Hòa hợp dân tộc: 100 tiếng nói đồng bào – Bài 9: Hòa giải với nỗi đau – di sản tâm thức

BBC

Người dân chạy nạn từ Quy Nhơn vào Nha Trang hồi cuối tháng 4/1975

Tác giả, Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Sydney, Úc

7 tháng 6 2025

Ghi chú của tác giả: Loạt bài viết này chia sẻ những kết quả sơ bộ của một nghiên cứu độc lập, tập trung vào chủ đề hòa hợp dân tộc trong ba khía cạnh: hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp. Con số 100 tượng trưng cho trăm trứng từ bào thai của mẹ Âu Cơ. Một trăm người Việt tuổi từ 25 đến 99, từ đủ mọi nẻo đường của cuộc sống đã góp tiếng nói vào dòng chảy của những câu chuyện này. Những phần trong ngoặc kép là lời của nhân vật. Tất cả đều ẩn danh. Mọi liên tưởng chỉ là trùng lặp tình cờ và không chính xác.

Trong những bài viết trước, các ý kiến cho rằng hàn gắn dân tộc bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ (bài 3, bài 4, bài 5, bài 6), bối cảnh lịch sử (bài 7) và đứt gãy văn hóa (bài 8).

Bài viết kỳ này tập trung vào giả thiết cho rằng quá trình hàn gắn khó khăn vì mất mát của hai bên quá lớn.

Trong dự án này, có nhiều cuộc nói chuyện mà 90% thời gian được dùng để kể lại nỗi đau, đến mức sau đó chính tác giả cũng phải tìm trợ giúp tâm lý. Từ khóa quay lại nhiều nhất là “bị hiếp” và “bị giết.” Sự tàn phá ấy quá lớn khiến ai cũng bị dày vò để tìm lý do biện minh cho hận thù. Quá khứ mất mát trở thành một phần cơ bản của cuộc đời. Thậm chí nếu được chữa lành thì hy sinh bỗng trở thành “vô nghĩa.”

Ta đã mất mát quá nhiều, hận thù là chính đáng

Nhà văn Đỗ Kh. từng miêu tả cuộc sống của những cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại như những “ốc đảo của quá khứ. Cách hai thế kỷ và 10.000 cây số, người Việt vẫn tin rằng số phận long đong trốn chạy của Kiều chính là số phận của họ.”

 Thoạt tiên, họ “bỏ chạy vào Nam sau cải cách ruộng đất.”

“Lần thứ hai là khi họ sợ sẽ bị “tắm máu sau ngày thống nhất.”

Không có “tắm máu,” nhưng “người đàn ông duy nhất trong nhà phải đi cải tạo.” “Một lần má gom hết tiền ra Bắc thăm ba. Về Sài Gòn, má khóc rụng cả tóc. Ba bị cùm một chân. Nhưng ba nói nhiều người không muốn cai tù đổi sang chân kia. Họ hy vọng cái chân bị cùm sẽ dần dần teo lại, cùm sẽ đỡ đau hơn.”

“Cuộc sống bế tắc.” “Gia sản bị nhà nước lấy sạch. Đi học thì không được đi học, đi làm không được đi làm. Không biết sống bằng cái gì. Trí thức mà phải quét rác kiếm ăn.”

“Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh anh trai mình đứng giữa sân, tay nắm chặt chai thuốc chuột, bên cạnh đống sách định đốt. Anh khóc gào tuyệt vọng vì không được vào đại học, dù điểm thi rất cao: ‘Má ơi, sống còn có ý nghĩa gì nếu họ không cho con một cơ hội?’ Có một lần ông hiệu phó gọi tôi vào mắng mỏ. Ông gọi tôi là ‘con ngụy’, rồi dùng điếu thuốc đang cháy dí vô bắp chân. Giờ vẫn còn sẹo. Rồi ông nhốt tôi vào một cái tủ tối và bỏ đi.”

Thế nên “gia đình tôi liều mình trốn chạy.” Khi ấy “vượt biên là tội phản quốc. Nếu bị bắt có tiền cũng 2-3 năm, không tiền 10 năm tù.” “Vụ tàu Việt Nam Thương tín là kinh khủng nhất. Những người trên đó tự nguyện hồi hương vì tin là chính phủ khoan hồng. Nhưng về tới Nha Trang là bị dồn lên xe bít bùng. Ai cũng vào tù. Nhỏ nhất là một đứa bé 7 tuổi. Tù ít nhất 9 tháng. Trung tá Trần Đình Trụ ở tù tới 13 năm.”

Nhưng người ta vẫn trốn. “Ở Vũng Tàu sáng nào cũng thấy xác người vượt biên trôi.” Ngày ấy dân miền Nam bảo nhau: “Một là con nuôi mẹ. Hai là mẹ nuôi con. Ba là con nuôi cá.”

Bởi trên những chuyến tàu ấy là địa ngục trần gian. “Có người phải ăn chay cả đời, phải đi tu, phải vào trại tâm thần vì đã chứng kiến, hoặc phải tự mình ăn xác chết để cầm hơi.”

Trẻ em miền Nam trong một trại tị nạn ở Vũng Tàu vào cuối tháng 4/1975

Gặp hải tặc Thái Lan, “đàn ông thì nó bẻ răng lấy vàng. Còn phụ nữ nó hiếp.” “Có bé bị hiếp mới mười hai tuổi.” “Có cô bị hiếp nhiều lần trong khi bị bắt phải chứng kiến anh trai mình bị chặt làm ba khúc.”

“Có cô bị xâm hại nhiều đến mức vết thương hôi thối lựng một góc lán. Lại còn dính thai đôi. Mà thai lại bị dị tật. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc cầm mã tấu bắt chồng và bốn đứa con đứng xem. Người chồng là một nông dân chất phác. Anh nói mấy cái bào thai không có tội. Thôi để chúng ở lại với vợ chồng tôi.”

Ở trại tị nạn Songkhla, “ai cũng nhớ ngày xác của 11 cô gái trẻ bị trói cổ vào nhau, không mảnh vải che thân, trôi dạt vào bãi biển Tha Sala. Đến giờ ở đó vẫn còn cái am, thờ một cái thuyền đã mục. Một bà già mộ đạo đã hương khói cho nó suốt 17 năm.”

Trên khắp các trại tị nạn, “hàng trăm nấm mồ tập thể đã được dân địa phương chôn cất.” “Riêng đảo Koh Kra có 3.000 xác người nằm lại.”

Rồi “mỗi trại lại là một thế giới đau thương thu nhỏ.” “Thoát chết rồi nhưng khắp trại là những người rách rưới lang thang, miệng lẩm bẩm, thỉnh thoảng cười rú lên hay khóc lóc thảm thiết.” “Có những cô gái mỗi lần nhìn thấy biển là lăn đùng ra, mắt trợn ngược”. Có những đôi vợ chồng “không thể nhìn mặt nhau khi chăn gối,” “phải tắt đèn.” Nhiều cặp “chia tay nhau,” “rồi người vợ treo cổ vào hôm kỷ niệm ngày cưới vì không thể vượt qua được ký ức bị hãm hiếp.”

“Biển trở thành một tấm lưới, bủa vây cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai.”

Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển/ Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi/ Những năm trước bao người ngon miệng cá/ Thì sá gì thêm một xác cong queo” – (Du Tử Lê).

“Sau chấn thương bao giờ người ra cũng cần thời gian phục hồi. Nhưng điều đó không xảy ra với người Việt tị nạn. Chưa qua cái này thì cái kia đã đến. Khi vừa đặt chân đến quê hương mới, nhu cầu sống sót lập tức chiếm vị trí ưu tiên. Mai con mình có cơm ăn không?” Quần quật cho đến khi ngẩng đầu lên thì những “nỗi đau đã kịp kết tinh thành tính cách.”

“Hôm ấy tôi tới đám tang một thuyền nhân. Mọi người đau buồn khóc lóc. Rồi bỗng có một ông đứng lên. Nói hùng hồn quá trời. Ông chửi chính quyền, chửi cộng sản. Ông nói văng cả nước miếng. Người già gật gù nhưng đám trẻ thì có đứa bỏ về. Lúc đó tôi sốc, nhưng giờ nghĩ lại thấy thương đứt ruột.”

Càng đau càng không muốn tha thứ. Hận thù phải tiếp tục để “nỗi đau không bị vô nghĩa,” để ta không “phản bội lại chính mình.” “Mình đã mất mát quá nhiều, mình phải hận thù.” “Ngày ‘quốc hận’ là ngày mà nỗi đau trở thành danh tính.”

“Nhưng cứ hận thù thế này thì sống tiếp sao đây?”

Hòa giải với nỗi đau trở thành một mâu thuẫn tâm lý khiến “người ta kiệt sức.”

Một em bé miền Nam Việt Nam trong trại tị nạn Pendleton ở California vào năm 1975

Ta đã mất mát quá nhiều. Cái giá phải trả hẳn là chính đáng

Với bên “thắng cuộc,” mất mát là bằng chứng để khẳng định nó đã được đánh đổi cho một điều thiêng liêng. Đó là sự “thống nhất Bắc Nam,” là “Mỹ đã cút và ngụy đã nhào.”

Vậy nên với nhiều người, nhắc lại nỗi đau là để khẳng định tính chính danh của những gì mình từng làm, khẳng định rằng quá khứ của mình vẫn còn giá trị. “Hòa giải đồng nghĩa với việc chấp nhận mình sai, mất mát đó không còn cao cả nữa mà bỗng thành ra vô ích.”

Tuy nhiên, điều cao cả ấy ở mức độ cộng đồng, còn sự hy sinh thì lại ở tầng cá thể. Để dung hòa được khoảng cách đó không dễ dàng.

“Ở hải ngoại, người ta gắn kết bởi nỗi đau trong quá khứ. Ở trong nước, người ta gắn kết bởi vinh quang trong dĩ vãng.”

Nhưng “người chiến thắng cũng đau chứ, chỉ có điều đó là nỗi đau của những anh hùng.” “Nó phải được gói ghém trong màu vinh quang,” bởi chiến tranh không phải là những câu chuyện buồn. Nó là “sử thi và tráng ca.”

Có rất ít không gian cho những chấn thương hậu chiến, nơi kẻ chiến thắng được “quyền đau đớn,” được quyền “hoang mang,” được quyền “tự chất vấn,” được quyền “nhận ra mình sai đúng ở đâu,” và quan trọng nhất là được quyền “trợ giúp để chữa lành.”

“Mẹ hay kể chuyện đang ăn cơm thì bị đánh bom. Cô bạn của mẹ mới vừa cầm bát ngồi đây. Bom nổ đùng một cái. Thân đã ở trên cây. Đầu vướng cành trên cao. Chân vương cành dưới thấp. Mẹ thường chửi bới cậu (em trai mẹ) một cách tàn nhẫn. Rằng mày không đi chiến đấu. Cả nhà này chỉ mình tao hy sinh. Chúng mày ở hậu phương ăn sung mặc sướng… Cái sai nhất của cậu là mày dám sướng. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ cười thành tiếng. Cả đời cho đến khi chết, nỗi đau của mẹ không có câu trả lời thỏa đáng.”

“Gia đình tôi chia đôi theo cuộc chiến quốc-cộng. Sau 75, bác vượt biên đi nước ngoài. Bố ở lại. Khi bác về thăm, bố bảo: ‘Việt Kiều nhưng cũng mất nước’. Bố lúc nào cũng uẩn ức, giận dỗi, mâu thuẫn rất khó hiểu. Rồi tôi nhận ra là bố luôn muốn đi. Hóa ra bố ghen tị. Bố không có sự tự hào của người ở lại. Bố bị mắc kẹt trong việc cố gắng lý giải nỗi đau của mình.”

“Cô (chỉ tác giả) nói ba cô lúc sắp chết mới sám hối khi nhìn thấy ma quỷ đúng không? Ba tôi lúc còn sống đã sám hối rồi. Đó là khi ông biết về tù cải tạo, về đánh tư sản, về thuyền nhân. Tuyền là những thứ mà ông cho rằng mình phần nào có lỗi.”

“Bố tôi 5 lần là dũng sĩ diệt Mỹ. Khi bố mất, tôi tìm thấy những huy chương ấy gói kín, để sâu trong tủ. Bố chỉ ghét Mỹ thôi. Bố không bao giờ nhắc tới những huy chương này, vì bố phải giết cả đồng bào mình. Nên ông giấu đi. Các cựu chiến binh đi hội nghị đeo đầy ngực, nhưng bố không bao giờ. Bố bảo người ta cũng yêu nước giống mình, chỉ có điều lý tưởng của người ta giống Mỹ.”

“Bố tôi rất ghét bọn trẻ trâu khi chúng nó tự hào ầm ĩ trên mạng. Kể lại chuyện thắng Mỹ thắng Pháp, Đại Việt thần thánh nọ kia với sự kiêu hãnh như thể chính chúng nó lập công. Trong khi chúng không hề biết mùi máu là gì.

Tự hào về chiến tranh bây giờ toàn bọn trẻ con quen chơi game bắn nhau. Người thực sự cầm súng họ không kiêu hãnh kiểu như thế. Bố bảo lũ oắt con có giỏi thì tự mình thành công đi. Rồi tha hồ mà tự hào. Đừng có yêu nước bằng máu của bọn tao.

Bọn trẻ ranh ấy không hiểu rằng, những ai đã giết người, dù chính nghĩa đến đâu, thì rất khó nhắc lại mà trong lòng không tý gợn. Viết ra được những câu kiểu như ‘Dưới kia chúng nó đang cười. Cười đi nhé, chúng bay ơi, rồi chết!‘ thì chỉ có mấy ông nhà thơ. Ra chiến trường đi, không bao giờ còn viết được thế.”

“Những người thực sự đi qua chiến tranh mà chưa hóa đá với nỗi đau, họ viết như Bảo Ninh cơ. Họ cũng sống như Bảo Ninh luôn.

Cái hôm sống sót trở về nhà, Bảo Ninh đã đi lên cầu thang rất khẽ để không đánh động đến hàng xóm. Cả nhà cũng ôm nhau rất khẽ. Bởi vì ngay phòng bên cạnh là một gia đình có con trai không trở về.”

Thế nên “bố không muốn chết cùng với những tấm huy chương. Bố không muốn chết rồi vẫn thành đồ trang sức. Cả đời bố là chiến binh, nhưng ảnh đám ma của bố không mặc áo lính. Trên bàn thờ, bố mặc áo trắng.”

Cụ Nguyễn Thị Phải, người được phong Mẹ Việt Nam anh hùng ở Sóc Trăng, có 4 người con trai đối đầu nhau ở hai chiến tuyến

“Có lần tôi xem triển lãm thấy bức ảnh mẹ Thứ ngồi bên cái mẹt có bày bát hương và 9 cái bát không. Mẹ có 9 người con là liệt sĩ.

Tôi không hiểu nếu gặp nhau, mẹ Thứ sẽ nói gì với mẹ Phải?”

Mẹ Nguyễn Thị Phải có ba người con chết trận. Trong một cuộc tấn công, anh Năm và anh Bảy ném lựu đạn vào đồn địch nơi anh Tư cố thủ. Khói súng tan, hai em trai soi đèn đi tìm xác anh trai.

Anh Năm và anh Bảy được phong liệt sĩ. Anh Tư chết không danh hiệu. Mẹ Phải được phong “Mẹ Việt Nam anh hùng.”

“Bao năm qua, mẹ đã sống như thế nào với nỗi đau ấy? Mẹ có cảm thấy mình là anh hùng không?”

Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu/ Một trăm năm đô hộ giặc Tâу/ Hai mươi năm nội chiến từng ngàу.

Gia tài của mẹ, một rừng xương khô/ Gia tài của mẹ, một núi đầу mồ” – (Trịnh Công Sơn).

Play video, “Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng”, Thời lượng 6,45

06:45

Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng

Bài 1: Cuộc chiến ký ức

Bài 2: Hòa giải đã lỡ, hòa hợp đang chờ

Bài 3: Cây tre Việt Nam – di sản chọn phe

Bài 4: Đồng phục tư tưởng – di sản ý thức hệ

Bài 5: ‘Sống mãi với hệ điều hành 1975’ – di sản phân cực chính trị

Bài 6: Khúc ruột ngàn dặm – di sản hải ngoại

Bài 7: Con Lạc cháu Hồng – di sản lịch sử

Bài 8: Gánh gánh gồng gồng – di sản văn hóa

Chấn thương xuyên thế hệ

Sau 1975, Việt Nam không thực sự có một chương trình hòa giải. Thậm chí hận thù còn được “tạo mới” bởi các “chính sách sai lầm.” Điều này khiến người Việt thiếu một không gian chung “để cùng nhìn lại, cùng nhận lỗi và cùng tha thứ. Những vết thương vẫn rỉ máu trong im lặng. Nó truyền đời từ này sang đời khác, từ cá nhân sang cộng đồng.”

“Có lần tôi thấy một em bé 8 tuổi trên ti vi khóc vì ‘con thương Bác Hồ quá’.

Tại sao một đứa nhóc chưa từng gặp Bác, thậm chí ông bà nó cũng không đủ già để có thể gặp Bác, mà nó vẫn có thể khóc một cách rất chân thành vì nhớ Bác?”

Có lẽ chúng ta ai cũng như em bé ấy, “kế thừa cả một đại dương của kiêu hãnh và sợ hãi, của yêu mến và căm thù.” Chúng ta lớn lên với một gánh non sông nặng đầy quá khứ.

Cho nên “chiến tranh không chỉ diễn ra hai lần, trên chiến trường và trong ký ức như nhà văn Nguyễn Thanh Việt nói. Nó sẽ còn tiếp diễn mãi.” Mỗi người, mỗi gia đình, mỗi thầy cô, mỗi nhà lãnh đạo, mỗi thế hệ lại “thêm vào những ý nghĩa mới.”

Như “một bức tường liên tục được vẽ bồi lên những hình graffiti mới.”

Dù “bức tường quá khứ” không thể thay đổi, nhưng “tương lai chính là những hình vẽ mới” ấy. Hòa giải là cho phép bức tường được (1) đa nguyên sự thật với những mảng màu đối lập nhau; (2) dựa trên một nền tảng nhân văn, không sỉ nhục nhau trên tường, không trừng phạt người vẽ; (3) không đổ lỗi cho cả một cộng đồng.

Bức tường quá khứ sẽ tồn tại mãi. Nhưng ý nghĩa của nó có thể thay đổi để trợ giúp cho một tương lai cộng sinh, hòa hợp.

Hình vẽ trên tường của bạn có hiệu ứng gì? Nó khiến người ta “dừng lại để ăn năn và chiêm nghiệm”? Hay nó khiến họ sùng kính đến mức muốn “đóng lên đó một cái bàn thờ,” hoặc giận dữ muốn “…đái vào chân tường cho bõ ghét”?

Di truyền biểu sinh xuyên thế hệ

Chúng ta không chỉ kế thừa tổn thương qua ký ức mà còn qua con đường sinh học (transgenerational epigenetics).

Sau sang chấn, các gien (DNA) thay đổi cách hoạt động. Sự biến đổi đó có thể di truyền lại và biểu hiện ra bệnh tật, hành vi, cảm xúc cho vài thế hệ về sau. Các nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này được thực hiện với thế hệ thứ 2 và thứ 3 của nạn nhân diệt chủng và nạn đói gây ra bởi Đức Quốc xã.

Khi còn trong bụng, bào thai nhận tín hiệu từ cơ thể mẹ để “hiểu” về thế giới bên ngoài. Nếu đó là trải nghiệm đau buồn, tín hiệu ấy sẽ nói với bào thai rằng: “Thế giới ngoài kia đầy cạm bẫy. Con hãy chuẩn bị tinh thần”.

Bào thai tiếp nhận thông tin, các gien lập tức thay đổi cách làm việc. Một số gien ngừng hoạt động. Một số gien kích hoạt hết cỡ. Cơ chế sinh học chuẩn bị sẵn sàng cho một thế giới bất ổn. Như một căn nhà mà các ô cửa được đóng mở một cách chiến lược để tồn tại như một pháo đài. Bào thai phát triển theo hướng lấy “phản vệ” làm phương châm sống.

Khi sinh ra, thế giới có thể không còn tệ như trí nhớ sinh học lưu giữ. Tuy nhiên, cơ thể đã hoàn thiện, pháo đài đã khởi động.

Bé lớn lên có thể dễ bị rối loạn tâm lý, căng thẳng, tăng cân, béo phì, tim mạch, tiểu đường… Kể cả khi chất lượng cuộc sống tốt lên thì cuộc đời của một người như thế vẫn tiếp tục gửi tín hiệu sinh học tới cho bào thai thế hệ tiếp theo. Hiệu ứng này chỉ giảm dần qua vài thế hệ chứ không mất hẳn.

Và tất nhiên, tín hiệu sinh học sẽ tệ hơn nếu sinh ra cơ thể đã phản xạ như một pháo đài, mà cuộc sống xung quanh vẫn đầy hận thù. Sinh học cộng hưởng với môi trường sẽ tạo thành vô thức cộng đồng, tác động đến lối sống, tư duy và căn tính dân tộc.

Ở Việt Nam, các thế hệ sau 75 “không trực tiếp bắn giết, không bị tù cải tạo, bị đói, bị mất mát,” bị “phản bội,” bị “bội tín,” bị “trả thù.” Họ có lẽ còn không hề biết điều đó từng xảy ra với gia đình mình.

Nhưng họ vẫn có thể kế thừa “cảm giác sợ hãi, nghi kị, lo âu, u uất, rối loạn cảm xúc, phản xạ cực đoan.” Họ có thể dễ mắc bệnh mà không ý thức được tại sao, hoặc sẽ gán cho nó những lý do nhất thời.

Rất có thể đây là một phần “trầm tích sinh học” của bao thương đau mà người Việt đã trải qua, khiến cái “cơ thể còi cọc của chúng ta luôn xù lông lên với cả thế giới.”

Nếu ta không thực sự hàn gắn dân tộc, chặn lại cỗ xe di truyền ấy, hậu quả sẽ là một vòng xoáy với nhiều thế hệ mang trong mình “khuyết tật,” là “hàng núi tiền đổ vào chữa bệnh,” là sự “suy giảm năng suất sáng tạo,” là sự tụt hậu sinh học của cả dân tộc khi phải chạy đua với một “cơ thể bạo bệnh.”

Nạn đói Hà Lan (Dutch famine) di truyền lại cơ chế sinh học cho vài đời kế tiếp, khiến con cháu họ dễ mắc bệnh béo phì, tim mạch, tiểu đường, và thần kinh

Cùng gọi tên nỗi đau

Ở nhiều xã hội hậu chiến, hòa giải được hiểu là “khép lại quá khứ,” “đừng nói nữa.”

Nhưng nếu “khép lại” mà không “ghi nhận” thì chỉ là đóng băng xung đột. Nỗi đau không được gọi tên sẽ biến thành nghi ngờ, oán giận. Nỗi đau cần được thừa nhận trước khi có thể chuyển hóa. Đó là nguyên tắc cốt lõi. “Ta không thể chữa lành những gì ta không thể gọi tên” (James Baldwin).

Tuy nhiên, chữa lành nỗi đau cá nhân khác với những sang chấn cộng đồng. Rất khó có thể “dùng trị liệu, gặp bác sĩ tâm lý, đi thiền, đi tu để tự chữa lành trong không gian riêng tư.”

“Một người lính có thể được trị liệu tâm lý, sống hạnh phúc trong gia đình. Nhưng nếu xã hội xung quanh vẫn phủ nhận nỗi đau của họ thì cuộc chiến ấy không bao giờ kết thúc.”

Chấn thương cộng đồng thì phải được chữa lành trong cộng đồng. Người ta phải cùng nhau làm điều đó. Họ phải được chứng kiến. Họ phải không đơn độc. Chỉ như thế thì ký ức mới được ‘rã băng’.”

Hòa giải không cần công lý?

Một số nhân vật nhắc tới chương trình “Như chưa từng có cuộc chia ly” như một ví dụ hiếm hoi từ truyền thông chính thống.

“Cứ nghe thấy giọng Thu Uyên là tôi khóc.” “Thật kỳ diệu khi nỗi đau có thể hàn gắn đến vậy. Bởi nó không phán xét. Người ta đau, nhưng không đổ lỗi cho nhau.”

Ở Như chưa từng có cuộc chia ly, những người “bị chính sử gạt ra ngoài được phục hồi phẩm giá trong tư cách người cha, người mẹ, người con chứ không còn bị rút gọn thành kẻ địch.” Ở chiều ngược lại, “những anh hùng được phép trở thành người thường, với tất cả sự yếu đuối, tổn thương và sai lầm của họ.”

“Nó dùng nỗi đau chung để tái tạo ký ức (reconstructed memory), khiến đau thương sau khi được ghi nhận có thể mang một ý nghĩa khác.”

“Nó cũng bám vào một kết cấu vững chắc của văn hóa Việt Nam. Đó là gia đình. Người Việt vốn nặng gánh máu mủ, chỉ cần một tý tình nghĩa chân thành là có thể bỏ qua cho nhau.”

Tuy nhiên, Như chưa từng có cuộc chia ly cũng nhận được nhiều góp ý.

“Tôi muốn thấy những câu chuyện đa dạng hơn, liên quan nhiều hơn đến phía bên kia, đến tù cải tạo, đến thuyền nhân. Ví dụ, trên mạng có rất nhiều diễn đàn nhỏ lẻ tìm người thân thất lạc sau khi vượt biển và ở trại tị nạn.”

“Cái lỡ cỡ của Như chưa từng có cuộc chia ly là nó chuyển hóa chấn thương tập thể thành những chuyện riêng tư, chữa lành theo logic tân tự do (neoliberalism), bắt cá nhân phải tự chịu trách nhiệm thay vì hệ thống phải sửa sai.” “Nó từ chối đối thoại chính trị, từ chối chạm vào gốc rễ của lịch sử. Và cũng tức là từ chối mở đường cho công lý.”

(Nhân vật minh họa bằng nghiên cứu Collective wound, private healing của Nguyen-Thu Giang).

“Người ta có thể kết nối bởi nỗi đau và không đổ lỗi cho nhau. Nhưng cái hệ thống đã gây ra nỗi đau thì không thể bị tảng lờ đi.”

“Có điều trong bối cảnh bây giờ, những cuộc đối thoại như thế cũng đã là tốt lắm rồi.”

Trong bộ phim tài liệu Hành trình thống nhất của VTV, một gia đình có nhiều anh em ở cả hai chiến tuyến được chia sẻ câu chuyện riêng của họ; phía sau lưng họ là di ảnh của những người thân, không đứng cùng chiến hào nhưng ngồi chung một bàn thờ

Vai trò của lãnh đạo trong ‘công lý ghi nhận’

Trong quá trình hàn gắn, ghi nhận sai lầm là một bước công lý căn bản, có sức mạnh khôi phục niềm tin lớn hơn bất kỳ hành động bồi thường vật chất nào.

“Ở Việt Nam, sự ghi nhận ấy phải đến từ người lãnh đạo.”

Thứ nhất là yếu tố “tập quyền chính trị và tôn sùng cá nhân” khiến cho “tiếng nói của lãnh đạo trở thành cái thẻ bài,” thành “tín hiệu an toàn” để người dân “được bảo vệ khi bước vào không gian và quỹ đạo của sự thật.”

Thứ hai là tại Việt Nam, đối tượng cần hòa giải là giữa chính quyền với nạn nhân của những “chính sách sai lầm sau 75.” Tiếng nói của lãnh đạo đặc biệt quan trọng vì nó đại diện cho chính quyền.

“Sau cải cách ruộng đất, tất cả nồi, niêu, xoong, chảo, lúa, gạo, quần áo đều bị cướp sạch. Đến cái cánh cửa cũng bị tháo.” “Nhà có 15 người thì 11 người chết. Hai đứa trẻ con bị làng đuổi ra gò. Ăn trộm sắn vì đói. Nuốt sống ngộ độc. Rồi cũng chết.”

“Nhưng mà họ cũng chỉ kể lại thôi. Không có sự căm thù ngùn ngụt trong giọng nói. Không đầy uất hận như kể về những gì diễn ra ở miền Nam sau ‘giải phóng’.”

“Tại sao ư? Tại Bác Hồ xin lỗi.”

“Hàng nghìn người chết thảm trong những tòa án nông dân man rợ. Người bị bắn đầu tiên là một phụ nữ đã nuôi giấu lãnh đạo Việt Minh như con cái trong nhà, đã hiến hàng trăm lượng vàng cho cách mạng (địa chủ Cát Hanh Long). Thương đau ngút ngàn. Oan thấu trời xanh. Thế mà sau khi Cụ Hồ xin lỗi, bao nhiêu người lại tiếp tục gửi con đi bộ đội.”

“Sau này có ông Kiệt. Ông nói một câu trong dịp 30/4/2005 là sự kiện này triệu người vui, triệu người buồn. Tổ chức rình rang ít thôi. Vậy mà người ta nhớ mãi, thương yêu ông mãi. Giá có thêm nhiều ông Kiệt.”

“Giờ có ông Tô Lâm cũng mạnh. Ông chỉ nói một câu Sài Gòn từng là ‘hòn ngọc viễn đông’ là người miền Nam trút được nhiêu bao uất ức.” “Phải ghi nhận miền Nam thực lòng như thế thì dân Nam mới khôi phục lại lòng tin.”

“Cái sức mạnh của người lãnh đạo trong một cơ chế tập quyền nó khủng khiếp lắm. Chưa cần đến chính sách. Chỉ cần một câu của lãnh đạo là đủ tạo bước ngoặt, tiết kiệm hàng thập kỷ nỗ lực của dân đen.” “Như một đàn số 0, lãnh đạo tốt là con số 1 đứng trước dãy số 0 đó.”

“Lãnh đạo dở thì chắc là… dấu phẩy.”

Bà Nguyễn Thị Năm (tức Cát Hanh Long), người có công với cách mạng nhưng đã bị đem ra đấu tố và bị xử bắn đầu tiên trong Cải cách Ruộng đất; Bên phải là hình ông Hồ Chí Minh khóc tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 1 (29/12/1956-25/1/1957) khi nói về sai lầm trong Cải cách Ruộng đất

Mỗi nỗi đau là một nhịp cầu

Một điều thú vị là trong nghiên cứu này, khá nhiều bạn trẻ cảm nhận được nỗi đau cộng đồng thông qua những tổn thương cá nhân.

“Hồi cấp 2, tôi từng bị bắt nạt. Cô giáo bảo nếu nhận lỗi thì cô sẽ tha. Nhưng cô không giữ lời. Tôi cứ thế lớn trong sự bạo hành của bạn học và người lớn.

Khi vào Nam sinh sống và nghe câu chuyện của người nơi đây, tôi thấy họ cũng có những tổn thương y như mình. Tôi và những cựu binh đều là nạn nhân của bạo lực tinh thần. Nếu như không có những tổn thương trong quá khứ, chưa chắc tôi đã nhìn ra nỗi đau của họ. Chưa chắc tôi đã có thể nối những đau thương của mình với trải nghiệm của cả dân tộc.”

“Hồi năm nhất tôi đi học ở Mỹ. Trong trường có treo cờ vàng. Tôi viết thư đòi hạ cờ.

Khi ấy, tôi có ý tốt. Tôi muốn họ thôi hận thù. Tôi muốn họ phải đồng ý với tôi. Rằng, thôi đi, đau nó vừa thôi. 18 tuổi tôi chỉ nghĩ được đến thế.

Sau này, mắt tôi cứ kém dần đi. Mơ ước làm tiến sĩ của tôi tan tành. Tôi sống nhiều năm với nỗi đau của một người tật nguyền và trầm cảm.

Lúc đấy bỗng nhiên tôi tìm thấy kinh Địa Tạng. Đọc xong tôi cứ khóc mãi. Tôi bắt đầu hiểu rằng ai cũng có nỗi đau riêng. Mình không phải họ, sao bắt họ hết đau?

Thế nên tôi bắt đầu biết thương. Không yêu, mà thương. Yêu hơi ích kỷ. Nhưng trong cái thương thì có cái đau. Khi mình thương, mình chấp nhận nỗi đau là một phần để vỗ về, an ủi.”

Play video, “Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam”, Thời lượng 18,04

18:04

Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam

Mỗi người giữ một chút tử tế

Dù chính quyền được xác định là chịu trách nhiệm chủ yếu trong tiến trình hòa giải, nhiều nhân vật vẫn cho rằng “hàn gắn dân tộc cũng là nghĩa vụ của một người tử tế.”

“Trước khi chết, ba của cô (tác giả) đã sám hối, vì ông nhận ra mình giết nhiều người quá.

Nhưng làm sao để khoảnh khắc ấy xảy ra sớm hơn mà không cần phải viện đến sức mạnh của cái chết?”

“Tôi chọn trở thành người tốt khi có thể. Tôi chấp nhận là một kẻ xám xịt, trắng không ra trắng, đen không ra đen. Nhưng tôi ý thức được rằng mình không muốn bị đen tuyền, bị tha hóa. Khi nào tốt mà không hại đến bản thân thì phải tốt.”

“Tôi dặn mình phải giữ chút liêm sỉ nghề nghiệp. Tôi không bao giờ dùng từ ‘ngụy’, ‘giải phóng’, ‘lưu vong’, ‘phản động’. Nếu lỡ mồm thì xin lỗi ngay. Hàng chục năm làm biên tập, không bài báo nào qua tay tôi mà có dính những từ đó.”

“Bố tôi tự hòa giải bằng sử ký và văn học chấn thương. Bố đọc Chuyện ba người, Nỗi buồn chiến tranh, Bên thắng cuộc, Gia đình, Tôi là con gái của cha tôi, Hai bên chiến tuyến, Tổ quốc ăn năn, Đèn cù, Đêm giữa ban ngày, Giải khăn sô cho Huế, Mùa hè đỏ lửa… Bố chia sẻ cho bạn bè. Bố kể cho tôi nghe.”

“Tôi xem ti vi cùng con.” “Thỉnh thoảng tôi kể cho con một câu chuyện ngược lại để thách thức đầu óc phản biện của con.”

“Hồi trẻ tôi nghĩ mình phải đi khỏi Việt Nam để không bị chết chìm trong sự ngu si của thiên hạ. Nhưng giờ tôi kệ. Nếu chết ngộp thì chết ở đây. Kỳ lạ thế. Máu hỏng thịt hỏng, nhưng là máu thịt mình. Mình có phần mình, nên xã hội này mới thế.

Hiểu được vậy thì sẽ không thù hận nữa. Hiểu được vậy thì sẽ thương cả những kẻ ngu si. Hiểu được vậy thì mới thấy trách nhiệm của mình.

Hiểu được vậy thì sẽ không còn hỏi ‘Chuông nguyện hồn ai?’

Bởi chuông nguyện chính hồn nhà ngươi đấy. Biết không?

Mời quý vị đón đọc phần tiếp theo

Bài 10: Có thực mới vực được đạo – di sản kinh tế

  • Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai là chuyên gia đào tạo trong lĩnh vực ứng dụng Khoa học Não bộ vào Giao tiếp-Quản trị đa văn hóa và Phát triển năng lực cá nhân. Đây là một phần trong loạt bài viết về nghiên cứu hòa hợp dân tộc của tác giả.

Thủ tục hành chính của chúng ta thật là vi diệu.

Thang Hoang Nghia 

Bé gái tên Hồng 14 tuổi ở P. Nghĩa Chánh, TP Quảng Ngãi khi sinh ra giấy chứng sinh bị ghi nhầm là nam, khai sinh theo đó cũng tiếp tục là nam dù bản sao mười mấy năm trước phường đã ghi là nữ. Mãi đến ngày đi làm CCCD mới phát hiện nhầm lẫn tai hại này!

Đến phường, phường chỉ vào BV Đa Khoa QN sửa lại, BV bảo hơn 10 năm hồ sơ hủy rồi chẳng còn gì để làm căn cứ nhất quyết k làm! Mẹ con dắt díu nhau về phường, phường kêu lên Sở Tư pháp, Sở chỉ lại xuống phòng tư pháp TP QN!

Lòng vòng luẩn quẩn như thế rốt cuộc chẳng có nơi nào trả lại giới tính cho con. Thiếu nữ khai sinh nam nên con k thể nào làm CCCD được, mà k có CCCD thì vô vàn các quyền công dân khác chẳng có theo. Năm sau thi vào lớp 10 rồi lỡ có qua được tốt nghiêp PTTH hay làm đủ thứ giấy tờ nữa con sẽ làm sao? Con có thế nào thì họ cũng mặc, đẩy sang cơ quan khác hay viện đủ lý do là xong, kệ cho đứa bé chưa biết bao giờ được trả lại giới tính thật!

Bà Lê Hải Yến, phó trưởng phòng hành chính tư pháp và hỗ trợ pháp lý (Sở Tư pháp Quảng Ngãi), cho rằng “Nói thật, trường hợp của cháu Hồng, có gửi lên Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực cũng không giải quyết được. Vụ việc quá hy hữu, chưa từng có tiền lệ. Nhầm lẫn giới tính như cháu Hồng lần đầu tiên tôi tiếp nhận. Vụ này còn khó hơn nhầm lẫn họ tên, năm sinh, quê quán”.

Bí lối ra, thiếu tá Phương (phó công an phường) hỏi đồng nghiệp của mình ở nhiều nơi và tìm được phương án là vào Bệnh viện Nhi đồng 2 để xác định giới tính cho cháu Hồng. Ngày 31/7/2024, hai mẹ con bà Phương đùm túm vào TP.HCM. Sau khi làm việc với mẹ con bà Phượng, Bệnh viện Nhi đồng 2 từ chối thành lập hội đồng xác định giới tính! Bó tay!

Cái việc cỏn con mà cơ quan hành chính cả tỉnh xuống phường không xử lý được.

Fb Nguyễn Kim Chi


 

THẦY GIÁO GỌI TÔI LÀ ‘CON NGỤY’- BBC

BBC News Tiếng Việt

Tiếp tục với loạt bài Hòa giải – Hòa hợp của Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai.

Trích:

Không có “tắm máu,” nhưng “người đàn ông duy nhất trong nhà phải đi cải tạo.” “Một lần má gom hết tiền ra Bắc thăm ba. Về Sài Gòn, má khóc rụng cả tóc. Ba bị cùm một chân. Nhưng ba nói nhiều người không muốn cai tù đổi sang chân kia. Họ hy vọng cái chân bị cùm sẽ dần dần teo lại, cùm sẽ đỡ đau hơn.”

“Cuộc sống bế tắc.” “Gia sản bị nhà nước lấy sạch. Đi học thì không được đi học, đi làm không được đi làm. Không biết sống bằng cái gì. Trí thức mà phải quét rác kiếm ăn.”

“Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh anh trai mình đứng giữa sân, tay nắm chặt chai thuốc chuột, bên cạnh đống sách định đốt. Anh khóc gào tuyệt vọng vì không được vào đại học, dù điểm thi rất cao: ‘Má ơi, sống còn có ý nghĩa gì nếu họ không cho con một cơ hội?’ Có một lần ông hiệu phó gọi tôi vào mắng mỏ. Ông gọi tôi là ‘con ngụy’, rồi dùng điếu thuốc đang cháy dí vô bắp chân. Giờ vẫn còn sẹo. Rồi ông nhốt tôi vào một cái tủ tối và bỏ đi.”

#BBCTiengViet

#ChientranhVietNam

#Hoagiai_Hoahop


 

3 công an phường ở Hà Nội chở thanh niên ‘hút cỏ’ đi rút tiền ‘lót tay’

Ba’o Nguoi-Viet

June 5, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ba cán bộ Công An Phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, sắp sửa hầu tòa với cáo buộc chở một thanh niên tàng trữ cần sa đến ngân hàng để nh này rút tiền “lót tay” để được tha tội.

Theo báo Dân Việt hôm 5 Tháng Sáu, ba bị can Chu Hải Nam (32 tuổi), Ngô Việt Đức (36 tuổi) và Trần Văn Công (36 tuổi) là cán bộ Tổ Cảnh Sát Hình Sự, Công An Phường Điện Biên.

Công An Phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, lập chốt kiểm tra nồng độ cồn trên đường. (Hình: Doanh Nghiệp và Tiếp Thị)

Cáo trạng vụ án cho hay, hồi giữa Tháng Mười hai năm ngoái, trong lúc đi tuần tra tại công viên Lenin, bị can Nam phát giác một thanh niên được nêu tên tắt là anh Minh (26 tuổi) có hành vi tàng trữ chất ma túy, nên gọi điện báo cho Đức.

Vừa đến hiện trường, bị can Đức hỏi Minh: “Em vừa hút gì đấy?” và được trả lời: “Em vừa ‘hút cỏ’ [cần sa]”.

Bị can Đức kiểm tra hành chính và phát giác trên người Minh có hộp đựng 0.68 gram cần sa.

Hai công an viên đưa Minh về đồn nhưng anh này xin “bỏ qua,” đề nghị hai công an viên chở đến ngân hàng rút 60 triệu đồng ($2,301) để “cảm ơn.”

Bị can Nam gọi điện cho bị can Công đến chở anh Minh đi rút tiền.

Bị can Công chở anh Minh trên xe gắn máy còn Nam chạy xe chở Đức đi theo “áp giải.”

Tại một phòng giao dịch ngân hàng ở phố Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội, bị can Công đưa anh Minh vào rút tiền tại trụ ATM, còn Nam và Đức đứng chờ.

Thời điểm đó, anh Minh chỉ rút được 50 triệu đồng ($1,917) thì hết hạn mức. Bị can Công bèn chở Minh ra một ngân hàng khác để rút thêm tiền tại quầy.

Khi vào bên trong phòng giao dịch, anh Minh giả bộ nói mình đi vệ sinh, gọi điện tố giác sự việc cho Công An Quận Đống Đa.

Tang vật trong một vụ bắt nghi can tàng trữ cần sa. (Hình minh họa: Thanh Niên)

Trong lúc hai bị can Nam và Công định đưa anh Minh ra ngoài đường thì Công An Quận Đống Đa xuất hiện, đưa tất cả về đồn.

Hiện chưa rõ thời điểm phiên tòa xử ba công an viên diễn ra.

Bản tin của báo Dân Việt dẫn bình luận của ông Đặng Văn Cường, tiến sĩ luật: “Cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng các bị can là những người có chức vụ quyền hạn, đã lợi dụng tình thế bị hại vi phạm pháp luật để gây áp lực, ép buộc người này phải đưa tiền. Các bị can bị xử lý về tội ‘lạm dụng chức vụ quyền hạn, chiếm đoạt tài sản.’”

Theo ông Cường, với hành vi “xâm phạm đến tính đúng đắn của hoạt động công vụ” và “làm giảm sút niềm tin của người dân đối với chính quyền,” ba công an viên đối mặt với bản án từ một đến sáu năm tù. (N.H.K)


 

 “Đi Ăn Ở Hà Nội” – Đỗ Duy Ngọc 

Đỗ Duy Ngọc 

 Hà Nội có nhiều món ngon; chuyện ấy ít người cãi. Nhưng món ăn ngon Hà Nội tập trung ở Phố cổ; mà nhà ở Phố cồ thì bé tẻo teo, thế nên hàng quán bày bán đầy vỉa hè, muốn ăn thì ngồi ngay đường đi, ghế thấp lè tè, toàn ghế nhựa. Món ăn cũng bày tràn ra đường mặc cho bụi đường và vi trùng ồ ạt.  Hà Nội nổi tiếng là thành phố ô nhiễm bậc nhất cho nên thức ăn cũng thế thôi.

Ra Hà Nội tìm món ăn ngon của một thời trong văn của Thạch Lam, của Vũ Bằng và cả ông Nguyễn Tuân, những người được cho là sành ăn, thế nhưng khi thấy mọi người chen chúc ở vỉa hè và món ăn bày tràn cả lề đường thì ngại ngùng. Cũng có một số quán bán trong nhà, nhưng chật chội và bẩn cộng với muỗng đũa nhầy nhụa cả mỡ. Căn nhà ám khói và tràn giấy lau bay như bướm, trắng cả sàn. Chủ tiệm và người phục vụ có lẽ đắt khách quá nên chẳng cần lịch sự với khách.  Họ trả lời cứ nhấm nha nhấm nhẳng. Chủ và tớ nhễ nhại mồ hôi cứ thế mà bưng bê thức ăn. Đặc biệt khi đi ăn ở các quán ăn Hà Nội, nhớ tuyệt đối đừng bao giờ đi vệ sinh, bởi đã vào đấy đi ra thì không thể ra ăn tiếp được vì nhà vệ sinh quá xá bẩn, bẩn tới phát khiếp.

Một lần tui vào Phở Thìn ở Phố Lò Đúc, ngồi một lát chẳng thấy ai hỏi mà quán thì nóng hầm hập, người chen chúc.  Bàn ăn của quán là một dãy dài, ngồi chung chạ nhau. Đợi một hồi thấy chả có ai hỏi dù đã ra dấu nhiều lần với người phục vụ, nhưng các cậu ấy cứ tảng lờ. Ông khách ngồi chung bàn thấy thế mới bảo: 

– “Ông phải ra ngoài kia gọi phở và trả tiền thì nó mới bưng vào.” 

À ra thế!  Gọi mấy bát phở, bảo chín, gầu.  Cậu phục vụ lắc đầu: 

– “Ở đây chỉ có một món tái lăn.  Một bát 60 ngàn.”  

Khi tô phở bưng ra, tui thử một muỗng nước lèo, đầy bột ngọt, thế là chỉ ăn được một vệt. Nhìn lui, một cặp vợ chồng trẻ và đứa con đang đứng chờ ngay sau lưng, tui đành đứng dậy.  Ở đây không bán nước uống.  Thôi thì để miệng nham nháp bột ngọt mà đi ra khỏi quán. 

Người ta bảo Phở Bát Đàn ngon, tui lại không thích quán đó, dù có ngon, bởi cái kiểu cầm tô xếp hàng và thái độ khinh khi khách của tên lùn múc phở là tui không chịu được. Lại nghe Phở Dư, Phở Sướng, Phở Hàng Da… ăn cũng được lắm (?)  Tui thuê xe đi ngang qua các quán này lại không dám vào vì quán nào cũng chen chúc, chỗ nào cũng chật chội. 

Không ăn phở thì ăn bánh cuốn vậy!  Nghe bảo ở Hàng Gà có bánh cuốn ngon, chợt nhớ cô bạn nhắn bảo ở phố Hàng Cót có quán bánh cuốn ăn được lắm.  Tui hí hửng đi lộn về, gọi một dĩa nhưng rất thất vọng. Chạy qua Thanh Vân ở Hàng Gà, quán sạch sẽ, có quầy thu tiền ở cửa. Được giới thiệu “dĩa combo” gồm bánh cuốn và hai miếng chả cắt xéo giá 60 ngàn. Tui gọi ngay một đĩa, rồi cũng đành bỏ vì ăn không ngon; có lẽ khẩu vị của tui khác chăng? Tui bị cái tật là cảm thấy không ngon là bỏ, không ăn. Thà nhịn đói chứ không chịu ăn thứ dở. 

Tui đành kêu cuốc xe trở về khách sạn. Đi ngang hàng quán bún, miến, cháo, gà, vịt, ngan, bún thang, bún ốc, chân gà, lòng lợn, cua, ốc, giò, nộm, chả cá…  đẩy phố, nhưng thấy quán chiếm chật vỉa hè đành nhịn mà đi. 

Một tối tui đi ăn bún chả gần khách sạn tui đang ở, đương nhiên là ngồi vỉa hè rồi.  Đang ăn chợt thấy trước mặt, chị giúp việc rửa tô bằng cách nhúng vào một xô nước lợn cợn bún và rau, rồi cầm một cái khăn đã ngã màu theo tháng năm lau quanh, sắp thành chồng. Nhìn thế, tui phát nhợn, không ăn tiếp được. 

Buổi sáng thức dậy sớm, một anh bạn người Hà Nội đem xe chở tui đi về làng Ước Lễ, nơi còn có cái cổng làng chụp hình. Anh bảo ghé Lý Thường Kiệt mua mấy gói xôi xéo ăn sang.  Theo anh, đây là nơi bán xôi ngon nhất Hà thành. Tới nơi, thấy xôi, hành phi, giò chả để ngay dưới đất trên lối đi của người đi bộ, không sạp, không bàn ghế là đã thấy oải. Có ngon cũng thành dở. 

Hà Nội vẫn có nhiều nhà hàng lịch sự và vệ sinh, nhưng người Hà Nội bảo rằng các món ăn ở đó không ngon, không đúng chất Hà Nội. Ăn ở các nơi đó là chưa thưởng thức được món ăn Hà Nội và chứng tỏ là không biết ăn. 

Có lẽ Hà Nội là nơi có nhiều quán lề đường nhất nước và cũng có lẽ đó là phong cách ẩm thực của người Hà Nội. Tui ra Hà Nội rất nhiều lần từ thập niên 90 đến nay, nhận thấy cung cách mua bán hàng ăn ở Hà Nội không đổi mà ngày càng xô bồ và nhếch nhác hơn. 

Đây là ý kiến và cách nhìn của một cá nhân, có thể chưa bao quát hết, nhưng cũng là nhận định của một người phương xa yêu Hà Nội viết vội về việc ăn ở Hà Nội. 

Đỗ Duy Ngọc 

Trần Văn Giang (ghi lại)

From: Tu-Phung


Sách và lửa! – Đoàn Xuân Thu

– Đoàn Xuân Thu

Nếu lửa là phát minh vĩ đại nhất giúp con người thoát khỏi thời mông muội, thì sách chính là phát minh vĩ đại giúp nhân loại bước vào kỷ nguyên của tri thức và văn minh.

  1. Ông Khai Trí

Trước khi Internet “qua mặt không bóp kèn” mọi thứ, trước khi Facebook “dạy đời” mỗi ngày, và trước cả khi những cuốn sách biến thành đồ trang trí bàn cà phê, ông Nguyễn Hùng Trương – tức ông Khai Trí – đã tiên phong đi trước thời hiện đại. Ông mở nhà sách để người ta “khai trí” bằng cách đọc: đọc ké, đọc kín, đọc chùa, đọc không trả tiền. Cái bất tiện hơn so với chui vô thư viện là ngồi đọc, thì ở đây… phải đứng đọc!

Ở Sài Gòn những năm 60, khi xã hội còn đang mải mê với những bộ phim “nghệ thuật” Hollywood, dân mình lại dịch theo kiểu Tàu là “Hồ Ly Vọng”. Nghe “Hồ Ly” là tôi lại tưởng đến Liêu trai chí dị của chú ba Bồ Tùng Linh chớ?!

Khờ câm từ đêm buồn tỉnh lẻ Mỹ Tho tui lên Sài Thành hoa lệ dùi mài kinh sử lại không lo, vì bận ngơ ngẩn trông vời áo tiểu thư. Tiểu thư đây là những em mặc jupe soirée (váy dạ hội), từ trong quán cà phê Givral bước ra, miệng parler français – nói tiếng Pháp – như ca sĩ Thanh Lan học trường Đầm Marie Curie.

(Viết tới đây tui lại nhớ giáo sư Nguyễn Anh Bổn dạy môn Pháp văn sinh ngữ hai lớp đệ nhứt trường Trung học Công lập Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, tỉnh Định Tường. Thầy chạy xe đạp đòn dông, tóc bạc nên đám học trò tụi tui gọi thầy là: “ông ngoại”. Một hôm, ông ngoại biểu tui chia động từ avoir. Chia xong, thầy nói: “Đoàn quân (chàng họ Đoàn, tức là tui): Parlez français same same Vietnamien!” He he!)

Trong khi đó, ông Khai Trí bán sách không dễ tiêu hóa đâu, rất khó gặm: triết học cổ điển, văn học nước ngoài, công trình khoa học… Đọc để khai trí, chứ đâu phải đọc giải trí!

Ông Khai Trí  

Ở Footscray, ngoại ô cách Melbourne CBD về hướng Tây – nơi tôi,30 năm trước, từ sông nước miền Tây trôi dạt đến – có tiệm tên Khai Trí ở đường Droop. Khai Trí này không bán sách mà bán băng Paris by Night của ông Tô Văn Lai, hoặc Asia của ông Trúc Hồ. Sau băng, đĩa lậu tràn lan, tiệm nghỉ luôn, không thèm “khai trí” nữa. Cho tụi bây ngu… ráng chịu!

Nhà sách Khai Trí ở thủ đô Sài Gòn yêu dấu xưa là một kho tàng tri thức mà thư viện quốc gia chưa chắc có. Ngay cả nhà biên khảo Sơn Nam muốn tìm tài liệu cũng phải chịu khó lội bộ mấy cây số đến đó mà chép.

Rồi đến năm 1975, CSBV vào, “giải phóng” – không bị ‘phỏng…’ vì đó là trận bão tuyết lạnh giá văn hoá của Lenin từ Siberia thổi tới. Sách của ông bị tịch thu đem đốt, ông Khai Trí bị nhốt vì “tội bán quá nhiều sách đồi trụy của bọn Mỹ Ngụy”.

Ra tù, nhà sách của ông thì họ quên trả. Nhà lầu mặt tiền đường Lê Lợi, trung tâm Quận Nhứt Sài Gòn, trả sao được? Ông Khai Trí sống lưu vong ở Mỹ. Sách ông thì chẳng ai còn nhớ đến nữa.

2.Nguyễn Hiến Lê.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 không chỉ có những tiếng hô vang “giải phóng miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng (tức Lưu Hữu Phước). Giải phóng bằng cách… đốt sách!

Những cuốn sách, dù là kỹ thuật, văn học của Nguyễn Du, của Lê Quý Đôn, hay các tác phẩm cổ điển phương Tây – tất cả đều trở thành “kẻ thù”, chỉ vì in ở Sài Gòn, mang “mầm mống phản động”.

Không cần lý lẽ, chỉ cần “tổ trưởng tổ dân phố” ra phán quyết là đốt sạch sành sanh.

Muốn đọc? Phải xin phép. Muốn viết? Phải được duyệt. Mà viết không được đăng thì chỉ có nước… đi học lại những đề cương về văn hoá cách mạng của Trường Chinh – tay đao phủ cải cách ruộng đất, từng bắt nông dân tố cha, tố mẹ, chỉ vì có vài mẫu đất trồng khoai nuôi heo ở miền Bắc năm 1956. Người ta vẫn nói: “Con người là những gì họ đọc.” Vậy sau bao nhiêu chiến dịch đốt sách, kiểm duyệt, cấm đoán, thì người dân trong chế độ Cộng sản còn đọc gì? Một dân tộc không còn thói quen đọc, không chỉ vì lười biếng, mà vì không còn sách để đọc – ấy mới là bi kịch.

Nhà biên khảo Nguyễn Hiến Lê chỉ cần liệt kê tên sách ông viết và dịch đã đủ làm một chồng sách cao hơn đầu. Nhưng sách ông cũng bị đốt sạch.

Nhà biên khảo Nguyễn Hiến Lê

Nếu sách là con tinh thần của ông, thì bọn vệ binh đỏ của trùm CS Lê Duẩn đã giết hàng trăm đứa con ông ngay trước mặt ông. Lòng đau như dao cắt, như muối xát kim châm, mà ông Nguyễn Hiến Lê chỉ dám nhẹ nhàng còm len (complain): “Người ta đốt sách như thời Tần Thủy Hoàng. Tôi buồn, nhưng không ngạc nhiên.”

Ông dùng chữ “người ta”? Người ta gì mà mọi rợ vậy chớ?! Hay là ông Nguyễn cũng sợ bị nhốt như ông Khai Trí?

Đối với tất cả các chế độ độc tài: sách là kẻ thù của họ. Không phải vì sách có thể bắn ra đạn, mà vì sách chứa đựng một thứ không ai cấm được: tư tưởng.

Lịch sử từng chứng kiến những vụ đốt sách “vĩ đại”: Tần Thủy Hoàng đốt sách để độc quyền tư tưởng. Stalin đốt sách để xóa “tư tưởng lệch lạc”. Hitler đốt sách Do Thái. Mao Trạch Đông đốt luôn cả văn hóa, cả lịch sử – để tái tạo Trung Hoa XHCN từ đầu. Pol Pot xé sách dạy chữ, quay về thời đồ đá.

Và ở Việt Nam, sau 1975, sách bị thiêu rụi trong những cuộc “giải phóng tư tưởng”. Cái mất không chỉ là sách – mà là cả một nền văn hoá, cả một dân tộc biết suy nghĩ.

o O o

Nhưng ngọn lửa đốt sách của lịch sử vẫn lởn vởn, sẵn sàng bùng lên mỗi khi quyền lực cảm thấy tri thức là mối đe dọa. Ngày nay, có ai còn đọc? Có ai còn viết mà không bị mạng xã hội “ném đá” hoặc “báo cáo vi phạm cộng đồng”?

Trong các chế độ độc tài, trong đó có độc tài Cộng sản, nếu muốn sống: cấm khai trí, cấm đọc, cấm phản biện. Hãy ngu đi! Animal Farm (Trại súc vật) của George Orwell thì phẻ re như con bò kéo xe, hay con ngựa thồ ngoại ô xa vắng, bị che hai bên mắt – chỉ được nhìn về một hướng như Trịnh Công Sơn. Hướng đó là: Thiên đường mù của Dương Thu Hương! Khè khè!

nguồn The New York Times

Nguon: Ba’o TRE

Người đàn ông ở Đồng Nai treo cổ tự tử sau bản án oan

Ba’o Dat Viet

June 2, 2025

 Một người đàn ông ở tỉnh Đồng Nai đã kết thúc cuộc đời mình trong uất ức, chỉ vài giờ trước khi bị cưỡng chế đi thi hành án tù hai năm. Cái chết của ông Trần Anh Tú, 49 tuổi, không chỉ là một bi kịch cá nhân mà còn là hồi chuông cảnh báo về sự lỏng lẻo, bất cập và thiếu công bằng trong hệ thống tư pháp dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam.

Theo báo VN Express hôm 1 Tháng Sáu, ông Trần Anh Tú ban đầu là nhân chứng trong một vụ án “cố ý gây thương tích” liên quan đến người em ruột là Trần Anh Tài. Tuy nhiên, qua một chuỗi điều tra đầy khuất tất, ông Tú bất ngờ trở thành bị cáo và bị kết án hai năm tù, dù ông không trực tiếp gây thương tích cho bất kỳ ai trong vụ việc.

Câu chuyện bắt đầu vào cuối Tháng Ba năm 2022, khi ông Tài – người em của ông Tú – bị ông Trần Thanh Hải và ba người khác đến tận nhà đòi nợ. Ông Hải mang theo bình xịt hơi cay và xịt vào mặt ông Tài, khiến ông này chạy sang nhà anh ruột kêu cứu.

Thấy em mình bị tấn công, ông Tú cầm dao lao ra định ngăn cản. Trong lúc hỗn loạn, ông Tài chém vào mặt ông Hải, gây thương tích. Con riêng của vợ ông Tài cũng xông vào và gây thêm thương tích cho ông Hải. Cuối cùng, ông Tú cùng người trong nhà trói tay ông Hải lại và báo công an. Ông Tú sau đó ra đầu thú, được tại ngoại điều tra, và tiếp tục hợp tác với tư cách nhân chứng tại phiên sơ thẩm vào Tháng Chín năm 2023.

Tòa án huyện Nhơn Trạch tuyên ông Tài sáu năm tù. Riêng ông Tú và con trai riêng của vợ ông Tài chỉ được mời đến tòa với tư cách nhân chứng. Thế nhưng đến Tháng Tư năm ngoái, tòa phúc thẩm lại bất ngờ trả hồ sơ, yêu cầu điều tra bổ sung hành vi của cả hai người này.

Chỉ vài tháng sau, ông Tú bị khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú, và đến đầu năm 2024 thì bị tuyên án hai năm tù. Trong mắt người dân, ông Tú chỉ là người can thiệp để bảo vệ em trai, không có hành vi cố ý gây thương tích. Thế nhưng, dưới tay bộ máy tư pháp địa phương, ông bị biến thành tội phạm.

Sáng 30 Tháng Năm, ông Tú treo cổ tự tử tại nhà riêng – đúng vào ngày ông bị cưỡng chế đi thi hành án.

Cái chết của ông không phải chỉ là kết thúc của một bản án. Nó phơi bày một sự thật cay đắng: trong hệ thống pháp lý của Cộng Sản Việt Nam, người dân có thể bị cuốn vào guồng máy tố tụng một cách vô lý, oan sai, và hoàn toàn bất lực.

Khi nhân chứng có thể bị biến thành bị cáo, khi người đứng ra can ngăn một vụ hành hung lại bị truy tố vì “cố ý gây thương tích,” thì công lý – nếu còn tồn tại – cũng đã bị bóp méo đến không nhận ra.

Và cái chết của ông Trần Anh Tú, giờ đây, không chỉ là một vụ tự tử. Nó là một bản cáo trạng.


 

PHÁT NGÔN GÂY SỐC VÀ XÚC PHẠM HÀNG TRIỆU NGƯỜI DÂN SÀI GÒN

Việt Tân

 PHÁT NGÔN GÂY SỐC VÀ XÚC PHẠM HÀNG TRIỆU NGƯỜI DÂN SÀI GÒN

Phát ngôn của Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Võ Văn Hoan rằng: “Ngập là một đặc điểm rất tự nhiên của thành phố. Ngập thành phố phần nào là một hình ảnh rất đẹp” không chỉ gây sốc mà còn là một sự xúc phạm trắng trợn đối với hàng triệu người dân Sài Gòn đang ngày đêm oằn mình chống chọi với nước ngập. Đây có phải là cách mà một quan chức của một Đảng độc quyền lãnh đạo toàn diện thể hiện trách nhiệm của mình? Như thế rõ ràng là nỗi khổ của dân bị biến thành “vẻ đẹp”

Trong khi người dân phải lội bì bõm trong nước cống dềnh lên, xe cộ chết máy, tài sản hư hại, cuộc sống đảo lộn, thì vị Phó Chủ tịch lại có thể nhìn thấy “hình ảnh đẹp” từ cảnh tượng đó. “Đẹp” ở chỗ nào khi cả thành phố biến thành sông, giao thông tê liệt, hàng quán đóng cửa, và hàng trăm gia đình phải vật lộn với cảnh ngập úng triền miên sau mỗi trận mưa? Phát ngôn này không chỉ vô cảm mà còn cho thấy sự thiếu trách nhiệm đến kinh ngạc của những người nắm quyền. Thay vì đưa ra giải pháp, thay vì nhìn nhận đúng mức độ nghiêm trọng của vấn đề để tìm cách cải thiện đời sống người dân, họ lại chọn cách biện minh bằng những lời nói vô bổ, thậm chí là lố bịch.

Chính quyền Đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận là “độc quyền lãnh đạo toàn diện” nhưng lại không thể giải quyết được một vấn đề cơ bản như ngập lụt, một vấn đề đã tồn tại dai dẳng hàng thập kỷ. Việc không chống ngập hiệu quả sau những trận mưa không phải là “đặc điểm tự nhiên”, mà là hậu quả của sự yếu kém trong quy hoạch, quản lý và thiếu trách nhiệm của bộ máy. Lời nói của ông Võ Văn Hoan là minh chứng rõ ràng nhất cho thấy người dân Việt Nam đang cần một sự thay đổi cấp bách. Chúng ta cần một chính quyền không chỉ biết hô hào khẩu hiệu mà phải thực sự bảo vệ quyền lợi và chăm lo cho đời sống của người dân. Chúng ta cần một chính quyền biết lắng nghe, thấu hiểu nỗi khổ của dân, chứ không phải nói những lời vô cảm, biện minh cho yếu kém của mình. Chúng ta cần một chính quyền minh bạch trong quy hoạch, đầu tư, và thực thi các dự án chống ngập, chứ không phải để hàng trăm ngàn tỷ đồng đổ vào những dự án kém hiệu quả.

Và trên hết, chúng ta cần tự do dân chủ để người dân có thể lên tiếng, chất vấn và giám sát những người đang nắm giữ quyền lực. Chỉ khi có tự do dân chủ, quyền lợi của người dân mới được đảm bảo, và những phát ngôn “tuyệt vời” như “ngập là đẹp” mới không còn đất để tồn tại. Đã đến lúc người dân Việt Nam phải cùng nhau đòi hỏi một chính quyền thực sự vì dân, chứ không phải một bộ máy chỉ biết “lãnh đạo toàn diện” trên giấy tờ nhưng lại bất lực trước những vấn đề cơ bản của cuộc sống.

Lão Thất


 

Ông xích lô ở Nha Trang ‘giật tiền’ của nữ du khách ngoại quốc

Ba’o Nguoi- Viet

June 2, 2025

KHÁNH HÒA, Việt Nam (NV) – Một ông chạy xích lô du lịch ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, bị cho là “có thái độ phản cảm” khi giật tiền trên tay nữ du khách ngoại quốc.

Theo báo Dân Trí, chiều 31 Tháng Năm, trên mạng xã hội Facebook lan truyền video clip dài gần 30 giây ghi lại cảnh một ông chạy xích lô chở hai mẹ con nữ du khách ngoại quốc.

Hình ảnh ông chạy xích lô giật tiền trên tay nữ du khách ở Nha Trang. (Hình: Dân Trí)

Khi đến nơi, nữ du khách đưa ra một số tờ tiền, sau đó giữa ông chạy xích lô và du khách xảy ra cự cãi.

Trong lúc lời qua tiếng lại, bất ngờ ông chạy xích lô đã giật các tờ tiền trên tay của nữ du khách. Thấy ông này tỏ vẻ hung hăng, nữ du khách này vội dắt tay con gái rời đi.

Ngay khi đoạn clip lan truyền, nhiều người đã bày tỏ bất bình cho rằng, ông xích lô đã cư xử không đúng mực với du khách và đề nghị giới chức địa phương “chấn chỉnh.”

Sáng 2 Tháng Sáu, nói với báo Dân Trí, ông Lê Quang Nhất, chủ tịch Nghiệp Đoàn Xích Lô Du Lịch Nha Trang kiêm phó chủ tịch Liên Đoàn Lao Động Thành Phố Nha Trang, cho biết đã xác định được danh tính người chạy xích lô là ông Đào L., 57 tuổi, quê huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên, đồng thời đang yêu cầu người này viết bản tường trình, kiểm điểm “để có cơ sở xử lý theo quy định.”

Ông Nhất cho biết qua làm việc, ông L. cho rằng trước khi thực hiện “cuốc” xe hơn 1.5 km đi từ đường Nguyễn Thị Minh Khai đến đường Trần Phú, thành phố Nha Trang, ông đã thông báo với khách giá phải trả là 50,000 đồng ($1.9). Tuy nhiên khi đến nơi, nữ du khách chỉ trả 35,000 đồng ($1.3).

“Vì vội nên người chạy xích lô đã có những hành động giật tiền gây phản cảm,” ông Nhất biện minh.

Ông Đào L. (thứ hai, trái qua) làm việc với Nghiệp Đoàn Xích Lô Du Lịch Nha Trang. (Hình: Thái Tĩnh/Người Lao Động)

Theo ông Nhất, một số hình thức xử lý đang được Nghiệp Đoàn Xích Lô Du Lịch Nha Trang xem xét là cho ông L. ra khỏi nghiệp đoàn, thu hồi thẻ thành viên.

“Thời gian qua, nghiệp đoàn đã nỗ lực kết nối với các đơn vị để phối hợp tuyên truyền về các quy tắc ứng xử với du khách, tránh xa tệ nạn xã hội, học ngoại ngữ… Tuy nhiên, vẫn còn những trường hợp không tuân thủ, dẫn đến ảnh hưởng tới hình ảnh của đa số đoàn viên thực hiện tốt,” ông Nhất cho biết thêm.

Ngoài vụ “giật tiền” trên, trước đó tại thành phố Nha Trang cũng đã từng xuất hiện nhiều vụ du khách tố cáo bị hành hung, thu các khoản phí bất hợp lý. (Tr.N) [kn]


 

‘Nghịch tử’ ở Hải Phòng giết mẹ, chém bố trọng thương

Ba’o Nguoi-Viet

June 1, 2025

HẢI PHÒNG, Việt Nam (NV) – Nghi can Lê Văn Cường, 30 tuổi, ở phường Lưu Kiếm, thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, bị bắt với cáo buộc sát hại mẹ ruột và đâm cha mình trọng thương.

Theo báo VietNamNet hôm 1 Tháng Sáu, nhà chức trách công bố nguyên nhân ban đầu là do nghi can đi uống rượu về muộn, bị cha mắng, không cho ngủ.

Căn nhà nơi xảy ra vụ án mạng tọa lạc tại thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. (Hình: Hoài Anh/VietNamNet)

Trong sự việc xảy ra vào lúc 6 giờ sáng cùng ngày, nghi can Cường lấy dao đuổi chém cha.

Mẹ của nghi can chạy ra can ngăn thì bị con trai dùng dao đâm chết ngay tại nhà. Người cha bị thương nặng, được đưa đi cấp cứu.

Công an sau đó đến hiện trường khống chế nghi can, đưa ông này đi xét nghiệm nồng độ cồn và chất kích thích.

Trong một bi kịch gia đình tương tự, báo Bảo Vệ Pháp Luật hồi đầu Tháng Tư cho hay, bị can Đặng Khánh Linh, 16 tuổi, ở quận Đống Đa, Hà Nội, bị bắt, truy tố với cáo buộc dùng dao đâm cha mẹ ruột suýt chết.

Theo cáo trạng, bị can Linh là học sinh một trường trung học tại quận Cầu Giấy, thường xuyên bỏ học, chơi bời lêu lổng nên bị cha mẹ cho chuyển trường đến trường nội trú IVS ở huyện Thanh Oai.

Do không chịu được áp lực học tập, hồi Tháng Năm năm ngoái, thiếu nữ bỏ học và nghỉ ở nhà. Hồi đầu Tháng Mười Một năm ngoái, bị can Linh bỏ nhà đi chơi lang thang, lêu lổng với bạn bè trong ba ngày.

Mẹ thiếu nữ đã chửi bới con gái và cấm em này đi chơi, cũng như không cho sử dụng điện thoại và mạng xã hội. Tiếp đó, cha thiếu nữ đe dọa gửi con gái vào trường giáo dưỡng.

Vụ việc xảy ra tại thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. (Hình: Dân Trí)

Do bất bình, vào lúc 3 giờ sáng ngày 16 Tháng Mười Một cùng năm, bị can Linh nảy sinh ý định dùng dao đâm cha mẹ đang ngủ say. Bị can Linh đâm một nhát dao vào cổ cha, một nhát vào cổ mẹ, khiến hai người này hét lên kêu cứu.

Người cậu của thiếu nữ sống cùng nhà, kịp thời đưa cha mẹ bị can Linh đi cấp cứu kịp thời nên hai người này giữ được mạng sống, chỉ bị tổn hại 2-12% cơ thể.

Sau khi gây án, bị can Đặng Khánh Linh ra công an đầu thú. Kết quả xét nghiệm cho thấy thiếu nữ dương tính với chất ma túy. (N.H.K)


 

Ngày 1-6-1975: Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!

Ba’o Tieng Dan

31/05/2025

Bùi Anh Thư

31-5-2025

Tháng 5, miền Nam vừa trải qua một tang thương của một cuộc chiến kết thúc không bằng tiếng súng mà bằng một sự im lặng ngột ngạt. Và ngày 1 tháng 6 năm 1975, lệnh trình diện “học tập cải tạo” được ban hành.

Tưởng chừng chỉ là một thông báo hành chính, nhưng đối với hàng trăm ngàn gia đình, đó là bản án treo lơ lửng không tuyên bố, một vết chém lạnh lùng rạch ngang đời sống của bao con người vừa bừng tỉnh sau cơn địa chấn lịch sử.

Từ sáng sớm hôm ấy, cả miền Nam rúng động. Loa phóng thanh vang lên khắp ngõ phố Sài Gòn – Gia Định, Huế, Cần Thơ, Vũng Tàu… Mỗi từ, mỗi chữ trong thông báo đều như mang theo hơi lạnh của rừng sâu, của dây thép gai, của cái đói chưa đến mà đã thấy trong ánh mắt những người đọc qua:

“Sĩ quan, viên chức, cảnh sát, công chức chế độ cũ… phải trình diện học tập cải tạo trong 10 ngày…”

Chỉ “mười ngày” – một lời hứa nhẹ nhàng đến cay nghiệt. Người dân biết: đó là lời tiễn biệt, không phải cuộc hẹn trở về.

mẹ – lệ chảy dài

thu xếp bọc hành trang

cha – nhìn đàn con thơ

mắt ngậm lời vĩnh biệt

Các bà mẹ lặng lẽ khâu tên con vào ống quần lính cũ, vợ gói gạo rang, muối hột, viên thuốc cảm cuối cùng. Không ai khóc, nước mắt đã cạn khô, chỉ còn đôi môi mím chặt như muốn gào lên nhưng không dám. Không tiếng khóc, nhưng từng mái nhà rền rĩ những uất ức không lời. Phút giây đó, mọi ngôn ngữ đều trở nên bất lực.

Tôi ngỡ ngàng sợ hãi:

HẠNH PHÚC – phải chăng là ra đi mất bóng

và TỰ DO

là giam đời trong trại tập trung?

Và rồi, từ ngày 1 tháng 6 ấy, những trại cải tạo mọc lên khắp rừng núi phía Bắc, Tây Nguyên, rìa biên giới. Không ai biết chính xác bao nhiêu người bị đưa đi. Họ trở thành những cái bóng không tên, sống trong đói khát, bệnh tật, cô lập, và thời gian bị tước mất.

Ở quê nhà, người thân của họ sống từng ngày như trong tang lễ kéo dài không hồi kết. Những đứa con bị khước từ tương lai chỉ vì cái họ mang danh “con ngụy”. Những người vợ gầy rạc, chống gậy bước qua năm tháng, vừa làm mẹ, vừa làm cha, vừa làm chứng nhân cho một nỗi đau bị cấm gọi tên.

Ngày 1 tháng 6 năm 1975 – không phải chỉ là một ngày trong lịch sử, mà là khởi đầu của một chương bi tráng và tàn khốc, nơi quyền lực không cần đến súng đạn nữa – chỉ cần một thông báo và sự im lặng của cả một xã hội.

Đó là ngày mà hàng trăm ngàn con người bước vào bóng tối – lặng lẽ, không tiếng khóc, không huy chương, không kháng cự – chỉ còn lại niềm kiêu hãnh bị nghiền nát, và nỗi đau ngấm sâu, không thể gột rửa bằng thời gian.

Ngày 1 tháng 6, ngày bắt đầu cho những nghiệt ngã đau thương!


 

Cựu Biệt Kích Chung Tử Ngọc bị giam cầm 6 năm ở những trại tập trung

Ba’o Nguoi-Viet

May 31, 2025

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Cựu chiến sĩ Biệt Kích Chung Tử Ngọc tuy ở trong quân ngũ không dài nhưng vẫn lo tròn nhiệm vụ của người lính. Ông có những chuyến công tác đặc biệt cận kề với tử thần theo tinh thần chiến đấu cho quốc gia, dân tộc với phương châm “Vào sinh ra tử.”

Ông Chung Tử Ngọc (giữa) cùng con gái và cháu ngoại tại nhà ông ở Westminster, California. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Ông Chung Tử Ngọc là Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Khóa 3/73 Trừ Bị Thủ Đức, nhập ngũ năm 1972. Ra trường Tháng Mười Hai, 1973, ông được về đơn vị Biệt Kích của Nha Kỹ Thuật, thuộc Toán 729 Đoàn Công Tác 72 của Nha Kỹ Thuật.

Thời gian quân ngũ của ông chỉ khoảng hơn một năm thì biến cố cuối Tháng Tư, 1975 ập tới. Chia sẻ với phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở Westminster, một thành phố trung tâm của Little Saigon, nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất hải ngoại, cựu chiến sĩ Biệt Kích Chung Tử Ngọc tâm tình cuộc đời quân ngũ đến giờ phút cuối cùng khi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Miền Nam bị thất thủ, lúc ông bị bắt làm tù binh trong những trại tập trung của Cộng Sản hết sáu năm, rồi vượt biên ra hải ngoại.

Nhờ dân làng nên thoát chết

Khoảng đầu Tháng Ba, 1975 là chuyến cuối cùng công tác của Biệt Kích Chung Tử Ngọc trong rừng của phạm vi Đà Nẵng. Sau khi đối đầu với Việt Cộng, ba toán Biệt Kích còn sống sót và hai chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến vào rừng, khi thấy không còn địch đuổi theo nữa, họ mới tìm cách đi ra khỏi khu rừng trong đêm.

Ông kể: “Lúc đó có người nói với chúng tôi là Cộng Sản đã chiếm Đà Nẵng, khoảng cuối Tháng Ba, 1975, và có rất nhiều người lính VNCH đã ra trình diện với Việt Cộng rồi, nên người dân mới khuyên chúng tôi phải ra trình diện. Không còn đường nào để đi, buộc lòng chúng tôi phải ra trình diện Cộng Sản.”

Sau khi ra trình diện tại một xã nhỏ, thì Việt Cộng mới đưa ba toán Biệt Kích và hai chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến về nhốt tại một trại giam nhỏ. Lúc đó một số lính xe tăng Bắc Việt ghé vào để xem số tù binh, khi họ biết nhóm này là lính Biệt Kích thì họ chĩa súng vào những Biệt Kích, nói: “Đem ra bắn bỏ hết mấy tên lính Biệt Kích này ngay.”

“Khi họ mang chúng tôi ra ngoài sân để tử hình thì những người dân thấy vậy mới ùa tới ngăn cản không cho mấy tên lính Bắc Việt giết chúng tôi,” ông Ngọc kể tiếp.

Cũng may, có một cán bộ Việt Cộng miền Nam đến nói với mấy tên lính xe tăng Bắc Việt rằng: “Các đồng chí tránh ra chỗ khác, nơi này là chỗ chúng tôi đang làm việc, các đồng chí không được muốn bắn ai thì bắn. Tôi biết mấy ông  lính ngụy đã từng đi ngang qua đây và chưa bao giờ bắt gà bắt vịt của dân làng gì hết. Tại sao các đồng chí phải giết họ? Đây là nhiệm vụ của chúng tôi, phải để chúng tôi xử lý. Tôi xin mời các đồng chí hãy đi khỏi địa bàn của chúng tôi đang làm việc.”

Chuẩn Úy Chung Tử Ngọc (ở trần) và các chiến hữu vào cuối Tháng Ba, 1975. (Hình: Chung Tử Ngọc cung cấp)

Ông Chung Tử Ngọc kể tiếp: “Sau khi đoàn xe tăng rời khỏi thì có một ông đến nói nhỏ với tôi, ‘Thôi mấy anh cứ ra Đà Nẵng trình diện với Ủy Ban Quân Quản đi, ở đây không phải nhiệm vụ của chúng tôi.’ Mừng quá vì được thoát chết, chúng tôi cám ơn và tức tốc rời nơi đó ngay. Tại Đà Nẵng, tôi đến nhà chị dâu là vợ của ông anh cả đang bị ở tù ngoài Bắc Việt, tá túc chỉ vài ngày, rồi nhờ mấy người bạn cho tôi tá túc hết nhà người bạn này đến nhà người bạn khác để tìm cách về Sài Gòn. Đến ngày 15 Tháng Sáu, 1975 thì tôi mới đi xe đò về Sài Gòn.”

Khi về đến Sài Gòn thì nhà cầm quyền Cộng Sản kêu gọi những cựu sĩ quan cấp tá của VNCH trình diện trước đó một tháng, còn những cựu sĩ quan cấp úy trở lên thì trình diện vào Tháng Bảy, 1975. Còn ông Ngọc là cấp chuẩn úy, được họ cho là hạ sĩ quan, nên đến Tháng Tám mới trình diện.

Họ kêu gọi những người lính VNCH ai là Biệt Kích, Chiêu Hồi, An Ninh Quân Đội, Quân Cảnh Tư Pháp thì chỉ đi trình diện học tập cải tạo trong tám ngày thôi. Nhưng thật ra trong những người này, có người bị đi cải tạo hết tám năm, còn Chuẩn Úy Chung Tử Ngọc bị đi cải tạo sáu năm.

Ông Ngọc cho hay, từ cấp chuẩn úy trở xuống hàng hạ sĩ quan của những binh chủng khác, người nào bị họ cho đi học tập cải tạo ba tháng là nhiều lắm rồi. Nhưng thành phần lính Biệt Kích bị họ xem như là những đơn vị “ác ôn” nên họ mới giam cầm lâu đến thế.

Ông Ngọc tiếp tục kể: “Đến ngày tôi trình diện thì họ đưa vài tù nhân trong đó có tôi ra Phú Quốc. Họ đưa chúng tôi xuống tàu ‘há mồm’ đang đậu tại bến Tân Cảng, chiếc tàu này đã bị hư không thể ‘há mồm’ được, nên chúng tôi phải đi bên hông để xuống tàu. Tàu lúc đó có khoảng 10 tù nhân. Tôi đem theo thức ăn dự trữ tám ngày để đi học cải tạo theo lời họ nói. Tôi ăn xong rồi nằm ngủ để chờ họ đưa mình đi đâu. Nghe có tiếng ồn ào, tôi tỉnh giấc thì thấy họ đã đưa thêm hơn trăm tù nhân xuống chiếc tàu này. Theo tôi biết là trong số này có những cựu sĩ quan cấp tá và tướng của VNCH.”

Chiếc tàu đi khoảng ba ngày ba đêm thì không biết tàu bị hư như thế nào nữa, nên không thể chạy đến Phú Quốc. Thế là họ quay tàu đưa nhóm tù binh vào trại Suối Máu. Rồi khoảng ba tháng sau, họ đưa tù binh Chung Tử Ngọc và một số tù nhân nữa xuống tàu ra trại giam Phú Quốc.

Ông Chung Tử Ngọc (giữa) trong Đại Hội Nha Kỹ Thuật tại Washington, DC. (Hình: Chung Tử Ngọc cung cấp)

Ông Ngọc cho biết thêm: “Tàu đưa chúng tôi ra Phú Quốc được an toàn, rồi tống chúng tôi vào trại giam tù binh ngày xưa của VNCH. Khoảng năm tháng sau thì xảy ra vụ quân Khmer tại Cambodia tấn công Phú Quốc, nên họ mới đưa các tù nhân chúng tôi về trại tù Long Giao giam cầm khoảng năm tháng, rồi họ đưa tôi về trại tù ở Phước Long.”

“Một hôm, tại trại Phước Long, các cán bộ giữ tù bắt chúng tôi phải đi đào củ mì để về trại tù trồng. Từ trại giam đến nơi trồng mì cũng xa khoảng 5 cây số. Khi đào mì xong thì họ bắt chúng tôi phải vác những bao khoai mì về trại. Đi khoảng nửa đoạn đường thì ông cán bộ canh giữ chúng tôi mới cho mọi người nghỉ mệt. Lúc đó có ông cán bộ tâm tình với một số anh em tù binh rằng, ‘Các anh biết không, mấy thằng lính Biệt Kích của ngụy chúng nó lội rừng nhanh lắm, họ đi một lèo là đến ngay. Mà mấy tên lính Biệt Kích này chúng nó như hồn ma vậy, khi ẩn khi hiện trong rừng sâu, và gan lì lắm.’”

Lúc đó có một tù nhân ngẫu hứng chỉ ngay ông Ngọc, nói: “Đó đó, ông Biệt Kích đang ngồi đó.” Tức tốc mấy cán bộ Việt Cộng liền đến chĩa súng ngay nơi ông Ngọc đang ngồi. Nhưng họ chỉ chĩa súng vào ông thôi chớ không làm gì ông hết. Hành động này là vì ngày xưa Việt Cộng đi rừng rất sợ Biệt Kích mai phục.

Qua những ngày sau đó, nếu có đi làm công tác lao động thì những người giữ tù nhân này bảo ông Ngọc đi trước, rồi họ mới đi theo sau. “Bởi vì họ vẫn còn sợ lính Biệt Kích,” cựu Chuẩn Úy Chung Tử Ngọc nói.

Cưới vợ lúc đang ở tù

Cả ông Ngọc và anh trai của ông đều bị Việt Cộng giam cầm sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975. Mẹ ông phải tần tảo đi thăm hai con trai, người anh thì ở tù ngoài Bắc, còn ông Ngọc thì ở tù miền Nam. Thấy con mình bị ở tù khổ quá, nên mẹ ông Ngọc mới về lo tiền để chuộc ông ra khỏi tù.

Ông Ngọc nói: “Vì lúc đó mẹ tôi có làm ăn và cũng kiếm tiền được. Nhưng việc dùng tiền để đưa tôi ra khỏi tù không thành công, lý do vì tôi là lính Biệt Kích Lôi Hổ. Thấy thương con mình, nên mẹ tôi đã cưới vợ cho tôi lúc tôi đang ở tù.”

“Cô dâu là người hàng xóm của mẹ tôi, và chấp nhận làm đám cưới mà không có chú rể. Rồi sau đó, mẹ tôi cũng đưa vợ tôi ra trại tù Phước Long thăm tôi nhiều lần,” ông nhớ lại.

Tượng anh linh Chiến Sĩ Biệt Kích trong Đại Hội Nha Kỹ Thuật tại Little Saigon. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

“Tôi bị họ giam cầm tại Phước Long hơn một năm, thì họ đưa tôi về lại trại tù Suối Máu. Lúc này tôi đã ở tù gần bốn năm. Rồi từ Suối Máu họ lại đưa tôi về trại tù ở Xuyên Mộc, đây là trại tù khổ sai hạng nhất tại miền Nam. Tôi bị giam cầm ở đây khoảng hai năm một tháng là đủ sáu năm tù,” ông kể thêm.

Vượt biển đến Hoa Kỳ

Đến Tháng Chín, 1981, cựu chiến sĩ Biệt Kích Chung Tử Ngọc được mãn tù. Sau đó, ông sống bằng nghề sửa xe đạp bên lề đường Tô Hiến Thành, quận 10, Sài Gòn, để nuôi vợ con. Nhưng không đủ tiền để lo cho gia đình, ông chuyển sang phụ mẹ đi bán hàng hóa ở chợ Vườn Chuối, quận 3.

Đến năm 1989, ông cùng gia đình vượt biên bằng đường biển tại Nha Trang. Chuyến vượt biên đầu tiên được thành công, nên năm ngày sau ông được đến Philippines vào Tháng Sáu, 1989.

Lúc đó vì vấn đề núi lửa ở Philippines bùng phát, nên Liên Hiệp Quốc mới đình chỉ rước những người tị nạn Cộng Sản đang ở các trại tập trung chuyển tiếp tại Bataan và Palawan, Philippines. Do đó gia đình ông phải ở lại Philippines gần bốn năm.

Đến Tháng Sáu, 1993, gia đình ông mới được định cư tại California, Hoa Kỳ.

Hiện giờ gia đình của cựu Biệt Kích Lôi Hổ Chung Tử Ngọc cư ngụ tại thành phố Westminster, California. (Lâm Hoài Thạch) [qd]