàng này ông chưa từng bao giờ thử qua!

Ông Cha này rất điềm đạm và bình dân, cho ông một cảm giác gần gũi, thân thiện. Hàng đặt là một tượng Thánh Giá cao tới hai mét rưỡi và chiều ngang một mét chín, nằm trên Thánh Giá này là tượng Chúa Giê-Su cao một mét bảy.
– Nhưng thưa ông, Chúa Giê-Su là ai, tôi không biết rõ, làm sao tôi có thể khắc đúng như ông đòi hỏi?

Vị Linh Mục thoáng ngẩn người, ông mau chóng lục chiếc cặp đang mang theo người, lấy ra một bức ảnh chịu nạn đưa cho người thợ, ông này cầm lấy ngắm nghía với cặp mắt nhà nghề, giọng đầy phân vân:
-Thú thật với ông, tôi chưa từng khắc tượng… Chúa! Từ trước đến nay tôi chỉ khắc tượng Phật, tượng Thần. Đối với Chúa, tôi cảm thấy xa lạ lắm. Ông có cái gì về Chúa nữa không để tôi nghiên cứu thêm, chứ bức ảnh này tôi e chưa đủ để giúp tôi có thể lột tả được cái Thần. Ông biết đấy, tôi đặt cao lương tâm nghề nghiệp…
Vị Linh Mục nhìn ông thợ điêu khắc đầy thiện cảm, ông trao cho người thợ một cuốn sách:
– Đây là cuốn Kinh Thánh của Đạo chúng tôi, hy vọng ông sẽ biết đầy đủ về Ngài.

Suốt cả tháng trời, ông thợ miệt mài đọc kỹ cuốn Thánh Kinh và ngắm nghía bức ảnh chịu nạn. Không giống vẻ oai nghiêm của các tượng Thần ông từng khắc, cũng không có vẻ an nhiên tự tại của tượng Phật với những đường nét bệ vệ, tròn trĩnh. Tượng Chúa là những lồi lõm của một người gầy gầy, với những thương tích khắp người, một người trần truồng để lộ ra những xương sườn và cái bụng lép kẹp, nhất là gương mặt hốc hác, đau đớn của người chịu khổ hình. Một gương mặt đang trong tư thế ngước lên mà ánh mắt vừa chịu đựng lại vừa khẩn khoản, đầy tin tưởng và hiền lành, không thấy có chút nào của sự oán trách, thù hận!

Ông cứ vừa nghiền ngẫm vừa dò dẫm chạm khắc, ngày làm đêm nghiên cứu. Ngay cả trong giấc mơ ông cũng thấy gương mặt Người Chịu Nạn bê bết mồ hôi và máu, những thớ thịt co giật trong cơn đau đớn, đôi môi khô nứt tím tái hẳn đi. hai cánh mũi phập phồng trong cơn khó thở!

Ngày qua ngày, ông làm việc miệt mài nhưng rất chậm. Đôi chân xương xẩu xếp chồng lên nhau của Người Chịu Nạn, bị đóng dính vào Thập Giá tương đối dễ khắc. Lồng ngực bức tượng nhô cao hiển lộ toàn bộ xương sườn như đang cố hớp lấy không khí khiến cho phần bụng thót lại làm ông thấy khó khắc hơn! Ngay cả hai bàn tay với những ngón gầy guộc co quắp khiến những sợi gân căng trên cổ tay cũng khiến ông hình dung được sự đau đớn của Người Chịu Nạn! Hình như không có vị Giáo Chủ của Đạo nào lại khốn khổ như vị này! Hầu hết các vị đều được vinh quang ngay khi tại thế, Đạo của các vị ấy cũng được truyền bá dễ dàng chứ không bị bách hại như Đạo này!

Mỗi nhát đục ông đều đắn đo cẩn thận. Độ khó của bức tượng kích thích ông mãnh liệt. Ông say mê làm việc như chưa bao giờ ông say mê đến thế! Thỉnh thoảng, ông dừng tay, giở Kinh Thánh ra nghiền ngẫm về Con Người Trên Thánh Giá. Cứ như trong sách ghi chép lại thì Con Người này có lẽ là Chúa thật rồi! Ông ta làm phép lạ mà chẳng tốn một tí hơi sức nào cả! Chỉ một Lời, thế là thành sự! Như thể ông ta là chủ tể của vũ trụ, là Ông Trời vậy!
Hình như các vị Giáo chủ khác không làm phép lạ nào thì phải? Các Ngài chỉ dạy dỗ thôi, mà ông này thì dạy dỗ như kẻ có quyền thật sự! cái điệp khúc “ Phần Ta, Ta bảo các ngươi…” cứ lặp lại mãi. Mà những Lời dạy bảo của Người mới cao đẹp, mới thánh thiện làm sao!

Mỗi ngày qua, tác phẩm dần lộ hình, thì trong lòng ông thợ lại càng xốn xang, khắc khoải. Có một điều gì đó làm ông băn khoăn. Ông thường hay bỏ dở công việc để đi thăm một người trong làng bị đau ốm, có khi ông nghỉ nguyên một buổi để đi đưa đám một người chết chẳng liên hệ gì với ông! Những đồng tiền làm ra được ông cất kỹ, nay cũng cạn dần theo những lần ông âm thầm đến nhà này, nhà nọ. Dân làng cũng thấy được sự thay đổi này, họ xầm xì bàn tán đủ điều về ông, có người còn độc miệng cho rằng ông đốc chết (*), nhưng nhìn chung họ dần có cảm tình với ông.

Giai đoạn khó khăn nhất cuối cùng cũng đến: Đó là gương mặt Người Chịu Nạn. Ông đã bỏ nguyên hai ngày để đọc kỹ lại cuộc khổ nạn của Chúa Giê-Su trong cả bốn quyển Tin Mừng. So sánh, đối chiếu cả bốn quyển để tìm ra những điểm chung, điểm riêng, những nét đặc trưng khả dĩ giúp ông hình dung ra sự khốc liệt của cuộc hành hình mà Chúa Giê-Su phải chịu. Ông mường tượng ra những cơn đau khiến gương mặt co giật. Răng nghiến lại? ừ, có thể nào răng nghiến lại khi cơn đau cùng cực không? Miệng có bị méo đi không? Còn mắt? Mắt nhắm nghiền hay trợn trừng hoặc lạc thần vì quá sức chịu đựng? Mồ hôi và máu thì dĩ nhiên rồi! Một gương mặt đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn. Tâm hồn dĩ nhiên đau đớn lắm khi Người thốt lên: “ Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?” mà tâm hồn này cũng tin tưởng và bình an vì Người đã kêu lên: “Con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Một gương mặt tội nhân mà sáng chói sự thánh thiện khi Người nguyện rằng: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Một gương mặt hài hòa bao nhiêu là trạng thái mà ông phải cô đọng lại!

Từng nhát đục ông gọt đẽo trong hồn ông, tượng hình dần trên thân gỗ. Gương mặt Chúa Giê-Su đau đớn với đôi mắt mở lớn đang ngước lên trời trong tâm tình phó thác vâng phục. Phải rồi, Người đã vâng phục cho đến chết và chết trên Thập Giá đang khi Người uy quyền phép tắc đến thế! Ai làm gì được Người nếu không phải chính Người tự nguyện chết thay cho nhân loại? Gương mặt Chúa Giê-Su thánh thiện và khả ái làm ông hài lòng mặc dù mấy hôm nay một cơn đau cứ nhoi nhói trong ngực ông.
Khi ông dừng nhát đục cuối cùng thì ánh sáng cuối ngày cũng vừa lịm tắt. Ông vui sướng cố dựng Thánh Giá gỗ nặng nề lên cho dựa vào tường rồi mệt mỏi lê bước vào giường. Đặt mình nằm xuống, ông thiếp đi rất nhanh, không hề mộng mị.

Tiếng gà gáy sáng làm ông choàng tỉnh giấc, toàn thân khoan khoái sau một giấc ngủ dài làm ông có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn tối nhưng nơi cửa ra vào ánh sáng lại huy hoàng làm ông ngạc nhiên. Ông chợt nhớ ra chiều qua mình đã ngủ như chết, không tắm rửa, không ăn uống và không cả đóng cửa!
Ông bước xuống giường đi ra cửa và bất chợt khựng lại vì trong sân đang chói loà toàn ánh sáng, một thứ ánh sáng mà ông chưa từng thấy, chính ánh sáng này đã chiếu sáng cửa lớn nhà ông. Toàn thân ông thấm đẫm thứ ánh sáng huyền diệu này. Một niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng ngập hồn ông, trong mơ hồ ông nhận ra thân thể mình bỗng nhẹ tênh, ánh sáng đưa ông bay lên cao, lên cao mãi…

Phải đến hai ngày sau dân làng mới phát giác ra ông đã chết dưới chân cây Thánh Giá mà ông vừa hoàn thành, trong tư thế nửa ngồi nửa quỳ, mặt ngước lên và tay ôm chặt chân tượng Thánh Giá.

Giuse Nguyễn Văn Sướng

Tranh cát: Vẻ đẹp trong tim người Mẹ

Tranh cát: Vẻ đẹp trong tim người Mẹ

httpv://www.youtube.com/watch?v=eRZRiWgR3vA

Người mẹ hạnh phúc hỏi bác sĩ sau khi tỉnh dậy: “Tôi có thể nhìn con được không?”.
Bác sĩ đặt đứa trẻ bên cạnh mẹ… Người mẹ nhẹ nhàng mở các nếp khăn để nhìn khuôn mặt nhỏ bé, chợt người mẹ kinh hoàng. Bác sĩ vội quay nhìn ra cửa sổ… Đứa bé sinh ra không có tai…!
Tuy nhiên, thời gian đã cho thấy thính giác của đứa bé hoàn hảo. Chỉ có hình dáng bên ngoài là không hoàn thiện. Cậu bé lớn lên, đẹp trai, bất chấp sự khiếm khuyết. Một học sinh được bạn bè yêu thích, lẽ ra cậu có thể làm lớp trưởng, thế nhưng chỉ vì đôi tai…
Một ngày kia, cậu bé từ trường chạy ào về nhà và lao vào trong đôi tay của người mẹ. Cậu bé nức nở: “Có đứa gọi con là đồ quái thai”, tim người mẹ đau như cắt.
Cậu bé ngày càng bộc lộ tài năng thiên bẩm về âm nhạc và văn chương. Mẹ cậu ân cần động viên: “Còn nhiều người tốt để con có thể hòa đồng… con ạ”. Thế nhưng, trong tim người mẹ vẫn đau buồn vì thương con…
Cha cậu đã liên hệ với một nhà phẫu thuật. Bác sĩ khẳng định: “Tôi tin chắc tôi có thể ghép đôi tai nếu mua được…”
Sau đó là cuộc tìm kiếm người có thể hiến tặng đôi tai… Hai năm trôi qua, người cha nói: “Con sắp được phẩu thuật. Cha mẹ đã tìm được người tặng tai cho con. Nhưng đó là một bí mật”.
Và rồi… cuộc giải phẫu thành công rực rỡ…
Một nhân vật mới bắt đầu nổi lên. Tài năng anh nở rộ xuất chúng, cuộc đời ở trường trung học và đại học là những chuỗi ngày hân hoan. Anh lập gia đình và làm công việc ngoại giao.
Anh luôn van nài cha: “Ai đã tặng con quá nhiều như thế? Con không bao giờ có thể đền đáp xứng đáng cho người ấy”. Người cha trả lời: “Cha cũng tin là con không thể… nhưng cha phải giữ lời hứa là chưa được nói ra…”.
Nhiều năm trôi qua với điều bí mật của họ, nhưng ngày ấy vẫn đến… Một trong những ngày tối tăm nhất chưa từng có trong đời đứa con. Anh cùng cha đứng nghiêng mình trước quan tài người mẹ.
Dịu dàng và chậm rãi, người cha đưa tay vén mái tóc dài màu nâu dày để lộ ra… đôi tai không còn của người mẹ. Ông thì thào vào tai con trai: “Mẹ từng nói rằng mẹ hạnh phúc khi không bao giờ cắt tóc, và không ai có thể nghĩ mẹ bớt đẹp đi phải không?”
Vẻ đẹp thật sự không nằm trong dáng vẻ bên ngoài, mà ở bên trong trái tim…

Ông nội và cháu nội

Con đường nào rồi cũng có đích để đến, Nhưng cái đích để đến của những người lính VNCH bị tù Cộng Sản bao giờ cũng nhiều đau đớn, thương tích về thể xác lẫn tâm hồn. Nó đốt cháy và thiêu rụi nhiều thứ trong ký ức vàng son hay làm khô cằn niềm vui và sức sống.

Ông Nộivà Cháu Nội

Ông nội là cựu đại úy Việt Nam Cộng Hòa, con trai là đại úy không quân Hoa kỳ, mấy người quen thân gọi đùa cháu là Captain junior. Có hôm buổi sáng ông nội ngủ dậy khệnh khạng bước ra phòng khách, thằng con đang ăn điểm tâm đứng phắt lại giơ tay lên chào “Good morning, Sir!”. Ông nội giật mình đứng lại, không suy nghĩ ông nghiêm túc giơ tay lên chào. Miệng lẩm bẩm “Morning Sir!”. Cả nhà cùng cười, thằng cháu nội cũng cười.

Bước ra xe, con dâu mang cái túi baby có tã, sữa, quần áo. Bà nội dìu ông nội ra, tay mang một cái giỏ. Con dâu hỏi “Mẹ mang theo gì đó?”. Bà nội trả lời “Mang tã, nước và quần cho ba”. Thằng con cười:

– Hai ông cháu thiệt giống nhau.

Thằng cháu đái ướt tã khóc đòi thay. Ông nội lí nhí: “Tui muốn thay tã”. Con dâu vào phòng vệ sinh nữ trước. Ló đầu ra “Mẹ ! Không có ai”. Bà nội dẫn ông nội vào, đẩy nhanh vô phòng toilet đóng cửa lại. Một lúc sau, bà nội đưa ông nội ra nói với con dâu: ” Coi chừng ba, cho mẹ vào rửa tay”. Xong xuôi, ông nội cũng sạch, cháu cũng sạch. Cả nhà lại đi dạo phố. Con trai cười cười:

– Hai ông cháu cùng vào nhà vệ sinh nữ.

*

Chơi chán cả nhà lên xe về nhà. Thằng cháu nội khóc um sùm không chịu nằm vào ghế baby. Thằng con loay hoay lo cho con nó. Bà nội đưa ông nội ngồi vào ghế trước. Ông nội cũng không chịu lên. Bà nội năn nỉ, ông cương quyết phản đối: “Tui muốn nói chuyện với đồng đội của tui, sao bà kéo tui đi”. Thằng con trai hỏi lý do. Bà nội nói là đi ngang mấy người lính Mỹ ngồi uống nước, ông nội đòi ngồi lại đó nói chuyện. Thằng con dụ dỗ: ”Mai con mời họ tới nhà nói chuyện chơi với ba” Ông cương quyết bấu chặt cửa không chịu lên xe. Thằng con gỡ tay bồng ông lên, gài dây an toàn. Xe chạy, ông nội cũng ngủ, thằng cháu cũng ngủ.

*

Thằng cháu nội nhễu, nước miếng chảy lòng thòng. Ai cũng la con dâu: “Lúc có bầu bộ nhịn thèm hay sao mà thằng cu nhểu dữ vậy”. Con dâu chỉ cười. Ông nội không còn nhỏ nhưng ông nội cũng nhểu. Ông nội bồng cháu, mặt quay ra đàng trước. Hai tay ông bấu thật chặt sợ cháu té. Nước miếng ông nội nhểu lòng thòng rớt từng dây trên đầu cháu. Cháu nhểu lòng thòng rớt từng dây trên tay ông. Bà nội chạy lại lau cho cả hai:

– Ông nội và cháu nhểu giống nhau.

*

Thằng cháu đứng chơi trong trong cái xe đi trẻ em. Chơi chán, nó muốn ra ngoài. Cháu la và khóc. Ông nội đang nằm bật dậy, chạy ra. Ông lại gần bồng cháu lên. Hai tay ông bíu chặt vào nách cháu lôi ra. Cháu vùng vẫy, Ông cố sức nắm. Hai bàn tay ông cuối cùng chỉ còn nắm chặt cái áo, Cháu gần rơi xuống đất. Bà nội chạy lên. Kịp thời chụp cháu. Bà nội hết hồn. Ông phân bua: “Con ai mà bỏ khóc um sùm, thiệt là tội”.

– Thì ra ông còn ngái ngủ, không biết thằng bé là cháu mình.

*

Thằng cháu nội tắm trong cái bồn tắm nhỏ xíu trẻ em. Nó thích lắm, hai tay đập vào nước cười ngây thơ. Xong xuôi, cháu được lau sạch thay đồ. Con dâu nói: ”Mẹ! con xong rồi”. Bà nội đem ông nội vào phòng, kéo cái ghế để vào bathtube cho ông ngồi rồi xối nước tắm rửa, kỳ cọ. Ông đưa tay vuốt mặt nói: “Mát quá! Mát quá”. Bà nội tắm ông xong, lau sạch, thoa lotion và thay đồ. Ông ra ngoài, cháu đang nằm ngửa chân đạp lòng còng. Ông được dìu vào giường. Ông nằm yên, hai chân cũng nằm yên;

– Hai ông cháu sau khi tắm giống nhau.

*

Con dâu đút cho cháu nội ăn từng muỗng baby food. Cái yếm đeo trước ngực. Cháu vừa ăn vừa chơi. Thỉnh thoảng lắc đầu không chịu cho đút. Con dâu ngọt ngào: ”Giỏi nè, giỏi nè.” Bà nội cũng dìu ông nội lại bàn, kéo cái ghế ngay mông ông rồi kéo ông ngồi xuống. Bà nội lấy cái tạp đề mang vào cổ cho ông rồi đút cơm cho ông ăn. Ông đôi lúc cũng lắc đầu không chịu nuốt. Bà nội năn nỉ: ”Ăn đi ông, còn vài muỗng nữa thôi. Giỏi đi ông”.

– Khi ăn, ông và cháu cũng giống nhau.

*

Ông muốn bồng cháu nhưng tay ông bấu chặt quá, cháu đau, cháu khóc. Bà nội đem ông vào phòng, cho ông nằm xuống rồi đặt cháu nằm một bên. Cháu nằm trên tay ông, chân quơ lung tung, tay cầm đồ chơi bỏ vào miệng cạp liên tục. Bà nội ngồi nhìn hai ông cháu. Ông đã ngủ khò, còn cháu cứ ê a.

– Bà nội mắt cay xè, muốn khóc.

*

Thằng con nhận lệnh qua Ý công tác 3 năm. Cả nhà làm tiệc tiển đưa. Vợ chồng thằng con buồn, nước mắt ngân ngấn mi, nghĩ mấy năm xa nhà, nghĩ cha già thế này có chuyện gì không biết có về kịp không? Thằng cháu nội vẫn cười, bi bô những âm thanh không rõ tiếng. Bà nội nắm tay ông nội lại gần con nói: ”Con nó muốn nói với ông trước khi đi nè”. Ông cười cười: ”Nói gì! Đi đâu? Ừ đi chơi vui vẻ”. Xong ông đi vào phòng ngủ. Chả biết ông có buồn hay không. Chỉ biết khi bà nội vào phòng ông đã ngủ khò. Thằng cháu nội nằm trong ghế cũng ngủ khò.

– Hai ông cháu ngủ giống nhau.

*

Từ đất Ý, thằng con mở Webcam nói chuyện. Thằng cháu nội đã biết ngồi, đã bập bẹ âm thanh ba ba. Bà nội dẫn ông vào phòng, kéo ghế cho ngồi để nhìn con, dâu và cháu. Hỏi ông: ”Biết ai không ông?”. “Biết chớ, người quen”. Bà nội chỉ cháu và hỏi: ”Ông biết thằng đó không?”. Ông nội trả lời mạnh mẽ: ”Biết chớ sao không. Nó là bà con chú bác của tui mà”. Ông đưa tay rờ rờ màn hình. Bên kia thằng cháu cũng đưa tay quơ quơ. Bà nội muốn khóc.

– Hai ông cháu cùng trẻ con như nhau, không ai biết ai.

* * *

Vậy đó, ông nội và cháu có nhiều điểm giống nhau. Cháu sẽ lớn, sẽ trưởng thành. Ông một ngày nào đó sẽ ra đi. Bà nội nhìn ông mà nhớ cháu. Hạnh phúc của ông bây giờ là sống vô tư như trẻ con. Hạnh phúc của bà bây giờ là không còn giận hờn mà con tim đầy ắp những yêu thương và bổn phận.

Thế là thời gian trôi qua nhanh chóng, thằng cháu nội theo cha mẹ công tác bên Ý đã được 2 tuổi.

Cuối tháng này là sinh nhật cháu tôi. Đứa cháu trai duy nhất trong gia đình. Đứa cháu nội mà tôi thương nhất. Chẳng phải tôi thiên vị vì nó là con trai hay là vì nó là cháu nội. Mà vì nó ở quá xa. Nó lớn lên từng ngày không có tôi bên cạnh. Nhiều khi nhớ quá muốn ôm nó vào lòng mà hai tay trống rỗng. Muốn đi thăm nó thì ông chồng già chẳng biết bỏ cho ai. Thằng con trai cứ năn nỉ, “Má ơi! Qua đây một chuyến. Con sẽ đem má đi khắp Âu Châu cho biết với người ta.” Tôi cười cầu tài nói cho con yên lòng. Nhìn ông chồng đau yếu mà thương. Thôi đành thúc thủ.

Nhìn ông chồng ngày càng yếu để thấy sự đào thải của thời gian và thân phận của kiếp con người.

Ngày xưa, lúc cháu được vài tháng tuổi, mỗi lần đi đâu con dâu đem một giỏ tã, sữa cho con, còn bà nội cũng lè kè một túi cho chồng. Mỗi khi cần vào phòng vệ sinh thay tã, bà nội lại nhờ con dâu xem chừng phòng nữ có vắng hay không rồi đem chồng vào làm vệ sinh. Xong xuôi cháu cũng sạch mà ông cũng sạch.

Bây giờ cháu đã bỏ tã, nó mặc quần lót đàng hoàng. Lần đầu tiên bỏ tã, trên webcam con trai bảo nó kéo quần xuống cho nội xem. Nó mừng rỡ chỉ cái quần lót hình Superman bí bô khoe. Bà nội chẳng hiểu cháu nói gì, chỉ cười cười. Thương quá đỗi!

Còn ông nội, ngày xưa chỉ mang tã lúc đi đâu hay những lúc cần. Bây giờ ông phải mang tã cả ngày vì ông cũng không biết lúc nào mình cần giải quyết. Những ngày quan trọng cần thiết, bà nội mang khẩu trang, đeo găng tay làm y tá giải quyết những cục nợ đời hôi tanh mà ông không có sức rặn ra. Những ngày đó tã thay không biết bao nhiêu cái.

Bây giờ cháu đã biết đâu là phòng vệ sinh để vào, còn ông thì phòng vệ sinh ngay trước mặt cũng không biết mà vô, bà nội nắm tay ông lôi vào và làm từ A tới Z.

Cháu bây giờ đã biết bắt ghế đứng lên tự đánh răng. Còn ông nội thì bà nội phải đưa ly vào miệng cho ông từng ngụm nước. Bỏ kem vào bàn chải và giúp ông đánh răng. Xong lau mặt, lau tay đưa ông ra khỏi phòng.

Kết luận bây giờ, hai năm sau cháu đã vượt qua mặt ông cái vù về phương diện vệ sinh cá nhân.

Cháu bây giờ đã biết ngồi ăn chững chạc dù mẹ phải đút, bởi không đút là cháu ham chơi ăn không no. Cháu tự múc ăn khi nào đó là ăn chơi hay cháu thật đói. Còn ông thì bây giờ hoàn toàn không chủ động. Đút gì ông ăn đó, ăn xong thỉnh thoảng càm ràm bà nội, “Sao từ qua tới nay không cho tui ăn.”

Cháu bây giờ rất gọn gàng không cần khăn, còn ông nội thì phải một cái khăn lót ở dưới để hứng thức ăn rơi. Một cái khăn nhỏ ở trên để lau miệng.

Ngày xưa cháu đi tắm phải có cái thau riêng, cháu nằm trong đó cho mẹ kỳ cọ. Bây giờ cháu có thể đứng trong bathtub cho cha, mẹ thoa xà bông và xịt nước ấm.

Còn ông nội giờ này vẫn tệ như xưa. Càng tệ hơn sau khi xong xuôi, bà nội bảo giơ chân lên để mặc tã, ông cũng đứng im. Những giọt nước miếng cứ nhểu lòng thòng rơi trên đầu bà nội. Khi bà vỗ vỗ vào chân ông, nói, “Chân này nè ông, giơ chân lên!” thì ông mới giơ chân lên. Có hôm ông giật mình kéo mạnh chân tống vào càm bà nội bầm một cục.

Ờ mà còn cái vụ nhểu nữa. Cháu bây giờ ngon lành hơn ông nhiều. Cháu hết nhểu, đẹp trai ra, biết nhận diện đâu là mắt, mũi, miệng. Còn ông nội thì càng ngày tốc độ nhểu càng trầm trọng. Không có thuốc men hay phương pháp gì chận lại. Bà nội dùng kim gút gài một cái khăn bên áo để bà nội chùi cho ông để khỏi chạy đi tìm. Ông không thích cái khăn lòng thòng nên giựt tét cả áo, đứt kim băng. Bà nội phải mặc ngoài một cái áo che lại. Khi cần bà lôi khăn ra lau, xong nhét lại. Thế nhưng nước miếng ông vẫn nhểu dài theo nền nhà theo mỗi bước chân đi. Bà nội lúc nào cũng chuẩn bị khăn lau nhà. Thỉnh thoảng bà lại đạp khăn dưới chân xóa đi dấu vết cho đỡ trơn trợt và cũng để mấy đứa cháu ngoại khỏi gớm.

Cháu nội hôm nay đã có bạn, biết các trò chơi và tung tăng như chim sáo. Còn ông nội thì càng ngày càng quên, càng lẩm cẩm.

Mỗi khi đi đâu bà nội nắm tay ông tình tứ như một cặp tình nhân. Nhưng thực ra là giữ ông cho khỏi đi lạc. Ông rất thích tự do. Ờ mà tự do ai không thích. Nhưng tự do trong trật tự. Thế nhưng ông nội nào biết trật tự là gì. Buông tay ông ra là ông đi, không cần biết điểm đến và đi đâu. Bà nội lạc ông mấy lần nên sợ lắm. Bà giữ tay ông trong bàn tay già yếu nhăn nheo. Thế nhưng đôi khi ông gặp một người không quen, ông vẫn nhào tới nói không ra lời hay lôi bà nội chạy theo họ. Ông la, “Bạn tui, bạn tui.” Bà nội biết tẩy của ông nên ngọt ngào dụ dỗ, ”Biết rồi! Họ ra xe đợi mình đó. Đi chợ xong mình sẽ gặp,” có vậy ông mới chịu nghe lời và đi theo bà.

*

Cháu nội bây giờ đã biết nghe lời cha mẹ. Mỗi khi làm điều gì sai, mẹ cháu bắt xin lỗi, nhận được gì cháu biết cám ơn. Cháu đã bắt đầu học để nhận biết đúng, sai. Còn ông nội tháng ngày trôi qua ông nội càng mù mịt đúng sai. Cái gì ông muốn là ông làm, ông không muốn thì đừng hòng ép. Khi cần ông đứng lại thì ông đi. Khi muốn ông đi thì ông đứng yên một chỗ. Kéo ghì không nhúc nhích. Năn nỉ một hồi ông mới chịu cho kéo đi. Khi cần ông nói thì ông làm thinh hoặc tiếng không thoát ra ngoài, chỉ lầu bầu, lịch phịch theo nước miếng. Nhưng khi ông nói chuyện với những gì ông thích hay bạn bè ảo tưởng của ông thì ông nói ra tiếng, mạnh mẽ và đầy sức sống.

*

Cho nên hai ông cháu đã đi ngược chiều với nhau, không còn giống nhau như xưa.

Mỗi khi vào Webcam nói chuyện, cháu chỉ trên màn ảnh “Bà nọi, bà nọi. My bà nọi.” Còn ông chỉ nhìn cháu như nhìn một cái gì lờ mờ không quen biết. Cặp mắt lơ đãng, ánh nhìn tỉnh khô, môi xệ xuống, nước miếng lòng thòng chảy ra.

Tuy nhiên hai ông cháu cũng có điểm na ná giống nhau là dỗi hờn.

Khi cháu dỗi cháu lăn xuống đất nằm đạp lòng còng. Cha, mẹ cháu kêu đứng dậy và bảo xin lỗi, nếu không sẽ phạt time out.

Còn ông nội, ông hay hờn mát. Mỗi khi như vậy ông bỏ đi nằm và bỏ ăn.

Cả nhà năn nỉ, dụ ngọt cả buổi trời ông mới ngồi dây ăn uống.

Chỉ hai năm thôi, hai năm trôi qua cho thấy một lực hút cuốn mọi người xoay chóng mặt. Đứa cháu ngày nào mới biết lật giờ đã là một cậu bé dễ thương tinh nghịch, ngây thơ. Cháu đang học mọi thứ để tập sự những ngày bước vào trường mầm non.

Còn ông thì mòn hết mọi thứ để đi vào con số không của cuộc đời. Ông như một cây đã cạn hết nhựa. Sống trong một trạng thái mơ hồ và làm theo quán tính của mình.

*

Thằng con trai vừa sinh thêm một đứa con gái. Đứa con gái đẹp như một con búp bê. Khi đứa con dâu sinh xong, thằng con chụp hình gửi về, rồi vào Webcam nói chuyện. Bà nội vui lắm khi nhìn con bé thật dễ thương nằm gọn trong lớp khăn xinh xắn.

Đứa con trai bồng con giơ giơ trước mặt ông nội:

– Ba biết ai không ba?. Cháu nội ba nè.

Ông nhìn cháu hai mắt lim dim, nước miếng chảy có dây ậm ừ:

– Cái cục gì đen đen vậy bà?

– Cái ông này nói kỳ. Bé Hạnh cháu mình đó. Bà nội vội trả lời

Ông làm thinh dường như mọi sự việc chẳng có gì liên quan đến ông. Đứa cháu gái hay cháu trai cũng không còn quan trọng.

Thỉnh thoảng ông cũng không nhớ bà là ai, ông cũng không phân biệt hai đứa cháu ở chung nhà đứa nào là chị đứa nào là em. Ông cũng không nhớ cháu ông tên gì. Cả đứa con gái đầu lòng ngày xưa ông rất mực yêu thương, thỉnh thoảng ông cũng không nhận ra và gọi là chị.

Thằng cháu nội ngày nào giờ đã được đi học ở thư viện trong base của quân đội. Cháu được dạy và chơi các môn thể thao. Cháu đã biết đếm từ 1 đến 40 bằng tiếng Mỹ và đếm 1 đến 10 bằng tiếng Việt Nam.

Còn ông nội bây giờ nói ông thử đếm xem. Bà nội đưa những ngón tay lên để đố, ông chỉ cười cười không trả lời. Không hiểu ông có biết hay ông chả thèm để ý chi ba cái chuyện đố ai lặt vặt trẻ con của đàn bà con gái.

Thằng cháu nội nhìn ông trong webcam và nói:

– Ông nội, ông nội. Ông nội nhểu giống em bé. Ông nội hư quá.

Ông nội bây giờ hư thật, ông sống trong thế giới của riêng ông và những thói hư tự dưng bây giờ xuất hiện.

Người ta nói đó là những thay đổi tâm tính của người già. Ông lúc nào cũng coi đồng tiền quan trọng lắm. Lúc nào cũng khư khư cái giỏ trong đó có cái ví tiền mà ông giữ thật cẩn thận.

Mỗi sáng ông lấy ra đếm đi đếm lại những đồng tiền mới mà bà nội để vào ví cho ông. Những giọt nước miếng chảy xuống làm ướt nhẹp mấy đồng tiền nằm trên. Ông cẩn thận xăm soi rồi lại bỏ vào. Như đứa bé chơi đồ chơi lấy một nón đồ chơi rồi bỏ vào trong hộp. Lại lôi ra chơi tiếp.

Ông hay sợ mất tiền và hay than hôm nay bị ai đánh cắp mấy trăm. Ông dấu kín dưới gối, kẹt tủ rồi lại hoảng loạn đi tìm vì không biết ở đâu. Ông kêu lên đầy lo lắng.:

– Gói tiền và giấy tờ để làm hồ sơ đi Mỹ đã bị đánh cắp rồi. Mình làm sao lên máy bay?

Vậy đó, ông nội lại trở về quá khứ để sống, còn cháu nhìn về tương lai để lớn lên. Cháu lớn từng ngày và mỗi ngày mỗi hiểu biết thêm một chút để bỏ xa ông nội đằng sau.

Bây giờ ông nội lại sắp hàng giống con em nó là con bé mới sinh được 5 tháng tuổi. Cũng mang tã, cũng ngu ngơ không biết gì như nó mấy năm về trước.

Tôi nhìn ông chồng tội nghiệp của tôi mà suy gẫm ra nhiều thứ.

Trên con đường đời của luật tử sinh vòng xoay bất biến, con người luôn đi theo một vòng tròn.

Khi đứa bé sinh ra bắt đầu bằng tã, sữa. Niềm vui là được bú no, ngủ cho yên giấc. Đứa bé lớn dần học nhiều thứ để trưởng thành. Để biết tham lam muốn cái này cái nọ. Để biết tìm cách lấy phần hơn về cho mình và trưởng thành để tự lập một đời sống riêng tư. Cái tuổi thành niên đến giai đoạn tráng niên là phải vật lộn với đời sống, với mưu sinh. Con người tốt hay xấu, danh vọng hay nghèo nàn, có nhân cách và đạo đức hay không là do mình tạo ra trong giai đoạn này.

Đến lão niên cuộc đời trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống. Tuổi đời chồng chất, đấu tranh mòn mõi, luật đời đào thải, cơ thể đào thải để cuối cùng cũng chỉ trở lại với tã và sữa.

Đứa bé là một sinh vật trong trắng, thơ ngây. Tã và sữa là những thứ cần thiết để đứa bé lớn lên và phát triển.

Người già là một cơ thể đã hết rồi nhựa sống. Trang sách đời đầy những dấu vết đau thương và tội lỗi. Nên ngoài tả sữa còn mang cả một quá khứ ở tâm hồn và đau đớn ở thân xác. Vì vậy đôi khi họ rất khó tính và câu chấp thiệt hơn. Cái vòng tròn khi về điểm cuối bao giờ cũng nhạt nhòa và mất dần đi nét vẻ đẹp ban đầu. Tất cả rồi sẽ nhập lại để hủy diệt. Để trả lại cái thân xác cho đất, nước lửa và không khí. Để sau đó một mầm sống mới vươn lên của vòng sinh tử, tử sinh bắt lại từ đầu.

Con đường nào rồi cũng có đích để đến, Nhưng cái đích để đến của những người lính VNCH bị tù Cộng Sản bao giờ cũng nhiều đau đớn, thương tích về thể xác lẫn tâm hồn. Nó đốt cháy và thiêu rụi nhiều thứ trong ký ức vàng son hay làm khô cằn niềm vui và sức sống.

Rất may ông và cháu đều được sống, được là công dân của một đất nước coi trọng người già và trẻ con. Một nước Mỹ tân tiến có nhiều quyền lợi ưu tiên cho cả ông và cháu. Cháu được xã hội nâng niu vì là mần non của đất nước. Cháu được tạo mọi điều kiện để sức khỏe và trí tuệ phát triển đến mức tối đa. Cháu sẽ trưởng thành để góp phần vào sự phồn vinh của đất nước, một người công dân xứng đáng trong xã hội.

Ông được xã hội trân trọng vì đã đóng góp ít nhiều cho xứ sở này. Một đất nước nhân bản coi trọng mỗi cá nhân. Những người già được quan tâm và hưởng những phúc lợi cần thiết để bảo vệ sức khỏe của mình. Để những ngày cuối đời là những ngày hạnh phúc và đáng sống.

Tôi cám ơn nước Mỹ vô cùng đã cho gia đình tôi có cơ hội sống và làm việc. Đã cho chúng tôi có một chỗ thật bình yên và an lành. Cho chúng tôi khi tuổi già không lo cơm áo gạo tiền, vật lộn với đời sống để kiếm miếng ăn. Nếu tôi còn ở VN ông chồng tôi chắc đã ra đi từ lâu lắm… Tôi sẽ không đủ khả năng để lo cho chồng như hiện nay Vì với một sức khỏe cạn kiệt sau bao nhiêu năm trên trại tù Việt Bắc. Bao nhiêu những ám ảnh quá khứ và hiện tại anh sẽ không thể nào đủ sức vượt qua.

Ông trời đã cho chồng tôi sống sót sau bao nhiêu năm tù tội gian lao. Đã cho chàng cùng tôi sang đây để xây lại một mái gia đình hạnh phúc. Và bây giờ đã cho chàng ở bên tôi hàng ngày, hàng giờ như tôi đã từng ước mơ, cầu nguyện.

Ông trời đã đùa với tôi. Ổng háy một bên mắt và cười: “Con ạ! Con xin gì ta đã cho con điều đó. Con ước nguyện cho chồng con sống sót trở về. Con cầu nguyện có chồng một bên không rời xa dù cực khổ bao nhiêu con cũng chịu. Cảm thương con ta cho con toại nguyện. Ta cho nó bên con hàng ngày, hằng giờ không bao giờ chia cắt. Con hãy trân trọng những đặc ân ta ban cho con. Chúc con hạnh phúc.”

Và thế, tôi ôm lấy niềm hạnh phúc ơn trên ban cho tôi và giữ lấy nó bằng cả trái tim.

Trái tim của một người phụ nữ Việt Nam yêu chồng.

Nguyễn thị Thêm

Những ngọn nến và triết lý tình yêu…

Những ngọn nến và triết lý tình yêu…

Đêm khuya, trong miếu có một người phụ nữ và một vị hòa thượng.
Người phụ nữ : Bạch thầy, con là người đã có chồng, nhưng giờ con đang yêu say đắm người đàn ông khác, một ngày không gặp anh ta con rất khó chịu, con thật sự không biết phải làm sao ?
Hòa thượng: Con có chắc người đàn ông này là người duy nhất và cuối cùng con yêu không?
Người phụ nữ: Đúng vậy. Lâu lắm rồi con chưa từng có cảm giác rung động, con không muốn bỏ lỡ giây phút này.
Hòa thượng: Vậy con hãy ly hôn chồng sau đó cưới anh ta.

Người phụ nữ : Nhưng chồng con rất cần cù, chịu khó, hiền lành và có trách nhiệm với gia đình, con làm vậy có nhẫn tâm, có vô đạo đức quá không?
Hòa thượng: Hôn nhân không tình yêu mới là nhẫn tâm và vô đạo đức, bây giờ người con yêu là người khác chứ không phải chồng con, nên ly hôn là sự lựa chọn đúng đắn.
Người phụ nữ: Nhưng chồng con rất yêu con, thật sự rất yêu con.
Hòa thượng: Nếu vậy chồng con thật hạnh phúc.
Người phụ nữ: Nếu con ly hôn với anh ấy và lấy người khác, anh ấy phải là người đau khổ mới đúng chứ, sao lại hạnh phúc ?
Hòa thượng: Trong cuộc hôn nhân của 2 người, anh ta vẫn còn tình yêu dành cho con, còn con đã đánh mất tình yêu dành cho anh ta vì đã đem lòng yêu người khác. Có được là hạnh phúc, mất đi mới là đau khổ, nên người đau khổ chính là con.
Người phụ nữ: Nhưng con sẽ ly hôn với anh ta và lấy người khác, anh ta mới là người mất con và là người đau khổ mới đúng chứ?
Hòa thượng: Con sai rồi, con chỉ là một hiện thân của tình yêu, khi không có con, tình yêu của anh ta sẽ tiếp tục với một hiện thân khác. Trong cuộc hôn nhân này bởi vì anh ta chưa đánh mất đi tình yêu thực sự nên anh ta hạnh phúc còn con mới đau khổ.
Người phụ nữ: Anh ấy nói cả đời này chỉ yêu mình con, sẽ không yêu ai khác.
Hòa thượng: Thế con cũng đã từng nói những lời tương tự với anh ta chứ?
Người phụ nữ: Con… con…con…
Hòa thượng: Bây giờ con hãy nhìn 3 ngọn nến trong lư hương và nói xem ngọn nào sáng nhất.
Người phụ nữ: Con thật sự không biết, hình như chúng đều sáng như nhau.

Hòa thượng: 3 ngọn nến tượng trưng cho 3 người đàn ông, trong đó có một người con đang yêu hiện nay, trên thế gian đàn ông đâu chỉ hàng trăm hàng vạn, cả ngọn nến sáng nhất trong 3 cây nến này con cũng không biết, con không thể tìm ra người con yêu, vậy làm sao con dám xác định người đàn ông con yêu hiện nay là người duy nhất và cuối cùng?
Người phụ nữ: Con… con…con…
Hòa thượng: Bây giờ cầm một ngọn nến lại gần, hãy chú ý xem ngọn nào sáng nhất.
Người phụ nữ: Dĩ nhiên là ngọn nến trước mặt con sáng nhất.
Hòa thượng: Giờ con đặt lại ngọn nến về chỗ cũ rồi xem ngọn nến nào sáng nhất.
Người phụ nữ: Con vẫn không biết ngọn nến nào sáng nhất

Hòa thượng: Ngọn nến con cầm ví như người đàn ông con đang yêu, tình yêu chỉ là suy nghĩ chủ quan, khi con cảm thấy con yêu anh ta, khi đó con thấy ngọn nến đó sáng nhất, nhưng khi đặt ngọn nến về chỗ cũ, con không còn cảm thấy nó sáng nhất nữa, nên tình yêu duy nhất và cuối cùng mà con nói chẳng qua chỉ là ảo ảnh, cuối cùng cũng tan biến.
Người phụ nữ: Giờ con đã hiểu, thầy không phải muốn con ly hôn, mà là đang điểm hóa con.
Hòa thượng: Con hiểu được là tốt, con về đi
Người phụ nữ: Bây giờ con đã biết mình thật sự yêu ai, đó chính là chồng con hiện nay.
Hòa thượng: A di đà phật

Khi chúng ta yêu ai đó, họ cũng chỉ là một trong số bao con người, chỉ là khi yêu, trong tâm trí chúng ta chỉ hướng về người đó, nên cảm thấy người đó nổi trội hơn cả, nhưng khi hòa vào dòng người, người đó cũng như bao người khác, cũng chỉ là một trong số những người quen của chúng ta.
Chúng ta vốn không thể chắc chắn ai mới là người chúng ta yêu thương nhất, nếu bạn không trân trọng người bạn đời bên cạnh, một ngày nào đó, người đó cũng sẽ chỉ là một người quen.
Tìm người yêu bạn không dễ, tìm người bạn yêu cũng khó không kém. Trong khi vẫn chưa tìm thấy người bạn thật sự yêu, sao bạn không trân trọng người đang yêu bạn? Tình yêu chỉ là suy nghĩ chủ quan, khi bạn nghĩ rằng sẽ yêu ai đó, dần dần bạn sẽ yêu người ta.
Nếu người ta không yêu bạn, bạn cũng nên nhớ: tình yêu chỉ là suy nghĩ chủ quan, vì bạn tập trung sự chú ý đến người ta quá nhiều, hãy thử nhìn xa hơn, bạn sẽ thấy rất nhiều ngọn nến cũng sáng không kém đâu!
Yêu hay không yêu, chẳng qua chỉ là cảm xúc nhất thời, cũng như khi bạn nói không thể sống thiếu ai đó, chỉ là do bạn tưởng tượng ra thôi, thực tế thì bạn đâu có chết đi khi không có ai đó!
Những việc đã qua, tình yêu đã qua, hãy cho nó trôi vào quá khứ, chúng chỉ là một phần trong cuộc sống của chúng ta, chỉ là giọt nước trong đại dương bao la, chỉ là hạt cát nhỏ trong sa mạc. Không có quá khứ, sẽ không có bạn bây giờ.
Trân trọng trước mắt vẫn tốt hơn đứng núi này trông núi nọ..

Nguyễn chuyển bài

Lâm Kim Trọng gởi

Người mẹ một mắt

Người mẹ một mắt

1376964770_nguoi-me-mot-mat

Mẹ tôi chỉ còn một bên mắt. Tôi ghét điều đó, và vì thế tôi ghét luôn cả mẹ. Mẹ có một cửa hàng ọp ẹp ở khu chợ tồi tàn, lượm lặt đủ các loại rau cỏ lặt vặt để bán. Bà làm tôi xấu hổ.

Một ngày kia ở trường tôi có sự kiện đặc biệt, và mẹ đã đến. Tôi xấu hổ lắm. Tôi nhìn mẹ với ánh mắt rất căm ghét rồi chạy đi. Ngày hôm sau đến trường, mọi người trêu chọc tôi: “Ê, mẹ mày chỉ có một mắt thôi à?”.

Tôi ước gì mẹ biến mất ngay khỏi thế giới này, vì vậy tôi nói với bà rằng: “Mẹ, tại sao mẹ chỉ còn một bên mắt thôi? Mẹ sẽ chỉ biến con thành trò cười cho thiên hạ. Sao mẹ không chết luôn đi?”. Mẹ tôi không phản ứng. Tôi nghĩ mình quá nhẫn tâm, nhưng lúc đó cảm giác thật thoải mái vì tôi nói ra được điều muốn nói suốt bấy lâu.

Đêm hôm ấy…

Tôi thức dậy, xuống bếp lấy cốc nước. Mẹ đang ngồi khóc trong đó, rất khẽ, cứ như bà sợ rằng tiếng khóc có thể đánh thức tôi. Tôi vào ngó xem mẹ thế nào rồi quay về phòng. Chính vì câu tôi đã thốt ra với mẹ, nên có cái gì đó làm đau nhói trái tim tôi.

Ngay cả vậy chăng nữa, tôi vẫn rất ghét mẹ. Tôi tự nhủ mình sẽ trưởng thành và thành đạt, bởi vì tôi ghét người mẹ vừa nghèo, vừa chỉ còn có một mắt.

Rồi tôi lao vào học. Tôi đỗ vào một trường đại học danh tiếng với tất cả sự tự tin và nỗ lực. Tôi rời bỏ mẹ đến thành phố.

Tôi kết hôn, mua nhà và làm cha. Giờ đây, tôi là một người đàn ông thành đạt và hạnh phúc. Tôi thích cuộc sống ở thành phố. Sự náo nhiệt, sôi động giúp tôi quên đi hình ảnh người mẹ tội nghiệp.

Cho tới một hôm, người tôi không mong đợi nhất đã xuất hiện trước cửa nhà. Mặt tôi tối sầm lại, tôi đã lạnh lùng hỏi người đàn bà đó: “Có chuyện gì không? Bà là ai?”. Đó là mẹ tôi, vẫn dáng người còm cõi và gầy gò ấy, vẫn là người phụ nữ với đôi mắt không hoàn thiện ấy.

Đứa con bốn tuổi của tôi nhìn thấy bà, nó đã quá sợ hãi, chạy núp vào một góc nhà. Tôi vờ như không nhận ra bà, nhìn bà giận dữ rồi nói: “Bà là ai, tôi không quen bà”. Tôi đang tự lừa gạt mình và thực sự từ bao lâu nay tôi vẫn tự lừa mình như thế. Tôi cố quên đi cái sự thật bà là mẹ tôi. Tôi luôn muốn trốn tránh sự thật này. Tôi đuổi bà ra khỏi nhà chỉ vì bà khiến đứa con gái nhỏ của tôi sợ hãi.

Đáp lại sự phũ phàng ấy, người đàn bà tiều tụy kia chỉ nói: “Xin lỗi, có lẽ tôi đã tới nhầm địa chỉ”, và rồi bà đi mất.

“May quá, bà ấy không nhận ra mình” – tôi thầm nhủ. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm, tự nói với mình rằng sẽ không bao giờ quan tâm hoặc nghĩ về bà.

Một ngày, tôi được mời về trường cũ để gặp mặt nhân kỷ niệm thành lập trường. Tôi nói dối vợ rằng sẽ đi công tác mấy hôm.

Sau buổi họp mặt, tôi lái xe đi ngang qua ngôi nhà mà tuổi thơ tôi đã từng gắn bó – một cái lều cũ rách, lụp xụp, ẩm ướt. Bây giờ nó vẫn thế. Tôi xuống xe và bước vào. Tôi thấy bà nằm ở đó, ngay giữa sàn đất lạnh lẽo, trong tay ba có một mẩu giấy. Đó là bức thư bà viết cho tôi.

Con trai yêu quí của mẹ!

Mẹ nghĩ cuộc đời này mẹ đã sống đủ. Mẹ sẽ không thể đến thăm con thêm lần nào nữa, nhưng mẹ có quá tham lam không khi mong con trở về thăm mẹ dù chỉ một lúc? Mẹ nhớ con nhiều, và cũng rất vui khi nghe tin con đã trở về thăm lại lớp cũ. Mẹ đã rất muốn tới trường chỉ để nhìn thấy con. Nhưng mẹ đã quyết định không đến, vì con.

Mẹ xin lỗi vì mẹ chỉ có một mắt, có lẽ mẹ đã làm con thấy hổ thẹn với bạn bè.

Con biết không, hồi còn rất nhỏ, con bị tai nạn và vĩnh viễn mất đi một bên mắt của mình. Mẹ không thể đứng nhìn con lớn lên với khiếm khuyết trên khuôn mặt đáng yêu, vì vậy, mẹ đã tặng nó cho con.

Mẹ rất tự hào vì con trai mẹ có thể nhìn trọn thế giới mới có một phần của mẹ ở đó, mẹ chưa bao giờ buồn vì con hay bất cứ điều gì con đã làm. Con đã từng ghét bỏ hay tức giận mẹ, nhưng mẹ biết, trong sâu thẳm từ trái tim, đó là bởi vì con cũng yêu mẹ.

Mẹ rất nhớ khoảng thời gian khi con trai mẹ còn nhỏ, khi con tập đi, khi con ngã hay những lúc con chạy loang quanh bên mẹ. Mẹ nhớ con rất nhiều, mẹ yêu con, con là cả thế giới đối với mẹ”.

Thế giới quanh tôi cũng như đang đổ sụp. Tôi khóc cho người chỉ biết sống vì tôi.

Nếu câu chuyện làm bạn cảm động, hãy nhấc điện thoại lên và bấm số của bố mẹ, chỉ để nói rằng: Con yêu bố mẹ .

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Không phải tạm dung!

Không phải tạm dung!

Nguoi-viet.com

Lệ Hoa Wilson

Tôi người Việt Nam. Ông xã người Mỹ. Chúng tôi gặp nhau và thành hôn năm tôi 30 tuổi, đã một lần ly dị và có hai đứa con. Ông xã thì cũng 30 tuổi và còn là trai tơ.

Vùng I chiến thuật lấy Ðà Nẵng (nơi tôi và ông xã gặp nhau) làm thủ phủ nên có rất nhiều bộ chỉ huy trong đó có nhà thương của Hải Quân Mỹ là trung tâm y tế cho tất cả binh sĩ Mỹ trong vùng. Qua khỏi ngã tư Mỹ Khê, quẹo mặt để đi vào núi Non Nước, nằm về phía tay mặt là nhà thương. Tôi đoán nó chiếm trọn ít nhứt là năm mẫu đất với các trung tâm y tế mổ xẻ, chữa trị đủ loại, nhà ở cho binh sĩ và dĩ nhiên là một nhà xác! Một nhà xác không có nhiều nước mắt vì thân nhân ở mãi mười ngàn dặm xa!

Trước mặt nhà thương là một bãi đáp trực thăng để tải các thương binh, các chiến sĩ tử trận từ các chiến trường vùng I. Mỗi lần trực thăng đáp xuống thì con đường xe chạy được các quân cảnh Mỹ chận lại, từng chiếc cáng được vội vã khiêng ra chạy thẳng vào cổng chánh, có người sẽ tỉnh lại với một cái chân nằm đâu đó trong lá rừng rậm rạp, có người sẽ được trở về quê hương dưới lá cờ phủ kín, có người sẽ ngậm ngùi từ biệt những giấc mơ vì cánh tay đã mất, gương mặt đã bị tàn phá, linh hồn đã bị tổn thương…

Đại gia đình tác giả (áo đỏ, đứng thứ 2 từ trái) trong lần cậu con trai út tốt nghiệp đại học UC Berkeley. (Hình: Tác giả cung cấp)

Vì ông xã thuộc binh chủng hải quân và đóng quân trong nhà thương nên tôi đã có biết bao lần phải ngừng xe, tắt máy, ngồi nhìn những bước chân vội vã, những gương mặt chịu đựng, những ánh mắt buồn hiu của những người tải thương. Mỗi khi có một cái cáng phủ cờ Việt Nam hay Mỹ thì những người Mỹ xuống xe đứng nghiêm chỉnh đưa tay chào vĩnh biệt. Tôi ít khi thấy thương binh Việt Nam, có thể vì họ được chuyển tới một trung tâm y tế khác. Chỉ có một lần tôi thấy một cái cáng được khiêng ra khỏi cửa trực thăng, lá cờ Việt Nam Cộng Hòa phủ kín. Tôi không thấy mặt cũng như binh chủng của tử sĩ nhưng một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, cánh tay quấn băng treo vào vai còn đẫm máu đang lảo đảo nhảy ra khỏi cửa trực thăng. Tóc chị trước kia chắc được cột lại bằng dây thun, nay chỉ còn một vài lọn lỏng lẻo trên đỉnh đầu còn bao nhiêu thì thả dài rối rắm xung quanh mặt.

Bạn ơi, hình ảnh đau thương nhứt không phải là cái cáng có người chết nằm phủ kín lá cờ vàng chói, không phải dòng nước mắt đầm đìa trên mặt người sống sót mà là một miếng băng vải mỏng dùng để quấn vết thương. Nó bị dơ vì đất và máu. Nó chỉ dài bằng một chiếc khăn mùi soa. Nhưng nó lại được người vợ trân trọng để ngang lên trán, dùng một cọng lạt dừa cột vòng lại sau đầu. Mảnh khăn tang được vội vã quấn tạm thời nhưng sự ly biệt thì chắc chắn ngàn trùng xa cách. Người thiếu phụ Việt Nam đang để tang cho người chồng chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc!

Tôi không ra khỏi xe chào vĩnh biệt người chiến binh nhưng gục mặt vào tay lái nước mắt tuôn rơi khóc thương cho những đứa trẻ đang quẩn quanh trong thôn xóm chờ cha trở lại. Tôi tưởng tượng tới lúc gia đình nghe tiếng chuông reo, mở cửa ra và thấy một người binh sĩ đứng trước mặt với cái nón cầm trên tay. Người mẹ ở ngàn dặm xa kia có ngã xuống vì trái tim tan nát?… Một cái gì đó nhen nhúm trong tâm hồn tôi. Chiến tranh tiếp diễn cho tới một lúc nào đó thì hòa ước được ký, quân đội Mỹ rút đi.

Anh nấn ná xin ở lại Việt Nam và là nhóm binh sĩ cuối cùng ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất vào đầu năm 73. Tháng 6, 1973, tôi sanh đứa con trai đầu lòng cho anh. Tháng 9 năm 74 tôi qua Mỹ thăm anh tiện thể thăm dò chuyện xuất nhập cảng. Chúng tôi dự định chờ anh ra khỏi quân đội và sẽ về sinh sống tại Việt Nam. Ðiều kiện để tôi nói “I do” là chúng tôi phải ở Việt Nam và sẽ có bảy đứa con. Tôi nào biết trời cao đất rộng là gì, chỉ biết rằng tôi rất ham con và bảy đứa là một con số chấp nhận của gia đình VN, đâu nghĩ rằng đối với người Mỹ hai đứa là lý tưởng, ba đứa là chau mày, bốn đứa là nổi điên, năm đứa là tan nát, sáu đứa là thảm họa mà bảy đứa là… rồi đời!

Thời cuộc thay đổi, đến tháng 3 năm 75 thì tôi quay về Việt Nam để đón các con. Lúc đó tôi đang có thai đứa thứ hai được bảy tháng. Khi còn bên Mỹ, qua tin tức trên báo và tin rỉ ra trong quân đội thì chúng tôi biết chắc là Saigon sẽ mất, nhưng khi về Việt Nam thì Saigon vẫn vui vẻ, vẫn bình yên. Rạp chiếu bóng vẫn hát, tiệm ăn vẫn mở cửa, đám cưới vẫn tiến hành, tình yêu vẫn nở hoa… Tôi thầm cằn nhằn báo chí Mỹ thật là dỏm, toàn là đưa tin vịt không hà.

Nhưng với ngày qua, mọi việc có vẻ tệ hơn. Nhóm người quen bán hột xoàn với mẹ con tôi cùng nhau an ủi rằng “bà Mỹ” còn ở đây chưa chạy thì lo gì. Ông xã tôi kêu điện thoại ngày một hối thúc tôi ra đi. Tôi trả lời là má tôi không cho đi, sợ về Mỹ sanh rồi lấy ai săn sóc, làm sao có củi lửa để hơ, có lá xông để tắm, có nghệ vàng để thoa mặt, v.v.. Sanh xong rồi tôi sẽ qua.

Một tuần sau tôi mất liên lạc với anh.

Ngày 20 tháng 4, 1975 một trung sĩ Việt Nam lái xe jeep đến nhà tôi, gõ cửa:

“Xin lỗi đây có phải là nhà của bà Lê Thị Hoa không?”.

Tôi trả lời:

“Trung sĩ ơi, ở đây không có bà Lê Thị Hoa chắc trung sĩ muốn kiếm bà Lệ Hoa phải không?”

Viên trung sĩ vội nói:

“Tôi cũng không biết chắc. Tôi làm việc cho ban an ninh phi trường và được lịnh tới đây chở cái bà có chồng Mỹ lên gặp đại tá Mỹ phụ tá tùy viên quân sự…”

Tôi cầm lấy giấy và thấy tên tôi. Tôi vội dẫn theo hai đứa con nhỏ nhất lên phi trường Tân Sơn Nhất. Khi vào văn phòng,vị đại tá cho tôi biết là ông xã đã liên lạc với cơ quan của ông và nhờ họ giúp tôi và các con phương tiện để rời Việt Nam.

Vị đại tá nhìn xấp tài liệu nói:

“Chồng bà yêu cầu tòa đại sứ giúp đỡ bà và ba đứa con di tản khỏi Việt Nam lập tức. Xin bà hãy để hai đứa trẻ nầy lại đây cho cô thơ ký tôi trông chừng, còn bà thì theo xe trở lại nhà và dẫn đứa thứ ba tới đây, chúng tôi sẽ làm giấy tờ và gia đình bà sẽ ra đi nội trong ngày nay.”

Tôi ngẩn ngơ nhìn vị đại tá ngồi nghiêm chỉnh trước mặt:

“Ngài đại tá, ngài có nói chơi không? Tôi sanh ra, lớn lên, sống ba mươi lăm năm tại non nước nầy giữa cha mẹ, thân nhân, bạn bè… và bây giờ ngài cho tôi hai tiếng đồng hồ để từ bỏ tất cả… xin ngài hãy nói là ngài nói chơi, chuyện nầy không có thật…”

Nước mắt tôi ứa ra và chắc là tôi có vẻ bi thương của một con thú sắp chết nên vị đại tá rộng lượng nhìn tôi :

“Tôi biết tình cảm của bà. Thôi bà hãy dẫn con về và ngày mai trở lại. Ngày mai, bà có nghe rõ không? Chuyện đầu tiên bà thức dậy ngày mai là cùng ba con lên xe đến đây. Tôi sẽ gởi người trung sĩ nầy đến nhà bà sáng mai.”

Tôi về nhà và cả nhà bắt đầu khóc. Tôi đi lên đi xuống thang lầu, mở các hộc tủ ra rồi đóng lại, ra sân thượng nhìn chậu cúc héo queo, xuống nhà bếp ngồi lên bộ ván ngựa,vô nhà tắm rờ rờ cái lon múc nước, ra phòng khách nằm lên võng đưa kẽo kẹt… Tôi như người mộng du, làm tất cả những hành động vô nghĩa đó với tiếng khóc hụ hụ.

Ba giờ chiều tôi gọi điện thoại cho vị đại tá biết là vì tôi bị xúc động nên đã động đến cái thai. Hiện giờ tôi đang ra huyết và bác sĩ cấm không cho tôi di chuyển cho đến ba ngày sau. Dĩ nhiên vị đại tá không dám giỡn với tánh mạng người khác nên phải đồng ý cho tôi thêm ba ngày nữa. Tôi không nghĩ là sau ba ngày đó tôi còn có được một giọt nước mắt nào nữa trong cuộc đời.

Ba má tôi không đi vì tôi có người anh đi tập kết: ông bà chờ sự trở lại. Anh rể tôi không đi vì là sĩ quan Cộng Hòa: sợ mang tội trốn lính. Chị tôi không đi vì theo chồng.

Ba đứa cháu trai theo tôi vì sợ sẽ phải bị đày đi lính. Một đứa cháu gái theo tôi vì sợ sẽ bị gả ép cho thương phế binh Cộng Sản.

Vì thế ba ngày sau tôi mang một bụng bầu tám tháng và bảy đứa nhỏ lên phi trường. Vị đại tá nhìn tôi như nhìn con quái vật:

“Xin lỗi bà, theo giấy tờ thì tôi chỉ có quyền cho bà và ba đứa con của bà đi. Hiện tại bà có tới bảy đứa! Tôi thật không thể giúp bà.”

Khi người ta phải phấn đấu cho sự sống chết thì can đảm và khôn ngoan ở đâu bất chợt hiện ra. Tôi nhẹ nhàng nói:

“Tôi hiểu thưa đại tá. Tôi không trách ông. Nhưng đây là những đứa cháu tôi nuôi từ nhỏ giống như con tôi vậy. Nếu ngài không cho chúng đi thì mẹ con tôi cũng xin ở lại.”

Vị đại tá bối rối nhìn tôi. Có lẽ ông đã biết rằng rồi thì Việt Nam sẽ mất, rồi thì một làn sóng người sẽ cuồn cuộn ra đi. Sớm một vài ngày, bốn đứa trẻ nầy có thấm gì đối với số người đang rần rộ chen lấn ngoài kia. Ông thở dài, ngồi xuống ghế ký cái công văn “eight months pregnant wife and seven children of US citizen need to be evacuated” rồi đưa cho tôi. Chúng tôi theo dòng thác người nhớn nhác ra đi.

Chúng tôi tới Camp Pendleton ngày 5 tháng 5 năm 1975. Anh đang đóng quân ở Ferndale, một tỉnh lẻ nhỏ nhắn hiền hòa chỉ có bảy ngàn dân, cách San Francisco sáu tiếng đường xe về hướng bắc. Lúc đó chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Xô vẫn tồn tại nên đây là một căn cứ hải quân rất quan trọng nằm trên một ngọn đồi cao ngó ra biển. Các đài radar tối tân được đặt cùng khắp để theo dõi các tàu ngầm xâm phạm bất hợp pháp vào hải phận Mỹ và California.

Khí trời California lúc đó là 75 độ mà mọi người lạnh cóng. Ðêm thứ hai tại camp, anh lái xe một lèo 16 tiếng để đến đón mẹ con tôi. Mười một giờ khuya một người lính Mỹ đến lều để dẫn tôi lên văn phòng nơi anh đang làm thủ tục.

Bạn có biết lúc đó tôi giống ai không?

Không Giống Ai Hết!

Ðây là một người đàn bà 36 tuổi, tóc hơi dính chùm lại vì cát bụi, mặt hỏm vào, gò má bị nám, mặc một cái áo dài xanh bên hông chỉ gài được một nút ở dưới nách vì thai bụng quá lớn, ngoài khoác một áo bầu thùng thình màu trắng, đầu trùm cái mền xám cột thắt dưới cằm, chiều dài mền thả phấp phới sau lưng. Le lói hơn nữa là người lính Mỹ trẻ thấy tôi run cầm cập nên cởi cái áo lính trận ra, trước mặt đầy những túi để dao găm, lựu đạn v.v… và trùm lên tôi. Tôi bước vào căn lều. Bàn làm việc nằm cuối phòng và anh đang đứng cúi xuống ký giấy tờ.

Chưa bao giờ trong đời tôi lại bước những bước chân nhẹ nhàng, nặng nề, tủi hổ, hoang mang, giải thoát, run sợ như lúc đó. Ðây là lúc bắt đầu cho những ngày tươi sáng với sum họp thương yêu, với nhà lầu chọc trời, với ngựa xe rộn rã, với tương lai đại học hay là lúc chấm dứt cho dòng sông Hậu hiền hòa với hàng dừa nặng trái, lúc từ giã những hàng me xanh thân yêu Trần Quý Cáp, lúc quay lưng lại với bến Ninh Kiều đằm thắm xinh tươi, lúc quì lạy cha mẹ quê hương nói lời vĩnh biệt?

Tiếng bước chân tôi làm anh quay lại. Anh bước tới ôm lấy tôi. Tôi cố gắng để khỏi ngất đi, quì xuống sàn nhà, tay ôm lấy mặt và nghẹn ngào: “Oh My God honey, I lost my family, I lost my country, I lost everything!” rồi tôi khóc nức nở. Anh quì xuống ôm đầu tôi. Anh cũng khóc. Tất cả người Mỹ trong phòng đều rưng rưng.

Ngày 13 tháng 6 năm 1975 tôi sanh cháu Jimmy. Tháng 9 tựu trường, tôi gởi hai đứa nhỏ nhất cho cô bạn, đi làm phụ giáo lớp một trường tiểu học Ferndale, hai đô la rưỡi một giờ.

Hè 1976, tôi đứng bán hot dog trong hội chợ và ba thằng lớn thì đi dọn rửa phân ngựa trong trường đua. Lúc đó chánh phủ Mỹ còn giàu nên cứ hai năm là các quân nhân được đổi tới một trạm binh khác. Tôi thấy tụi nhỏ rất buồn và sợ rằng sự dời chỗ thường xuyên sẽ làm tụi nó hụt hẫng vì xa bạn nên khuyên anh giải ngũ. Và chúng tôi dọn xuống miền Nam California, tỉnh La Habra.

Tôi thì để tất cả sự nghiệp lại Việt Nam, anh thì trước khi biến cố Việt Nam xảy ra, đã bị thua lỗ tất cả vốn liếng trong một vụ hùn hạp mở tiệm in với một nhóm dân sự nên chúng tôi hoàn toàn… sạch sẽ. Khi đi mướn nhà ở đường Dexford, La Habra, chúng tôi chỉ dẫn theo bốn dứa nhỏ nhất, hai trai hai gái. Chủ nhà là một người đàn ông Mỹ dễ thương, khi biết anh vừa giải ngũ thì rất vui vẻ nói:

“Ô, căn nhà nầy có ba phòng lớn, thật là lý tưởng cho gia đình ông bà với hai trai hai gái. Tôi rất vui lòng cho ông bà mướn.”

Chúng tôi dở khóc dở cười. Anh là người ít nói và chậm chạp nên tôi bèn duyên dáng cười cười nhìn ông

“Thưa ông, nếu tôi nói với ông là chúng tôi có tám đứa con thì ông có tin chúng tôi không?”

Lần nầy thì chủ nhà nhìn chúng tôi dở khóc dở cười. Ông ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

“Thôi được, tôi đồng ý cho ông bà mướn. Mỗi tháng tôi sẽ đích thân đến thâu tiền nhà. Hy vọng là mọi sự sẽ tốt đẹp.”

Ông đâu có biết rằng tên tôi là Lệ Hoa nghĩa là một bông hoa mỹ lệ, đẹp đẽ chớ chẳng phải là nước mắt của hoa nghe bạn. Vì thế tôi thích trồng bông, thích vườn tược. Tôi sanh ra và lớn lên ở Cần Thơ, bà con sống ở Ô Môn, Thới Lai, Phong Ðiền, Cờ Ðỏ nên mỗi mùa Hè chị em tôi thường về vườn đi cầu khỉ, chèo ghe, bắt ốc gạo, hái vú sữa. Cái chất vườn Nam bộ đã ăn sâu vào máu tôi nên hiện giờ nhiều người còn cho rằng tôi không có vẻ gì là sang trọng như người Việt Nam sống ở Mỹ. Biết sao!

Sau khi dọn vô, tôi và các con hì hục cuốc đất, đổ phân và biến cái sân trống rỗng của ông thành ra một cái vườn đầy hoa vạn thọ (đây là để honor má tôi vì bà rất thích bông vạn thọ). Tháng sau khi ông tới thu tiền nhà thì ông ngẩn ngơ và phán một câu, “Tôi không cần phải tới tận nhà thâu tiền nữa, bà cứ viết check gởi cho tôi là được. Cám ơn bà về những bông vạn thọ.”

Một vài người quen xúi tôi xin đi làm waitress vì nghề nầy tiền lương chẳng bao nhiêu nhưng tiền tip thì… ăn chết không hết. Trời ơi tôi nghĩ tới cái viễn cảnh, anh sẽ đi làm, tôi sẽ đi làm lại còn tiền hưu trí từ quân đội nữa thì quả nhiên là… ăn chết không hết! Tôi vội vàng vác đơn tới tiệm Red Lobster gần nhà xin việc. Người manager hỏi bà có làm waitress bao giờ chưa? Dạ chưa. Bà có khi nào làm chủ nhà hàng chưa? Dạ chưa. Cứ hỏi…bà có… bà có… bà có…. Cứ trả lời… dạ chưa… dạ chưa… dạ chưa… và thế là tiền ăn chết không hết chỉ là mộng ảo.

Tôi mua tờ báo thấy rao là “Chương trình CETA của chánh phủ sẽ trả tiền trường cho một năm học để giúp bạn học các nghề văn phòng như thơ ký, kế toán, phụ tá hành chánh v.v… Mỗi tuần chương trình sẽ tặng bạn bốn chục đô để di chuyển và sau khi tốt nghiệp sẽ kiếm việc làm cho bạn…” Tôi nói với anh đây chắc hẳn là một sự lường gạt vì làm gì lại có sự tốt đẹp như thế. Anh thì lớn lên đã nhập ngũ, phần nhiều thời gian nếu không lang thang trên biển cả thì cũng đóng quân ở một xứ khác ngoài Mỹ nên đối với xã hội dân sự cũng có chút bỡ ngỡ. Tôi hăng hái tới cơ quan xin vào chương trình thơ ký. Người phụ trách chương trình thấy tôi là người tị nạn, chồng lại là cựu quân nhân, hình dạng có vẻ nghèo nên thương tôi. Sau khi nói chuyện và đọc cho tôi viết một đoạn Anh văn, bà nhận tôi vào chương trình thơ ký. Khi tôi lui cui làm giấy tờ, bà dịu dàng hỏi:

“Bà có giỏi toán không? Làm nhân viên kế toán thì nhiều lương hơn thơ ký thường và rất dễ kiếm việc làm.”

Tôi không dám trả lời vì không biết “toán” của bà thuộc về loại gì nên ngập ngừng:

“Dạ tôi cũng không biết chắc.”

Bà lấy ra một bài thi toán đưa cho tôi. Ái dà, bà ơi. Có phải là bà đang chà đạp cái trường Gia Long của tôi không? Tôi là học sinh đệ nhất A đây nha bà, dù tôi không được như bà Dương Nguyệt Ánh ngày nay phát minh ra cái gì là bom tìm nhiệt thì ba cái 25% của 100 là bao nhiêu, 1/3 của 75 có lớn hơn 2/3 của 40 không v.v.. là cái chuyện nhắm mắt cũng trả lời được.

Đại gia đình tác giả chụp trong dịp Tết. (Hình: Tác giả cung cấp)

Một năm sau tôi được giới thiệu vào làm cho công ty nhà hàng Dennys, bộ phận kế toán xuất nhập.

Làm việc bảy năm tại Dennys tôi đã học được biết bao điều về gia đình, xã hội, dân tình Mỹ. Trong những buổi ăn trưa tôi học đan áo, học móc khăn, học cách nấu món ăn Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, học cách dạy con, cách đối xử với chồng, học cách không bao bạn ăn để rồi kể lể khi giận hờn nhau, mà mạnh ai nấy móc túi trả phần mình và tình bạn thì không bao giờ sứt mẻ.

Những người bạn ngoại quốc mới nầy giúp tôi hoàn thiện ngôn ngữ, hiểu rõ những tiếng lóng, sử dụng thành thục những thành ngữ, trả lời điện thoại một cách chuyên nghiệp.

Giúp tôi biết nói cám ơn với con cái. Biết dằn lòng không mở thư của chúng ra kiểm soát. Biết chỉ dẫn chúng tự thực nghiệm cuộc đời hơn là bao che lầm lỗi. Biết nói xin lỗi khi phạm phải sai trái.

Biết văn minh không phải là mặc áo hở ngực hở mông mà là tuân thủ theo Hiến Pháp. Biết tự do không phải là mạnh ai nấy làm mà là kính trọng nhân vị của chính mình và của đồng loại. Biết thành công là nhờ vào sự mẫn cán, học hỏi, cầu tiến chớ không nhờ vào nịnh bợ lấy lòng.

Biết các sắc dân khác cũng đầy thương yêu và nhiều đau khổ. Biết kính trọng người Mỹ đen. Biết thương yêu người Mễ nghèo.

Họ cười lăn lóc với cái accent Á Ðông của tôi nhưng họ không chê tôi dốt nát. Họ chỉnh sửa lại những tiếng tôi dùng sai trật nhưng không có ý khinh khi. Họ không đánh giá tôi cao vì tôi đến từ gia đình trưởng giả như tôi khoe khoang. Họ không nhìn tôi thấp kém vì tôi thuộc third world country như báo chí thường đăng tải. Họ nhìn tôi giống như họ, một người vợ, một người mẹ đang cố gắng kiếm tiền một cách lương thiện để giúp chồng nuôi dạy đàn con.

Chín mươi phần trăm nhân viên kế toán là đàn bà. Ðây là những bà mẹ, bà vợ ban ngày làm toàn thời gian, chiều về nấu ăn chăm lo con cái, cuối tuần giặt giũ, lau chùi nhà cửa, dạy con làm bài tập, đi chợ, đi chơi với gia đình. Họ sống bình thường mà còn giỏi hơn tôi là đằng khác.Vậy mà khi xưa tôi cứ nghĩ đàn bà Mỹ là đồ bỏ. Tôi mang tội khinh người. Khi ở Việt Nam tôi ít khi nào giặt quần áo cho tôi, cho chồng, cho con. Tôi chưa khi nào lau chùi cầu tiêu, thức khuya dậy sớm cho con bú, kiểm soát từng bài văn điểm toán cho con. Tất cả đều có anh tài xế, chị vú, anh bồi, chị bếp, cô giáo dạy kèm. Biết bao người đã than trời trách đất rằng sống ở đây sao mà cực quá, xã hội gì mà sướng đâu không thấy chỉ thấy cái gì cũng tự mình làm, thời gian hưởng thụ chẳng bao nhiêu mà làm việc thì quay tròn như chong chóng chẳng lúc nào ngừng. Cực ơi là cực. Chỉ chăm chăm muốn về Việt Nam hưởng thụ.

Bạn ơi, bạn hãy dừng chân một bước. Bạn hãy mỉm cười cầm từng món đồ dơ bỏ vào máy giặt, nhìn vết bẩn trên chỗ đầu gối và hình dung lại gương mặt mếu máo đáng yêu của con nhỏ khi té quị xuống bãi cỏ, nhớ lại ánh mắt chờ mong tin tưởng của con khi mẹ đến đỡ lên.

Bạn hãy nhìn cả nhà húp sột soạt chén canh bầu, cùng chia nhau miếng sườn nướng, cuộn chả giò. Bạn hãy cúi xuống đứa bé đang nở nụ cười ngây thơ chờ mong bình sữa bạn đang đu đưa trước mặt. Bạn hãy vừa xào món tàu hủ vừa trả lời thằng con đang cắm cúi làm bài tập bên kia bàn là Los Angeles không phải là thủ phủ của California con ơi. Thủ phủ của CA là Sacramento hoặc square of three is not three, it’s nine. Và năm phút sau đứa con vui vẻ đứng dậy: “Thank you mom (or dad). My home work is done.”

Ðây mới chính là lúc bạn sống, là lúc mà bạn xuyên thủng qua lớp giáp để linh hồn và huyết nhục bạn và gia đình cùng hòa quyện vào nhau. Ðây chính là lúc hột mè trí tuệ nảy nở trong các con do bạn gieo xuống, lúc hạt giống tình yêu thẩm thấu vào linh hồn chúng do bạn cày cấy vào. Chúng sẽ lớn lên với ân cần bạn gởi vào chén cơm, với giúp đỡ bạn xẻ chia trong bài tập, với thương yêu bạn vuốt thẳng áo quần, với mồ hôi bạn chảy dài trong trận đấu.Và vợ chồng bạn có cùng một trận tuyến, cùng một hướng đi.

Tôi đã từ bỏ quê hương điêu tàn, đã quay lưng với tương lai đen tối. Tôi đã chọn một nơi khác để cất nhà, một miếng đất khác để gieo hạt. Tôi đã dùng nước sông của họ để tưới tẩm, dùng đồi núi của họ để chăn nuôi. Tôi đã dùng chất xám của họ để tiến thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn. Tôi không bao giờ quên dòng máu Việt trong tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nhìn non nước nầy, dân tộc nầy với một ánh mắt hờ hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ rúng. Tôi sẽ không coi đây chỉ là một mảnh đất tạm dung và ngồi khóc thương cho một khung trời đã mất, mơ tưởng về một dĩ vãng đã tàn phai.

Tôi sẽ hòa vào các chủng tộc khác nhau, rơi lệ khi thấy tòa nhà chọc trời sụp đổ, đau thương khi nhìn xác lính được chở về, hân hoan khi nghe bài quốc ca trong các cuộc tranh tài. Tôi sẽ dạy các con cùng tôi nhận nơi nầy làm quê hương, sẽ đem tất cả khả năng lao động hay học vấn đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia nầy.

Thay vì trồng cây cổ thụ tạm thời trong một cái chậu nhỏ để nó chỉ được lớn èo uột trong bóng râm, tôi và gia đình muốn đào một hố sâu, đổ đầy phân bón, tưới tẩm nó với tất cả ân cần, săn sóc nó với tất cả sức lực để cho rễ mạnh nó ăn sâu vào lòng đất, cho tàn xanh nó tỏa rộng khắp không gian. Chúng tôi không tạm dung. Chúng tôi mọc rễ và yêu thương quê hương nầy. Rồi một ngày nào đó, ở bên kia góc trời có cần tới một bóng mát bình an, chúng tôi sẽ chiết bớt một nhánh cổ thụ đem về…

Chúng tôi chỉ có thể làm như thế khi chúng tôi nhận nơi nầy làm quê hương.

Nhặt chiếc nhẫn rơi – chuyện cổ tích giữa đời thường

Nhặt chiếc nhẫn rơi – chuyện cổ tích giữa đời thường

Một ngày nọ, ông Billy Ray Harris – một người lang thang 55 tuổi, ăn xin tại đầu đường Kansas (năm 1861 được công nhận là tiểu bang 34 thuộc miền Trung nước Mỹ). Một cô gái tên Sarah Darling đi ngang qua, cho vào trong chén của ông một ít tiền, nhưng cô không chú ý rằng chiếc nhẫn trên tay cũng vô tình rơi vào chén.

Sau khi Billy thấy, ông muốn bán chiếc nhẫn đi, có chủ tiệm ra giá 4000 đô-la. Đối với một người lang thang mà nói, đó đúng là một số tiền to lớn, nhưng Billy nghe xong lại do dự…

Sau mấy ngày cân nhắc, Billy quyết định đem chiếc nhẫn trả lại cho người đã mất. Ông ngồi đợi và trả nhẫn lại cho Sarah.

Khi Sarah nhận lại chiếc nhẫn đã mất của mình, cô vô cùng cảm kích, bởi vì đó là chiếc nhẫn đính hôn của cô, ý nghĩa vô cùng to lớn. Để tỏ lòng cảm ơn, Sarah và người chồng hứa hôn của mình quyết định quyên tiền cho Billy, giúp ông có một cuộc sống bình thường như mọi người. Lúc ấy, hai người cho rằng có lẽ được vài ngàn thôi, không ngờ nhiều người sau khi nghe câu chuyện đó, đều rất cảm động, ba tháng sau đã quyên được gần 190 ngàn đô-la.

https://daikynguyenvn.com/wp-content/uploads/2015/02/billy-va-sarah.jpg
Ảnh Billy và vợ chồng Sarah.

Billy dùng số tiền đó mua nhà, mua xe, nhưng vận may vẫn chưa hết.

Sau khi câu chuyện của Billy được truyền thông đưa tin, người chị thất lạc 16 năm thấy ảnh ông trên tivi, cuối cùng đã tìm được ông. Ông cứ nghĩ rằng người chị này đã qua đời.

https://daikynguyenvn.com/wp-content/uploads/2015/02/billy-va-gia-dinh.jpg

Billy và người nhà đoàn tụ.

Cứ như vậy, Billy không chỉ có tiền, tìm lại được gia đình, mà còn có người bạn tốt là Sarah và gia đình cô.

Sau khi Sarah kết hôn, cô có một đứa bé. Cô nói sẽ kể cho con của cô rằng Billy đối với gia đình cô quan trọng thế nào. Hơn nữa, câu chuyện chân thật này sẽ giúp đứa trẻ hiểu được điều gì là đúng, điều gì là sai. Như vậy, nhiều người đã hợp sức để thay đổi cuộc đời một người xứng đáng với sự trợ giúp đó.

Bây giờ, khi mọi người nhìn thấy Billy, họ không phải bố thí nữa, mà là nắm tay ông, chúc mừng ông.

Billy nói, khi nhớ lại nỗi khổ trước kia, ông vô cùng cảm tạ các vị Thần đã cho ông cơ hội này, cho ông quay lại cuộc sống của một người bình thường. Ông sẽ sống thật tốt, để những người trợ giúp ông biết tấm lòng của họ không hề uổng phí.

Đây thật giống một câu chuyện thần thoại, các vị Thần để một kẻ lang thang nhặt được chiếc nhẫn, thử thách lòng tham của ông, kết quả kẻ lang thang vượt qua được cám dỗ, từ đó về sau sống một cuộc sống hạnh phúc.

Qua câu chuyện này, phải chăng có thể nói rằng, khi chúng ta làm việc tốt, bằng cách này hay cách khác chúng ta sẽ luôn nhận được những điều tốt đẹp cho tương lai của mình?

https://daikynguyenvn.com/wp-content/uploads/2015/02/chiec-nhan-thay-doi-van-menh-billy.jpg

Chiếc nhẫn cải biến vận mệnh của Billy

Anh chị Thụ Mai gởi