Mẹ chỉ có thể kiểm soát bản thân mình -Truyện ngắn HAY

Thầy Cao Anh

Mẹ tôi không ngủ được. Bà cảm thấy kiệt sức. Bà cáu kỉnh, khó chịu và đắng cay. Bà luôn bị ốm, cho đến một ngày, đột nhiên, bà thay đổi.

Một ngày, ba tôi nói với mẹ: “Anh đã tìm việc suốt ba tháng nhưng không được, anh sẽ đi uống vài chai bia với bạn bè cho đỡ buồn.”

Mẹ tôi trả lời: “Ok anh.”

Anh trai tôi nói với mẹ: “Mẹ ơi, ở trường đai học, các môn con học đều không tốt.”

Mẹ tôi trả lời: “Được rồi, con sẽ vượt qua thôi, nếu không được thì con phải học lại, nhưng con phải tự đóng học phí.”

Chị gái tôi nói với mẹ: “Mẹ ơi, con đã làm hỏng xe.”

Mẹ tôi trả lời: “Được rồi con, đem xe đi sửa và tìm cách trả tiền, trong khi chờ xe sửa xong, con có thể đi lại bằng xe buýt hoặc tàu điện ngầm.”

Chị dâu nói với mẹ: “Mẹ, con đến ở vài tháng với mẹ.”

Mẹ tôi trả lời: “Được rồi, con ở phòng khách và tìm mấy cái chăn trong tủ.”

Tất cả chúng tôi tất cả đều lo lắng vì những phản ứng lạ kiểu này của mẹ.

Chúng tôi nghi rằng do mẹ đã đi bác sĩ và bác sĩ kê cho mẹ một loại thuốc gọi là “Mẹ không quan tâm”… Có lẽ mẹ đang dùng thuốc này quá liều!

Sau đó, chúng tôi định tổ chức một cuộc “can thiệp” với mẹ để loại bỏ khả năng mẹ bị nghiện thuốc chống cáu giận gì đó.

Nhưng rồi… mẹ tập hợp chúng tôi lại và giải thích:

“Đã mất rất lâu mẹ mới nhận ra rằng mỗi người đều có trách nhiệm với cuộc sống của mình. Mẹ đã phải mất nhiều năm để phát hiện ra rằng sự lo âu, căng thẳng, trầm cảm, giận dữ, mất ngủ và stress của mẹ không giải quyết được vấn đề của các con mà chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề của chính mẹ.

Mẹ không chịu trách nhiệm về hành động của bất kỳ ai và không phải là việc của mẹ để mang lại hạnh phúc cho các con, nhưng mẹ có trách nhiệm với cách mẹ phản ứng với những điều đó.

Vì vậy, mẹ đã đi đến kết luận rằng bổn phận của mẹ với chính mình là giữ bình tĩnh và để mỗi người các con tự giải quyết những gì thuộc về mình.

Mẹ đã tham gia các khóa học về yoga, thiền, phát triển con người, vệ sinh tâm trí và lập trình ngôn ngữ thần kinh, và trong tất cả các khóa học ấy, mẹ thấy có một điểm chung…

Mẹ chỉ có thể kiểm soát bản thân mình, các con có đủ tài nguyên cần thiết để giải quyết vấn đề của riêng các con dù có khó khăn đến đâu. Công việc của mẹ là cầu nguyện cho các con, yêu thương các con, động viên các con, nhưng việc giải quyết vấn đề và tìm kiếm hạnh phúc là trách nhiệm của chính các con.

Mẹ chỉ có thể đưa ra lời khuyên nếu các con yêu cầu, và các con có thể chọn làm theo hay không. Quyết định của các con sẽ có hậu quả, tốt hay xấu, và các con phải sống với những hậu quả đó.

Vì vậy, từ bây giờ, mẹ không còn là thùng rác chứa đựng trách nhiệm của các con, là bao gạo chứa đựng sự tội lỗi của các con, là máy giặt rửa những tiếc nuối của các con, là người bào chữa cho những lỗi lầm của các con, là bức tường của những lời than vãn, là kho chứa đựng các nhiệm vụ của các con, hay là người phải giải quyết vấn đề của các con hoặc thay lốp xe mỗi khi các con không thực hiện trách nhiệm.

Từ bây giờ, mẹ tuyên bố tất cả chúng ta đều là những người trưởng thành độc lập và tự chủ.

Tất cả chúng tôi đều ngẩn người khi nghe mẹ nói.

Từ ngày đó, gia đình bắt đầu hoạt động tốt hơn vì mỗi người trong nhà đều biết chính xác những gì mình cần phải làm.

Với một số người trong chúng ta, điều này thật khó khăn vì chúng ta đã lớn lên trong vai trò chăm sóc và cảm thấy có trách nhiệm với người khác. Làm mẹ và làm vợ, chúng ta luôn là người sửa chữa mọi thứ. Chúng ta không bao giờ muốn người thân yêu của mình phải trải qua những khó khăn hay đấu tranh. Chúng ta muốn mọi người đều hạnh phúc.

Tuy nhiên, càng sớm gỡ bỏ trách nhiệm đó khỏi vai mình và giao nó cho từng người thân yêu, chúng ta càng chuẩn bị tốt hơn cho họ để trở thành những người có trách nhiệm với cuộc sống của mình.

Chúng ta không ở trên đời này để phục vụ tất cả mọi người. Đừng đặt áp lực đấy lên bản thân.

St từ Chau Doan


 

ĐÔI MẮT NGƯỜI THƯƠNG – Nguyễn Cát Thịnh – Truyen ngan HAY

Nguyễn Cát Thịnh 

Nó và tôi không xa lạ. Thời sinh viên, tôi là gia sư của anh em nó. Trái với đứa anh, nó thông minh, có cá tính, nhưng ham chơi biếng học. Tôi mất nhiều thì giờ dậy dỗ nên nhớ nó rất rõ.

Sau cuộc biển dâu, gặp lại nhau trên đất khách quê người. Dù nó đã lột xác, tôi vẫn nhận ra.

Thật là thích thú được nghe câu chuyện đời tư của nó.

Tôi chỉ viết lại theo lời kể, không thêm bớt. 

Ghi chú: nhân vật xưng “Tôi” chính là nó. 

                                                *** 

TÀI XẾ VÀ THÁNH NỮ

 Tôi là một người Việt gốc Hoa. Nhà tôi có 3 anh em. Trên tôi là anh Hai, hơn tôi gần 2 tuổi. Dưới tôi là gái út, kém tôi 4 tuổi.

Thuở nhỏ, tôi và anh Hai học cùng lớp. Anh sáng dạ, học rất khá. Tôi lười học, chỉ giỏi mầy mò tháo ráp máy móc, thích đánh lộn..

Đến tuổi quân dịch, anh Hai nhận được giấy gọi nhập ngũ. Anh buồn lắm, nhìn thấy tương lai mờ mịt, suốt ngày than thở. Thương anh phải bỏ dở chuyện học hành, tôi ngỏ lời tình nguyện đi thay. Tôi và anh hoán đổi lý lịch.

Sau này, dù đáo hạn tuổi, anh vẫn được hoãn dịch, lý do gia cảnh, vì anh trở thành con trai duy nhất còn lại trong gia đình.

Cha mẹ đồng ý.

Phường khóm chỉ biết chúng tôi với những cái tên ở nhà nên khi tôi cầm giấy tờ của anh trình diện, không ai nghi ngờ. Vả lại, anh em tôi nhìn không khác nhau nhiều.

Sau khi mãn khoá quân trường, ông nội lo lót cho tôi về phục vụ trong ban quân xa của một đơn vị ngoại thành.

Một dịp ngẫu nhiên, tôi được điều động đi sửa chữa khẩn cấp xe jeep của một vị sĩ quan cấp tá chết máy khi đang trên đường công tác. Thấy tôi nhanh nhẹn, tay nghề vững chắc, vị sĩ quan rất hài lòng. Mấy tuần sau tôi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về làm tài xế cho vị sĩ quan đó. 

Cuộc đời tôi bước vào một ngã rẽ, và số mệnh đã được định đoạt từ đây.

Ngoài công tác lái xe, tôi được ông Tá (tên vị sĩ quan) xem như người nhà. Khi rảnh rỗi, tôi tình nguyện giúp sửa chữa những việc lặt vặt tại tư gia của ông. Thỉnh thoảng được mời ngồi ăn cơm chung với gia đình. 

Ông bà có 4 người con, 2 trai 2 gái. Tất cả đều học trường Pháp. Cô gái lớn tên Sylvie xinh đẹp, có dáng dấp khỏe mạnh tây phương, rất tự nhiên với tôi. Nhưng tôi thì không tự nhiên khi tiếp xúc, có cảm tưởng cô chỉ xem tôi như một gia nhân. Tự ti mặc cảm, tôi chấp nhận, không thắc mắc.

Một ngày nọ, bà Tá bận việc không đón cô tan học như thường lệ nên ông Tá nhờ tôi. 

Hôm đó trời mưa tầm tã suốt buổi.

Chiếc xe jeep nhà binh không có vạt che 2 bên, mưa tạt mạnh vào trong. Trông cô như một tài tử đang diễn cảnh vừa rơi xuống hồ bơi mặc nguyên quần áo, bước lên xe. Run rẩy.

Chiếc chemise trắng và chiếc jupe vàng dán sát làm phông, nổi bật nội y. Lồ lộ một bông hoa đang hé nở. Toàn thân phác họa sẵn những đường nét hình thành một thần vệ nữ tương lai.

Tôi không ướt nhiều mà cũng run rẩy. Mặt nóng bừng bừng, mê man trong cơn sốt ảo.

Chỉ đến khi cô nhắc cho xe chạy tôi mới sực tỉnh. 

Tôi cởi chiếc áo khoác lính đưa cô che đậy. Tránh ánh mắt nhìn hau háu, chiêm ngưỡng, ghen tỵ của những chàng trai qua đường.

Tôi sung sướng suốt mấy ngày. Cười nói huyên thuyên. Chiếc áo khoác tôi treo sát đầu giường, không bao giờ phơi, không bao giờ giặt. Hương thơm phảng phất cho tôi quên hết mệt nhọc sau ngày dài làm việc và ban đêm dìu tôi vào giấc ngủ dễ chịu êm ái nhất. 

Hình ảnh hôm ấy của cô khắc sâu trong tâm trí. Nếu là họa sĩ tôi có thể vẽ không thiếu một chi tiết.

 DI TẢN VÀ ĐỊNH CƯ 

 Ngày di tản. Dòng người hối hả chen lấn xô đẩy khi chiếc máy bay chưa kịp ngừng hẳn. Tôi xách 2 chiếc vali định trao cho ông Tá rồi trở về nhưng bị chèn ép, không thoát ra được. Bị nhét vào bên trong máy bay, trở thành người di tản bất đắc dĩ.

Chúng tôi được định cư ở Grand Rapids thuộc tiểu bang Michigan. 

Tại Mỹ, tôi hội nhập dễ dàng hơn gia đình ông bà. Hội nhà thờ giới thiệu tôi và ông Tá làm công nhân trong một xưởng sản xuất phụ tùng xe hơi. Tôi học thêm nghề hàn, sống khá thoải mái. Bà Tá vẫn còn hoài niệm mệnh phụ phu nhân, không chấp nhận lao động chân tay. 4 người con được xếp vào các lớp học theo độ tuổi. 

 Trong hãng xưởng có nhiều công nhân Việt Nam thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Buổi ăn trưa chúng tôi thường tách thành nhóm riêng, nói tiếng Việt rôm rã. 

Một hôm, có một thanh niên không hiểu sao sừng sỏ, nói bóng gió, ở VN làm tướng làm tá hách dịch, qua đây thằng nào cũng như thằng nấy, cũng cu li như nhau. Tôi không dằn được cơn giận, định dậy cho anh ta một bài học nhưng ông can ngăn.

Tôi lớn tiếng, ông thầy tôi đã ngã ngựa nhưng vẫn khí khái. Không nề hà công việc nào, miễn là lương thiện, anh phải kính phục hơn là khinh thường. Hơn nữa tuổi của ông ta bằng tuổi cha chú của anh, anh không được hỗn xược gọi ông là thằng. 

Mọi người vỗ tay hoan nghênh, anh ta xấu hổ bỏ đi, từ đó bị tất cả xa lánh. 

Ông Tá lủi thủi bước, cúi mặt, nói với chính mình, “Thằng ông lưu vong ơi, đã đủ nhục chưa?”.

Cô Sylvie bỏ học, theo đám bạn bè cùng lứa, sống bầy đàn khiến ông bà phiền lòng không ít. Ông vốn sống lặng lẽ lại càng lặng lẽ. Tôi là người duy nhất hầu chuyện ông, giúp ông khuây khỏa. 

Có lần ông nói với bà mà tôi vô tình nghe được, phải chi con Sylvie chịu lấy thằng … thì đâu đến nỗi.

Bà trừng mắt nói, ông muốn gả con gái ông cho ai? Cho nó ư? Nó chỉ là thằng lính tài xế!

Ông nhỏ nhẹ, tuy thế nó biết trên dưới, biết lễ độ, biết chí thú làm ăn, không khá hơn cái đám bạn bè ăn chơi của con bà ư? 

 Tôi không khỏi suy nghĩ. Tự nhủ, phải quyết tâm tìm chút công danh cho mở mắt với đời. Tôi dành thời giờ buổi tối, ôn luyện chương trình trung học. Sau đó nhờ bà láng giềng tốt bụng hướng dẫn ghi danh học ở Kalamazoo Valley Community College 2 năm và tiếp theo 2 năm nữa ở University of Michigan-Flint.

Bốn năm học tập vất vả rồi cũng qua. Tôi nhận được văn bằng tốt nghiệp Cử nhân Khoa học Kỹ thuật Cơ khí. Ông Tá chúc mừng, đãi tôi bữa cơm thân mật. Ông nói với bà:

-Bà thấy chưa? Mỹ là đất nước của cơ hội. Mọi người đều bình đẳng. Có ý chí phấn đấu sẽ thành công. Từ thằng tài xế nó đã trở thành ông kỹ sư. Không tiến thủ, ỷ lại, sẽ bị bỏ rơi phía sau như con gái bà. Đấy! Cô tiểu thư của bà, dân trường tây trường đầm bây giờ có ra gì!

Bà Tá tỏ vẻ bất cần, không đáp trả.

Tôi tìm được công việc mới, phù hợp với khả năng. Ông Tá thay đổi công việc vài lần rồi tới tuổi hưu trí. 

Mỗi cuối tuần tôi đều rủ ông đi uống cà phê, đi câu cá, đi ăn ngoài hoặc đi gặp các bạn già của ông. 

Ông rất quý mến tôi. Riêng tôi vẫn kính trọng ông như ngày xưa, nói với ông, tôi lúc nào cũng là lính của ông.

Tôi âm thầm theo dõi sinh hoạt của cô Sylvie, vẫn tôn thờ thánh nữ của tôi. Đồng thời cùng chia sẻ sự lo lắng của ông bà Tá. 

Tôi hứa với cô, bất cứ khi nào cô cần đều có tôi, không điều kiện. Những lần cô gọi tôi giúp giải vây đám côn đồ, tôi đều hăng hái. Cô xem đó như là nhiệm vụ của tôi phải bảo vệ cô. Buồn ít nhưng vui nhiều.

 ĐÔI MẮT NGƯỜI THƯƠNG 

Những năm sau này tôi nhận ra mắt thường bị khô, cộm. Đôi lúc nhạy cảm với ánh sáng, nhất là với ánh sáng chói. Tôi nghĩ, có lẽ do hậu quả của thời gian làm nghề hàn nên không quan tâm.

Tôi hối hận đã không mua thêm bảo hiểm cho dịch vụ khám mắt định kỳ, ngoài Medicaid của tiểu bang. Nếu được phát hiện sớm tôi đã không lâm vào hoàn cảnh ngặt nghèo.

Cho đến khi thị lực giảm, nhìn mờ. Soi gương thấy có đốm trắng trên giác mạc, tôi hoảng hốt, đến bệnh viện nhãn khoa khám thì tỉnh trạng đã khá nghiêm trọng. 

Bác sĩ chẩn đoán thoái hóa giác mạc nặng, thị lực có thể suy giảm theo thời gian. Nguy cơ mù vĩnh viễn nếu không được điều trị kịp thời. 

Các loại thuốc nhỏ mắt và thuốc nhỏ nước mắt nhân tạo chỉ giúp giảm khô mắt và bảo vệ giác mạc tạm thời.

Hai giải pháp được bác sĩ đưa ra. Hoặc cấy ghép mô nhân tạo bằng phương pháp hiện đại giúp tái tạo giác mạc, hoặc phẫu thuật ghép giác mạc của người hiến tặng. Giải pháp thứ hai có lẽ thích hợp với tôi hơn, nhưng danh sách chờ ghép quá dài, vi hiếm nguồn hiến tặng. 

Tôi được giới thiệu ghi danh tại chi nhánh của tổ hợp “Northwest Eye Surgeons” ở Chicago, với hy vọng rất mỏng manh.

Tin dữ ập đến với gia đình ông bà Tá. Cô Sylvie bị tai nạn giao thông! Tình trạng nguy kịch. Bệnh viện tiên liệu xấu, khó qua khỏi. Gia đình họp khẩn cấp. Không ai giữ nổi bình tĩnh ngoại trừ ông Tá. 

Tôi nghe tin mà bất lực, mắt đã mờ hẳn, không thể di dịch xa như ý muốn. Cậu em trai của cô chở tôi đến bệnh viện gặp mọi người. 

Cô Sylvie đã chết não. Bà Tá khóc lóc thảm thiết, ôm con nói trong nước mắt ràn rụa, con tôi chết trẻ, chết oan uổng, làm sao có thể nhắm mắt. 

Ông Tá nghe thế, đột nhiên có một ý nghĩ nảy sinh trong đầu. Ông đề nghị hiến giác mạc của cô Sylvie cho tôi để cặp mắt của cô sẽ sống mãi.

Bà Tá không đồng ý nhưng dưới áp lực và lời khuyên chân thành cuối cùng chấp nhận. 

Quá bất ngờ, tôi không kịp suy nghĩ, bất động, cảm kích không nói nên lời. 

Việc lấy giác mạc phải được thực hiện trong vòng 6-24 giờ sau khi người hiến qua đời để bảo đảm chất lượng mô nên xe cứu thương đưa xác cô Sylvie và tôi đến bệnh viện nhãn khoa “Northwest Eye Surgeons” tức thời. 

Cuộc phẫu thuật thành công như mong đợi. Ghép giác mạc là một phẫu thuật ngoại trú. 

Sau khi theo dõi vài giờ, không thấy có nguy cơ biến chứng, tôi đã được xuất viện cùng ngày. Phải giữ băng mắt trong 2 ngày và dán nắp kính bảo hộ khi ngủ, để tránh vô tình chạm dụi mắt. 

Sau 2 ngày thì tháo băng. Không có cảm giác khó chịu và sưng nên tôi lại nhờ cậu em trai đưa về nhà ông bà Tá để cảm ơn tấm lòng nhân đạo bao la của ông bà và cũng để đến trước di ảnh cô Sylvie thành tâm tưởng nhớ. 

Ông bà muốn xem đôi mắt tôi nhưng không được vì vẫn còn mang kính do nhạy cảm với ánh sáng và chảy nước mắt. Chỉ khi thị lực ổn định mới được để mắt trần.

Điều kỳ lạ, mỗi khi nhìn vào gương, tôi không thấy chính mình, mà thấy hình bóng cô Sylvie. Đôi mắt ấy, cái nhìn ấy – là của cô! 

Mỗi lần nhắm mắt, tôi đều cảm nhận như cô vẫn ở bên cạnh, cười với tôi, nói chuyện với tôi bằng chính đôi mắt đó.

 Bà Tá vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận sự thật. Bà không biểu lộ thiện cảm với tôi vì nghĩ tôi không xứng với con gái bà. Nhưng giờ đây, mỗi lần nhìn tôi, bà lại thấy đôi mắt ấy – đôi mắt của cô Sylvie, trong veo mà day dứt. 

Có lần bà buồn bã nhìn tôi, chợt hỏi:

– Dạo này… con có nhớ Sylvie nhiều không?

Tôi sững lại. Bà chưa từng gọi tôi là “con”. Tôi khẽ gật đầu:

– Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút bà ạ.

Bà Tá im lặng nhìn tôi. Gọi tôi là con nhưng có bao giờ bà xem tôi như con đâu. Giờ đây, từng ánh nhìn, từng cử chỉ của tôi đều gợi cho bà hình bóng cô Sylvie. Có lẽ, định mệnh đã sắp xếp để chàng trai này cùng chung sống với một phần cơ thể của con gái bà.

Một buổi chiều muộn, tôi ghé thăm nhà. Ông Tá ra mở cửa, vỗ nhẹ lên vai tôi, vẫn ánh mắt ấm áp:

– Vào đi con, lâu rồi sao con không tới ăn cơm với gia đình?

Căn nhà từng đóng kín cửa vì nỗi đau mất con, hôm nay lại mở rộng với tôi. Bước vào, thấy trên bàn thờ di ảnh cô Sylvie, rạng rỡ như ngày nào. Tôi khẽ cúi đầu, thì thầm trong lòng:

-Cô…, cô vẫn đang đồng hành củng tôi trên con đường đời, đúng không?

Ngoài hiên, gió nhẹ lay lay những chùm hoa giấy, nghe như tiếng động gật đầu.

Từ ngày bước vào căn nhà của ông bà với tư cách một người thân, tôi dần quen với sự hiện diện của bà và ông trong cuộc đời mình. 

Bà Tá vẫn không thể gọi tôi là “con rể”, nhưng sự quan tâm của bà dành cho tôi không khác gì mẹ lo cho con. 

Bà kín đáo quan sát tôi. Mỗi lần đến thăm, bà đều cho tôi thưởng thức những món ăn Sylvie từng thích. 

Đôi khi bà hỏi han chuyện công việc của tôi, rồi chuyện nọ chuyện kia. Nhắc nhở tôi giữ gìn sức khỏe.

Tôi không biết từ khi nào tôi đã trở thành một thành viên của gia đình ấy. 

Mỗi khi ở bên ông bà, tôi cảm thấy gần cô Sylvie hơn, như thể cô vẫn hiện diện đâu đây, qua từng món ăn, từng bức ảnh, từng kỷ niệm nhỏ mà mọi người kể lại.

Sau ca ghép giác mạc, tôi phát hiện ra một điều lạ lùng. Đôi mắt tôi không chỉ giúp tôi nhìn rõ hơn mà dường như còn chứa đựng một phần ký ức. 

Có những lúc mơ màng, mơ mà như thực. Tôi thấy mình lái xe dưới cơn mưa tầm tã đón cô ở cổng trường, thấy bàn tay mình cầm một cuốn sổ nhỏ với những dòng chữ quen thuộc tôi chưa từng viết.

Một đêm nọ, tôi giật mình tỉnh dậy, tim đập thình thịch. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang đứng trước gương, nhưng khuôn mặt phản chiếu không phải của tôi, mà là của cô. Cô cười vui, hàm răng trắng bóng, ánh mắt tràn đầy yêu thương.

– Cô vẫn ở đây, bên tôi, đúng không? Tôi lẩm bẩm, nhìn chằm chằm vào gương.

Đôi mắt trong gương loé lên ánh nhìn linh động. Không có tiếng trả lời, nhưng tôi có cảm giác như cô đang mỉm cười với tôi qua chính đôi mắt ấy.

Tôi không kể điều này với ai. Tôi sợ nếu nói ra, người ta sẽ bảo tôi bị bệnh hoang tưởng. Dần dần cảm giác đó không ám ảnh nữa. Nó trở thành một sự hiện hữu quen thuộc, một niềm an ủi đích thực. 

Tôi không còn thấy cô đơn, vì biết rằng cô vẫn ở bên tôi, theo một cách đặc biệt.

Bà Tá lúc đầu vẫn giữ khoảng cách với tôi, nhưng càng ngày, bà càng thấy hình ảnh của chính con gái mình rõ nét hơn trong từng ánh mắt, từng cử chỉ của tôi. 

Bà lặng lẽ nhìn tôi chăm sóc chậu hoa giấy con gái bà từng yêu thích, thấy tôi cẩn thận lau chùi từng món đồ kỷ niệm của Sylvie, thấy tôi thỉnh thoảng lặng người nhìn về phía bàn thờ, như đang trò chuyện với cô.

Một hôm trong bữa cơm, bà bỗng giật mình, dí sát, nhìn vào mắt tôi, rơi cả đũa. Ảo giác khiến bà lạc giọng:

– Đúng rồi! Đúng đứa con gái bé nhỏ của mẹ đây rồi! Con tôi đã trở về! Con tôi! Mẹ đã thấy con trong đôi mắt con. Mẹ…mẹ muốn…cho mẹ ôm con vào lòng…

Bà giang hai tay ôm một chiếc bóng vô hình rồi hôn lên mắt tôi. Bà nếm những giọt nước mắt lăn dài mà tôi không biết chảy từ lúc nào. 

Bà nói trong nước mắt:

-Cứ khóc đi con! Mẹ và con cùng khóc ! Những giọt nước mắt hạnh phúc của hai mẹ con mình!

Qua cơn xúc động, bà trìu mến hôn lên mắt tôi một lần nữa:

-Hay là con dọn về ở đây đi. Mẹ muốn thấy con của mẹ mỗi ngày.

Rồi giọng bà mềm đi:

–Ừ!, mẹ biết… con thương Sylvie. Con hãy xem nơi này như nhà nghe con.

 Tôi nghẹn lời. Đã vài lần bà gọi tôi là “con”, nhưng lần này gọi con xưng mẹ một cách tự nhiên. Cảm giác nhận được chân tình của bà tràn ngập trong lòng, tôi khẽ gật đầu.

Từ hôm đó, tôi qua lại nhà ông bà hàng ngày. Tôi chăm sóc họ như cha mẹ mình, còn họ xem tôi như con trong gia đình. Bà không khách sáo, mà dần chấp nhận sự thật. 

Bằng tâm linh, con gái bà vẫn tiếp tục sống trong thế giới này, với đôi mắt ấy, thông qua chàng trai trước mặt bà.

Thời gian trôi qua, tôi vẫn không yêu ai khác. Trong lòng tôi, cô chưa bao giờ rời xa. 

Tôi vẫn giữ thói quen đi dạo trên những con đường cô từng đi, vẫn giữ quyển sổ nhật ký của cô bên mình, dù chưa một lần mở ra. Tôi sợ biết những điều không muốn biết.

Một buổi chiều, khi đang ngồi bên hiên nhà ngắm nhìn hoa giấy bay trong gió, bà Tá chợt hỏi:

– Con vẫn không định tìm một ai khác sao?

Tôi mỉm cười lắc đầu. Không cần phải nói gì thêm, vì bà đã hiểu.

– Thôi được rồi… Bà thở nhẹ, không còn băn khoăn như trước. Dù sao thì, con vẫn là con của gia đình.

Tôi nhìn bà, cười tươi. Tôi biết, dù cô đã không còn, nhưng tôi thay chỗ cô trong gia đình, vẫn cùng cô đi đi về về. 

Và dẫu cuộc sống có ra sao, tôi vẫn luôn mang theo đôi mắt người thương, để nhìn thế gian này bằng ánh mắt của cô, để yêu thương mọi thứ theo cách cô từng yêu thương.

Hoàng hôn buông xuống, nhuộm vàng cả khung trời. Qua làn gió thoảng, dường như có ai đó đang cười bằng mắt.

***

Đồng cảm, người viết gửi tặng người trong truyện mấy câu:

Một đôi mắt, nhập hai tâm hồn,

Vui buồn cười khóc với thế nhân.

Sống-chung đời-lòng thề không đổi,

Nhắm mắt cùng nhau lúc lìa trần.

 Nguyễn Cát Thịnh

Ngày 10 tháng 2 năm 2025

From: gregory adams & Phi Phuong Nguyen 


 

“Ông bán số trứng này giá bao nhiêu?”-Truyện rất ngắn

Dao Van Ba is with Nguyễn Trung Tính

Một bài viết từ e-mail của bạn Khanhvngo st, tôi chép lên Facebook để nhiều bạn đọc lại vẫn thấy thấm nhé !

Lâu lâu đọc lại vẫn thấy thấm

Người phụ nữ hỏi lão già: “Ông bán số trứng này giá bao nhiêu?”

Lão bán trứng trả lời: “3.000₫ một quả, thưa bà.”

Người phụ nữ liền nói: “6 quả 12.000₫, không bán tôi mua chỗ khác.”

Lão bán trứng nói: “Cứ mua với cái giá mà bà muốn. Có thể đây là khởi đầu tốt, bởi từ sáng tới giờ tôi vẫn chưa bán được quả nào.”

Người phụ nữ lấy những quả trứng và rời đi, lòng thầm đắc thắng.

Bà ta ngồi trên chiếc ô tô ưa thích của mình, tới một nhà hàng sang trọng để dùng bữa với bạn bè. Ở đó, bà và người bạn gọi bất cứ món ăn nào họ thích. Sau đó, bà ra quầy thanh toán. Hóa đơn trị giá 1.950.000₫ trả tới 2 triệu và còn dặn người chủ nhà hàng không cần thối lại.

Tình huống này xem ra khá quen thuộc với người chủ cửa hàng, nhưng thật quá nhẫn tâm với ông già nghèo khổ bán trứng gà kia.

Vấn đề mấu chốt ở đây là: Tại sao chúng ta cứ phải tỏ ra quyền lực với những người nghèo khó? Và tại sao chúng ta luôn hào phóng với những người thậm chí không cần đến sự hào phóng của chúng ta?

Có lần tôi đọc được ở đâu đó một câu chuyện:

“Bố tôi có thói quen mua những thứ đồ nho nhỏ với giá cao từ những người nghèo khó, mặc dù ông không hề cần đến. Thỉnh thoảng ông thậm chí còn trả thêm tiền cho chúng. Tôi bắt đầu để tâm đến hành động này và hỏi bố tại sao lại làm như vậy? Bố tôi bèn nói: “Đó là quỹ từ thiện được bao bọc bởi phẩm giá, con yêu ạ.”

Sưu tầm


 

THIẾU UÝ HÙNG -Truyện ngắn

Xuyên Sơn

Thiếu Uý cảnh sát Dương Mạnh Hùng có thời gian phục vụ trong ngành ngắn ngủi chỉ 2 năm, nhưng thời gian tù cải tạo lại dài gấp 4 lần, nghĩa là 8 năm.

Tình nguyện vào học tại trường Sĩ quan cảnh sát Thủ Đức năm 1973,

lúc ấy Hùng mới 19 tuổi, trên mặt vẫn còn sót lại lưa thưa những cọng lông măng của tuổi dậy thì.

Ngày mãn khoá huấn luyện, trong lúc các bạn đồng khoá vui mừng chuẩn bị đón nhận lon Thiếu Uý mới tinh trên vai áo thì Hùng bị bắt.

Một chiếc xe jeep mang biển số ẩn tế ( giống như xe mang biển số xanh bây giờ) của Bộ Tư lệnh Cảnh sát quốc gia chạy vào trường, còng tay Hùng quăng lên xe vì cái tội khai báo lý lịch gian dối.

Về tới Bộ Tư Lệnh cảnh sát, Hùng được tháo còng, đưa đi gặp Trung Uý Ngọc, Trưởng lưới tình báo đặc trách mảng “Sinh viên, học sinh”, thuộc Khối Cảnh sát Đặc biệt do Đại Tá Tây làm trùm.

Tại đây Hùng được biết, việc bắt Hùng chỉ là một màn kịch để che mắt mọi người trong việc tuyển Hùng vào làm cho ngành cảnh sát Đặc biệt, chuyên trà trộn, theo dõi và báo cáo các hoạt động của bọn sinh viên “phản chiến”.

Hùng được dặn cấm mặc đồ cảnh sát, cấm vào Bộ Tư lệnh, coi như mình còn đang đi học đại học.

Mọi chuyện chỉ được liên lạc qua một người mập mập, chạy xe vespa,

chính người này mỗi tháng sẽ đến nhà đưa tiền lương cho Hùng hoặc nếu không gặp thì đưa cho mẹ của Hùng.

Sau này, qua rải rác những chuyện phiếm bên bàn rượu, hắn được biết đã có nhiều khuôn mặt việt cộng từng nằm trong “tầm ngắm “ của Hùng.

Đó là :

Hạ Đình Nguyên

( Về sau phản tỉnh, có đi biểu tình chống Trung Quốc vài lần).

Phan Công Trinh

( Sau 75 làm Giám đốc Sở Tư pháp TP/ HCM, rồi đi tù vụ nước hoa Thanh Hương. Tù về, mở nhà hàng Hương Giang rất bự trên sông Hương, Huế)

Ba Châu

(Chánh văn phòng Quận 3, nghe nói đã chết )

Ba Hội

( Giám đốc xí nghiệp xuất nhập khẩu Quận 8, giờ không biết ra sao,

lần chót hắn gặp là năm 1983, khi Ba Hội đến nhà chơi xì phé với ông anh hắn,

lúc xuống cầu thang đi tiểu, súng K54 rớt cả ra ngoài ).

Và toán của Hùng đang trong chiến dịch chuẩn bị bắt nữ nghệ sĩ Kim Cương thì đứt phim.

Sau 75, đi qua nhiều trại cải tạo cũng như chịu đựng mấy trận đòn thù cứ gọi là nên thân, Hùng được thả về cuối năm 1983.

Năm sau, Hùng lấy vợ ( là cô cháu vẫn thường đi thăm nuôi người chú, là bạn tù của Hùng trong trại Z30 D ), có được 2 người con gái.

Cái gia đình nhỏ bé 4 người này đã trải qua những năm tháng lếch thếch, nghèo khổ…

Hắn nhớ lại, lúc đó tài sản quý giá nhất của gia đình Hùng hình như chỉ là mấy cái chậu giặt đồ xanh đỏ bằng mủ.

Rồi khó khăn cũng qua đi, Hùng và cả gia đình leo lên máy bay qua Mỹ theo diện H.O. Tại thành phố Knoxville, bang Tennessee,

Hùng làm lao công cho một bệnh viện lớn ở đây.

Cả ban giám đốc bệnh viện đều khoái Hùng vì sự chăm chỉ và cẩn thận vượt quá óc tưởng tượng của mọi người.

Cách đây khoảng 2 hay 3 năm gì đó, Hùng về hưu non.

Hàng tháng lãnh lương hưu chỉ để vui chơi, chăm sóc 2 đứa cháu ngoại mà Hùng thương yêu nhất trên tổng số 7.8 tỷ con người đang sống trên mặt đất. Thỉnh thoảng Hùng đi câu cá. Cá sợ Hùng lắm, nhưng sợ thì sợ, kết cục cũng phải nằm trong cái thùng nước đá mà Hùng mang theo lúc đi câu.

Tới đây chắc phải nói qua một tí về quỹ hưu trí của nước Mỹ.

Theo hắn đoán, đây là nơi tập trung những bộ óc thông thái nhất của nước Mỹ về các ngành

Sinh học,

Nhân chủng học,

Tâm lý học,

Y tế học,

vân vân và mây mây.

Các bộ óc siêu việt này, ăn toàn đồ bổ của Mỹ, đã cùng nhau phát minh ra một hệ thống lương hưu, mà không hiểu sao, 80% những người nhận lương hưu sẽ chết trong vòng 5 năm.

Chỉ có 20% là may mắn sống vượt ngưỡng 5 năm để tiếp tục lãnh lương mà không phải làm gì cả.

Thiếu Uý Hùng đã không vượt qua được sự tinh khôn của các nhà khoa học Mỹ.

Cách đây chừng 3 tháng, trong lần Hùng tới chơi nhà hắn,

Hùng cho biết bị ung thư thận, sắp phải mổ.

Hắn bảo đừng mổ, để thời gian đó đi chơi cho đã rồi chết cũng được.

Hùng ừ.

Nhưng cuối cùng chắc chiều theo ý gia đình muốn níu kéo, còn nước còn tát, Hùng nhập viện để mổ.

Thế rồi sau 2 tháng nằm đau đớn trong bịnh viện, với đủ các loại ống linh tinh cắm vào người, Hùng được về nhà theo yêu cầu và đã ra đi lúc 08:40 ngày 15/2/2022, trước sự chứng kiến của gia đình, có cả 2 đứa cháu ngoại mà mấy tháng nay không được nhìn thấy mặt ông, vì còn quá nhỏ, bệnh viện không cho thăm gặp sợ ảnh hưởng tới tâm lý của 2 bé.

Với bài viết hơi bị dài này (vì không thể rút ngắn hơn được), hắn coi như một nén nhang, một lời chào từ biệt đứa em thân với hắn nhất trong nhà.

Từ thuở còn bắn bi, đặt bầu cua, cho tới lúc lớn, gặp nhau là cười suốt bên bàn rượu, bởi vì tánh Hùng thích nói giễu, nhất là nói chuyện giễu về việt cộng thì ít ai có thể qua mặt được Hùng. …

Thôi Hùng đi thanh thản.

Anh ở lại sẽ buồn, nhưng anh sẽ sống với ý nghĩ một ngày nào đó anh em mình sẽ gặp lại nhau ở thế giới bên kia.

Và anh em mình sẽ lại cười giỡn như chưa hề được cười giỡn với nhau.

Nguồn fb Loc Duong

 

 


 

Một chuyện tình yêu 80 niên – Truyện ngắn

Nghệ Lâm Hồng

Chàng 16 tuổi, còn nàng 12. Nàng về nhà người dì ở cùng quê chàng và đi học ở tiểu học nữ Cao Lãnh, Đồng Tháp.

Chàng khi đó yêu nhạc đàn, chỉ 10 tuổi đã rất giỏi các nhạc cụ. Một lần, ôm cây măng cầm (mandoline) đến nhà người dì đàn cho vợ chồng họ nghe, chàng gặp nàng và “say nắng”. Nhưng chỉ là thầm yêu trộm nhớ vậy, vì 1 năm sau nàng đã từ giã người dì để về ở với cha mẹ tại Sóc Trăng.

Chàng chính là nhạc sư Vĩnh Bảo sau này nổi danh còn nàng là hoa khôi Trâm Anh nổi tiếng.

Từ Sa Đéc khi đó tới Sóc Trăng là cả 1 quãng đường. Có lần, nhớ người trong mộng đến quay quắt, chàng đón xe đò xuống quê nàng. Đứng ở cầu quay Sóc Trăng, chàng chờ hàng giờ, nhìn học sinh lần lượt đi qua mà không thấy bóng dáng nàng đâu, đành thất thểu quay về.

Năm 1946 – 12 năm sau, Vĩnh Bảo – lúc này đã là một tay đàn lẫy lừng – từ Sài Gòn về thăm quê cha ở Sa Đéc. Vẫn ôm mối tình vô vọng, khi gặp người quen, ông bâng quơ hỏi thăm về Trâm Anh, được cho biết nàng vẫn còn độc thân ở quê nhà.

Chàng trai năm ấy quyết liều một phen, về nhà nhờ gia đình mang trầu cau sang dạm hỏi. Phút giây cha mẹ bà gật đầu đồng ý, ông miệng cười mà nước mắt tuôn rơi.

Nhạc sư không dám tin từ nay sẽ sống bên người con gái ông ngỡ đã mãi đánh mất. Một đám cưới nhỏ được tổ chức ngay trong năm. Và họ nên duyên cầm sắt.

Yêu vợ, 7 người con ra đời đều ông đặt theo tên vợ: Thu Anh, Trung Anh, Tam Anh, Tùng Anh, Tú Anh, Tiến Anh, Tường Anh.

Ông từng tâm niệm vợ chồng gắn bó cả đời là ở sự kính nể nhau. Học trò về Đồng Tháp thăm nhà ông, thường ngưỡng mộ tình cảm ông dành cho vợ. Trong gian nhà chỉ khoảng hơn 40 m2, ông bày khắp tường khung ảnh của vợ, từ khoảnh khắc vợ chồng thuở thanh niên đến lúc bạc đầu.

Bà làm vợ 1 nhạc sư, gia cảnh nghèo, rất tần tảo lo tề gia nội trợ, yêu chồng thương con, quý học trò của chồng.

Những năm cuối đời của bà Trâm Anh, ông không rời bà nửa bước. Lúc ấy, bà bị suy thận, phải nhập viện điều trị. Ông thường nằm bên bà để vợ bớt lẻ loi, hai cái giường chỉ cách nhau nửa gang tay. Đến khuya, bà than lạnh, ông liền leo qua nằm chung. Chứng thận yếu khiến người bà hay ngứa ngáy, phải nhờ ông gãi suốt đêm, bà mới êm giấc. Những tháng cuối cùng, biết mình khó qua khỏi, bà mới chủ động ôm chồng dù thường ngày, tính bà hay ngại. Mỗi lần muốn hôn, bà cố gượng dậy nhưng lực bất tòng tâm. Thấy cảnh đó, lòng ông đau như cắt.

Bà mất trong một chiều mùa thu năm 2014. Trong đám tang bà, ông không còn nước mắt để khóc. Nhạc sư chỉ kịp viết bài thơ tiễn biệt vợ sau 68 năm chung sống:

“Chiều nay em vĩnh viễn ra đi

Tim anh rỉ máu phút biệt ly

Sáu tám năm, nặng nghĩa sâu

Đơn phương cởi áo qua cầu mình em

(…) Từ nay lạnh lẽo kiếp phù sinh

Biết nói gì đây hết ý tình

Chuyến xe định mạng, đành an phận

Bấm ruột, lệ rơi chỉ riêng mình”.

6 năm sau khi người vợ ra đi, nay nhạc sư Vĩnh Bảo thọ 104 tuổi đã về trùng phùng cùng vợ.

Chuyện tình của ông bà thật bình dị, nhưng thật đẹp, như cuộc đời của ông, bảo vật quý báu của đờn ca tài tử Nam Bộ, và của bà, một phụ nữ cả đời hy sinh nhất mực vì chồng con.

Theo VN Express, Truyền hình Đồng Tháp

Hình tư liệu

NbNguyễn Thị Bích Hậu


 

Gieo nhân nào gặt quả đấy – Bởi  Đăng Dũng-Truyện ngắn

Bởi  Đăng Dũng

Tại thành ρhố Portlαnd, bαng Oregon, thuộc Mỹ, có hαi vợ chồng và một người con trαi. Cậu con trαi này đã mαng đến cho họ rất nhiều ρhiền пα̃o. Không chỉ thế, mà cậu con trαi này củα họ đã bỏ nhà đi không một chút tin tức gì trong suốt bα, bốn năm liền.

Vì vậy, người chồng đã tìm đến một chuyên giα tâm lý học và đem hết nỗi khổ sở trong lòng mình nói rα cho chuyên giα tâm lý này nghe.

Chuyên giα tâm lý học sαu khi nghe xong liền nói: “Ông đã ‘nguyền rủα’ con trαi củα mình trong thời giαn bαo lâu rồi?”

Người chồng kinh ngạc hỏi lại: “Ông nói tôi nguyền rủα con trαi tôi? Ông nói thế là nghĩα làm sαo?”

Chuyên giα tâm lý trả lời: “Nguyền rủα ở đây chính là nói những lời không ρhải, lời cαy nghiệt với người khác. Theo như lời ông kể lúc nãy, thì những lời nói củα ông với con trαi mình đều là những lời không ρhải. Vậy ông đã ‘nguyền rủα’ con trαi mình trong bαo lâu rồi?”

Người chồng lúc này đã hiểu và cúi đầu nói: “Vậy thì tức là từ lúc con trαi rα đời, chính là tôi đã ‘nguyền rủα’ nó cho tới tận bây giờ. Từ trước đến nαy, dường như tôi chưα nói được nhiều lời thực sự tốt đẹρ với nó cả”.

Chuyên giα tâm lý nói: “Kết quả là không đem lại hiệu quả gì, đúng không?”
Người chồng trả lời: “Đúng vậy!”

Cuối cùng, chuyên giα tâm lý họ này nói: “Bây giờ tôi đề nghị ông và vợ ông, trong hαi tháng tiếρ theo, khi hαi người nghĩ đến con trαi củα mình, hãy chúc ρhúc cho cậu bé, đừng nghĩ cậu bé không tốt.

Tôi cũng muốn hαi người hãy cầu xin Thượng đế che chở cho cậu bé. Lúc hαi người nghĩ đến con trαi củα mình, tôi đề nghị hαi người hãy nhớ những mặt tốt củα cậu bé và nói những lời tốt về cậu bé!”

Người chồng sαu khi trở về, đã kể lại việc này cho vợ củα ông. Hαi người họ đồng ý với những lời nói củα chuyên giα tâm lý học kiα và nguyện làm theo như vậy.

Mỗi lần nghĩ đến con trαi củα mình, họ đã cầu xin Thượng đế bαn ơn cho cậu bé. Lúc họ nói chuyện về con trαi họ, họ cố gắng ghi nhớ những ưu điểm củα cậu bé và mỗi ngày họ đều làm như vậy.

Khoảng 10 ngày trôi quα, một hôm người chồng đαng ngồi trong ρhòng đọc sách thì chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kiα điện thoại chính là con trαi củα ông. Cậu con trαi nói: “Chα! Con không biết tại sαo lại gọi điện thoại cho chα. Con chỉ muốn nói với chα mẹ rằng trong một tuần vừα quα, con lúc nào cũng nghĩ về chα mẹ và còn cả người nhà củα chúng tα nữα. Cho nên con đã gọi điện cho chα, hỏi thăm xem mọi người có khỏe không?”

Người chα nói: “Con trαi! Chα thực sự rất vui vì con đã gọi điện về!”
Sαu mấy ρhút trò chuyện trong điện thoại, cuối cùng người chα nói: “Chα không biết trong lòng con nghĩ thế nào, nhưng con có muốn trưα thứ bảy này ăn cơm cùng chα không?” Cậu con trαi vui vẻ đồng ý.

Trong bữα cơm trưα ngày thứ bảy, chα con họ gặρ lại nhαu. Người con trαi ăn mặc rất cũ rách, đầu tóc vừα dài vừα rối bù. Nếu như là trước đây, người chα nhất định sẽ giận giữ mà buông những lời mắng mỏ thậm tệ đối với cậu.
Nhưng bây giờ, ông lại dùng thái độ tiếρ nhận mà đối đãi, trong lòng còn “chúc ρhúc” cho cậu. Trong bữα ăn, hαi chα con họ rất vui vẻ trò chuyện cùng nhαu, mỗi khi cậu con trαi nói điều gì đúng thì người chα cũng vui vẻ gật đầu đồng ý.
Bữα ăn nhαnh chóng kết thúc, cậu con trαi nhìn chα và nói: “Con không biết đã xảy rα chuyện gì nhưng con rất vui vì được ở bên chα trong khoảng thời giαn ngắn ngủi vừα rồi.”

Người chα nói: “Chα cũng rất vui vì được ở bên con!”

Cậu con trαi nhìn chα lưu luyến và hỏi: “Con muốn ở nhà đêm nαy được không? Chỉ đêm nαy thôi! Con muốn thăm mẹ cùng mọi người và cả chiếc giường cũ củα con nữα!”

“Đương nhiên là được rồi! Mọi người sẽ rất vui vẻ vì con trở về!”

Đêm hôm ấy, khi người con trαi nằm ngủ ở chiếc giường xưα củα mình, người chα đã đi đến bên ρhòng cậu con trαi, ngồi xuống giường và nói: “Con trαi! Nhiều năm quα chα đã đối xử với con rất không tốt. Con có sẵn lòng thα thứ cho chα không?”

Nói xong, hαi chα con họ ôm nhαu thật chặt và thật lâu trong màn đêm yên tĩnh. Người con trαi sαu đó đã thực sự trở về nhà và kể từ đó mối quαп Һệ giữα hαi chα con họ rất tốt đẹρ.

Suy ngẫm một chút về câu chuyện này, chúng tα tự hỏi mối quαп Һệ giữα chα con họ thực sự tốt đẹρ từ khi nào? Chính là từ khi người chα chịu tiếρ nhận, mở lòng và bαo dung với con trαi củα mình.

Mặc dù không lý giải được hết nguyên nhân nhưng khi chúng tα sẵn lòng “chúc ρhúc” cho người khác mà không ρhải “nguyền rủα” họ thì dường như Thượng đế cũng sẽ coi trọng lời “chúc ρhúc” củα chúng tα mà khiến cho khoảng cách giữα người “chúc ρhúc” và người được “chúc phúc” rút ngắn lại hơn.

Hãy bαo dung và ghi nhớ điểm tốt củα người khác nhiều hơn

Nếu một người có lòng bαo dung, luôn ghi nhớ điểm tốt củα người khác thì người ấy mới có thể làm được việc thα thứ người khác một cách thật lòng.

Trong cuộc sống, có lẽ mỗi người chúng tα đều từng mắc ρhải cùng một tật xấu, đó là người khác đối với chúng tα có mười điểm tốt và một điểm không tốt thì mười điểm tốt kiα đều sẽ bị chúng tα gạt bỏ toàn bộ chỉ trong nháy mắt.

Chúng tα thường có xu hướng nhớ kỹ khuyết điểm và sαi lầm củα người khác dù chúng rất nhỏ bé, nhớ kỹ những lúc người khác ngạo mạn, xem thường chúng tα…rồi ấm ức. Vì thế, chúng tα sẽ càng nhìn thấy ở họ chứα đầy sự xấu xα, càng nhìn thì lại càng thấy người này đã không thể chấρ nhận nổi.

Nhưng chúng tα lại thường quên mất rằng, người khác chính là chiếc gương củα mình. Nhìn vào “chiếc gương” với nét mặt như thế nào thì từ trong gương sẽ ρhản xạ lại hình ảnh như thế ấy.

Một khi bạn nở nụ cười tươi rạng rỡ nhìn vào “chiếc gương” ấy thì hình ảnh mà bạn nhận được là một gương mặt rạng rỡ, tươi vui. Còn khi dùng nét mặc giận dữ, chαu mày, trừng mắt nhìn vào “chiếc gương” thì hình ảnh mà bạn nhận lại sαo có thể không ρhải là gương mặt “không vừα ý” ấy được?

Chúng tα gieo trồng loại hạt giống nào thì sẽ thu hoạch được loại quả đó. Nếu như chúng tα rải khắρ nơi hạt giống “nguyền rủα” thì chúng tα sẽ thu hoạch được “nguyền rủα”. Còn nếu chúng tα rải khắρ nơi hạt giống “chúc ρhúc” thì đương nhiên thứ mà chúng tα thu hoạch được sẽ là “chúc ρhúc”!.

From: Anh Dang & Kim Bang Nguyen

Cặp đôi hoàn hảo-Truyện ngắn HAY

Cặp đôi hoàn hảo

Họ là một “cặp đôi hoàn hảo”như tên gọi của khu dân cư này tặng cho. Cụ ông chắc hẳn đã ngoài bảy mươi, trong khi cụ bà cũng tròm trèm bảy chục, nhưng trông trẻ trung và khỏe mạnh hơn cụ ông rất nhiều.

Sáng sáng, người ta thấy cụ bà cầm tay dẩn từng bước, đưa ông ra công viên tập thể dục với cây gậy trên tay vì ông đã mù. Trông họ rất hạnh phúc và quấn quit nhau như vợ chồng son. Sau khi tập thể dục xong, họ thường ngồi trên một chiếc ghế đá cùng nghe nhạc hoặc nghe đọc sách từ chiếc điện thoại, hoặc cụ bà đọc sách cho ông nghe, rồi cả hai cùng chuyện trò vui vẻ.

Những buổi chiều êm ả, từ nhà họ phát ra tiếng dương cầm thánh thót của những bản nhạc xưa, do cụ ông ngồi trước cây đàn với bàn tay uyển chuyển trên từng phím đàn. Họ mới dọn về khu dân cư này khoảng trên dưới hai năm nay. Nhiều người tò mò muốn biết họ là ai, nên hỏi anh công an khu phố về mối quan hệ và lai lịch của họ. Anh công an cho biết người phụ nữ là một Việt kiều Mỹ và cụ ông là một cán bộ về hưu và họ không phải là vợ chồng. Rất nhiều người muốn biết “bí quyết hạnh phúc”của họ nên cứ theo nài nỉ họ kể về cuộc đời của mình. Cụ bà cũng là người dễ tính, hướng ngoại nên cuối cùng bà bộc bạch

Hơn bốn mươi lăm năm xưa, lúc miền Nam Việt Nam vừa mới được hoàn toàn giải phóng, chúng tôi là hai người xa lạ, cùng ngồi chung bàn trong một lớp học thêm tiếng Anh, Thiện là con của một cán bộ đi tập kết về, mẹ ở miền Nam làm chủ một cửa ha`ng lớn, trong khi tôi là con nhà nghèo, ba mất sớm, mẹ phải một mình gồng gánh nuôi ba đứa con nhỏ ăn học với cái nghề bán hàng rong. Anh là một thanh niên lịch lãm, đàn hay hát tốt. Tôi là con bé suốt ngày cắm cúi nấu xôi, chuối và làm việc nhà phụ mẹ. Nhà nghèo, vất vả mưu sinh, nhưng không hiểu sao mẹ cứ bắt tôi học tiếng Anh. Trong giờ học, cô giáo luôn phân cho chúng tôi làm “pair work”(một cặp đôi) để tập nói. Cả hai cùng thích đọc sách, xem phim và thích bình luận về các tác phẩm mình vừa đọc hoặc xem nên chúng tôi ngày càng thân nhau hơn. Thấy mẹ tôi và tôi vất vả bán buôn bên vỉa hè, Thiện sắp xếp cho chúng tôi một quầy xôi mặn và bánh mì rất sạch sẽ và sang trọng trước cửa nhà anh. Anh dối mẹ mình là chúng tôi thuê với giá cao, trong khi anh đã bỏ tiền túi của mình ứng trước tiền cọc và tiền thuê nhà suốt một năm nên ba má Thiện rất tử tế với chúng tôi. Anh thường xuyên mua thịt giá cao ngoài chợ đen, nhưng nói dối với chúng tôi là anh mua từ các hợp tác xã nên quầy xôi mặn và bánh mì thịt của chúng tôi ăn nên làm ra nhanh chóng, vì không những xôi bánh của chúng tôi vừa hợp khẩu vị vừa nhiều thịt, lại giá rẻ nữa. Bên cạnh đó các loại nhu yếu phẩm của mọi người trong cơ quan anh, ai cần tiền bán lại, anh đều mua hết đưa cho mẹ tôi bán lại kiếm lời. Nhờ vào sự giúp đỡ của anh, đời sống của chúng tôi tốt hơn rất nhiều. Lần lượt ba chị em chúng tôi đều tốt nghiệp đại học và có việc làm, thế nên mẹ tôi cũng trả mặt bằng lại cho gia đình Thiện.

Rồi một buổi chiều mưa đầy trời, Thiện đón tôi nơi công sở và đưa tôi về nhà.

Thuở ấy, cái thuở “nghèo ơi là nghèo”, nhưng may mắn thay, bà ngoại vừa từ dưới quê lên, đem theo một ít bột nếp, khoai môn và một trái mít. Tôi đã làm bánh ít trần nhân khoai trộn mít bầm đãi anh. Lúc tiễn anh ra về, anh cứ đứng mãi nơi cửa, chần chừ mãi, dường như anh muốn nói một điều gì đó quan trọng lắm, nhưng không nói được.

Cuối cùng, anh lúng túng cầm tay tôi, mấp máy môi mấy lần mới nói được nên lời

“Chúng mình mãi mãi là tri kỷ nhé.”

Bỗng nhiên tôi hiểu được ý của anh trong câu nói đó, tôi nhỏ nhẹ trả lời

“Dạ, chúng ta mãi mãi là tri kỷ. Dù anh có làm bất cứ điều gì, em vẫn hiểu được tại sao anh lại quyết định như thế.”

Anh xiết tay tôi thật chặt, thật lâu

“Cảm ơn em. Anh sẽ nhớ mãi hương vị mấy cái bánh của em đãi anh hôm nay”.

Rồi anh đưa cho tôi tấm thiệp mời đám cưới của anh.

Những năm của cuối thập niên bảy mươi và đầu thập niên tám mươi gần như là không có một đám cưới nào được tổ chức ở nhà hàng, thế nên cả nhà chúng tôi đến phụ đám cưới cho Thiện vì anh không chỉ là bạn mà còn là người ơn của gia đình tôi.

Sau đó tôi lấy chồng và cùng gia đình chồng định cư ở Mỹ. Chúng tôi phải làm lại từ đầu. Cả chồng tôi và tôi vừa đi làm vừa đi học để có một việc làm có chuyên môn cao nên gần như chúng tôi không có thời gian để nghĩ về bạn bè xưa.

Bốn mươi năm trôi qua nhanh hơn người ta vẫn tưởng. Chồng tôi qua đời ở tuổi sáu lăm, con cái của tôi đã trưởng thành và đã có gia đình riêng. Theo văn hóa Mỹ khi đã lập gia đình, ít có con cái nào sống cùng cha mẹ.

Giống như con cá hồi, sau bao năm phiêu lưu trên biển cả, chúng quay về nơi mình sinh ra để chết dù đường trở về vất vả gian nan, tôi trở về Việt Nam sống cùng gia đình một đứa em trai cho ấm áp tuổi già.

Ngày tháng cứ êm đềm trôi cho đến một hôm tôi nhận được tin nhắn từ messenger facebook của một người xa lạ

“Thưa cô, con là một trong những điều dưỡng của viện dưỡng lão A ở quận 12. Qua facebook của cô và hình ảnh cùng lời kể chuyện của một người, con biết cô là người mà bác ấy mong mỏi được gặp lại một lần trước khi ra đi mặc dù bác ấy cố tình lánh mặt cô và cố ý giấu tin tức của mình không cho cô biết”.

Đọc những dòng ấy, tôi biết ngay người đó là ai nên vội vàng chạy ra chợ mua nguyên liệu làm lại mấy cái bánh của ngày cuối cùng chúng tôi bên nhau.

Tôi đến viện dưỡng lão, dễ dàng tìm được phòng Thiện mặc dù tôi không hề báo trước cho cô điều dưỡng. Phòng “đặc biệt” của anh khang trang rộng rãi. Anh đang ngồi chơi dương cầm. Bản nhạc của ngày xưa anh hay dạy tôi đánh khi tôi đến nhà anh chơi.

Đây là sự thật chứ không phải trong tiểu thuyết Jane Eyre, khi cô ấy tìm thăm ông Roschester, tôi âm thầm chờ anh đánh xong bản nhạc, nhẹ nhàng nhờ cô điều dưỡng mời anh ăn bánh ít trần nhân khoai môn trộn mít. Tôi nín thở chờ đợi… Anh ngẩng lên, hỏi cô điều dưỡng

“Người đem bánh đến, còn ở lại đây hay đã về rồi?”

Tôi nhẹ nhàng đến bên anh, cầm lấy hai bàn tay anh, nhỏ nhẹ nói

“Chúng ta mãi mãi là tri kỷ.”

Vâng, chúng tôi là tri kỷ, mãi mãi là tri kỷ, dù mắt anh bị viêm điểm vàng và đã mù hẳn hơn ba năm qua. Vợ anh đã mất và con cái anh bận rộn nên không có thời giờ chăm sóc anh…

———–

( Bài không rõ tác giả )

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

Chứ mẹ chết thì phải làm sao hả chú ? Truyen ngan

Nghệ Lâm Hồng

Khoảng 5h sáng ngày 25/10 tại sân bay Tân Sơn Nhất, một người phụ nữ làm thủ tục ở quầy vé. Nhìn là biết người nghèo vì áo quần cũ kỹ, mặt mày hốc hác, tiều tụy; đã vậy lại còn thấp bé, chỉ độ 1,5m.

Với thái độ khẩn cầu, chị xin được đổi giờ bay chuyến 6g, nhưng chuyến bay đã hết vé, chỉ còn hạng thương gia.

Muốn đổi vé, chị phải bù thêm 1,5 triệu đồng.

Những người xung quanh nhìn một người phụ nữ tiều tụy, nghèo khổ ấy lục túi lấy tiền, những đồng tiền chẵn lẻ khác nhau chứng tỏ được thu gom theo kiểu bỏ ống, nhưng cũng đủ để bù giá vé.

Ai cũng ngạc nhiên khi thấy chị quyết định không chút đắn đo, có người còn cười cợt vì cho rằng nghèo mà “chơi leo”.

Hầu như chị không quan tâm đến thái độ, ánh nhìn của những người xung quanh; với chị, được đổi giờ bay sớm hơn là quan trọng nhất.

Nam nhân viên giám sát mặt đất như muốn xác định lại:

“Chị mua vé hạng thương gia cơ à?”.

Chị đáp lại:

“Dạ vâng! Chứ mẹ chết thì phải làm sao hả chú?”.

Những người xung quanh nghe câu nói của chị đều lặng ngắt và thực sự chia sẻ.

Có thể chị không hề biết hạng thương gia là gì, và chị cũng không bận tâm khi phải thêm số tiền không nhỏ đối với chị, để chỉ về với mẹ sớm hơn một giờ. Một giờ thôi nhưng quý báu vô cùng.

Dù chị không kể ra, nhưng ai cũng có thể hiểu chị là công nhân hoặc là người tha phương kiếm sống. Cuộc mưu sinh và cái nghèo không cho chị có cơ hội bên mẹ những ngày đau yếu, chỉ khi tử biệt sinh ly mới tất tả chạy về.

“Chứ mẹ chết thì phải làm sao hả chú?” – một câu nói chứa đựng nỗi đau và cũng là sự uất hận của người con không gặp mặt mẹ trước khi mẹ qua đời.

Câu chuyện lên đến cao trào cảm xúc ở đoạn sau.

Nam nhân viên sau khi nghe chị nói đã chạy đi một lát rồi quay trở lại.

Anh nói: “Em đổi vé xong rồi, chị đi đi nhé. Không phải bù thêm tiền bạc gì đâu”. Ngay sau đó, một nữ nhân viên khác gửi lại cho chị 1,5 triệu đồng.

Không ai biết nam nhân viên ấy đã làm cách gì để giúp chị.

Có thể anh đã trình bày hoàn cảnh của chị với người có trách nhiệm cao hơn, và mọi người đã nhanh chóng xử lý, chuyển chị lên hạng thương gia nhưng không thu tiền.

Dù cách gì thì cũng đã có một kết thúc rất đẹp.

Rất cảm ơn những tấm lòng nhân hậu, đã làm cho cuộc sống đáng yêu hơn.

Đây là câu chuyện cổ tích giữa đời thường. Thật tự hào về truyền thống tương thân tương ái của người Việt và xin chia buồn với sự mất mát của chị!

XIN MỌI NGƯỜI HÃY CHIA SẺ VÌ XH CÒN BIẾT BAO NHIÊU NGƯỜI CẦN SỰ GIÚP ĐỠ NHƯ CHỊ:

“ Mở lòng nhân sinh ra vạn phúc,

Phúc hẹp hòi phúc bất kỳ nhân”

Theo internet.


 

ÁM ẢNH – bài của fb Kieu Duong – Truyen ngan

Nghệ Lâm Hồng

(bài của fb Kieu Duong)

Bức ảnh này là một sự ám ảnh kỳ quặc đối với tôi bao năm qua. Thời gian đó tôi ở Nhà Bè, sau này tách ra một phần thành quận 7.

Đó là thời gian gia đình tôi bốn người sống trong căn nhà lá ở đường số 10, xã Tân Qui Đông. Trước mặt nhà, cách một cái ao nhỏ là một cái đầm lúc nào cũng mênh mông nước. Rau muống mọc tự nhiên khắp nơi, loại rau muống cọng hơi cứng, màu đỏ. Thú thật chẳng bao giờ tôi dám hái vì chung quanh cái đầm đó toàn là … cầu tỏm. Những năm đó mưa ngập lụt cả một vùng quanh nơi tôi sống. Mỗi lần ra khỏi nhà là cả một vấn đề: quần xắn lên cao, giày dép bỏ lên xe, đẩy xe ra khỏi vùng nước lúp súp.

Năm đó, tôi phải ở nhà chăm sóc má chồng tôi và đứa con gái nhỏ mới mười tháng tuổi. Ông xã tôi lúc đó đang lám báo PL cùng lúc cộng tác với báo TT.

Trong một lần đi làm, ông xã bị xe tông trúng mắt cá, phải nằm một chỗ. Má chồng bệnh, con còn nhỏ, giờ chồng không đi làm được. hàng ngày tôi phải vừa lo việc nhà vừa chăm sóc mẹ chồng, chồng và con gái nhỏ.

Đến khi tôi thấy ông xã bớt đau nhức, tôi nói ổng viết bài, tôi sẽ mang đến báo gửi, và nhận tiển nhuận bút để xoay sở việc sinh nhai.

Một buổi sáng tôi chạy gửi bài sớm. Lúc trở về ngang cầu Khánh Hội cũ, tôi đã nhìn thấy bà cụ bán rau (ảnh đính kèm, bức ảnh này tình cờ tôi thấy trên mạng, giật mình đó đúng là bà cụ tôi vẫn gặp). Đôi gióng được làm bằng sợi kẽm to với chiếc đòn gánh to đặt bên lối đi dành cho người đi bộ. Nhìn dáng bà ngồi, chiếc lưng cong như không thể cong hơn được nữa làm tôi nhớ tới bà ngoại tôi cũng lưng còng như vậy nhưng lúc noại già vẫn có con cháu lo lắng, chăm sóc. Tôi tự hỏi con cháu bà đâu, sao để bà gồng gánh đi bán rau, những mớ rau đó chắc cũng do chính bà cắt hái từ ao quanh nhà bà.

Hai chiếc thau nhôm đặt lọt thỏm trong chiếc gióng với vài bó rau. Bà ngồi đó im lặng không nói gì, chỉ nhờ vào lòng hảo tâm của người qua đường mua giúp mấy mớ rau. Bà ngồi trên cầu như một bức tượng đài về nỗi thống khổ của con người.

Từ đó về sau, mỗi lần đi ngang qua cầu Khánh Hội, tôi hay đưa mắt nhìn, tìm kiếm bà dù không biết để làm gì.

Tôi không thể mua rau, vì chỗ tôi ở ngập nước rau mọc tùm lum tôi còn không hái. Tôi cũng không thể giúp gì được vì tôi cũng đang lâm vào cảnh khốn khó. Tôi phải tự lo, chẳng kêu gào ai giúp đỡ cả. Lúc nào cũng vội vội vàng vàng về nhà, nơi đó có ba con người đang chờ tôi về. Gần hai tháng sau, ông xã tôi mới tự đi xe, đi làm lại. Tôi ít ra ngoài hẳn…

Đến lúc có dịp đi thì không thấy bà cụ bán rau bên cầu Khánh Hội, nghe nói bà cụ đã qua đời. Tôi thoáng bâng khuâng, nhớ bà, nhớ những mảnh đời bất hạnh khác như ông đạp xích lô già hơn bảy mươi gầy tong teo vẫn phải oằn lưng chở người kiếm sống, rồi nhớ lại trước đây có lần tôi nhờ người chở hàng cho chủ, lúc lên dốc cầu tôi phải xuống xe đẩy phụ xe qua dốc cầu …

Rồi tôi nhớ về hoàn cảnh của mình, tôi bỗng trở nên “sến” khi nhớ đến câu hát trong bài bolero “Thói đời’: “Đường thương đau đầy ải nhân gian, ai chưa qua chưa phải là người…”.

Bao con người khốn khổ mà tôi gặp có phải là người không? Hình ảnh bà cụ ngồi bên thành cầu Khánh Hội cũ theo tôi cả cuộc đời như một nỗi day dứt về sự dửng dưng của con người với nhau.


 

ĐẤU TRANH VỚI BẢN THÂN- Truyen ngan HAY

Nghệ Lâm Hồng

Một người đàn ông đến ngân hàng để rút tiền tiết kiệm. Khi đếm lại số tiền nhận được, anh ta hơi sững lại. Thay vì 120.000 rupee (đơn vị tiền tệ của Ấn Độ, tương đương khoảng 36 triệu VNĐ) và trên giấy tờ cũng đã ghi nhận con số này, nhưng có lẽ giao dịch viên đã nhầm nên đã đưa cho anh ta tới 140.000 rupee (khoảng 42 triệu VNĐ). Thế nhưng, khi người đàn ông liếc nhìn giao dịch viên thì thấy người này không có biểu hiện gì là đã nhận ra sai sót, còn lịch sự chào anh. Thấy vậy, người đàn ông đã lẳng lặng cho tiền vào túi, rời đi trong im lặng.

Vừa đi, anh ta vừa nghĩ, cái ngân hàng này lớn như vậy, mất có 20.000 rupee thì cũng chẳng ảnh hưởng gì tới hoạt động của họ. Mà có phải do anh cố tình đâu. Đây là sai sót của họ mà, họ chẳng có lý do gì để kiện tụng hay làm khó anh cả. Từ trước đến nay, anh cũng thi thoảng trả nhầm tiền cho người khác, nhưng có ai đến tìm anh để trả lại đâu. Vì sao anh phải trả lại tiền cho ngân hàng. Cứ như thế, người đàn ông đã nghĩ ra đủ thứ lý do cho việc “ỉm” số tiền trả thừa của ngân hàng.

Song càng đi, càng về gần đến nhà, người đàn ông lại nhớ đến nụ cười lịch sự của giao dịch viên. Anh ta rất tử tế, hòa nhã và còn cảm ơn lúc anh rời đi nữa mà chẳng hề hay biết chuyện gì đang xảy ra. Không biết anh ta có phải đền số tiền này cho ngân hàng không nhỉ? Người đàn ông bắt đầu cảm thấy hơi có lỗi. Hai mươi ngàn rupee không phải số tiền quá lớn, nhưng cũng chẳng phải số tiền nhỏ. Nó có thể là thu nhập một tháng của bất kỳ người dân nào. Chẳng phải anh đang lợi dụng sai lầm của người khác ư?

Vậy là người đàn ông bắt đầu bồn chồn, mồ hôi túa ra khi đấu tranh tư tưởng có nên giữ số tiền đó hay không. Anh cảm thấy hơi khó thở. Rồi cuối cùng, anh nhìn đồng hồ, chỉ còn 1 tiếng nữa là ngân hàng đóng cửa và quyết định đem 20.000 rupee quay lại. Chỉ đến lúc này, sự căng thẳng trong anh mới bắt đầu giảm đi.

Khi nhận xong số tiền thừa từ người đàn ông, anh chàng giao dịch viên mới bắt đầu thở phào và cảm ơn anh rối rít. Anh ta lấy 1000 rupee từ trong túi của mình để cảm ơn người đàn ông và nói: “Cảm ơn anh rất nhiều. Hôm nay anh đã giúp tôi 1 việc lớn đấy. Tôi đang lo sẽ phải bù tiền lương của mình vào chỗ tiền bị nhầm lẫn. Thật hiếm có người nào trung thực như anh. Anh hãy nhận số tiền ít ỏi này của tôi thay cho lời cảm ơn và mua bánh kẹo cho các con của anh nhé”.

Người đàn ông nghe những lời nói này, vừa xúc động vừa lại có chút hổ thẹn. Chẳng phải ban đầu, anh đã định ỉm đi hay sao? May mắn là cuối cùng, lương tâm của anh đã chiến thắng. “Thực ra tôi mới là người phải cảm ơn anh đấy. Lẽ ra tôi mới là người phải tặng anh số tiền này. Vì thế, tôi xin phép không nhận món quà của anh”, người đàn ông từ tốn đáp.

Giao dịch viên lấy làm lạ, mới hỏi lại vị khách tại sao lại nói thế. “Hai mươi ngàn rupee anh trao nhầm đã cho tôi cơ hội được tự đánh giá bản thân mình. Nếu không có sự nhầm lẫn của anh, tôi sẽ không biết việc chiến đấu với lòng tham của bản thân lại khó khăn đến thế. Tôi đã mất hàng giờ để suy nghĩ, để đấu tranh tư tưởng, và may mắn là, cuối cùng tôi đã làm đúng. Tôi đã vượt qua được sự tham lam, ích kỷ để chiến thắng và giữ được sự trung thực. Đây đúng là 1 cơ hội hiếm có. Vì thế, người tôi muốn cảm ơn là anh”, người đàn ông thú nhận.

Cre: Cafebiz


 

  Tình phụ tử – Truyện ngắn HAY

Qua vụ cháy rừng ở Altadena, mình đã được nghe một câu chuyện về tình phụ tử khiến lòng không khỏi nghẹn ngào và muốn chia sẻ với mọi người.

Trong cơn giận dữ của ngọn lửa Eaton tại Altadena, California, một người cha và con trai đã ở bên nhau đến giây phút cuối cùng. Anthony Mitchell, 68 tuổi, người cha gắn bó với xe lăn sau khi mất một chân, và Justin, 32 tuổi, con trai ông, người không thể tự rời khỏi giường vì căn bệnh bại não. Giữa ngọn lửa tàn khốc, tình cha con là ánh sáng cuối cùng giữa bóng tối bao trùm.

Sáng hôm ấy, ông Mitchell gọi cho con gái mình, Hajime White, để báo rằng ông đã yêu cầu trợ giúp và đang chờ xe cứu thương đến. Giọng ông vẫn trầm ấm, đầy trách nhiệm như mọi khi:

“Cha ổn. Cha đã gọi rồi. Con đừng lo.”

Nhưng khi ông nhìn qua cửa sổ và thấy những tia lửa đầu tiên trong sân, sự lo lắng xuất hiện trong giọng nói:

“Baby, cha phải dừng máy. Lửa vào sân rồi.”

Ông Mitchell, một người cha giàu nghị lực, chưa bao giờ để hoàn cảnh khuất phục. Trước mặt con, ông luôn là bức tường thành vững chãi. Dù đã mất đi một phần cơ thể, ông vẫn tận tụy chăm sóc Justin, đứa con trai yếu ớt mà ông coi là báu vật cuộc đời.

Justin không nói được nhiều, nhưng mỗi lần ai đó hỏi muốn gì, câu trả lời luôn là “Amazon”. Anh yêu sách, báo, và thích đọc chúng cùng cha mình. Hai cha con thường ngồi bên nhau, lặng lẽ, chia sẻ từng trang báo như cách họ chia sẻ cuộc sống – bình dị nhưng đầy ý nghĩa.

“Cha sẽ không rời con”

Khi ngọn lửa áp sát, Justin nói với cha trong tuyệt vọng:

“Cha, cha hãy đi đi.”

Nhưng ông Mitchell không bao giờ rời xa con trai mình. Ông trả lời dứt khoát, không chút do dự:

“Cha sẽ không rời con. Chúng ta sẽ cùng nhau vượt qua.”

Đó không chỉ là lời hứa mà còn là bản chất của ông – một người cha sẵn sàng hy sinh tất cả vì con.

Dù biết không thể tự mình chống chọi với ngọn lửa, ông Mitchell vẫn giữ niềm tin rằng sự cứu giúp sẽ đến. Ông nói với con gái:

“Họ sẽ đến. Họ sẽ đưa cha và Justin đi. Hy vọng họ sẽ đến kịp.”

Nhưng không ai đến. Ngọn lửa lan nhanh hơn mọi nỗ lực cứu hộ, và đêm đó, cả hai cha con được tìm thấy đã tử vong. Justin nằm trên giường, còn ông Mitchell ở gần đó, như thể vẫn đang che chở cho con trai mình.

Câu chuyện của Anthony Mitchell là một minh chứng mạnh mẽ cho tình yêu của người cha. Ông không có siêu năng lực, không thể chống lại thiên tai, nhưng ông có trái tim lớn lao, đủ sức mạnh để đứng cạnh con trai mình đến phút cuối cùng.

Ngọn lửa có thể thiêu rụi mọi thứ, nhưng tình cha không bao giờ bị dập tắt. Trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, Anthony Mitchell đã chứng minh rằng tình yêu có thể vượt qua cả sự sợ hãi và cái chết

From: Huu Loi Tran & NguyenNThu