HỌ ĐÃ SỐNG NHƯ THẾ

HỌ ĐÃ SỐNG NHƯ THẾ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.
nguon:Conggiaovietnam.net

Sau nhiều năm vì hoàn cảnh, hôm nay tôi được diễm phúc trở lại vùng đất Tây Nguyên – vùng đất tập trung khá nhiều anh em đang dõi bước cha anh phục vụ công cuộc truyền giáo cho anh chị em dân tộc thiểu số.

Đến Gia Lai, màn đêm buông xuống, hình ảnh thành phố thân thương ngày nào đang hiện dần trước mắt. Thay đổi khá nhiều bởi lẽ cuộc sống ngày càng đổi thay. Người anh tôi thăm viếng không ở gần thành phố cho lắm, chạy từ thành phố vào non đủ 50 cây số. Sau hơn một giờ, xe đưa hai anh em tôi vào đến buôn làng nơi anh đang phục vụ. Cảnh cũng quen quen nhưng phần nào đã đổi bởi lẽ sau nhiều năm người anh tiền nhiệm đã gầy dựng từ con số không trên mảnh đất thân thương làng Khop này. Khá mệt, tôi chìm vào giấc ngủ đêm với khí trời se lạnh.

Tờ mờ sáng, tiếng các em dân tộc được
người anh cưu mang ríu rít với nhau cạnh bên chiếc nhà sàn cổ nhất. Cổ nhất
không phải là xa xưa lắm nhưng cổ ở đây chính vì đây là căn nhà sàn đầu tiên mà
người khởi xướng gầy dựng ở nơi đây. Sau khi hoàn thành việc khởi xướng, người
anh này rời bỏ nơi đây để phục vụ một nơi khác cũng trên mảnh đất Tây Nguyên. Giờ
đây anh lại bỏ nơi xưa đi xa hơn nữa để giúp làm trung tâm hành hương Đức Mẹ
tận Kontum.

Khởi đầu ngày mới là vài gói mì tôm.
Hỏi cô bé Boai là người phục vụ mới biết đây là món chính của cha con người dân
tộc ở cái nhà thờ làng Khop này. Cha chưa nuôi đủ bản thân mình lại cưu mang
thêm gần chục đứa nhỏ nên chuyện mì gói muôn năm cũng chẳng có gì là lạ. Những
gói mì tuy đạm bạc nhưng đã bắn bó tình nghĩa cha con nơi vùng đất giáp ranh
biên giới nghèo này.



Mì gói xong, tôi cùng anh và bà con dân
tộc cùng nhau lên chiếc xe có một không hai của vùng này, không dám quá lời, nó
cũng là chiếc xe có một không hai của nước Việt. Nó đặc biệt bởi lẽ đây là
chiếc xe 25 chỗ ngồi hiệu Asia được mua lại từ nguồn hàng phế liệu, nhờ người
giáo dân người Kinh tốt bụng ở Thị Trấn Đức Cơ chỉnh sửa để chở các em học sinh
đi học. Hay nhất là trên xe không còn hàng ghế nguyên thủy mà thay vào đó là
một chồng ghế nhựa cho tiện dụng. Chiếc xe vẫn vui vẻ đưa học sinh đi học mỗi
ngày hôm nay được tận dụng đi đám tang trong làng xa. Cầm lái chiếc xe cổ này
vẫn là người anh linh mục có lòng yêu thương dân tộc khá đặc biệt.

Phải dừng lại một tí để nói về chiếc xe
đặc biệt này. Nó chỉ “được phép” chạy vòng vòng ở trong cái huyện Đức
Cơ chứ đừng hòng béng mảng ra khỏi Thị. Chỉ “được phép” ở Đức Cơ bởi
lẽ nó không còn hạn kiểm định nữa và cũng chẳng còn cơ may đi kiểm định. Nhìn
chiếc xe chỉ còn cái xác bên ngoài chứ bên trong không còn là chiếc xe nữa.
Nghèo nên phải tận dụng những gì người ta phế thải để phục vụ những người
nghèo. Cha anh kể lại rằng có hôm anh bận việc, nhờ người dân tộc lái, công an
gọi lại nhắc nhở và hôm sau anh lái. Anh chủ động dừng lại gặp công an và công
an vui vẻ cho xe chạy cùng lời an ủi “phục vụ cộng đồng tốt lắm!”.

Qua chặng đường dài bụi bay mù mịt
chúng tôi đến với đám tang người dân tộc mới qua đời.

Cụ ông Giuse qua đời ở cái tuổi 87.

Mọi sự để chuẩn bị cho Thánh Lễ
đã sẵn sàng.

Đây là lần đầu tiên tôi được tham dự
nghi thức nhập quan cũng như Thánh Lễ an táng cho người dân tộc Jrai.

Hết chuyện lạ này sang chuyện lạ khác bởi nét văn hóa của người Jrai. Trong những chuyện lạ đó, nét văn hóa hay nói đúng hơn nền văn minh tình thương của người Jrai được thể hiện nhiều hơn cả. Mỗi người cầm theo phần của mình đi dự đám tang. Họ cùng chia sẻ của ăn, thức uống với nhau trong những ngày tang lễ. Nghèo nhưng họ yêu thương nhau quá !

Lễ xong, rời đám tang, chúng tôi lại cùng nhau lên xe chia sẻ chút quà tết cho làng sâu bên trong hơn nữa.

Lúc này, chúng tôi được ngồi trên chiếc xe cũng có một không hai của vùng này. Xe này nguyên thủy của Tòa Giám Mục Kontum. Cũng qua nhiều đời chủ nay nó không còn được sử dụng bởi ai cũng chê nó cũ kỹ. Thấy vậy, người anh thân thương thuê xe khác kéo xe này về và lại nhờ người giáo dân kia sửa lại để chở đồ cho người dân tộc ở trong vùng sâu. Sau khi thay cái máy khác, chiếc xe này đã trở thành “hàng chính chủ” của người anh linh mục phục vụ tại làng Khop này.

Đi vào tận trong sâu để gặp gỡ trực
tiếp những người có thân phận kém may mắn.

Tình thương người nghèo và đặc biệt
người dân tộc thiểu số đã làm cho cái đói, cái mệt đi vào quên lãng. Ở cái vùng
đất nghèo này thì chẳng có thời gian và cũng chẳng có không gian. Không biết có
quá lời không khi các làng dân tộc nghèo ở rải rác khắp nơi trong một diện tích
rộng và nếu tính thời gian thì không thể nào phục vụ cho những người nghèo ở
đây được.

Chiều về, dẫu mệt nhưng nhớ đến những
người nghèo ở trong các làng để rồi cái mệt chạy đi đâu mất.

Cơm nước đạm bạc xong, nghỉ ngơi một
chút thì bà con lại quy tụ với nhau trong ngôi nguyện đường thật khiêm tốn.
Ngôi nguyện được ngày được người anh tiên khởi đến đây thiết kế để phục vụ cho
người dân tộc J’rai ở đây khá phù hợp với cái vẻ đơn sơ và mộc mạc.

Tiếng kinh râm rang được cất lên thật nhịp nhàng.

19 g 20 phút, Thánh Lễ được cử hành.
Tham dự Thánh Lễ ở cái làng Khop này làm cho tôi liên tưởng rằng mình đang ở
đâu đó ở nước ngoài bởi lẽ tiếng J’rai làm sao tôi hiểu được. Cùng hiệp nguyện
với cộng đoàn phụng vụ trong lời kinh tiếng hát. Hiểu chút chút với phần nghi
thức sám hối, đặc biệt là “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi
đàng” bằng tiếng J’rai.

Lễ xong cộng đoàn ra về.

Chúng tôi được một đêm yên hàn sau một ngày mệt nhọc.

Tờ mờ sáng hôm sau, tiếng trống báo hiệu một ngày mới bắt đầu.

Thánh Lễ tạ ơn và cầu bình an cho ngày mới được cử hành trong bầu khí trang nghiêm và sốt sắng. Điều khá ngạc nhiên ở đây là Thánh Lễ tối qua cũng như sáng nay được khá nhiều người tham dự. Cũng là điều đáng mừng cho ngôi nhà nguyện khiêm tốn ở đây chứ không thì buồn lắm vì lẽ nhà nguyện sẵn có mà lại chẳng có ai. Ngôi nhà nguyện ở đây phù hợp với cái làng nghèo này. Nhiều nơi buồn lắm bởi lẽ nhà nguyện hay nhà thờ thì cao chót vót và thật hoành tráng nhưng số người dự lễ thật thưa thớt. Vẫn là điều nghịch lý bấy lâu nay cho những công trình xây dựng để đời ngay tại nhưng nơi mà bà con giáo dân còn phải chạy ăn từng bữa hay là bữa đói bữa no.

Lễ xong, cộng đoàn các sơ và các em được cha cưu mang cùng cha ở lại đọc kinh Phụng Vụ. Giữa cái vùng đất nghèo này vang lên lời kinh của Hội Thánh thật dễ thương.

Kinh xong, một ngày mới lại bắt đầu với những công việc không tên.

Được biết một cha kia ngày xưa đã từng
đến phục vụ ở vùng nghèo này khi còn làm thầy nay trở lại chia sẻ chút quà cho
bà con ở làng xa. Chiếc xe mới ngày hôm qua chở tôi đi vào làng nay lại nằm một
chỗ. Chẳng lạ gì vì nó là đồ phế thải mang về chạy tạm. Tội nghiệp cho người
thợ giáo dân thương mến cha đặc trách vào tận bên trong làng để sửa mang về.
Mãi đến chiều tối chiếc xe mới chịu nổ máy để đưa các em dân tộc tháp tùng về
lại nhà thờ.

Lấm lem bụi cộng với dầu nhớt làm cho hình ảnh nắng sương của các em làm cho các em thêm phần bụi bặm hơn. Tranh thủ rửa tay và vào dùng bữa bởi lẽ cả ngày chẳng có gì trong bụng với chiếc xe nằm đường.

Cha đặc trách lại phải ngược xuôi với
những công việc của ngày cuối năm. Chốc chốc lại chạy ra công trường để xem
nhân công đang làm bờ rào cho khuôn viên nhà thờ. Cũng chẳng nghĩ đến chuyện
rào chắn nhưng kẻ trộm đã không khước từ ngay cả nơi nhà Chúa nên Cha bấm bụng
làm cho xong chuyện. Ngại lắm mới có cái chuyện làm hàng rào hàng cửa chứ chẳng
ai nghĩ đến chuyện rào chắn nơi cái vùng đất nghèo này. Nhưng có lẽ đến lúc
cũng phải làm để chặn ngăn những kẻ không còn chút lương tri là vào tận nhà xứ
để rinh đồ.

Chiều tối, sau khi ăn vội chút cơm
chiều, cha anh lại đưa tôi ra ngoài phố để chuẩn bị cho cuộc trở về Sài Thành
trong những ngày giáp Tết.

Lại tạm xa cái làng Khop thân thương để trở về với những công việc thường nhật.

Ngồi trên xe trên hành trình về lại nhưng hình ảnh của những người dân tộc nghèo và hình ảnh của người anh linh mục đang phục vụ nơi đây vẫn còn trong tâm thức.

Họ nghèo, anh đến với họ và anh sống nghèo, sống lam lũ với họ trong ơn gọi tận hiến của Hội Dòng. Anh tôi đã đến đây và sống nghèo cùng họ.

Thật lòng ngưỡng mộ anh cũng như biết bao nhiêu cha anh khác đang âm thầm phục vụ cho người nghèo ở cái vùng hẻo lánh như vùng hẻo lánh nơi đây.

Vẫn còn bạt ngàn cho cánh đồng truyền giáo và vẫn cần những người thợ gặt tận tâm tận tình với những con người nhỏ bé ở nơi đây.

Giữa một thế giới văn minh, giữa một đất nước chuyển mình nhưng lại vẫn còn những người nghèo ở cái mảnh đất ven biên giới này. Họ nghèo cả tinh thần lẫn vật chất. Bao nhiêu năm nay họ vẫn chìm trong cảnh thiếu trước hụt sau, bữa đói bữa no.

Biết đâu được đây là bước dò đường cho cuộc đời tận hiến còn lại.

Có chăng cả cuộc đời còn lại sẽ được ở nơi những con người nghèo này.

Mệt nhoài cho thân xác bởi lẽ phải lo toan đủ thứ đủ điều nhưng đêm về ngon giấc không còn phải nghĩ suy.

Có thể Chúa lại rẽ hướng cho tôi đến với những con người nghèo nơi đây chẳng nên.

Tất cả là hồng ân ! Tất là là Thánh ý của Chúa trong cuộc đời.

Tạ ơn Chúa với biết bao nhiêu ơn lành Chúa đã tuôn đổ trên tôi trong suốt cả cuộc đời và gần nhất là trong năm cũ gần qua. Những ngày ngắn ngủi trên mảnh đất này đã để lại những hình ảnh của những người nghèo, của người anh linh mục đang dấn thân nơi đây.

Vẫn mong đâu đó có những tấm lòng sẻ chia phần nào đó về tinh thần và vật chất cho những người nghèo ở nơi đây.

Những ngày giáp Tết Quý Tỵ

Anmai, CSsR

Lê Công Định: sự trở về mang hy vọng

Lê Công Định: sự trở về mang hy vọng

thứ năm, 7 tháng 2, 2013

nguồn: BBC

LS Lê Công Định tại tòa

Việc Luật sư Lê Công Định được trả tự do trước thời hạn hơn 1 năm đã được hoan nghênh trong nhiều giới.

Ông Định ra tù sáng thứ Tư 6/2 và hiện còn phải chịu 3 năm quản chế tại địa phương.

Phản ứng trước sự kiện này, ông Lê Thăng Long, người cùng bị xét xử một đợt với ông Lê Công Định nhưng vì án nhẹ hơn nên được trả tự do năm ngoái, nói với BBC:
“Tôi thực sự rất vui mừng trước sự trở về của anh Định”.

“Tôi cho đây là tín hiệu rất tích cực trong quá trình đổi mới về chính trị của Việt Nam, nó cho thấy các tác động của cả từ bên trong lẫn bên ngoài, cũng như
của những thay đổi trong môi trường chính trị toàn cầu và chính ngay
trong nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam.”

Ông Lê Thăng Long cũng cảnh báo LS Định rằng “cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp tục, con đường phía trước chắc chắn còn nhiều khó khăn và rủi ro rất lớn”.

Tuy nhiên, theo ông, sự đóng góp của ông Lê Công Định, người mà ông nhận xét là “rất trăn trở về bản Hiến pháp Việt Nam” ngay trong quá trình thu thập ý kiến
đóng góp về sửa đổi Hiến pháp 92 là một điều tích cực.

“Tôi hy vọng và tin tưởng rằng đây là cơ hội cho anh Định đóng góp một cách công khai và hợp pháp cho đất nước.”

Người còn ở trong tù

Trong khi đó, ông Trần Văn Huỳnh, cha của doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, người cũng bị xét xử cùng đợt với các ông Định và Long những lãnh án tù nặng nhất 16 năm, nói: “Nghe tin mừng của Lê Công Định, tôi nghĩ ngay đến con
tôi”.

“Tôi hy vọng các tổ chức quốc tế và dư luận trong nước tiếp tục ủng hộ, vận động để các tù nhân lương tâm như con trai tôi sớm được trả tự do vì họ không làm gì
có tội.”

Trong phiên xử ngày 20/1/2010,  bốn người là các ông Lê Thăng Long, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung và Trần Huỳnh Duy Thức đã nhận án tù nhiều năm vì tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự.

Ông Lê Công Định, theo cáo trạng, còn là đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam vốn không được phép hoạt động.

Đảng này, ngay sau khi ông ra tù, đã ra thông cáo cho hay LS Lê Công Định là Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam từ ngày 1/6/2009.

“Việc trả tự do cho hai ông Lê Công Định và Nguyễn Quốc Quân khiến người ta nghĩ rằng Việt Nam đang mong muốn điều gì đó từ phía Mỹ.”

GS Carl Thayer

“Đảng Dân chủ Việt Nam yêu cầu nhà nước Việt Nam tiếp tục trả tự do cho các đảng viên và cộng sự của Đảng Dân chủ còn đang bị giam cầm trái phép. Trả tự do cho các tù nhân chính trị chính là hành động thiết thực để thể hiện tinh thần thật tâm hòa hợp toàn dân tộc, tôn trọng sự thật và công lý, quyết tâm xây dựng nhà nước pháp quyền.”

Thông cáo cũng viết rằng “đối thoại trên tinh thần xây dựng là cách tốt nhất nên có nhằm thay đổi tích cực hình ảnh của Việt Nam, hướng đến lợi ích chung của quốc gia và dân tộc”.

Phản ứng quốc tế

Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên lên tiếng về sự kiện LS Lê Công Định được trả tự do.

Phát ngôn viên cho Đại sứ quán Mỹ, Christopher Hodges, được hãng thông tấn AP dẫn lời nói: “Chúng tôi hoan nghênh quyết định của chính quyền Việt Nam trả tự do nhân đạo cho LS Lê Công Định”.

“Nhân quyền, kể cả việc kêu gọi thả tất cả các tù chính trị, tiếp tục là một phần quan trọng trong quan hệ song phương của chúng tôi với Việt Nam.”

Tuần trước, Việt Nam cũng đã thả ông Nguyễn Quốc Quân, đảng viên Việt Tân, người bị bắt từ tháng Tư năm ngoái.

Luật sư Lê Công Định ra tù

Luật sư Lê Công Định ra tù

thứ tư, 6 tháng 2, 2013

nguồn: BBC

Phiên tòa 20/1/2010 (ông Lê Công Định ở góc dưới bên phải)

Phiên tòa 20/1/2010 đã thu hút sự chú của dư luận trong nước và quốc tế

Một trong những nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng ở VN, Luật sư Lê Công Định, vừa được ra tù trước thời hạn.

Thân nhân của LS Định, bà Đặng Ngọc Ánh, xác nhận với BBC ông đã về nhà lúc 10:00 sáng thứ Tư 6/12 trong tình trạng “sức khỏe tốt nhưng hơi gầy”.

Ngay trưa cùng ngày, ông Định đã phải tới chính quyền địa phương để trình diện.

Ông Lê Công Định, sinh 1968, bị bắt ngày 13/6/2009 để điều tra vi phạm Điều 88 Bộ Luật hình sự, Tội Tuyên truyền chống Nhà nước XHCN.

Cùng đợt với ông có ba người khác, là các ông Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung và Lê Thăng Long.

Tội danh của các ông sau bị chuyển sang thành Hoạt động lật đổ, theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự, là tội nặng hơn.

Ngày 20/01/2010, Tòa sơ thẩm TP Hồ Chí Minh đã tuyên án từ 5 năm tới 16 năm tù giam, thêm từ 3 tới 5 năm quản chế tại gia cho các bị cáo trên, trong đó ông Lê Công Định lãnh án 5 năm tù, cộng thêm 3 năm quản chế tại gia.

Tòa phúc thẩm sau đó đã y án trên.

Như vậy, ông đã được ra tù sớm trước hạn hơn một năm.

Phiên xử gây chú ý

Vụ bắt và xét xử Lê Công Định đã thu hút sự chú ý đặc biệt của quốc tế vì ông Định có tiếng trong giới luật sư và đã từng đại diện lợi ích cho Việt Nam trong nhiều vụ kiện có yếu tố nước ngoài.

Một bị cáo khác, ông Lê Thăng Long, đã ra tù tháng 6/2012, sớm trước thời hạn 6 tháng.

 

LS Lê Công Định là người được dư luận quốc tế biết tới nhiều

Hai ông Trần Huỳnh Duy Thức và Nguyễn Tiến Trung hiện vẫn đang thực hiện án 16 năm và 7 năm tù.

Sau khi phiên sơ thẩm ngày 20/1/2010 kết thúc, giới ngoại giao phương Tây đã lập tức lên tiếng bày tỏ quan ngại.

Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại TP HCM lúc đó, ông Kenneth Fairfax, tuyên bố Mỹ “quan ngại sâu sắc” về các vụ bắt giữ và kết tội những người chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình.

Hoa Kỳ và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế kêu gọi Việt Nam trả tự do cho các nhà hoạt động ngay lập tức và vô điều kiện.

Trong phiên xử, ông Lê Công Định và ba vị còn lại bị buộc tội đã cấu kết với “các thế lực phản động” trong và ngoài nước nhằm lật đổ chế độ.

Những người này cũng bị buộc tội liên quan tới Đảng Dân chủ Việt Nam, vốn không được phép hoạt động trong nước.

Ông Lê Công Định còn bị cáo buộc đã tham gia khóa huấn luyện lật đổ bất bạo động do tổ chức Việt Tân, mà Việt Nam liệt vào danh sách khủng bố, tổ chức.

Nhận tội

Luật sư Định, người bị thẩm vấn đầu tiên trong phiên sơ thẩm, đã tường trình trước tòa về phương hướng của Đảng Dân chủ Việt Nam mà ông là thành viên. Ông nói đảng này kêu gọi đa nguyên và muốn thay đổi chế độ chính trị trong nước.

”Trong quá trình học tập ở nước ngoài, tôi đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phương Tây về dân chủ, tự do và nhân quyền.”

“Trong quá trình học tập ở nước ngoài, tôi đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phương Tây về dân chủ, tự do và nhân quyền.”

LS Lê Công Định tại phiên sơ thẩm 20/1/2010

Ông Định nói: “Tôi nhận là đã vi phạm Điều 79 (Bộ Luật Hình sự)”.

Trước đó, ngày 18/6/2009, tức chưa đầy một tuần sau khi bắt ông Lê Công Định, công an Việt Nam tổ chức họp báo công bố việc ông Định “thừa nhận hành vi phạm tội”.

Tại cuộc họp báo, báo chí trong nước đã được cung cấp hình ảnh các trang viết tay được cho là của ông Định tự khai báo, cùng một số đoạn băng hình quay cảnh ông Định đọc nội dung bản tường trình “nhận tội”.

Nhiều người ủng hộ phong trào dân chủ đã bày tỏ thất vọng trước các hình ảnh này.

Ông Lê Công Định đã hành nghề lâu năm tại TP HCM. Trước kia, với tư cách luật sư của công ty YKVN, ông đã cùng đối tác là hãng luật White & Case của Mỹ bảo vệ phía Việt Nam trong vụ kiện cá basa tại Hoa Kỳ.

Sau đó, ông tham gia bào chữa cho nhiều vụ việc bị cho là ‘nhạy cảm’, như bào chữa cho các luật sư bất đồng chính kiến Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân và cho blogger Điếu Cày.

Ông Định cũng từng là Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP HCM nhưng sau bị xóa tên khỏi luật sư đoàn.

Luật sư Định cũng được biết tới như một cây bút viết các bài bình luận thời sự, nhiều bài đã đăng trên BBCVietnamese.com.

Tốt nghiệp Đại học Luật năm 1989, ông Định lấy bằng thạc sỹ luật tại Đại học Tulane University, Hoa Kỳ hồi 2000. Trước đó, ông có một thời gian tu nghiệp tại Pháp.

Năm 2004, LS Lê Công Định cưới Nguyễn Thị Ngọc Khánh, Hoa hậu Việt Nam 1998.

 

Trao bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp

Trao bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp

thứ ba, 5 tháng 2, 2013

nguồn: BBC

Ông Nguyễn Đình Lộc và Chu Hảo tại cuộc gặp

Bản Kiến nghị đã được trao cho đại diện Quốc hội

Một nhóm nhân sỹ trí thức vừa  trao Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 cho Quốc hội, trong đó có đề xuất bỏ Điều 4 về quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Những người này cũng chủ xướng  một dự thảo Hiến pháp mới, trong đó thiết lập mô hình nhà nước cộng hòa với người đứng đầu là Tổng thống.

Nhóm nhân sỹ gồm 15 vị đã tới  Địa điểm tiếp nhận ý kiến đóng góp của nhân dân về sửa đổi Hiến pháp tại Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, để trao kiến nghị vào sáng thứ Hai 4/2.

Trưởng đoàn là ông Nguyễn Đình Lộc, nguyên bộ trưởng Tư pháp, đồng thời là thành viên Ban soạn thảo Hiến pháp Việt Nam 1992.

Bản Kiến nghị, nay đã có hàng  nghìn chữ ký, đã được trao cho đại diện Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, trong không khí được ông Lộc mô tả là ‘khá dân chủ’.

Quốc hội Việt Nam đang tiếp  nhận ý kiến đóng góp của người dân về bản Hiến pháp sửa đổi từ nay tới hết tháng Ba.

Trong cuộc trao đổi kéo dài nửa  tiếng đồng hồ với đại diện của Quốc hội, các vị nhân sỹ trí thức đã nêu quan điểm rằng tiến trình đóng góp sửa đổi Hiến pháp phải
là quá trình dân chủ, với sự tham gia của mọi tầng lớp người dân.

Mô hình dân chủ

Họ cũng đề xuất kéo dài quá trình đóng góp ý kiến tới hết năm.

Ông Nguyễn Đình Lộc, người từng  làm Trưởng ban Biên tập Hiến pháp 1992, thừa nhận Hiến pháp 92 dựa trên mẫu hình Liên Xô, với nhiều phạm trù “nay không còn phù hợp”.

Tuy nhiên ông cũng cho rằng muốn  áp dụng Hiến pháp 1946, mà nhiều người cho rằng phù hợp với Việt Nam hơn cả, cũng cần phải cân nhắc “vì hoàn cảnh đã khác
rồi”.

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

“Nay tình hình đã khác,  quan hệ quốc tế cũng đã thay đổi. Bản thân ông Hồ Chí Minh, khi sửa đổi Hiến pháp năm 1959 cũng thừa nhận Hiến pháp 46 đã hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử và không còn phù hợp nữa.”

Kiến nghị do các vị nhân sỹ  trí thức khởi xướng gồm 7 điểm chính, trong đó nhấn mạnh tới việc bỏ Điều 4 Hiến pháp, vốn đề cao một chiều vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.

Họ cho rằng người dân phải được bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ để lựa chọn lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

“Một chính đảng thực sự có  chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy.”

Bản kiến nghị viết rõ: “Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh
hiện nay của đất nước”.

Chỉ có tiếp thu ý kiến trên,  theo những người viết kiến nghị, Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể “lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh
đạo chính trị được xã hội chấp nhận”.

Thay đổi từng bước

Tiếp theo kiến nghị đầu tiên này, là sáu kiến nghị khác về quyền con người; sở hữu đất đai; tổ chức Nhà nước; lực lượng vũ trang; trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp và
thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp.

Cũng theo cựu bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc, những người làm kiến nghị chủ xướng xã hội theo mô hình cộng hòa, với người đứng đầu nhà nước là Tổng thống.

Tuy nhiên, ông Lộc thừa nhận tiến trình sửa đổi Hiến pháp mới đang đi những bước đầu tiên.

“Cái mới không phải ai cũng tiếp nhận một cách dễ dàng được, phải biết chờ đợi.”

“Sửa đổi đến đâu cũng phải chờ đợi mới biết, vì có người cần, nhưng cũng có người thấy rằng chưa cần lắm.”

Một bác sĩ Phật giáo trở thành Linh mục suốt đời phục vụ bệnh nhân phong

Một bác sĩ Phật giáo trở thành Linh mục suốt đời phục vụ bệnh nhân phong

Đỗ Tân Hưng

1/25/2013

nguồn:Vietcatholic.net

Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu. Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Ðức
Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di-Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá
tốt đẹp và vô tình Ðức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Khi
nhắc lại đoạn đời đó, cha Chung cho biết là ngài được rao giảng Tin Mừng bằng
đời sống, chứ không phải bằng lời nói. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác
sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Ðức Cha Jean Cassaigne.

Khi bắt đầu học năm thứ nhất y khoa, nhân dịp tham dự Thánh lễ khai khóa của
linh mục giáo sư bác sĩ Lischenberg, cậu Chung nhận thấy con người khoa học
uyên bác của giáo sư Lischenberg đã biến thành một linh mục khả kính, trang
nghiêm siêu thoát, chìm đắm trong cõi phúc lạc thần thiêng. Ơn gọi làm linh mục
của cha Chung đã chớm nở từ đó.

Khi bác sĩ Chung phục vụ tại trại phong Bến Sắn, Dì Hai Loan thuộc Tu Hội Nữ Tử
Bác Ái là Phó Giám Ðốc. Dì là người đã phục vụ ở đây gần 17 năm, bất ngờ ngã
bệnh ung thư và mất đi sau mấy tháng. Khi Dì hấp hối, bác sĩ Chung đang sửa
soạn để đi với bác sĩ Quang, bác sĩ Bích Vân lên trại phong Di-Linh khám mắt
cho bệnh nhân. Vì xe chưa tới, bác sĩ Chung tiếc nuối những giây phút cuối cùng
còn lại với Dì Hai Loan nên đã trở lại giường bệnh của Dì. Lúc đó Dì Hai Loan
mở mắt ra, nhìn bác sĩ và đôi môi mấp máy như muốn nói điều gì. Dì Mười hiểu
được, liền nói: “Chung, Dì Hai Loan nói, tại sao chưa đi?”

Khi kể lại kỷ niệm nầy cho tôi, cha Chung đã dùng những ngón tay phải chỉ vào
cánh tay trái và cho biết lúc đó cha cảm thấy bị rởn da gà lên. Sau đó, bác sĩ
Chung về dự tang lễ của Dì Hai Loan và đã quyết định theo đạo. Một năm sau nữa
bác sĩ đã vào tu ở Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn và đã nhận lãnh Thánh chức
linh mục hơn một năm nay.

Ba vị đã tác động mạnh mẽ trên Ơn Gọi của cha Chung là giám mục Jean Cassaigne,
linh mục Lischenberg và Dì Hai Loan. Cả ba cùng có một mẫu số chung – như lời
cha Chung – đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không
phải bằng lời nói!

Nguyện ước của cha Chung là được phục vụ bệnh nhân phong và bịnh nhân Aids rồi
cuối cùng ngã bệnh giữa những bệnh nhân mà cha yêu thương phục vụ, đúng như lời
Chúa Kitô đã phán dạy: “Không có Tình Yêu nào cao trọng cho bằng hy sinh mạng
sống mình vì kẻ mình yêu!”

NHỮNG TRỞ NGẠI VỀ PHÍA GIA ÐÌNH

Ðáp câu hỏi của tôi là trên con đường theo Chúa, có những trở ngại lớn lao nào
về phía gia đình không? Cha cho biết gia đình của cha là một gia đình nghèo.
Ðời sống gia đình thường xảy ra cảnh “cơm không lành, canh không ngọt”. Ðiều đó
đã ảnh hưởng cha từ thuở thiếu thời nên cha đã có ý định đi tu vì nhận thấy đời
sống gia đình không mang lại hạnh phúc.

Khi làm bác sĩ, trong hai năm đầu cha đã hành nghề để có thể trả nợ cho gia
đình. Trong những năm kế tiếp, cha đã giúp đỡ những người em ăn học và hiện có
một em trai là bác sĩ chuyên môn về phổi. Người em nầy đã thay thế cha phụng
dưỡng hai cụ thân sinh.

Khi còn là tu sĩ, chưa được thụ phong linh mục, một ngày kia được tin cụ thân
sinh bệnh, cha đi xe đạp về thăm. Vừa vào nhà, cụ thân sinh liền quở trách cha
là một người “không biết nhục”. Theo lời cụ, các bạn bè của cha đều đi xe hơi,
xây nhà lầu hai ba tầng cho bố mẹ ở. Còn cha, cha lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch
về thăm nhà!

Trước đây khi cha ngõ ý với cụ bà là muốn đi tu thì cụ bà rất vui, vì tưởng cha
tu theo Phật giáo. Nhưng khi biết cha sẽ tu theo Công giáo thì cụ bà giữ im
lặng.

Sau khi được thụ phong linh mục vài ba hôm, cha về thăm gia đình. Mới bước vào
nhà, cụ bà cất tiếng nói: “Mẹ có điều nầy muốn nói với con.” Cha vội kéo ghế
mời cụ bà ngồi rồi nói: “Thưa Mẹ, xin Mẹ cứ nói, con xin nghe.” Bấy giờ cụ bà
đáp: “Mẹ muốn nói với con điều nầy là đạo Mẹ, Mẹ giữ, đạo con, con giữ.” Cha
liền thưa: “Xin Mẹ cứ giữ đạo của Mẹ. Con không bao giờ dám có ý nghĩ là sẽ
khuyên bảo Mẹ theo đạo của con.”

NHỮNG THỬ THÁCH TRÊN HÀNH TRÌNH TU TRÌ

Ðáp câu hỏi của tôi là trong thời gian đi tu cũng như làm linh mục, có lúc nào
cha cảm thấy những thử thách quá lớn và nảy sinh ý định muốn bỏ cuộc? Cha đăm
chiêu nhìn tôi một phút rồi chậm rãi trả lời: “Thật ra ở giai đoạn nào trong
đời sống tu trì cũng đều có những cám dỗ riêng: từ nhà tập đến khấn tạm rồi
khấn trọn đời và làm linh mục. Nhưng nếu tu sĩ biết tuân giữ ba lời khấn là
vâng lời, khiết tịnh và khó nghèo, đọc kinh Nhật Tụng, suy gẫm Phúc Âm thì sẽ
vượt qua những cơn cám dỗ.”

Cha Chung còn chia sẻ với tôi đôi điều có tính cách riêng tư nhưng có phần nào
ray rứt tâm can. Trong giờ phút cảm động đó, tôi đã đưa tâm hồn lên với Chúa,
cầu nguyện cho cha Chung và cho tất cả các linh mục cũng như nam nữ tu sĩ, đã
trải qua những giây phút cô đơn trong cuộc đời tu trì, bằng lời kinh “Phút Cô
Ðơn”, của Ludovic Giraud, (sách LKÐNTNK, trang 49-50):

“Lạy Chúa,

Con dâng lên Chúa những giờ phút cô đơn

Ðôi lần đến với con trong cuộc đời.

Con dâng lên Chúa

Lúc con phải làm việc một mình:

Trong sự tẻ nhạt của bổn phận nặng nề

Mà không có lấy một sự khích lệ đỡ nâng

Trong cộng đoàn.

Con dâng lên Chúa

Những lúc cô đơn,

Mò mẫm đi tìm trong hoài nghi,

Khi không còn biết con đường

Mình đang theo đuổi sẽ dẫn đến đâu

Và trên đó bóng đêm bao trùm.

Con dâng lên Chúa

Những giờ phút con phải

Ðau khổ âm thầm một mình,

Dù đang ở giữa những kẻ mà con phải

Bày tỏ Chúa cho họ và bị vô ơn hất hủi,

Do thờ ơ và thiếu cảm thông.

Con dâng lên Chúa

Những giây phút con phải yêu một mình

Giây phút thật nặng nề

Khi trái tim con khắc khoải,

Ði tìm sự tương giao

Mà không gặp thấy trong lòng người khác.

Và trong lòng những người con ưa thích

Tìm thấy một sự no thỏa mà không nếm cảm được.

Con dâng lên Chúa

Những giờ phút con phải đau khổ một mình,

Những giây phút Giếtsêmani của bản thân con.

Và chính trong những lúc ấy,

Lạy Chúa, con ước ao được nên giống Chúa.

Cũng như Chúa,

Con ước muốn và cầu xin

Cho chén khổ nầy ra khỏi con,

Nhưng xin Chúa cho con sức mạnh

Ðể chế ngự mình

Mà vâng theo Thánh ý Cha,

Ðấng Chúa yêu ngàn đời,

Cả khi Ngài chấp nhận thấy con đau khổ.

Lạy Chúa,

Xin đừng theo ý con

Nhưng cho ý Cha được thể hiện Amen.”

I. THÁP TÙNG CHA CHUNG: TRUNG TÂM MAI-HÒA

Cao điểm của những ngày về thăm Việt-Nam là việc tôi tháp tùng linh mục
Augustinô Nguyễn Viết Chung đi thăm viếng Trung Tâm Mai-Hòa. Cha Chung hiện là một trong ba bác sĩ phục vụ tại Trung Tâm đó do các Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn
đảm trách. Mỗi thứ hai hằng tuần, cha Chung đều lên Mai-Hòa suốt ngày để dâng
Thánh Lễ và khám bệnh. Hai bác sĩ thiện nguyện khác sẽ khám bịnh cho bịnh nhân
vào ngày thứ tư và thứ bảy.

Hôm đó tôi rời Saigon đi xe honda “ôm” với cha Chung lúc 7 giờ 30 sáng để trực
chỉ Củ Chi, với đoạn đường dài trên 45 cây số. Lần đầu tiên tôi đi honda với
nón an toàn nặng trĩu trên đầu. Khi honda vừa chạy độ 5 phút, trời mưa lâm râm,
cha Chung đưa tôi mặc bộ quần áo mưa, trông chẳng khác nào hai phi hành gia bất
đắc dĩ. Nhưng xe chạy được mười lăm phút, trời tạnh mưa. Một ít lâu sau trời
bắt đầu nắng, nhưng cha Chung không hề dừng lại để cởi áo mưa. Sau khi rời
đường quốc lộ, xe còn chạy trên mười cây số nữa mới tới Trung Tâm Mai Hòa.

Hôm đó tôi mặc áo dài tay, quần tây dài, mang giày, để tỏ lòng kính trọng của
tôi đối với những chi thể đau khổ của Ðức Kitô. Thường ngày tôi chỉ mặc áo cụt
tay, quần đùi, đi dép để ứng phó với cái nóng bức của trời Saigon.

SƠ LƯỢC VỀ TRUNG TÂM MAI-HÒA

Ðây là Trung Tâm săn sóc bệnh nhân Aids ở giai đoạn cuối, không nơi nương tựa.
Ðây là một cơ sở Công giáo đầu tiên được chính thức thành lập để chăm sóc bịnh
nhân Aids tại Việt-Nam. Trung Tâm không nhận bệnh nhân đến trực tiếp mà chỉ
nhận bệnh nhân chuyển đến từ khoa nhiễm E thuộc Trung Tâm Bệnh Nhiệt Ðới, Trung Tâm Lao Phạm Ngọc Thạch và bệnh viện miễn phí An-Bình. Hiện Trung Tâm Mai-Hòa do nữ tu Nguyễn Kim Thoa (Dì Tuệ Linh) đảm trách.

Ðịa chỉ của Trung Tâm Mai-Hòa:

Ấp Lô 6, Xã An Nhơn Tây, Huyện Củ Chi, TPHCM.

Ðiện thoại: (848) 8 926 135

Ðịa chỉ email: [email protected]

NHỮNG EM BÉ MỒ CÔI MẮC BỆNH AIDS

Khi tới nơi, cha Chung và tôi cởi nón an toàn và bộ quần áo mưa ra. Mồ hôi tôi
ướt đẫm như tắm. Nghe tiếng xe honda của cha Chung, mấy em bé năm sáu tuổi chạy
ra mừng rỡ la lớn: “Cha ơi! Cha!” chẳng khác nào cảnh tượng mẹ đi chợ về. Ban
đầu tôi cứ tưởng đó là những em còn khỏe mạnh mà cha mẹ đã qua đời vì bệnh liệt
kháng, không được ai chăm nuôi. Sau đó cha Chung cho biết tất cả các em đều mắc
bệnh, và mồ côi cha mẹ, ngoại trừ một em bé gái 4 tuổi còn mẹ.

Cách đây mấy tháng, mẹ của em nầy đã mang em lại để trước cổng chùa, với một
miếng giấy ghi mấy chữ vắn tắt: “xin nhà chùa nuôi giúp”. Ngoài ra mẹ em có cho
biết tên em và em được bốn tuổi. Vị sư trụ trì đã mang em vào chùa nuôi. Sau đó
em bị Viêm Phổi, đi khám nghiệm mới biết em nhiễm HIV, đã trở thành bịnh Aids.
Nhìn thân thể ốm yếu và nét mặt kém vui của em, tôi đoán biết em đang bị cơn
bẹạnh hoành hành và đang trên đà tiến tới giai đoạn hiểm nguy.

Cảm tưởng đầu tiên của tôi là Trung Tâm Mai-Hòa ngày nay đã được nhiều ân nhân
giúp đỡ, nhất là một số tòa đại sứ ngoại quốc nên nhà cửa khang trang hơn, chứ
không còn gây ấn tượng rùng rợn như khi xem cuốn video một năm trước đây.

THAM DỰ THÁNH LỄ VỚI NƯỚC MẮT CHAN HÒA

Ðây là Thánh lễ cảm động nhất mà tôi đã tham dự từ trước tới nay. Thánh Lễ được
cử hành đơn giản trong một căn nhà thủy tạ hình bát giác, bên dưới là một giòng
nước đục ngầu ứ đọng, không buồn chảy, chẳng khác gì giòng đời với chuỗi ngày
dài lê thê của những bệnh nhân ở đây.

Nghe những tiếng thưa đáp của các bệnh nhân trong Thánh lễ nhất là của các em
bé tôi không thể cầm được nước mắt. Suốt buổi lễ, nước mắt tôi chan hòa, khi
thấy các em vẫn hồn nhiên đọc kinh, hát xướng như thường, không chút ý thức về
số phận đen tối đang đè nặng trên các em. Những lưỡi hái của tử thần đang treo
lủng lẳng trên đầu các em và sẵn sàng rơi xuống để gặt hái các em trong một
ngày rất gần đây mà các em không chút hay biết.

Tôi nhớ lại sau đó, cha Chung đã vào thăm các em trong căn nhà dành riêng cho
các em. Các em đã xúm lại ôm chân cha, níu kéo cha và quyến luyến không muốn
rời khỏi cha. Có em đã được cha ẳm lên, vuốt ve một cách trìu mến. Tôi cũng nhớ
lại lúc xế trưa, các em đã vui đùa cười giỡn trong sân với chị nữ tu phụ trách.
Khi thấy các em vui đùa, tâm trạng của tôi lúc bấy giờ cũng giống như cha Ðông
trước kia: thấy các em cười nhưng tôi lại khóc.

MỘT BỮA ĂN ÐẠM BẠC

Hôm tôi lên Trung Tâm Mai-Hòa, tôi gặp bốn dì Nữ Tử Bác Ái phục vụ những bệnh
nhân liệt kháng ở giai đoạn chót. Dì Tuệ Linh là giám đốc, một Dì trước đây đã
phục vụ ở trại phong Di-Linh hơn hai mươi lăm năm, hiện làm y tá, một Dì săn
sóc các em bé và một Dì nấu ăn.

Hôm đó tôi thấy thức ăn gồm rau muống luộc, canh khổ qua nhồi thịt và đồ tráng
miệng là một miếng dưa hấu đỏ. Thức ăn nầy được dùng chung cho các nữ tu và
bệnh nhân. Các bệnh nhân chia làm ba nhóm ăn cơm chung với nhau, đó là nhóm các
trẻ em, những người bị lao phổi và những người nhiễm các bịnh khác.

Sau khi chia sẻ với tôi nhiều điều, cha Chung đã dẫn tôi sang phòng ăn Trung
Tâm và dùng bữa ăn trưa. Tôi khâm phục tài nấu nướng của chị nữ tu phụ trách
nhà bếp. Những món ăn rất ngon và đậm đà, hợp khẩu vị. Khi ăn trưa xong, đã hơn
hai giờ rưỡi chiều và cha Chung đã mất buổi nghỉ trưa.

Sau mấy tiếng đồng hồ được cha Chung chia sẻ tâm tình, tôi cầu xin Chúa cho tôi
được học hỏi đôi điều qua gương sống chứng nhân của cha, của các linh mục và
nam nữ tu sĩ khác, bằng bài thơ “Xin Cho Con Sức Mạnh” của R. Tagore do Ðỗ
Khánh Hoan dịch (Sách LKÐNTNK, trang 39):

“Lạy Thiên Chúa,

Ðây lời con cầu nguyện:

Xin tận diệt, tận diệt trong tim con

Mọi biển lận tầm thường.

Xin cho con sức mạnh thản nhiên

Ðể gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho con sức mạnh hiên ngang

Ðể đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho con sức mạnh ngoan cường

Ðể chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

Hay cúi đầu khuất phục

Trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho con sức mạnh dẻo dai

Ðể nâng tâm hồn vươn lên

Khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho con sức mạnh tràn trề

Ðể dâng mình theo ý Ngài luôn.”

II. TRUNG TÂM THIÊN PHƯỚC:

CƠ SỞ NUÔI DƯỠNG TRẺ EM KHUYẾT TẬT

Sau đó cha Chung dẫn tôi sang Cơ Sở Nuôi Trẻ Khuyết Tật Thiên Phước ở bên cạnh.
Cơ Sở nầy do một cộng đoàn nữ tu khác đảm trách.

Trong khi cha Chung lên lầu dâng Thánh lễ cho các nữ tu, tôi ngồi ở dưới lầu,
nơi có vài chục em dưới năm tuổi, nằm, ngồi hay bò hoặc đong đưa trong các
chiếc ghế xích đu. Có em bò lại gần tôi, lấy tay sờ vào chân tôi, rồi nhoẻn
miệng cười. Trông các em thật dễ thương và tội nghiệp. Khi nhìn các em, lòng
tôi se thắt!

Qua việc thăm viếng hai cơ sở nầy ố Trung Tâm Mai-Hòa và Trung Tâm Thiên Phước
ố tôi cầu xin Chúa cho tôi được mở mắt ra để thấy Chúa trong mọi cảnh huống của
cuộc đời:

“Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,

Ðể đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.

Xin cho con thấy Chúa thật bao la,

Ðể cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.

Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,

Ðể con đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin làm cho con thật mạnh mẽ,

Ðể không nỗi thất vọng nào

Còn chạm được tới con.

Xin làm cho con thật đầy ắp,

Ðể ngay cả một ước muốn nhỏ,

Cũng không còn có chỗ trong con.

Xin làm cho con thật lặng lẽ,

Ðể con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi

Xin Chúa ngự trong con thật sống động,

Ðể không phải là con,

Mà chính Ngài đang sống.

(“Xin Cho Con Thấy” trích từ Rabbouni đăng trong sách LKÐNTNK trang 93)

NHỮNG NẮM TRO TÀN

Sau đó cha Chung và tôi trở lại Trung Tâm Mai Hòa. Trong một giờ đồng hồ, cha
Chung hoàn tất những hồ sơ bệnh lý, còn tôi đi dạo quanh vườn. Những bông hoa
cỏ dại mọc đó đây ở Trung Tâm Mai-Hòa gợi lên cho tôi sự hoang dại của kiếp
sống, cũng như số kiếp của những bệnh nhân ở đó.

“Lời Kinh Của Người Ðau Khổ” (Paradoxes Of Prayers) trong sách LKÐNTNK (trang
70-71) đã gói ghém trọn vẹn tâm tình của tôi trong giờ phút suy tư đó:

“Lạy Chúa,

Con cầu xin ơn mạnh mẽ

Ðể thành đạt trong cuộc đời,

Chúa lại làm cho con ra yếu ớt

Ðể biết vâng lời khiêm hạ.

Con cầu xin có sức khỏe

Ðể mong thực hiện những công trình lớn lao,

Chúa lại cho con chịu tàn tật

Ðể chỉ làm những việc nhỏ tốt lành.

Con cầu xin được giàu sang

Ðể sống sung sướng thoải mái,

Chúa lại cho con nghèo nàn

Ðể học biết thế nào là khôn ngoan.

Con cầu xin được có uy quyền

Ðể mọi người phải kính nể ca ngợi,

Chúa lại cho con sự thấp hèn

Ðể con biết con cần Chúa.

Con xin gì cũng chẳng được theo ý muốn.

Nhưng những điều con đáng phải mơ ước,

Mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin,

Thì Chúa lại đã ban cho con

Thật dư đầy từ lâu.

Lạy Chúa,

Hóa ra, con lại là người hơn hết trên đời nầy,

Bởi con đã nhận được ơn Chúa vô vàn”

Trong lúc chờ đợi cha Chung, tôi ngồi đắm mình trong suy tư như thế trên một
ghế đá được một ngôi chùa trao tặng, trong cả chục chiếc ghế như thế được nhiều
ân nhân khác trao tặng Trung Tâm.

Sau khi hoàn tất hồ sơ bệnh lý, cha Chung dẫn tôi đi thăm nhà quàng của Trung
Tâm, mà phía ngoài một bức tường được dựng lên, có ngăn nhiều ô nhỏ để giữ tro
tàn những bệnh nhân đã vĩnh viễn ra đi, nhưng không có thân nhân thừa nhận.
Những tro tàn đó được chứa đựng trong những cái quách nhỏ với một tấm hình gắn
lên bên ngoài.

Trong số gần trăm cái quách đó, tôi để ý đến mấy em rất trẻ, khoảng đôi mươi,
trai cũng như gái, mới từ giã cuộc đời gần đây thôi. Trông hình các em rất
xinh! Lòng tôi quặng đau. Nếu không vì tai họa của Aids thì đời các em đẹp biết
bao!

Trong khi tôi đang miên man nghĩ ngợi, bỗng nhìn xuống đám cỏ xanh trên mặt
đất, phô bày đó đây mấy bông “hoa mười giờ”. Câu hát kết thúc bài ca Hoa Mười
Giờ “đời con gái chỉ đẹp lúc ban đầu!” khiến tâm hồn tôi càng thêm não nuột tê
tái. “Lúc ban đầu” của các em quá vắn vỏi và đầy đau thương! Ðúng là “Nửa chừng
xuân thoắt gãy cành thiên hương.” (Ðoạn Trường Tân Thanh).

Cha Chung chỉ vào hình một cô gái khoảng ba mươi tuổi. Cha cho biết là chị được
chồng chuộc ra khỏi một động mãi dâm ở Kampuchia. Nhưng về sau chị bị Aids và
đồng thời cũng phát hiện ra ông chồng bị lây luôn. Những thảm cảnh như thế nầy
không bút mực nào có thể diễn tả được.

TRÊN ÐƯỜNG VỀ

Trong khi cha Chung và tôi sửa soạn ra về thì một em bệnh nặng đang hấp hối. Ba
của em và bà nội vào thăm viếng em lần cuối. Lâu lâu vì không thể chịu đựng
được cảnh đau lòng nầy, người cha ra ngoài, đứng nhìn trời mây mà ứa nước mắt.

Lúc đó cha Chung đi ngang qua và buột miệng nói với tôi là trong tình huống
nầy, cha cũng không thể làm gì hơn được. Câu nói của cha Chung cho tôi thấy sự
bất lực của con người khi phải đối diện với tử thần. Xét về một phương diện nào
đó, cái chết trong trường hợp nầy là con đường giải thoát duy nhất cho những người
chẳng may mắc phải tai họa nầy.

Sau khi chạy honda ra khỏi Củ Chi để vào xa lộ trở về Saigon, cha Chung quay
lại hỏi tôi có buồn ngủ không. Thật tình tôi không buồn ngủ mà chỉ lo cho cha
Chung đã mất giấc nghỉ ban trưa và bây giờ phải cố thức tỉnh để lái honda trên
45 cây số nữa.

LỜI NGUYỆN CỦA CHỊ VÉRONIQUE

Lúc bấy giờ nền trời âm u, mây đen vần vũ, nhưng may mắn là không đổ mưa. Nhìn
những đám ruộng “nửa vàng nửa xanh” hai bên vệ đường, tôi liên tưởng đến cảnh
chết chóc đang xảy ra tại Trung Tâm Mai-Hòa. Chỉ trong tuần lễ trước đây, hung
thần Aids đã cướp đi bảy sinh mạng và trong tuần nầy cũng phải một hai mạng
người nữa.

Khi tâm tư tôi bị dằn vặt về những ưu tư liên quan đến những cái chết quá đau
thương cũng như đoạn chót cuộc đời đầy đau khổ của những bệnh nhân ở Trung Tâm
Mai Hòa, tôi bỗng đưa tâm hồn lên để quyện lòng mình với chị Véronique qua “LỜI
NGUYỆN” của chị được ghi lại trên tạp chí Prier, xuất bản năm 1979 (sách
LKÐNTNK, trang 13-16):

Chị Véronique là một người Pháp, tính đến năm 1979, được 58 tuổi, với 55 năm bị
mắc bệnh phong Hansen, 20 năm bị mù lòa, nhưng chị vẫn làm việc trong một xí
nghiệp sản xuất đồ dùng của người bệnh Hansen tại nước Cameroun, châu Phi.

“Lạy Chúa,

Chúa đã đến và đã xin con tất cả,

Và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả.

Xưa kia, con ưa thích đọc sách,

Và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con.

Ngày trước, con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa,

Và Chúa đã mượn đôi chân của con.

Mỗi độ xuân về,

Con tung tăng hái lượm những cánh hoa tuơi,

Và Chúa lại xin con đôi tay.

Bởi con là một phụ nữ,

Con ưa nhìn suối tóc óng ả của con,

Thế mà giờ đây,

Ðầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào,

Cũng chẳng còn đâu,

Những ngón tay hồng xinh xắn nữa,

Chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.

Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem:

Cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến độ nào.

Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn,

Con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn.

Vâng, lạy Chúa,

Muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn,

Bởi vì, nếu đêm nay,

Chúa truyền cho con phải ra đi vĩnh biệt cõi thế,

Con cũng sẽ chẳng tiếc hận gì.

Ðời con đã được quá ư đầy tràn diệu kỳ tột độ:

Ðó là con đã được sống

Ðắm mình trong Tình Yêu,

Ðã được Chúa lấp đầy

Chan chứa bằng Tình Yêu,

Vượt quá cả những gì tim con hằng mong ước.

Ôi lạy Chúa là Cha của con.

Cha đã đối xử quá tốt với bé gái Véronique của Cha.

Và chiều nay, ôi Tình Yêu của con,

Con xin dâng lời nguyện thiết tha,

Cho tất cả mọi người phong cùi trên mặt đất,

Xin Cha thương một cách đặc biệt,

Cả đến những người bị bệnh “cùi tâm hồn”

Ðang đè bẹp hủy hoại,

Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy.

Và chiều nay, trong âm thầm,

Con xin tận hiến đời con cho họ,

Bởi vì họ cũng là những người anh chị em con.

Ôi lạy Cha, Tình yêu của con,

Con xin dâng Cha

Căn bệnh phong cùi thân xác của con,

Ðể cho những người thân yêu kia

Ðừng bao giờ biết đến nữa,

Cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn

Của căn bệnh “cùi tâm hồn”.

Con là bé gái thân thương của Cha,

Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay

Ðã tàn phế của con để dẫn con đi,

Như người mẹ hiền

Dắt tay đứa con gái cưng của mình.

Cha hãy ôm con vào lòng,

Như người cha ấp ủ đứa con cưng

Trong vòng tay của mình.

Cha hãy nhận chìm con sâu xuống tận đáy trái tim Cha,

Cho con được ở đấy

Cùng với mọi người thân yêu của con,

Bây giờ và cho đến mãi muôn đời Amen

GHI CHÚ: Những tên sách viết tắt:

– LKÐNTNK: “Lời Kinh Ðẹp Nhất Thiên Niên Kỷ”

– TTTVLÐT: “Tiếng Thì Thầm Và Lời Ðáp Trả” của Eileen, Nguyễn Thị Chung dịch.

25 Mùa Xuân… sống đời tận hiến với người bệnh phong

 
 
25 Mùa Xuân… sống đời tận hiến với người bệnh phong

Triều Dương
 
1/25/2013
 
Nguồn: Vietcatholic.net
 
Bỏ sau lưng cái tấp nập của Hà  Nội, tôi về thăm Bệnh viện Phong và Da liễu Bắc Ninh hay người ta vẫn quen  gọi là trại phong Quả Cảm vào một buổi chiều đông khi những cơn gió lạnh từ  phía Bắc vẫn dồn dập kéo nhau bay về. Không mặc chiếc áo của nữ tu mà thay vào  đó là chiếc áo blouse, cô Nguyễn Thị Xuân tiếp chúng tôi trong căn phòng  khách rộng chừng mười hai mét vuông bằng những câu chuyện nghe như truyện cổ  tích.

Xem hình ảnh

1. Nữ tu đến từ “hành tinh lạ”

Nằm cách trung tâm thành phố Bắc Ninh chừng 5km, Bệnh viện Phong và Da liễu  Bắc Ninh có diện tích khoảng 2ha tọa lạc trên mấy ngọn đồi thuộc xã Hòa Long  (Yên Phong, Bắc Ninh). Có cảm giác không gian ở đây như đặc sánh lại khi bước  chân vào khu nhà an dưỡng của các bệnh nhân. Vẻ u tịch càng tăng lên, vài dãy  nhà cấp bốn nằm lọt thỏm giữa những bóng cây xanh lá dù đang độ giữa đông .  Ngôi nhà thờ đổ nát trên đỉnh đồi giống như số phận của những bệnh nhân phong  nơi đây với chứng tích đau thương nhưng niềm tin vẫn luôn rực sáng.

Trại phong Quả Cảm (sau này được đổi tên thành Bệnh viện Phong và Da liễu Bắc  Ninh) được một linh mục ở tòa giám mục Bắc Ninh thành lập năm 1913, nhưng từ  năm 1954 đến nay nhà nước đã trưng thu và quản lý. Hiện nay, trại phong Quả  Cảm có hơn 100 thành viên, đa số họ là bệnh nhân đã khỏi bệnh nhưng vẫn còn  mang di chứng bệnh phong và con em của các bệnh nhân. Qua mấy chục năm trời  tồn tại, nơi đây là mái nhà chung cho những số phận không lành lặn.

Những người dân trong ngôi làng lạ này cho biết, kể từ năm 1954 khi nhà nước
quản lý thì gần như không có người lui đến đây thăm nom những người bệnh
ngoại trừ một vài y tá được cử đến. Trong thời gian chiến tranh, những người
có số phận không may ở nơi đây rơi vào cảnh cô độc. Cái bệnh cái tật không
đau đớn, không sợ hãi bằng nỗi cô độc. Họ như bị cách ly khỏi thế giới bên
ngoài, tự lao động để nuôi sống bản thân và chiến đấu với bệnh tật. Trại
phong Quả Cảm trở thành một nơi “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Dường như cả thế giới đã quên lãng những số phận bất hạnh đang âm thầm chịu đựng cả nỗi  đau thể xác và tinh thần.

Thế nhưng niềm vui đã trở lại khi năm 1988, tòa giám mục Bắc Ninh đã gửi cô
Nguyễn Thị Xuân một nữ tu thuộc tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất đến sống và phục vụ  các bệnh nhân. Ông Tâm – trưởng trại phong bồi hồi kể lại: “ngày đầu khi sơ  Xuân đến đây, mọi người trong này ngạc nhiên lắm, cứ tưởng cô là người đến từ  “hành tinh lạ” nào đó. Mấy chục năm không có ai quan tâm nay tự nhiên lại có  người bình thường đến ở cùng, sống ùng, ăn cùng, làm cùng ai mà không bất  ngờ, không vui sao được.

Kể từ đó đến nay thấm thoát đã hơn 20 năm trôi qua, mái tóc xanh ngày nào của  cô Xuân mà có người vẫn gọi là sơ Xuân đã điểm bạc. Nhưng với tình yêu
thương, bác ái, người nữ tu đến từ “hành tinh lạ” vẫn đang miệt mài, nỗ lực
để giúp cho những con người không được lành lặn về thể xác được lành lặn về
tinh thần.

2. Nữ tu khoác áo blouse

Sinh năm 1957 trong một gia đình Công giáo đạo đức thuộc giáo xứ Xuân Hòa ( xã Đại Xuân, huyện Quế Võ – Bắc Ninh) Nguyễn Thị Xuân đã thừa hướng một tài  sản Đức tin quý giá và tình yêu thương con người. Là chị cả của một gia đình  có 5 chị em, cha mẹ lại mất sớm nên Xuân phải nghỉ học đi làm chắt chiu từng  đồng để nuôi dạy các em. Ban ngày đi làm đồng cho hợp tác, tối về Xuân lại  tất bật ngồi đan lát kiếm thêm thu nhập.

Khi đương thời thiếu nữ có bao người theo đuổi nhưng Xuân không lấy chồng mà  quyết tâm theo con đường tận hiến. Đây là một bước ngoặt cực kỳ quan trọng và  chứa đầy mạo hiểm của cô Xuân bởi sự quản lý gắt gao về tôn giáo nên những ngày đó muốn đi tu cũng không phải là dễ. Trước những khó khăn thời cuộc, Đức  cố Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tùng đã thành lập Tu Hội Hiệp Nhất Bắc Ninh  trong âm thầm nhằm quy tụ những chị em muốn sống tận hiến ngay giữa đời  thường. Xuân đã tìm hiểu và xin ra nhập vào Tu Hội đồng thời vào làm cô nuôi  dạy trẻ của một trường mầm non trong xã với tinh thần “làm tông đồ ở ngay  giữa đời”.

Trong thời gian này, cô Xuân đọc được một cuốn sách viết về một linh mục người  Pháp đã tự nguyện lên Di Linh (Lâm Đồng) chăm sóc những người dân tộc bị bệnh phong. Gấp cuốn sách lại, ở Xuân lại mở ra bao nhiêu suy tư trăn trở: “Cha ấy là người nước ngoài mà còn có tấm lòng với người Việt, còn mình
đã làm được gì cho những người có chung dòng máu chưa?”.

Năm 1987, sau khi đi thăm người bệnh tại Trại phong Di Linh, Lâm Đồng, tận
mắt chứng kiến cuộc sống của những người bị căn bệnh quái ác hành hạ khổ sở, tàn phế, đến mức nhiều người thân trong gia đình còn phải lánh xa. Ấy vậy mà  có nhiều chị nhà tu tự nguyện đến đây chăm sóc cho họ còn hơn cả người thân  trong gia đình khiến cô Xuân không khỏi xúc động.

Trở về nhà mang theo bao nỗi băn khoăn, cô Xuân đã nhiều lần đắn đo suy nghĩ. Năm 1988, cô tự nguyện xin Bề trên đến phục vụ trong trại phong. Ban đầu khi vừa nghe đề nghị của cô, Bề trên phải hỏi đi hỏi lại một cách chắc chắn. Rời xa công việc nuôi dậy trẻ, cô Xuân đến với trại phong. Những ngày đầu đến đây cô không khỏi ngỡ ngàng trước cuộc sống của những mảnh đời kém may mắn. Vượt qua những mặc cảm, cô Xuân đã sống cùng, ăn cùng và làm cùng họ. Cô chia sẻ những đắng cay ngọt bùi, những vui buồn trong cuộc sống với mọi người trong cả làng phong nhất là những người có chung đức tin với cô.

Cô Xuân xúc động kể lại: “Những ngày đầu đến đây khó khăn lắm, có nhiều người coi mình như người từ hành tinh lạ lạc đến. Dần dần họ cũng quen với sự có mặt của mình, và tất cả đã hòa nhập thành một gia đình. Cũng chẳng biết tự
khi nào mình đã coi đây là ngôi nhà thứ hai.”

Ở trại phong này vừa phải chăm sóc cho những số phận không may vừa phải giữ trọn vẹn đời sống tu trì quả là việc không dễ, nhưng đối với cô Xuân chăm sóc những người trong ngôi làng đặc biệt này cũng chính là động lực giúp cô sống trọn đời tận hiến. Ở đây người ta ít khi thấy cô Xuân mặc áo của một nữ tu. Có lẽ, chỉ khi nào đi cầu nguyện, cô Xuân mới mặc nó. Điều đó không phải do cô đã quên mình là một nữ tu mà chính chiếc áo nữ tu đã hóa thân vào chiếc áo blue mà cô vẫn đang mặc thường ngày.

2. Nữ tu trở thành “kỹ sư” sản xuất tay chân giả

…Một năm sau ngày tự nguyện đến đây, cô Xuân được gửi đi học tại Trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn, Bình Định). Khi trở lại Bắc Ninh, công việc chủ yếu của cô là cấp phát thuốc cho các bệnh nhân. Nhận thấy đây là một công việc tốt nhưng chưa trực tiếp giúp đỡ được nhiều cho các bệnh nhân nên cô Xuân đã xin được trở lại vị trí hộ lý trước đây.

Lúc ấy, chuyện đi lại, sinh hoạt bình thường đối với bệnh nhân phong trở
thành một ước mơ xa xỉ. Con vi khuẩn Hansen tàn ác ăn mòn từ ngón tay, ngón chân cho đến bàn tay, bàn chân, ăn sang cả khủy tay, cẳng chân… Khổ nhất là những người bị vi khuẩn ăn đến đầu gối. Có người bị vi khuẩn ăn mất một chân, có người mất cả hai.

Không chịu khuất phục số phận, “cái khó ắt ló cái khôn” những bệnh nhân cụt
chân mày mò và nghĩ ra cách gò miếng tôn thành hình trụ, rồi độn lớp giẻ lên
trên, lắp vào chân để di chuyển. Tuy có nhúc nhắc đi lại được, song người
bệnh đau đớn vô cùng, chỗ tiếp xúc giữa chân với ống tôn sắc nhọn cứ loét
dần, máu rỉ ra thấm đầy vào rẻ.

Chứng kiến trực tiếp nỗi đau của bệnh nhân phong, cô Xuân không cầm nổi nước mắt. Dù gắn bó với bệnh nhân chưa lâu, song cô Xuân đã coi họ như những người thân trong gia đình mình. Họ đau cô cũng đau chẳng kém. Đêm đêm không ngủ được cô lại ngồi cầu nguyện xin Chúa soi sáng giúp cô có thể làm được việc gì đó để giảm bớt nỗi đau cho họ. Qua sự giới thiệu của bề trên về một trại phong trong Nam, người ta có thể tự sản xuất được dụng cụ sinh hoạt cho người bệnh rất tốt. Thế là năm 1992, cô Xuân lẽo đẽo một thân, một mình lên đường đi học nghề làm tay chân giả cho bệnh nhân phong.

Học hành xong xuôi, cô Xuân lại cơm đùm cơm nắm trở ra Bắc. Một nhà xưởng nho nhỏ được mở ngay trong Trại phong để cô Xuân hiện thực hóa mong ước của mình. Cô bảo, để uốn được một thanh nhôm vừa với chân người bệnh thì phải dồn tất cả tâm huyết vào đó, coi làm cho người cũng như làm cho mình. Lúc đầu, cô cũng phải nếm trải nhiều thất bại. Chân giả làm xong tới lúc thử thì không vừa chân người bệnh. Vậy là bao công sức lại đổ xuống sông, xuống biển; không nản chí cô Xuân tiếp tục mày mò suy ngẫm, cải tiến cách làm. Quả thực, thành công không bao giờ từ chỗi những người nhiệt tâm, tận lực.

Bao năm trôi qua, cô Xuân đã miệt mài làm việc không kể ngày đêm, mưa nắng vì lòng mến Chúa yêu người. Cô chia sẻ: “bất cứ khi nào ý tưởng vụt lóe lên trong đầu, thì tôi phải chạy lên xưởng thực hành ngay, không thì sợ lúc sau
quên mất”. Chính đời sống tận hiến phục vụ của cô Xuân giữa trại phong
Quả Cảm đã thành một nhân chứng Đức tin sống động cho Tin mừng Phục Sinh và có nhiều người đã xin theo Chúa.

Thời gian thấm thoát hơn 20 năm đã trôi qua, cô Xuân đã nỗ lực làm việc không phải vì những đồng lương nhỏ bé mà vì tình yêu vĩ đại dành cho những số phận không may mắn. Bởi thế mà giờ dù đã ở tuổi nghỉ hưu nhưng nữ tu Nguyễn Thị Xuân vẫn tình nguyện ở lại phục vụ bệnh nhân phong và tiếp tục đảm nhận công việc sản xuất tay giả, chân giả, các dụng cụ sinh hoạt… cho hơn 100 bệnh nhân phong ở đây. Các bệnh nhân đã dành tặng cho cô danh hiệu “người có bàn tay vàng”

Cũng qua tay “bà mối” Xuân nhiều gia đình đã hình thành và tràn ngập hạnh
phúc tại nơi từng được mệnh danh là “miền đất chết” này. Dẫu còn
gặp vô vàn khó khăn, sóng gió, song Quả Cảm đang trở thành một đại gia đình
đầm ấm. Đó cũng là niềm vui, niềm hạnh phúc của nữ tu kiêm “kỹ sư”
Nguyễn Thị Xuân.

Con đường tận hiến của cô Xuân thật đáng khâm phục. Cô vẫn làm việc âm thầm lặng lẽ với niềm tin yêu mãnh liệt. Chính sự hy sinh miệt mài ấy đã trở nên Men, nên Muối cho đời và bừng sáng niềm hy vọng nơi những người có số phận không lành lặn. Như cái tên của mình, người nữ tu ấy đã đem đến Quả Cảm 25 mùa Xuân ấm nồng với những chồi non xanh ngát để băng qua những mùa đông lạnh lẽo tưởng như có lúc ngủ vùi trong quên lãng.

Bắc Ninh, ngày 12 tháng 01 năm 2013

 

Phiên họp giữa Đức Giáo Hoàng và Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng.

Phiên họp giữa Đức Giáo Hoàng và Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng.

Nguyễn Long Thao

1/22/2013

VATICAN CITY 22/1/2013. _ Tin Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam hội kiến với
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI tại Vatican vào buổi sáng ngày 22 tháng 1 năm 2013
đã được các hãng thông tấn quốc tế loan tải một cách rộng rãi. Nói chung, các
bản tin nhận định rằng quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh Vatican và Việt Nam
đang từng bước được củng cố thêm qua việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI lần đầu
tiên tiếp một vị không phải là nguyên thủ một quốc gia mà là Tổng Bí Thư của
một đảng phái chính trị.

Trong cuộc họp báo, Linh mục Federico Lombardi, phát ngôn viên Tòa Thánh, cho
biết: Phái đoàn của ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng có 11 người, gồm giới chức
cao cấp trong đảng và chính quyền. Phái đoàn đã được Tòa Thánh đón tiếp với tất
cả nghi thức ngoại giao dành cho vị nguyên thủ quốc gia.

Ông Tổng Bí Thư đã hội kiến riêng với ĐGH nửa giờ đồng hồ trong phòng đóng kín.
Sau đó, ông Tổng Bí Thư và phái đoàn đã gặp Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc
Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Tổng Giám Mục Dominique Mamberti, Bộ Trưởng Ngoại Giao đặc trách liên lạc giữa Tòa Thánh với các quốc gia. Phái đoàn cũng đã gặp một
số giới chức khác trong Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh

Thông cáo báo chí của Tòa Thánh cho biết các buổi thảo luận đã diễn ra trong
tinh thần thân ái, thành thật và xây dựng. Hai bên hy vọng những vấn đề còn tồn
đọng sẽ được giải quyết sớm và sự hợp tác có kết quả hiện nay được củng cố
thêm.

Tòa Thánh Vatican và Việt Nam đang hướng đến việc thiết lập đầy đủ quan hệ
ngoại giao. Hiện giờ Tòa Thánh chỉ có đại diện không thường trú tại Việt Nam và
cả hai bên đang tiếp tục thảo luận vấn đề này.

Sau khi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Đức Thánh Cha vào năm 2007, Tòa Thánh và
Việt Nam đã thiết lập uỷ ban nghiên cứu quan hệ ngoại giao. Đây là cuộc họp đầu
tiên giữa Thủ Tướng Việt Nam với giới chức cao cấp của Tòa Thánh. Đến năm 2009
Chủ Tịch Nhà Nước, Ông Nguyễn Minh Triết, đã gặp ĐGH và giới quan sát cho đây
là một bước tiến mới trong quan hệ Việt Nam – Vatican. Sau đó, Đức Tổng Giám
Mục Leopoldo Girelli đã được bổ nhiệm làm Đại Diện không thường trú tại Việt
Nam. Vậy sau phiên họp này, liệu có bước đột phá nào trong quan hệ ngoại giao
giữa Vatican và Việt Nam không? Chúng ta còn phải chờ xem.

Trên bình diện ngoại giao, theo nhận định của giới quan sát, mối liên hệ
Vatican – Hà Nội đã có tiến triển và vấn đề tự do tôn giáo đã có cải thiện.
Nhưng các chính phủ và các cơ quan nhân quyền trên thế giới vẫn coi Việt Nam là
nước đàn áp tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa Giáo. Chính quyền Việt Nam bắt
chước Trung Quốc vẫn can thiệp vào việc bổ nhiệm Giám Mục. Tại các giáo phận và
các giáo xứ xa xôi, việc hành đạo vẫn bị giới hạn và gặp nhiều khó khăn, vẫn
phải qua thủ tục xin – cho. Tài sản Giáo Hội vẫn bi tịch thu. Người Công Giáo
vẫn bị coi là thành phần không đáng tin cậy, không được hưởng trọn vẹn quyền
lợi dành cho một công dân bình thường

Blogger Tạ Phong Tần vào chung kết giải thưởng nhà báo 2013

Blogger Tạ Phong Tần vào chung kết giải thưởng nhà báo 2013
Đăng bởi lúc 9:13 Sáng 23/01/13
nguồn:chuacuuthe.com
VRNs (23.01.2013) – Ngày 21/01/2013, Index  on Censorhip đã công bố danh sách chính thức những nhà văn và nhà báo được chọn
vào vòng chung kết các Giải thưởng năm 2013,
trong đó có chị Maria Tạ Phong Tần thuộc lãnh vực báo chí. Trên website của tổ chức này, chúng ta có thể đọc thấy hình và bản văn giới thiệu chị Tần. Kết quả chung
kết sẽ được công bố vào ngày thứ năm 21 tháng ba tới.
VRNs xin giới thiệu bài viết trên website của tổ chức này:
————————-
Tạ Phong Tần, blogger người Việt bị giam cầm
Tạ Phong Tần, một trong ba blogger Việt Nam, hình thành nên nhóm có danh xưng là “Câu lạc bộ nhà báo tự do”, đã là tâm điểm của một chiến dịch đàn áp tàn bạo của nhà cầm quyền. Việt Nam là một trong những nước hạn chế nhất thế giới về tự do ngôn luận và tự do báo chí, chỉ khá hơn được Trung Quốc, Eritrea và Bắc Triều Tiên là những nước có chỉ số tự do báo chí thấp nhất theo đánh giá của Hội Ký Giả Không Biên Giới.

Tần (ảnh) và các blogger thân hữu của cô đã bị bắt giữ vào tháng 9 năm 2011 (ND) và bị buộc tội “tuyên truyền chống lại nhà nước” thông qua các bài viết bị cáo buộc là đã “bóp méo và chống đối” nhà nước Việt Nam.
Trong thực tế, qua hơn 700 bài viết trên blog Công Lý và Sự Thật, cô đã phơi bày trước ánh sáng qui mô của tệ nạn tham nhũng trong nước. Cô đưa ra một loạt các vấn đề xã hội, bao gồm việc ngược đãi trẻ em, tham nhũng, thuế má không công bằng và việc tịch thu đất bất hợp pháp của các quan chức của đảng tại các địa phương.
Trước khi trở thành một nhà báo, Tần đã là nữ cảnh sát trong guồng máy của Hà Nội. Điều này đem lại cho cô một cái nhìn sâu sắc về hoạt động của hệ thống cai trị. Ngày 24 tháng 09 năm 2012 (ND), sau một phiên tòa kéo dài chỉ một ngày, Tần đã bị kết án phải trải qua mười năm trong tù, và năm năm quản thúc sau khi được thả. Cô đã từ chối nhận tội.
Trong tháng này, một tòa án khác ở Vinh thuộc tỉnh Nghệ An, miền Bắc Việt Nam, đã lại kết án 14 nhà hoạt động, trong đó có nhiều blogger bị phán đến 13 năm tù giam cùng với nhiều năm bị quản thúc tại gia sau đó. Theo đài BBC, việc kết án họ dựa vào những điều luật về an ninh quốc gia có thể được giải thích tùy tiện – trong trường hợp cụ thể này là điều 79 của bộ luật hình sự, nghiêm cấm một cách mơ hồ các hoạt động
nhằm lật đổ chính quyền. Ủy ban Bảo vệ Nhà báo cũng tường trình rằng các quan
chức nhà nước đã đánh đập và lột trần truồng phóng viên Nguyễn Hoàng Vi khi cô
bị giam giữ tại một trụ sở công an ở thành phố Hồ Chí Minh.
Rupert Abbott, nhà nghiên cứu về Việt Nam của Tổ chức Ân xá Quốc tế, nói với tờ New York Times rằng “Những bản án tù kinh hoàng này xác nhận những lo ngại của chúng tôi về những khả năng tồi tệ nhất – đó là nhà nước Việt Nam đã lựa chọn những blogger này là điển hình để răn đe những người khác”. Ông nhấn mạnh thêm rằng tình trạng chà đạp quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam là “nghiêm trọng và ngày càng tồi tệ.”
Trước khi phiên tòa bắt đầu, mẹ của Tần đã tự tử trong một cuộc tự thiêu để chống lại tình trạng đối xử tàn tệ đối với con gái bà, cũng như những bạo lực, quấy rối và đe dọa trục xuất nhắm vào gia đình bà.

Freedom House: Việt Nam không tự do về quyền chính trị, dân sự

Freedom House: Việt Nam không tự do về quyền chính trị, dân sự

Phúc trình hàng năm của Freedom House.

Trà Mi-VOA

nguồn: VOA

17.01.2013

Theo phúc trình “Tự do Thế giới 2013” của tổ chức Freedom House vừa công bố, Việt Nam tiếp tục bị đánh giá là quốc gia không có tự do trong lĩnh vực quyền tự do chính trị và các quyền tự do dân sự của công dân.

Báo cáo thường niên của tổ chức bảo vệ nhân quyền có trụ sở tại Mỹ cho thấy
Việt Nam bị liệt kê trong số 47 nước không có tự do dù nằm ngoài danh sách 9
nước bị xem là thiếu tự do tệ hại nhất trên thế giới trong đó có Bắc Triều Tiên
và Syria.

Về lĩnh vực quyền tự do chính trị, Việt Nam bị đánh giá mức điểm thấp nhất
trong thang từ 1 tới 7. Về các quyền tự do dân sự, số điểm của Việt Nam là 5/7.

Bà Sarah Cook, chuyên gia phân tích cao cấp về lĩnh vực tự do internet và Đông
Á trong tổ chức Freedom House, phát biểu với VOA Việt ngữ:

“Điểm số của Việt Nam nhìn chung vẫn y như nhiều năm trước đây, và chúng tôi
cảm nhận Việt Nam đang gia tăng xu hướng đàn áp các quyền căn bản của công dân, với nghị định tăng cường quản lý internet của chính quyền, với các blogger bị
bắt và bị tuyên án nặng nề chỉ trích nhà nước hay phản ánh tình trạng tham
nhũng. Quyền tự do tôn giáo của người dân cũng tiếp tục bị hạn chế với nghị
định 92 quy định chi tiết về tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực từ đầu năm nay.
Phúc trình của Freedom House quan trọng vì nó hằng năm đánh giá rõ ràng, khách
quan mức tự do về quyền chính trị và dân sự của công dân tại tất cả các nước
trên thế giới và điểm số xếp hạng có thể giúp người ta so sánh tình hình giữa
các nước. Chúng tôi hy vọng bản báo cáo thường niên này đề ra áp lực cho các
chính phủ phải thay đổi để tiến bộ khi nhìn vào điểm số của mình so với các
nước khác.”

Việt Nam bị xem là nước không có tự do trong tất cả các bảng xếp hạng 2012 của
tổ chức này bao gồm “Tự do Trên thế giới”, “Tự do Báo chí ”, và “Tự do trên
mạng Internet ”.

Freedom House nói chiến dịch đàn áp các nhà hoạt động trên mạng, những tiếng
nói chỉ trích nhà nước, các blogger, và các trang mạng xã hội tại Việt Nam đặc
biệt gia tăng kể từ năm 2008 tới nay.

Phúc trình Tự do thế giới của Freedom House công bố thường niên kể từ năm 1972
khảo sát và xếp hạng 195 quốc gia và 14 lãnh thổ trên thế giới. Báo cáo này
thường được các nhà làm chính sách, giới truyền thông, các tập đoàn quốc tế,
các nhà hoạt động và bảo vệ nhân quyền tham khảo để theo dõi xu hướng dân chủ,
ghi nhận những tiến bộ hay thụt lùi của các nước về quyền tự do chính trị và
dân sự của công dân.

 

Liên Hiệp Quốc quan ngại về việc kết án tù 14 nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam

Liên Hiệp Quốc quan ngại về việc kết án tù 14 nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam

Logo Phủ Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc

Logo Phủ Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc

Thanh Phương
nguồn: RFI

Hôm qua, 11/01/2013, phát ngôn viên Phủ Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc OHCHR đã bày tỏ mối quan ngại về việc tòa án Việt Nam buộc tội và kết án tù 14 nhà hoạtđộng Công giáo và Tin Lành trong phiên xử sơ thẩm ngày 08 và 09/01 vừa qua ở thành phố Vinh.

Trong phiên xử đó, 14 người nói trên bị khép vào tội « hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân », chiếu theo điều 79 Bộ Luật Hình sự, do họ bị cáo buộc là đảng viên đảng Việt Tân, mà chính phủ Việt Nam xem là một tổ chức khủng bố. Ba người lãnh án nặng nhất là Lê Văn Sơn, tức Paulus Lê Sơn, Hồ Đức Hòa và Đặng Xuân Diệu, mỗi người bị tuyên án 13 năm tù giam và 5 năm quản chế. Những người còn lại lãnh án từ 3 đến 8 năm tù giam và từ 2 đến 4 năm quản chế. Chỉ có một người được hưởng án treo.

Trong cuộc họp báo hôm qua tại Genève, phát ngôn viên OHCHR, ông Rupert
Colville ghi nhận rằng : « Mặc dù Việt Tân là một tổ chức đấu tranh ôn hòa
cho cải tổ dân chủ, chính phủ Việt Nam lại xem đây là một ”tổ chức phản
động”. Trong số những người bị buộc tội, không một ai đã tham gia vào những hành vi bạo lực
».

Phát ngôn viên OHCHR cũng bày tỏ quan ngại về việc các bản án đã được tuyên chỉ sau hai ngày xét xử. Theo lời ông Rupert Colville, vụ xử này, cũng như vụ bắt giam luật sư hoạt động nhân quyền Lê Quốc Quân cuối tháng 12 vừa qua, phản ánh xu hướng gia tăng hạn chế quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam, đặc biệt là đối với những người chỉ trích chính phủ. Phát ngôn viên Phủ Cao ủy Nhân quyền LHQ kêu gọi chính quyền Hà Nội xem xét lại việc sử dụng Luật Hình sự để cầm tù những người chỉ trích các chính sách của chính phủ, cũng như xem xét lại toàn bộ những vụ vi phạm quyền tự do ngôn luận và lập hội ở Việt Nam.

Việc kết án tù nặng nề 14 nhà hoạt động Công giáo và Tin Lành đã bị các tổ chức nhân quyền quốc tế và một số nước phương Tây chỉ trích kịch liệt.

Trong thông cáo đưa ra ngày hôm qua, tổ chức Phóng viên không biên giới tuyên bố có thể chứng minh rằng blogger Paulus Lê Sơn, một trong ba người bị kết án nặng nhất, không hề tham gia một hoạt động nào của Việt Tân, khi ở Bangkok trong thời gian từ 25 đến 30/11/2011, đơn giản chỉ là vì lúc đó Lê Sơn dự một khóa huấn luyện do Phóng viên không biên giới tổ chức cho các blogger Đông Nam Á. Đối với Phóng viên không biên giới, rõ ràng là chính quyền Việt Nam đã sử dụng những « chứng cớ ngụy tạo » để kết án những blogger chỉ trích họ. Tổ chức này cực lực phản đối việc kết án Paulus Lê Sơn và bảy blogger khác, đồng thời yêu cầu trả tự do ngay lập tức cho họ.

Tiếp theo Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Hà Nội, Bộ Ngoại giao Pháp hôm qua cũng vừa ra tuyên bố « lên án » việc chính quyền Việt Nam kết án tù nặng nề 14 nhà hoạt động Công giáo và Tin Lành. Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Pháp Philippe Lalliot nhắc lại rằng : « Chính quyền Việt Nam đã có những quyết định tương tự trong những tháng gần đây ». Đối với ông Lalliot, những quyết định như vậy « vi phạm nghiêm trọng nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận và tự do lập hội ». Phát ngôn viên
bộ Ngoại giao Pháp nhấn mạnh rằng các quyền tự do này được bảo đảm bởi Công ước
Quốc tế về các quyền Chính trị và Dân sự, mà Việt Nam tham gia.

Quốc tế chỉ trích Việt Nam về các án tù đối với 14 thanh niên Công giáo

Quốc tế chỉ trích Việt Nam về các án tù đối với 14 thanh niên Công giáo

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland.

 

Trà Mi-VOA

10.01.2013
nguồn: VOA

Hoa Kỳ và các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới đồng loạt lên án nhà cầm quyền Việt Nam về các mức án lên tới 13 năm tù đối với 14 nhà hoạt động Công giáo trẻ. Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An hôm 9/1 kết tội những thanh niên này ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ vì có liên hệ tới đảng Việt Tân ở hải ngoại.

Những bản án này cùng với việc bắt giữ các blogger khác và một luật sư nhân quyền hôm 27/12 là một phần trong xu hướng nhân quyền hết sức đáng quan ngại của Việt Nam…

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland.

Ngay trong ngày 9/1, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lên tiếng bày tỏ quan ngại sâu sắc trước việc Hà Nội kết án 14 nhà hoạt động vì họ đã thực thi quyền tự do bày tỏ quan điểm của công dân.

Vụ xử hàng loạt các nhà hoạt động Công giáo trẻ diễn ra sau khi Hà Nội bắt giam
nhà bất đồng chính kiến tích cực cổ võ cho tự do tôn giáo và nhân quyền tại
Việt Nam, luật sư Lê Quốc Quân, với cáo buộc tội ‘trốn thuế’ và giữ y án tổng
cộng 22 năm tù đối với blogger Điếu Cày, Tạ Phong Tần bất chấp sự phản đối mạnh
mẽ của thế giới.

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Mỹ, Victoria Nuland, nhấn mạnh:

“Những bản án này cùng với việc bắt giữ các blogger khác và một luật sư
nhân quyền hôm 27/12 là một phần trong xu hướng nhân quyền hết sức đáng quan
ngại của Việt Nam, khơi dậy những nghi vấn nghiêm túc về các cam kết của Hà Nội
với Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị và với Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền.”

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết trong số các trường hợp mà chính
phủ Hoa Kỳ quan tâm và vẫn đang nêu lên với chính phủ Việt Nam có blogger Điếu
Cày, Tạ Phong Tần, AnhbaSG, và 14 thanh niên Công giáo vừa bị kêu án tổng cộng
hơn 80 năm tù hôm 9/1.

 

14 người Công giáo và Tin Lành bị cáo buộc ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền’
(ảnh: thanhnienconggiao).

 

​​14 nhà hoạt động mà nhiều người trong số này là các blogger bị Việt Nam cáo buộc là thành viên hoặc tham gia hoạt động với đảng Việt Tân, một tổ chức chính trị đấu tranh đòi dân chủ cho Việt Nam. Hà Nội cáo buộc Việt Tân là một tổ chức khủng bố, nhưng chính phủ Mỹ nói không có bằng chứng cho thấy Việt Tân cổ xúy bạo động.

Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội kêu gọi Việt Nam phóng thích ngay lập tức các nhà
hoạt động này cùng tất cả các tù nhân lương tâm khác.

Cùng ngày 9/1, đồng Chủ tịch Nhóm Nhân quyền Việt Nam, dân biểu liên bang Hoa
Kỳ Loretta Sanchez, ra thông cáo nêu rõ tình trạng đàn áp nhân quyền tại Việt
Nam là một thách thức với lương tâm của thế giới, khiến quốc tế phẫn nộ và
chứng tỏ Hà Nội không chấp nhận sự bất đồng chính kiến.


Dân biểu Loretta Sanchez.

 

​​​​Dân biểu Sanchez đề nghị chính phủ Mỹ phải hành động ngay lập tức trước thực trạng vi phạm nhân quyền tiếp diễn tại Việt Nam. Bà Sanchez cho biết sẽ tiếp tục kêu gọi Quốc hội Mỹ vận động chính quyền của Tổng thống Barack Obama chống lại sự đàn áp nhân quyền ở Việt Nam.

Các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế nói bản án của 14 thanh niên Công giáo là
hành động chà đạp công lý và nằm trong khuôn khổ chiến dịch đàn áp ngày càng
mạnh tay của Hà Nội đối với quyền tự do bày tỏ quan điểm.

Hội Ân xá Quốc tế cho rằng diễn giải hoạt động của 14 người trẻ này là âm mưu
lật đổ chính quyền là vô căn cứ. Năm ngoái, chính phủ Việt Nam đã tăng cường
trấn áp các tiếng nói chỉ trích nhà nước và các nhà hoạt động ôn hòa. Ân xá
Quốc tế dự đoán với bản án của 14 thanh niên Công giáo đầu năm 2013, xu hướng
này sẽ tiếp diễn trong năm nay.

Theo tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch, vụ án của 14 nhà hoạt động
ôn hòa là một bằng chứng thêm nữa chứng tỏ sự chuyên quyền, bạo ngược của Hà
Nội đối với nhân dân và với thế giới khi cho rằng những ai tìm cách bảo vệ
quyền con người là một mối đe dọa cho nhà nước.

Ủy ban Bảo vệ Ký giả CPJ chỉ ra rằng các bản án khắc nghiệt cho thấy mức độ quá
đáng của Việt Nam trong việc sẵn sàng đàn áp giới làm báo độc lập. CPJ kêu gọi
chính quyền Hà Nội đảo ngược phán quyết với 14 nhà hoạt động trẻ và phóng thích
tất cả các nhà báo tự do đang bị cầm tù vì những tội danh giả mạo liên quan đến
an ninh quốc gia.

Theo thống kê năm 2012 của CPJ, Việt Nam xếp thứ sáu trên thế giới trong danh
sách các nước bỏ tù ký giả tệ hại nhất.

 

 

Việt Nam xét xử 14 người Công giáo và Tin Lành

Việt Nam xét xử 14 người Công giáo và Tin Lành

14 thanh niên Công giáo và Tin Lành bị cáo buộc ‘thực hiện các hành động nhằm lật
đổ chính quyền’ (ảnh: thanhnienconggiao)

 

nguồn: VOA Tiếng Việt

08.01.2013

Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An hôm 8/1 đã tiến hành xét xử 14 người, trong đó có 12 người Công giáo. Họ bị chính quyền cáo buộc thực hiện các hành động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

Một trong các luật sư tham gia bào chữa, ông Trần Thu Nam cho VOA Việt Ngữ biết
rằng vụ xử hôm 8/1 đã kết thúc phần xét hỏi và đã chuyển sang phần tranh luận.

Luật sư Nam cho biết: “‘Viện Kiểm sát đã phát biểu những lời luận tội của mình và các luật sư đã đưa ra quan điểm. Việc tranh luận tại phiên tòa chấm dứt do hết giờ. ”

Trong khi đó, báo chí trong nước đưa tin, đây là phiên tòa sơ thẩm vụ án hình
sự ‘Hồ Đức Hòa cùng đồng phạm hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân’.

Tờ báo này cũng đưa tin là có hàng trăm Công an tỉnh Nghệ An tham gia bảo vệ
phiên tòa.

Các tin tức trên các trang mạng xã hội cho biết đã xảy ra xô xát giữa người thân các bị cáo và lực lượng an ninh.

Những hình ảnh đăng trên các trang blog cho thấy người nhà của những người bị
đưa ra xét xử đứng đối mặt với các nhân viên bảo vệ bên ngoài tòa án.

Tờ báo dẫn lời cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An gọi 14 người
vừa kể là ‘đường dây tội phạm được tổ chức Tân Việt huấn luyện tại Thái Lan,
Campuchia, Philippines và Mỹ từ năm 2010’.

Luật sư Nam cũng cho biết rằng tất cả các bị cáo đều bị cáo buộc là thành viên
của tổ chức hoạt động ở hải ngoại.

Ông Nam nói: “Luật sư chúng tôi phản bác rất là nhiều. Có 4 luật sư thay
nhau đưa ra quan điểm cho rằng một số bị cáo không tham gia Đảng Việt Tân. Cái
thứ hai là không đủ cơ sở để kết tội các bị cáo đã tham gia đảng Việt Tân. Chưa
đủ chứng cứ và có một số những cái trình tự thủ tục tố tụng còn thiếu và có vi
phạm cho nên Luật sư Hà Huy Sơn thì nói rằng các bị cáo không có tội. Luật sư
Nguyễn Thị Huệ nói bị cáo Sơn không có tội. Còn quan điểm của tôi thì cho rằng là
với những cái chứng cứ trong hồ sơ thì chưa đủ kết tội các bị cáo. Nếu như cần
làm rõ hơn thì cần thiết phải trả lại hồ sơ và bổ sung tất cả các chứng cứ cần
thiết và làm rõ những cái vi phạm tố tụng mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã
vi phạm.”

Được biết, các bị cáo chưa lên tiếng trong phiên xử hôm nay vì hết giờ. Phiên
xử sẽ tiếp tục vào ngày mai, 9/1.

Việt Tân chưa lên tiếng trước cáo buộc mới nhất đối với họ.

Chính quyền Hà Nội coi Việt Tân là một tổ chức khủng bố, nhưng tổ chức hoạt
động ở hải ngoại này từ trước tới nay luôn bác bỏ tố cáo đó.

Các tổ chức nhân quyền quốc tế cho rằng Việt Nam tống giam những người bày tỏ
quan điểm một cách ôn hòa, nhưng Hà Nội cho rằng chỉ những người vi phạm pháp
luật mới bị trừng phạt.

Nguồn: VOA’s interview