Kịch bản giả định về tương lai Việt Nam

Kịch bản giả định về tương lai Việt Nam

VietTuSaiGon

RFA

Hiện tại, khói lửa chiến tranh Việt – Trung có vẻ như đang bén. Nhưng, cũng có khả năng sẽ không có cuộc chiến tranh nào giữa Việt Nam và Trung Quốc và nếu có súng nổ chăng nữa thì đó cũng là những phát súng thí tốt để hợp thức hóa những thứ đã ký kết trong hội nghị Thành Đô giữa đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) và đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến đây, có hai tình huống: Giả sử có chiến tranh Việt – Trung xảy ra thì như thế nào? Nếu có những phát súng hợp thức hóa diễn ra thì ra sao?

Nếu có chiến tranh Việt – Trung xảy ra, thì chắc chắn khả năng mất thêm đất liền và mất toàn bộ biển đảo trên biển Đông là có thật. Bởi khác với cuộc chiến năm 1979 một trời một vực. Nếu như năm 1979, quân đội CSVN bị bất ngờ bởi các cuộc tiến công vào chiến trường Đông Bắc và Tây Bắc. Nhưng sự bất ngờ đó chỉ diễn ra trong chớp nhoáng thì phía quân đội CSVN đã kịp đưa quân tăng cường từ các đơn vị đồng bằng để ứng cứu. Và lò lửa chiến tranh chỉ cháy duy nhất ở chiến trường biên giới phía Bắc.

Ngược lại, nếu có chiến tranh trong đất liền hiện tại thì mọi chuyện hoàn toàn khác, phía Trung Quốc đã có sự chuẩn bị rất kĩ lưỡng từ trên rừng cho đến đồng bằng và biển đảo. Những khu tự trị của Trung Quốc nằm rải rác khắp ba miền đất nước sẽ là những vệ tinh cần thiết để vừa nắm bắt thông tin, điều phối tấn công và điều hợp quân lương, quân cụ cũng như quân nhu… Đó là chưa nói đến lực lượng tại chỗ của người Trung Quốc quá đông, họ là những công nhân trá hình, những người lao động trá hình và thậm chí những kĩ sư trá hình…

Đổi lại, sức mạnh quân đội CSVN có thể rất mạnh về kĩ năng, hình thức tổ chức nhưng ngược lại rất yếu về mặt tư tưởng. Nếu như những năm trước 1990, quân đội CSVN vẫn giữ được sức mạnh tư tưởng, mỗi người lính trong quân đội có thể tận hiến sinh mệnh, sức mạnh cũng như ý chí của họ để chiến đấu vì lý tưởng bảo vệ đất nước… Thì hiện nay, trong một thế giới phẵng, người lính không còn bị mù mờ thông tin và họ dễ dàng đối chiếu những thông tin với thực tại đời sống nhà binh, có nhắm mắt họ cũng thấy các cấp chỉ huy của họ là những quan tham, những kẻ ăn trên ngồi trốc bằng mồ hôi của đám lính bên dưới.

Lý tưởng hoàn toàn mất đi, tư tưởng cũng không có bởi người lính thừa biết mình đang chiến đấu cho chế độ, bảo vệ đảng Cộng sản chứ không phải bảo vệ quốc gia, dân tộc. Ngay cả Chủ tịch quân ủy trung ương, người nắm vị trí tối cao trong quân đội chính là Tổng Bí thư đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng cũng là kẻ có quá nhiều hành vi mập mờ trong vấn đề đối ngoại với kẻ xâm lăng Trung Quốc, thậm chí thỏa hiệp ra mặt… Nếu có kỉ luật quân đội thì tất cả những thứ tưởng như là kỷ luật ấy trong lúc chiến đấu chỉ dừng ở mức họ sợ thứ kỷ luật thép và sợ con mắt soi mói của những chính trị viên. Nhưng đây lại là vấn đề đe dọa nghiêm trọng đến sức mạnh quân đội. Có thể biến thành con dao hai lưỡi khi có biến cố chiến tranh.

Bên cạnh đó, hình ảnh cũng như cung cách của các tướng lĩnh quân đội CSVN phải nói là quá tệ, họ chưa thể hiện được dũng khí của nhà binh, thậm chí với dáng dấp nục nịch, nói năng thiếu oai phong và chỉ riêng việc mang tấm thân để chạy không thôi cũng là một vấn đề quan ngại, thành tích tham nhũng thì ông nào cũng cao ngất, chẳng có ông nào là sạch sẽ, thanh liêm… Vấn đề sức mạnh quân đội CSVN là một vấn đề nan giải trong lúc này! Chính vì vậy, khả năng thỏa hiệp và chấp nhận trở thành một tỉnh lị của Trung Quốc thông qua vài phát súng, vài cuộc chiến giả tạo để hợp thức hóa hội nghị Thành Đô là rất cao. Đó là không muốn nói đến một chuyện khác, người lính CSVN đã bị tẩy não và nhồi sọ ngay từ đầu về tinh thần đặt Trung Quốc làm trung tâm và khiếp nhược chiến tranh.

Một câu hỏi nữa, nếu như Việt Nam thành một tỉnh lị của Trung Quốc thì việc gì sẽ xảy ra? Có hai việc rất căn bản phải xảy ra, đó là người dân Việt Nam sẽ dần bị Hán hóa theo con đường phổ hệ. Mọi ngõ ngách từ thành phố đến thôn làng, bản buôn của Việt Nam sẽ đầy rẫy người Trung Quốc và họ sẽ nhanh chóng cấy giống Trung Hoa trên khắp đất Việt. Những tộc họ miền xuôi và tộc người miền núi sẽ nhanh chóng đổi màu.

Nhưng trước đó, sẽ có một cuộc thanh trừng chính trị, vì đây là thông lệ của Trung Quốc. Chiêu bài chống tham nhũng sẽ được mang ra áp dụng trên đất Việt Nam. Tất cả những tài sản của giới chóp bu CSVN sẽ được nhắm đến và trung ương Cộng sản Trung Quốc sẽ đứng ra phân xử, sẽ cho bắt dần bắt mòn hết mọi tay tướng tá, quan lại thái thú Cộng sản Việt Nam vì tội tham nhũng và sau đó sẽ cho thay thế những người “thanh liêm hơn, có đầu óc lãnh đạo và vì dân hơn”. Đương nhiên, những kẻ lên nắm quyền thay thế phải là người Trung Quốc.

Chiêu bài này đã có sẵn trong lịch sử bành trướng Trung Quốc cả ngàn năm nay, có tên hẳn hoi, đó là “cưu trư đắc thục”, nghĩa nôm na là nuôi heo lấy thịt. Nghĩa là trước khi xâm lăng, việc đầu tiên mà chính quyền đại Hán làm là đầu tư và nuôi một bầy heo ở nước sắp bị xâm lăng. Bầy heo này chính là những tên bán nước. Chúng sẽ được tuyển làm gián điệp, đầu tư từ tài chính cho đến đường hướng để lên nắm chức quyền, leo lên vị trí cao nhất. Để khi chính bọn này nắm vận mệnh đất nước thì tự trao cho đại Hán. Và khi mọi việc đã thành tựu, việc đầu tiên cần làm chính là thịt những con heo đại Hán đã nuôi bấy lâu nay. Thường những lần thịt như vậy đều nhân danh công lý và lẽ phải!

Trong tình trạng Việt Nam. Nếu có chiến tranh Việt – Trung thực sự thì chính những con heo Tàu nuôi mấy chục năm nay sẽ là gánh nặng cho quốc gia, dân tộc. Và đáng sợ nhất là chiến tranh trên biển, với kỹ thuật, khí tài cũng như yếu tố tư tưởng con người đang có thì chắc chắn quân đội CSVN không bao giờ là đối thủ của quân đội CSTQ. Và trên bộ, Việt Nam cũng khó mà giữ chân quân Trung Quốc khi mọi ngõ ngách của Việt Nam đã có nội ứng Trung Cộng.

Khả năng lớn nhất có thể diễn ra là một cuộc chiến hợp thức hóa hội nghị Thành Đô. Và tiếp theo đó sẽ là hành động của người Trung Quốc, logic của nó sẽ là tiêu diệt hệ thống thái thú Việt Nam bằng con đường chống tham nhũng (làm thịt những con heo đã nuôi). Tiếp theo là xây dựng đội ngũ quan lại Trung Hoa trên đất Việt, đồng hóa dân Việt. Kịch bản này có khả năng mạnh nhất, bởi chưa bao giờ số lượng thái thú Tàu cài cắm trong bộ máy cầm quyền Việt Nam nhiều như hiện tại, nó có mặt từ trung ương đến địa phương, từ giới thương nhân đến người nông dân, từ trí thức đến kẻ không có hiểu biết, từ việc lớn cho đến việc nhỏ đều đậm chất thái thú phản động.

Và chỉ có một cửa sinh duy nhất cho Việt Nam hiện tại. Đó là năng lượng phản tỉnh tổng lực Việt Nam. Nghĩa là khi nhân dân tỉnh thức kịp thời, đứng dậy, giới quan lại gồm cả những thái thú tỉnh thức kịp thời, để tránh bị giết thịt sau này, góp công, góp tài sản đã tham nhũng vào công quỹ quốc gia để đối phó với chiến tranh. Một khi giới quan lại Cộng sản Việt Nam có được động thái này, sức mạnh toàn dân sẽ như vũ bão, và lúc đó, các nước tiến bộ sẽ có hành động kịp thời để giúp đở cho Việt Nam bởi họ có lý do chính đáng để giúp đỡ, để xem Việt Nam là đồng minh của họ.

Coi dân như không, xem môi trường như rác

 Coi dân như không, xem môi trường như rác
Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV) – Bộ trưởng Tài Nguyên-Môi Trường của Việt Nam vừa giao cho Tổng Cục Môi Trường tổ chức thanh tra các tác động đến môi trường của dự án xây dựng nhà máy giấy Lee & Man.

Ðây là một dự án đầu tư của tập đoàn Lee & Man Paper ở Hồng Kông, trị giá khoảng 628 triệu Mỹ kim, đã được chính quyền tỉnh Hậu Giang cấp giấp phép sử dụng khoảng 82 hecta đất tại cụm công nghiệp Nam sông Hậu, tọa lại tại xã Phú Hữu A, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Theo giấy phép đầu tư, tập đoàn Lee & Man Paper đã xây dựng hai xưởng, một sản xuất bột giấy tẩy trắng, công suất khoảng 330,000 tấn/năm và một sản xuất giấy cứng để làm bao bì cao cấp, công suất khoảng 420,000 tấn/năm.


Một trong những họng cống của nhà máy giấy Lee & Man. Nước thải sẽ được xả thẳng vào sông Hậu. (Hình: Tuổi Trẻ)

Lý do dẫn tới quyết định thanh tra các tác động đến môi trường của nhà máy giấy Lee & Man là vì tuần trước, Hiệp Hội Chế Biến và Xuất Cảng Thủy Sản Việt Nam (VASEP) gửi một văn bản cho thủ tướng Việt Nam và Bộ Nông Nghiệp-Phát Triển Nông Thôn, đề nghị xem lại dự án này. VASEP nhấn mạnh, nếu nhà máy giấy Lee & Man xả nước thải ra sông Hậu, con sông sẽ bị ô nhiễm trầm trọng, nguồn lợi thủy sản (tôm, cá) bị tận diệt và ảnh hưởng đến cả sản lượng của vựa lúa ở đồng bằng sông Cửu Long.

Ðây có lẽ là lần đầu tiên chính quyền Việt Nam tỏ ra chú ý tới một đề nghị xét lại dự án đầu tư vì dự án đó có thể gây nguy hại cho môi trường, chứ không vứt vào sọt rác như trước…

Ông Dương Văn Ni, một chuyên gia môi trường, làm việc tại Ðại Học Cần Thơ, kể với báo giới rằng, năm 2006, ông từng được mời phản biện ý tưởng xây dựng nhà máy giấy Lee & Man. Vào thời điểm đó, ông Ni đã khẳng định rằng trên thế giới, chẳng có ai xây dựng nhà máy giấy ở một nơi như đồng bằng sông Cửu Long bởi điều đó sẽ hủy diệt môi sinh, môi trường. Sản xuất giấy cũng như sản xuất hóa chất, thép,… luôn thải ra một lượng nước lớn chứa nhiều chất cực độc.

Do rất khó kiểm soát chất lượng nước thải cũng như loại bỏ hoàn toàn những rủi ro trong quá trình xử lý nước thải, ô nhiễm có thể trở thành thảm họa không chỉ với sông Hậu mà còn lan vào hệ thống kênh rạch nối với các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, hủy diệt toàn bộ khu vực Tây Nam sông Hậu.

Cũng theo lời ông Ni, sau khi cảnh báo như thế, ông không được mời góp ý nữa. Ý tưởng xây dựng nhà máy giấy Lee & Man cạnh bờ sông Hậu, đoạn chảy qua huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang được chấp thuận. Dự án đầu tư được phê duyệt, Giấy phép đầu tư được cấp cách nay khoảng tám năm. Lẽ ra nhà máy giấy Lee & Man đã hoạt động vào cuối năm 2008 nhưng vì nhiều lý do, tháng tới, nhà máy này mới hoàn tất.

Theo qui định của luật pháp Việt Nam, các dự án đầu tư phải tổ chức khảo sát và có báo cáo đánh giá tác động môi trường. Ông Nguyễn Hữu Thiện, một chuyên gia về sinh thái đồng bằng sông Cửu Long, kể với báo giới, Báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án xây dựng nhà máy giấy Lee & Man chỉ lấy ý kiến của 20 người dân về tác động của dự án đối với đất, nhà và hoa màu.

Do không thông báo những nguy cơ có thể tác động đến nguồn nước, nguồn lợi thủy sản, không khí,… 20 người dân được hỏi ý kiến đều đồng ý kèm yêu cầu phải bồi thường thỏa đáng. Báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng đã được gửi cho… chính quyền và Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc xã Phú Hữu A để… tham khảo. Nhân danh cộng đồng, hai tổ chức này hoan hỉ đồng ý.

Vì vào thời điểm vừa kể (2008), nhà máy giấy Lee & Man chưa hoạt động nên tập đoàn Lee & Man Paper của Hồng Kông đã đưa các viên chức Việt Nam từ huyện đến trung ương đi “tham quan” các nhà máy của tập đoàn này tại Thâm Quyến và Quảng Châu, Trung Quốc. Ông Võ Văn Thắng, phó giám đốc Sở Công Thương tỉnh Hậu Giang, lúc đó là phó chủ tịch huyện Châu Thành – một trong những viên chức được tập đoàn Lee & Man Paper của Hồng Kông mời đi “tham quan,” tiết lộ với báo giới: Mẫu nước làm cơ sở cho việc thẩm định và phê duyệt của hàng loạt cơ quan hữu trách tại Việt Nam đối với dự án đầu tư nhà máy giấy Lee & Man hồi 2008 được lấy ở… Quảng Châu!

Dường như thảm họa cá chết trắng đoạn bờ biển dài 250 cây số chạy dọc bốn tỉnh phía Bắc miền Trung hồi đầu tháng 4 – thảm họa mà đa số dân chúng Việt Nam tin là hậu quả từ hoạt động thử nghiệm của nhà máy thép do tập đoàn Formosa của Ðài Loan, xây dựng tại khu công nghiệp Vũng Áng – mới là yếu tố chính đẩy chính quyền Việt Nam tới chỗ phải thay đổi cách hành xử.

Theo dự kiến, cuộc thanh tra dự án xây dựng nhà máy giấy Lee & Man sẽ bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 với sự tham gia của các cơ quan hữu trách ở Hậu Giang như: Sở Tài Nguyên-Môi Trường, Cảnh Sát Môi Trường,…

Dẫu còn phải chờ kết luận cuối cùng nhưng ít nhất những dữ kiện liên quan đến dự án xây dựng nhà máy giấy Lee & Man cũng cho thấy, giống như chính quyền Việt Nam và chính quyền các địa phương khác, chính quyền tỉnh Hậu Giang chỉ quan tâm đến một chuyện: Thu hút đầu tư ngoại quốc để có thành tích tăng trưởng còn tác động của dự án đầu tư đến môi trường ra sao, dân sẽ sống thế nào là chuyện họ không bận tâm.

Bối cảnh như hiện nay khiến chính quyền Việt Nam không thể thản nhiên hy sinh môi trường để lấy thành tích như trước nhưng làm ngược lại thì rõ ràng là không dễ dàng. Tập đoàn Lee & Man Paper của Hồng Kông chẳng thiếu loại giấy tờ nào và theo dự kiến, nhà máy giấy Lee & Man ở cụm công nghiệp Nam sông Hậu sẽ hoạt động vào tháng tới. Ngăn cản có thể bị kiện và bị buộc phải bồi thường! Chính quyền tiếp tục gật hay lắc thì đối tượng lãnh đủ cũng chỉ là dân. (G.Ð)

 

Cuộc sống của thương binh miền Bắc Việt Nam

 Cuộc sống của thương binh miền Bắc Việt Nam

Xuân Nguyên, thông tín viên RFA
2016-06-28

000_Hkg8756006.jpg

Cựu bác sĩ Mỹ Sam Axelrad (phải) trao xương cánh tay được bảo tồn của cựu chiến binh Nguyễn Quang Hùng (trái), tại nhà ông Hùng tại thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai vào ngày 01 tháng 7 năm 2013.

 AFP photo

00:00/00:00

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975, những người lính miền Bắc Việt Nam tưởng rằng sẽ được nghỉ ngơi, nhưng phải đợi đến hội nghị Thành Đô 1990, cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung mới chấm dứt hoàn toàn. Lúc này những người lính miền Bắc mới được buông súng và không còn phải xông pha trên các chiến trường ác liệt.

Cuộc sống hiện nay

Sau khi chiến tranh chấm dứt, người lính miền Bắc trở về với mái ấm gia đình, trong đó có rất nhiều người lính đã trở thành thương binh, vì đã bỏ lại một phần cơ thể trên các chiến trường. Khác với những thương phế binh Việt Nam Cộng hòa, các thương binh miền Bắc nhận nhiều sự hỗ trợ từ phía chính quyền.

Tùy thuộc vào mức độ thương tật mà các thương binh được xếp hạng thương binh để nhận sự hỗ trợ theo tiêu chuẩn. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều thương binh vẫn gặp khó khăn khi trở về quê hương sinh sống.

Ông Trần Thiên Phụng, một thương binh quê ở Quảng Trị – người tham gia trận chiến Gạc Ma năm 1988, sau đó bị quân đội Trung Quốc bắt giam làm tù binh cho biết, cuộc sống hiện nay của ông còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Các khoản phụ cấp của chính quyền bao gồm phụ cấp thương tật, phụ cấp tù đày, tổng số khoảng 1 triệu 600 ngàn đồng, khó có thể chu cấp được cuộc sống hàng ngày của gia đình. Ông cho biết:

Chúng tôi đi chiến đấu bảo vệ Tổ quốc nhưng lại không được chính quyền địa phương cấp ruộng. Đó là điều hết sức vô lý, phi lý và bất công của chế độ cộng sản.
– Ông Trần Duy Thọ 

“Tiền tù đày thì tôi mới được nhận mấy tháng nay thôi, còn phía đơn vị, chính quyền địa phương vẫn giúp đỡ tôi, vào những ngày như thương binh 27/7 hàng năm, thì họ chỉ bỏ phong bì được vài trăm thôi, rồi ngày tết cũng có vậy thôi. Số tiền tù đày mỗi tháng được 750 ngàn đồng, tổng số tiền được hỗ trợ là 1 triệu 6 ngàn đồng.”

Từ Hà Tĩnh, ông Lê Hữu Thảo, một thương binh đã từng tham dự trận Gạc Ma 1988 cho biết về cuộc sống hiện nay của những đồng đội của mình:

“Chỉ có một số ít gia đình có cuộc sống đầy đủ, còn hầu hết cuộc sống của anh em tôi hiện nay hết sức khó khăn. Về sức khỏe thì có rất nhiều người bị bệnh tật, có một số đã chết, người còn sống thì một số mắc bệnh hiểm nghèo và số còn lại thì sức khỏe cũng đã yếu. Gia đình các liệt sĩ thì bố mẹ cũng đã rất già yếu, rất là thương.”

Ông Trần Duy Thọ, một thương binh thời chống Mỹ cho biết, bây giờ cuộc sống của gia đình ông rất khó khăn, các chi phí sinh hoạt như tiền điện, tiền nước cũng là một gánh nặng đối với ông khi trên người mang thương tật tới 83% và phải ngồi xe lăn. Theo ông, một số anh em thương binh ở địa phương đã đến Ủy ban huyện Nghĩa Hưng để đòi ruộng đất, thì đã được cấp ngay, còn những người thương tật nặng như ông không thể đi đòi được, thì không được cấp ruộng, riêng vợ con của ông thì được cấp mỗi người 626 m².

Trong một tâm trạng bức xúc, ông Trần Duy Thọ bày tỏ:

“Chúng tôi đi chiến đấu bảo vệ Tổ quốc nhưng lại không được chính quyền địa phương cấp ruộng. Đó là điều hết sức vô lý, phi lý và bất công của chế độ cộng sản. Tôi lên án chúng nó, tất cả mọi người đều có ruộng, riêng thương binh hạng 1 chúng tôi không có. Nó bảo rằng chúng tôi ăn lương rồi thì không được chia ruộng.”

Còn nhiều bất cập

Chúng tôi liên lạc với Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Bình để tìm hiểu về chính sách và việc thực hiện chính sách đối với các thương binh hiện nay, một cán bộ yêu cầu dấu tên cho biết, muốn nâng các khoản hỗ trợ là một việc khó, để đảm bảo được mức sống của tất cả các thương binh trên cả nước thì ngân sách nhà nước chưa thể đáp ứng vào lúc này được. Bà cho biết:

“Vướng mắc là trong quá trình áp dụng thực hiện văn bản của nhà nước có những cái khập khiễng, không đồng bộ. Từ văn bản để áp dụng thực tế vào địa phương bị vướng mắc. Muốn nâng phụ cấp lên là điều rất khó, cái này phụ thuộc vào ngân sách chung của cả nước. Hiện tại có rất nhiều đối tượng chưa thể mở rộng được, bởi vì xét về mặt tổng thể thì ngân sách không đủ để đảm bảo.”

Nhận xét về chính sách đãi ngộ của chính quyền đối với những thương binh hiện nay, ông Trần Duy Thọ thấy rằng, về mặt văn bản, chính sách nhà nước cơ bản là đầy đủ, nhưng nó chỉ tốt ở trên văn bản, chứ trên thực tế thì không phải như thế. Ông tiếp lời:

Họ nói thì hay lắm, tốt lắm, đẹp lắm, thế giới ai cũng phải khâm phục những lời nói của chính quyền cộng sản. Nhưng để trả lời bằng thực tế…thì hoàn toàn khác.
– Ông Trần Duy Thọ

“Họ nói thì hay lắm, tốt lắm, đẹp lắm, thế giới ai cũng phải khâm phục những lời nói của chính quyền cộng sản. Nhưng để trả lời bằng thực tế thì mọi chế độ, chính sách ưu tiên, ưu đãi cho con em thương binh, gia đình liệt sĩ, những người có công thì hoàn toàn khác. Tôi rất buồn cái chỗ đó.

Cho nên tôi rất tâm đắc câu nói của ông Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu: Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy xem những gì cộng sản làm.”

Nói về việc đòi quyền lợi chính đáng cho bản thân và cho các thương binh cùng hoàn cảnh, ông Thọ cho biết, thời còn chiến tranh thì anh em chúng tôi còn được coi trọng, nhưng đến thời bình thì điều đó không còn. Ông Trần Duy Thọ nói thêm:

“Đấu tranh mãi cũng mệt mỏi, anh em cũng chán trường. Tuổi cao sức yếu rồi, tôi sinh năm 1949 đó anh, thương binh chống Mỹ năm nay thấp nhất cũng 60 tuổi rồi.”

Hầu hết các thương binh miền Bắc mà chúng tôi có cơ hội tiếp xúc đều thấy rằng, đa số các thương binh hiện nay đều nhận được sự hỗ trợ từ phía chính quyền nhưng không đủ sống, trên thực tế còn có rất nhiều thương binh luôn gặp nhiều khó khăn. Tất cả đều nói với chúng tôi rằng, những người lính luôn luôn mang theo mình niềm tự hào vì từng một thời cầm súng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, dù phải hy sinh một phần máu thịt của bản thân mình vì lý tưởng thì họ luôn luôn sẵn sàng.

 

 

Việt Nam chi $400 triệu mỗi năm để ‘tự đầu độc’

Việt Nam chi $400 triệu mỗi năm để ‘tự đầu độc’
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Ba năm vừa qua, mỗi năm Việt Nam chi khoảng $400 triệu để nhập nguyên liệu và thuốc “bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc. Số lượng thuốc “bảo vệ thực vật” nhập cảng đã tăng mười lần.

Phun thuốc “bảo vệ thực vật” nay là chuyện đương nhiên ở Việt Nam. (Hình: Đất Việt)

Thuốc “bảo vệ thực vật” là cách Việt Nam gọi các loại thuốc diệt trừ sâu bọ, côn trùng có hại cho cây cối. Tất cả những loại thuốc này đều là thuốc độc đối với con người và môi trường.

Trong một cuộc trao đổi với tờ Người Lao Động, ông Nguyễn Thơ, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Bảo vệ thực vật Việt Nam, khẳng định, con số 100 tấn nguyên liệu, hóa chất để chế tạo thuốc “bảo vệ thực vật” mà Việt Nam nhập cảng hàng năm từ Trung Quốc chỉ là “phần nổi của tảng băng.” Trong thực tế, lượng nguyên liệu, hóa chất và thuốc “bảo vệ thực vật” đưa từ Trung Quốc vào Việt Nam qua con đường “cửu vạn” (lén lút chuyển vận qua biên giới) lớn hơn gấp nhiều lần.

Vài năm gần đây, các chuyên gia nông nghiệp, môi trường, y tế liên tục cảnh báo về tác hại của việc cho nhập cảng tràn lan nguyên liệu, hóa chất để chế tạo các loại thuốc “bảo vệ thực vật” cũng như thuốc “bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc song những cảnh báo đó giống như các tiếng kêu trong hoang mạc.

Cho dù các quốc gia Châu Âu đã lắc đầu với các loại thuốc “bảo vệ thực vật” từ lâu, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á giới hạn hoạt chất trong thuốc “bảo vệ thực vật” ở phạm vi từ 400 đến 600 loại thì tại Việt Nam, con số hoạt chất được phép sử dụng lên tới… 1,700 loại. Sự dễ dãi này khiến thuốc “bảo vệ thực vật” tại Việt Nam “cực kỳ hiệu quả” vì chúng… cực độc!

Việc cho phép nhập cảng tràn lan, hỗ trợ sản xuất – kinh doanh thuốc “bảo vệ thực vật” tại Việt Nam đã khiến nông dân Việt Nam xem việc mua – sử dụng thuốc “bảo vệ thực vật” là chuyện đương nhiên để bảo vệ mùa màng. Rất ít người nghĩ tới việc sử dụng thuốc “bảo vệ thực vật” sẽ dẫn tới tình trạng đất, nước và nông sản nhiễm độc, môi trường ô nhiễm, sức khỏe của mình và nhiều thế hệ bị hủy hoại.

Trong vài năm gần đây, các chuyên gia nông nghiệp, môi trường, y tế liên tục cảnh báo về tác hại của việc cho nhập cảng tràn lan nguyên liệu, hóa chất để chế tạo các loại thuốc “bảo vệ thực vật,” dũng như thuốc “bảo vệ thực vật” từ Trung Quốc, nhưng những cảnh báo đó giống như các tiếng kêu trong hoang mạc.

Các chuyên gia của Việt Nam và quốc tế từng thực hiện một số cuộc khảo sát và kết luận, tại Việt Nam có tới 80% thuốc “bảo vệ thực vật” được dùng không đúng cách, không cần thiết. Mỗi năm, có từ 150 đến 200 tấn thuốc “bảo vệ thực vật” dư thừa thẩm thấu vào đất, vào nguồn nước nhưng từ viên chức tới nông dân chẳng có mấy người bận tâm.

Ông Trần Tuấn, giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu-Đào Tạo Phát Triển Cộng Đồng vừa than với tờ Đất Việt rằng, “tam nông” ở Việt Nam hiện nay không phải là “nông nghiệp – nông thôn – nông dân” mà là “dân nghiện – đất nghiện – nước thoái hóa.” Ông Tuấn nhấn mạnh, nông dân Việt đã đánh mất sự tự chủ trong nghề nông, tự nguyện để bị sai khiến, bị bóc lột bởi ngành công nghiệp hóa chất của Trung Quốc. Họ không còn “xem trời, xem đất, xem mây” để đưa ra các quyết định liên quan tới canh tác mà trở thành phụ thuộc, để thiên hạ “bảo gì thì làm thế,” “cho gì thì dùng thế.” Nông dân trở thành “nghiện” vì bơ vơ giữa rừng thông tin bất định!

Theo ông Tuấn, chẳng riêng dân “nghiện” mà đất cũng “nghiện.” Đất không còn sự sống phong phú. Sau những nhát cuốc chẳng còn thấy giun! Khả năng sinh sôi, tái tạo tự nhiên cho đời sống giảm dần, đất đã chai và để có cây, có hoa, có trái thì phải có phân bón công nghiệp, thuốc “bảo vệ thực vật.” Đất đã mất đi khả năng thiên phú là bà đỡ cho cỏ cây, hoa lá, côn trùng,… chung sống.

“Dân nghiện” rồi “đất nghiện” nên thu hoạch được bao nhiêu thì nông dân lại bỏ ra bấy nhiêu mua sắm phân bón công nghiệp, thuốc “bảo vệ thực vật,” bởi ngưng bón, ngừng phun thì sẽ chẳng còn gì.

Ông Tuấn nhắc thêm là “nước đang thoái hóa.” Cá, tôm, cua, ốc, ếch… từng như giản đơn và đương nhiên đã mất dần.

Tuy ông Tuấn bảo rằng, xây dựng nông thôn mới là phải chấm dứt tình trạng lệ thuộc của ngành nông nghiệp, của nông thôn, nông dân vào ngành công nghiệp hóa chất của ngoại quốc và điều này đường như hữu lý nhưng ai sẽ làm? (G.Đ)

 

Gia cảnh bi đát của người ôm con nhảy lầu bệnh viện tự tử

 Gia cảnh bi đát của người ôm con nhảy lầu bệnh viện tự tử

  Gia cảnh người đàn ông ôm con trai 28 tháng tuổi nhảy lầu ở Quảng Ngãi rất bi đát, cha bị bệnh tâm thần, em trai ăn lá ngón tử vong cách đây chưa lâu.

Chiều 23/6, chị Hồ Thị Sâm (23 tuổi, ngụ xã Trà Quân, huyện vùng cao Tây Trà) vượt đường xa gần 100 km đến Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi chờ đưa thi thể chồng và con trai 28 tháng tuổi về quê mai táng.

Ngồi thẫn thờ bên thi thể chồng cùng con trai, Sâm chết lặng chưa thể tin nỗi đau này là sự thật. Vợ chồng chị cùng hai con trai đổ bệnh đau đầu, sốt, ho nhiều, trong đó con trai đầu Hồ Công Phương ốm nặng kèm theo tiêu chảy triền miên.

“Lúc đầu chồng đưa con trai đến Bệnh viện đa khoa huyện chữa trị một tuần nhưng không khỏi. Chồng nghĩ ma rừng ám nên mời thầy về cúng giải độc, trừ tà. Tuy nhiên cả nhà ai cũng bị bệnh ngày càng nặng thêm, chồng phải chở con đến bệnh viện tỉnh cấp cứu, sau hai ngày thì xảy ra chuyện”, người mẹ trẻ đau đớn bộc bạch.

HO THI SAM

 

 

 

 

 

 

 

 

Chị Hồ Thi Sâm bàng hoàng trước cái chết bất ngờ của chồng và con trai. Ảnh: Minh Hoàng.

Trao đổi với Zing.vn chiều 23/5, ông Hồ Văn Lâm – Chủ tịch UBND xã Trà Quân cho biết, vụ việc Hải ôm con trai nhảy lầu bệnh viện tự tử khiến dân làng thôn Trà Ong bàng hoàng.

“Lúc 5h sáng nay, 2 anh em còn trò chuyện qua điện thoại, nó bảo đưa con về nhà chứ không ở bệnh viện nữa. Ai ngờ sau cuộc trò chuyện ngắn ngủi thì nó lại nghĩ quẩn như vậy”, vị chủ tịch xã nói. Quan hệ bà con thân thiết trong dòng họ lại ở sát nhà, hơn ai hết ông Lâm hiểu rõ gia cảnh bi đát của gia đình anh Hải.

Vị chủ tịch xã cho hay, Hải là anh trai đầu trong gia đình 6 anh em (4 trai, 2 gái) ở thôn Trà Ong, xã Trà Quân, huyện vùng cao Tây Trà. Gia cảnh nghèo khó, anh em Hải lần lượt nghỉ học sớm rồi lên rừng phát rẫy trồng lúa, hoa màu kiếm sống qua ngày.

Năm 2010, trong lần đi làm rẫy thuê, anh ta quen biết Sâm, sau đó đi đến kết hôn. Hai con trai của vợ chồng anh lần lượt chào đời trong hoàn cảnh khó khăn. Chúng thường xuyên đau ốm, ăn uống thiếu thốn nên cơ thể tong teo suy dinh dưỡng nặng. Hai năm trước, vợ chồng Hải tách hộ cha mẹ nhưng không có tiền xây nhà đành dựng tạm căn lều sát trụ sở Ủy ban xã Trà Quân.

“Dẫu cuộc sống nhiều khó khăn nhưng ngày nào anh cũng cần mẫn đi phụ hồ cho các công trình, vợ thì đi làm rẫy. Họ rất mực thương con, chưa thấy họ cãi nhau bao giờ”, bà Hồ Thị Ánh (ngụ thôn Trà Ong) thổ lộ.

Hiện ông Hồ Văn Thiên (cha anh Hải) đang điều trị ở Bệnh viện Tâm thần Quảng Ngãi. Hai năm trước, Ngoạn (em trai Hải) buồn đời đã vào rừng ăn lá ngón (lá độc cây rừng) tự tử chết bỏ lại 2 con thơ dại.

Trước đó, khoảng 7h cùng ngày, hàng trăm người nhà bệnh nhân cùng y, bác sĩ hoảng hốt chứng kiến Hải ôm con trai 28 tháng tuổi bất ngờ nhảy từ tầng 6 rơi xuống ban công tầng 3 Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi.

Sau khi vụ việc xảy ra, đội ngũ y bác sĩ cấp tốc đưa anh Hải và cháu Phương vào phòng cấp cứu. Bé trai sau đó tử vong còn anh Hải được đưa vào Khoa Hồi sức tích cực – chống độc thở máy trong tình trạng hôn mê sâu, đến 13h30 thì cũng qua đời.

Theo các bác sĩ, chiều 21/6, anh Hải đưa con trai nhập viện và được chẩn đoán lỵ trực trùng, suy dinh dưỡng. Hai ngày qua, người đàn ông này chăm sóc con chu đáo, vui vẻ với mọi người.

Sau khi xảy ra vụ việc, lãnh đạo Bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi liên lạc qua điện thoại và gia đình nạn nhân cho hay, tối qua Hải có điện về nói “ở đây có nhiều người đòi đánh, đòi chém tui sợ quá”.

Minh Hoàng

Né tránh chiến tranh bằng cái giá của sự nhục nhã, thì sẽ nhận lấy cả nhục nhã và chiến tranh

Né tránh chiến tranh bằng cái giá của sự nhục nhã, thì sẽ nhận lấy cả nhục nhã và chiến tranh

FB Luân Lê

NỖI SỢ HÃI

25-6-2016

H1Có lẽ đây là lúc đất nước xảy ra nhiều thảm họa nhất từ trước cho đến nay. Biển độc, sông cạn, không khí ô nhiễm và vùng biển đảo bị chiếm trắng trợn. Không những cá chết hàng loạt mà cả con người cũng đã hy sinh ngay trên chính lãnh hải của mình.

Tôi có thể đặt tên cho tình trạng lúc này là nỗi bất hạnh của đất nước. Nhưng theo một nghĩa nào đó, bất hạnh là một loại tài sản, như cách giáo sư trẻ Phan Việt hiện ở Mỹ đã viết. Và nếu biết coi đó là một loại tài sản để dành nó cho những phát kiến thì loại tài sản này mới có ý nghĩa và giá trị, bằng không nó sẽ nhấn chìm và giết chết những kẻ ngu dốt, nhu nhược và hèn yếu.

Nợ công tăng phi mã và ngân sách quốc gia lâm vào tình trạng xấu nhất trong vòng 20 năm qua, có lẽ tệ hại nhất là cảnh vỡ nợ nền kinh tế thời ông Tố Hữu làm ủy viên Bộ chính trị, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng những năm thập niên 1980s – vì nhà thơ đi làm kinh tế là vậy, nó đã để lại hậu quả là nền kinh tế kiệt quệ, tan hoang, tiền in ra như giấy vụn vì mất giá thảm hại.

Đến nay, dân ta cũng lại quá ngây thơ, khi nhà nước tăng giá vàng lên gấp rưỡi hiện tại thì lập tức nhà nhà đổ xô đi bán vàng để “kiếm lời” vì thấy được hời quá. Nhưng đúng là tư duy ăn sổi ở thì với cái nhìn ngắn hạn, nhỏ mọn nó đã ngấm sâu vào máu của những người Việt. Bởi ở trong hoàn cảnh nào đi nữa, dù vàng vẫn chỉ là một loại tiền, nhưng nó có tính năng dự/lưu trữ – một tính năng đặc biệt mà tiền giấy không có. Nếu tiền mất giá, giống như Zambabuwe với 27 tỷ đơn vị tiền của họ chỉ mua được cái bánh mỳ hay như Venezuela mới đây tầng lớp trung lưu cũng phải bới rác để tìm thực phẩm mà đút vào mồm, bởi lúc đó tiền không còn giá trị nữa, dù có cả một núi tiền đang sở hữu, thì vàng vẫn có thể cất giữ và ổn định được. Bạn có thể lấy vàng để đổi ra ngoại tệ và tìm một cuộc tẩu thoát với đồng tiền nước ngoài nơi mà bạn muốn đến nếu có vỡ nợ hay sụp đổ nền kinh tế quốc dân, hoặc cứ tích trữ đợi đến khi nền kinh tế ổn định trở lại, thì vàng vẫn luôn có giá trị sử dụng.

Thực ra, ở đất nước này, không chỉ có người dân là sợ nhiều thứ, mà đặc biệt là sợ công an, chính quyền và sợ cả sự quy chụp cho những hành động trái chiều, bất đồng chính kiến – mà nhờ nó các nước mới văn minh và phát triển đi lên. Nay kể cả chính quyền cũng lo sợ vì có quá nhiều biến động dồn dập xảy ra cùng một lúc, họ cũng đã lo lắng và sốt sắng với người dân, với tình cảnh đất nước. Họ cũng lo ngại trước cảnh bành trướng của Trung Quốc mà chưa biết phải giải quyết ra sao, họ cũng đang khủng hoảng với chính nội tại của mình về tình trạng tham nhũng và cường quyền, chạy chức, mua bán quyền lực. Họ cũng sợ dân chúng bức xúc quá mà gây ra những xáo trộn nào đó, nên thành ra họ trở nên lo ngoài, sợ trong cùng lúc.

Nhưng thực ra, như ông Franklin Roossevelt đã nói: ở nơi đó, ngoài nỗi sợ hãi ra thì chẳng có gì ngoài nỗi sợ hãi. Và tôi cũng mượn thêm ý của ông Winston Churchill để nói rằng, một chính quyền mà né tránh xung đột (mâu thuẫn xã hội, quốc tế) bằng cách sợ hãi và e dè, thì rồi dân tộc ấy sẽ phải lãnh lấy cả hai thứ đó, cả hậu quả xấu/tiêu cực của xung đột và cả sự sợ hãi chồng lấn lên tiếp nữa, không bao giờ dừng lại.

Đúng là thế, chẳng có gì ngoài nỗi sợ hãi làm chúng ta sợ hãi và trở nên bế tắc. Vì thế mà Malaysia, Indonesia hay Philippines luôn sẵn sàng cho một hành động tương xứng mang tính cứng rắn để đáp trả những hành động trắng trợn, vô pháp của kẻ khác xâm hại đến họ. Ấn Độ cũng có lựa chọn rõ ràng cho mình về một, một số đồng minh cũng như từ chối tham gia con đường tơ lụa trên biển của Trung Quốc để ngăn chặn mưu đồ hiện diện mang tính kiểm soát của Bắc Kinh trên vùng Ấn Độ Dương của họ.

Nỗi sợ hãi chính là cách làm cho kẻ khác trở nên quyền lực và mạnh mẽ hơn. Nỗi sợ hãi khiến con người ta dễ thỏa hiệp hoặc dễ bị mua chuộc hơn. Và nỗi sợ hãi cũng khiến con người ta trở nên vô hại hơn.

Bởi vậy, chỉ khi gạt bỏ được nỗi sợ hãi, con người ta mới tìm ra cách để đứng vững trước những biến cố, dù có lớn đến mấy, vì với tâm thế luôn sẵn sàng và đã có phòng bị dự trù, chúng ta sẽ không bao giờ trở nên tầm thường trước nghịch cảnh.

Cũng giống như vậy, Mỹ trỗi dậy lớn mạnh và trở thành cường quốc số một thế giới sau sự cố quần đảo Hawaii năm 1941 cũng xuất phát từ sự muốn được an toàn và đứng ngoài lề cuộc thế chiến 2 bằng cách thỏa hiệp với Nhật Bản thiết lập hòa bình cho vùng biển Thái Bình Dương để rồi nhận lại hậu quả cay đắng như lời ông Winston Churchill đã cảnh báo trước đó: Né tránh chiến tranh bằng cách chịu nhục, thì rồi sẽ lãnh đủ cả hai, cả nhục nhã và chiến tranh.

VIỆT NAM TỨ BỀ THỌ ĐỊCH – NẾU KHÔNG LIÊN MINH VỚI MỸ SẼ MẤT NƯỚC VỀ TAY TRUNG QUỐC TRONG NAY MAI

 VIỆT NAM TỨ BỀ THỌ ĐỊCH – NẾU KHÔNG LIÊN MINH VỚI MỸ SẼ MẤT NƯỚC VỀ TAY TRUNG QUỐC TRONG NAY MAI

FB Trần Mạnh Hảo

25-6-2016

Nước Nga của “đại đế” Putin đã chính thức ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, như một mũi dao đâm sau lưng “bạn vàng Việt Nam” một thuở.

Chưa hết, hai “ông em ruột” của Việt Nam là Lào và Cămphuchia cũng đứng hẳn về phía Trung Quốc, gián tiếp ( ngầm) ủng hộ đường lưỡi bò của bọn giặc Trung cộng…

Than ôi, Việt Nam từng moi ông Hunsen từ trong túi quần của bè lũ Pôn Pốt để dựng ông này lên thành “lãnh tụ” hôm nay, hi sinh cả mấy vạn sinh mạng “bộ đội tình nguyện” và tiêu tốn hàng tỉ đô la cho chế độ bạn vàng Hunsen để hôm nay ông này thọc lưỡi dao Trung Quốc vào sườn tây nam đất nước.

Việt Nam cũng đã hi sinh nhiều vạn “bộ đội tình nguyện” và hàng tỉ đô la từ kháng chiến chống Pháp đến hôm nay cho nước Lào đỏ. Nay Lào miệng thì vẫn hô Việt Nam là ruột thịt số một, nhưng đứng hẳn về phía Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, gián tiếp thọc lưỡi dao vào sườn Tây tổ quốc.

Nếu Trung Quốc phát động chiến tranh đánh cướp đảo và đất liền Việt Nam, chắc chắn hai “ông em ruột” Miên – Lào sẽ cho Trung Quốc mượn đất và hợp tác với giặc Tầu bao vây toàn diện nước ta, hòng cho Việt Nam vào rọ thép không đường thoát.

Như vậy , chiến lược ngoại giao của nhà nước Việt Nam : “ làm bạn với tất cả các nước, không liên minh với nước này để chống lại nước khác” đã hoàn toàn thất bại.

Chưa bao giờ Việt Nam bị cô lập như bây giờ, hoàn toàn không có “bạn vàng” hoặc ông lớn nào giúp đỡ bảo vệ khi Trung Quốc tiến đánh.

Cũng chưa bao giờ vận mệnh dân tộc, tổ quốc nguy nan, nghìn cân treo sợi tóc như hôm nay. Buộc người dân yêu nước phải lo lắng và lên tiếng.

Rằng đúng như lời ông Lê Duẩn ( kẻ chống Trung Quốc triệt để nhất) đã nói đại ý : Trung Quốc không chỉ là kẻ thù truyền kiếp của cha ông ta trong quá khứ mà còn là kẻ thù nguy hiểm nhất mãi mãi về sau vì nó không bao giờ bỏ mộng chiếm Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á…

Nhìn vào những diễn biến gần đây trên Biển Đông và trong nước, không cần nhậy cảm cũng có thể biết Trung Quốc sẽ tiến đánh Việt Nam trong nay mai, hòng chiếm tất cả các đảo Trường Sa của Việt Nam, cấm Việt Nam và thế giới bay vào vùng trời lưỡi bò của chúng vẽ ra, trong thời cơ thuận lợi Mỹ đang bận bầu cử tổng thống.
Ngày 17-2-1979 Trung Quốc đã mang hàng chục vạn quân bất ngờ đánh vào dọc tuyến biên giới phía Bắc nước ta nhưng bạn vàng Liên Xô ( ngầm ký kết liên minh quân sự với Việt Nam) vẫn bình chân như vại, không hề làm động tác giả động binh trên biên giới Xô – Trung.

Trong thời gian cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược ấy, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài báo chống Trung Quốc, vạch ra cơ man tội ác của bọn xâm lược phương Bắc với nước ta được in trên các báo : Nhân Dân, Quân Đội nhân dân, Công an nhân dân, Tiền Phong, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng…

Rằng chính Trung Quốc đã phá hỏng cuộc kháng chiến chống Pháp của ta. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Pháp gần như phải hàng thì Trung Quốc ép ta ký hiệp định đình chiến Geneve, đến nỗi ngoại trưởng Phạm Văn Đồng phải vừa khóc vừa ký…Như vậy Việt Nam đâu phải quốc gia độc lập ? Độc lập sao được khi ta đã thắng giặc Pháp sau Điện Biên Phủ, Pháp sắp đầu hàng, lại phải khóc nghe lệnh Trung Quốc ký hiệp định Geneve chia đôi đất nước ?

Rằng trước ngày 30-4-1975, khi Sài Gòn bị Cộng quân bao vây tứ phía, Trung Quốc vẫn nhờ sứ quán Pháp móc nối với ông Dương Văn Minh, hứa nếu ông Minh lên tiếng yêu cầu, Trung Quốc sẽ cho triệu quân đổ bộ vào Sài Gòn cứu Việt Nam cộng hòa, đánh tan năm cánh quân Việt cộng đang bao vây đô thành…

Trung Quốc rất sợ Việt Nam thống nhất, chúng muốn bắt Bắc Việt làm lính đánh thuê cho chúng mãi mãi như lời Mao Trạch Đông : “ chúng ta sẽ đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”. Ông Lê Duẫn cũng từng nói toẹt ra : “Chúng ta đánh Mỹ cho Liên Xô và Trung Quốc”.

Chiến lược ngoại giao của đảng CS VN từ những năm 50 của thế kỷ trước dựa hẳn vào Liên Xô Trung Quốc, tự mình chui vào cái rọ của chúng, được chúng nuôi bằng quá nhiều tiền, dùng tiền để sai khiến, đưa máu Việt Nam ra làm phương tiện cho mục đích bá quyền của hai đế quốc Xô-Trung đã hoàn toàn thất bại.

Trung Quốc ngay từ thời “Trung Hoa Dân quốc” trước năm 1949 của Tưởng Giới Thạch đã vẽ bản đồ lưỡi bò, toan tính chiếm hết Biển Đông của mấy nước Đông Nam Á : Việt Nam, Philippin, Indonesia, Malaisia…

Năm 1949, Mao Trạch Đông chiến thắng Tưởng Giới Thạch, tiếp nhận bản đồ lưỡi bò của Tưởng, nhất quyết chiếm Biển Đông. Bọn Hán tặc mới này biết rằng nếu vẫn để Mỹ đứng chân ở miền Nam Việt Nam thì mãi mãi chúng không dám xía vào vùng biển mà chúng gọi là lưỡi bò này.

Phải tìm cách đuổi Mỹ đi nên Mao đã chọn Việt Nam làm con bài, chọn xương máu Việt Nam để thực thi ý đồ chiến lược của chúng là chiếm Việt Nam và chiếm toàn bộ Đông Nam Á, bằng cách bày ra trò “giải phóng miền Nam” để Việt Nam làm tiên phong trên bàn cờ bá quyền của chúng. Chúng viện trợ hết cỡ cho Việt Nam, bốc các ông lãnh đạo CS VN là anh hùng thời đại, dám đánh Mỹ cứu mình và cứu thế giới. Do đó Tố Hữu mới làm thơ như sau : “ Ta vì ta ba chục triệu người / Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”, “Vui sướng bao nhiêu trên tuyến đầu diệt Mỹ”…

Năm 1973 Mỹ rút quân khỏi Nam Việt Nam. Năm 1974, Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Lúc này Mỹ đã chơi con bài Trung Quốc để bao vây Liên Xô; vì Mỹ đã thua con bài Trung Quốc là Việt Nam : đánh mãi không thắng !

Không thực hiện được việc chia đôi đất nước Việt Nam vĩnh viễn, Trung Quốc vô cùng căm thù ban lãnh đạo Việt Nam dám thống nhất đất nước, bèn dùng bọn tay sai Pôn Pốt, Iêng xa ri , sai bọn ác ôn Cămpuchia này mở cuộc chiến tranh đánh vào sườn Tây Nam đất nước gây bao tang thương chết chóc cho nhân dân Việt Nam.

Trung Quốc dìm Việt Nam trong biển máu chiến tranh với Khơ me đỏ, để năm 1979 chúng tổng tấn công, đánh toàn diện biên giới phía Bắc gây ra núi xương sông máu cho nhân dân Việt Nam. May mà cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, Việt Nam chống cự mãnh liệt, khiến Trung Quốc của Đặng Tiểu bình bị thiệt hại quá mức nên chúng phải rút.

Năm 1990, thấy tình hình cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Nam bí mật “hàng” Trung Quốc bằng hiệp ước Thành Đô mờ ám…Trung Quốc chỉ dùng vũ khí có tên là chủ nghĩa cộng sản mà không cần dùng xương máu đã thâu tóm được Việt Nam trong cái thòng lọng có tên là “ bốn tốt và mười sáu chữ vàng”…

Năm 1988, Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma của Việt nam ( là một đảo lớn trên quần đảo Trường Sa của VN)…Đoạn, Trung Quốc liên tục chiếm các đảo đá ngầm bồi đắp đất làm các đảo nhân tạo trên vùng biển của Việt Nam, đưa máy bay và vũ khí ra các đảo mới chiếm tuyên bố sẽ mở vùng nhận dạng phòng không ( ADIZ) trên biển Đông, khóa hẳn đường ra biển của Việt Nam. Mối quan hệ hữu hảo giữa Việt Cộng và Trung cộng hiện nay chỉ bằng lỗ miệng, còn thực chất vẫn là chiến tranh ngầm, chiến tranh không tuyên bố…

Giờ đây, việc Trung Quốc sắp mở vùng nhận diện phòng không trên Biển Đông sẽ là lời tuyên chiến với Việt Nam.

Việt Nam không liên kết với Mỹ, sẽ mất nước trong nay mai. Nếu không có Mỹ liên tục đưa tàu đến Biển Đông để tuần tiễu, Việt Nam đã bị bạn vàng Thành Đô là bọn xâm lược Trung Quốc chiếm lâu rồi.

Sài Gòn ngày 25-6-2016

T.M.H.

Báo VN đưa tin phóng sự của Đài Loan

Báo VN đưa tin phóng sự của Đài Loan

BBC

Cá chết ở miền Trung Việt Nam đang là chủ đề nóng trên báo chí và tại Quốc hội Đài Loan

Hai báo Việt Nam đưa tin về phóng sự cá chết của truyền hình Đài Loan trong lúc một nhà hoạt động nói với BBC “lẽ ra chủ động truyền thông trong vụ này phải là báo Việt Nam”.

Hôm 26/6, báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ cùng đăng bài về phóng sự dài 60 phút ‘Việt Nam – Cái chết của cá’ phát trên kênh truyền hình PTS của Đài Loan.

“Trước việc cá chết hàng loạt, người dân địa phương đã nghi ngờ có liên quan tới Formosa.

Tất cả những người được PTS phỏng vấn đều khẳng định cá chết là do Formosa xả nước thải trực tiếp ra biển.

Tôi có cảm nhận rất rõ về khả năng kiểm soát báo chí nhà nước của Ban Tuyên giáo và Bộ Thông tin – Truyền thông.

nhà hoạt động Nguyễn Anh Tuấn

PTS cũng nhận định, lý do tảo đỏ được đưa ra là khó chấp nhận và thuyết phục”, Tuổi Trẻ tường thuật.

“Phóng sự của PTS cũng nhắc đến tuyên bố gây sốc “chọn cá hay chọn thép” của đại diện lãnh đạo Formosa khiến dư luận Việt Nam bất bình, phẫn nộ”.

Báo Thanh Niên cùng ngày viết:

“Người xem cũng không thể không thấy nhói lòng trước những hình ảnh tay ngư dân bị lở ngứa bởi chất nhớt màu vàng bám dính vào lưới, biển vắng tanh không ai dám tắm hay những lời ngậm ngùi từ bạn lặn của người thợ lặn xấu số Lê Văn Ngày”.

‘Cải trang thành người địa phương’

Hôm 26/6, trả lời BBC từ Đà Nẵng, nhà hoạt động Nguyễn Anh Tuấn, người đã có hơn một tháng điều tra độc lập tại Hà Tĩnh và là một trong các nhân vật được truyền hình Đài Loan phỏng vấn, nói:

“Các báo Việt Nam đã bỏ qua hai chi tiết nổi bật trong phóng sự. Một là chuyện 155 học sinh ở Kỳ Lợi không được phép đến trường vì bố mẹ các em không đồng ý với phương án giải phóng mặt bằng cho dự án Formosa của chính quyền”.

“Hai là những mô tả về việc bố ráp của lực lượng an ninh địa phương, việc bắt giữ các nhà hoạt động về đưa tin trong vùng cũng như việc chính phủ đàn áp biểu tình ở Sài Gòn, Hà Nội”.

Một nhà báo Đài Loan nói với tôi lúc ở Hà Tĩnh: ‘Tôi cũng biết tự do báo chí ở Việt Nam không được tôn trọng, giống Trung Quốc. Nhưng không hề nghĩ tình hình lại tệ đến thế, tới mức mà việc làm tin có thể khiến nhà báo bị đánh đập, bắt giữ

Nhà hoạt động Nguyễn Anh Tuấn

Ông Tuấn cho biết thêm: “Tôi vui vì góp phần giúp đoàn làm phim Đài Loan tác nghiệp, mang được tiếng nói của ngư dân và cư dân miền Trung đến với công chúng Đài Loan. Buồn là vì lẽ ra phần chủ động về truyền thông trong vụ việc này phải thuộc về báo chí Việt Nam, vốn có nhiều lợi thế hơn về thực địa”.

“Dù tôi đã cảnh báo việc tác nghiệp ở Vũng Áng trong thời điểm đó có thể khiến các nhà báo Đài Loan gặp phải rủi ro, kể cả khả năng bị bắt, song cuối cùng họ vẫn quyết định đến Việt Nam thực hiện phóng sự”.

“Trong quá trình tác nghiệp, họ đã phải cải trang thành người địa phương, đi làm tin trong cảnh phập phồng lo sợ, bị các nhân viên an ninh mặc thường phục theo sát và chỉ có thể thoát nạn nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của người dân địa phương”.

“Thật sự tôi tin là những nhà báo Việt Nam cũng có tinh thần dấn thân, trình độ tác nghiệp cũng không thua kém đồng nghiệp Đài Loan, song sản phẩm của họ khó mà đến được với công chúng một cách chính thức, vì bị kiểm duyệt và tự kiểm duyệt”, nhà hoạt động nói với BBC.

“Một nhà báo Đài Loan nói với tôi lúc ở Hà Tĩnh: ‘Tôi cũng biết tự do báo chí ở Việt Nam không được tôn trọng, giống Trung Quốc. Nhưng không hề nghĩ tình hình lại tệ đến thế, tới mức mà việc làm tin có thể khiến nhà báo bị đánh đập, bắt giữ’.

“Nếu như trước ngày 29/4, các nhà báo tràn ngập ở Kỳ Anh, khai thác mọi khía cạnh của vụ việc, phỏng vấn rất nhiều ngư dân và cư dân địa phương; thì sau ngày đó, Kỳ Anh vắng hẳn bóng nhà báo, đến nổi nhiều người dân phải hỏi tôi là sao nhà báo đi đâu hết rồi”.

“Tôi nghĩ đây là một trở ngại chính khiến báo chí Việt Nam sẽ còn tụt hậu so với báo chí các nước. Và đây cũng là một thiệt thòi lớn cho những nhà báo chân chính ở Việt Nam”.

Chung sức thảo Bản cáo trạng: Tội ác hủy hoại môi trường của giặc bành trướng

Chung sức thảo Bản cáo trạng: Tội ác hủy hoại môi trường của giặc bành trướng

Người dân xuống đường biểu tình vụ cá chết tại H Nội, ngày 1/5/2016.

Người dân xuống đường biểu tình vụ cá chết tại H Nội, ngày 1/5/2016.

Vì sao từ sau vụ cá chết trắng ven biển miền Trung, sau nhiều đợt kiểm tra tại chỗ, có nhiều chứng cứ về sự cố tình hủy hoại môi trường biển, Bộ Chính trị đến nay vẫn im lặng. Họ không mở mồm vì khó nói, khó giái thích, khó giải quyết quá! Nhưng sẽ im lặng đến bao giờ?

Lẽ ra Bộ Chính trị phải thảo ra bản cáo trạng liên quan đến vụ đầu độc môi trường ven biển Việt Nam, chỉ đích danh thủ phạm là đảng CS và Nhà nước Trung Quốc cho tòan dân, quốc hội và toàn thế giới biết. Nhưng họ không dám, không có gan làm, cho nên trí thức dân tộc cùng giới luật gia Việt Nam cần hợp sức đảm nhận trách nhiệm thảo ra Bản Cáo trạng này.

Là nhà báo theo dõi tình hình , tôi xin mạn phép tạm phác thảo ra bản nháp đầu tiên Bản Cáo trạng, tất nhiên là có nhiều thiếu sót, để quý vỵ bổ sung cho. Tôi nghĩ hàng triệu đồng bào cũng đang sốt ruột đến cùng cực như tôi.

Bản cáo trạng nên có các nội dung sau đây :

Nói trắng ra, đây là một âm mưu cực kỳ thâm độc, tàn bạo, và bất nhân, mang tính chất hủy diệt cuộc sống của cả một dân tộc bằng một hệ thống âm mưu tổng hợp:

– ở phía Tây, bao vây bằng gọng kìm tự nhiên sông Mekong với hàng chục đập lớn nhỏ, làm cho ruộng đồng hạ lưu khi thì cạn kiệt hoang hóa, khi thì lụt to, nhiễm mặn nặng, khai tử vựa lúa lớn nhất nước ngay từ mùa lúa năm nay.

– ở phía Đông, cố tình gây thảm họa môi trường biển quy mô lớn bằng các độc tố mạnh, làm cạn kiệt nguồn sống của hàng triệu ngư dân ven biển, cũng làm cạn kiệt nguồn thức ăn chủ chốt của mọi tầng lớp dân cư, khi cá là nguồn dinh dưỡng chính của toàn dân, khi muối, nước mắm là nguồn gia vị truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt.

– giải đất hẹp bị kẹp giữa hai gọng kìm trên đã bị Hán hóa dần 26 năm nay theo các kế hoạch trồng rừng suốt giải biên giới, khai thác bô xít độc hại trên Cao nguyên miền Trung, hàng loạt dự án nhiệt điện, thủy điện, hóa chất, gang thép, xi măng, cầu cống, hài cảng… trải dài ra khắp nước, hiện do hàng trăm công ty lớn nhỏ người Hán trúng thầu đảm nhận, thi công kéo dài, giá thành cao, kỹ thuật cực thấp, đồng thời chúng tạo nên hàng chục tụ điểm dân cư người Hán, gồm mỗi cụm gồm vài trăm đến vài ngàn người Hoa và gia đình Hoa – Việt , cùng hàng vạn cán bộ kỹ thuật và công nhân Trung Quốc các loại, phần lớn không có giấy nhập cảnh hợp lệ.

Tất cả việc làm trên đây nhằm nhiều mục tiêu, nhiều mặt, trước mắt và lâu dài, nhằm làm suy yếu nền kinh tế – tài chính, nền nông nghiệp và công nghiệp nước ta, làm hao mòn, suy yếu và kiệt quệ sinh lực của dân tộc ta về mọi mặt: con người, cuộc sống, văn hóa xã hội, để cuối cùng phải phụ thuộc vào chúng và không có con đường nào thoát khỏi số phận bị đồng hóa với người Hán, như các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Để rồi Việt Nam sẽ trở thành một vùng tự trị của Trung Quốc, hoặc một tỉnh của Trung Quốc, thậm chí một huyện của tỉnh Vân Nam, tỉnh Quảng Châu hay tỉnh Hải Nam.

Nói tóm lại đây là một mưu đồ diệt chủng có tính tóan, có hệ thống đối với toàn dân tộc Việt Nam, đã biểu hiện rõ ràng, mà vụ xả chất độc quy mô và hàm lượng lớn trong Biển Đông của Việt Nam hai tháng nay đã phơi bày ra ánh sáng, không còn che dấu được nữa.

Vụ diệt chủng này vượt qua tất cả các cuộc khủng bố của Nhà nước Hồi giáo, mỗi cuộc gây nên hàng trăm nạn nhân, vượt quá vụ đánh sập Tháp đôi ở New York, có thể xếp ngang với cuộc diệt chủng Do Thái của bọn phát xít Hitler gây nên cái chết của hơn 6 triệu sinh mạng trong Thế chiến II.

Nhân dân Việt Nam có quyền đưa Vụ án diệt chủng này ra Liên Hiệp Quốc, ra Tòa án Quốc tế ở La Haye.

Chúng ta cũng nên mời các Luật gia Quốc tế chuyên về Tội ác và Diệt chủng tham gia cuộc điều tra và phát biểu chính kiến về vụ án lớn chưa từng có này. Chắc chắn rằng khi tìm các nguyên nhân xa và gần cũng như những kẻ tội phạm trực tiếp hay gián tiếp của vụ án, đảng CSViệt Nam sẽ có phần trách nhiệm không nhỏ của mình, và 5 khóa Bộ Chính trị, 5 khóa Ban chấp hành TƯ, 5 khóa Tổng Bí thư, từ Nguyễn Văn Linh, qua Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu đến Nông Đức Mạnh và hiện tại là Nguyễn Phú Trọng đều có trách nhiệm, đều phải bị thẩm vấn kỹ càng trước ngành tư pháp Việt Nam và quốc tế. Khi vấn đề đặt ra: ai dẫn quân giặc vào nhà? Từ đây sẽ lòi ra nội dung Mật đàm và Mật ước Thành Đô còn kín mít.

Cã xã hội Việt Nam là nhân chứng, cũng là nạn nhân, sẽ có quyết định để giải quyết theo Luật pháp Vụ án kinh hoàng này. Quân đội Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ cuộc sống an lành của toàn dân trong cuộc khủng hoảng chính trị. Các tổ chức Xã hội Dân sự được xây dựng trong hy sinh bị đàn áp và tù đầy có đầy đủ tư thế thay mặt cho nhân dân và xã hội đứng ra tạm nắm quyền lực trong tình thế đặc biệt hiện nay. Chúng ta có quyền đóng cửa nhà mình, đóng cửa tạm thời biên giới phía Bắc trong tình thế khẩn trương.

Rất mong tất cả những người yêu nước thương dân ở trong và ngoài nước tham gia ý kiến vào Bản Cáo trạng sơ lược này qua các phương tiện thông tin đại chúng.

ĐAN SĨ ĐAN VIỆN THIÊN AN BỊ SÁCH NHIỄU TRONG ĐÊM

ĐAN SĨ ĐAN VIỆN THIÊN AN BỊ SÁCH NHIỄU TRONG ĐÊM

‪#‎GNsP (25.06.2016) – Hơn 30 người tự xưng là công an, cán bộ xông thẳng vào nội vi Đan viện Thiên An, gây gổ, sách nhiễu các Đan sĩ Đan viện Thiên An vào 8 giờ tối ngày 25.06.2016.

Nhóm người này đã cản trở và ngăn cản các Đan sĩ không được xây dựng đường xá trong khuôn viên nội vi của Đan viện Thiên An với lý do họ phát hiện các Đan sĩ đã “xâm chiếm” đất của nhà nước khi đổ cát, đá, xi măng trong khu vực vườn cam. Trong khi đó, khu vực vườn cam thuộc quyền quản lý và sở hữu của Đan viện Thiên An từ những năm 1940.

Sau đó, nhà chức trách đã tiến hành lập biên bản, yêu cầu các Đan sĩ ký, nhưng các thầy đã từ chối và đề nghị họ ngày mai 26.06.2016 lên Đan viện làm việc.

Được biết, bên trong khu vực Hồ Thủy Tiên –thuộc quyền quản lý của Đan viện Thiên An đã bị nhà cầm quyền “chiếm và cướp” – có rất đông CSCĐ để hỗ trợ nhóm người trên. Khu vực Hồ Thủy Tiên có lối ra vào nội vi Đan viện Thiên An, và đây cũng là lối đi của nhà cầm quyền tỉnh Thừa Thiên Huế thường xông vào nội vi Đan viện Thiên An bất chấp sự phản đối của quý Đan sĩ.

Hiện nay, có khoảng 30 Đan sĩ đang canh gác khu vực vườn cam vì lo sợ nhà cầm quyền sẽ cho côn đồ vào đập phá đoạn đường bêtông mà các Đan sĩ đang xây dở dang suốt hơn một tuần qua.

Mục đích Đan viện Thiên An xây dựng đường bê tông tại khu vực vườn cam nối dài tới vườn rau để thuận tiện cho việc chăn nuôi, trồng trọt. Con đường dài khoảng 700 mét.

Cách đây chưa đầy 5 ngày, nhà chức trách xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế đã huy động khoảng 200 cán bộ, dùng xe ủi công suất lớn phá hoại tài sản của Đan viện Thiên An, xúc phạm Thánh Giá. Đặc biệt họ đã lập biên bản “vu cáo” chủ nhà – Đan viện Thiên An “lấn chiếm đất đai” của “kẻ cướp” – nhà cầm quyền tỉnh Thừa Thiên Huế.

Huyền Trang, GNsP

DAN VIEN 1

DAN VIEN 2

nguồn: Tin Mừng Cho Người Nghèo added 3 new photos.

GIA TÀI CỦA MẸ MỘT NƯỚC VIỆT BUỒN

GIA TÀI CỦA MẸ MỘT NƯỚC VIỆT BUỒN
 

“Thuở ấy, thuộc hạ của Nabukôđônôsor, vua Babel đã lên đánh Yêrusalem và thành đã bị hãm. Nabukôđônôsor, vua Babel, tới đánh Yêrusalem, trong khi thuộc hạ của ông đang vây thành. Yôyakin vua Yuđa đã ra hàng vua Babel, ông, mẹ ông, các thuộc hạ, các tướng lĩnh và hoạn quan của ông. Vua Babel đã bắt tù ông, năm thứ tám đời (Nabukôđônôsor).

(Vua Babel) đã lấy đem đi tất cả các kho của Nhà Yavê, các kho của nhà vua, và đã đập nát tất cả các đồ bằng vàng Salômon vua Israel đã làm trong Ðền Thờ Yavê, chiếu theo điều Yavê đã phán. Ðoạn ông bắt đi đày tất cả Yêrusalem, tất cả các tướng lĩnh, tất cả các binh hùng – một vạn người phải đi đày, với tất cả các thợ rèn, thợ khoá, không sót lại ai, chỉ trừ có hạng cùng đinh thuộc dân trong xứ. Ông đày Yôyakin qua Babel, ông đã phát lưu từ Yêrusalem qua Babel, mẹ vua, các vợ vua, các hoạn quan, và các phú hào. Tất cả những người thế giá – bảy ngàn, thợ rèn, thợ khoá – một ngàn, tất cả những binh hùng tham chiến, vua Babel đã đem đày họ qua Babel.

Vua Babel đã đặt Mattanyah, là chú, làm vua thay Yôyakin, và đã đổi tên là Sêđêqya (2V 24, 8 – 17) (Bản dịch của cha Giuse Nguyễn Thế Thuấn, DCCT).

Thứ năm ngày 23 tháng 6 là thứ năm Tuần 12 mùa Thường Niên, bài đọc 1, Hội Thánh cho chúng ta nghe đoạn Sách Thánh trên. Đây là câu chuyện buồn của dân tộc Israel. Đọc lịch sử Israel chúng ta thấy lịch sử đó được nối tiếp bằng những biến động xô đẩy một dân tộc mang ơn gọi là dân riêng của Thiên Chúa, nhưng sự yêu thương của Thiên Chúa dành cho họ từng lúc được thanh luyện vì sự bất xứng và phản bội của họ, sự trung thành với Thiên Chúa từng lúc được uốn nắn sau những bất trung rồi đi kèm với sự thanh luyện. Cuối cùng thì Thiên Chúa vẫn không bỏ lời hứa, cuối cùng thì sau bao nhiêu biến cố lao đao trong lịch sử, những cuộc lưu đày liên tiếp xảy ra Thiên Chúa vẫn xuất hiện để ra tay cứu vớt họ.

Trên bàn cờ chính trị và kinh tế của thế giới hiện nay, người ta truyền miệng nhau lời đồn thổi về những huyền thoại mang dòng máu Do Thái, những nhân vật xuất chúng gây những tác động lớn làm xoay chuyển tình thế, lèo lái sự sống của cả nhân loại… Sự thông minh, nhanh nhẹn, chí quật cường và tinh thần quốc gia là những lợi thế rất lớn mà những người mang dòng máu Do Thái có được, nhưng có phải vì thế mà họ là nạn nhân của các cuộc xâm lăng, tàn sát diệt chủng? Có phải cứ có một lợi thế thiên bẩm nào đó thì dân tộc ấy sẽ trở nên nạn nhân của các tham vọng và sự ác độc của dân tộc khác không? Hơn 6 triệu người Do Thái lặng lẽ xếp hàng vào phòng hơi ngạt của Đức Quốc Xã trong đại chiến thế giới vừa qua? Lịch sử hàng ngàn năm bị nô lệ của dân tộc Việt có phải bởi nguyên nhân vì lợi thế biển Đông ? Những sự gằm ghè hung hăng mong thôn tính chỉ vì chúng ta có lợi thế rừng vàng biển bạc?

Những tuần trước, Sách Thánh đã cho ta thấy sự suy đồi dẫn đến diệt vong của vương quốc phía Bắc (1V 17). Năm 722 trước công nguyên, Sargon, vua của Assyri đã bao vậy Samari (thủ đô của vương quốc phía Bắc) rồi tiêu diệt hoàn toàn vương quốc này, chính ông ta đưa người ngoại bang vào cư ngụ trên phần đất của dân tộc Israel ( 1V 17, 24 ), gây ra một giống dân  tạp chủng, là nguồn gốc chia rẽ phân biệt kéo dài trong lịch sử Do Thái. Kính Thánh Tân Ước không thiếu những câu chuyện người phương Nam coi thường và kỳ thị người phương Bắc.

Đoạn Kinh Thánh hôm nay cho thấy đến lượt vương quốc phía Nam, vương quốc Giuđa cũng bị sụp đổ. Nabukôđônôsor, vua Babel (Babylon), người ghi dấu chấm hết cho vương quốc phía Nam này, người nhúng tay vào tội ác phá phách tan tành các nơi thánh, cướp đi những vật dụng thờ phượng, khinh bỉ tín ngưỡng và xúc phạm thánh danh.

Nabukôđônôsor phát lưu đày các thành phần ưu tú nhất của vương quốc Giuđa, họ là những người trong hoàng tộc, những tướng lĩnh, những người đang có những tay nghề cao nhất được trọng dụng thời đó. Điều mắm muối là Sách Thánh ghi lại chi tiết, hạng cùng đinh thì không bị phát lưu đày (câu14). Hẳn khi bị đi lưu đày, những thành phần được xem là ưu tú này vẫn chưa hết ngỡ ngàng, chắc họ vẫn nghĩ rằng họ đã liên kết, đã thỏa hiệp, đã ngoan ngoãn vâng lời ngoại bang và chính họ đang nắm giữ các nguồn lợi kinh tế có lợi cho ngoại bang thì họ sẽ được trọng dụng. Không, một khi mất nước sẽ là mất tất cả, những kẻ thỏa hiệp với ngoại bang, với sự dữ, sự ác, trong con mắt của quyền lực ngoại bang họ chỉ là hạng người đáng khinh bỉ mà thôi, nghĩ mình sẽ được trọng dụng chỉ là ảo tưởng. Một khi mất nước, không một ai thoát chết, lưu đày hay không lưu đày vẫn chết dưới ách nô lệ, lên tiếng hay không lên tiếng cũng chết, làm chính trị hay không làm chính trị cũng chết.

Mấy ngay nay trên các trang mạng, hình ảnh các Đan Sĩ Đan Viện Thiên An Huế quỳ cầu nguyện trước cảnh người ta xông vào hạ Thánh Giá, đập tượng thánh được loan truyền đi khắp nơi, những tiếng kêu than, trách móc ai oán.

Những hình ảnh Nữ Tu Dòng Thánh Phaolô Hà Nội thức trắng đêm phản đối việc xây dựng trên đất của Tu Viện chập chùng bên cạnh những hình ảnh ở Thiên An. Chúng ta chưa quên được hình ảnh các Nữ Tu Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm đứng giữa cơn mưa đọc kinh để bảo vệ tài sản của Nhà Dòng. Trước đó nhiều hình ảnh khác phản ánh nỗi quặn đau của những người có Đức Tin chứng kiến sự cướp bóc và xúc phạm những nơi thánh. Từ năm 1945 ngoài miền Bắc, rồi từ sau năm 1975 tại miền Nam.

Trở về từ vùng biển chết Vũng Áng, Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã trả lời phỏng vấn của trang Tin Mừng Cho Người Nghèo, ngài nói:

“Tôi thấy có ít nhất có bốn cái chết: cái chết của lương tâm, cái chết của luân lý, cái chết của lý trí, cái chết của chính trị.

Lương tâm là ơn Chúa ban cho người ta để người ta phân biệt được điều gì tốt điều gì xấu, khi làm điều tốt thì lương tâm thanh thản, an ủi còn khi làm điều xấu lương tâm cắn rứt. Thế thì khi lương tâm chết rồi nó không còn cắn rứt nữa. Cho nên khi làm điều xấu mà nó không còn cắn rứt nữa thì lương tâm đó chết rồi.

Luân lý là những chuẩn mực, quy luật để hành xử cho đúng đạo lý. Khi cư xử không còn theo đạo lý nữa, không còn biết điều xấu nữa thì luân lý đó chết rồi, nó không bị chi phối bởi những chuẩn mực đạo đức, không còn quy tắc đạo lý nữa.

Lý trí để giúp người ta biết phân định những giá trị cao thấp khác nhau như Đức Thánh Cha nói rằng: “thời gian lớn hơn không gian, toàn phần lớn hơn một phần”. Bây giờ người ta chọn một phần mà quên đi toàn phần thì cái đó là cái chết của lý trí không còn phân định được và chọn các giá trị thấp mà bỏ các giá trị cao.

Chính trị chính là nghệ thuật tổ chức sắp xếp để cho mọi người được hạnh phúc. Cho nên nó đã chết trong lòng con người chính là nguyên nhân làm cho biển chết, cá chết.” (Phỏng vấn Đức Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt của Tin Mừng cho Người Nghèo ngày 19.6.2016).

Gia tài của mẹ, một nước Việt buồn !

(Theo lời bài hát “Gia Tài của mẹ” của Trịnh Công Sơn)

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 23.6.2016

Tác giả:  Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Người lính VNCH Nguyễn Văn Răng

 Người lính VNCH Nguyễn Văn Răng

Huỳnh Anh Tú (Danlambao) – Trong một chiều mưa tầm tã chú Răng ghé thăm tôi. Hai chú cháu ngồi tâm sự bên tách cà phê đắng. Chú đã ôn lại quá khứ bi hùng trong đời lính và nhắc lại những kỷ niệm vui buồn trong chốn lao tù cũng như bao nỗi gian truân khốn khó sau thời gian chú vượt ngục.

Chú Nguyễn Văn Răng sinh năm 1952 là một cựu tù nhân chính trị vừa mãn án ngày 18/9/2015.

Một người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), dù trong mọi hoàn cảnh vẫn nêu cao tinh thần Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Một tù nhân chính trị, dù trong mọi tình huống vẫn giữ được ý chí kiên cường và tinh thần bất khuất, luôn trung thành với lý tưởng của mình đã chọn – chống chế độ độc tài toàn trị.

Chú Răng xuất thân từ gia đình nông dân thật thà chất phác sinh sống tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đôi bàn tay của chú chai sạn, thô kệch với những vết sẹo đã vẽ lên một quãng đời gian nan nguy khó, trải qua bao thống khổ cùng cực và đau buồn. Đặt tách cà phê lên bàn, đôi mắt chú nhìn xa xăm, hồi tưởng lại…

Ký ức thời lính

“Vào một buổi trưa, trên chiếc xuồng chở đầy ắp mía mới thu hoạch, chú hớn hở chèo về. Khi vừa tới nhà thì có một người quen chạy đến báo tin: “Chị Chiến của mầy và chồng của chỉ bị Việt Cộng giết rồi. Sau đó Chú hốt hoảng chạy theo người báo tin để xác nhận thông tin này thực hư ra sao.”

Đầu Xuân năm 1968, Nguyễn Thị Chiến chị ruột của chú Răng đến thăm chồng tại đồn Cồng Cộc, xã Phú Quới, huyện Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long. Bất ngờ Việt Cộng ồ ạt tấn công vào đồn. Lúc bấy giờ chị Chiến đang có mặt cùng chồng dưới hầm truyền tin. Chị đã kịp thời chạy thoát ra ngoài. Vì không thấy chồng mình đâu nên chị vội trở xuống hầm và thấy chồng và một số chiến hữu đã chết. Chồng chị là Âm Thoại Viên và bản thân chị cũng học được từ chồng một số thao tác sử dụng máy để truyền tin. Không thể chậm trễ thêm nữa, chị bắt máy lên kêu gọi “hủy diệt” đồn Cồng Cộc. Liền sau đó, phía sau chị một người lính Việt Cộng từ ngoài xông vào, liên tục đâm “ba nhát” lưỡi lê vào lưng chị – Số phận của người lính “không số quân” Nguyễn Thị Chiến đã cùng chồng ra đi vĩnh viễn.

“Biết được sự thật này chú đau khổ lắm” Chú Răng xót xa giọng nói trở nên trầm buồn hơn, “Chú uất ức không nói nên lời, lặng lẽ nhận xác hai người về nhà để mai táng và chôn cất”.

Cái chết của người chị và anh rể quá thê thảm. Chú Răng đã quyết định đăng lính. Vì thời gian đó chú mới 17 tuổi nên không đủ tuổi để nhập ngũ. Tuy nhiên không vì thế mà chú từ bỏ quyết tâm của mình. Chú đã tìm người để giúp làm “khai sinh giả” cho mình. Cuối cùng anh Nguyễn văn Răng sinh năm 1951 chính thức được vinh dự đứng vào trong hàng ngũ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm 1968.

Đơn vị đầu tiên của chú Răng là đơn vị Biệt Kích 8, tỉnh Vĩnh Long. Sau đó chú qua tiểu đoàn 3, trung đoàn 16, sư đoàn 9 đóng tại huyện Châu Thành, Vĩnh Long. Thời gian này, một lần nữa chú Răng đã tự tay mình đem xác của người anh rể khác là lính thuộc Địa Phương Quân tử trận tại Ba Kè – Vĩnh Long, về quê nhà mai táng và chôn cất.

Năm 1972 chú vào đơn vị Địa Phương quân tiểu đoàn 520 – Vĩnh Long.

“Đơn vị của chú liên tục “đụng độ” nhiều trận chiến ác liệt, đã khiến cho Việt Cộng phải khiếp sợ”, chú tự hào kể thêm, “Vào đêm 30/4/1975, tiểu đoàn 520 – Vĩnh Long, chú đã cùng tỉnh trưởng tỉnh Vĩnh Long, đại tá Lê Chí Thành quyết tử thủ đến giờ phút cuối cùng. Nếu ai đã từng ở đơn vị Địa Phương quân tiểu đoàn 520 – Vĩnh Long cũng đều biết đến những chiến công oanh liệt tại đây”.

Năm tháng tù đày

Sau 1975 chú Răng đã lẻn vào kho vũ khí tại xã Phú Quới, huyện Châu Thành – Vĩnh Long và lấy một số súng M16 và M79.

Sau đó chú đã liên kết một số anh em “ít ỏi” gồm Trần Hữu Phước, Trần văn Lợt, Nguyễn Văn Tư, Hoàng (đã quên họ) cùng một số người khác, thành lập tổ chức chống lại chế độ Cộng sản.

Ngày 23/6/1976 nhận thấy sự việc đã bại lộ, chú Răng cùng các anh em giải tán đến nơi khác. Trên đường di chuyển, người bạn tên Hoàng xin phép anh em ghé nhà bà ngoại mình để từ giã. Vì quá thương cháu và không hiểu hết tầm nghiêm trọng của vấn đề nên bà ngoại Hoàng đã báo lại công an địa phương. Cuối cùng chú Răng và tất cả anh em bị bắt ngay trong ngày hôm đó.

Những ngày đầu tiên tạm giam tại nhà khám lớn Vĩnh Long, họ nhốt chú cùng phòng với linh mục Nguyễn Ngọc Đạt và cùm hai giò của chú cùng ‘sâu cùm’ với linh mục Đạt.

“Tuy họ không đánh đập gì nhiều, nhưng dùng hình thức tra tấn nhục hình khác còn “quá cha” hơn, đó là suốt một tuần lễ họ hoàn toàn không cho chú ngủ. Sau tuần lễ đó, liên tục nhiều tháng họ thay phiên nhau kêu chú làm việc không kể ngày hay đêm. Họ muốn khủng bố tra tấn tinh thần của chú, có lần chú đã ngất xỉu vì kiệt sức”.

Phiên tòa sơ thẩm tại tòa án nhân dân tỉnh Cửu Long đã kết án chú Nguyễn Văn Răng mức tử hình với tội danh “âm mưu nhằm lật đổ chính quyền”. Chú không đồng ý với mức án đó vì có một số tình tiết áp đặt không đúng với bản chất sự việc, do đó chú đã kháng án, nhưng cuối cùng tòa án tối cao vẫn giữ mức y án ban đầu.

Sau hơn 6 tháng bị giam cùm trong ngục tối, chú đã nhận được quyết định của chủ tịch nước giảm án từ tử hình xuống chung thân.

Sau khi nhận mức án chung thân họ giải chú tới trại tù Bến Giá tỉnh Trà Vinh. Nơi đây chú Răng đã một lần cướp súng “cán bộ” để vượt ngục nhưng không thành. Họ lại giam cùm chú lần nữa nữa.

Năm 1989, Chú Răng bị giải về trại A20, Xuân Phước. Tại đây chú đã làm quen và kết thân cùng nhiều anh em tù nhân chính trị và tôn giáo như thầy Thích Thiện Minh, Phan Văn Bàng và một số tu sĩ Dòng Đồng Công. Chú Răng cho biết:

“Trại tù Xuân Phước là trại tử thần. Các cai ngục xem tù nhân như là rơm rác, hầu hết bọn họ đều không có nhân tính.

Tất cả các tù nhân dù già hay trẻ đều bị bắt lao động khổ sai. Chú bị phân công vào đội 1 đào ao cá, mỗi người phải đào “hoàn thành” 2m3/ngày. Mặt bằng ở đây đều là đất đá các tù nhân phải vất vả dùng xà beng để phá lớp đất đá trên mặt là đã mất cả buổi trời, rồi mới xuống được lớp đất mềm phía dưới.

Còn chế độ sinh hoạt của tù nhân bị chèn ép thật tàn nhẫn, mỗi buổi ăn chỉ là một chén và canh thường là “rau muống già luôn cả rễ” thêm chút muối. Chăn mềm không đủ ấm, và áo không đủ măc… Chú chứng kiến rất nhiều anh em khi ra hiện trường lao động chưa làm gì thì đã ngất xỉu vì đói rét.”

Vào năm 1990, một số tù nhân chính trị và tôn giáo bị giải về trại tù Z30A Xuân Lộc.

Vượt ngục và duyên tình

Ngày 10/7/ 1991 chú Răng đã vượt ngục thành công. Chú nói: “Sau khi vượt khỏi ngục chú đi đến các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang… vào tận các phum sóc của người Campuchia để mà làm ăn. Sau đó chú lần đến Bệ Ba Dong, Vườn Cả Hơn mong gặp các chiến hữu xưa. Vì nơi đây là một trong những mật khu của lính VNCH sau 1975”.

Trong suốt ba năm làm ăn và chờ đợi. Tình cờ chú làm quen được với cô Nguyễn Thị Kim Khoa, một thôn nữ ở tỉnh Đồng Tháp hiền lành cũng làm mướn trên đây. Ông trời đã xót thương một con người bất hạnh và tác hợp cho cô chú được bên nhau. Chú Răng vui vẻ nói tiếp:

“Thật tội nghiệp cho cô Khoa lắm, con gái lấy chồng mà không được rước dâu. Lễ cưới được tổ chức tại nhà mẹ của cô Khoa, ấp Bình An xã bình Thành huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp. Chú nhờ người giúp lén lút đến gia đình chú để mời cha mẹ anh em đến đây dự”.

Họ đã sống hạnh phúc bên nhau được hơn 10 năm và có được hai mặt con. Cuối cùng giờ “định mệnh” đã đến. Chú xót xa kể lại:

“Vào ngày 4/1/2012 là ngày giỗ của ba chú. Vì chú không thể đưa vợ con về nhà ba mẹ tại xã Phú Quới, huyện Châu Thành – Vĩnh long, để thắp cho ông 1 nén nhang được. Mà bé Nguyễn Thị Hoàng Nhi con chú nó nhớ bà nội, nên xin phép chú được cùng mẹ về nội dự đám đồng thời được thăm bà. Về đây thì công an xã địa phương đã bắt hết cả ba mẹ con. Lần theo giấy tờ của cô Khoa công an biết được nơi ở của chú, rồi ngay đêm khuya hôm đó công an đến bố ráp bắt chú”.

1 giờ đêm ngày 5/1/2012, Chú Răng đã bị bắt trở lại và bị giải về ngay trại tù Z30A- Xuân Lộc, và đến 5/3/2014 hay tin cô Nguyễn Thị Kim Khoa đã vĩnh viễn ra đi trong cơn đột qụy.

Dường như chú quá đau lòng khi kể tới đây nên chú chỉ biết nhìn trời, nhìn vào những hạt mưa cuối cùng đang rơi xuống… Tôi cảm thông được nỗi lòng của chú lúc bấy giờ nên không hỏi gì thêm.

Viết những dòng chữ này, tôi không chỉ muốn những người Việt Nam yêu tự do biết về người tù Nguyễn Văn Răng, mà còn biết về những người đã hy sinh và chịu tù đầy trong thầm lặng như thế nào.

Còn và còn nhiều lắm những người sẵn sàng chết cho đất mẹ, cho tự do và những điều tốt đẹp. Để thấy rằng mỗi chúng ta không thể nằm ngoài trách nhiệm với tổ quốc thân yêu này.

Chú Nguyễn Văn Răng cùng con gái Nguyễn Thị Hoàng Nhi

28/10/2015

Huỳnh Anh Tú

danlambaovn.blogspot.com