Vạn vật đều có tánh linh

Vạn vật đều có tánh linh

Tôi đã từng chứng kiến một cảnh chết rất bi tráng. Cái chết đó làm rung động cỏi lòng sâu thẳm của tôi. Từ đó tôi nguyện suốt đời không làm tổn hại bất cứ một sanh mạng cho dù là bé nhỏ…

Một lần nọ đi săn Linh dương, chúng tôi được chứng kiến đời sống và bản chất của chúng.

Linh dương có hình dạng giống sơn dương nhưng có khiếu nhảy rất giỏi, mỗi con trưởng thành nặng khoảng 30 kg ,tính tình thuần hậu , là loại động vật mà bọn thợ săn thích nhất. Lúc đó đội săn bắn chúng tôi bí mật bao vây khắp vùng nơi một đàn linh dương đang cư trú, áp hơn 60 con linh dương vào mõm đá trên vách núi cao, nghĩ rằng như thế sẽ làm cho chúng rơi hết xuống mà chết cho đở lãng phí cung tên.

Nhưng không ngờ, khoảng 30 phút sau, một con linh dương đực đột nhiên kêu lên một tiếng. Tất cả linh dương lập tức phân thành hai nhóm: môt nhóm già và một nhóm trẻ.Tôi nhìn rất rõ nhưng không hiểu vì sao chúng lại phân theo già trẻ như vậy. Lúc đó, một con linh dương đực từ trong nhóm già đi ra, con này lông dài xuống ngực, trên mặt có nhiều nếp nhăn ngang dọc, hai cái sừng bị mòn đi. Vừa nhìn tôi đã biết con linh dương này già lắm rồi. Nó đi ra đứng phía trước, nhìn về hướng nhóm trẻ kêu một tiếng “be”. Một con linh dương trẻ liền bước ra. Một già một trẻ của hai nhóm đi đến vách núi đoạn mệnh. Sau đó lui lại vài bước, đột nhiên con linh dương trẻ hướng về trước chạy như bay, liên tiếp linh dương già cũng chạy theo. Con trẻ chạy đến ranh giới của vách đá, rùng mình một cái, hướng về phía khe suối đối diện mà nhảy. Con già liền kế theo sau cũng từ vách núi đá mà nhảy. Cứ một trẻ một già thời gian nhảy có trước sau một chút, tư thế nhảy cũng có khác. Con già nhảy thấp hơn , có nghĩa là có trước có sau, có cao có thấp.Tôi rất kinh ngạc, lẽ nào chết cũng phải từng đôi sao? Tôi nghĩ những con linh dương này trừ khi có ráp cánh mới nhảy qua được vách núi bên kia. Đúng vậy, con trẻ vừa nhảy được khoảng 5,6 mét thì rớt xuống ,trên không trung vẽ ra một đường cong rất đáng sợ. Tôi nghĩ nhiều nhất là vài giây nó sẽ rơi vào trong sâu thẳm. Đột nhiên một việc lạ xuất hiện. Con linh dương già nhờ vào kỷ thuật thành thạo của mình, tại chổ con trẻ từ điểm cao nhất trong nháy mắt nhảy xuống và toàn thân xuất hiện ở dưới móng của con trẻ, những con linh dương trong nhóm già nắm thời gian rất chính xác, ngay lúc mà toàn thân xuất hiện ở dưới móng của con trẻ thì cũng đúng lúc thời điểm cao nhất của đường cong nhảy, giống như hai chiếc tàu vũ trụ ở trên không trung hoàn thành nhiệm vụ tiếp nhận, bốn móng chân của nhóm trẻ đạp mạnh trên lưng của những con già, giống như nhờ vào cái cầu để nhảy qua vậy, nó ở trên không trung lại nhún một lần nữa và rơi xuống đất lại một lần nữa dồng lên cao. Mà các con linh dương trong nhóm già giống như xác phế của tên lửa đã di chuyển hết chất đốt sau đó tự động rời khỏi tàu vũ trụ,thậm chí nó càng bi thảm hơn xác phế tên lửa,sức mạnh của những con linh dương trẻ đạp nhún xuống giống như đôi cánh của con chim bị gãy ngang rớt thẳng xuống đất. Nhưng sức của những con trẻ nhảy lần thứ hai không xa như lần thứ nhất Độ cao cũng chỉ bằng nữa lần trước nhưng cũng đủ để vượt qua khoảng cách hai mét cuối cùng.Trong nháy mắt chỉ thấy những con linh dương trẻ rơi xuống ngọn núi đối diện thích thú kêu lên một tiếng “be” quay qua tảng đá đằng sau khuất dạng, cú nhảy đã thành công.

Lúc gấp gáp từng đôi từng đôi từ trên cao vòi vọi nhảy xuống, vùng cao trên khe suối như vẽ ra những đường cong làm người ta rối tung, thì từng con linh dương già đã rơi xuống thịt nát xương tan.

Tôi không ngờ đến giờ phút đồng loại sắp tuyệt diệt thì đàn linh dương đã nghĩ ra biện pháp hy sinh một nữa để giành lại một nữa cơ hội sanh tồn cho đồng loại.Tôi càng không nghĩ đến những con linh dương già sao mà ung dung khoan hồng chọn lấy cái chết, cam tâm tình nguyện, bỏ thân mệnh mình mở ra một con đường sống còn cho đời sau. Tôi vì thế mà cảm động nên từ đó về sau thề không sát hại. Do tận mắt nhìn thấy một cảnh chết vô cùng bi tráng làm rung động lòng tôi. Tôi cảm thấy rất xấu hổ. Từ đó về sau, nguyện không sát hại bất cứ một sanh mạng nào dù là rất nhỏ.

Vạn vật đều có tánh linh

Một buổi tối cuối thế kỷ 20, lúc ở trường đại học Hồ Nam khi xem một màn ảnh làm cảm động trời đất, tôi không cầm lòng được khóc ré lên!

Tỉnh Thanh Hải có một vùng sa mạc thiếu nước trầm trọng, mỗi người một ngày chỉ dùng 2 lít nước do đội quân đóng quân ở rất xa vận chuyển lại. Hai lít nước không chỉ dùng để uống, mà còn vo gạo, rữa rau… còn phải cho gia súc kéo uống, gia súc kéo thiếu nước không thể được, khát à!…

Có một ngày, bổng ở đâu hiện ra một con bò già, mà được mọi người cho là nó rất trung thành và thật thà. Nó quá khát giẫy giụa tuột ra khỏi dây cương mạnh mẽ xông vào con đường trong sa mạc mà đoàn xe chuyển nước đi qua, đợi một hồi đợi đoàn xe chuyển nước đến, nó chạy nhanh đến đứng sững giữa đường. Các chiến sĩ chuyển nước trước đây cũng đã gặp qua tình hình chặn đường của những con gia súc như vậy nhưng những con động vật trước không buất khuất kiên cường như con bò này.

Đoàn vận chuyển nước có quy định. Xe chuyển nước giữa đường không để mất đi một giọt, càng không thể tuỳ tiện cho nước. Những quy định này xem ra cũng thật khắt khe nhưng vì bất đắc dĩ. Từng giọt nước này đều là khẩu phần của mỗi người rồi.

Trong sa mạc người và vật đều như vậy, nó đứng đó một hồi lâu như vậy , thậm chí làm tắt đường, các tài xế phía sau bắt đầu chưởi rũa. Có vài tài xế tính tình nóng nảy dùng dầu châm đốt con bò tội nghiệp đó nhưng nó vẫn không động đậy, kiên cố như núi Thái, không chịu dùn bước. Đến khi chủ nó tìm đến, ông ta rất hổ thẹn nắm một cây roi dài quất lên trên thân yếu ớt của nó. Toàn thân như nát nhừ, không thể đi được, cây roi cũng nhuốm đỏ màu máu, nhuốm đỏ thân nó, nhuốm đỏ cả một vùng cát vàng sa mạc và nhuốm đỏ cả một buổi chiều tà. Nó kêu lên một tiếng thảm thiết hoà với tiếng gió tàn khồc u ám lạnh lẻo của sa mạc hiện ra cảnh tượng sao mà bi tráng. Người tráng sĩ đứng kế bên bật khóc, người tài xế bị cản xe cũng oà lên khóc. Cuối cùng, người tráng sĩ nói: “thôi, để tôi vi phạm luật lệ vậy. Tôi chấp nhận xử phạt”. Anh ta cầm bát của mình lấy khoảng 2 lít nước trong xe để trước mặt con bò, nhưng nó không uống bát nước trước mặt mà nó đã cực khổ có được, nó ngước mặt lên trời rống lên một tiếng dài, dường như nó đang kêu gọi.Trong ráng chiều, không xa từ phía sau đống cát chạy ra một con bò con. Con bò mẹ bị thương nặng nhìn con bò con tham lam uống sạch bát nước, le lưỡi ra liếm liếm đôi mắt đáng thương của bò con. Con nghé cũng liếm mắt mẹ. Mọi người lẳng lặng nhìn. Những giọt nước mắt chảy dài của tình mẫu tử lăn xuống .

Tia nắng cuối ngày đã tắt, hai mẹ con không đợi chủ gọi, lặng lẻ cùng chúng tôi đi về. Một buổi tối của cuối thế kỷ 20, khi tôi xem cảnh này trên ti vi, tôi hiểu ra cái khổ của mẫu thân. Tôi và vô số những người đang ngồi trước ti vi đã bật khóc, những giọt nước mắt nóng hổi cuồn cuộn trào ra.

Vì thế, tôi thành kính khẩn cầu quý vị xem xong mẩu chuyện này nên đối xử tốt với tất cả những sanh mệnh dù lớn hay nhỏ xung quanh ta bởi vì chúng đều có tính linh, đều có cha mẹ, con cháu, gia đình của chúng. Chúng cũng như con người chúng ta, đều có khát vọng được vui vẽ, hạnh phúc. Chúng ta thế nào đành lòng làm tổn hại chúng ư? Lại cầu mong bạn hãy đối xử tốt với mẹ, bởi vì đối với chúng ta, mỗi người mẹ đều có tình thương đậm đà và thắm thiết hơn con bò mẹ kia rất nhiều!…Xin thành tâm, thành tâm khẩn cầu tất cả đều biết yêu thương và tôn trọng mạng sống lẫn nhau để có một cuộc sống thật bình yên. Xin kính chúc tất cả quý vị đều hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc của cuộc sống.

Trích Internet- Như Nguyện dịch

 

Nhật ký một bạn tù!

Nhật ký một bạn tù!

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Tôi quen biết cả hai vợ chồng anh Nam. Gia đình chị Nam là nạn nhân của cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”. Cha chị, anh Khoa, là bạn học của tôi ở trưởng tiểu học xã. Lúc tôi làm việc ở Bệnh viện Đà-Nẵng, thì anh là xã trưởng xã Giao Hòa, gần quê tôi. Cha anh bị liệt vào hàng phú nông, đã bị du kích VC ở xã chôn sống, thời chống Pháp, chỉ vì ông chỉ trích biện pháp “tiêu thổ kháng chiến” trong đám giỗ gia đình ông. Người chỉ huy vụ thủ tiêu ông, là cháu kêu ông bằng bác, tên Cội. Cái “giỏi” của Cộng sản, là có thể khơi dậy ở người cháu lòng căm thù, để giết bác ruột. Khoa, lúc ấy, cũng là du kích, chứng kiến cái chết thê thảm của cha, mà không làm gì được. Sau đó, anh lẻn ra vùng Quốc Gia, và thề trả thù cho cha. Anh đã dẫn lính Bảo An, trong đêm tối phục kích tiểu đội du kích VC ở xã, và giết chết Cội. Thời Đệ nhị Cộng Hòa, xã Giao Hòa nằm trong vùng tranh chấp. Ban ngày, Khoa cùng Địa Phương Quân về đóng trong làng, ban đêm rút về quận. Con của Cội, lúc ấy, là “chủ tịch xã” (VC) ban đêm thường hay lẻn về đe dọa dân chúng, và thâu lúa gạo của dân.

Tết Mậu Thân, 1968, con của Cội cùng “bộ đội” miền Bắc đột nhập quận, bắt được Khoa. Chúng dẫn Khoa về làng Giao Hòa, họp dân chúng lại, mở “tòa án nhân dân” xử Khoa, chúng hành hạ Khoa rất tàn nhẫn trước khi giết chết. Chị Khoa, vận đồ tang, về làng xin xác chồng đem về chôn tại quận. Bọn Cộng sản đã không cho, lại giết chết luôn chị Khoa, chỉ vì quá uất hận, chị đã thốt lên những lời mỉa mai trong khi khóc lóc trước mộ chồng.

Hai vợ chồng Khoa chỉ có một cháu gái tên Thu, lúc ấy mới 10 tuổi. Thu bơ vơ được ông Quận trưởng Đại Lộc, Quảng Nam, nhận về nuôi cho đi học. Nam cùng quê với tôi. Cha chết sớm, vì ăn phải nấm độc, trong nạn đói thời “kháng chiến chống Pháp”. Mẹ Nam ở vậy nuôi con. Khi đồng quê mất an ninh, bà ra Đà-Nẵng giúp việc trong nhà cho tôi. Nam đậu Tú tài, vào học trường Nông Lâm Súc. Ra trường, thì bị động viên vào trường Võ Bị Thủ Đức. Nam được chọn đi học khóa Tâm Lý Chiến, rồi về phục vị tại sư đoàn 1. Ông quận trưởng, cha nuôi Thu nay là Đại tá Trung đoàn trưởng, cấp trên của Nam. Thấy Nam chăm chỉ, hiền lành, ông đã cố ý tạo cơ hội cho Nam và Thu gần nhau, hiểu nhau. Đám cưới hai người do tôi tổ chức vào cuối năm 1974. Hai vợ chồng ông Đại tá không có con, lại có căn nhà lớn ở Đà-Nẵng, nên đôi tân hôn sống chung với ông bà.

Cuối năm 1978, Sĩ quan trại tù Kỳ Sơn chuyển lên trại “cải tạo” Tiên Lãnh. Trước đó mấy ngày, tù chính trị và phần lớn các đội lưu động chuyển đi “trại thôn Năm”, để chỗ cho “trại viên” mới. Một chiều ảm đạm, các trại viên cũ đều bị nhốt lại trong phòng, cửa sổ đóng kín. Nghe tiếng máy nhiều xe cam nhông đổ lại trước cổng trại. Tôi lúc ấy làm y tế trại, được lệnh ra nhận thuốc Tây mà các vị Sĩ quan mang theo, để nhập vảo tủ thuốc ký gửi. Các “cán bộ” trại đang ráo riết lục soát “trại viên” mới. Từng đống áo quần treillis, giày da đi trận, xắc đeo lưng bị tịch thu. Đồng hồ, bút máy, nhẫn đeo tay, tiền giấy phải đem ký gửi. Mỗi người nhận lại hai bộ đồ vải màu xám với một ít dồ dùng cá nhân. Công an đã đánh phủ đầu bằng cách lột sạch di tích tù binh, và nhắc nhở một kỷ nguyên thường phạm khắc nghiệt bắt đầu. Tôi gặp lại Nam, nhìn nhau mà không dám nói một lời. Vài tháng sau, Nam được ra làm chăn nuôi, nhờ có bằng kỷ sư Nông lâm súc. Lúc đầu chỉ ra chăn nuôi ban ngày. Ban đêm phải trở về ngủ chung trong phòng giam. Nam vốn ít nói và hiền lành, lại cứu được nhiều gia súc trong một nạn dịch, nên được “quản giáo” chăn nuôi dần dần tín nhiệm, đưa ra ở hẳn trong trại chăn nuôi. Thường ngày Nam dẫn một đàn bò độ 30 con, đi ăn trên những đồng cỏ quanh trại. Tuy không có thăm nuôi, song Nam không thiếu thốn nhiều về ăn uống. Nhờ lang thang với bầy bò, Nam có dịp “cải thiện” bằng cách bẫy chim và thú rừng, đào sắn. Anh cũng trồng rau, bầu bí quanh khu chăn nuôi. Mỗi khi bò đẻ, Nam lấy nhau nấu ăn. Nam cũng hay cho tôi đồ “cải thiện” mỗi khi có dịp vào trại khám bệnh.

Một lần đi đỡ đẻ cho một sản phụ ở bệnh xá dân, tôi có dịp đi ngang qua gò đất mà Nam hay đem bò ra đó gặm cỏ. Đỉnh gò có một miếu hoang, tường gạch, mái ngói, song mang dấu tàn phá của thời gian. Miếu nằm trọn vẹn dưới bóng mát của một cây đa to lớn, có nhiều rễ phụ. Bên cạnh miếu có một nghĩa địa nhỏ. Nam cho biết là có quen một giáo viên chế độ cũ (VNCH), bị đày lên dạy ở trường tiểu học gần đó. Anh nầy thường gửi thư giúp Nam qua bưu điện, khỏi sự “kiểm duyệt” của trại. Nam dẫn tôi vào miếu và chỉ chỗ kín, để khi nào có dịp ghé qua, mà không có Nam, thì giấu thư vào đấy, và Nam sẽ gửi đi giúp. Tôi đã dùng lối nầy gửi thư về nhà vài lần cho đến khi Nam được phóng thích.

Nam ra trại được hai năm, thì bỗng một hôm, nghe nói có một “trại viên” cũ, treo cổ chết ở một cây đa ngoài trai. Lúc ấy, tôi không còn làm y tế nữa, không có dịp để kiểm chứng người chết là ai, song tôi vẫn ngờ ngợ người ấy là Nam. Cho đến khi tôi dược phóng thích. Tôi trở lại chỗ miếu hoang; vào chỗ kín mà trước kia tôi giấu thơ cho Nam gửi về nhà, xem thử. Nếu quả thật Nam đã trở lại đây tự tử, chắc Nam sẽ để lại cho tôi một lá thư tuyệt mệnh. Nam để lại cho tôi không những một lá thư, mà cả một tập nhật ký, viết trên những tờ giấy rời. Kể từ lúc Nam chết cho đến giờ đã năm năm rồi. Tập nhật ký bị mối mọt đục nhiều chỗ, phải dồn vào một bao nylon. Tôi trở ra, đứng dưới gốc cây đa, xem thử Nam đã treo cổ ở cành nào. Lá đa xanh nghít, xào xạc. Dưới chân đồi con sông lượn khúc, khói lam quyện vào mái tranh một căn nhà ven sông, vươn lên bầu trời xanh thẳm. Nam đã chọn chỗ để an giấc nghìn thu. Mộ Nam là một nấm đất nhỏ, cỏ mọc lưa thưa, trong nghĩa địa cạnh miếu. Một tấm bảng gỗ mang tên họ Nam cùng với ngày tháng chết cắm ở chân mộ. tôi quỳ xuống cầu nguyện cho Nam, mặc dù lúc sống, Nam là một Phật tử. Đang lúc suy tư, tôi nghe tiếng chân đạp trên lá sau lưng. Tôi quay lại, thì một trung niên bước tới giới thiệu. Hóa ra là ông giáo viên tiểu học, thường chuyển thư cho Nam ngày xưa. Ông với Nam đã thành bạn thân. Chính ông đã nhận là bà con với nam và xin với xã được chôn cất Nam trong nghĩa địa bên miếu. Ông kể là Nam đã ở lại nhà ông một đêm. Sáng ra Nam lên đồi và không trở lại nữa. Nam còn cẩn thận gửi cho ông giữ một số tiền vừa đủ để chôn cất Nam, trước khi ra đi. Ông cũng chôn theo Nam lon gô mà Nam đeo trên vai, bên ngoài có ghi: “tro của em yêu dấu”. Tôi cám ơn tấm thịnh tình của ông. Về Saigon, tôi giở nhật ký Nam ra xem:

“02-09-79. Hôm nay “quốc khánh XHCN”. Trước kia, miền Nam không có ngày lễ nầy, vì phe Quốc Gia mặc nhiên xem ngày đó là trò hề, khởi đầu cho “cách mạng vô sản quốc tế”, loại bỏ dần dần mọi tham gia của người yêu nước thuần tuý không Cộng Sản. Tất cả trại viên” đều được nghỉ lao động. Riêng chăn nuôi, thì phải dẫn bò đi ăn. Nằm dưới gốc cây đa, thấy những lá non gió đẩy đung đưa trên nền trời xanh, lại nhớ bài thơ:của Huy Cận

“Nằm im dưới gốc cây tơ,

Nhìn Xuân trải nhựa muôn tờ lá non:

Giữa trời hình lá con con,

Trời xa sắc biển lá thon mình thuyền.

Gió qua là gió triều lên,

Hây hây gió đẩy thuyền lên biển trời.

Chở hồn lên tận chơi vơi,

Muôn chèo của nhạc, muôn lời của thơ.

Bâng khuâng như thể bao giờ,

Lênh đênh nào biết bến bờ là đâu!”

“Cuộc đời có lắm buồn phiền, là bể khổ. Có những phút phiêu diêu như thế này, để quên thân phận tù đày. Vẫn nhớ Thu không nguôi. Lời bài hát “Nắng chiều” làm anh nhớ đến lúc chúng mình mới quen nhau: “Anh nhớ trước đây, dáng em gầy gầy, dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh”. Mẹ đã trở về làng cũ Túy La, sống với gia đình chú Chín, giúp chú làm tằm. mỗi năm mẹ thăm nuôi hai lần, cũng đơn sơ, đạm bạc. Mẹ cũng không có tin tức gì về Thu.

07-10-79. Gửi thư về cho Thu nhiều lần với địa chỉ nhà cũ ở Đà-nẵng, nhưng không có hồi âm. Không biết bây giờ, em trôi giạt về đâu. Chúng mình lạc nhau ngay ở bờ biển Sơn Chà (Sơn Trà) khi nhóm binh sĩ và sĩ quan Biệt động quân đứng thành vòng tròn, mỗi người trên tay một quả lựu đạn đã mở chốt. Khi họ la lên là “đồng bào hãy tránh xa”, anh và em mạnh ai nấy chạy. Nghe một loạt nổ chát chúa và hơi gió tạt từ sau đến. Họ tự tử tập thể, chắc là vì quá tuyệt vọng. Khi anh trở lại hiện trường, thấy cảnh người chết banh thây, mùi máu tanh tưởi, anh vội rời xa, vì nghĩ chắc là em đã thoát. Rất tiếc, là trong lúc hốt hoảng, anh quên không nắm tay em cùng chạy. Mặc dù lúc đó Việt cộng đang ở đèo Hải Vân bắt đầu pháo kích vào Sơn Chà, anh vẫn vừa chạy vừa ẩn núp, để tìm em. Tìm mãi em không được, anh trở về nhà cha nuôi em, song nhà vắng tanh. Anh ở lại đó, chờ em về. Song vẫn biệt tăm. Nghe lịnh “ủy ban quân quản” thành phố, anh ra trình diện, và bị tập trung vào Vĩnh Điện, rồi Kỳ Sơn…” (nhật ký bị rách nát nhiều trang không đọc được).

“… Xa em đã gần bốn năm. Chúng mình sống bên nhau chưa đầy sáu tháng. Những kỷ niệm thân thương không hề phai nhạt:

Bốn năm trời xa em,

Chúng ta mất biết bao ân ái mặn nồng.

Nhớ đến lúc bên nhau hai đứa trần truồng…

Khắn khít uyên ương, thiên đường nguyên thủy…

Anh quỳ bên em ngất ngây thờ lạy,

Vẻ mỹ miều của thân thể trinh nguyên,

Anh hôn lên vầng trán bình yên,

Lên đôi má hây hây say tình e thẹn.

Lên đôi môi nở hoa dâng hiến,

Ôi ngọt ngào là miệng lưỡi của em.

Hơi thở thơm tho, anh mãi mãi thèm…”

(bài thơ lại bị mối đục thủng đoạn kế tiếp). Một mảnh giấy rời, có câu thơ còn đọc được. Bài thơ chắc dài, chỉ còn chục câu, gợi nhớ thương, lo lắng cho vợ lúc đi chăn bò.:

“Gió sớm mai mát rượi, như bàn tay yêu thương,

Biết bao giờ trở lại bên em, ôi cả một thiên đường!

Tiên Lãnh vào Thu, núi rừng đẹp lắm:

Trời lộng xanh cao, cỏ đồi dệt thảm,

Lấp lánh, lao xao, chạy theo nắng ấm,

Vẳng bên tai, chim gió, hát lưng trời.

Cảnh vật an bình, xao xuyến lòng người,

Ngồi dưới gốc cây đa, bên ngôi miếu cổ,

Nhìn đàn bò thong dong gặm cỏ,

Mà tâm hồn bay bổng, hướng về em.

Em ở nơi mô, cuộc sống có êm đềm!

Mà chẳng đến thăm anh tù đày khốn khó?

Lo cho em, chắc nhiều trắc trở,

Xin cầu Trời phù hộ cho em.

20-09-80. Được phóng thích ngày 28-08-80, nhân dịp “quốc khánh”. Trong giấy ra trại cho về nguyên quán làng Túy La. Hai mẹ con dựng một nhà tranh nhỏ, trên miếng đất ngày xưa, sớm chiều có nhau. Kỷ niệm thơ ấu, những ngày hồi cư đói khát, cha chết, không có vải làm khăn tang, trở lại trong giấc ngủ đầy ác mộng. Việc đầu tiên là tìm tông tích của Thu. Lên Giao Hòa hỏi thăm, chẳng có đầu mối gì, chỉ biết thêm là người giết cha mẹ Thu, đã vào tù vì tham nhũng, khi hắn ta làm “chủ tịch Hợp tác xã nông nghiệp quận”. Nghe nói, là hắn “có thể bị xử tử”.

09-10-80. Lo làm ăn, đầu tắt, mặt tối, mà chỉ đủ hai mẹ con, ngày hai bữa, ăn bắp, ghế cơm. Mẹ nhắc hồi nhỏ, mình nói ngọng, kêu bắp là bú, kêu gạo là gụ, và năn nỉ nấu “nửa bú, nửa gụ” cho dễ ăn. Nay hai mẹ con ăn “nửa bú, nửa gụ” thế là tốt rồi. Ra Đà-nẵng nhiều chuyến dò la tin tức Thu. Lúc nào cũng khấn thầm Trời Phật phù hộ tìm ra tông tích nàng. Mộng mị thấy nàng trong giấc ngủ thường xuyên. Tình cờ một hôm vào quán mì Quảng gần chợ Cồn, gặp lại Thúy, bạn học Thu, nay là giáo viên tiểu học. Thúy nói là rất mừng, gặp lại tôi, để thông báo là có thể Thu đã chết trong ngày chạy loạn ở Sơn Chà. Tôi bàng hoàng chết điếng. Em Thu! Em ra đi không một lời từ biệt! Thúy cho biết là cùng Thu chạy về mũi Sơn Chà, giữa rừng người hoảng hốt. Một quả đại bác rơi gần đó. Khi Thúy chổi dậy, thấy chung quang người chết nằm la liệt. Thu nằm bất động, rên khe khẻ, máu rỉ ra từ một vết thương trên trán. Thu thều thào nhờ Thúy báo tin cho Nam. Sau đó Thúy may mắn xuống một thuyền nhỏ ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi, vào được Saigon. Lúc trở về Đà nẵng, thì chẳng biết tôi ở đâu để nhắn tin.

12-10-80. Có người mách là có thể đến bệnh viện Đà-nẵng xem danh sách những người bị thương và chết được xe cứu thương mang về đó trong những ngày cuối thắng 03-75. Tôi đến nhà xác bệnh viện. trong quyển sổ cũ, giấy đã vàng, tôi tìm được tên em. Phải lên nghĩa địa Hòa Khánh để tìm mộ. Song mộ lại dời đi Gò Cà trong đợt dời mộ năm 1976 do “lệnh chung của tỉnh”. Nghĩa địa Gò Cà mênh mông, bao trùm nhiều đồi trọc cát sỏi. Cũng may, là anh ra tù sớm. Mộ bia của em, một tấm gỗ nhỏ, đã ngã nằm ra đất, chữ viết bằng loại sơn xấu đã nhòe nhoẹt dưới nắng mưa. Anh bới mộ em lên. Không nhầm lẫn được: hàm răng dưới em có chiếc răng cời bên trái. Trán còn mang lỗ thủng mà chị Thúy có nhắc đến. Chiếc áo lụa em bận ngày chạy loạn chưa hư nát hết. Lượm từng cái xương của em, mà nước mắt tuôn ra không ngớt. Em nhìn anh bằng cặp mắt của hư vô. Bỏ xương vào một hủ sành, anh mang về Túy La.

11-11-80. Cái thằng thôn trưởng thật hắc ám. Mỗi tuần hắn bắt trình diện một lần và khai báo, mặc dù chẳng có gì lạ. Những tạp dịch trong thôn, hắn bắt mình “xung phong” làm. Ngay chuyện gỡ mìn quanh đồn bót cũ, cũng là mình. Lúc nào cũng coi mình là “thù địch”. Trồng dâu, hái dâu, làm cỏ, nuôi tằm, công việc xoay như chong chóng. Những ngày giữ bò còn “sướng” hơn bây giờ.

Đã đốt xương em, cho vào một lon gô, để ở đầu giường, để được gần gụi em. Tối tối, lại trò chuyện cùng em. Trong lòng anh chẳng ai thay thế được em. Có nhiều cô gái trong thôn tỏ tình, nhưng anh dửng dưng, nguội lạnh. Tâm hồn giống như một ông già. Những lúc cô đơn, hay làm việc một mình, tự nhiên lại thốt lên: “đời sao buồn quá” hoặc ngâm se sẽ: “buồn ơi xa vắng, mênh mông là buồn”. Bái hát của Từ Công Phụng nói về nỗi cô đơn, khi người yêu đã mất nghe thấm thía quá: “kể từ khi em đem cô đơn mọc lên phố vắng, khi em đem nụ cười khỏi đời, từng chiều rơi, ta nghe như cõi lòng tê tái. Nghe giữa đời còn gọi tên nhau”. Đoạn giữa của bài hát đúng như lúc chúng mình đứng ở bãi biển Sơn Chà, một đêm sao sáng đầy trời, em ngước mắt nhìn anh, chờ đón nụ hôn, trong khi bài tình ca du dương, từ một quán xa vọng tới: “ngày ấy cho nhau một lần, một lần tiếng hát đồng lõa, đưa anh vào vùng trời lấp lánh, bằng những ánh sao trời vào đôi mắt ngước trìu mến”. Anh muốn tìm lại ánh mắt của em ở thế giới bên kia!

06-12-80. Những bài học về tư tưởng yếm thế hay quanh quẩn trong đầu. Có một thi sĩ Tầu không nhớ tên, đã viết:

“Tích ngã vị sinh thì,

Minh minh vô khả tri.

Thiên công hốt sinh ngã.

Sinh ngã lục hà vi?

Vô y sử ngã hàn,

Vô phạn sử ngã cơ,

Hoàn nhỉ thiên sanh ngã,

Hoàn ngã vị sinh thì”.

Tạm dịch:

“Khi tôi chưa sinh ra,

Hỗn mang nào có biết.

Trời bỏ tôi ra đời,

Ôi số phận cay nghiệt,

Không áo để che thân

Không cơm đói muốn chết,

Trả lại Trời công sinh

Trả lại tôi thời chẳng biết”.

Cuộc đời bi thảm quá. Chỉ muốn trở về với hư vô, (nhật ký rách vụn nhiều trang). Mấy trang chót còn đọc được:

15-07-82. Mẹ đã ra đi một cách êm thắm. Thường ngày mẹ dậy rất sớm. Song hôm nay mặt trời đã lên cao mà mẹ vẫn chưa thấy dậy. Lại giường mẹ xem sao, thấy sắc mặt hơi tái, sờ tay thấy lạnh ngắt. Thì ra, mẹ đã ra đi trong giấc ngủ. Mẹ lúc nào cũng sống âm thầm như chiếc bóng. Lúc giã từ vĩnh viễn, mẹ cũng không muốn quấy rầy con. Thương mẹ, thương em quá chừng. Ma tang đơn giản. Chôn mẹ cạnh mộ cha sau vườn:

Bởi con nghèo, nên mẹ chết âm thầm,

Kẻ giàu có, thì linh đình ngày xuống huyệt.

Mẹ chết rồi, con không còn gì để ràng buộc với thế gian này nữa. Con muốn trở về gốc cây đa, mà con đã trải qua nhiều giờ phút suy tư về kiếp sống con người, và yên nghỉ cùng Thu. Ở một nghĩa địa cổ Hy Lạp, người ta phát giác một bia mộ ghi những lời sau đây: “hỡi những người qua đường, hãy nhẹ chân, vì đêm nay là đêm cuối cùng ta ngủ được ngon giấc”. Ông ta lúc sống chắc trải qua những khổ đau cùng cực, nên mất ngủ triền miên. Tôi thì không đến nỗi như ông, song giấc ngủ dài yên lặng của nấm mồ, tôi thầm mong ước được như thế”.

Thì ra, nhật ký không viết cho tôi. Mà chỉ là những gửi gắm riêng tư. Nam cũng không ngờ là tôi trở lại miếu hoang nầy. Chiến tranh, chết chóc, chia ly, thời thơ ấu thiếu thốn, đau buồn đã hằn lên tâm hồn Nam nhiều đau thương!

Cha chết sớm, chưa kịp dạy Nam yêu đời. Nếu Thu còn sống, chắc Nam cũng yêu đời như ai.

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

(Trích trong: Tình Yêu Hiện Sinh Một Kiếp Người)

Câu chuyện Trời đánh… không chết

Câu chuyện Trời đánh… không chết

Chu Nguyễn

Thực là một phép lạ! Vào lễ Giáng sinh 1971, một cô gái tuổi teen có tên là Juliane Koepcke cùng mẹ đáp máy bay ở Lima tới khu rừng Amazon. Giữa đường sét đánh trúng máy bay. Phi cơ tan xác, hành khách và phi hành đoàn tử vong. Riêng Juliane rơi từ cao độ 10,000 feet xuống rừng sâu thoát chết. Kỳ lạ hơn nữa, sau 11 ngày lạc trong rừng mưa nhiệt đới, tới lúc kiệt sức chạm trán với tử thần lần thứ hai Juliane lại được cứu thoát!

Câu chuyện ly kỳ sau đây lược dịch từ bài Skyfall trên tờ Readers’ Digest, số tháng Một, 2014.
Juliane Koepcke trưởng thành ở Lima, Peru, trước tuổi 14, theo cha mẹ dọn tới vùng rừng mưa nhiệt đới Peru, nơi song thân của cô là Maria và Hans-Wilhelm Koepcke đã dựng một trạm nghiên cứu về sinh vật học có tên là Panguana Biological Research Station. Sau hai năm theo cha mẹ miệt mài trong rừng mưa nhiệt đới, Juliane quay trở về Lima hoàn tất bậc trung học.
Vào ngày 24 tháng 12, 1971, Juliane lúc đó 17 tuổi, cùng mẹ đáp máy bay từ Lima tới thăm cha vào dịp Giáng sinh. Sau đây là lời kể lại của cô về chuyến đi đầy bi kịch và kinh hoàng:

* * *
Những ngày tháng của tôi ở Lima thực tuyệt vời. Mặc dù đã có những kinh nghiệm sống nơi rừng rậm, nhưng tôi vẫn còn là một nữ sinh thơ ngây. Tôi nghỉ hè ở Panguana và đi học cùng bè bạn tại Lima. Mẹ tôi có ý định sớm đáp máy bay tới Pucallpa, một thành phố có phi trường sát Panguana, nhưng tôi năn nỉ bà tạm hoãn lại chuyến đi cho tôi đi cùng vì vào các ngày 22, 23 tháng 12 tôi có một buổi khiêu vũ tại trường và phải dự lễ tốt nghiệp trung học. Bà bằng lòng và quyết định chúng tôi sẽ bay vào ngày 24.
Phi trường đông đúc khi chúng tôi tới khu chờ đợi vào buổi sáng trước ngày Giáng sinh. Ngày hôm trước, nhiều chuyến bay bị hủy và giờ đây hàng trăm hành khách xếp hàng dài trước quầy bán vé. Vào lúc 11 giờ sáng chúng tôi lên máy bay. Mẹ tôi và tôi ngồi sát bên nhau ở hàng ghế gần áp chót. Trên băng ghế có ba chỗ ngồi, tôi luôn luôn chọn nơi sát cửa sổ như thường lệ, mẹ tôi ngồi sát kế bên tôi và ngoài cùng gần lối đi là một ông to con, bệ vệ. Mẹ tôi thực ra không thích đi máy bay mấy nhưng vì nghề nghiệp, một nhà nghiên cứu về điểu học (ornithologist) nên bà có thành kiến một con chim sắt bay được là điều bất thường không tốt.
Nửa giờ đầu tiên của chuyến bay từ Lima tới Pucallpa thì chẳng có gì đáng nói. Chúng tôi được ăn sáng với sandwich và thức uống. Khi các tiếp viên phi hành bắt đầu dọn dẹp, chúng tôi bay vào vùng trời bão tố sấm sét kinh hồn. Ngày chợt biến thành đêm và bầu trời chớp nhoáng lên từ khắp phía. Hành khách nghẹt thở khi máy bay chao đảo quá mạnh. Túi xách, hành lý, quần áo, mọi thứ lủng củng từ ngăn đựng ở phía trên đầu rơi tứ tung xuống dưới. Khay đựng sandwich bay trong không khí và đồ ăn thức uống thừa bắn tung vào mặt mũi hành khách. Mọi người la hoảng bốn phía.
Mẹ tôi trấn an tôi bằng những lời không mấy an tâm: “Hy vọng không sao đâu!”
Tôi chợt thấy một luồng sáng lóe lên từ phía cánh phải. Không hiểu đó là một tia chớp hay một tiếng nổ. Máy bay bắt đầu chúi mũi xuống. Từ nơi tôi ngồi ở phía sau máy bay, tôi có thể nhìn về phía buồng lái. Tai tôi, đầu tôi ù ù và toàn thân tôi tê bại vì tiếng rít của máy bay. Tôi nghe mẹ tôi gắng bằng giọng trấn tĩnh: “Không sao đâu!”

Nhưng máy bay đã mất cao độ. Mọi người la hét và bỗng nhiên tiếng động cơ tắt ngúm. Tôi mơ hồ nhận ra, mẹ tôi không còn ở bên tôi nữa và bản thân tôi cũng không còn ngồi trong máy bay nữa. Ở cao độ 10.000 ft tôi bị gắn chặt vào ghế ngồi vì dây an toàn. Chỉ riêng tôi rơi trong không gian. Bốn bề yên tĩnh tôi chẳng nhìn rõ những gì quanh tôi. Dây an toàn thắt chặt lấy bụng tôi tới mức tôi khó thở.
Tôi chỉ thoáng thấy rừng mưa nhiệt đới Peru nhấp nhô từ từ hiện ra rõ hơn trước mắt tôi với những lùm cây như những bông cải xanh khổng lồ vươn lên như muốn nuốt chửng lấy tôi. Tôi thấy mọi vật như qua lớp mây mù rồi lại ngất đi.

Khi tôi tỉnh lại, thân tôi rơi vào giữa rừng cây rậm rạp. Dây an toàn đã bung ra nên tôi tỉnh táo hơn, tôi co mình vào lưng băng ghế ẩm ướt vì bùn đất và nằm ở đó suốt ngày đêm.
Sáng hôm sau chẳng bao giờ tôi quên được những gì mắt tôi nhìn thấy: những cây cổ thụ có tàn lớn trên đầu tôi tỏa đầy ánh sáng vàng vàng phủ lên vạn vật xanh biếc. Tôi cảm thấy trơ trọi, bơ vơ. Chỗ ngồi của mẹ tôi trước đây trống rỗng.
Tôi không đứng dậy được. Tôi nghe tiếng đồng hồ tay của tôi kêu tích tắc nhưng không nhìn được giờ. Tôi phát giác mắt bên trái của tôi sưng vù và tôi chỉ nhìn được qua khe hở ở mắt phải. Kính của tôi rơi đâu mất nhưng cuối cùng tôi cũng có thể nhìn được giờ, lúc đó là 9 giờ sáng, tôi cảm thấy kiệt sức và cứ thế nằm bất động trên mặt đất.
Một lát sau tôi gắng ngồi dậy nhưng lại nằm vật ra vì kiệt sức. Một lát sau, tôi gắng ngồi lên, sờ lên xương vai bên phải, thấy đau nhưng hy vọng nó không gãy. Bắp chân trái bị xẻ ra một vết như do một vật kim loại sắc tạo ra nhưng lạ thay nó lại không chảy máu.
Tôi thụp xuống bò bốn chân tay để tìm mẹ tôi. Tôi gọi tên người nhưng chỉ có rừng sâu trả lời tôi mà thôi.

Với những ai chưa từng ở rừng mưa nhiệt đới thì xem ra khó tránh được hoảng hốt. Hàng cổ thụ soi bóng bí mật xuống nền rừng. Nước róc rách không ngừng. Rừng mưa nhiệt đới thường có mùi ẩm mốc do cây cỏ tàn úa gây ra. Côn trùng ngự trị rừng rú và tôi gặp đủ loại quấy rầy: kiến, bọ dừa, bươm bướm, châu chấu và muỗi. Một số côn trùng sẵn sàng đẻ trứng nơi vết thương trên da thịt con người và ong dại bám cứng tóc như muốn làm tổ.
Cũng may tôi sống quen hoàn cảnh này trong thời gian khá dài, đã quen tiếng rừng, với hình ảnh đặc biệt biến ảo phi thường nơi rừng rú. Chưa có gì về rừng núi mà ba mẹ tôi chưa dạy cho tôi và giờ đây tôi chỉ cần moi móc trong khối não bị chấn động của mình để đối phó với nghịch cảnh.
Tôi chợt cảm thấy khát khô cuống họng. Những giọt nước còn đọng trên lá cây giúp tôi giải khát. Tôi đã gượng lần quanh nơi tôi ngồi và ý thức được rằng trong rừng dễ lạc lối nên cố gắng đánh dấu nơi mình đang ở.

Chung quanh tôi, tôi không hề thấy dấu vết của nơi máy bay gặp nạn, không có khung kim loại, không có xác người và đồ đạc. Nhưng may mắn tôi nhặt được một bịch kẹo. Tôi nghe thấy tiếng máy bay bay trên đầu, tôi nhìn lên nhưng bóng cây quá rậm, nên chẳng có cách nào người trên máy bay nhìn thấy tôi, tôi có cảm giác bất lực bao trùm tâm trí, tôi phải ra khỏi rừng rậm thì hy vọng nhân viên cứu hộ mới có thể phát giác nạn nhân là tôi. Nhưng trong một thoáng tiếng động cơ biến mất.
Từ xa vẳng lại tiếng nước róc rách mà trước đây tôi không để ý. Tôi lần về phía đó. Không xa tôi tìm thấy một khe nước nhỏ. Phát giác này làm tôi hy vọng. Không những tôi tìm ra nguồn nước uống mà còn giúp tôi thêm tin tưởng khe nước sẽ dẫn tôi tới nơi được tiếp cứu.
Tôi gắng lần theo sát khe nước nhưng rất nhiều thân cây chắn ngang đường hay cỏ hoang mọc dày bít lối đi. Dần dần khe nhỏ mở rộng và biến thành giòng suối, nhưng có phần đã cạn nên tôi có thể đi sát giòng chảy. Vào khoảng 6 giờ chiều, trời sẩm tối, tôi tìm nơi có thể trú ẩn nơi suối khô để qua đêm và tôi ăn thêm một cây kẹo.
Vào ngày 28 tháng 12, chiếc đồng hồ mà bà nội cho đã chết máy và từ đó tôi đếm ngày và tiếp tục đi tìm sinh lộ. Giòng suối mở rộng, biến dần thành giòng chảy lớn hơn nữa và cuối cùng thành một con sông nhỏ. Vì đang là mùa mưa nên khó tìm ra trái cây để ăn và tôi chỉ còn trông cậy vào những viên kẹo cuối cùng. Tôi không có dao để tách quả hạt, cũng chẳng có cách nào bắt cá hay nấu nướng. Vả lại, tôi không dám ăn thức nào khác vì cha mẹ tôi thường dặn, phần lớn những thứ mọc hoang dại đều có thể chứa chất độc, nên tôi lánh xa những thứ trông có vẻ ngon lành nhưng tôi không biết tên chúng. Lúc đói tôi chỉ còn biết uống cho no bụng nguồn nước sông mà thôi.
Mặc dù đã đếm thời gian trôi đi nhưng tôi có thể đã lẫn lộn giữa ngày 29 và 30, không biết là ngày thứ năm hay thứ sáu tôi lạc trong rừng rậm. Tôi nghe thấy tiếng chích chích tranh ăn dữ dội của một loài chim thường kiếm ăn ở ven sông bãi lầy vùng bán nhiệt đới như Nam Mỹ và thực phẩm chính của chúng là rắn các loại (loại thực-xà-điểu hay hoatzin). Đặc biệt loại chim này thường không ở xa nơi có người cư ngụ. Tôi phấn khởi hẳn lên vì khi ở Panguana tôi thường nghe thấy âm thanh này.

Với nguồn hy vọng mới, tôi rảo bước theo âm thanh này. Cuối cùng tôi đứng trên bờ một con sông lớn nhưng chẳng thấy bóng ai cả. Tôi nghe tiếng máy bay từ xa vọng lại rồi âm thanh tan dần. Tôi nghĩ rằng họ đã bỏ cuộc tìm kiếm nạn nhân sau khi cứu mọi hành khách trừ tôi.
Cơn bất bình dâng lên trong lòng. Sao phi công không quay trở lại vào lúc cuối cùng tôi đã ra khỏi rừng rậm? Rồi cơn giận nhường chỗ cho cảm giác tuyệt vọng. Tuy nhiên tôi không bỏ cuộc vì biết rằng nếu đã có sông ngòi thì thế nào gần đó cũng có người cư ngụ.
Bờ sông cây cỏ mọc dày ngăn bước tôi đi, tôi biết loại sứa độc (stingray) thường ở ven bờ sông, nên tôi thận trọng dò từng bước. Bước như thế quá chậm nên tôi quyết định bơi và lội ra giữa giòng vì ở đó không có sứa độc. Nhưng tôi phải coi chừng loài cá có răng nhọn hoắt -piranhas- nhưng tôi biết “cá răng cọp” chỉ nguy hiểm ở nước tù mà thôi. Tôi cũng ngại sẽ gặp cá sấu loại caimans nhưng thông thường loại này không tấn công con người.
Hằng đêm khi mặt trời lặn, tôi tìm một nơi tương đối an toàn để nghỉ ngơi. Muỗi mòng bao quanh tôi, ù ù bên tai tôi và có con còn muốn chui vào tai, vào mũi tôi khiến tôi khó lòng chợp mắt. Tình trạng còn tệ hại hơn nếu trời mừa. Những giọt nước lạnh như quất vào người tôi, thấm qua bộ quần áo mùa hè mỏng manh tôi mặc và về hùa với gió lạnh như cắt làn da tím tái. Trong những giờ phút đó, tôi co ro trong bụi hay dưới lùm cây và cảm thấy chưa bao giờ trơ trọi như vậy.
Ban ngày tôi tiếp tục lội nhưng mỗi lúc một lả người. Tôi uống nước đầy bụng nhưng thèm ăn một chút gì và nghĩ tới thực phẩm. Mỗi buổi sáng, ngồi dậy càng cảm thấy khó khăn nhất là phải dầm mình xuống nước lạnh. Dù sao tôi tự nhủ, tôi phải tiếp tục tìm đường sống.
Vào một buổi sáng tôi cảm thấy đau ở phần lưng trên. Khi tôi sờ tay lên chỗ đau thì thấy đẫm máu. Thì ra mặt trời đã làm tôi lột da khi tôi lội giữa sông và sau này tôi mới biết mình đã bị phỏng cấp hai.
Thời gian trôi qua và tai ù mắt quáng tệ hại hơn trước. Thỉnh thoảng tôi nghe thấy tiếng gà gáy hay nhìn thấy một mái nhà nhưng tôi quá mệt nên không biết đó là sự thực hay ảo giác.
Cứ thế tôi trôi theo giòng nước tới ngày thứ mười. Tôi thường đụng vào gỗ trôi trên sông và gắng vượt qua không để bị gãy xương cốt.

Tới chiều tối , tôi tới một bờ sông phủ đá cuội và thấy đây là nơi nghỉ rất tốt và cứ thế tôi thiếp đi vài mươi phút. Khi tôi tỉnh lại thì có cảm giác có vật gì lạ xuất hiện gần đó. Tôi giụi mắt nhìn đi nhìn lại và rõ ràng thấy một chiếc thuyền.
Tôi bơi lại và vịn lấy thuyền. Lúc đó tôi mới thấy một lối đi đã nhẵn từ bờ sông đi lên đồi. Tôi hoàn toàn tin rằng sẽ tìm ra người ở gần đâu đó. Nhưng vì quá mệt nên hàng tiếng đồng hồ tôi mới lên được phía trên.
Khi lên tới đồi tôi nhận thấy một căn lều nhỏ nhưng vắng bóng người. Từ đó có con đường dẫn vào rừng. Tôi tin rằng chủ thuyền sẽ xuất hiện vào lúc nào đó, nhưng chờ hoài không thấy bóng ai. Trời phủ bóng đêm và tôi ngủ trong lều đêm đó.

Sáng hôm sau tôi tỉnh dậy vẫn không thấy ai cả. Trời bắt đầu mưa, tôi bò vào bên trong căn lều và lấy tấm nhựa phủ lên người cho đỡ lạnh.
Mưa ngừng vào buổi chiều, tôi không còn sức để đứng lên và tự nhủ sẽ ở lại căn lều này thêm một ngày nữa rồi sẽ tiếp tục đi.
Vào lúc hoàng hôn, tôi nghe có tiếng người, tôi nghĩ có lẽ mình tưởng tượng nhưng âm thanh gần hơn. Khi ba người từ rừng xuất hiện và thấy tôi thì họ ngừng bước mở to mắt ngạc nhiên.
Tôi dùng tiếng Tây Ban Nha bảo họ: “Tôi là đứa con gái trong tai nạn máy bay LANSA. Tên tôi là Juliane!”

* * *
Mấy người kiểm lâm tìm ra Juliane Koepcke vào ngày 3 tháng 01, 1972, sau 11 ngày cô sống sót trong khu rừng nhiệt đới, và đưa cô bé tới chỗ an toàn.
Chín mươi mốt hành khách, kể cả bà mẹ của Juliane, đã chết trong chuyến bay số 508 của hãng LANSA và Juliane là người sống sót duy nhất. Giờ đây cô gái trưởng thành và trở thành một nhà sinh vật học kiêm chủ quản thư viện ở Bavarian State Collection of Zoology. Juliane thường trở lại Panguana, nơi cô thừa hưởng phòng thí nghiệm do cha mẹ để lại, để nó tiếp tục hoạt động đón chào tất cả các khoa học gia trên thế giới.

Từ Lâm Kim Trọng gởi

Vài Kỷ Niệm Với Công Ty Đại Dương

Vài Kỷ Niệm Với Công Ty Đại Dương

Tác giả : Chu Tất Tiến

Năm 1981. Đi tù “cải tạo” mới về, lên trình diện Phường, “con bé” Chủ Tịch, tên Mỹ (1), hầm hầm nhìn tôi, nói:

– Anh có việc làm gì chưa? Nếu không, thì chuẩn bị đi lao động xã hội chủ nghĩa 3 năm nữa. Thành phần như anh cần cải tạo nhiều.

Tôi nhìn “con bé” Chủ Tịch mà máu nóng trong người tôi dồn lên mắt. Đúng là đồ mất dậy! Mới năm nào… Khi ấy, “con bé” Mỹ mới có khoảng 13,14 tuổi gì đó, ở sâu bên trong hẻm, chưa biết vắt mũi cho sạch, vẫn thỉnh thoảng chạy qua nhà tôi, đứng nhìn vào nhà. Tôi vẫy con bé vào, và cho nó kẹo bánh hoài. Con bé nhe răng cười, nói ba tiếng “cám ơn chú” rồi chạy biến vào trong hẻm. Bây giờ, con bé lên làm Chủ Tịch Phường! Chừng như nhớ lại những ngày tháng đó, nó xấu hổ, nên phải lên mặt, ra cái điều ta đây. Tôi muốn chọc quê nó vài câu, nhưng nhớ lại, bọn Việt Cộng đâu có trái tim người, nói gì nó cũng chẳng cho lọt vào tai, uổng phí thời gian.

Tôi nghiến răng, cố hít hơi sâu vào lồng ngực rồi mới thở ra, nói bừa:

– Tôi sắp có việc làm rồi.

Con bé nhìn tôi trừng trừng một lát rồi nói:

– Tôi cho anh một tuần, nếu không có việc, thì về nhà gói quần áo, lên trình diện Phường.

Lẳng lặng quay ra, tôi không thèm chào nó nữa. Cái đồ Cộng Sản mất dậy!

Về đến nhà, tôi không dám nói cho gia đình hay, mà lôi cái xe đạp ra, đạp đến nhà bạn bè, tìm hỏi xem ai biết có việc gì thì chỉ bảo. May quá, ngay đợt thăm viếng đầu tiên, tới nhà T., một anh đồng môn Quốc Gia Hành Chánh, anh ấy bảo:

– Ông đi với tôi đến công ty Đại Dương. Tôi có thằng quen, hồi xưa cũng Quốc Gia Hành Chánh, nhưng bây giờ nó làm lớn lắm. Nó có thể cho ông việc làm.

Thế là tôi đạp xe đi theo T. đến Công Ty Đại Dương. Hồi đó, nghe nói Giám Đốc Công Ty này là Charles Đức, chồng của đào cải lương Bạch Tuyết, chấp nhận tuyển dụng các cựu tù cải tạo mới về. Lòng tôi mừng khấp khởi. Phen này đỡ khổ rồi! Nếu họ nhận cựu tù cải tạo vào, thì chắc cũng là những người tốt…

Đến nơi, T. dẫn tôi vào ngày Phòng Tổ Chức, là nơi quan trọng nhất của mọi cơ sở của nhà cầm quyền. Phòng này lo đặt chỉ tiêu, tuyển dụng nhân viên, điều động nhân lực, sa thải hay nhận vào làm đều do một tay Trưởng Phòng Tổ Chức, cho nên uy quyền sinh sát ghê gớm lắm.

Sau khi xưng tên với tay thư ký gác cửa ngoài, và được Xếp cho vào, T. giới thiệu tôi với Xếp là một người dong dỏng, khuôn mặt khắc khổ, ít nói, lạnh lùng, không thấy nở một nụ cười nào. Anh ta nghe bạn tôi nói về tôi xong, là hý hoáy viết ngay vài chữ vào một miếng giấy nhỏ, bảo bạn tôi dẫn tôi xuống phòng làm lương để lo việc lương lậu.

Thật không ngờ, việc làm lại dễ thế! Tôi cảm động đến lập bập quên không chào hỏi tay Trưởng Phòng Lương. Bạn tôi đưa miếng giấy cho tay Xếp lương một cách thành thạo, có vẻ như anh đã từng giới thiệu nhiều lần rồi.

Tên Xếp phòng lương, già già, cằm bạnh ra, dưới cái mũi to và cặp mắt lồi, nhìn trừng trừng vào tôi, nói vắn tắt:

– Lương lao động 30 đồng một tháng, nhưng mà đừng lấy lương, thì tôi cho làm!

Gì mà kỳ vậy? Bạn tôi nhìn tôi, hỏi ý xem tôi có chịu làm không lương không. Giờ phút đó, thì còn chọn lựa gì nữa! Nếu không về báo cáo là có việc, là đời tàn trong ngõ hẹp, vì đi tù cải tạo, còn có gia đình thăm nuôi, nhưng đi lao động xã hội chủ nghĩa là “mút chỉ cà tha”, không ai biết mình ở đâu mà tìm! Tôi gật đầu, nhận điều kiện làm việc không lương.

Chừng như đã biết hết câu trả lời, tên xếp kia viết một miếng giấy nhỏ, hất tay cho tôi, nói trống không:

-Cầm giấy này, tới số.. đường Nguyễn Tri Phương, Khánh Hội, trình diện.

Tôi gật đầu rồi đi ngay, sau khi cám ơn người bạn tốt đã giới thiệu tôi vào làm. Hồi ấy, bạn tôi, nguyên Phó Quận thời Cộng Hòa, đi tù về làm nghề đứng đường, thu mua “dàng dụn, bạc dụn, đồng hồ, máy móc” linh tinh, kiếm sống cũng khá, tuy có vất vả và đen đúa, nhưng lại tự do, thoải mái, muốn đến “sở” giờ nào thì tới…Khi đến ‘”sở” là góc đường Lý Thái Tổ, anh chỉ để có mỗi một miếng bìa nhỏ ghi mấy chữ: “Thu mua vàng vụn, bạc vụn, đồng hồ, máy cũ..” rồi kéo cái ghế xếp ra, ngồi nhìn xe chạy. Có ngày ngồi từ sáng đến tối, chả có ma nào hỏi, nhưng cũng có ngày, liên tiếp hai ba người, thuộc chế độ cũ, đói ăn, mang những đồ linh tinh đến bán. Anh trả giá, mua xong, thì đi lại những điểm thu mua lớn, và bán lại, lấy tiền lời mua gạo.

Làm việc đó thật là nhàn rỗi! Còn tôi đạp xe đi đến Sở thật sự, chả biết ra sao.

Tới đúng địa chỉ là một “bin-đinh” cũ của người di tản buồn nào đó, có cánh cổng sắt xộc xệch như răng bà lão, nhìn vào trong thấy tối um um. Thấy tôi dựng xe, đứng nhìn nhớn nhác, môt tay bảo vệ chạy ra, hất hàm:

– Anh kia! Làm gì đứng đó?

Tôi nhếch miệng cười xã giao rồi đưa tờ giấy đen đúa ra. Tay bảo vệ cầm lấy, nhìn tôi một lần nữa, rồi chạy vào trong. Chừng một hai phút sau, một tên mập mạp đi ra, cùng với hai ba trự ăn theo phía sau. Tên mập cười hô hố:

– Ồ! Ma mới đây rồi! Muốn đi làm hả? Được, ta đi ăn sáng nhé!

Rồi phất tay vào trong cho đám lâu la tiến ra. Tôi chới với, nhìn lũ người ăn bám này mà hết hồn. Tiến đâu ra mà chi cho lũ này? Chỉ còn cách lập bập nói:

– Xin lỗi các anh, tôi không chuẩn bị, anh cho tôi về nhà lấy tiền..

Tên mập kia trở mặt nhanh như cắt, phẩy tay:

– Thôi! Về thì về luôn đi! Đừng trở lại nữa!

Rồi quay vào, vừa đi vừa lầm bầm cái gì, nghe như “đù mẹ.. thằng…”

Tôi thở ra, chán nản, quay xe về Công Ty Đại Dương. Tới nơi, tôi xin vào thẳng gặp xếp Trưởng Phòng Tổ chức và trình bầy rằng ở đó không nhận! Xếp không nói không rằng, viết một tờ giấy lọ lem khác đưa cho tôi địa chỉ và dưới ký tên.

Lần này, để chắc ăn, trước khi tới nơi, tôi chạy về nhà, thủ một ít tiền vào túi, rồi mới đến trình diện. Nhưng sự thể lại khác hẳn. Tên trưởng công trường, da ngăm đen, miệng vêu như miệng nhái, nhìn tôi nói dõng dạc:

– Tôi nhận cho anh vào làm. Lương ở đây là 30 đồng, nhưng anh không được lấy lương, và phải làm thông tầm, nghĩa là làm một lèo từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Buổi trưa, ăn cơm tại chỗ, nhưng không được mang cơm theo. Phải nộp một lon gạo để ở đây, người ta nấu cơm cho ăn. Muốn ăn canh thì nộp thêm 1 đồng nữa. Chịu không?

Thật đúng là quân bóc lột. Công Ty Đại Dương này phải đặt lại tên là Đại Ác mới đúng. Làm đã không có lương, mà còn phải nộp thêm tiền. Một lon gạo giá 1 đồng, thêm một đồng canh nữa là hai đồng, một tháng như vậy, làm 26 ngày, phải nộp thêm 52 đồng, trong khi lương công nhân viên hồi đó có khoảng 30,40 đồng! Tôi muốn chửi thề quá đỗi, nhưng lại nhớ đến cái “con bé Chủ Tịch” ở nhà đang hầm hầm muốn ăn thịt tôi, tôi phải nghiến răng gật đầu.

Trưởng Công trường, tên Quang, sau này mới biết nó nguyên gốc Đại Úy Công Binh, vì có vợ là Cách Mạng lớn, nên được cử làm Xếp Chúa ở đây. Tên khốn này, có đứa con gái khoảng 18, 19 gì đó, ngày nào cũng vào với bố, đi lanh quanh, tìm đồ để “chôm”. Chiều nào cũng thấy nó mang một bao cát ra cửa, trong đó chứa những vật liệu sửa xe hơi, như bạc đạn, pít tông… là đồ ăn cắp của xưởng, mang về bán lại làm giầu. Bảo vệ thấy nó thì cho qua, còn tụi công nhân như tôi, phải chìa túi xách mình ra cho nó khám.

Ngay ngày đầu làm việc, tôi tưởng như đã biến thành môt thứ nô lệ thời La Mã. Tên Quang chỉ cho tôi một đống sắt là những thanh sắt ở thành cầu bị phá hỏng, cong queo và bảo tôi cầm búa tạ, đập “nguội”, (không nướng trên lửa) cho thanh sắt thẳng ra! Hãy tưởng tượng thanh sắt dài cong, có chiều ngang khoảng hơn 20 xăng ti mét, được đúc thành chữ “i” La Mã giống như hai chữ T nối lại với nhau, kiên cố như thế nào, mà bắt tôi đập “nguội” cho thẳng! Nếu nướng cho đỏ lên, thì cũng khó mà đập cho thẳng, đằng này lại đập “nguội”.

Đột nhiên, tôi nổi máu xung lên, vác búa tạ nặng 5 kí lô dang thẳng cánh tay, đập xuống. “Choang!” cái búa bật trở lại, chút nữa thì bắn vào mặt tôi, vỡ mặt! Bọn nô lệ cũ vẫn đứng nhìn tên ma mới này làm việc, thấy vậy thì cười lên hô hố. Tôi nóng tiết, quay búa liên tiếp “choang! Choang!”. Miếng sắt cũng nẩy lên theo cái búa.. Quay chừng 10 cái búa, là tôi thấy chả vai của tôi muốn lìa cái thân thể còm nhom của tôi. Đầu váng, mắt hoa, tay mỏi.. Tôi muốn rủ người xuống, nhưng nghe thấy những tràng cười nhạo của bọn kia, danh dự của một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lại bùng lên, làm tôi nghiến răng, quay búa…. Đến khi tôi không điều khiến được cánh tay nữa thì mới chịu ngừng lại, ngồi bệt xuống đất. Lúc ấy, tôi thèm chết quá chừng! Phải chi chết được, nhắm mắt xuôi tay, không thở nữa, thì sướng biết mấy! Nhưng thực tại lại trừng trừng nhìn tôi, thách đố. Tôi đứng dậy, tiếp tục đập…”Choang! Choang! Choang!”..

Sức người có hạn. Tôi đập búa chừng môt tiếng đồng hồ thì nằm lăn ra, nín thở! Bọn vô lại lại cười ồ. Có đứa nói lớn:

– Đù má! Mấy thằng cải tạo chả biết làm đéo gì!

Nghe thấy thế, tôi cố ngồi dậy, thở một lúc, lấy tay trái xoa bóp tay phải cho dãn ra, rồi lê cái thân còm đứng dậy, tiếp tục đập. Đống khung sắt khổng lồ cứ nhìn tôi, dỡn mặt, nhẩy lên, nhẩy xuống…

Tới giờ ăn cơm. Tên phát cơm gọi tôi:

– Ê! Anh kia! Lại lấy cơm.

Nhìn tô canh “toàn quốc”, nghĩa là tô đầy nước, chứa mấy lá cải, hai ba chú tôm bé như cái tăm trốn dưới đáy tô, tôi chán đời dễ sợ. Thà là tù cải tạo…

Nhưng thôi, đời chó má thế, cứ chấp nhận đi. Tôi hát trong miệng: “Lâu dần đời người cũng qua…”

Làm được hai ngày, thì tên xếp Chúa thấy đống sắt vẫn trơ trơ, bảo tôi đổi việc. Khi mới nhận tôi vào làm, nó cố tình chơi tôi, vì nếu là Sĩ Quan Công binh, nó phải biết muốn uốn sắt thép, phải nung lửa! Không một lực sĩ nào có thể đập sắt nguội như thế! Thay vì đập sắt, nó bảo tôi kéo đá! Chỉ cho tôi cái xe cút kít có một bánh xe sắt và hai cái càng cua thò ra ngoài một cái hộp hình khối Pyramid lộn ngược, nó bảo tôi phải múc đá xanh cho đầy vào rồi kéo chạy lên dốc trên, đổ xuống cho người ta dậm ra, đổ xi măng vào. Tôi ra nhận xe, mà phẫn nộ, vì mọi xe đều có hai người, môt kéo, một đẩy, còn tôi chỉ có một mình mà lại là chiếc xe bự nhất. Bọn khốn kia nó muốn giết tôi chết vì đau tim! Uất quá mà không biết nói sao, nếu đòi hỏi, bọn chúng lại ồ lên “đồ cải tạo biết đéo gì”, thì nhục, tôi nghiến răng kéo đá. Vì hai tay đưa ra phía sau, làm ngực căng ra hết cỡ, bắp thịt ngực còm của tôi dàn ra mỏng dính, muốn lòi xương sườn ra ngoài da. Hai bắp chân tôi chạy trên lớp đá xanh lạo xạo được vài chuyến thì cũng muốn từ giã tôi mà ở lại đống đá kia. Tôi thở không ra hơi, nhưng vẫn cố..”Cố lên, cố lên, cố lên..mày ơi! Thà chết, không thể chịu nhục!” Tôi cứ xúc, cứ kéo, cứ chạy như cái máy không hồn, để buổi trưa được ăn tô canh “toàn quốc” do chính mình bỏ tiền ra mua. May mà hồi đó, tôi chưa đến 40 tuổi, còn sức mạnh, nhất là tôi đã tập võ từ khi còn nhỏ, rồi đi sang Mỹ, được huấn luyện “Biệt Động” (Ranger) tại Georgia năm ấy, nên không chết lăn quay với những công việc nô lệ kia.

Điều làm tôi chấp nhận công việc khốn nạn này, đã làm không lương như trâu, lại phải nộp tiền cho chủ, là việc “con bé Chủ Tịch” không còn quấy quả tôi nữa. Công Ty Đại Ác kia, đã giúp cho những người tù cải tạo như thế đấy! Tôi nghĩ, không lẽ người đồng môn làm Trưởng Phòng Tổ Chức lại mù, điếc, nên không biết thực tế của những con người khốn khổ này?

Thôi, kệ! Ta sống với Trời, không sống với loài người gian ác! Mặc cho Trời định đoạt!

Làm được đúng một tháng, hôm ấy, kiểm điểm thành tích công tác tháng vừa qua. Cả bọn nô lệ ngồi xếp bằng trên đất đá, nghe tên Quang, Trưởng công Trường nói chuyện. Sau khi nói vớ vẩn vài câu ca ngợi Bác Đảng, đột nhiên, nó chỉ tay vào tôi, nói thật to:

– Địt mẹ chú mày! Tao biết chú mày đéo biết làm gì, nhưng tao thương hại, nên cho chú mày làm việc ở đây. Chú mày liệu mà làm việc đàng hoàng nghe chưa?

Nghe mấy lời khốn nạn của một thằng từng là Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa nói với người cũng từng là chiến hữu của nó, máu nóng trong người tôi xông lên khiến tôi hoa mắt, ù tai, muốn xỉu!

Trong lòng tôi, lúc ấy, chỉ có lòng căm thù, căm thù, muốn giết người, muốn bóp cổ nó, muốn làm Ma cà rồng, làm Franskeintein hút máu nó, phải hút máu cho đến khi nào nó xanh lè, dẫy đành đạch rồi chết.. Tôi gào lên trong đầu những câu chửi tục nhất mà mấy tên ma cô, đĩ điếm vẫn xài.. nhưng chỉ ở trong đầu thôi, nên cơn uất nghẹn càng lúc càng tăng, khiến tôi gục xuống. Bọn khốn kia, thay vì chạy lại đỡ tôi lên, lại cười ồ:

– Xem kìa! Thằng kia trúng gió rồi!

Tai tôi càng ù thêm, nhưng bất chợt, máu nóng quân đội tôi chợt trở về, tôi gượng ngồi dậy, không nói gì, chỉ nhìn trừng trừng về phía trước, thấy mông lung, không gian như mờ mờ ảo ảo, chẳng có chi là thực…

Thằng khốn nạn tên Quang kia, chừng như cũng có chút sót ruột, nên hất hàm bảo cả bọn:

– Thôi, đi về!

Tôi lảo đảo đứng dậy và ra cửa. Vẫn thấy đứa con gái của thằng Quang vác một bao cát đựng đồ gì bên trong, kêu lục cục.

Hôm sau, tôi không đến làm nữa. Đủ rồi! Đủ rồi! Còn gặp lũ chó má kia nữa làm gì? Làm như nô lệ, không có lương, lại phải nộp tiền! Đời này có sự oái oăm như vậy sao? Phải! Có đấy! Có trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của những tên lãnh đạo là “người chết biết đi” (Walking dead), không có tim, tai đã bịt chặt, mắt cũng bị mù, nhưng tay luôn nắm cò súng…

Vì thế, Đại Dương thật sự bao la vẫn đón người vượt biên, dù chết trên biển hay bị hãm hiếp tơi bời! Mẹ Việt Nam ơi! Mẹ chẩy máu nhiều quá!

Chu Tất Tiến.

(1) Con bé Mỹ này, năm 2010 (?), gạt tiền đồng bọn, bị đồng bọn chém giữa trụ sở, nhưng không chết, chỉ bị thương tật. Còn con bé Phó Chủ Tịch tên Hồng thì bị chém chết thẳng cẳng ngay giữa Phường 15, Quận Phú Nhuận, Saigon.

Thằng Ăn Cắp

Thằng Ăn Cắp

Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị… thảy đều không hiểu chuyện nầy!!

Cảnh chỉ có ở Việt Nam thời nay.

( Ảnh trên: Nhục hình tội phạm của xả hội Việt  Nam, hiện nay )

(Năm 12 tuổi, tôi đọc ở đâu đó một truyện cổ tích Ấn Ðộ. Truyện rất ngắn, ít tình tiết, kể về một thằng ăn cắp. Hồi đó tôi không hiểu ý nghĩa. Ðem hỏi cha tôi thì người chỉ nói: “Lớn lên con sẽ hiểu. Người nào không có lòng công chính, không là người chân thật thì cũng không hiểu.”
Thường bọn móc túi nơi đám đông, quân đào tường, khoét vách nhà người ta để trộm tiền bạc, đồ đạc… là những vật cụ thể, hữu hình, thì chúng bị gọi là kẻ cắp. Ðiều đó dễ hiểu. Còn lòng danh dự, sự công chính, lương tâm là những thứ trừu tượng, những ý niệm, thảy đều có thể bị ăn trộm hay sao?

Ở một làng bên xứ Ấn Độ, có một thương gia nghèo. Ðời sống khó khăn, nạn cường hào ác bá quá đỗi lộng hành khiến bác ta sống không nổi, phải bỏ đi một xứ xa sinh sống. Sống nơi đất khách quê người lâu ngày, lòng riêng vẫn tủi. Lại thêm tuổi đà xế bóng, tính ganh đua, lòng ham muốn cũng mỏi mòn. Một hôm chạnh nhớ cố hương, bác quyết định trở về. Bán hết tài sản lấy tiền mua vàng, gói vào một túi vải giấu trong túi hành lý khoác vai, bác lên đường về quê hương.

Trong vùng quê người thương gia, giữa một cánh đồng, dân trong vùng xây một ngôi chùa nhỏ để các nông phu buổi trưa ghé vào lễ Phật và nghỉ ngơi. Một cây bồ đề lâu năm che bóng rợp xuống một sân nhỏ lát gạch, một cái giếng khơi, nước mát và trong vắt, cũng là nơi cho khách bộ hành ghé chân nghỉ ngơi, giải khát, hoặc đôi khi ngủ qua đêm trong chùa. Chùa không có người coi. Phật tử trong chùa đều là nông dân. Lúc rảnh việc thì tự ý tới làm công quả quét tước, dọn dẹp, chăm sóc cho đám cây cỏ sân chùa lúc nào cũng hương khói quanh năm.

Sau nhiều ngày lặn lội đường xa, người thương gia về gần đến làng cũ. Trời đã xế trưa, nắng gắt. Ði ngang qua chùa, bác ghé vào nghỉ chân dưới gốc bồ đề. Ra giếng nước giải khát, rửa ráy sạch sẽ xong, bác vào chùa lễ Phật. Trong chùa vắng lặng. Bác thắp hương quỳ trước bàn thờ Phật. Ngước nhìn lên, nét mặt đức Thế Tôn vẫn trầm mặc như xưa nay, hơn mười năm qua không có gì thay đổi. Cảnh vật như đứng ngoài thời gian. Lễ xong, người thương gia rời chùa. Thấy bóng chiều đã ngả, đường về còn khá xa, bác liền rảo bước, bỏ quên túi hành lý trong chùa.

Buổi chiều hôm đó, một nông dân nghèo khổ trở về làng sau một ngày làm việc ngoài đồng. Ngang qua chùa, ngày nào cũng vậy, bác ghé vào lễ Phật trước khi trở về nhà. Lễ xong, bác trông thấy một túi vải to để gần bàn thờ. Bác ta nghĩ thầm: Không biết túi vải của ai đi lễ đã bỏ quên. Nhỡ có người tham tâm lấy mất thì tội nghiệp cho người mất của. Âu là cứ mang về nhà rồi viết bảng thông báo để trả lại cho người ta.

Về đến nhà, bác nông dân gọi vợ con ra, trỏ vào túi vải, nói:
– Ðây là vật người ta bỏ quên trong chùa. Nay mình cứ tạm kiểm kê rõ ràng, đầy đủ, mai mốt có người đến nhận đúng thì trả lại cho người ta.

Giở ra xem, thấy có gói vàng to, người nông dân nghiêm giọng dặn vợ con:
– Vàng của người ta là một vật rất nguy hiểm. Nó làm nảy lòng tham. Mọi điều bất chính, bất lương, mọi sự đau khổ cũng từ đó phát sinh. Mẹ con mày chớ có dúng tay vào mà khốn!
Bác cất cẩn thận bỏ túi vải vào rương, khóa lại.

Người thương gia rảo bước về gần đến làng, nhìn xa xa ráng chiều êm ả, những làn khói bếp vương vấn trên rặng tre quen thuộc. Cảnh xưa vẫn còn trong trí bác so với nay như không có gì thay đổi sau hơn mười năm xa cách.

Vừa đến cổng làng, người thương gia mới sực nhớ đã bỏ quên túi hành lý ở chùa. Lo sợ, hốt hoảng, bác vội quay lại con đường cũ, vừa chạy vừa kêu:
– Khổ thân tôi! Thế là tôi mất hết cả sản nghiệp dành dụm từ hơn mười năm nay! Bao nhiêu công lao trôi sông trôi biển cả rồi! Khổ thân tôi chưa!

Người đi đường ai thấy cũng ngạc nhiên.
Tới chùa thì cảnh vẫn vắng tanh, bên trong chỉ có một cụ già đang lễ Phật. Người thương gia vội túm lấy cụ già, hốt hoảng hỏi:
– Túi đồ của tôi đâu? Vàng của tôi đâu?

Cụ già ngạc nhiên:
– Túi đồ nào của bác? Vàng nào của bác?
– Thì cái túi hành lý tôi để quên hồi xế trưa trong chùa này!

Cụ già vẫn bình thản:
– Quả thật lão không thấy túi đồ của bác. Lão đã sống thanh đạm cả đời, nỡ nào trong chốc lát vứt bỏ lương tâm mà tham của người. Bác cứ bình tĩnh. Của mất, có duyên thì còn có ngày lấy lại, vô duyên thì của cầm trong tay cũng mất. Túi đồ của bác đã thất lạc, bác lại mất luôn cả cái tâm công chính, đỗ vấy cho người là cớ làm sao? Gần đây có một xóm làng, buổi chiều nông dân thường lễ Phật trước khi về nhà. Bác thử tới đó hỏi xem. Thói thường, thấy vàng là tối mặt lại. Nhưng cũng còn tùy. Cũng còn có nhiều người tốt.

Người thương gia nghe ra, nhận thấy mình vô lý, bèn xin lỗi cụ già rồi theo lời chỉ dẫn, tiếp tục đi tìm. Tới làng, ông ta hỏi nhiều người mà không ai biết. Nghĩ rằng sản nghiệp dành dụm trong mười năm của mình nay phút chốc như chiếc lá vàng rơi theo gió đưa, biết đâu là bờ bến mà tìm! Ðành phó mặc cho bước chân tình cờ may rủi. Khi tới cuối làng, giữa vườn cây cối um tùm có một căn nhà lá nhỏ tồi tàn. Trước cửa treo một tấm bảng đen, với hàng chữ trắng viết to: “Tôi có nhặt được một túi vải bỏ quên trong chùa. Ai là chủ xin tới nhận lại.”

Người thương gia mừng quýnh đập cửa, gặp anh nông dân ra mở hỏi:
– Bác là chủ túi đồ bỏ quên trong chùa?
– Vâng, chính tôi. Tôi đã để quên trong chùa hồi xế trưa nay. Xin cho tôi nhận lại.
– Nếu đó là của bác thì bác phải nói xem túi đồ của bác như thế nào? Trong đựng những gì?

Người thương gia trả lời:
– Ðó là túi vải, trong đựng một ít lương khô đi đường.
Người nông phu nói:
– Thế thì không phải túi đồ của bác.
– Thú thật với bác, cũng còn một số vàng trong một gói vải khác màu đỏ.

Người nông phu nghe tả đúng các đồ vật và số lượng vàng đựng trong túi vải, biết chắc người tới hỏi là chủ nhân bèn mở rương ra, nói với người thương gia:
– Quả thật đó là túi đồ của bác. Xin mời vào nhận.

Người thương gia nhận đủ số vàng, lòng vui khôn tả. Bác thấy cảnh nhà người nông dân nghèo nàn mà lại không có lòng tham, để tỏ lòng biết ơn, bác chia đôi số vàng gói vào một miếng vải đưa cho người nông dân. Bác nói:
– Vàng của tôi tưởng đã mất, may sao lại gặp tấm lòng quý của bác. Tôi xin biếu bác một nửa để tỏ lòng thành thật biết ơn.

Người nông dân ngạc nhiên:
– Trả lại món vật không phải của mình chỉ là một việc bình thường, có ơn gì mà được đền?
– Bác đã làm một điều thiện. Ðược đền ơn là đúng lẽ.

Làm việc thiện là nghĩa vụ tự nhiên. Đạo lý xưa nay vẫn dạy như vậy. Đó không phải là cái cớ để đòi hay nhận tiền thưởng. Cũng như lòng yêu dân tộc, yêu tổ quốc không phải là cái cớ để được trả công. Vàng của bác do công sức làm ra thì bác hưởng. Tôi có góp công lao gì vào đó mà chia phần? Thôi, xin bác hãy để tôi được sống yên vui trong cái nghèo của tôi hơn là sống giàu có nhờ vào của cải người khác. Như thế cũng là một cách ăn cắp.

Người thương gia không còn lý lẽ gì để nói thêm bèn khoác hành lý lên vai, bất thần vất gói vải đựng nửa số vàng lên bàn rồi bỏ chạy. Ý định của ông ta là bắt buộc bác nông dân phải nhận sự đền ơn, nhưng bác vội nhặt gói vàng rồi đuổi theo, miệng hô hoán:
– Bớ người ta, thằng ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp.

Dân trong làng nghe tiếng hô hoán liền đuổi theo bắt được người thương gia dẫn trở lại trước mặt bác nông dân, hỏi:
– Hắn đã ăn cắp vật gì của bác?
Hắn định ăn cắp cái tâm công chính và chân thật mà tôi có được từ ngày tôi học Phật!

Những người làm việc công mà đòi trả ơn, làm việc thiện chỉ do tư lợi, làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị… thảy đều không hiểu chuyện nầy!!

Lính Thuỷ Sưu tầm

CHIẾC ÁO RÁCH

CHIẾC ÁO RÁCH

Một linh sư Ấn giáo rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử. Nhận thấy anh ta không cần sự dìu dắt của mình nữa, nên ông bỏ mặc anh trong túp lều tranh rách nát bên cạnh bờ sông. Một hôm buổi sáng, khi thức dậy, người đệ tử xuống dòng sông thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếc áo rách của mình. Đó là tài sản duy nhất của anh.

Ngày kia, anh nhận ra chiếc áo của mình phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn rách tả tơi. Anh đành phải vào làng xin một chiếc áo khác. Cái áo này cũng bị chuột gặm nát như tương. Anh mới xin về một con mèo. Lần này, anh khỏi phải lo chuột quấy phá. Nhưng không xin áo thì phải xin cơm bánh .Ngày ngày phải vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một gánh nặng cho dân làng. Vì thế, anh tìm cách tậu cho bằng được một con bò để lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò thì cũng phải có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh còn tự mình cắt cỏ. Về lâu về dài, anh đành phải thuê người cắt cỏ vì không có thì giờ cầu nguyện. Bò càng ngày càng sinh sản ra nhiều, người cắt cỏ cũng phải gia tăng.

Chẳng mấy chốc, mảnh đất xung quanh túp lều của anh đã trở thành nông trại. Con người đã một thời muốn bỏ tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên làm một chủ nông trại giàu có. Có tiền, có mọi sự, nên anh cũng muốn có người chia sẻ công việc của anh. Anh đành phải cưới vợ.

Khi vị linh sư có dịp về thăm ngôi làng cũ, ông ngạc nhiên vô cùng vì túp lều nghèo nàn bên bờ sông nay đã là cả một cơ nghiệp. Ông hỏi người đệ tử:

-Thế này nghĩa là gì hở con?

Người đệ tử mới trả lời:

– Có lẽ thầy không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này hiện hữu cũng chỉ vì con đã không làm cách nào để giữ được chiếc áo rách!

***

Cám dỗ nào cũng ngọt ngào như mật lôi kéo bầy ong, như hương hoa cuốn hút đàn bướm. Có nhiều thứ săn đuổi chúng ta trong cuộc sống lắm! Bao lâu còn mang bản tính con người, bấy lâu người ta còn thích hưởng thụ, dễ dãi, thoải mái. Con người chỉ có thể thắng vượt cơn cám dỗ khi họ tự biết chính mình. Con người chỉ thực sự khôn ngoan khi biết mình mang thân phận yếu hèn tội lỗi. Người đệ tử của vị linh sự Ấn Giáo ngày càng rời xa nếp sống tu hành vì chính anh chưa một lần nhìn lại bản thân. Có nhìn lại bản thân con người mới thấy mình cần phải hoán cải, canh tân.

Thiên Phúc

5.000 ngày trong cõi A Tỳ

5.000 ngày trong cõi A Tỳ

VRNs (27.01.2014) – Sài Gòn – Hồi ký của ông Bảo Lộc, bút hiệu Hồng Châu, ông là Phó Tỉnh Trưởng Thừa Thiên (Huế) trong thời gian Tết Mậu Thân, đã bị VC bắt khi chúng đột nhập Huế…

Đây là chuyện thật của một nhân chứng sống sót trong biến cố Mậu Thân tại Huế, ông may mắn không bị CS sát hại, nhưng bị đưa ra Bắc cầm tù 13 năm từ 1968 đến 1980 và đã đào thoát được trong một trường hợp hy hữu.

* * *

14012707

Tôi thức dậy với tiếng nổ lớn phía cầu Kho Rèn vọng lại. Từ nhà tôi đến nhà máy điện chỉ nửa cây số. Chấn động lan tỏa làm cửa ngõ và đồ đạc trong nhà rung chuyển dữ dội. Tôi cố bật đèn để tìm chiếc máy điện thoại, nhưng chỉ thấy tối om, điện đã bị cắt. Dưới ánh sáng ngắn ngủi của chiếc bật lửa, tôi cố quay số gọi vài nơi để tìm hiểu tình hình, nhưng vô ích, không nơi nào chuông đổ, đường điện thoại đã bị đứt. Mở chiếc máy thu thanh bán dẫn nhỏ, tôi hy vọng qua những làn sóng xa xôi, có thể bắt gặp vài tin tức hữu ích. Nhưng cố gắng này của tôi cũng chẳng đem lại chút kết quả gì, chỉ có những bản nhạc xa lạ và tiếng sè sè của những băng tần không phát sóng kéo dài chán nản.

– Thôi anh ạ, có gì đợi sáng rồi sẽ hay. Bây giờ mình vào hầm trú ẩn đi, có thể chúng lại pháo kích tiếp như lần trước đấy.

Vợ tôi chia sẻ mối băn khoăn của tôi bằng hành động thực tế là nghĩ đến sự an toàn trước mắt đã. Chúng tôi chạy vội sang phòng kế bên, ẵm đứa con nhỏ đầu lòng mới tròn 6 tháng, đưa vào chiếc hầm nổi cất bằng những bao cát nhỏ xếp lại ở góc hành lang nối liền phòng khách với phòng ngủ, không vững chắc lắm, nhưng cũng đủ che chở cho một gia đình nhỏ chống lại những quả đạn cối bắn trộm.

Trước đó, cũng như nhiều gia đình khác ở khu Tả ngạn, chúng tôi đã mấy lần nếm mùi pháo kích Cộng sản và cảm thấy coi thường cái trò chơi dọa nạt này khi chỉ với một chiếc hầm cất tạm, chúng tôi đã có thể yên tâm tiếp tục giấc ngủ bị phá quấy, để sáng mai trở dậy thấy cuộc sống vẫn bình thường như không có gì đã xảy ra.

Lần này, tuy những dấu hiệu mới cho tôi linh cảm đã có một cái gì khác lạ. Nhưng sự im lặng tạm thời tiếp sau đó đã đánh lừa tính cảnh giác trong tôi, để dần dần du tôi vào nếp nghĩ đã thành quán tính. Thiu thiu ngồi đợi sáng trong căn hầm chật, tôi không còn nghe những tiếng nổ gần và rời rạc như tiếng pháo đã có lúc ran lên giữa đêm.

– Chắc chúng đã rút đi rồi. Giờ nầy chúng không còn dám pháo nữa đâu, sợ lộ tọa độ đó, đại bác của ta câu xuống là chúng hết đường chạy.

Anh Duy, người Cảnh sát Dã chiến trẻ tuổi vừa cưới vợ tháng trước, được tôi cho ở nhờ căn nhà dưới, dè dặt góp ý. Anh đang vận động để được biệt phái giúp việc cho tôi, nhưng chưa được. Anh cũng đang sốt ruột đợi sáng để trở về đơn vị.

Tôi không tỏ ý kiến nào, nhưng trong trí tôi đang diễn lại những lần trao đổi với Thiếu Tá Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu (Sau này là Đại Tá Tỉnh Trưởng, còn bị Cộng sản cầm tù) về một biện pháp khả dĩ có thể trừ khử những ổ pháo di động của Cộng sản ngay khi chúng vừa bắn lén vào Thành phố. Thiếu Tá T. vừa khoe, sau nhiều tháng theo dõi, ông đã tóm cổ được bọn đặc công đã tham gia vụ pháo kích Khách sạn Hương Giang trước đây trong một cuộc hành quân lục soát ở quận Phú Thứ. Ông cũng nắm được tin tức về những toán phá hoại khác, thường theo ngã Vân Dương từ phía Nam lên hay Chín Hầm từ hướng Tây xuống để đặt pháo bắn vào Huế. Bọn này chỉ dám bắn cấp tập từng đợt ngắn rồi rút ngay vì sợ phản pháo.

Khi chúng tôi dậy mở cửa nhìn ra đường thì trời đã sáng hẳn. Ngày mùng 2 Tết bắt đầu với một vừng triêu dương xán lạn và những cơn gió Xuân phớt đùa trên ngọn cỏ long lanh sương sớm, thiên nhiên vô tình như không hề hay biết sự chết chóc, nỗi hãi hùng ngạt thở đang diễn ra đâu đây dưới những mái nhà cửa còn khép kín. Con đường Lý Thường Kiệt trải dài trước mắt tôi, vẫn thân thiết với những biệt thự nhu mì ẩn sau hàng dậu gỗ thanh bai, sáng nay ngoài vẻ kín đáo thường nhật, có một cái gì như hoang vắng, im lìm. Tôi vươn vai hít thở cái không khí ban mai tươi mát cho bõ những giờ ngột ngạt dưới hầm. Chung quanh hoàn toàn yên tĩnh. Anh Duy đã thay xong bộ y phục Dã chiến, định ra đi, còn cẩn thận nhắc nhở tôi can thiệp dùm với cấp trên của anh nếu sau này lỡ anh bị kỷ luật vì trình diện trễ.

Giữa khi đó thì tôi phát giác có những toán quân đang im lặng di chuyển trên đường. Họ đi từng người một, cách nhau vài trăm thước, ở cả hai phía vệ đường, từ phía cầu Kho Rèn hướng thẳng xuống nhà Bưu Điện Trung Ương và Khu Đại học. Lặng lẽ, rất lặng lẽ, những bóng người áo vàng, đầu trần, súng hờm sẵn đang tiến dần đến nhà tôi. Việt Cộng xuất hiện trên đường phố giữa thanh thiên bạch nhật – cho đến giờ phút ấy thật tình vẫn chưa hề có trong ý nghĩ tôi. Trong cái ấn tượng đột ngột ở ngoài nhận thức, tôi cứ cho họ là một thứ quân nào đó của Quốc gia và chỉ có thể là như thế. Vả lại, trông họ không giống với những hình ảnh của những Việt Cộng nằm chết ngài trận địa mà tôi đã mấy lần trông thấy từ mặt trận Cùa (Cam Lộ) cho đến Gia Đẳng, Nhan Biều (Triệu Phong) trên mình chỉ có chiếc quần đùi và mảnh áo bà ba đen, với nắm cơm vắt tung tóe bên người. Bọn này mặc Kaki, trên tay áo lại buộc một giải băng màu.

Tôi khép bớt cánh cửa để có thể tự do quan sát kỹ hơn. Tên đi đầu đã ngang tới cổng nhà tôi. Một cảm giác lành lạnh chợt chạy suốt người tôi. Tôi đã thấy rõ những ống quần xắn móng lợn cao thấu gối, những đôi dép Bình Trị Thiên trên đôi chân đen đủi, nét mặt vàng vọt, với khẩu AK băng đạn cong trên tay, lăm lăm họng súng đen ngòm. “Đúng là Việt Cộng rồi.” Tôi tự nhủ thầm như thế, rồi như một phản xạ tự nhiên, tôi chạy vội vào phòng lấy khẩu Carbine dấu sau cánh tủ, lắp đạn vào, đoạn trở lại phòng khách, đứng sau cánh cửa khép hờ, nơi tôi có thể nhìn rõ mọi cử động của chúng. Hồi đó, công chức chưa có lệnh vũ trang nhưng bác Thẩm, Trưởng Ty Nội An, đã dúi cho tôi một khẩu Carbine Ấp chiến lược còn mới nguyên, với lời dặn dò “Ông Phó cứ đem về nhà cất để dùng, biết đâu lại chẳng có lúc phải cần tới nó.”

Đúng, giờ phút này tôi mới thấy một cây súng trong tay là cần biết bao và tôi thầm cảm ơn bác bạn già đã biết lo xa cho tôi.

Toán quân Cộng Sản này không di chuyển trên đường chính, mà chạy lom khom dọc theo hai bên đường mương, mắt dáo dác nhìn quanh những ngôi nhà cửa đóng kín. Những tên đi đầu đã vượt qua nhà tôi, đang xây lưng lại phía tôi trong khi còn giữ một khoảng cách khá xa với những tên phía sau . Tôi không ghìm được mình, hướng mũi súng về một tấm lưng gần nhất sẵn sàng bóp cò. Tôi chưa hề giết người và cũng ghê tởm sự giết người, vốn là một giới cấm trong tín ngưỡng của tôi. Nhưng hôm nay, khi đặt tay lên cò súng, tôi như thấy mình đang làm một việc chính đáng.

Bỗng một bàn tay đặt lên vai tôi rồi một giọng nói nghe như van lơn, can gián:

– Đừng, đừng bắn, ông ơi. Họ đông lắm, ngã sau vườn mình cũng có họ nữa. Nếu biết có mình trong này, họ tràn vào thì mình chống không nổi đâu. Trong nhà còn có cô, có em nữa (Vợ và con tôi) ông cố đừng để cho họ biết. Người Cảnh sát trẻ cố can ngăn tôi trong một cử chỉ thật đầy lo âu.

Tôi thở dài, hạ mũi súng xuống đất, và ngẫm nghĩ : “Nếu ai cũng như mình, tránh né trước kẻ thù thì đại cuộc sẽ đi về đâu ?” – Nhưng lời nói của Duy cũng có lý, còn sinh mệnh của những người vô tội trong ngôi nhà này nữa. Tôi không thể vô trách nhiệm đối với họ. Tôi bảo anh Duy đi đóng chặt cửa ngõ lại, quyết tâm cố thủ, nếu chúng có ý định tấn công nhà tôi. Chúng tôi củng cố lại chiếc hầm, đặt chướng ngại vật trên lối đi, đoạn leo lên trần nhà quan sát. Từ chiếc cửa tò vò trên mái, tôi thấy những hàng quân Cộng sản cứ tiếp tục đổ về hướng nhà Bưu Điện, chậm chạp và thận trọng. Ngôi biệt thự hai tầng sơn trắng xế trước nhà tôi, tư thất của Manhard, viên đại diện cao cấp nhất của Mỹ ở Huế, vẫn yên lặng, nhưng thấp thoáng có bóng Việt Cộng ra vào. Tôi nhận rõ mối nguy hiểm mới. Tòa Đại Diện Mỹ đã bị chiếm và Cộng Sản đang đóng chốt ở đây dùng nơi này làm bàn đạp xuất phát cho những cánh quân tiền tiêu của chúng. Sớm muộn gì chúng cũng khám phá ra tôi, vì nhà tôi đã bị lọt vào thế bao vây của chúng.

Bỗng tiếng nổ chợt ran lên phía nhà Bưu Điện và ngã tư Lê Thánh Tôn – Lý Thường Kiệt, một đầu mối giao thông quan trọng dẫn đến nhiều cơ sở đầu não Việt, Mỹ. Cánh quân Cộng sản đã bị chận ở đây và chiến trận đang diễn ra ác liệt. Tiếng nổ đủ loại súng đã tạo ra một lưới đạn khủng khiếp đan chéo nhau ngay giữa mặt đường, đâm thẳng vào ngôi nhà tôi từ cả 2 phía. Chính lưới đạn tai ác nầy, kéo dài từ ngày này qua ngày khác, đã làm nhụt lòng những ai muốn tìm lại sinh lộ xuyên qua con đường bị Cộng sản khống chế ngay từ phút đầu này.

Mặc dầu đạn vẫn bắn xối xả, phòng khách, phòng ăn nhà tôi đã bắt đầu lỗ chỗ những vết đạn lớn nhỏ, tôi quyết trụ ở rầm thượng để dễ bề đối phó với địch. Nếu xuống hầm, tôi sẽ bị mất khả năng theo dõi mọi động tịnh chung quanh và trở nên bị động một cách nguy hiểm. Từ trên, tôi nhìn thấy bao quát khu vực quanh tôi đang hoang vắng, một quang cảnh chết chóc. Vắt ngang ngôi nhà kế bên của ông Thẩm phán Phạm Văn Hiền là một chiếc dù hỏa châu màu trắng từ đâu rơi xuống nằm sóng sượt như một giải băng tang. Bên kia đường là nhà ông Chánh án Nguyễn Khoa Hoàng, cửa vẫn đóng im, không ngờ một bi kịch thương tâm đã xảy ra. Ngay hôm đó, ông và người con, một luật sư trẻ tuổi, đã bị Cộng sản ập vào bắt dẫn đi. Và cho đến nay, gia đình vẫn chưa biết họ đã chết ở đâu. Nhìn về hướng đường Đống Đa, ngôi nhà sơn trắng nằm dưới hàng xoan xanh, nhà của Đại tá Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn I, vẫn kín cổng, chưa có vẻ gì bị đột nhập. Tôi tự hỏi giờ phút này ông ở đâu, đang cầm quân cự địch hay cũng kẹt lại như tôi. Nhưng mối quan tâm của tôi hướng nhiều hơn đến góc đường Lê Thánh Tôn, nơi mà các đợt xung phong dành kho bạc, nhà giây thép, trụ sở Dân Ý Vụ vẫn xảy ra dữ dội. Tôi nghe như có cả tiếng xích xe tăng đang nghiến mặt đường.

Cái biệt thự cao cao nằm kế bên nhà hàng Chaffanjon cũ đang phơi mình hứng đạn từ bốn phía kia, là công ốc dành cho ông Chưởng Lý Bùi Hòe Thực. Cụ Thực đã mấy lần đến năn nỉ tôi đổi nhà với cụ, vì muốn ở gần những bạn đồng tòa như cụ Biện Lý Phạm Trung Côn, ông hội thẩm Hiền, đều là láng giềng của tôi. Nếu tôi đồng ý với đề nghị của cụ, không hiểu số phận gia đình tôi đã thế nào, có thể tốt hơn nhưng cũng có thể xấu hơn. Cách đó trăm thước là tư thất Tướng Ngô Quang Trưởng. Ngôi nhà hai tầng chỉ có một công sự nhỏ bằng bao cát để lính gác kiểm soát người ra vào, nơi mà ông sống với gia đình, liệu có đứng nổi trước sức tràn ngập của quân Cộng sản ? Nhớ lại tình hình chiều 29 Tết, khi Sĩ quan các đơn vị lễ mễ mang những cành mai đến chúc Tết vị Tư Lệnh theo phong tục cổ truyền, tôi đã thấy Tướng Trưởng nghiêm khắc ra lệnh cho họ phải về ngay đơn vị để chuẩn bị đối phó với tình thế mới. Chứng kiến thái độ cảnh giác của ông hôm ấy, tôi bớt thấy bồn chồn khi cảm thấy Việt Cộng như có vẻ đã làm chủ tình hình khắp nơi. Thực tế, sau khi ban hành lệnh cấm trại 100% cho tất cả Quân nhân, Tướng Trưởng đã có mặt tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ngay đêm mồng một và từ đó ông đích thân Chỉ huy các cuộc phản kích bảo vệ căn cứ, khi cuộc tấn công bắt đầu xảy ra.

Tôi đang loay hoay dựng lại những khúc gỗ cản đạn trên trần thì bỗng “xoẹt, xoẹt”. Mái ngói trên đầu tôi vỡ toang hai lỗ lớn, hai viên đại liên ghim thẳng xuống cách tôi vài phân. Một chiếc trực thăng vũ trang UH-I A của Mỹ đang nghiêng nghé quan sát bên trên nhà Manhard, bỗng một tràng thượng liên từ bên trong bắn lên làm chiếc máy bay hoảng hốt vọt lùi và bắn trả nhiều loạt đạn dài, tiếng vang như sấm trước khi bay đi. Viên đạn suýt trúng tôi là từ máy bay bắn xuống. Trong trí viên Phi công, cả khu này đều đã lọt vào tay Cộng sản rồi, nhà nào cũng có thể có Cộng sản ẩn núp bên trong, nên đã tự cho mình cái quyền tự do oanh kích. Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của tai họa khác.

Với việc di động ngày càng nhiều các đơn vị Cộng sản xuất phát từ trường Thiên Hựu và các dinh thự bị chiếm cứ ven đường, khu Lý Thường Kiệt bổng trở nên một bàn đạp nguy hiểm để Cộng sản phóng ra những trận tấn công mới. Lực lượng giải tỏa đã thấy điều đó và những quả đạn cối thăm dò đã bắt đầu rơi xuống. Lúc đầu còn thưa, nhưng sau càng ngày càng dồn dập. Ngày đầu tiên chỉ có loại 60 ly, về sau là 80 ly, rồi đến đại bác. Đạn rơi ngoài đường, đạn rơi quanh nhà, xuống nhà hàng xóm. Ngôi nhà tôi vật vã dữ dội dưới sức ép và tiếng nổ như một cây nhỏ trước cuồng phong, một đồn hoang sắp bị hạ. Hai con chó Nhật bản khôn ngoan thường không rời chúng tôi nửa bước cũng quá khiếp đảm, tông cửa phóng chạy như điên ra đường để rồi gục xuống trước những luồng đạn hung bạo. Đó đây tôi cũng nhìn thấy thất thểu đoàn người chạy loạn, xô tới, dạt lui không biết tránh vào đâu lưới lửa tứ bề, cuối cùng , từng người, từng người gục ngã dần, xác gối vỉa đường, cho đến khi không còn ai.

Tình thế của tôi mỗi lúc mỗi hiểm nghèo thêm. Dưới nhà, vợ tôi không dám di chuyển nửa bước khỏi hầm núp. Con tôi không có nước pha sữa, đành cho ngậm Soda cầm hơi. Tinh thần ai cũng căng thẳng chờ đợi những nguy hiểm mới. Bỗng một quả đạn cối rơi trúng ngay phòng ngủ tôi, khói bụi bay mù mịt, vôi vữa rơi đổ rào rào. Tôi cảm thấy rát ở trán, sờ có máu. Một mảng đạn đã sướt qua đầu tôi, may chỉ bị thương nhẹ. Mái nhà bị sạt một bên làm lộ chỗ tôi đang ẩn núp. Việt Cộng đứng trên lầu nhà Manhard nhìn sang có thể thấy tôi. Một câu ngạn ngữ Pháp mà tôi tin chợt lóe ra trong trí tôi lúc đó khiến tôi phải xét lại quyết định của mình…”Jamais deux sans trois” (Việc gì đã xảy ra hai lần thì không tránh được sẽ xảy thêm lần thứ ba). Tôi đã hai lần hụt chết, làm sao tôi có thể thoát khỏi lần thứ ba, khi mà cái chết chưa biết sẽ ập xuống khi nào. Phải xuống nhà ngay, rồi tìm cơ hội thoát sau, tôi nhủ mình như thế và đưa mắt đảo qua tình hình chung quanh trước khi tôi không thể nhìn thấy chúng được nữa. Bọn cộng sản lỳ lợm hình như không sợ pháo của ta. Chúng vẫn đi lại, bố trí không ngừng. Quãng nào trống chúng chạy vội qua, đến chỗ kín, chúng lại di chuyển bình thường. Phía ruộng rau muống sau vườn nhà tôi nhấp nhô những mái tóc để rẽ theo lối trẻ con, nửa người lớn trên bộ Quân phục vừa vàng vừa xanh lá cây. Có những quả đạn B 40 như bắp chuối trên vai, khi phân tán, lúc tập trung, nham hiểm, rình rập.

– “Tình hình này thì cũng khó phá vòng vây của chúng đây”, tôi vừa mở nắp trần nhà để trụt xuống dưới vừa nghĩ bụng như thế.

Vào hầm thấy vợ tôi mệt mỏi, hốc hác ngồi tựa vào bao cát ôm con, đứa bé mềm oặt khóc không ra tiếng, trên tay lần dở cuốn kinh nhỏ in hình Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng tôi chợt mềm nhũn một tình cảm mến thương vô hạn. Tội nghiệp, người vợ trẻ còn nguyên nét học trò nếu không về với tôi, giờ đây có lẽ vẫn là một Sinh viên vô tư hồn đầy mộng ước, thả bước lá hoa trên ngưỡng trường Đại học, có đâu phải chia sẻ với tôi một số kiếp đoạn trường, lê lết những giờ phút kinh hoàng bấn loạn trong chiếc hầm tối đen ngột ngạt như địa ngục này. Và con tôi mới hôm kia còn hồng mởn, thanh tú như một nụ sưng, giờ đã gầy rộc, tái xanh như một tàu lá héo. Thế mà những hình ảnh thân yêu này chưa biết phút nào đây rồi sẽ phải xa lìa vĩnh viễn. Tôi phải phá vây tìm một sinh lộ, may ra đến được chốn an toàn, nhưng cũng rất nhiều rủi ro sẽ âm thầm ngã xuống tại một bụi bờ nào đấy ở ven đường. Tôi thấy trước số phận mình qua hình ảnh những đoàn chạy loạn gục dần, gục dần, đến khi không một ai còn lại trên đường. Nhưng cũng không thể bó mình trong chiếc hầm nhỏ để chờ giặc đến. Điều đó còn tệ hại hơn chết. Tôi hôn con và nắm tay vợ tôi như một dấu hiệu giã từ. Bên ngoài đại bác vẫn rơi đều, treo lơ lửng lưỡi hái tử thần trên chiếc hầm mong manh. Tôi nóng ruột đợi trời tối xuống để thoát ra khỏi nhà, định bụng sẽ băng qua hàng rào kẽm gai sau hè, men theo thửa ruộng cạn dẫn đến con đường tắt xuống Tiểu Khu, ở đó tôi hy vọng sẽ gặp được những đồng bạn đang chiến đấu. Tôi bảo anh Duy dấu bớt những thứ có thể làm lộ hình tích để lỡ bất chợt gặp địch, vẫn linh động đối phó được với chúng. Vũ khí chỉ sử dụng trong trường hợp tối cần thiết để tự vệ.

Chúng tôi vừa sửa soạn xong, đang chất lại mấy bao cát đã quá xiêu vẹo vì sức nổ lớn, để thêm chút vững chãi cho chiếc hầm thì bỗng “đoàng, đoàng, đoàng”. Ba tiếng nổ đanh lạnh vang lên từ phía bếp, tiếp đó một tiếng quát lớn giọng Bắc dội vào:

– “Ra ngay ! Tất cả mọi người trong nhà phải ra ngay. Chậm trễ hay kháng cự sẽ bị tiêu diệt. Ra, ra mau.”

Tôi vội ra ngay nhà ngoài xem cái gì đã xảy ra, vừa ngang ngưỡng cửa phòng khách, bỗng hai họng súng đen ngòm dí ngay vào hông, chận tôi lại. Hai tên lính Việt Cộng còn trẻ, mặt mày lạnh lẽo, phục sẵn từ hồi nào, im lặng chĩa súng vào người tôi. Chúng hất mũi súng, ra hiệu bảo tôi đi tới. Tiến thêm ít bước, tôi thấy nép sau tấm bình phong ngăn đôi phòng khách với phòng ăn, hai tên khác, súng hờm sẵn cũng đang chĩa về phía tôi. Và trấn ngay khung cửa dẫn xuống nhà để xe, nơi tôi định theo đó thoát ra ngoài, lại hai tên nữa, đương gườm gườm, sẵn sàng yểm trợ cho bọn đã lẻn sâu vào bên trong. Thì ra, khi những quả đạn oan nghiệt buộc tôi phải rời vị trí quan sát để tạm ẩn vào hầm thì bọn Cộng sản thâm hiểm đã lợi dụng hông cửa bị đạn pháo làm bung vỡ, lén đưa cả một bán tiểu đội vào phục sẵn trong nhà. Sự bất ngờ làm tôi không kịp trở tay, đứng sững nhìn những tên địch lần đầu đối diện, đau đớn nhận ra tình cảnh thất thế của mình. Chúng đã bố trí kỹ thế này, cho dù tôi muốn chúng phải trả giá cho sự hy sinh của tôi cũng không còn được nữa rồi. Chúng sẽ hạ tôi trước khi tôi kịp có một phản ứng nhỏ.

Bọn bên ngoài đã bắt đầu kéo vào. Một tên trung niên không mang chút phù hiệu nào trên người ngoài tấm vải nhỏ màu vàng buộc ngang cánh tay áo xắn cao, có vẻ là chỉ huy, thận trọng tiến lên, mắt nhớn nhác nhìn các gác phòng, nhìn lên trần nhà, như sợ có những mũi súng vô hình còn mai phục đâu đây.

– “Anh là Tỉnh phó ? ” Hắn hỏi, giọng cấp bách.

Tôi nhận ra là cái giọng vừa quát gọi phía sau nhà. Tôi không trả lời, đang nghĩ có nên có một hành động kháng cự để ngã trước mũi súng của chúng, ngay trên mảnh đất Huế, quê hương mà tôi cảm thấy đã không làm tròn trách nhiệm bảo vệ, hay cứ để xem, tìm một cơ hội khác. Thật tình, tôi không còn biết sợ mà chỉ thấy điếng tê một cảm giác chát chua. Cuộc đời tôi coi như đã hết. Có điều nên tự hủy cho tròn khí tiết một kẻ sa cơ hay chờ cái chết sẽ đến từ tay kẻ thù thì tôi chưa quyết định. Vừa lúc ấy vợ con tôi và anh Duy bị uy hiếp dưới những họng súng, được đưa ra từ cửa hầm, đứng sắp thành một hàng ngang bên tôi. Có tiếng lên đạn lách cách. Tôi rùng mình nghĩ đến hành động dã man thường có của Cộng sản. Tên chỉ huy sấn đến, chĩa súng vào vợ tôi, mặt đầy sát khí :

– Chị phải nói cho thật, hắn chính là Tỉnh phó phải không ?

Khi đó, tôi thấy vợ tôi bình tĩnh một cách kỳ lạ, bình tĩnh theo linh cảm đàn bà. Vừa cố dỗ cho đứa con khỏi khóc, vợ tôi nhìn thẳng vào tên chỉ huy, rành rọt đáp, sắc mặt không đổi.

– Nếu ông biết có Tỉnh phó nào trong nhà này thì ông cứ việc lục soát. Riêng tôi, tôi không biết ai như vậy cả.

– Được rồi, chúng tôi hỏi là để thử xem sự thành khẩn của các người thôi. Cách mạng đã theo dõi và nắm đủ tin tức trong tay, các người đừng hòng ngoan cố che mắt Cách mạng.

– Các đồng chí, dẫn tên này đi. Hắn cười gằn rồi quay lại ra lệnh cho đồng bọn.

Mặt tôi đanh lại, nhớ đến những tên học sinh thường lượn lờ trước cổng nhà tôi và nhà Manhard. Chính bọn chỉ điểm nầy đã làm tai mắt trước cho những tên bắt người. Tôi thấy nóng ở cổ khi hai tên rút cuộn thừng dắt sẵn ở thắt lưng, tiến lại phía tôi. Tôi như không còn chịu đựng nổi cái ý nghĩ phải thúc thủ nhìn chúng nó trói mình, thà chết chứ không như thế này được. Tôi vừa rướn người trong một tư thế định vùng dậy thì vợ tôi chợt nhìn thấy.

– Anh cứ đi đi, đừng lo nghĩ gì đến em và con.

Tôi hiểu vợ tôi đoán biết ý nghĩ liều lĩnh của tôi và không muốn trông thấy cái chết của chồng xảy ra ngay trước mắt mình. Ánh mắt đau thương của người vợ trẻ đã cầm chân tôi lại trong cái ý định nửa chừng. Một lần nữa, tôi lại thở dài. Tôi sắp vĩnh viễn chia lìa vợ con, hình ảnh cuối cùng để lại trong lòng người thân thương không thể là một hình ảnh đầy máu. Vợ tôi khó sống nổi với cái ám ảnh chết chóc của chồng. Hai tên Bộ đội bắt đầu đẩy tôi đi. Ngoái nhìn, tôi thấy vợ tôi nước mắt ràn rụa, đứng sững trông theo não nùng như pho tượng vọng phu. Đó là lần cuối chúng tôi trông thấy nhau trên phần đất Tự do của Tổ quốc.

Tôi ra đi mang theo hình ảnh Huế đô điêu tàn vật vã và người vợ chờ đơn độc đứng ôm con. Phải 13 năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau sau khi đã nếm trải đủ mùi đày đọa và tưởng nhau đều đã chết, duy quê hương thì mãi mãi đã không còn. Tôi bước đi như cái xác không hồn theo sự xô đẩy của hai tên Bộ đội người Bắc. Qua cung cách hành hạ của chúng, tôi biết chúng muốn tôi chết đi cho rảnh thân hơn là phải mất công coi ngó, giữa lúc bom rơi đạn lạc như thế này. Bắt đầu ra khoảng trống, nhất là lúc băng qua mặt lộ, chúng đẩy tôi lên, bắt chạy trước, còn chúng thì nằm xuống vệ đường để tránh đạn, mũi súng luôn chĩa thẳng vào lưng tôi. Thâm ý chúng là dùng tôi làm cái bia hứng đạn, chỉ khi nào thấy tôi vượt qua không hề hấn gì, chúng mới vội vàng nhổm dậy chạy theo. Đó cũng là cách thức giải người thường thấy của Cộng sản trong những khu vực còn giao tranh ở Huế. Biết bao nhiêu người đã không vượt qua khỏi lằn đạn như tôi, phải ngã xuống giữa đường khi vừa bị Cộng sản bắt đi. Những con đường Huế đầy xác người vắt ngang hay sắp lớp bên lề, phải chăng là hình ảnh không chối cãi của một tội ác tày trời.

Tôi tưởng chúng sẽ dẫn tôi đến tận đâu, ai ngờ chúng chỉ đưa tôi đến nhà Manhard rồi trói lại, bỏ tôi ngồi đấy. Một người đeo kính trắng bị trói, ngồi ủ rũ gần cửa ra vào. Nhìn kỹ tôi mới biết là người láng giềng, dạy Pháp văn ở trường Quốc Học, có lẽ cũng mới bị bắt sáng nay. Một lát sau, tên Chỉ huy bước vào, hắn cật vấn lại vài câu, đoạn ra lệnh cởi trói và cho người này về. Chỉ mình tôi còn lại trong phòng khách trống hoác, không còn chút đồ đạc gì ngoài những vỏ chai rượu vỡ vứt nằm lỏng chỏng đó đây. Cũng tại căn phòng này, hôm 29 Tết, Manhard còn ngồi tiếp tôi trong chiếc ghế bành sang trọng và một tủ rượu đầy ắp rượu quý. Hôm đó, vừa theo phái đoàn Thủ Tướng Lộc đi thăm ấp chiến lược kiểu mẫu ở quận Hương Thủy về, thì Manhard cho người mang cặp rượu sang biếu Tết. Tiện đường, tôi ghé thăm đáp lễ, đem theo bức tranh sơn dầu “Người đội mũ đỏ”, một tác phẩm có giá trị nghệ thuật của họa sĩ Đinh Cường mà tôi vừa mua trong một cuộc triển lãm hội họa mùa Đông của anh, tặng lại Manhard. Viên đại diện Mỹ đầu tiên thuộc ngạch ngoại giao và có một lối giao tế nhân sự cũng hết sức… ngoại giao (Và cũng để nhân đó giới thiệu với người Mỹ một sinh hoạt Nghệ thuật địa phương).

Vào năm 1967, “Việt Nam hóa chiến tranh“, mới còn là một khái niệm chỉ thỉnh thoảng xuất hiện một cách dè dặt trên báo chí Mỹ. Nhưng nhìn vào những thay đổi nhân sự trong cơ cấu viện trợ Mỹ tại địa phương, thì hình như kế hoạch đã được khởi động từ những ngày sớm hơn người ta biết. Nếu trước đó, những đại diện USAID, thường là những người, hoặc là có cái xông xáo, ôm đồm của một cán bộ tận tình với công tác, dám hy sinh vì lý tưởng, hoặc mang cái tinh thần hẹp hòi, cứng ngắc của một loại thư lại máy móc, coi thủ tục giấy tờ nặng hơn mục tiêu chính trị, thì từ sau ngày được biến cải thành Cơ quan CORDS, những đại diện mới rõ ràng đã đem lại một phong cách mới, không chỉ trong công tác, mà cả trong quan hệ đối xử với đồng minh.

Ở Quảng Trị, khi Whitfield, viên đại diện USAID nói tiếng Việt sõi như người Việt, giữa hoàng hôn vẫn dám một mình một xe lên Cam Lộ, ra Gio Linh, vào Hải Lăng thâu thập tin tức, kiểm chứng tình hình, mãn hạn hợp đồng về Mỹ thì người thay thế là một cựu lãnh sự Mỹ ở Ý, cao gần hai thước, nhưng rất nhỏ nhẹ hiền lành, đến với tỉnh địa đầu giới tuyến như một sứ giả của Hữu nghị và Hòa bình, hơn là một đồng minh đang chiến đấu. Cũng thế, khi trụ sở CORDS ở Huế thôi đặt bên cạnh Tòa Hành Chánh tỉnh, để dời về địa điểm mới phía sau nhà Bưu điện, thì cũng là lúc chấm dứt cái thời kỳ trì trệ của Lofton, viên đại diện già quá nhiệt thành với nguyên tắc kiểm soát, đến thành cản trở chương trình yểm trợ và làm vẩn đục mối quan hệ cộng tác giữa đôi bên.

Đến đảm nhiệm chức vụ đại diện CORDS thay thế Lofton, Manhard vẫn mang ngạch số ngoại giao và hành sử công việc như thể vẫn còn là một lãnh sự ở Milan. Bên cạnh công tác bình định, giờ được phối hợp uyển chuyển hơn, Manhard chú trọng nhiều đến việc xây dựng mối quan hệ hiểu biết với các nhân vật có tên tuổi, các nhóm áp lực có ảnh hưởng tại địa phương. Qua những cố gắng mới, có thể thấy, vị trí và tiềm năng của Việt Nam Cộng Hòa đã bắt đầu được chú ý đến một cách đáng kể trong chương trình bình định và nỗ lực chống cộng. Trong những ngày còn bận rộn với chương trình bình định cuối năm, Manhard đã tỏ vẻ thực sự lo ngại về tin tức một cuộc tấn công vào Huế của Cộng sản. Đoàn Công Lập cho tôi hay Manhard đã nhiều lần đích thân đến gặp Lập để xin cho người đến bảo vệ. Đây là một hành động khá khác thường đối với một giới chức cao cấp Mỹ.

Thẳng thắn mà nói, hồi đó người Mỹ thường không mấy tin tưởng vào khả năng bảo vệ của cơ quan an ninh Việt Nam. Các cố vấn Mỹ bằng phương tiện riêng, tự tổ chức lấy việc bảo vệ an ninh cho bản thân mình. Thường cứ vài người thuê chung một biệt thự, có lính Lôi Hổ đứng canh gác. Lôi Hổ là một đơn vị đặc biệt do người Mỹ trực tiếp tuyển mộ và trả lương, gồm những thanh niên ngang tàng không sợ đánh nhau và không sợ cả kỷ luật, đa số là người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn. Ở khu vực hữu ngạn, khi cộng sản – được chỉ điểm trước – tấn công bao vây nhà các cố vấn Mỹ, đã bị các binh sĩ Lôi Hổ đánh trả dữ dội, chúng bị chết rất nhiều. Có nhiều nhà quân Cộng sản chết sắp lớp mà vẫn không chiếm được, sau chúng phải dùng quỷ kế dụ hàng và vây hãm nhiều ngày cho hết đạn bên trong mới chịu buông súng. Những anh em Lôi Hổ cùng đường này, khi bị bắt lên núi, ngồi nhìn cái chết chậm vì đói rét, bệnh tật đang từ từ đến, đã đấm ngực tự trách sao không quyết tử đến cùng với quân Cộng sản, để dù có ngã xuống thì vẫn còn nhẹ nhàng hơn “Sống như chết” thế này.

Yêu cầu của Manhard được Ty Cảnh sát Huế thỏa mãn và vào những ngày giáp Tết, nhìn qua nhà viên đại diện Mỹ, tôi bắt đầu thấy có Cảnh sát Dã chiến đến canh ở cổng.

Khi ngôi nhà bị chiếm, tôi không biết có sự kháng cự nào không, nhưng giờ đây, ngồi giữa căn phòng đã được Cộng sản biến thành một cứ điểm tiền tiêu của chúng, tôi không thấy một ai còn lại trong nhà, ngoại trừ những tên lính chiến đấu Việt Cộng mặt mày âm u hiểm ác, lưng choàng tấm vải dù loang lổ, ẩn hiện đi về như những cánh dơi ăn đêm. Dấu vết phá phách, đập vỡ và sự tan biến của mọi đồ vật chứng tỏ ngôi nhà đã bị lục soát, cướp bóc nhiều lần. Sau này, tại một vùng hẻo lánh rất xa Huế, tôi thấy chiếc xe của Manhard nằm bẹp dí dưới một lùm tre bên đường khi tôi bị Cộng sản đưa lên núi. Bọn Cán bộ đã dùng xe này đi lại để che mắt máy bay rồi khi hết nhiên liệu, chúng vứt lại bên đường. Đó là dấu vết duy nhất của Manhard mà tôi được biết sau khi cuộc tấn công xẩy ra.

Bọn Việt Cộng mải mê với việc tiếp viện cho đồng bọn gần đấy, có lúc tưởng như đã quên tôi. Nhưng không, dụng ý của chúng gian ác hơn nhiều. Ngôi nhà mà chúng giữ tôi đang là mục tiêu bắn phá của nhiều loại pháo không hiểu từ đâu câu lại. Chúng trói bỏ tôi ngồi ngay ngưỡng cửa nhìn ra chiếc sân cỏ chốc chốc khói bụi và đất cát lại nẩy lên vì đạn rơi trúng. Đạn nổ sát bên tôi nhiều lần, nhưng không hiểu sao tôi lại chưa chết. Việt cộng muốn mượn bom đạn ta để giết người của ta – như chúng đã lùa đồng bào chạy loạn bên Thành Nội lên cửa Chánh Tây để cho máy bay Mỹ bắn chết – nhưng thêm lần nữa, mưu định của chúng không thành. Trong chiến tranh, bom rơi đạn lạc là sự thường tình nhưng nhiều khi muốn chết cũng không phải là dễ.

Một lát sau, dãy tường cao, cổ kính ảm đạm dưới trời mây của ngôi trường Thiên Hựu đã hiện ra trước mắt tôi. Những khung cửa lớn màu nâu mở toang hoang, trống trải cho thấy nhiều bóng người đi lại bên trong. Nhưng không phải hình ảnh thường thấy của những linh mục người Pháp cao lênh khênh trong bộ áo chùng đen thậm thượt, hay những Học sinh nội trú hiền lành mà là sự chuyển động đen tối của bóng dáng yêu ma, lấy mái học đường làm nơi tụ ác. Bước qua những mảnh cửa kính vỡ dọc hành lang ngôi trường và xác những con lợn lai to lớn, không hiểu tại sao nằm chết ở đó, tôi bị dẫn vào một phòng học bỏ trống, cửa ngõ mở banh, không khí rùng rợn như một trạm hành quyết. Góc tường, nhiều vết đạn lỗ chỗ và một vũng máu lớn lan đọng trên nền, chỗ còn đỏ tươi, chỗ đã đen thẫm, bốc lên một mùi tanh khó tả của máu người. Cổ họng tôi nghẹn đắng một cảm giác căm hận. Không nghi ngờ gì nữa, đây là chỗ Việt Cộng thủ tiêu người. Bao nhiêu người đã bị xô vào góc tường này để hứng lấy những phát đạn bắn gần. Máu họ còn đó, nhưng thân xác bị vùi dập nơi đâu ?

Lúc đó, thật tình tôi không biết ở khu vực quanh tôi nhiều người cũng bị bắt đến đây như tôi và càng không thể ngờ rằng trong số những người không may đó, có rất nhiều gương mặt, quen cũng như không quen, đến nay vẫn tuyệt mù tăm tích, không biết sống chết ra sao. Trường học là nơi đóng quân trong Thành phố của Cộng Sản, cũng là bãi giết người tập thể. Hầu như ít ai đã lọt vào đây mà được trở về. Tôi bị bắt khi Cộng quân đang chuẩn bị rút. Chúng bận rộn lo di tản thương binh và chống đỡ với phi pháo nên hoạt động khủng bố phần nào bị hạn chế. Suốt hôm đó tôi không thấy có ai thêm bị đưa vào trường ngoại trừ anh Luận. Nhưng những xác chết trong đêm mà tôi thấy nằm rải rác trên đường đi từ ngã tư Nguyễn Huệ – Lý Thường Kiệt cho đến phía bên kia Cầu Kho. Hèn chi Cộng sản bắt đầu đưa tôi lên núi, thì rất có thể họ là nạn nhân của những vụ hành quyết tại chỗ.

Càng gần thất bại, Cộng quân càng trở nên dã man. Diễn tiến tình hình tại Huế đã cho thấy như vậy. Chỉ tiếc màn đêm và sự canh chừng của Cộng sản đã không cho phép tôi nhận diện được họ rõ hơn. Chỉ biết đấy là xác những thường dân, trên người còn mặc bộ áo quần ngủ. Tôi thông cảm sâu sắc niềm đau miên viễn của gia đình những người bất hạnh. Mười mấy năm qua vẫn chưa thôi truy tìm dấu vết người thân, dầu là một chứng tích bi thảm cũng đành lòng, hơn chút ảo tưởng sống còn, ngày càng mơ hồ vô vọng. Bản thân tôi, gia đình tôi không chỉ hết nước mắt nhớ thương, mà hết luôn cả hy vọng nhặt xác con về. Có hầm chôn tập thể, khe suối vùi người nào được khai quật mà gia đình tôi không đến lật tìm từng mảnh vải còn vương, đến hàm răng, chiếc sọ bầy nhầy, để xem có di thể tôi trong đó không. Những người thân yêu nhất trong đời tôi, mẹ tôi, chị tôi – khi nhắm mắt vẫn còn yên trí tôi đã là một hồn ma không còn trên cõi thế.

Trở về sau 13 năm trôi dạt ngục tù, tôi xem ra thành kẻ chứng nhân cho một chuỗi ngày khổ tận. Không phải tất cả những người mất tích đều đã chết. Nhưng sự sống sót chỉ là hạt cát trong biển máu không lồ. Mỗi trại giam lụp xụp giữa Trường Sơn là một khu mồ dựng sẵn. Nhưng bản năng sinh tồn cũng có những sức đề kháng kỳ lạ. Có những lời nhắn gởi bị dìm đi, nhưng cũng có những lá thư nhà đầy khí khái của kẻ sĩ sa cơ, coi nước đã mất thì nhà không còn…

Nhìn chúng đi lại tôi ước lượng khoảng một đại đội Việt cộng đang chiếm đóng khu trường. Nhiều tên ghé lại đứng nhìn ngắm chúng tôi rồi chỉ trỏ bàn tán với nhau. Có vẻ chúng đang chuẩn bị đem chúng tôi ra bắn. Một tên du kích mặt non choẹt, toàn thân vàng bủng nhưng điệu bộ cực kỳ hung ác được giao canh giữ chúng tôi. Bằng một giọng Thừa Thiên quê đặc, hắn vừa phun ra những lời chửi rủa độc địa, vừa dí mũi súng Carbine vào người tôi, ngón tay cong lại như sắp bóp cò. Vừa khi đó hai chiếc trực thăng vũ trang bỗng từ đâu sà đến, nhả liền mấy quả rốc kết vào bọn Việt cộng trên lầu. Khói bụi bốc mù mịt, vôi vữa rơi đổ ào ào. Mấy tên du kích hốt hoảng tìm chỗ ẩn núp, quên khuấy chúng tôi. Ngồi trên chiếc bục giảng bài của thầy giáo, tôi ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh chiến đấu đang diễn ra. Tôi thầm cảm phục sự can đảm của hai viên Phi công trực thăng. Từ các cửa sổ tầng trên ngôi trường, các họng súng đại liên, trung liên, cộng với hằng trăm cây súng cá nhân Cộng sản thi nhau nhả đạn vào hai chiếc máy bay, tưởng như thế nào cũng bị tiêu cháy đến nơi. Nhìn từ phía trận địa địch, rõ ràng trong chiến đấu, trực thăng là một đối tượng rất dễ bị tổn thương. Thế mà cái khối chậm chạp lắc lư đó như không biết sợ là gì, vẫn bình tĩnh lượn gần quan sát, thỉnh thoảng nghiêng mình bắn trả những đường đạn chính xác. Tôi nghe rõ nhiều tiếng kêu la trên lầu vọng xuống.

Bọn Cộng sản đã bị trừng trị. Trong tiếng la thất thanh tôi nghe cả giọng đàn bà. Chúng điên cuồng hò nhau bắn trả, nhưng hai chiếc trực thăng chỉ dạt ra rồi lại sà xuống tiếp tục bắn phá. Ở những vòng lượn thấp, tôi nhìn thấy viên xạ thủ người Mỹ phơi mình bên khẩu đại liên, giữa lúc lao vào ổ địch mặt vẫn lạnh băng như không biết sợ là gì. Cũng những người lính viễn chính ấy tôi thường gặp trong những phi vụ đưa đón phái đoàn, từ sân bay Thành Nội, bãi đáp MACV đến không trạm quân đoàn, trông họ rất đỗi bình thường, lặng lẽ và lễ độ. Thế mà giờ đây trong mắt tôi họ bỗng trở thành một thứ Hiệp sĩ thần kỳ, phù nguy diệt bạo. Tôi hoàn toàn không nghĩ là mình đã được giải cứu, nhưng vẫn cảm thấy một cái gì như hả dạ khi biết rằng bọn sát nhân đang bị những đòn giáng trả đích đáng. Có thể chúng sẽ giận dữ hơn, tàn bạo hơn đối với những người rơi vào tay chúng, nhưng ít ra chúng cũng hiểu không kẻ nào gieo gió mà không gặt bão.

Nhưng tiếc thay sự hiện diện của lực lượng Đồng minh hôm đó chỉ có thế. Sau khi hai chiếc trực thăng bỏ đi, bầu trời im ắng trở lại, trả cho bọn Cộng Sản cái quyền thao túng mặt đất mà chúng đang nắm giữ bằng sắt và máu. Cũng như tất cả những người bị cô lập với bên ngoài, tôi có cảm tưởng lực lượng ta đã rã hết rồi. Và chiếc máy bay chợt đến rồi lại chợt đi như đóm lửa chưa kịp bùng cháy mà đã vội tắt. Thấy tạm yên, mấy tên du kích đanh ác lại ngóc đầu lên. Nhưng lần nầy chúng có vẻ hơi gờm, chỉ gườm gườm nhìn chúng tôi chứ không chửi rủa và đòi dọa bắn.

Đến tối, hình như có lệnh mới, chúng tôi được dẫn tới một phòng khác có vẻ là nơi chuẩn bị để di chuyển. Đi qua những hành lang dài hun hút nhưng tuyệt không một ánh đèn, chúng tôi bước mò mẫm trên những mảnh kính vỡ và nhiều chướng ngại không tên, để cuối cùng dừng lại trước một cánh cửa tối om. Chúng đẩy tôi vào và bảo ngồi đấy đợi. Quơ tay, tôi sờ thấy một chiếc mền dạ không hiểu của ai vứt lại trên thềm. Tối quá tôi không biết ngoài tôi và anh Luận còn có ai trong phòng nữa không. Nhưng chắc chắn là có người vừa từ ở đây bị dẫn đi và vì vội quá nên không kịp đem theo chăn mền của mình. Chiếc khăn dạ tốt, loại nhà binh Pháp để lại, nhất định không phải thứ mà Cộng sản có được. Đêm tháng Giêng trời lạnh, trên mình lại chỉ phong phanh một bộ đồ mỏng, không dày dép, tôi và anh Luận quấn luôn chiếc mền vào người và cũng không có ý định giao nó lại cho những tên Việt cộng tham lam. Sau này, khi chuyển trại, chiếc chăn được xé làm đôi, tôi một nửa, anh Luận một nửa. Chính nhờ mảnh chăn đó mà tôi đã có thể cầm cự nổi với cái rét cắt da thịt của Trường Sơn, và đã không sớm ngã xuống như nhiều anh em khác. Khi đưa ra giam ở Miền Bắc, tuy có được phát mền sợi Trung cộng, nhưng tôi vẫn giữ mảnh chăn bên người với ý định sau này nếu có cơ hội sẽ tìm gia đình người có tấm chăn trả lại như một dấu tích của người thân để lại.

Càng về đêm, bọn Cộng sản lại càng đi rộn rịp. Như một loài ma ăn đêm, chúng có vẻ quen thuộc với bóng tối. Mọi sự chuyển vận, hoạt động đều không cần tới ánh sáng. Tiếng dép lốp nghiến xào xạc trên mảnh chai, tiếng súng khua lách cách. Thỉnh thoảng có ánh diêm chớp lóe đỏ, soi lên tường những bóng đen qua lại. Bỗng trong sâu thẳm của tối tăm nổi lên nhiều tiếng rên rỉ đau đớn. Tiếng rên đau phát ra từ dãy phòng phía hữu gần cổng chính ngôi trường. Ở đó có các thương binh của chúng nằm dài trên nền xi măng chờ được cáng đi. Qua thoáng nhìn vội, tôi thấy được cảnh tượng mà Cộng sản ít khi để lộ ra ngoài. Những thân người sắp lớp từ phòng này qua phòng khác, cái đã bất động, cái còn cựa quậy rên la, chứng tỏ khi đi gây tội ác, chúng đã tổn thất. Dấu giếm là sở trường của Cộng Sản. Sợ dân chúng biết, chúng đã dồn hết những đồng bọn không may vào đây, chờ đêm tối mới bắt đầu chuyển về sào huyệt. Những chiếc khăn màu xám dơ bẩn buộc túm hai đầu luồn dưới một thanh tre dùng làm đòn khiêng là cáng tải thương đường dài của chúng. Trong khi những tên bị thương khóc lóc, kêu khát đòi xin nước thì những tên khác vẫn thản nhiên bước qua, không buồn dừng lại hỏi han một tiếng.

Hồng Châu

Tết Tây – Tết Ta

Tết Tây – Tết Ta

2014 vừa đến thì Giáp Ngọ cũng phi nước đại vào. Mỗi năm, người Á Đông chúng ta được ăn Tết hai lần. Trong dịp này, tôi bỗng cần “ôn” lại phong tục tập quán ngày Tết ta và nhân thể nhắc qua ngày Tết “Tây” ở những quê-hương thứ hai của mình, nhân thể khai bút luôn.

Ngày đầu năm là một ngày lễ đã được ăn mừng từ lâu năm, lần đầu tiên hình như đã hơn bốn ngàn năm tại Babylone (hiện thuộc nước Iraq).
Thuở nguyên thuỷ, lúc kinh-tế dựa trên canh nông, người ta thường đánh dấu năm mới vào đầu mùa xuân, lúc vạn-vật bắt đầu sống lại và người nông dân bắt đầu gieo hạt đầu mùa. Dần dần, năm mới được “đồng hoá” vào ngày 1 tháng 1 đầu năm trong tất cả các loại lịch (âm-lịch hay dương-lịch).

1. Âm lịch – Dương lịch

Ngày Tết của người Tây phương được tính theo dương lịch (do Giáo-Hoàng Gregorio XIII lập nên). Ngày, tháng, năm được tính theo vị tri của quả đất chuyển động chung quanh mặt trời (do đó gọi là dương lịch): 365,5 ngày một năm (365 ngày hoặc 366 ngày những năm nhuận, mỗi 4 năm).
Ngày Tết ta thì được tính theo âm lịch, nghĩa là tháng được tính theo chu kỳ vận-hành của mặt trăng chung quanh quả đất: ngày đầu tháng là tháng mới (new moon / nouvelle lune) và ngày thứ 15 là trăng tròn (full moon / pleine lune) và 1 năm chỉ có 354 (29,5 x 12) ngày.
Trên thực tế, các loại lịch này phải được gọi là âm-dương lịch vì tháng được tính theo mặt trăng nhưng năm thì lại tính theo mặt trời để trùng khớp với mùa màng, cho nên cứ 2 (hoặc 3) năm phải thêm vào 1 tháng để 1 năm có đủ 365,5 ngày..
Ngày nay, dương lịch đã trở thành lịch quốc-tế, âm-dương lịch chỉ còn dùng cho những ngày lễ cổ-truyền hay tôn giáo (ngày Tết, Trung Thu, lễ Vu Lan…) hay trong thiên văn, tử vi.

2. Tết Tây

Hết năm cũ, sang năm mới là một cơ-hội để ăn mừng trên toàn thế-giới và ngày mồng 1 tháng giêng dương-lịch đã trở thành ngày lễ mừng năm mới trên (gần như) toàn cầu.
Nếu Giáng Sinh được xem như một ngày lễ trong gia-đình và ở nhà thì người ta thường ăn mừng năm mới với bạn bè ở ngoài (tiệm ăn, vũ trường, …).
Và đã gọi là sang năm mới thì năm cũ phải kết-thúc, cho nên thời-điểm quan-trọng phải là lúc chuyển-tiếp, nghĩa là ngày 31 tháng 12 (dương-lịch), và đặc biệt là lúc 12 giờ khuya, trước khi bước qua năm sau.
Giao thừa bên Pháp gọi là “Réveillon de la Saint Sylvestre”. Người Pháp thường đón giao-thừa bằng một bữa ăn thịnh soạn với gan ngỗng (foie gras) và champagne, rồi nhảy đầm; đến 12 giờ đêm thì hôn má và chúc mừng năm mới nhau dưới một cành tầm gửi (gui). Ở Paris, thì mọi người hay tụ tập nơi tháp Eiffel hay trên đại-lộ Champs Elysées.
Mừng năm mới thường chấm dứt vào ngày lễ Hiển Linh (Épiphanie) ngày 6 tháng 1 và hôm đó mọi người chia nhau ăn “bánh vua” (galette des rois).

Bên Mỹ, đặc biệt là ngày New Year’s Eve (giao thừa), ở Nữu Ước (New York City), mọi người tụ tập ở 1, Time Square để xem quả cầu pha-lê (to 2 thước đường kính, nặng 500 ký) được từ từ hạ xuống, một phút trước 12 giờ đêm.

Một tục-lệ khác là gửi nhau thiệp chúc mừng năm mới, nhưng thời buổi Internet, thiệp giấy dần dần bị thay thế bằng thiệp điện-tử (email, text messages, …).

Đầu năm, người Tây-phương còn có một tục-lệ có ý nghĩa là “ý định cương quyết” (tôi thật không biết phải dịch chữ “resolutions / résolutions” như thế nào?) : “Năm nay, tôi cương quyết sẽ… bỏ hút thuốc, xuống 10 ký-lô, đi học đàn/nhảy/nấu bếp…, bớt làm việc và dành nhiều giờ với gia-đình hơn, …”
Tinh thần của những “nghị quyết” này là mượn dịp năm mới để sống lại (rebirth / renaissance), để làm lại từ đầu (starting fresh / repartir du bon pied), là không phó mặc cho số phận mà nhất quyết làm chủ đời mình. Làm được hay không lại là chuyện khác…

Đấy, tham khảo đó đây đại khái chỉ bấy nhiêu, ăn Tết kiểu Tây phương chỉ giản-dị vậy, đến khi vào Wikipedia xem “Tết Nguyên Đán” thì sơ sơ cũng hơn chục trang.

3. Tết Nguyên Đán
(phỏng theo Wikipedia)

Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt-Nam.
Chữ “Tết” do chữ “Tiết” (節) mà thành. Hai chữ “Nguyên đán” (元旦) có gốc chữ Hán: “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” có nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”.
Phong-tục, tập quán của người Á-Đông chung quanh ngày Tết thì thật phức-tạp, có thể nói là “rườm rà” nên, nhất là thời buổi này, ít có gia-đình nào, trong hay ngoài nước, áp dụng hoàn toàn được. Chúng ta cũng nên duyệt sơ qua, gọi là ôn lại chút ít truyền-thống văn-hoá của dân-tộc mình.

3.1 Những giai-đoạn chính:

Sự khác biệt giữa âm lịch và âm-dương lịch khiến cho ngày Tết ta muộn hơn Tết tây và thường rơi vào giữa ngày 21 tháng 1 (dương lịch) và ngày 19 tháng 2 (dương lịch).
“Tháng giêng là tháng ăn chơi,
tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà…”
Bài ca dao này muốn nói người ta ăn Tết không phải chỉ một ngày mồng một.

Nói đúng hơn nữa, không khí Tết đã bắt đầu từ ngày 23 tháng chạp là ngày mà người Việt cúng ông Táo (Táo Quân). Ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà gia chủ đã làm trong năm cũ và báo cáo về Ngọc Hoàng.

Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn giữ phong tục dựng cây nêu để chống lại quỷ dữ và những điềm gở.

Ngày Tất niên (trước Tết) có thể là ngày 30 tháng chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu).
Buổi tối ngày này, gia đình sum họp lại với nhau để ăn cỗ cúng Giao thừa, là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng giêng (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), giờ Tý là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao giữa năm cũ và năm mới và được gọi là Giao thừa.
Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.

Qua ngày mồng 1, chúng ta bước vào Tân niên (năm mới, sau Tết) và ăn Tết 7 ngày.
Ngày mồng Một tháng Giêng (còn gọi là ngày Chính đán) là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình.
Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha.

Cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên.
Ngược lại, người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay “hồng bao”, gọi là “lì xì” với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong “hồng bao” có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hóa thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là “Tiền mở hàng”.
Ngày mồng Hai là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, nguời ta chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục “Đi sêu”.
Ngày mồng Ba là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy,
đúng theo truyền-thống
Mùng Một thì ở nhà cha,
Mùng Hai nhà vợ, Mùng Ba nhà thầy
hay nói cách khác
Mùng Một tết cha,
Mùng Hai tết mẹ,
Mùng Ba tết thầy.

Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt-nam.
Với quan niệm ngày mồng Một “khai trương” một năm mới, vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suông sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.
Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Nếu không tìm được người “lý tưởng” thì gia chủ tự xông đất bằng cách ra khỏi nhà rồi bước vào trở lại.

Hoá vàng: Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. Trong ngày này (hoặc ngày mồng 5), người Việt làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu và đốt nhiều vàng mã để tiền nhân về cõi âm có thêm tiền vốn đầu năm, mà phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia.

Ngoài ra, còn có những tục lệ khác như:
– xuất hành: lần đi ra khỏi nhà ngày đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình, có người đi du xuân luôn;
– khai xuân tuỳ theo nghề nghiệp: khai trương, khai thương mở hàng, khai ấn (nếu là người có chức tước), khai bút (học trò, sĩ phu), khai canh (nhà nông) hay… khai pháo;
– hái cành lộc: ở các nơi đền, chùa miền Bắc ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật;
– khai hạ: hạ cây nêu ngày mồng 7 Tết, chấm dứt Tết nguyên đán để sau đó bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới;
– … …

3.2 Sắm Tết – Trang hoàng

Đã gọi là Tết thì phải linh đình, năm mới cái gì cũng phải mới và đây là dịp để đi sắm Tết. Chợ Tết là những phiên họp chợ vào trước Tết, từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho tết Nguyên đán. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán ngày giáp tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân.Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước giờ Ngọ.
Cây Tết tiêu biểu nhất là cây nêu, một loại tre cao khoảng 5-6 thước, ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy để táo quân dùng làm phương tiện về trời,…
Ngoài ra, cây quất được trang trí trong phòng khách, cây xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống.

Mâm ngũ quả là một mâm có khoảng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết.
Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm chuối, bưởi, đào, hồng, quýt, nhưng hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là nhiều màu sắc.
Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, xoài, sung, với ngụ ý “cầu sung vừa đủ xài”.

Cũng không thể quên quả dưa hấu mà An Tiêm đã mang lại cho chúng ta và đã được người Trung Hoa khen: “Hẩu”.
Hoa Tết thì không thể thiếu hoa đào (để xua đuổi ma quỷ, theo sự tích hai vị thần ở núi Sóc Sơn) và hoa mai (màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, cho sự phát triển nòi giống).
Hoa để cúng có thể là vạn thọ, cúc, huệ, … và hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hồng, thuỷ tiên, lan, cẩm chướng, thạch thảo, …

Để trang trí trong những ngày Tết, đặc biệt còn có tranh Tết và câu đối Tết.
Tranh Tết là một phần không thể thiếu và những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.

Câu đối Tết được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao, pháo nổ, bánh chưng xanh.
(Xin mời đọc thêm về câu đối trong bài “Tôi yêu tiếng nước tôi: Chơi chữ” tháng này

Và không ai là không nhớ bài thơ “ông đồ” của Vũ Đình Liên:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay

Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?

3.3 Ẩm-thực ngày Tết

Thành ngữ Việt Nam có câu “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết”. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho “già được bát canh, trẻ có manh áo mới”. Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người, nhất là trẻ em thường được ăn uống no đủ.
Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là “ăn Tết”.

Thức ăn mặn thì nhất định phải có những bánh truyền-thống như bánh chưng (vuông), bánh dày, bánh tét (còn gọi là bánh chưng tày hay bánh tày, tròn và dài) với dưa hành, gắn liền với các sự-tích cổ thời vua Hùng.
Tôi vẫn nhớ các món ăn giỗ ông bà hay cỗ Tết người Bắc có thể có bóng bì, canh măng, chân giò, miến gà, xôi gấc đỏ, thịt gà, thịt đông với dưa muối, giò lụa, nộm, cơm rượu, …
Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho, nước dừa (thịt kho rệu) và nồi khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, bánh tráng (để quấn) để ăn mấy ngày Tết. Thông thường, người nội trợ miền Nam lục tỉnh nghỉ ngơi, không nấu nướng trong 3 ngày Tết, mà chỉ dùng thức ăn đã được chuẩn bị sẵn trước Tết.
Miền Trung có dưa món và món tré (giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng), thịt chua và tai heo, …

Mứt Tết và các loại bánh kẹo khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để đãi khách. Tôi cũng nhớ những lần cắn hạt dưa đến đỏ cả môi và tay, hạt bí, hạt hướng dương, …
Thức uống ngày Tết vẫn là rượu: rượu truyền-thống như rượu nếp thơm, nếp nương, nếp cẩm, rượu đế, … hay những rượu Tây-phương như cognac, whisky, bia, …
Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà xanh.

3.4 Phong-tục, tập quán và sinh hoạt Tết
Phong-tục Tết thì nhiều lắm. Ngoài những gì đã đề-cập ở phần trên, còn có:

Đốt pháo thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc giao thừa ngày Tết cổ truyền để xua ma, trừ quỷ.

Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm để đến sáng mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hy vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó.

Trả nợ cũ: Đối với nhiều người Việt, cuối năm là dịp trả nợ cũ, xóa bỏ xích mích của năm cũ, để hướng tới năm mới vui vẻ.

Tuỳ theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày tết với những phần “lễ” và phần “hội” chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.
Các lễ hội truyền-thống thường có thi đấu cờ người (không phải loại của bà Hồ Xuân Hương đâu nhé), đua thuyền, đấu vật, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu…
Trò chơi dân gian: bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát chèo, đánh đu, chọi gà và nhiều trò dân gian cổ truyền khác.

Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, chắn, tổ tôm, cờ gánh, ai thích gì thì cứ chơi. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ tổ tôm… hoặc đốt các bộ bài trong lễ hóa vàng.

Còn nhiều phong-tục thất -truyền nữa như “đi sêu Tết” (trước ngày Tết, con rể tương lai mang lễ đến biếu bố mẹ vợ), lạy sống ông bà, hát sặc bùa (trẻ con nghèo đến cửa các nhà vừa hát vừa gõ trống để được chủ nhà phát tiền mừng tuổi), …
3.5 Tín ngưỡng ngày Tết

Đi lễ chùa: Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng tiền giọt dầu hoặc tiền công đức cho chùa. Trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền chùa để cúng bái và xin xăm, nhất là vào buổi sáng mồng một. Phong tục này thường được tiến hành chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc.
Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miền Bắc có tục “bốc quẻ thẻ” giống như tục “xin xăm” ở phía Nam.

Người Việt ta hay tin dị-đoan.
Mong sao có những điềm lành như:
– Sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh;
– Chó lạ vào nhà: theo tục ngữ “Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang”;
– Cây đào nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc;
– Cây quất nếu có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm;
… … …

Và cũng có nhiều điều kiêng kỵ nên tránh như:
– Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng và gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc;
– Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình vì quan niệm lửa là đỏ, là may mắn, nên giữ, không nên cho đi;
– Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc “tiền vào như nước”, nếu cho nước thì coi như mất lộc;- Theo quan niệm dân gian, việc quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà sẽ bị “rông” (xui xẻo) cả năm;
– Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay (cho nên phải làm dịp cuối năm cho xong);
– Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt… nếu không sẽ “xúi quẩy”.
Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, cãi nhau, nói xấu, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình;
Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết, kiêng mặc quần áo màu trắng và đen (màu của tang lễ);- … … …
3.6 Tết tha-hương

Tôi nhớ mãi những buổi văn-nghệ Tết bên Bỉ, bên Pháp khi tôi còn là du học sinh, bao giờ cũng vừa vui, vừa buồn. Vui vì có dịp vui chơi với bao nhiêu bạn bè, buồn vì có vui mấy cũng chỉ là vui “tạm bợ” nơi xứ người, xa gia-đình, xa quê-hương.
Và bây giờ tôi vẫn “phải” tiếp tục vui Tết tha hương.

Người Việt hải-ngoại nếu không có điều kiện về Việt Nam cũng tổ chức những hoạt động trong dịp Tết Âm lịch mang đậm truyền thống văn hóa.
Những nơi đông Việt Nam như quận Cam, San Jose, Houston, Cabramatta-Úc, Paris, … cũng có chợ Tết, chợ hoa, những khu thương xá cũng có bán các mặt hàng mứt, bánh chưng, hạt sen, …, cũng có đốt pháo, múa lân, …
Các cộng đồng và các hội đoàn người Việt, các chùa, các giáo xứ, các hội sinh-viên, … có tổ chức Hội tết và ca nhạc văn nghệ Tết.
Chúng tôi có dịp đi giúp vui văn-nghệ trong những buổi Tết cộng-đồng, thường có đốt pháo, múa lân, ăn uống (món ăn Tết), bầu cua, cá cọp, lì xì cho trẻ em, văn nghệ thường có nhạc Tết, nhạc quê-hương, cải lương, nhạc vui, có những màn múa thanh thiếu niên và trẻ em.

Hội Tết nào cũng thật vui, nhưng bao giờ tôi cũng cảm thấy bùi ngùi, không hiểu vì sao?
Con người “xa mặt, cách lòng” và dù muốn dù không, xa quê-hương, chúng ta cũng mất mát đi một chút gì văn hoá truyền-thống của mình.
Tết ngày hôm nay nơi xứ người, chúng ta còn giữ được những gì trong tất cả những phong-tục, tập quán của người Việt-Nam ta? Còn giữ được bao lâu?
Vui buồn lẫn lộn.

Yên Hà,

tháng Giêng, 2014

NÓ…

NÓ…

Mẩu Bút Chì

Nó lớn lên đơn sơ như bông cúc dại. Mọi thứ trôi vào đời nó cứ tự nhiên như vốn dĩ phải thế – kể cả cái nghèo xác xơ, hay cái bản ngã yếu đuối của con người.

Nghĩ cũng lạ, lúc bé thơ chẳng biết gì, thế nhưng người ta luôn muốn làm ngược lại ý muốn của người lớn: Nếu người mẹ muốn giữ đứa bé nằm yên trong chiếu, chắc chắn nó sẽ cố tìm cách bò ra ngoài; khóa cửa trước giữ nó trong nhà, nó sẽ luồn cửa sau chạy ra ngõ… Dường như có một “sức hút” mãnh liệt từ những thứ ngoài tầm tay của con người, và ý chí muốn thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa như một phản xạ tự nhiên.

Lúc nhỏ nó vẫn nghĩ rằng làm trẻ con thật mất tự do, phải làm cái này, không được làm cái kia. Nhất nhất mọi việc phải theo ý muốn của người lớn. Làng quê nó thời ấy nghèo lắm, làm gì có ti vi trong nhà để giải trí. Thỉnh thoảng ở sân bãi mới chiếu một bộ phim trắng đen để mọi người đến xem. Thế là trong làng y như có hội! Hiếm lắm mới có một bộ phim màu. Chẳng cần biết phim gì, của ai, miễn là “phim màu chiến đấu” thì kể như trẻ con cả làng không thể ngồi yên. Nó cũng háo hức chẳng học hành gì được. Thế nhưng ba nó “phán một lời” thì anh em nó phải ở nhà hết! Có khi nó liều lĩnh trốn đi xem vì phim hay quá, chịu trận đòn cũng đáng! Nhưng lắm lúc nó tức anh ách vì phải bị đòn mà chỉ xem được cái loại “phim màu lợt lợt, chiến đấu sơ sơ”!!! Lúc đó, nó chỉ ước sao lớn thật nhanh. Trong nhận thức non nớt của mình, nó nghĩ người lớn muốn làm gì cũng được. Từ đó, trong lòng nó ấp ủ “giấc mơ giải phóng”. Với nó thuở ấy, tự do là được làm theo những gì mình muốn. Đơn giản vậy thôi!

Ở đời người ta thường đứng núi này trông núi nọ. Lúc bé nó ước được làm người lớn, khi lớn rồi mới hay cuộc đời không như nó tưởng. Nếu như lúc bé nó chỉ chịu sự ràng buộc và điều khiển bởi cha mẹ, người thân – là những người luôn thương yêu và muốn nó nên người – thì khi lớn lên, nó lại bị ràng buộc và điều khiển bởi những thứ “lạnh như tiền”.

Nó đi tìm bầu trời, nhưng hình như đường đời (hay chính cái bản ngã yếu đuối của nó) chỉ dẫn đưa nó vào những chiếc túi. Khó hiểu quá, nó hiểu không tới. Rõ ràng chẳng có gì sai khi nó muốn tìm kiếm một cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn. Cũng không có gì đáng trách khi nó muốn ăn ngon, mặc đẹp, chạy xe xịn. Nhưng tự trong lương tâm, hình như nó thấy có cái gì đó chưa đủ. Nó mơ hồ tự hỏi: “Liệu chỉ có những thứ làm thỏa mãn, đã đầy thân xác này, có làm cho nó trở nên NGƯỜI hơn chăng? Hơn nữa, NGƯỜI còn là hình ảnh của Thiên Chúa – chứ không “người” theo ngôn ngữ hài hước của “hội thui rơm” rằng: “Sống trên đời (làm người) ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?” Hoặc “người” theo kiểu nó vẫn thường nghe người đời ao ước: “Sống đời này sắm được nhà lầu xe hơi thì có chết cũng mãn nguyện kiếp người”.

Nó suy tư dữ dội hơn: Vượt thắng những trở lực để đạt được những thứ mình khao khát có phải là chạm được đến tự do, đã THÀNH NGƯỜI? Và nếu là thế thì hình như thứ tự do đó cũng phụ thuộc vào cách người ta nhìn đời, phụ thuộc vào cái nghĩa làm “người” mà mỗi người muốn trở nên. Đó là một kiểu tự do dễ đổi thay, dễ tan vỡ theo cảm tính con người.

Nó vẫn chưa tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn của một con người có tự do. Nó vẫn thường nghe người ta nói “đấu tranh cho tự do” để con người được sống xứng với nhân phẩm của mình: tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do đi lại v.v… Tự do là một phần của nhân quyền. Những điều này rõ ràng là chính đáng và cần thiết. Đó là những mảng của tự do. Nhưng hình như những thứ đó vẫn chưa đủ, chưa diễn tả hết được những chiều kích của tự do.

Giả tưởng có một cấu trúc xã hội tiến bộ, nơi đó con người có thể có được tất cả những quyền tự do chính đáng, có điều kiện để phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội, thì liệu rằng nơi thẳm sâu trong lương tâm và linh hồn, con người có được bình an tự tại? Con người có nhờ vào đời sống xã hội ấy mà được giải thoát khỏi sự ràng buộc của tham – sân – si, của ích kỷ, của sự nặng nề thuộc tính xác thịt để có được một sự tự do tròn đầy, viên mãn?

Nếu điểm xuất phát của đời người là thế gian và cũng kết thúc ở thế gian này, thì tất cả chỉ là phù hoa và ngõ cụt tối tăm: Chỉ toàn lo âu, đau khổ, vật lộn để dành được những thứ dễ hư nát. Nếu có được giàu sang, sung sướng, cũng không ai thoát được hành trình sinh – bệnh – lão – tử, sinh ra trong tiếng khóc của chính mình và chết đi trong tiếng khóc của người thân.

Tự do ở đâu? Ai có thể giải thoát nó ra khỏi sự ràng buộc ấy? Ai có thể tách được nó ra khỏi những khôn ngoan duy lý, những toan tính đo lường dựa trên tài năng và sức lực – vốn là những cái nay còn mai mất – rồi gắn niềm vui và hạnh phúc đời mình vào đó, phập phồng lo âu? Ai có thể cho nó cái tự do thẳm sâu trong tâm hồn, vượt lên tất cả các chiều kích vật chất thường tình của con người? Còn ai làm được điều đó ngoài Đấng đã tác tạo nên nó, có quyền năng trên linh hồn và thân xác nó, và chờ đón nó nơi cõi vĩnh hằng?

Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô. Ngài đã đến thế gian làm NGƯỜI và đã chết để muôn người được sống, trong đó có nó. Nó phải sống phó thác vào Đấng ấy: Tự do của nó là nương theo ý Ngài.

Có anh bạn nhìn nó ái ngại. Rằng nó nên hòa mình vào xã hội, xây dựng xã hội bằng ngôn ngữ và chuẩn mực chung của mọi người. Đâu phải ai cũng thờ Chúa như nó! Nó thấy hổ thẹn trong lòng: Giá mà lúc nào nó cũng yêu Chúa được như nó nói, như bề ngoài người ta thấy về nó. Phải, nó phải hòa mình vào xã hội, nhưng không vì thế mà phải che giấu Thiên Chúa, Đấng đã cứu độ cuộc đời nó. Chân nó phải chạm đất, phải bám rễ vào xã hội và làm cho xã hội ấy phát triển, nhưng nó không thể quên rằng mắt nó phải hướng về trời cao, nếu không, Thiên Chúa chết cho nó là vô nghĩa và vô ích! Nó phải “mở” nó ra cho người ta thấy Chúa, thấy lòng thương xót vô bờ Người đã đổ xuống đời nó.

Ước chi mỗi ngày trong đời này, nó đều có thể phô bày được một chút ánh sáng lung linh mà Chúa đã thương nhen nhóm trong nó. Chút ánh sáng ấy chính là thứ tự do trong vắt, thoát khỏi những âu lo của đời sống trần tục nhờ vào lòng tín thác – đức tin. Ánh Sáng ấy không phải từ nó, mà phát xuất từ Đấng ngự trong nó…

( trích tập san Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo số 11)

Tác giả: Mẩu Bút Chì

NGƯỜI CHẾT KHÔNG… ĂN

NGƯỜI CHẾT KHÔNG… ĂN

Truyện ngắn của Hồ Thuỷ

Vừa mới sáng sớm, bên nhà người láng giềng đã nhộn nhịp chuẩn bị làm đám giỗ chung cho cả ông bố và bà mẹ; nghe nói chết cũng đã chục năm nay, và năm nào cũng làm đám giỗ thật lớn, mời xóm giềng, bạn bè, người thân rồi còn anh em bà con…đông lắm, đâu chừng mười bàn lận đó.
Gia đình tôi dọn về đây chưa tới một năm, nhà tôi sát ngay bên phải nhà “cố cựu” mà hôm nay có đám giỗ; ông bà chủ nhà tên là Hướng, mẹ tôi thường nói :
– Bà con xa không bằng láng giềng gần.
Rồi mẹ còn dạy thêm một câu:
– Bán anh em xa mua láng giếng gần.
Vì vậy khi vừa mới dọn về mẹ đã qua làm quen, chào hỏi và dần dần thân thiện với nhà bên ấy.
Hôm qua bà Hướng mời cha mẹ và luôn cả mấy chị em tôi trưa nay qua nhà bà “ăn đám giỗ”, sáng nay mẹ đi chợ mua một giỏ trái cây loại ngon nhất và sai tôi đem qua trước để cúng, mẹ dặn dò tôi:
– Con phải thắp nhang vái lạy cung kính trước bàn thờ Ông Bà, rồi về nhà phụ với mẹ nấu cơm cho các em, biết rằng người ta mời cả nhà mình nhưng mình cũng phải giữ ý giữ tứ, mẹ qua bên ấy phụ với bác gái, chừng cha đi làm về thì qua sau, cón các con thì ăn cơm ở nhà.
Nhà bác ấy khá rộng, có hai tầng lầu, đám giỗ đãi mười bàn, phía trong phòng khách kê được sáu bàn, còn bốn bàn thì kê nhờ trước hiên nhà của hai bên hàng xóm. Thời đại mới này; hơn nữa lại ở Sài Gòn thì cái chuyện người nhà phải lo nấu nướng mỗi khi có đám tiệc là coi như:-“xưa rồi Diễm”, chỉ cần Alô cho dịch vụ nhóm nấu ăn là được đáp ứng ngay, món gì cũng có, tùy theo túi tiền của gia chủ mà ngon nhiều hay ngon ít.

Tôi không còn nhỏ, cũng chưa hẵn là lớn, nhưng trí óc thì cũng đã biết nhận định được nhiều điều phải và không phải. Mang trái cây sang nhà bác và đặt trước bàn thờ ông bà cụ, tôi thắp ba cây nhang rồi cung kính vái lạy ba cái như lời mẹ dạy, khói nhang nghi ngút làm cay sè chảy nước mắt, nhưng tôi cũng ráng cố gắng nhìn lên mặt hai cụ, bởi vì tôi có tánh xấu ưa tò mò quan sát nọ kia, mặc dù tôi là con gái, hình hai ông bà cụ được lộng chung vào một cái khung viền vàng lộng lẫy, trong hình không ai cười mà nét mặt lại rất nghiêm nghị, ánh mắt có vẻ buồn. Trước bàn thờ của ông bà cụ đã bày sẵn một cái bàn; trên bàn bày biện rất nhiều thức ăn ngon, lạ, nhìn thôi cũng đủ thèm, thật là hấp dẫn, lại có thêm một bình trà, rượu và ly tách chén bát bông hoa, trái cây…không thiếu thứ gì.
Hình như hai cụ…khóc thì phải?… hình như tôi thấy trong bốn khóe mắt của hai cụ long lanh bốn giọt nước?…và hình như nó sắp sửa…rơi ra?… Tự nhiên tôi nổi da gà, lạy hai cụ thêm một lạy và chạy nhanh ra khỏi phòng thờ. Có mấy người đang đi vào thắp nhang xá xá mấy cái. Không biết có ai thấy điều tôi vừa thấy? Hay tại tôi tưởng tượng mà ra?

Người đến “ăn” đám giỗ của hai cụ đông quá trời, đàn ông đàn bà ai nấy cũng quần là áo lượt, cũng son phấn chưng diện ngất trời, xịt nước hoa thơm phưng phức…đến ăn giỗ của người chết mà như đi ăn đám cưới của người sống vậy đó, mọi người nói cười rôm rã, họ đang cố nhớ ra một kỷ niệm nào đó đã có với người chết; vui hay buồn gì cũng được, miễn là có để kể cho nhau nghe, nhưng mà ông bà cụ già lắm rồi – ngoài bà con, con cháu và một số rất ít người hàng xóm biết về hai cụ – còn những người khác khi được mời đến ăn giỗ thì phần đông họ còn trẻ,hoặc mới dọn đến như gia đình tôi, câu đầu tiên khi nhắc hoặc kể về hai cụ hầu như đều bắt đầu bằng ba chữ: “ – Tui nghe nói…”.
Đám giỗ vui thật, rất ồn ào náo nhiệt, tôi nghĩ thầm trong đầu: mổi năm nên làm một lần để nhớ đến người đã khuất bóng, nhưng mà…
Mẹ tôi qua nhà bác, thật giản dị trong cái áo bà ba và quần xoa đen, mẹ đẩy tôi về nhà, mắng nhỏ vào tai tôi:
– Về nhà mà ăn cơm với các em, đứng chi ở đây đặng mà nhiều chuyện. Để mẹ vào phụ với bác gái.
Thật tình thì mẹ cũng biết rỏ là tôi ham đông vui. Nhưng sao hai giọt nước trong hai khóe mắt của các cụ cứ ám ảnh tôi mãi.

Tôi và hai đứa em lóng ngóng nhìn qua nhà bác Hướng, phê bình khách này khách nọ đẹp xấu…lung tung, có một bà sồn sồn trắng trẻo sang trọng, hình như là Việt kiều thì phải, bà ta ngồi gần mẹ tôi, nói cười thật rôm rã và hào hứng, tôi nghe câu được câu mất nhưng nếu gom góp lại thì cũng biết chút chút…
Những người đàn ông cùng nhau nâng ly lên, “hồ hỡi phấn khởi” mà hét to:
-…Dô…”chăm” phần “chăm”…dô…uống hết à nghen, không hết là bị phạt à nghen…dô…
Mặt người nào người nấy trông đỏ như gấc. Bia rượu khui ra không tiếc tay, thức ăn ê hề phủ phê. Một sự thừa mứa không nên có.
Em gái kế tôi nói :
– Chị Hai nè, nhà bác ấy làm đám giỗ lớn quá ha, em thấy nhà mình cha mẹ có bao giờ làm đám giỗ cho ông bà nội ngoại lớn như vậy đâu, năm nào cũng chỉ đãi chừng hai hoặc ba bàn thôi hà, mà chỉ toàn là bà con…
Em trai út ngây thơ trả lời thay tôi:
– Tại cha mẹ đâu có nhiều tiền như nhà bác ấy…chị Hai nhỉ. Mà sao làm đám giỗ hai người cùng một ngày?
Tôi không trả lời, tôi nghĩ không phải tại cha mẹ tôi không có nhiều tiền để làm đám giỗ to, cũng như tôi không biết tại sao hai cụ cùng được giỗ chung một ngày.
Tàn đám giỗ mẹ tôi lại phụ bác gái dọn dẹp nhà cửa. Nhờ được mời “ăn giỗ” hôm nay nên mẹ tôi biết được rất nhiều chuyện bên nhà bác Hướng; vì đây là lần đầu tiên mẹ tôi được bác mời qua nhà (ăn đám giỗ).

Bốn giọt nước trong bốn khóe mắt của hai ông bà cụ rơi xuống, lọt ra ngoài khung hình rồi nhập lại thành một giọt nước to đùng, giọt nước ấy lăn tròn… lăn tròn… nhảy nhót lưng tưng như trái pingpong dội trên nền xi măng, lúc đầu nó tròn vo sau đó thì méo mó biến dạng, nó bám theo chân bàn rồi trườn lên những dĩa thức ăn đặt trước bàn thờ, nó luồn lách, lùng sục, ngọ ngoạy và ngoáy sâu vào kẻ hở của tất cả những món ăn, hết đĩa này nó lại bò qua đĩa khác; không bỏ sót một dĩa nào, rồi từ dưới lòng những dĩa thức ăn đó nó laị rướn mình chui ra để leo lên ly rượu, và như một cái lưởi dài nó liếm quanh miệng ly; quậy sâu xuống đáy ly, sau đó thì nó bò qua dĩa trái cây, biến dạng thành hình lưỡi dao nhọn để chui vô trong ruột của từng trái, cuối cùng thì nó lảo đảo ngả nghiêng té nhào vào tách nước trà…Giọt nước mắt rong chơi trên mâm cơm cúng chừng như cũng đã thỏa thuê, nó quay lại bò lên bàn thờ, tách ra làm bốn giọt nước nhỏ như trước rồi trườn lên khung hình để trở về vị trí cũ, nơi nó đã thoát ra: đó là bốn khóe mắt của hai ông bà cụ…

Tôi giật mình tỉnh dậy, trán đẩm mồ hôi, thì ra đây chỉ là giấc mơ, một giấc mơ kỳ quặc hết sức nhưng cũng làm tôi sợ điếng người. Các em tôi đã ngủ say, tôi lần mò trong bóng tối để xuống bếp kiếm nước uống…
Có tiếng nói chuyện của cha mẹ tôi, dù rất nhỏ nhưng trong đêm khuya thanh vắng tôi nghe thật là rõ…

– Mình à, ông bà cụ nhà bác Hướng tội nghiệp ghê vậy đó. Em nghe kể mà thương.
– Úi chà, em lúc nào mà chẳng thương vay khóc mướn.
– Anh kỳ quá đi…em nghe kể chuyện về ông bà cụ ấy mà xót xa, anh để yên nghe em kể lại…
…Cụ có ba người con, hai gái một trai, hai người con gái ở nước ngoài, thay nhau mỗi người về một lần vào dịp đám giỗ, mà lạ lắm anh, cụ bà mất trước cụ ông một năm nhưng ngày mất thì xê xích nhau chút đỉnh nên chi gộp chung lại làm đám giỗ hai ông bà một ngày cho tiện.
Cha tôi cười:
– Hì hì…em đúng là bà tám…
– Đã nói im nghe người ta kể…
– Kể ngắn gọn thôi, anh buồn ngủ lắm rồi đó nghen…
– Ừ, thì nghe tiếp đây, lúc còn trẻ hai cụ nghèo khổ lắm. Ông đạp xích lô còn bà bán ve chai, nhờ chịu khó với lại cần kiệm nên từ từ tích cóp được ít tiền mua một cái nhà rách trong hẻm, rồi lại chịu thương chịu khó cần kiệm để dành tiền phá cái nhà rách xây được ngôi nhà nhỏ…nói chung hai ông bà giỏi tiết kiệm, dè xẻn từng đồng, lại chịu khó lo làm lụng vất vã nuôi con ăn học, từ từ bán nhà trong hẻm, mua nhà mặt tiền đường rồi mở cửa hàng buôn bán, ngày càng giàu. Bác Hướng là con trai lớn có cấp bằng cử nhân lận đó anh, bác vừa ra trường là có việc làm và ngay lập tức bác cưới vợ, ông bà cụ cho ra riêng nhưng vợ bác ấy làm ăn thất bại, họ bán nhà quay về xin ở chung với hai cụ để gọi là “phụng dưỡng cha mẹ già”…
– Chuyện bình thường thôi, có gì đâu mà tội nghiệp ông bà cụ?
Mẹ tôi gắt:
– Anh này, yên nghe em kể tiếp…còn hai cô con gái lấy chồng rồi theo chồng ra nước ngoài; người thì vượt biên, người thì đi theo diện đoàn tụ, hai bà này cũng thương bố mẹ, bảo lãnh cho hai cụ qua định cư ở Mỷ, vì vậy hai cụ giao hết nhà cửa cho anh trai lớn. Nhưng qua Mỹ buồn quá chịu không nổi vì suốt ngày phải ở trong nhà, cứ luân phiên tháng này thì ở nhà đứa này, tháng sau qua nhà đứa khác…như con thoi, mà qua nhà người nào đi nữa thì cũng chỉ ở trong nhà, đâu dám ra đi ra đường, một tiếng Mỹ cắn đôi cũng không biết, gặp thằng Mỹ nào hỏi gì thì chỉ gật gật lắc lắc: – ô kê… ô kê… dét… dét…nô…nô…
…Cuối cùng hai ông bà về lại VN, ở lại trong chính căn nhà của mình nhưng nay là nhà của con trai và con dâu. Anh à, em đâu ngờ chị Hướng mà ghê gớm đến như vậy, còn anh Hướng thì quá nhu nhược và sợ vợ. Hai ông bà cụ ở chung mà ăn riêng đó nghen, cái phòng của hai cụ bị dời lên trên lầu, ông bà cụ nhờ khéo chắt chiu dánh dụm, cất dấu nên có được một ít tiền rồi đem gởi tiết kiệm, lấy lời hàng tháng để tiêu xài, không ngữa tay xin xỏ con cái. Thời gian đầu họ cũng có chăm lo cho ông bà cụ, nhưng từ từ những bữa cơm trở nên trễ nải, lắm khi hai cụ phải chờ đợi,chầu chực…còn về phần thức ăn thì…nghe nói tội lắm anh, con dâu nấu gì ăn đó, đôi khi vợ chồng con cái bác ấy ăn đâu ngoài đường toàn là thứ ngon, nhưng về nhà chỉ luộc cho ông bà cụ cái hột vịt dằm với nước mắm…Thời gian sau cô con dâu lấy cớ bận rộn nên không nấu nướng cơm nước hầu hạ bố mẹ chồng được, thôi thì ai ăn người đó nấu cho tiện, vậy nên chi trên lầu, ngoài phòng hai cụ có thêm cái bếp…từ đó hai ông bà già lụm cụm lủi thủi lo cho nhau…
Bây giờ thì có tiếng thở dài của cha tôi, mẹ tôi kể tiếp:
– Bà cụ bịnh rồi mất, nghe đâu lúc mất cũng bảy sáu tuổi, một năm sau thì ông đi theo bà…Em nghe nói đám ma của cụ ông lớn lắm anh à, tốn hết mấy cây vàng lận đó.
Cha tôi thở hắt ra thật mạnh nên tôi nghe thật rõ:
– Sống không cho ăn uống đàng hoàng đầy đủ, chết rồi thì làm đám ma cho lớn, đám giỗ linh đình mà chi, người đã chết rồi nào có ăn được gì đâu, trước tiên là để cho ruồi bu kiến đậu, sau đó tới phiên mình ăn… Người già khi còn sống cũng chẳng ăn được nhiều, chừng hai lưng chén cơm là cùng, khi chết rồi…khỏi ăn được luôn.
Mẹ tôi nói một cách mĩa mai:
– Có lẻ bác ấy nghĩ rằng phải lo hầu hạ…một năm đến ba trăm sáu mươi lăm ngày thì…mệt, thôi thì dồn lại để dành đến lúc chết, mổi năm chỉ lo một ngày Giỗ thôi, vậy nên phải làm cho linh đình để mọi người biết mình có hiếu với cha mẹ.
Cha tôi tiếp lời:
– Em…cũng “bà tám” thật đó, nhưng thôi, anh khuyên em không nên qua lại nhiều với nhà bác ấy, cũng như không nên “tám” chuyện với hàng xóm láng giềng, dễ sinh mích lòng, mình chỉ nên sơ giao thôi em à. Chuyện thị phi nói mấy cũng không vừa bụng thiên hạ, ai thì cũng ưa bới móc cái xấu của nhau ra để hạ bệ nhau…”Đèn nhà ai nấy sáng”, biết đâu họ cũng xấm xì bươi móc chuyện nhà mình?…anh sợ nhất những bà ưa ngồi lê đôi mách…đốt nhà người ta cháy như chơi…
– Em biết rồi…anh nè, cũng may lúc Tứ Thân Phụ Mẫu của tụi mình còn sống, anh thì lo cho cha mẹ em đầy đủ nên được tiếng là “Rễ thảo”, còn em thì lo cho cha má anh chu đáo nên được khen là “Dâu hiền”, tụi mình đều không để cho cha mẹ hai bên phải thiếu thốn thèm thuồng…
Mẹ hỏi cha một câu làm cho tôi phát ớn sau gáy:
– Anh có để ý hình của cha mẹ hai đứa mình không? Đôi con mắt của các cụ lúc nào cũng vui, mỗi lần nhìn vào là em thấy như các cụ đang cười. Còn đôi mắt của hai ông bà cụ bên ấy…lúc lên thắp nhang…em thấy mắt các cụ ướt như là muốn khóc, nó buồn rười rượi ghê vậy đó; anh à.
Cha tôi trở mình trên giường và trả lời mẹ:
– Người già rất nhạy cảm và thường dễ tủi thân, mà ai thì cũng phải già…mà thôi…ngủ đi em, khuya lắm rồi.
Mẹ tôi cố nói thêm một câu cuối cùng nhưng rất quan trọng:
– Làm con phải để chử Hiếu lên hàng đầu, trả Hiếu cho cha mẹ thì phải trả lúc cha mẹ còn sống, không chỉ là “cơm bưng nước rót” mà còn là cách đối xử có đạo nghĩa hay không? Có làm vừa lòng đẹp ý cha mẹ hay không?. Đạo Chúa hay Đạo Phật cũng dạy con người ta phải “ làm tròn chừ Hiếu mới là Đạo con”, đừng nên lấy sự bận rộn ra mà làm cái cớ để trốn tránh bổn phận làm con…thôi, em ngủ đây.

Tôi thức một đêm để suy nghĩ, câu chuyện cha mẹ nói trong đêm khuya mà tôi tình cờ nghe lóm được, nó như một thông điệp gởi đến cho tôi, rồi từ nơi tôi nó sẽ đến với các em của tôi. Tôi thật sự rất xúc động và vui mừng. Sẽ không muộn màng khi tôi biết được điều mình CẦN, NÊN và PHẢI làm đối với cha mẹ lúc NGƯỜI còn sống.
Gần sáng tôi mới viết xong một lá thư gởi cho cha mẹ đọc, lá thư tôi đẩy vào khe cửa phòng ngủ của cha mẹ, thế nào cha mẹ tôi cũng đọc nó trước khi ra khỏi phòng. Thư rằng:

“Cha mẹ kính yêu, con biết con phải làm gì để báo hiếu cho cha mẹ rồi, con sẽ làm cho cha mẹ vui lòng đẹp ý. Cầu xin Chúa Mẹ ban cho cha mẹ có được nhiều sức khỏe để sống lâu với tụi con, con cũng sẽ dạy hai em con biết giữ tròn chử HIẾU ngay lúc cha mẹ còn sống. Mai sau khi cha mẹ qua đời, đến ngày giỗ của cha mẹ chúng con sẽ không làm cho lớn đâu, vì khi đó cha mẹ chết rồi, đâu có ăn được. Bây giờ chúng con sẽ cố gắng học thật giỏi, giúp đỡ cha mẹ công việc nhà…Mai này khi học xong đi làm có tiền con sẽ không để cha mẹ phải thiếu và thèm cái gì hết.
Con thương cha mẹ vô cùng.”

Không cần viết tên tôi vào đó, vì cha mẹ tôi đâu còn lạ gì nét chữ của tôi, chữ tôi viết không đẹp cho lắm nhưng rất rõ ràng, dễ đọc.

HỒ THỦY (SAIGON)

Người Tù Binh Trở Về

Người Tù Binh Trở Về

Thanh Vân phóng tác theo “Le retour du prisonnier” của André Maurois

tubinh

Sau đây là một câu chuyện có thật. Chuyện xảy ra vào mùa xuân 1945, trong một thành phố của nước Pháp tạm gọi là Chardeuil, mà vì những lý do ngoài ý muốn ,chúng tôi không thể nêu tên thật ra được.

Câu chuyện bắt đầu từ trên một chuyến xe lửa chở những người tù Pháp từ Đức trở về. Họ ngồi từng nhóm 12 người một trong những toa tàu chỉ để dành cho mười người mà thôi. Vì vậy, họ phải ngồi thật sát vào nhau, nhưng chẳng ai để ý hay tỏ dấu phiền hà gì về chuyện đó cả. Mọi người, tuy đã kiệt sức vì những năm tháng tù đày và chuyến hành trình quá dài, vẫn thấy lòng nôn nao hạnh phúc vì họ biết rằng, sau năm năm vắng nhà , họ đã về lại được Quê Hương, sẽ được nhìn lại mái nhà yêu dấu và nhất là sẽ được gặp lại gia đình.

Hình như trong đầu óc của mọi người, hình ảnh nổi bật nhất là hình ảnh người đàn bà, người vợ thương yêu mà họ đã phải xa vắng mấy lâu nay. Mặc dù phần đông đều nghĩ về vợ mình với tất cả lòng thương nhớ , nhiều người vẩn không giấu nổi sự lo lắng, bồn chồn. Không hiểu người vợ có còn như xưa , vẩn trung thành hay đã thay đổi ? Vợ họ đã chứng kiến những gì , đã làm gì trong thời gian họ vắng nhà ? Không hiểu sự cô đơn kéo dài có làm cho họ sờn lòng và phản bội lại người chồng đang bị cầm tù ở một nước khác hay không ? Những người tù đã có con thì còn cảm thấy yên bụng , dù sao vợ họ vẩn còn phải chăm sóc con cái và không thể sống buông thả , tự do quá được. Những đứa con là những sợi giây ràng buộc giúp họ thoát khỏi sự cô đơn và cám dỗ trong những ngày xa nhau.

Trong góc trái của toa xe, một người đàn ông cao lớn nhưng gầy ốm ngồi thật yên lặng, đôi mắt ông sáng ngời trong khuôn mặt căng thẳng vì chờ đợi và suy tư. Đó là ông Renaud Leymarie, quê quán ở Chardeuil thuộc miền Nam nước Pháp. Con tàu vẫn chạy đều trong đêm tối , tiếng còi tàu cùng tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt càng làm cho lòng người ly hương đang trở về thêm bồn chồn, háo hức. Người đàn ông chợt nói với người bạm đồng hành ngồi sát bên ông ta :

-Anh đã có vợ chưa hở anh Saturnin ?

-Tôi đã có vợ hai năm trước chiến tranh và đã có hai con . Vợ tôi tên Marthe! Anh muốn xem hình nàng không ?

Saturnin là một người đàn ông nhỏ bé và vui tính. Anh ta rút từ trong chiếc ví cũ ra một tấm hình đã bị rách vài nơi.

-Vợ anh đẹp quá! Leymarie nói. Anh có lo lắng gì trong lần trở về này không ?

-Lo lắng ? Tôi điên lên vì mừng thì có! Tại sao lại lo lắng ?

-Tại vợ anh đẹp, vợ anh lại ở nhà một mình và ngoài đời có thật nhiều đàn ông.

-Anh làm tôi buồn cười quá! Không có một người đàn ông nào khác trong đời vợ tôi cả! Chúng tôi đã từng sống thật hạnh phúc bên nhau. . . Anh có muốn xem những bức thơ vợ tôi viết cho tôi suốt trong năm năm nay hay không ?

-Thơ từ chẳng chứng minh được gì cả. Tôi cũng vậy, tôi đã nhận được thật nhiều những lá thơ thật đẹp, thật nồng nàn . Vậy mà sao lòng tôi vẫn cảm thấy lo lắng ?

-Bộ anh không tin tưởng ở vợ của anh hay sao ?

-Có chứ!. . .! Lúc đầu mới xa nhau , tôi không tin ai bằng tin vợ tôi cả. Chúng tôi đã ở với nhau sáu năm và trong thời gian đó , chưa có một đám mây nào có thể làm vẩn đục được hạnh phúc của chúng tôi. . .

-Vậy tại sao bây giờ. . . ?

-Đó chỉ là chuyện thường tình thôi ông bạn ạ! . . . Tôi là một người không khi nào tin tưởng được vào hạnh phúc của chính mình. . . Tôi lúc nào cũng nhủ thầm rằng Hélène, vợ tôi, quá đẹp, quá tuyệt vời, quá thông minh đối với một người như tôi. Nàng là một người có kiến thức rộng và hình như chuyện gì có bàn tay nàng nhúng vào đều thành công tốt đẹp cả. Nàng cầm khúc vải, khúc vải biến ngay thành cái áo thật đẹp, nàng trang hoàng một túp lều , nó sẽ biến thành một thiên đàng nơi hạ giới. . . . Vì vậy, trong lúc chiến tranh , có thật nhiều người đàn ông đã đến thành phố này ẩn náu. . . Và trong những người đó, có biết bao nhiêu người hơn tôi trên tất cả mọi phương diện. . . Lại còn những người ngoại quốc , những người lính đồng minh. . . Họ tất nhiên đã phải để ý đến ngay người đàn bà đẹp nhất thành phố. . .

-Rồi có làm sao đâu ?. . . nếu vợ anh vẫn yêu anh ?

-Anh bạn nói rất đúng ! Nhưng anh thử đặt địa vị của anh vào địa vị của nàng. Năm năm sống cô đơn, thêm nữa, thành phố này đâu phải là thành phố của nàng. Tôi yêu nàng, cưới nàng và nàng về đây ở với tôi mà thôi! Nàng không có gia đình hay anh em bà con gì cả. Sự cám dỗ, vì vậy, sẽ mãnh liệt vô cùng. . .

-Anh làm tôi buồn cười! Đầu óc anh thật lộn xộn. . . Vả lại, nếu có chuyện gì xảy ra đi nữa thì có chi quan trọng đâu một khi nàng đã quên, đã bỏ hết tất cả khi anh trở về ? Anh biết không, nếu có ai nói với tôi chuyện gì về Marthe , vợ tôi, tôi sẽ nói ngay “Đừng nói gì thêm nữa. . . . Người đàn bà ấy là vợ tôi và khi đó chiến tranh đang xảy ra , bây giờ hòa bình đã trở lại. . . Chúng tôi đang khởi sự lại từ đầu. . . “!

-Tôi không thể nào làm như anh được! Leymarie trả lời. Nếu khi về đến nhà mà tôi biết có chuyện gì đã xảy ra trong thời gian tôi đi vắng, dù bất cứ chuyện gì. . .

-Thì anh sẽ làm gì ? Bóp cổ vợ chăng ? Giết vợ à ? Bộ anh đã khùng chưa ?

-Không, tôi sẽ chẳng làm cái gì cả! Tôi cũng sẽ chẳng trách móc một lời. Nhưng tôi sẽ biến khỏi thành phố ngay!Tôi sẽ đi làm lại cuộc đời ở một nơi thật xa , với một tên họ khác. Tôi sẽ để lại tiền bạc , nhà cửa cho nàng. . . Tôi chẳng cần gì . Có lẻ tôi hơi ngu ngốc. Nhưng tánh tôi như vậy, một là có tất cả , hai là chẳng có chút gì. . .

Một hồi còi tàu rú lên. . . Tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt . . . Tàu đã vào sân ga.Hai người đàn ông chợt trở nên im lặng.

****************

images (4)

Ông thị trưởng của thành phố Chardeuil cũng là ông giáo của trường học duy nhất trong thành phố. Đó là một người đàn ông thật tốt bụng, cẩn thận, thích giúp đở những người chung quanh. Khi ông ta nhận được giấy của bộ quốc phòng thông báo ngày 20 tháng Giêng sẽ là ngày mà Renaud Leymarie trở về Chardeuil trong chuyến tàu lửa đi về miền Tây Nam , ông đã đến báo tin ngay cho vợ ông này biết. Ông gặp vợ của Renaud đang săn sóc khu vườn nhỏ. Đó là khu vườn đẹp nhất thành phố với những bụi hồng đủ màu sắc trồng dọc theo hàng rào và hai cây hồng leo màu đỏ thẫm bao bọc hai bên khung cửa ra vào.

Ông thị trưởng nói với nàng:

-Tôi biết bà không thuộc thành phần những bà vợ mà tôi phải báo trước ngày trở về của chồng để họ khỏi bị những bất ngờ không được tốt đẹp. . . Tôi cần phải nói thêm rằng , nếu như bà cho phép, tôi phải xác nhận là sự kín đáo , đoan trang của bà đã làm cho cả thành phố này khâm phục. . . Ngay đối với cả những người đàn bà ngồi lê đôi mách , chỉ thích đi tìm hoặc bịa đặt những chuyện xấu xa của những người đàn bà khác để bươi móc, dè bỉu, họ cũng không thể nào tìm được sự gì để có thể nói xấu bà. . .

-Thưa ông thị trưởng, nói vậy chứ rồi người ta cũng sẽ tìm ra được một chuyện gì để chê trách tôi. . . Nàng tươi cười trả lời.

– Tôi cũng đã từng có ý nghĩ như vậy, nhưng thật tình, bà đã hoàn toàn chinh phục được tất cả mọi người. Nhưng tôi đến đây không phải vì chuyện đó, tôi chỉ đến đây để báo tin mừng cho bà mà thôi. . . và tôi cũng muốn chia vui với bà luôn thể. Tôi nghĩ chắc bà cũng muốn sữa soạn một cái gì thật đặc biệt cho ngày trở về của ông nhà.

– Thưa ông thị trưởng, ông đã có ý nghĩ không sai lầm , ý kiến của ông thật tuyệt vời . Tôi sẽ sữa soạn cho ngày trở về của Renaud biến thành một ngày thật khó quên, một ngày mà tôi đã chờ đợi từ bao nhiêu năm qua. . . Nó phải thật đẹp, thật hoàn toàn hạnh phúc . . . Ông nói ngày 20 phải không ? Ông có biết giờ nào thì tàu đến ?

-Điện tín chỉ có ghi vắn tắt “Xe lửa sẽ rời Paris vào lúc 23 giờ. . . “Những chuyến tàu đêm thường đi rất chậm.Tàu sẽ ngừng ở sân ga của tỉnh Thiviers , như vậy ông nhà phải đi bộ chừng 4 cây số mới về tới Chardeuil. Tôi nghĩ ông sẽ về nhà vào khoảng giữa trưa.

– Tôi hứa chắc với ông là chồng tôi sẽ có một buổi ăn trưa ngon lành cho bỏ những ngày thiếu thốn trong tù. Tôi chỉ  xin ông thị trưởng hiểu cho rằng tôi không thể nào mời ông đến dùng cơm trưa với chúng tôi ngày hôm đó được. Nhưng tôi rất cảm ơn và xúc động trước sự quan tâm và những lời khen ngợi của ông đã dành cho tôi.

– Tất cả mọi người trong thành phố này đều một lòng yêu thương, kính phục bà, bà Leymarie ạ. Dù thành phố này không phải là nơi sinh trưởng của bà , nhưng dân chúng ở đây đã nhìn nhận bà là người của họ. Và bà đã chứng tỏ đã không phụ lòng tin yêu của mọi người.
Sáng ngày 20, Hélène Leymarie thức giấc từ sáu giờ sáng. Đúng ra, suốt đêm nàng không hề chợp mắt. Từ tối hôm trước, nàng đã dọn dẹp, lau chùi nhà cửa từ trong ra ngoài , nàng lau cửa kính cho thật trong, nàng thay tất cả màn cửa bằng những tấm màn màu hồng tươi đẹp. Nàng đến tiệm làm đầu để sửa sang lại mái tóc mà đã từ năm năm nay nàng không buồn chăm sóc. Suốt đêm nàng đã bọc mái tóc lại bằng một cái lưới mỏng cho tóc khỏi mất nếp , và sau cùng, với tất cả niềm yêu thương chôn giấu từ mấy lâu nay , nàng đã chọn một chiếc áo bằng lụa mà nàng chưa bao giờ mặc trong thời gian sống cô đơn một mình. Nàng đã phân vân không biết sẽ mặc chiếc áo nào đây? Ngày xưa Renaud thích nhất chiếc áo xanh điểm những bông hoa trắng nhỏ xíu , chàng nói khi mặc chiếc áo đó nàng trông tươi mát như một mảnh trời vào ngày đầu Xuân. Nàng đã ướm thử chiếc áo xong thở dài cổi ra vì thất vọng. Chiếc áo đã trở thành quá rộng trên thân thể gầy yếu vì thiếu dinh dưỡng của nàng. Năm năm xa chồng, nàng đã sống quá thiếu thốn và khắc khổ. Thôi nàng đành phải mặc chiếc áo lụa đen mà nàng đã tự tay cắt, may lấy vậy. Dù sao nó vẩn còn mới , nàng chưa mặc đến lần nào. Với một cái thắt lưng và chiếc cổ màu thật tươi, chiếc áo đã trở nên trang nhả và vui mắt.

Trước khi làm buổi ăn trưa,nàng cố nhớ lại. . . Ngày xưa chồng nàng thường thích ăn món nào nhất ? Nhưng nước Pháp vào năm 1945 thật thiếu thốn đủ thứ. . . Một chiếc bánh chocolat ? Đúng rồi, chồng nàng vẩn thích nhất món đó! Nhưng nhà lại không có chocolat! May mà nàng còn có vài quả trứng gà tươi nhờ mấy con gà nàng nuôi ở sân sau. Chồng nàng vẩn thường khen chưa ai chiên trứng ngon bằng nàng. Ồ ,chàng cũng thích nhất khoai chiên và thịt bò. . . nhưng ở thành phố này không có hàng thịt. Nàng quyết định làm thịt bớt một con gà vậy . Nàng nghe nói ở thành phố bên cạnh có một cửa tiệm bán chocolat. Nàng sẽ qua bên đó mua, như vậy, sau năm năm gian khổ, ít nhất trong bửa cơm đầu tiên ở nhà Renaud sẽ có một món ăn mà chàng đã từng ưa thích.

Hélène nghĩ thầm “nếu mình đi vào lúc tám hay chín giờ ,mình sẽ có mặt ở nhà để đón chàng .Mình sẽ sửa soạn tất cả trước khi đi,như vậy khi về mình chỉ cần nấu mấy món ăn là xong”.

Mặc dù thật xúc động và nôn nao,nhưng lòng nàng chan chứa hạnh phúc. Sáng nay trời thật đẹp. Chưa bao giờ , trong thung lủng này, mặt trời buổi sáng lại rực rở như hôm nay. Nàng vừa sắp dọn bàn ăn vừa hát khe khẻ. . .

. . . Ô . . . chiếc khăn trải bàn có những ô vuông trắng đỏ này, hai vợ chồng nàng đã ăn bửa cơm đầu tiên với nhau. . . những chiếc đĩa bằng sứ màu hồng nhạt với những chiếc lá phong nhỏ xíu màu đỏ sẩm, chàng vẩn khen là ngộ nghĩnh . . . và nhất là hoa. . . Renaud vẩn thích có hoa trên bàn ăn , chàng đã từng khen nàng có tài cắm hoa . Hélène để một bình hoa nhiều màu trên bàn, hoa cúc trắng , hoa cẩm chướng và hoa hồng đỏ chen nhau làm thành một bình hoa đẹp mắt.

Trước khi lên xe đạp rời nhà , nàng nhìn lại căn phòng ăn qua tấm màn cửa . Tất cả thật hoàn toàn! Sau bao nhiêu gian khổ, Renaud sẽ ngạc nhiên và thích thú. . . Từ cửa sổ, nàng tự ngắm mình trong chiếc gương lớn được gắn trên bức tường chính của phòng ăn. Nàng thấy mình hơi gầy nhưng thật trắng, thật trẻ , và. . . dĩ nhiên tràn ngập yêu thương. Nàng cảm thấy bồi hồi , náo nức như lần đầu tiên được chàng ngỏ ý. Thân hình nàng như tan đi vì hạnh phúc.

“Thôi,nàng tự bảo thầm,bây giờ thì nhất định phải đi. Mấy giờ rồi nhỉ ? Trời , đã chín giờ rồi . . . Mấy cái công việc vặt vãnh này cũng làm mình mất thì giờ quá nhiều, nhiều hơn mình dự liệu. . . Ông thị trưởng nói mấy giờ thì Renaud về tới nhà nhỉ ? Ồ, vào khoảng giữa trưa. . . mình sẽ có mặt ở nhà trước giờ đó. . . “.

***

Căn nhà nhỏ của Renaud nằm khuất trên một con đường vắng của thành phố, vì vậy không ai nhìn thấy một người lính gầy yếu với đôi mắt ngời sáng và dáng điệu hấp tấp bước vào khu vườn. Cửa vườn đóng lại, người lính đứng im lặng một hồi thật lâu, chàng như mê đi vì hạnh phúc , như bị chói lòa vì ánh nắng rực rở ban mai, như say sưa vì cảnh đẹp của hoa lá. Chàng đứng lặng người lắng nghe tiếng rì rào của loài ong đang bay đi kiếm mật. . . Rồi chàng cất tiếng kêu khe khẻ:

-Hélène. . . !

Không có tiếng trả lời ,chàng lại kêu lên lần nữa:

-Hélène! Hélène!

Lo sợ vì sự im lặng vẫn bao trùm căn nhà nhỏ,chàng tiến lại phía cửa sổ và nhìn vào trong nhà, chàng nhìn thấy bàn ăn đã đặt sẵn cho hai người , bình hoa, chai rượu. . .

Renaud cảm thấy trời đất như quay cuồng ,chàng phải dưạ lưng vào tường cho khỏi ngã:

“Trời,lạy Chúa! Nàng không ở một mình!” chàng lẩm bẩm. . .

***

Một giờ sau, khi Hélène trở về , bà láng giềng gọi giật nàng lại:

-Tôi đã nhìn thấy chồng bà. Ông cắm đầu chạy thật nhanh trên đường . Tôi có gọi nhưng ông không thèm nhìn lại.

-Chồng tôi bỏ chạy! Mà về hướng nào bà biết không ?

-Về hướng Thiviers. . .

Hélène lên xe đạp gấp rút đến nhà ông thị trưởng:

-Thưa ông tôi sợ quá! Chồng tôi dưới một bề ngoài cứng rắn và khắc khổ là một người rất nhậy cảm và ghen tuông. . . Anh ấy đã nhìn thấy bàn ăn sữa soạn cho hai người . . . Anh không thể hiểu là tôi chờ đón anh ấy. Làm sao tìm ra ngay anh ấy bây giờ ? Phải tìm ra ngay anh ấy ông ơi! Anh có thể bỏ đi luôn lắm đó, mà . . . tôi thì. . . tôi quá yêu chàng!

Ông thị trưởng nhờ một người đạp xe ra ngay Thiviers, nhưng Renaud đã biến mất. Hélène đã thức suốt đêm ngời cạnh bàn ăn, trên đó bình hoa đã bắt đầu héo úa. Mùa Xuân đã về nhưng sao khí hậu quá oi bức, nặng nề. Màn đêm đã xuống từ lâu, người thiếu phụ chợt cảm thấy nghẹn ngào, tuyệt vọng. . . Nàng chẳng ăn uống gì. Một ngày. . . một tuần . . . rồi một năm đã trôi qua.

Từ cái ngày đau thương đó , Hélène không còn nghe ai nhắc nhở đến tên chồng. . . Lại một mùa Xuân nữa trở về trên thành phố Chardeuil , nhưng căn nhà nhỏ vẩn im lìm trong khu vườn đầy hoa hồng đang khoe sắc , đàn ong vẩn rì rào trong nắng ấm nhưng Hélène đã mất hẳn nụ cười. Ngày ngày nàng vẩn ngồi bên song cửa sổ nhìn ra con đường nhỏ chạy qua nhà nàng . . . và cố lắng nghe tiếng bước chân trở về của người chồng mà nàng vẩn hoài mong, thương nhớ. . .

Trong nhà , chiếc bàn ăn vẩn được phủ bằng chiếc khăn carô trắng đỏ, bình hoa tươi vẩn được thay hoa mổi ngày , người thiếu phụ vẩn mỏi mòn chờ đợi. . . Kỹ niệm còn đây sao người đi xa không thấy trở về ?

Tôi viết lên câu chuyện này để, nếu Renaud Leymarie có đọc được, hãy về lại cùng nàng. Đã sáu mùa Xuân anh đi xa, đã sáu mùa Xuân Hélène đợi chờ . Năm vừa qua là năm buồn tủi nhất của nàng . Nếu đọc được, hãy trở về nghe Renaud , hãy cho Hélène, người vợ trung thành và yêu thương chồng nhất , một mùa Xuân thật sự. Nàng chưa và sẽ không bao giờ hết yêu thương anh nên nàng vẩn chờ đợi. . . Ngày trở về của anh, dù có mong manh như nắng lụa, vẫn là niềm hy vọng duy nhất giữ nàng lại trên cuộc đời này….

Thanh Vân

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

Ngày còn bé con cứ thắc mắc, tại sao trên đất nước này cái gì cũng mang dấu ấn sự tôn vinh người Mẹ. Dòng sông lớn nhất ở phía Bắc đất nước ta quen gọi sông Hồng cũng còn có tên khác là sông Cái. Con đường nào lớn gọi là “đường cái”. Thứ tiếng ta nói hàng ngày cũng gọi là tiếng “Mẹ đẻ”.

Tổ Quốc thiêng liêng cũng được gọi với giọng tha thiết là “đất Mẹ”. Trên dải đất nhỏ hẹp mang hình chữ S này đâu đâu cũng có những đền thờ Mẫu. Bài học đầu tiên con trẻ được học cũng là từ trường Mẫu giáo và do các cô bảo mẫu truyền dạy. Đến cái đũa lớn nhất để xới cơm ở quê mình cũng gọi là “đũa cái”, “đũa cả”.

NHỚ LỜI MẸ DẶN

Mẹ không được học chữ, vậy mà khi con học xa nhà, có một lần mẹ đã cố gắng viết cho con mấy dòng ngắn ngủi, nét chữ run rẩy và to như trẻ con học mẫu giáo tập viết. Mẹ viết: “Mẹ ít học hơn con nên mẹ tin con hiểu đời nhiều hơn mẹ. Mẹ chỉ muốn dặn con một điều rằng con đi xa hãy nhớ: Ăn một miếng của người con tạc ân vào dạ; Học một chữ ở đời con xem nặng nhẹ bao nhiêu”.

Lời dặn của mẹ đã làm con khóc. Và con tâm niệm điều đó suốt cả cuộc đời và nó đã trở thành lẽ sống của con.

Hôm con phỏng vấn xin việc vào công ty của Nhật cùng với ba chục người khác. Con không giỏi vi tính và ngoại ngữ như họ, song người được lựa chọn lại là con. Mẹ có biết họ hỏi con câu gì không? Họ hỏi con câu nói nào và của ai gây ấn tượng và có tác động mạnh đến cuộc sống của con, con đã nói lại lời mẹ dặn.

Họ bảo: “Vi tính và ngoại ngữ cần, nhưng bạn có thể học trong vài tháng. Chúng tôi cần hợp tác với một người nặng lòng biết ơn và biết chắt lọc trong học hỏi”. Mẹ ơi, chính mẹ đã để phúc đức cho con!

NHỮNG LÁ THƯ CŨ

Con và chồng con có xích mích lớn vì con nghi anh ấy vẫn gặp gỡ với người bạn gái cũ. Con bực mình bỏ nhà chồng về khóc lóc với mẹ. Tối ấy mẹ mang từ trong chiếc hòm cũ ra một tập thư đã ố vàng. Đó là những lá thư của người yêu cũ gửi cho bố con trước đây.

Mẹ bảo khi bố quyết định lấy mẹ, bố định đem hết đám thư và ảnh của người yêu cũ ra đốt đi để chứng minh sự “một lòng một dạ với mẹ”. Mẹ đã ngăn lại và bảo: “Thư anh đốt mà lòng anh còn nhớ cũng chẳng ích gì. Hãy cứ để em giữ lại làm kỉ niệm.

Thỉnh thoảng anh đọc lại cũng thấy vui. Dù sao đấy cũng là những kỉ niệm gắn bó với anh một thời, sao lại cạn tàu ráo máng như vậy”. Bố sững sờ và ôm chầm lấy mẹ cảm động lắm. Thỉnh thoảng bố mẹ còn đọc lại những lá thư ấy, nhưng bố cả đời thuỷ chung với mẹ.

Hôm ấy con đã khóc thật nhiều và con tự tìm về nhà làm lành với chồng. Mẹ nói ít nhưng mẹ dạy nhiều. Chính mẹ đã lấy lại cho con hạnh phúc!

HAI VÙNG SÁNG TỐI

Khi em trai con đưa người yêu về ra mắt, con không ưng ý lắm. Mẹ im lặng không nói gì. Sau hôm gặp mẹ cô ấy, mẹ nhận xét: Mẹ cô ấy hiền hậu, phúc đức lắm. Người mẹ như thế chắc chắn cô con gái sẽ là đứa con ngoan, dâu hiền.

Mẹ đã không lầm. Hôm mẹ chồng tương lai của con sang chơi với mẹ, cụ cũng nhận xét về con y như thế. Hoá ra nhiều người nhìn nết mẹ mà đoán tính cách của con.

Năm trước con đọc báo thấy có chuyện một cô gái đang tâm đẩy con chồng xuống sông Hồng. Một thời gian sau thấy có bà dì ghẻ bắt con chồng tự khâu miệng mình lại. Con nhận xét rằng phụ nữ nhiều người ác quá. Mẹ lại bảo “phúc đức tại mẫu, những người như thế rồi lại ác giả ác báo thôi”.

Mẹ nói với con rằng những người ác chỉ là số ít, đừng vì thế mà vơ đũa cả nắm. Mẹ chỉ cho con thấy bao nhiêu người mẹ đã hy sinh hết lòng vì con, không ít người phụ nữ đã nhận nuôi hàng mấy chục trẻ mồ côi mặc dù bản thân mình còn khó khăn, vất vả. Trong đời có hai vùng sáng tối, mẹ bảo con nhìn ánh sáng mà đi!

BÀI HỌC LÀM GƯƠNG

Thấy con phàn nàn về sự chểnh mảng học tập của các cháu, mẹ bảo: “Con nhắc các cháu đi học bài, mà vợ chồng con cứ ngồi xem vô tuyến. Con chê các cháu lười học tiếng Anh mà bản thân con là cán bộ cũng không thông tỏ ngoại ngữ thì dạy bảo chúng nó thế nào?”.

Ngẫm kĩ lời mẹ nói, con đã quyết định đi học lớp tiếng Anh buổi tối cùng cháu. Tối về mẹ con trao đổi bài rôm rả. Đúng như mẹ nói, khi thấy cả bố và mẹ đều miệt mài làm việc, các cháu cũng tự động lấy sách ra làm bài.

Đến nay chúng con rất yên tâm về việc học hành của các cháu. Sao có mỗi bài học đơn giản rằng “muốn con chăm thì mẹ phải siêng, muốn con hiền thì mẹ phải thảo” mà con không nhớ, phải để mẹ nhắc nhở!

Mẹ nghèo không có tiền bạc cho con, nhưng mẹ đã cho con hiểu giá trị của sự tần tảo, lòng bao dung, đức hy sinh. Mẹ không đi học, nhưng mẹ dạy con biết sống đúng mực, trọng ân tình.

Cuộc đời con lúc nào cũng có mẹ ở bên. Con có cuộc sống hạnh phúc hôm nay là do bàn tay mẹ tạo dựng. Đến bây giờ con đã hiểu rằng công sinh thành dưỡng dục do cả mẹ cả cha chung sức, nhưng không phải vô tình người ta mới chỉ phong danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và trong nhạc, trong thơ, nơi đâu cũng thấy vang lên những “Huyền Thoại Mẹ”, ” Tình mẹ”, ” Lòng mẹ”…

Đinh Thủy