KẾ HOẠCH GIẢI CỨU SCB TRONG 15 NĂM – BBC News Tiếng Việt

BBC News Tiếng Việt

SCB – ngân hàng chịu trách nhiệm cho vụ gian lận tài chính lớn nhất Việt Nam – đã nhận được gói cứu trợ từ Ngân hàng Nhà nước có trị giá lên tới 5% tổng sản lượng kinh tế quốc gia năm 2024.

Sun Group hy vọng sẽ trả lại khoản tiền này trong vòng 15 năm, theo các tài liệu mà hãng tin Reuters tiếp cận được và dẫn lại hôm 18/3.

Đây là lần đầu tiên lộ trình giải cứu ngân hàng SCB được tiết lộ, một vấn đề mà truyền thông Việt Nam rất kín tiếng.

Sun Group sẽ giúp SCB trả khoản vay 657 ngàn tỷ đồng và sinh lời ra sao?

#BBCTiengViet

#TruongMyLan

#SCB 

Hoàng Thị Thúy Lan, bí thư Vĩnh Phúc, nhận hối lộ hàng triệu đô la

Ba’o  Nguoi – Viet

March 17, 2025 : 2:56 PMFacebookTwitterEmailPrint

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Bà Hoàng Thị Thúy Lan, cựu bí thư tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc, khi còn đương chức đã nhận hối lộ 25 tỷ đồng ($979,240) và $1 triệu từ tập đoàn Phúc Sơn. Hôm 17 Tháng Ba, bà Lan bị Cục Cảnh Sát Điều Tra Tội Phạm Về Tham Nhũng, Kinh Tế và Buôn Lậu, thuộc Bộ Công An, đề nghị truy tố về tội “nhận hối lộ.”

Theo truyền thông tại Việt Nam, ngoài bà Lan, còn có ông Lê Duy Thành, cựu chủ tịch tỉnh và Phạm Hoàng Anh, cựu phó bí thư thường trực Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc, cũng bị Cục Cảnh Sát Điều Tra Tội Phạm Về Tham Nhũng đề nghị truy tố về tội “nhận hối lộ.”

Bà Hoàng Thị Thúy Lan, bí thư Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc, hồi Tháng Giêng, 2024. (Hình: VNExpress)

Riêng bị can Nguyễn Văn Hậu, tức Hậu Pháo, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị tập đoàn Phúc Sơn, bị đề nghị truy tố với cáo buộc cùng lúc ba tội “đưa hối lộ; vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng và vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng.”

Trong 41 bị can của vụ án còn có ông Phạm Văn Vọng, cựu bí thư Tỉnh Ủy Vĩnh Phúc; ông Ngô Đức Vượng, ông Nguyễn Doãn Khánh, cùng từng là cựu bí thư Tỉnh Ủy Phú Thọ và ông Lê Viết Chữ, cựu bí thư Tỉnh Ủy Quảng Ngãi.

Đặc biệt, bị can Đặng Trung Hoành, chánh văn phòng Huyện Ủy huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, cháu Võ Văn Thưởng, cựu chủ tịch nước, bị cáo buộc “lợi dụng ảnh hưởng với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi.”

Vụ án xảy ra tại tập đoàn Phúc Sơn được khởi tố hôm 26 Tháng Hai, 2024, và gây chú ý công luận khi có nhiều bị can bị bắt ngay trong lúc là đương chức bí thư, chủ tịch tỉnh.

Báo Tuổi Trẻ dẫn kết quả điều tra xác định, các bị can này “vì vụ lợi đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chỉ đạo, can thiệp, tạo điều kiện thuận lợi” cho công ty Thăng Long của Hậu Pháo được làm chủ đầu tư, điều chỉnh, giao đất thực hiện dự án chợ đầu mối nông sản thực phẩm, hệ thống kho vận và khu đô thị thương mại Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, cùng nhiều dự án khác “trái quy định pháp luật.”

Qua đó, bị can Nguyễn Văn Hậu đã đưa tổng số 45.4 tỷ đồng ($1.77 triệu) và $2.32 triệu cho các quan chức nêu trên, trong đó bà Hoàng Thị Thúy Lan nhận 25 tỷ đồng ($979,240) và $1 triệu; Lê Duy Thành nhận 20 tỷ đồng ($783,392) và $1.3 triệu; Phạm Hoàng Anh nhận 400 triệu đồng ($15,668) cùng $20,000.

Ngoài ra, từ năm 2022 đến Tháng Giêng, 2024, bị can Hậu còn đưa Phạm Hoàng Anh bốn lần với tổng số tiền là 5 tỷ đồng ($195,848) và $500,000.

Kết luận xác định, dự án chợ đầu mối do công ty của bị can Hậu làm chủ đầu tư có 673 lô đất được bán cho khách hàng, thu tổng 2,603 tỷ đồng ($101.9 triệu). Trong đó, hơn 1,000 tỷ đồng ($39.1 triệu) thu theo hợp đồng để hạch toán sổ sách, 1,599 tỷ đồng ($62.6 triệu) để ngoài sổ sách. Từ đó, gây thiệt hại cho nhà nước 290 tỷ đồng ($11.3 triệu) thuế thu nhập doanh nghiệp và hơn 101 tỷ đồng ($3.9 triệu) thuế giá trị gia tang (VAT).

Tổng trong vụ án này, bị can Hậu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “đưa hối lộ” số tiền tổng cộng 132 tỷ đồng ($5.1 triệu).

Theo ghi nhận của báo Nhân Dân, ba tháng trước khi bị bắt, bà Thúy Lan là quan chức đứng đầu về số phiếu “tín nhiệm cao” của tỉnh Vĩnh Phúc.

Công an phong tỏa, khám xét tư gia của bà Hoàng Thị Thúy Lan chiều 8 Tháng Ba,2024. (Hình: Người Lao Động)

Hồi năm 2021, bà Lan gây bàn tán khi sắp ghế con gái ruột, Trần Huyền Trang, thời điểm đó 31 tuổi, làm phó giám đốc Sở Kế Hoạch Đầu Tư Tỉnh Vĩnh Phúc.

Bà Trang về công tác tại sở nêu trên ở vị trí chuyên viên, sau đó “leo” lên ghế phó phòng, trưởng phòng, trước khi được mẹ mình chỉ định làm phó giám đốc. Do công luận chỉ trích vụ “mẹ bổ nhiệm con,” bà Trang mất ghế phó giám đốc sở sau ba tháng. (Tr.N) [kn]


 

Vấn Đề Hỗ Trợ Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa Tại Phiên Rà Soát của Liên Hợp Quốc

Ba’o Dat Viet

March 11, 2025

Vào ngày 6 và 7 tháng 3 vừa qua, Việt Nam đã tham gia phiên rà soát đầu tiên về việc thực thi Công ước về Quyền của Người Khuyết Tật (CRPD) tại Liên Hợp Quốc ở Geneva, Thụy Sĩ. Trong phiên rà soát, vấn đề về hỗ trợ cho thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa (TPB VNCH) sau ngày 30/4/1975 đã được đưa ra làm điểm nóng tranh luận.

Bà Amalia Gamio, Phó Chủ tịch ủy ban về Quyền của Người khuyết tật, đã chỉ ra rằng hàng trăm nghìn cựu quân nhân VNCH bị thương tật không được hỗ trợ bởi Nhà nước Việt Nam như các đối tượng khuyết tật khác. Đáng chú ý, bà nhấn mạnh rằng hiện có vài chục nghìn TPB VNCH chỉ nhận được trợ giúp từ các nguồn từ thiện do cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài quyên góp, thường thông qua các chương trình được tổ chức tại một số ngôi chùa và nhà thờ tại TP.HCM.

Trong phản hồi của mình, ông Nguyễn Văn Hồi, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, đã khẳng định rằng theo luật của Việt Nam, không có sự phân biệt đối xử giữa các cựu chiến binh dựa trên lý lịch của họ. Ông cũng nói thêm rằng có những biện pháp chế tài và quy định nhằm trừng phạt bất kỳ cán bộ nào từ chối hỗ trợ cho người khuyết tật và không có sự phân biệt đối xử với bất kỳ nhà thờ hay tổ chức tôn giáo nào.

Tuy nhiên, ông Nguyễn Bắc Truyển, người có mặt tại phiên điều trần, đã phản bác câu trả lời của đại diện nhà nước. Làm việc trong chương trình chăm sóc cho thương phế binh của Dòng Chúa Cứu Thế, ông Truyển chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của mình khi tiếp xúc với khoảng 5000 thương phế binh, cho biết họ không nhận được sự chăm sóc như những gì được khẳng định.

Vấn đề này đã làm dấy lên những câu hỏi lớn về tính hiệu quả và công bằng của chính sách hỗ trợ người khuyết tật tại Việt Nam, đặc biệt là trong việc đối xử với cựu quân nhân VNCH. Sự chênh lệch giữa chính sách và thực tế mà các thương phế binh này đang phải đối mặt là một thách thức đáng kể cho chính phủ Việt Nam trong việc thực thi cam kết quốc tế về quyền của người khuyết tật.


 

50 năm nhìn lại di sản VNCH  30-4-1975-2025

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

07/03/2025

Lúc này đã bước vào mùa xuân của năm 2025, đánh dấu một khởi đầu chặng đường 50 năm mất miền Nam, 30 tháng tư 1975 sắp tới.  Kể từ đó đến nay, nhiệt kế xem ra vẫn hừng hực lửa của hận oán và mất mát.  Vẫn chưa bao giờ có một tiếng nói chính  thức về cái mà người ta thường rêu rao Hòa hợp và hoà giải dân tộc. Tuyên truyền có thể có, thực tế là không.

Có một điều gì đó ngăn cản hầu như không thể vượt qua!!

Điện Biên Phủ đã qua, chia đôi đất nước, ta vẫn còn một nửa. 30 tháng tư, 1975, mất cả nước với nhiều tên gọi, nhiều chính sách vô nhân đạo như một trả thù của kẻ chiến thắng.

Làm sao quên được những lời nhục mạ như: ngụy quân, ngụy quyền. Chính sách  học tập cải tạo không ngày về. Có những người chịu đựng 17 năm tù, người khác chết rũ tù có đi mà không bao giờ trở lại.

Chính sách cải tạo hằng trăm ngàn quân  dân cán chinh mà thực tế không cải tạo được lấy một người.

Có cần phải nhắc lại hàng trăm ngàn người đã phải đi học tập cải tạo tại miền Bắc trên những vùng cao, hiểm trở, đồi núi lạnh lẽo rét buốt, phải lao động cực khổ, đói ăn, chết dần chết mòn không?

Đó là chính sách  về cái chết từng ngày, chết mòn nhục nhã và đau khổ thay vì một phát súng giải thoát.

Tưởng rằng cuộc chiến đã tàn cuộc!! Cuộc chiến với xác người, thiệt hại vật chất đã qua. Nhưng một cuộc chiến quá khứ vẫn như tro tàn âm ỉ. Hận oán vẫn ngút trời dễ dầu gì quên được!!

  • Ngay đối với kẻ thắng cuộc, nhiều người cảm thấy như bị lừa đảo…Thật vậy, cảm giác ngỡ ngàng đến sửng sốt với những kẻ chiến thắng khi vào tiếp thu miền Nam vẫn còn đó. Hình ảnh anh bộ đội khi quay về Bắc làm quà cho con là một con búp bê và chiếc khung xe đạp.

Thấm thía và nhục nhã lắm thay!!

Chưa bao giờ có một tiếng nói chính thức về cái mà người ta rêu rao, tuyên truyền về miền Nam. Họ kinh ngạc như những anh mán rừng bởi vì họ đã đem cả tuổi trẻ hy sinh và đánh cuộc , cuối cùng chỉ là nỗi thất vọng ê chề khi họ vào miền  Nam- như trường hợp nhà văn nữ Dương Thu Hương.

Sau này, bà đã kể lại nỗi thất vọng khi thấy miền Nam trù phú, tự do như thể ngoài sức tưởng tượng của bà. Sau này, bà đã viết tố cáo sự lừa bịp, dối  trá trong cuốn tiểu thuyết: Thiên Đường mù để tố cáo sự giả trả ấy.

Bà còn phẫn nộ tự nhận mình nay là kẻ làm giặc chống lại chế độ.

Ngày hôm nay, hàng triệu thanh niên miền Bắc đã “-sinh Bắc tử Nam”, chúng ta hãy  thực tình ngay thẳng nhìn lại những lời tuyên truyền dối trá “ đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, từng là mục tiêu của sự chế riễu và khinh rẻ miền Nam. Thực tế chỉ là cuộc chiến  ủy nhiệm  như lời tuyên bố của Lê  Duẩn: “ Ta đánh Mỹ là đánh  cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại;”

( Xem Vũ Thư Hiên: Đêm giữa ban ngày, trang  422.):

50 năm đã qua, nhưng nỗi đau còn nguyên vẹn, nặng trĩu trong tim họ, mặc dù họ không phải là nguyên nhân những nỗi đau ấy.

Trong 20 năm, từ 1975 đến 1995, Mỹ đề ra chính sách cấm vận nhằm cô lập Việt Nam, cộng thêm những chính sách hà khắc của nhà nước, dân chúng đói ăn, cơm độn khoai sắn bo bo..đã buộc hàng triệu người liều mình đi ra biển…Cái mà sau này người ta gọi là “ Boat people”.   Sau này đã có bao nhiêu người đến được bến bờ tự do, bao nhiêu người  bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp? Thật không kể xiết!!!

Trong khi đó, chính quyền Hà Nội qua thứ trưởng  ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn vẫn kêu gọi hòa hợp, hòa giải dân tộc qua Nghị Quyết 36? Hòa giải với ai? Với người đã chết hay người còn sống? Với thương phế binh VNCH? Với quá khứ của nền Đệ I Và Đệ II cộng Hòa?

Thực tế cho thấy, các thương phế binh này đã bị bỏ rơi, chỉ nhờ vào sự tương trợ của các tổ chức hải ngoại quyên góp tiền gửi về trong nhiêu năm quá.

Tất cả số phận quân dân miền Nam đã sống cô lập bên lề xã hội cộng sản.

Tôi  chỉ cần nêu ra một trường hợp cụ thể  là trong lãnh vực tôn giáo như Phật giáo kể từ năm 1981 đã trở thành Phật giáo nhà nước dưới sự kiểm soát của chính quyền không nói làm gì.

Riêng công giáo còn có cái tiếng là tự chủ, độc lập dưới cái dù che của Vatican. Tuy nhiên, điều cần và đủ là họ chỉ được nói và phát biểu hoàn toàn trong phạm vi nhà thờ. Ngoài ra là một cấm kỵ không có văn bản, họ không bao giờ dám đề cập xa gần đến Đệ I  và Đệ II  cộng hòa.

Các giám mục cai quản hiện nay phải biết im lặng, không dám phê phán về tệ nạn xã hội xảy ra hằng ngày trước mắt họ..

Đó là bàn tay bạo lực được che đậy, dấu kín. Muốn yên thân, họ phải câm lặng như những loại chó câm- chó không biết sủa- một từ ngữ của giám mục người Pháp, đức cha Seitz, (Kim) trong Les chiens Muets

Chó là để sủa, chó không biết sủa có còn là chó không?.

  • Hai mươi năm miền Nam nhập cuộc và 30 năm sau giải phóng.

Tôi xin được lấy lại lời của triết gia  E. Mounier như một cột mốc khởi điểm tóm gọn tinh thần của miền Nam tự do:

Đôi khi lịch sử cũng ban thưởng cho kẻ cứng đầu, và một hòn đá tảng đặt đúng chỗ, có thể chuyển hướng cả một dòng sông.”

Miền Nam là những ai trong mỗi chu kỳ lịch sử? Nhiều lắm kể sao cho xiết. Vấn đề là: Liệu có thể kiếm ra được ai là hòn đá tảng có thể chuyển hóa cả một dòng sông?

Hãy cùng nhau nhớ lại về mặt lịch sử, chính trị. Hai miền Nam-Bắc trở thành hai thực thể đối đầu. Sự ngăn cách không hẳn chỉ nằm ở dòng sông Bến Hải  mà còn in sâu trong tâm thức người dân miền Nam, bên này người Việt quốc gia chống ý thức hệ cộng sản bên kia, chủ nghĩa cộng sản vô thần..

Mà thực tế cùng là người Việt, cùng máu đỏ da vàng, nhưng không còn nhìn nhận nhau là người Việt nữa. Chỉ có bạn, đồng chí hay kẻ thù!!!Lẳn ranh thật rõ ràng và dứt khoát không có cơ may nào nối lại.

Hòn đá tảng mở đầu cho miền Nam xoay ngược tình thế lịch sử, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, giáo dục chính là ông Ngô Đình Diệm.

Từ một chế độ thực dân, phong kiến thối nát, bóc lột và hại dân, ông Diệm biến nó trở thành một chế độ dân chủ cộng hòa.

Cần nhắc với  nhau rằng khi ông Diệm nhận chức Thủ tướng về nước, miền Nam đang ở bên bờ vực thẳm về chính trị, kinh tế, bị khuynh đảo bởi nhiều thế lực cả bên trong lẫn bên ngoài..

Lúc ấy, chỉ cần ổn định tình thế là đủ trở thành vị cứu tinh. Stephan Pan, trong Viet Nam crisis đã nhận xét không sai: “Ngo Đinh Diêm assumed the prime ministership in 1954 when his country was facing economic chaos, political íntasbility and external subversion, not on a massive scale, but on a scale that kept increasing intensity. He led South Viêt Nam through this initial crease, changed it from a  the first national monarchy in a republic and built the first national loyalty íts people ever know.

Đến lượt nhà văn đại diện cho giới trí thức miền Nam lúc bấy giờ, Mai Thảo đã hãnh diện tuyên bố: “Sài gòn, thủ đô văn hóa miền Nam. Sài gòn thay thế cho Hà Nội, từ một đô thị miền Nam trở thành một thủ đô tinh thần của toàn thể đất nước, Saigòn sáng tạo và suy tưởng”

( Tạp chí Sáng Tạo, số đầu 1956).

Bên cạnh Sáng Tạo, còn nhiều báo chí, tập san ra đời như  Tạp chí Văn Hóa Á Châu của giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Quê Hương của giáo sư Nguyễn Cao  Hách, Tin Sách của giáo sư Thanh Lãng, Luận đàm của hội Giáo chức với các cụ  Thẩm Quỳnh và Nghiêm Toản, tạp chí Bách Khoa của của Huỳnh Văn Lang, Hiện Đại của thi sĩ Nuyên Sa, Thế kỷ 20 của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch..

Trong 20 năm ấy, miền Nam đã hình thành một sắc thái văn hóa riêng, một nền giáo dục chuyên môn và nhất là tinh thần làm việc, về ý thức dân chủ, về ý thức tự do về những giá trị nhân bản.

Và nhất là quyền con người.

Tâm thức ấy, lý tưởng ấy đã khắc sâu, truyền thừa chẳng những trong 20 năm miền Nam mà còn là hành trang khi đối đầu với thế lực với kẻ thắng cuộc trong suốt hành trình 30 năm còn lại sau này.

Tuy nhiên, trong thế đối đầu với cộng sản, chọn lựa giữa tranh đấu cho dân chủ của một miền Nam dân chủ, tự do và tác động sống còn vẫn là chọn lựa đối đầu với cộng sản phía bên kia thật sự không dễ dàng gì!!  Phải hy sinh điều gì, dân chủ hay độc đoán?

Vì thế, trong viễn tượng đường dài, ngay trong tình huống thất vọng thua cuộc, giới trí thức miền Nam vẫn hoàn tất vai trò nhân chứng, vai trò phản biện, vai trò tố cáo và cả vai trò tiên tri cho cả giai đoạn sau 30 tháng tư. Nên nhớ cho bởi khát vọng tự do, dân chủ đã thấm đẫm trở thành máu thịt với khát vọng xóa bỏ mọi thứ độc tài đảng trị, khát vọng về công bình xã hội, khát vọng về một cuộc cách mạng cho người nghèo, vì người nghèo, khát vọng chấm dứt phân ly, thù hận trong cộng đồng dân tộc vẫn là khát vọng  chung của đất nước.

Tình hình miền Nam sau 1954, mỗi ngày thêm ổn định như nhận định của giáo sư Vũ Văn Mẫu: “Quá khứ trong sạch của Ngô Đình Diệm khi làm việc quan, tính tình khí khái của ông khi từ chức Thượng Thư Bộ Lại trong nội các đầu tiên của Bảo Đại.”

Trong giai đoạn này, chính phủ Ngô Đình Diệm đã giải quyết vấn đề định cư cho cả  triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam, giải quyết vấn đề các giáo phái, ổn định kinh tế và quan trọng là: phát triển đào tạo giáo dục.

Giáo sư Lý Chánh Trung ghi nhận dưới thời ông Diệm, năm 1954-1955 có 1000 trường tiểu học với 7000 lớp học. Qua năm 1961-1962 có 4172 trường tiểu học với 21.817 lớp học. Gần 200 trường trung học đã được xây dựng cho các tỉnh ly và quận lỵ. Ngay các vùng hẻo lánh, nghèo nàn như Gio Linh, Bồng Sơn, Cà Mâu, Trà Oạn vv.. đều có trường học.

Viện Đại học Sài gòn được trao trả ngày 11/5/1955. Hai năm sau thành lập Đại học Huế ngày 12/11/1957. Và năm 1958, đại học Đà Lạt.

Chính sự phát triển đồng  bộ về giáo dục từ tiểu học, trung học, đại học và các ngành chuyên môn là điều mà trong suốt thời kỳ chiến tranh Hà Nội đã không bao giờ thực hiện được.

Về an ninh, năm 1956, 80% cán bộ hạ tầng Việt minh bị triệt hạ. Trại tù Chí Lợi ở Bình Dương tập trung đến  6000 chính trị phạm cộng sản bị bắt giam.

Đặc biệt ở miền Trung, cán bộ cộng sản dưới thời của Ngô Đình Cẩn gần như bị trừ diệt toàn bộ cán bộ nằm vùng.

Đây là điều mà người Pháp không làm được trong suốt 9 năm chiến tranh Việt-Pháp.

Vào những năm đầu của chính thể ông Diệm, người ta có thể đi suốt ngày đêm từ Cà Mâu đến Bến Hải một cách an toàn. Thôn quê miền Nam tương đối an toàn.

Để tóm tắt giai đoạn này, xin trích dẫn nhận định của một sử gia trẻ tuổi Edward Miller như sau: “ Ngô Đình Diệm là người có hoai bão. Với tư cách lãnh đạo miền Nam từ 1954 đến 1963. Diệm mong muốn trở thành người lãnh đạo hàng đầu trong việc xây dựng chính quyền Quốc gia, ông cương quyết tìm ra một đường lối khác biệt với con đường mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản  Việt nam đang theo đuổi.” ( Ngô Đình Diệm was a dreamer. As ruler of South Viêt Nam from 1954 to 1963. Diệm aspired to greatness as nation builder and he was determined to find  an alternative to the path taken by Hồ Chí Minh and the Vietnamese Communists.)

Hay như ông  Denis warner, người Úc nhận xét: Diêm là The last Confucius- Nhà nho cuối cùng con lại.

  • Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu

Khi chế độ Diệm sụp đổ, Hà Nội cho là thời cơ may đã đến bất ngờ với họ. Họ cấp tốc thi hành những biện pháp tức thời sau đây:

  • Chọn một số Trung đoàn đưa gấp vào Quân Khu V và Tây nguyên.
  • Mở rộng đường vận chuyển chiến lược 559
  • Đưa gấp vào chiến trường những vũ khí chống lại thiết vận xa M.113.
  • Bùi Tín có mặt trong đoàn cán bộ 24 người vào miền Nam quan sát tình hình tại chỗ.
  • Đưa đại tướng Nguyễn Chí Thanh trở lại quân đội để vào miền Nam nhận nhiệm vụ tổng tư lệnh và lên đường ngay tháng 12/1963.

Chính vì thế,  sau 1963, chính phủ quân nhân do tướng Thiệu cầm đầu đã gặp rất nhiều trắc trở tứ phía với sự xâm nhập từ miền Bắc vào Nam trên đường mòn Hồ Chí Minh. Nhiều dấu hỏi được đặt ra tại sao người Mỹ có mặt ở Việt Nam, tại sao họ rút lui, tại sao thua?

Câu trả lời đã có hồi đáp của TT. Nguyễn Văn Thiệu: “ Họ đã bỏ rơi chúng tôi. Họ đã bán đứng chúng tôi. Họ đã đâm sau lưng chúng tôi. Đó là sự thực. Họ đã phản bội chúng tôi. Một đồng minh vĩ đại đã  thất ước với một đồng minh nhỏ bé.” ( They abandoned us. They sold us out. They stabbed us in the back. It ís true. They betrayed us. A great ally failed a small ally.

( Trong” The ten thousand day war- Michal Mac lear, trang 395.)

Cuộc chiến ngày một thêm khốc liệt. 10 ngàn binh sĩ cộng sản đã trở thành tro bụi dưới bom đạn B.52 ở Khe Sanh, rồi tết Mậu Thân cũng vậy…

Cộng thêm vào đó, việc chống đối chiến tranh của giới văn nghệ sĩ miền Nam ngày càng lan rộng từ nhiều phía. Họ là những tên tuổi nổi tiếng là thành phần thiên tả, lực lượng thứ thú ba, đòi hỏi chấm dứt chiến tranh từ một phía như Nguyễn văn Trung, Lý  Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, vương Đình Bích, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín và nhiều người khác…

Sau này họ mới vỡ lẽ ra rằng, điều mà họ đòi hỏi tự do ngôn luận, tự do báo chí là những điều thật ra họ đã có sẵn trong túi áo của họ..

Cái mà người viết bài này dành bẽ bàng gọi tên nó là ảo tưởng của trí thức miền Nam và chúng ta có vẻ tất CẢ là NHỮNG KẺ VẼ ĐƯỜNG CHO HƯƠU CHẠY. Hay nói một cách bình dân là những kẻ tiếp tay, nối giáo cho giặc.

  • Một trang sử mới bắt đầu và mở ra: 30/4/1975- 25/5/2025

Tôi vẫn tin rằng: trong cái rủi có cái may. Lịch sử đôi khi cũng đem lại những cái bất ngờ đầy ý nghĩa và thú vị như một bù trừ, một báo hiệu tin lành..

  • Cuộc di cư. Chẳng mấy ai ngờ và tin rằng cuộc di cư đem lại những thành quả bất ngờ là thống nhất Nam Bắc một nhà. Nếu cuộc di cư năm 1954-1955 đã đem lại những thành quả đáng khich lệ khi một triệu người di cư vao miền Nam đã tạo ra hai dòng chảy văn học, hai nếp sống văn hóa, sức mạnh đoàn kết, ý chí vươn lên, hai giọng ngôn ngữ, hai nếp sống tôn giáo giữa Bắc và Nam.

Nó hòa quyện vào nhau như thể là một. Nó tạo ra sức mạnh của miền Nam với một quân đội được huấn luyện tại các trường hạ sĩ quan  Đồng Đế, chuẩn úy tại Thủ Đức và thiếu úy ở trường sĩ quan Đà Lạt và được được trang bị đầy đủ.

Sự quyết tâm rời bỏ quê cha đất tổ, bỏ lại tất cả lên đường vào Nam là một cuộc bỏ phiếu bằng đôi chân. Đã có gần 2 triệu đôi chân như thế, từ già trẻ lớn bé, từ người nông dân đến trí thức thành thị, từ giới nhà văn đến giới tu sĩ đã ơi ới gọi nhau lên đường vào miền Nam.

  • Một chiến dịch Passage to Freedom là niềm tự hào của người ra đi và sự mở rộng bàn tay đón tiếp của  con dân miền Nam.

Người miền Bắc cộng sản sau này chưa bao giờ được hưởng cái ân huệ ấy và sẽ không bao giờ xảy ra.!!

  • Cuộc di tản sau 1975.

Với cái tinh thần ấy, cuộc di tản của người miền Nam cũng sẽ nối tiếp con đường của cuộc di cư năm 1954 và nó còn mở ra nhiều cơ hội hơn thế nữa của thế giới tự do.

Tôi có dịp viết một bài về cuộc di tản ra chiến hạm chỉ huy Blue Ridge cùng với 30 chiến hạm đủ loại của Hạm đội 7 đang đậu sẵn ở ngoài khơi bờ biển VN , cách Vũng tàu khoảng 30 dặm vào lúc miền Nam đang hấp hối..

Các chiến hạm ấy đang chờ để đón lính Mỹ và người Việt Nam từ đất liền… Sứ mạng lần này không giống với 21 năm về trước tại vịnh Hạ Long.

Trên boong chỉ huy của chiến hạm của viên Đô Đốc hạm đội 7, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả, nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường Việt Nam như Stanlay Karnov, David Haberstam, Neil Seehan, John Kenneth Galbraith và nhiều người khác. Dầu vạy còn được biết 125  nhà báo trong số họ, đủ quốc tịch tình nguyện ở lại để tường thuật cơn hấp hối của miền Nam…

Bên cạnh đó, người ta còn nhận thấy có phụ tá trùm mật vụ Frank Snepp đã  vừa đến đây,  người mà trước đây đã hộ tống  tt. Nguyễn Văn Thiệu ra đi trước đó mấy ngàyự

  1. Snepp đến đây với mục đích là để đón tiếp một nhân vật quan trọng nhất-đại diện cho nước Mỹ- trong lúc này. Đó là đại sứ Martin. Ông là người Mỹ cuối cùng rời Việt Nam mà trên tay chỉ ẵm theo một gói nhỏ: Đó là lá cờ nước Mỹ.

Lá cờ đã được cuốn lên có nghĩa là nước Mỹ không còn ở đó nữa..!!.

Ngay khi vừa bước lên chân lên boong tàu vào lức 2 giờ 47, giờ Sàigon. Ông đại sứ đã nhận được một điện chúc mừng của H.Kissinger với nội dung như sau:” Với lời ngợi khen nồng nhiệt  vì ông đã chu toàn trách nhiệm Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!

Trong khi đó, những con thuyền nhỏ như lá tre của dân tỵ nạn nhấp nhô trên mặt biển. Đó là những con thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy cộng sản. Họ là ai? Họ có thể là bất cứ ai. Số phận họ rồi sẽ ra sao? Chẳng ai tiên đoán được tương lai họ như thế nào ? Chỉ biết rằng con số được vớt đi trên biển là 100.000 người được vớt đi từ các chiến hạm trong tổng số 250.000 được đi bằng các phương tiện khác như máy bay..

Sự ra đi trên biển cả thật bi tráng và tuyệt vọng như số phận những lá tre trên một đại dương!!

Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nay ngồi nghĩ lại, nhiều người đã không mường tượng nổi họ đã có thể làm được một điều như vậy!

Cứ như một phép lạ Hy Lạp. Cứ như sự đáp trả như một cát tát vào mặt người cộng sản. Cứ như một lời tố cáo trực tiếp: chúng tôi có mặt. Cứ như một tín hiệu cho thấy: đất lành chim đậu. Cứ như một dấu hiệu đâu là quê hương đích thực, đâu là bến đỗ, đâu là chỗ để về…

Nhưng cái Sô vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì.

Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, ngay cả việc trốn chạy.

Nhận xét ấy ăn khớp với điều mà Sir Robert Thompson, một chuyên gia về du kích dưới thời đệ I cộng hòa đưa ra lời tiên đoán trước đó vào ngay 23/3/1975 như sau:” Chúng ta sắp chứng kiến một cuộc đầu hàng chiến lược của Hoa Kỳ.. Cuộc  triệt thoái khỏi Đông Dương là cuộc rút lui lớn nhất thế giới từ khi Napoleon rút lui khỏi Moscou.”.

Một vụ cần nói lại trong chuyến tàu vượt biển này là có một chiếc trực thăng do một vị tướng không quân chở theo một trung tướng quân đoàn đã đáp trực thăng xuống tàu chỉ huy Blue-Ridge. Một sĩ quan đã báo việc này lên vị đô đốc. Ông đã ra lệnh và nói vị thiếu tướng không quân nội dung như sau: Nói với y là đây không thuộc lãnh thổ VNCH mà là nước Mỹ ngoài biển. Và yêu cầu họ cởi bỏ quân phục cũng như lon chậu, đồng thời giữ im lặng, không được tuyên bố điều gì.

Được biết, sau đó vị tướng Không quân đã quỳ phủ phục xuống sàn tàu và thề rằng sẽ có một ngày ông sẽ trở về.

Quả thực, sau này ông đã quay trở về VN, nhưng không phải để phục quốc mà để bắt tay hòa giảo với chính quyền cộng sản..

  • Thế hệ người Việt thứ hai.

Phần những đồng bào may mắn đến được miền Đất Hứa đã hy sinh đời mình cho đời sau con cái, đã tận tụy làm ăn.. Con cái họ nay đã trưởng thành với phần đông thành công trên xứ người, không phụ lòng cha mẹ.

Cả một thế hệ tương lai đầy hứa hẹn như một biểu tượng  thành  công nơi xứ người trong sự hội nhập đem lại hãnh diện cho cá nhân gia đình mà còn góp phần vào gia tài chung của thế giới.

Chúng ta chỉ cần nhìn lại miền Nam Cali, nơi có gần một triệu người Việt sinh sống. Họ tạo  thành một sức mạnh kinh tế, xã hội, văn hóa. Đã có  các tướng lãnh trong nhiều binh chủng Hoa Kỳ, đã có ngững chuyên viên thượng thặng trong nhiều cơ quan chính phủ Hoa Kỳ.. Người Việt hải ngại ngày nay có quyền hãnh diện về những thành quả ấy.

Phần giới trẻ sẽ dần quên quá khứ và những gì chúng biết được, nghe kể lại từ cha ông chúng sẽ chỉ còn là những hoài niệm quá khứ mờ nhạt, lu mờ.

  • Và cái ngày hôm nay, sau 30 tháng tư, 1975, sau 50 năm.

Sau 50 năm, tôi và những người Việt di tản trên dưới 3 triệu người trên khắp thế giới tự hỏi chúng ta được gì? Và mất gì?

Câu hỏi rất thiết thực và xác đáng cần có câu trả lời. Phần tôi, không có tư cách gì đại diện thay cho hơn 3 triệu người ấy.

Nhưng tôi thành thực nghĩ rằng, khi ra đi, tôi đã mất trắng tất cả như một thứ ăn cướp ngày một cách công khai. Từ quê hương, nhà cửa, bạn bè, họ hàng và cả quãng đời tuổi trẻ miền Nam của tôi được lớn lên, được ăn học trở thành người thông tuệ.

Sang xứ người, tôi đã có lại tất cả mọi thứ, con cái tôi được ăn học đến nơi đến chốn mà nếu ở VN, rất có thể, chúng sẽ dở dang không ra ông ra thằng..

Phần trong giới quen biết, những người có căn bản học vị như bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, kỹ sư đều có cơ may trở lại nghề cũ, hội nhập và đời sống thu nhập cao…

Nghĩ lại những điều ấy, tôi thấy rằng món quà cao quý nhất mà đất nước này dành cho tôi và những người khác là Tương Lai.

Có thể có tương lai, có niềm hy vọng là có tất cả mà chính quyền cộng sản không hề có để ban phát.

Kỷ niệm 50 năm ngày mất miền Nam, thay vì nguyền rủa bóng tối, tôi an ủi thân phận mình vẫn còn chút gì và bằng lòng về những điều ấy cho riêng mình…

Tương lai với đầy triển vọng và hứa hẹn vẫn thuộc về chúng ta.


 

Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam và các Vị Tử Đạo Bà Rịa

Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam và các Vị Tử Đạo Bà Rịa

“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9)

Và Người đã dạy tất cả chúng ta:

“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; nếu chết đi thì nó mới sinh được nhiều bông hạt khác.” (Ga 12,24)

Đức Kitô là hạt lúa miến mà Chúa Cha đã gieo vào mảnh đất thế gian. Người đã tự hủy cách hoàn hảo, đơm hoa kết trái dồi dào. Người đích thực là vị tử đạo đầu tiên, trung kiên với sứ mạng được Thiên Chúa Cha trao phó. Người đã chết để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chân lý. Cuộc đời rao giảng, cuộc tử nạn và phục sinh của Người đã trở thành điểm khởi đầu và cùng đích cho đời sống đức tin của các Kitô hữu.

Khởi đi từ các tông đồ, trải qua lịch sử hơn 2000 năm của Giáo hội Công Giáo, các tín hữu ở khắp cùng trái đất đã vui mừng đón nhận vinh phúc tử đạo và coi đó là phương thế tuyệt vời để được chung phần với Đấng Phục Sinh. Các ngài đã sống và chết trong những bậc sống và hoàn cảnh khác nhau để làm chứng cho các giá trị Tin mừng.

Giáo hội Việt Nam hạnh phúc và tự hào khi được cùng chia sẻ vai trò chứng nhân cho con người trên quê hương Việt Nam này. Kể từ ngày các nhà thừa sai gieo mầm đức tin tại Việt Nam, hàng trăm ngàn tín hữu trên mảnh đất hình chữ S đã anh dũng tuyên xưng niềm tin của mình, dù phải chịu bắt bớ, tra tấn, tù đày và hy sinh mạng sống.

Gương sáng của các ngài đã được Giáo hội Hoàn Vũ ghi nhận và tôn vinh. Ngày 19 tháng 6 năm 1988 đã trở thành cột mốc trọng đại trong lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam, tại quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng Hiển Thánh.

Trong số 117 vị, có 08 vị Giám mục đều là thừa sai ngoại quốc, 50 Linh mục với 13 vị người nước ngoài và 37 vị  người Việt Nam, 14 Thầy Giảng; 01 Chủng Sinh và 44 Giáo dân. Trong 117 cái chết anh dũng, có 01 vị chịu bá đao, 04 vị chịu lăng trì, 06 vị chịu thiêu sống, 75 vị chịu xử trảm, 22 vị bị xử giảo và 09 vị chết rũ tù.

Hướng về các bậc tiền bối với tâm tình ngưỡng mộ và biết ơn, cũng như để nhắc lại gương sáng của các ngài, hôm nay, Giáo hội Việt Nam đã công bố mở Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố lịch sử trọng đại này. Năm Thánh khai mạc vào ngày 19.6.2018 (ngày tuyên phong 117 vị Thánh Tử đạo Việt Nam) và Bế mạc vào ngày 24.11.2018, ngày Lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong năm lịch phụng vụ. Trong Năm Thánh này, các tín hữu được hưởng Ơn Toàn xá khi tham dự lễ khai mạc và bế mạc Năm Thánh, cũng như khi hành hương đến các địa điểm được chỉ định.

Tại Giáo phận Bà Rịa, thánh lễ khai mạc Năm Thánh được cử hành lúc 09g30 ngày 19.6.2018 tại Nhà thờ Chánh Tòa; thánh lễ bế mạc vào lúc 09g30 ngày 18.11.2018 tại Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu.

Nhà thờ Mồ được chọn làm nơi hành hương cho các tín hữu trong năm thánh. Nhà thờ Mồ nằm cách Nhà thờ Chánh Toà hiện nay khoảng 300m, trên khu đất trước đây là nghĩa trang giáo xứ. Dù chỉ là một ngôi nguyện đường khiêm tốn, nhưng đây chính là nơi cất giữ cả một ký ức hào hùng của cộng đoàn tín hữu Bà Rịa. Nơi đây ghi danh 288 vị anh hùng đức tin, và ghi dấu nhiều tín hữu vô danh khác, đã đổ máu đào làm nên lịch sử hào hùng cho mảnh đất Bà Rịa.

Chúng ta cùng lần giở lại những trang sử hào hùng cách đây gần 150 năm, để nhìn thấy dòng máu đỏ đã tuôn trào, làm nảy sinh và tăng trưởng bao thế hệ tín hữu. Năm 1861 – 1862 được ghi dấu là 02 năm lửa máu của Phước Tuy, tên gọi trước kia của Bà Rịa. Chính quyền thời đó ngờ vực người Công giáo theo Tây, cụ thể là các nhà sừa sai ngoại quốc cùng các binh sĩ Pháp và Tây Ban Nha, nên đã ra sức lùng bắt các tín hữu. Có khoảng 700 tín hữu đã bị bắt và giam vào 04 ngục thất:

Ngục Chánh tại làng Phước Lễ, giam 300 nam tín hữu.

Ngục thứ Hai cách ngục Phước Lễ khoảng hơn 3000 thước, dọc theo con đường Bà Rịa –  Xuân Lộc. Nơi đây giam giữ 135 tín hữu.

Ngục thứ Ba cách Phước Lễ độ hơn 5000 thước, trên đường hướng về Đất Đỏ, Long Điền. Có 140 tín hữu đã bị giam giữ tại đây.

Ngục thứ Tư trong làng Phước Thọ, trung tâm Họ Đất Đỏ, là nơi giam giữ 125 nữ tín hữu và trẻ con.

Thế rồi ngày hạnh phúc của các tín hữu đã đến. Ngày 7 tháng Giêng dương lịch năm 1862, người Pháp dẫn binh chiếm Phước Tuy, chính quyền địa phương tưởng rằng họ tiến vào giải thoát các tín hữu nên đã phóng hỏa 4 ngục thất. Ngoài một số tín hữu thoát thân, có tất cả 444 vị đã bị chết trong cuộc thiêu sinh đó.

Sau vài tháng tạm yên ổn, cuối năm 1862, một cuộc bắt bớ khác lại tái diễn ở vùng Gò Sầm, Đất Đỏ. Một cuộc lùng sục, truy đuổi các tín hữu lại diễn ra, chủ yếu vùng Đất Đỏ và Họ Thôm (Long Tâm). Lần bách hại này tuy ngắn ngủi nhưng cũng gần 200 tín hữu đã bị sát hại.

Tuy vậy, đúng như lời Chúa nói: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, nếu chết đi thì nó mới sinh được nhiều bông hạt khác. Các tín hữu đã nằm xuống vì đức tin, giọt máu của các ngài đã thấm vào mảnh đất Bà Rịa, làm đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái là bao thế hệ Kitô hữu. Đạo Công giáo dần dần phục hưng và phát triển trên mảnh đất Bà Rịa.

Những năm sau đó, nhiều linh mục, trong đó có các Cha Cố người ngoại quốc, đã lần lượt đến để đồng hành, chăm sóc các tín hữu. Đặc biệt, Họ Bà Rịa vinh dự được Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (sau này là Giám mục tiên khởi của Giáo hội Việt Nam) coi sóc từ năm 1917 đến 1926. Nhiều họ đạo đã được thiết lập, nhiều nhà thờ và các cơ sở tôn giáo như trường học, đất thánh, lầu chuông, phòng thuốc,…cũng dần xuất hiện. Các cử hành phụng vụ, các sinh hoạt giáo hội tại các họ đạo cũng ngày càng phát triển về quy mô và số lượng. Đặc biệt, ngày càng có nhiều anh chị em lương dân tìm đến với Giáo hội để được học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Khai tâm Kitô giáo.

Nhìn lại hành trình đức tin trong những thế kỷ qua, nhìn thấy những thành quả tốt đẹp của Giáo hội hiện tại, mỗi người chúng ta càng được nhắc nhớ phải tỏ lòng tri ân các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các Vị Tử đạo tại Bà Rịa cùng hàng trăm ngàn Kitô hữu vô danh khác đã hy sinh tính mạng để bảo vệ đức tin. Chúng ta tri ân các ngài bằng chính cuộc đời nhân chứng của mình. Đó cũng là lúc chúng ta tiếp nối sứ mạng của các ngài, thi hành nhiệm vụ của mỗi người tín hữu đã được Chúa Phục sinh trao phó.

Về việc tổ chức mừng năm thánh, tại Giáo phận Bà Rịa, ngoài thánh lễ khai mạc và bế mạc Năm thánh, mỗi giáo xứ, giáo họ biệt lập, các dòng tu, các giới và các thành phần tông đồ cấp giáo phận sẽ thực hiện một ngày hành hương riêng kính viếng Nhà thờ Mồ. Ngoài ra, tại mỗi giáo hạt sẽ cử hành ngày sinh hoạt để học hỏi, tôn vinh và cầu nguyện cùng các Thánh tử Đạo Việt Nam cũng như các Vị Tử đạo Bà Rịa.

Sống tinh thần Năm Thánh, mỗi tín hữu được mời gọi chiêm ngắm và học hỏi gương sống đức tin của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Việc học hỏi này vừa giúp chúng ta hiểu biết hơn về lịch sử Hội Thánh và Các Thánh Tử Đạo, vừa thúc đẩy chúng ta noi theo gương sống của các ngài, tích cực sống tinh thần tử đạo trong cuộc sống hàng ngày hôm nay.

Ước gì, nhờ việc tham dự các cử hành Năm Thánh Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mỗi Kitô hữu chúng ta được hưởng trọn vẹn những ơn ích thiêng liêng mà Năm Thánh đem lại, biết dùng ơn Chúa ban để hăng hái phụng sự Chúa, và tích cực góp phần vào việc loan báo Tin Mừng trên quê hương đất nước chúng ta.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu cho dân tộc Việt Nam chúng con. Amen.

Lm. Antôn – Phước Tỉnh


 

Nửa thế kỷ khai tử, Sài Gòn vẫn bất tử-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

February 27, 2025

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

“Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên”[*].

Sài Gòn, danh xưng đã có từ hơn ba thế kỷ để chỉ một vùng lãnh thổ trung tâm phía Nam Việt Nam, nơi đã từng hào phóng đón nhận biết bao thế hệ người Việt cất công nam tiến khai phá vùng đất mới.

Sài Gòn, nhờ vị trí đắc địa đã trở thành một điểm giao thoa của nhiều tôn giáo, nền văn hóa, dân tộc, thành phần … biến sự thân thiện, chân thật, hào sảng trở thành tâm tính địa phương.

Một quán cà phê ở Sài Gòn ngày nay có tên là “Sài Gòn Xưa” như một hoài niệm một thời đã được sống mà không thể nào quên. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Sài Gòn, nơi đã từng là thủ đô của cả một quốc gia dưới nền Cộng Hòa trước khi ngơ ngác thấy mình có danh tính mới vào ngày 2 Tháng Bảy 1976.

Trước đó, thời thuộc Pháp, Sài Gòn vốn đã là trung tâm hành chính của vùng Đông Dương bao gồm Việt, Miên (Cambodia ngày nay) và Lào. Khi ấy, dinh toàn quyền Đông Dương (Dinh Norodom) được người Pháp cho đặt tại Sài Gòn.

Sau khi giành được độc lập, tư cách pháp lý của đô thành Sài Gòn được xác lập vào ngày 22 Tháng Mười 1956, với Sắc lệnh số 143-NV của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhằm đổi tên các tỉnh thành miền Nam Việt Nam, theo đó, đổi tên Sài Gòn – Chợ Lớn thành đô thành Sài Gòn của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, quản lý vùng lãnh thổ từ dưới vĩ tuyến 17 đến Cà Mau theo Hiệp định Genève năm 1954.

Đến ngày 2 Tháng Bảy 1976, sau khi chế độ Cộng Sản thống nhất được lãnh thổ, họ đã thông qua quốc hội để đổi tên đô thành Sài Gòn trở thành thành phố Hồ Chí Minh, vốn là tên giả lãnh tụ của họ: ông Nguyễn Sinh Cung.

Lần giở tài liệu từ khối ý thức hệ Cộng Sản, họ đã từng có tiền lệ đổi tên địa danh bằng tên lãnh tụ.

Trong đó, năm 1925, họ đã đổi tên thành phố Volgograd, tọa lạc tại bờ tây hạ lưu sông Volga, một trong những trung tâm công nghiệp lớn của nước Nga, thuộc Liên Xô cũ trở thành thành phố Stalingrad, tên lãnh tụ Joseph Stalin của Liên Xô khi ấy. Đến năm 1961, sau khi Stalin đã qua đời, thì thành phố mới được phục hồi lại tên cũ Volgograd.

Cũng vậy với thành phố Saint Peterburg. Năm 1924 bị đổi thành thành phố Leningrad, tên lãnh tụ Cộng Sản. Đến tận năm 1991,sau khi Liên Xô tan rã, thành phố mới được phục hồi tên cũ.

Lấy cảm hứng từ các sự kiện đổi tên thành phố này, một bác sĩ thân Cộng là ông Nguyễn Hữu Nghiệp đã vận động nhóm thân hữu cùng đề xuất lấy tên ông Hồ Chí Minh để đổi tên cho đô thành Sài Gòn. Đề xuất này đăng tải trên báo Cứu Quốc, xuất bản tại Hà Nội vào ngày 27 Tháng Tám 1946.

Đến 30 năm sau, khi cưỡng chiếm được miền Nam, giành quyền quản lý toàn lãnh thổ, trong đó có đô thành Sài Gòn, chế độ Cộng Sản đã thay đổi thành thành phố Hồ Chí Minh.

Dịp ấy, người miền Nam, người Sài Gòn tiếc nuối danh tính cũ, vốn đã có từ hàng trăm năm, đã uất hận than thở: “Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên”.

Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn thường được gọi là “Nhà thờ Đức Ba” tọa lạc ở trung tâm thành phố. Lễ Giáng Sinh hàng năm, không phải chỉ có tín đồ Thiên Chúa Giáo, cả triệu người đổ dồn về đây và các đường phố chung quanh hân hoan chào mừng ngày lễ Chúa giáng trần. (Hình: Chris Jackson/AFP/Getty Images)

Tuy đã bị khai tử, nhưng sau nửa thế kỷ, có vẻ như danh xưng Sài Gòn chưa một lần mất dấu. Cái tên Sài Gòn vẫn cứ tồn tại nhờ chính hệ thống truyền thông của chế độ Cộng Sản trong nước, khi bị gắn tên vào những sự kiện tiêu cực, như: Nếu mưa thì “Sài Gòn ngập đến đầu gối”, nếu nắng “Sài Gòn vật vã dưới nắng nóng”, nếu chết “Phát hiện xác chết nam giới nổi trên sông Sài Gòn”, nếu nghiện ngập “Bắt khối lượng ma túy lớn ở Sài Gòn”, nếu chơi bời “Phát hiện ổ mại dâm ở Sài Gòn”, nếu tệ nạn “Chém nhau trên phố Sài Gòn”, thậm chí, nếu hỏa hoạn “Cháy lớn ở Sài Gòn” … đều là những cái tít trên mặt báo của chế độ.

Nhờ vậy, dù nằm ngoài toan tính của chế độ, nhưng đã góp phần giữ gìn lại cái tên Sài Gòn.

Điều đó như đúng tính chất Sài Gòn, nơi không chỉ giao thoa của nhiều tôn giáo, văn hóa, dân tộc, thành phần. Mà còn chứa chấp đủ mọi loại hỷ, nộ, ái, ố tồn tại trong cuộc đời mà vẫn bao dung thân thiện, cũng từ đó mà định hình tính cách hào sảng chẳng dễ thấy từ những nơi khác.

Mới đây, đến cả người đứng đầu chế độ Cộng Sản là ông Tô Lâm cũng đã phải nhắc cái tên Sài Gòn với đầy vẻ tiếc nuối, ông dẫn câu chuyện về Singapore đã từng thèm muốn vị thế Sài Gòn từ thập kỷ 60 như thế nào…

Được nhắc nhở thường xuyên bởi chính những kẻ muốn khai tử cái tên Sài Gòn, giờ lại còn được công khai ca ngợi, thì xem ra, Sài Gòn bất tử. Sài Gòn sống dai dẳng hơn cả đời người, chủ nghĩa, ý thức hệ, sự thắng thua … Sài Gòn cũng chẳng cần đến một lời tuyên bố về sự hồi sinh. Bởi lẽ, Sài Gòn đã từng chết bao giờ mà cần phải hồi sinh?

Hoa Thịnh Đốn, ngày 26 Tháng Hai 2025
Đặng Đình Mạnh

[*] Nước Mắt Cho Sài Gòn (Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên) – Nguyễn Đình Toàn


 

Có hai tù nhân lương tâm vừa lặng lẽ trở về

Tác Giả: Đàn Chim Việt

22/02/2025

Nhà hoạt động nhân quyền Vũ Quang Thuận

Ông Trần Phi Dũng (sinh năm 1966), thành viên nhóm Ân Đàn Đại Đạo (còn được gọi là Hội đồng Công Luật Công Án Bia Sơn hay Công Án Bia Sơn) vừa mãn án hôm 10/2/2025, sau 13 năm tù.

Ông Trần Phi Dũng

Ông Dũng bị bắt tháng 2/2012 cùng với 21 thành viên khác với cáo buộc “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”- điều 79-BLHS năm 1999. Trong vụ án này, tòa án Phú Yên đã kết án 21 người tổng cộng 299 năm tù giam, chưa kể hàng chục năm bị quản chế sau án tù. Riêng ông Phan Văn Thu, người sáng lập Ân Đàn Đại Đạo, bị tuyên án “Chung thân” và đã qua đời trong nhà tù Gia Trung vào năm 2022, sau 10 năm thụ án.

Ân Đàn Đại Đạo xây dựng khu sinh thái Đá Bia rộng 48 héc-ta tại khu vực Suối Lớn, Đèo Cả, thuộc xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên theo hướng “tiền sinh thái, hậu tổ đình”. Khu sinh thái Đá Bia được chính Nhà nước công nhận là khu “sinh thái quốc gia”. Tuy nhiên, hồi tháng 2 năm 2012, nhà cầm quyền bất ngờ lùa công an đột nhập vào khu sinh thái và bắt giữ hàng chục người, đương nhiên cướp trắng tài sản mà họ đã gầy dựng được.

Ngoài ông Phan Văn Thu, hai người khác cũng đã qua đời trong tù do bị ngược đãi và bệnh tật là ông Đoàn Đình Nam (qua đời năm 2019) và ông Phan Thanh Ý (năm 2022).
Ông Trần Phi Dũng ra tù trong tình trạng sức khỏe suy kiệt với một số căn bệnh nan y như tiểu đường, viêm khớp và huyết áp…

Do hoàn cảnh nghèo khó nên trong suốt 13 năm ở tù, gia đình ông chỉ đi thăm nuôi khoảng một năm từ một đến hai lần. Vì thế, con đường tù đày của ông Trần Phi Dũng càng trở nên khắc nghiệt. Hiện ông Dũng vẫn chưa thể đi bệnh viện để khám bệnh vì kinh tế quá khó khăn và việc đi lại của ông gặp khó khăn do án quản chế.

Trong một diễn biến khác, nhà hoạt động nhân quyền Vũ Quang Thuận, còn được biết tới với biệt danh “Võ Phù Đổng” vừa được trả tự do vào sáng 22/2/2025. Thông tin được xác nhận bởi trang facebook Huỳnh Nghĩa. Ông Thuận được trả tự do sớm 9 ngày so với bản án 8 năm tù giam ông đã bị tuyên.

Tin cho hay, sáng ngày 22, cán bộ trại giam Nam Hà đã chở ông Thuận từ nhà tù này tới một bệnh viện tại Hà Nội để khám bệnh. Khám bệnh xong, công an đã chở ông về Thái Bình, là nơi ông có hộ khẩu thường trú, thay vì đưa ông về Hà Nội theo nguyện vọng, nơi trước khi bị bắt ông đã sống cùng mẹ và em trai trong một căn nhà trọ.

Ông Vũ Quang Thuận sinh năm 1966, người sáng lập phong trào Chấn Hưng Nước Việt, bị bắt vào đầu tháng 3 năm 2017 với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88-Bộ luật Hình sự 1999, cùng với hai đồng sự khác là Nguyễn Văn Điển và sinh viên Trần Hoàng Phúc. Ông Thuận bị kết án 8 năm tù giam, 5 năm quản chế. Trong thời gian ở tù, ông Thuận đã phải chiến đấu chống lại bệnh tật và sự ngược đãi của cai tù. Ông Thuận bị bệnh phổi nặng và sức khỏe ngày càng suy kiệt, đặc biệt là 3 năm trở lại đây.

Chính phủ Mỹ và nhiều cơ quan nhân quyền quốc tế đã phản đối bản án dành cho Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc và ca ngợi họ như những công dân can đảm, chiến đấu vì các giá trị tự do.

Phạm Thanh Nghiên


 

Tô Lâm bị dư luận viên chỉ trích vì nói dân Singapore ‘mơ ước sang BV Chợ Rẫy’ chữa bệnh hồi 60 năm trước

Ba’o Nguoi-Viet

February 15, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN, bất ngờ bị giới dư luận viên chỉ trích về phát ngôn cho rằng khoảng 50, 60 năm trước, người Singapore “mơ ước sang bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh.”

Trang Facebook “Tifosi” có hơn 300,000 lượt follow, chuyên định hướng thông tin và tuyên truyền theo ý đảng, hôm 15 Tháng Hai bỗng nhiên đăng một bài dài phản bác phát ngôn nêu trên là “không chính xác.”

Ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN. (Hình: Sài Gòn Giải Phóng)

Bài đăng trên trang này liệt kê rằng trong giai đoạn cuối thập niên 1960, Singapore có tới tám bệnh viện lớn và lượng bác sĩ tính bình quân trên đầu người lớn nhất Đông Nam Á.

“Trong giai đoạn 1969-1972, Singapore là quốc gia có ít trẻ sơ sinh thiệt mạng nhất ở Đông Nam Á với chỉ khoảng 15 trên 1,000 trẻ em, chi tiêu y tế bình quân đầu người lớn nhất Đông Nam Á, số giường bệnh bình quân cao nhất…,” trang “Tifosi” viết.

Việc một trang của giới dư luận viên dám bình luận rằng phát ngôn của ông Tô Lâm “không chính xác” khiến công luận ngạc nhiên.

Đáng nói, bên dưới bài đăng có nhiều ý kiến tranh cãi, tán đồng bình luận cho rằng các phát ngôn gần đây của ông Tô Lâm “có vấn đề” và khen Facebook “Tifosi” “rất can đảm.”

Facebooker “Đinh Dôn” đặt câu hỏi: “Page nay ‘chơi lớn’ thế. Muốn bị bế [bắt] à?”

Facebooker “Tran Van Tuan” thì nói dạo gần đây thấy ông Tô Lâm “phát biểu nhiều cái khiến mình không thích lắm,” như “đem một số tỉnh thành của Trung Quốc ra so sánh với Việt Nam” và sau vụ trao huân chương [Sao Vàng] cho “đồng chí X” [Nguyễn Tấn Dũng, cựu thủ tướng].

Facebooker này nhấn mạnh rằng nếu được bầu tổng bí thư thì “mình sẽ bầu cho bác [Phạm Minh] Chính vì ông này thực sự là người nghĩ cho đất nước.”

Facebooker Trần Khoa nói: “Chuẩn luôn. Đôi lúc chả hiểu lãnh đạo mình đang bị nhét chữ hay là đúng không hiểu về lịch sử đất nước thật. Thấy có những tít rất mị dân!”

Bệnh viện Chợ Rẫy tại Sài Gòn. (Hình: Tài Nguyên và Môi Trường)

Một số ý kiến khác thì bày tỏ sự nghi ngờ về trình độ “không tới đâu” của các thư ký, trợ lý của ông Tô Lâm.

Ngoài phát ngôn liên quan Singapore, ông Tô Lâm cũng gây tranh luận khi thừa nhận Sài Gòn trước đây là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, là “Hòn Ngọc Viễn Đông,” khái niệm mà giới dư luận viên thường tỏ vẻ bực tức mỗi khi có ai đó nhắc đến để so sánh với thực trạng của TP.HCM sau 1975. (N.H.K) [qd]


 

NỀ NẾP CỦA NGƯỜI MIỀN NAM CẦN GÌN GIỮ – Nguồn: Nguyễn An Chi

Nguồn: Nguyễn An Chi

Trước 1975 ở miền Nam, vợ chồng thường gọi nhau là “mình”.

Khi giới thiệu vợ với người khác thì người chồng thường nói:

  • Xin giới thiệu với anh, đây là nhà tôi.

Ngược lại trong trường hợp khách đến tìm thì người vợ lại nói:

Thưa anh, nhà tôi đi vắng. Nếu cần việc gì thì anh có thể nhắn lại.

Đạo vợ chồng nghĩa phu thê thời đó có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng. Những chuyện ly thân ly hôn rất hiếm khi xảy ra. Thậm chí có nhiều trường hợp chỉ mới là người yêu chưa hề được nắm bàn tay nhưng vẫn chờ đợi nhau hàng chục năm với tất cả sự nhớ nhung trung trinh chung thủy.

Miền Nam trước 1975 , không có chuyện giấy tờ nhà đất xe cộ đứng tên cả 2 vợ chồng như thời nay . Chỉ 1 người đại diện, thường là người chồng, vì xã hội miền Nam trước 1975 hiếm có chuyện vợ chồng lừa gạt nhau , tranh giành tài sản. Hồi đó, nếu có ly hôn ,cũng không có chuyện phân xử tranh giành quyền nuôi con và chu cấp. Tất cả đều là tự nguyện thu xếp của 2 vợ chồng ….

Người lớn đã như vậy nên đối với con cái thì người miền Nam rất chú trọng vấn đề giáo dục.

Thông thường mấy đứa nhỏ gọi Ba – Má, Cha – Mẹ, vùng thôn quê thì có nhà gọi là Tía – Vú. Có nhiều gia đình lại gọi Papa – Maman theo Tây.

Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì mới nghe những cách xưng hô Thầy – U, Bố – Đẻ, Cậu – Mợ

Nhà của người miền Nam xưa không bao giờ có chuyện phơi quần áo phía trước mặt tiền. Trước nhà là bộ mặt của gia đình, không có chuyện phơi bày những thứ sinh hoạt riêng tư như vậy.

Con cái trong nhà của người miền Nam thường được dạy dỗ rất kỹ theo lễ giáo.

Đi thưa về trình, trước khi đi đâu thì phải nói Thưa Ba, con đi tới nhà bạn… Lúc về thì cũng nói Thưa Ba, con mới về…

Có khách đến thăm nhà thì phải bước ra khoanh tay cúi đầu chào Thưa Bác, Thưa Chú, Thưa Cô, Thưa Dì…

Khi đã thưa gửi đàng hoàng thì vào trong lấy ly nước đem ra mời khách, làm gì cũng bằng cả hai tay.

Trong khi khách nói chuyện với Cha Mẹ thì tuyệt đối tránh mặt không lai vãng, không được phép đùa giỡn hay nói chuyện lớn tiếng.

Trong lúc đang ăn không được nói chuyện, uống nước hay làm cho chén đũa kêu thành tiếng, nhai thức ăn không được phát ra tiếng sì sụp sột soạt, không ợ hơi vì như vậy là bất lịch sự..

.Con gái đến tuổi cập kê khi ngồi thì phải khép hai chân lại, không được phép nằm ngửa ở bất cứ đâu nếu không phải là trong buồng riêng đã đóng kín cửa. Các cô ấy cũng không được phép tự ý ra nhà trước chào khách nếu không được Cha Mẹ gọi.

Trò chuyện với bất cứ ai cũng phải dùng lời lẽ chuẩn mực, không được nói những từ ngữ dung tục không thanh tao đứng đắn.

Đi mà kéo lê chiếc dép kêu lẹt xẹt: bị đòn. Người lớn đang nói chuyện mà chen vào một câu thì gọi là ăn cơm hớt: bị đòn. Buổi trưa ăn cơm xong mà không chịu ngủ cứ đùa giỡn hoặc nói lớn tiếng: bị đòn… Con nít ngày xưa rất dễ ăn chổi lông gà với những tội trạng như vậy.

Chỉ cái chuyện ăn uống đi đứng nằm ngồi sinh hoạt thôi mà ngày xưa ta đã được ông bà cha mẹ giáo huấn rất kỹ. Qua đó đã hình thành nên nhiều thế hệ người miền Nam có tính cách lễ phép gia giáo khiêm cung khoan hòa như đã thấy…

Được thụ hưởng cung cách dạy dỗ của ông bà cha mẹ như vậy mà nếu ngày hôm nay mỗi người cố gắng truyền lại những điều tốt đẹp đó cho thế hệ con cháu thì đó chính là đã góp một phần quan trọng để giữ gìn danh tiếng cao quý đáng hãnh diện nhất của chúng ta: NGƯỜI MIỀN NAM !

Nguồn: Nguyễn An Chi

From: taberd-6 & NguyenNThu


 

Leo Thang Bạo Lực Tại Việt Nam: Hai Vụ Án Giết Người Gây Chấn Động

Ba’o Dat Viet

February 12, 2025

Hai vụ án giết người nghiêm trọng đã diễn ra tại Việt Nam, thu hút sự chú ý của dư luận và cơ quan chức năng, làm dấy lên lo ngại về tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng trong xã hội.

Tại tỉnh Bình Phước, vào rạng sáng ngày 10 Tháng Hai, một cuộc xô xát nghiêm trọng đã xảy ra tại xã Tân Tiến, huyện Bù Đốp. Công an tỉnh đã bắt giữ Nguyễn Hữu Nghĩa, 42 tuổi, với cáo buộc giết người. Vụ việc bắt đầu từ mâu thuẫn gia đình giữa bà Hoàng Thị Thương và chồng cũ tên Hải, dẫn đến một cuộc hỗn chiến đẫm máu. Trong lúc xô xát, Nghĩa đã dùng dao làm bếp chém ông Phạm Văn Nhu, chồng mới của bà Thương, khiến ông Nhu tử vong do vết thương quá nặng. Nghĩa sau đó đã đến đầu thú tại Công An Huyện Bù Đốp.

Một vụ việc khác tại Sài Gòn cũng gây rúng động không kém, khi Nguyễn Hoài Sơn, 23 tuổi, bị bắt giữ với cáo buộc tương tự sau khi đã giết anh Phong, 19 tuổi, trong một cuộc ẩu đả tại quán cà phê. Theo điều tra ban đầu, mâu thuẫn phát sinh từ việc anh Phong mượn điếu cày nhưng không đi mà còn đứng gần đó nói khích. Căng thẳng gia tăng khi hai bên to tiếng và sau đó xảy ra xô xát. Ông Sơn đã dùng dao đâm trực tiếp vào tim anh Phong, khiến nạn nhân tử vong tại chỗ. Sơn đã cố gắng trốn chạy bằng cách phi tang hung khí và di chuyển đến Đà Lạt, nhưng cuối cùng cũng bị bắt tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Những vụ việc này không chỉ là bi kịch cá nhân mà còn là dấu hiệu của những vấn đề sâu xa hơn trong xã hội, nơi mà các tranh chấp và mâu thuẫn cá nhân có thể dễ dàng biến thành bạo lực. Các vụ án mạng như vậy càng làm dấy lên nhu cầu cấp thiết về sự can thiệp của cơ quan chức năng để ngăn chặn tình trạng này, đồng thời củng cố hệ thống pháp luật và tăng cường công tác giáo dục pháp luật để giảm thiểu những hành vi tương tự trong tương lai.


 

Nhân cách hoá và nội địa hoá-Mai Bá Kiếm

Ba’o Tieng Dan

Mai Bá Kiếm

10-2-2025

Nguyên thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc rất khoái “nhân cách hóa” đồ vật thành con người. Đến thăm tỉnh nào, anh “Bãi” đều chỉ đạo tỉnh đó phải là đầu tàu để kéo nền kinh tế cả nước đi lên. Không chỉ “nhân cách hóa” 63 đầu tàu trong nước, anh “Bãi” còn “nhân cách hóa” cột đèn tuốt bên Mỹ bằng câu ví von linh ứng “Cột đèn bên Mỹ nếu có chân sẽ đi về Việt Nam hết”. Và y như trong kinh – in như trong ky, tổng thống Trump đã trả đợt “cột đèn” đầu tiên về Ấn độ, sắp tới sẽ có “cột đèn về Việt Nam” đúng tâm tư của anh “Bãi”.

Cho dù, có nhiều hãng xe hơi (vốn FDI) lắp ráp ở Việt Nam, nhưng tỷ lệ nội địa hóa các linh kiện rất thấp, đến con ốc, vít còn chưa làm được, thậm chí bác Tổng bí thư Tô Lâm còn chỉ ra “hàng dệt may, túi xách, giày da xuất khẩu mấy tỷ đô, nhưng vải, da, cây kim, sợi chỉ của người ta hết, mình chỉ bỏ công thôi”, nhưng thủ tướng Phạm Minh Chính đã đặt hàng các công ty trong nước “nội địa hóa” thép đường ray, “nội địa hóa” toa tàu điện mới ớn chứ!

Việt Nam có nhiều tập đoàn thép rất hoành tá tràng, doanh số hàng chục ngàn tỷ đồng nhưng chỉ luyện được thép CT.3, cao lắm là thép carbon C.45, chưa luyện được thép cứng hơn như nhíp xe hay thanh tà vẹt nói gì đến thép hợp kim? Ai ở Hà Nội đều bết huyện Thạch Thất còn kỹ nghệ nấu sắt vụn bằng than đá, dầu cặn, để đúc ra phôi sắt, cán thành sắt xây dựng; và những nhà nấu sắt thủ công này đều phất lên giàu có, thì Hòa Phát không là đại tỷ phú sao được?

Ai ở TP.HCM đều thấy hàng ngày có nhiều xe container chở một cuộn thép chạy từ cảng Bến Nghé ra, vì Việt Nam chưa cán được sắt tấm, Tôn Hoa Sen phải nhập sắt tấm 3 zem – 5 zem về đưa vào máy cán sóng thành tole. Nếu Hòa Phát “nội địa hóa” đúc đường ray, chắc chắn phải nhập phôi thép về đúc, mà chưa chắc đã khử được bọt khí!

Khoảng năm 1996, khi thủ tướng Võ Văn Kiệt họp với các chủ tịch tỉnh tại dinh Thống Nhất, tôi có hỏi Bộ trưởng Công nghiệp Đặng Vũ Chư “Tại sao trong 6 ngành mũi nhọn để Việt Nam thành nước “hiện đại hóa – công nghiệp hóa” có “cơ khí chế tạo máy”, có “vật liệu mới” mà không có mũi nhọn “luyện kim”, mà Việt Nam chỉ sản xuất CT.3 và C.45 thì lấy thép hợp kim đâu mà chế tạo máy và dụng cụ cắt gọt?” Suy nghĩ một hồi Bộ trưởng Đặng Vũ Chư nói “Thôi ông ơi, ông báo Phụ Nữ mà hỏi chi chuyện chuyên môn sâu?”

Vì không xem luyện kim là ngành mũi nhọn, nên kỹ nghệ thép Việt Nam đến giờ còn nhập phôi cán sóng, đúc thành sắt hộp, sắt ống…. Nước mình quá vui khi có hai đời thủ tướng “nhân cách hóa” rồi “nội địa hóa”. Hy vọng chỉ đạo “Nội địa hóa” sẽ thành hiện thực để ngành luyện kim Việt Nam sánh vai cùng Đức, Anh, Mỹ, Nhật…


 

Lộ clip Phạm Minh Chính dẫn đoàn xe 100 chiếc đi thị sát cao tốc ở Cao Bằng

Ba’o Nguoi-Viet

February 9, 2025

CAO BẰNG, Việt Nam (NV) – Một tuần sau khi ông Phạm Minh Chính, thủ tướng Việt Nam, đi thị sát công trường thi công tuyến cao tốc Đồng Đăng-Trà Lĩnh, tại tỉnh Cao Bằng, một đoạn video clip cho thấy đoàn xe của ông này lên đến cả trăm chiếc.

Trong đoạn clip được chia sẻ nhiều trên mạng xã hội hôm 9 Tháng Hai, đoàn xe của ông Chính dài cả cây số, hú còi inh ỏi và bật đèn ưu tiên trước khi rẽ vào một đoạn đường đất đỏ, nơi có hàng trăm công nhân thi công cao tốc.

Ông Phạm Minh Chính (người cầm cây), thủ tướng Việt Nam, và bầu đoàn thê tử tại công trường thi công cao tốc ở huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. (Hình: Cao Bằng)

Khi xuống xe, ông Chính được một người đàn ông đi theo sau chải đầu giùm, trước khi bước vào khu vực có hai hàng người đang xếp hàng chờ.

Facebooker Lê Duy Khương bình luận bên dưới đoạn clip: “Một ông thủ tướng đi thị sát mà một đội quân đi hộ tống đông vậy? Hèn chi một đất nước đầy tài nguyên khoáng sản, vị trí địa lý thuận lợi, có một đảng sáng suốt lãnh đạo mà mãi sau khi giành được Sài Gòn gọi là thống nhất đất nước, mãi 50 năm rồi mà không chịu phát triển, biết đến bao giờ thì dân Việt Nam mới không qua Thái Lan làm thuê nữa.”

Một ý kiến khác bày tỏ thắc mắc: “Sao quan chức nào đi đến đâu cũng huy động một lực lượng công an và xe cộ nhiều đến như vậy trong khi lãnh đạo luôn tự hào Việt Nam an ninh và an toàn nhất thế giới, không có khủng bố này nọ như một số quốc gia khác.”

Trong khi đó, báo Lạng Sơn đăng bộ ảnh cho thấy ông Phạm Minh Chính “diễn” cảnh chỉ chỏ trên công trường và chỉ đạo nhà thầu “tăng năng suất, tăng ca kíp, tăng tốc hơn nữa để thông tuyến cao tốc huyết mạch từ hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn đến tỉnh Cà Mau trong năm 2025.”

Đoàn xe hộ tống ông Phạm Minh Chính hôm 2 Tháng Hai tại tỉnh Cao Bằng được nhìn thấy cả trăm chiếc. (Hình: Chụp qua màn hình)

Ông Chính được dẫn lời yêu cầu nhà thầu thi công tuyến cao tốc “phấn đấu thi công vượt tiến độ, tích cực áp dụng kinh tế tuần hoàn, đào chỗ này, đắp chỗ kia, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần.”

Ngoài ra, ông Chính yêu cầu lãnh đạo tỉnh Cao Bằng “tiếp tục huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết, trong đó có các lực lượng cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên… hỗ trợ đẩy nhanh tiến độ thi công cao tốc…”

Vụ đoàn xe 100 chiếc của Thủ Tướng Chính được ghi nhận cùng lúc với đoàn xe 45 chiếc của ông Tô Lâm, tổng bí thư CSVN, đi viếng nghĩa trang Vị Xuyên ở tỉnh Hà Giang trong lúc đảng hô hào “tinh gọn bộ máy” và “chống lãng phí.” (N.H.K)