Dương Khiết Trì: không cần phải đánh Việt Nam chúng nó! + Hướng dẫn viên người …

Dương Khiết Trì: không cần phải đánh Việt Nam chúng nó! + Hướng dẫn viên người …

Tại sao phải đánh chúng khi hơn 700km2 vùng biên giới phía nam của ta đã được chúng dâng cho ta, một nửa Thác Bản Giốc đã được ta cắm cờ 5 sao, Ải Nam Quan đã trở thành Hữu Nghị Quan mà chúng vẫn cực kỳ coi trọng đại cục hữu nghị giữa hai đảng và nâng niu gìn giữ để trao lại cho những thế hệ mai sau của chúng.
Súng đạn nào mãnh liệt bằng phong bì tống vào miệng chúng để sau đó Đại Hán ta ngồi ngay trên nóc nhà Tây Nguyên, đào mồ xới mã đất Mẹ của chúng, thải chất độc vào môi trường của chúng và Bộ chính trị của chúng vẫn khăng khăng đấy là chiến lược đã quyết, là chính sách công nghiệp hóa hiện đại đất nước không thể ngừng.
Xe tăng đại pháo nào bằng hàng ngàn công trình xây dựng để những sư đoàn Trung Hoa trong bộ áo công nhân có mặt trên xứ sở của chúng, kéo dài từ mũi Cà mau cho đến Hữu nghị quan.
Phi cơ, chiến hạm sao bằng 90% gói thầu của chúng ta đang khống chế nền kinh tế của chúng, hàng hóa thặng dư made in China đang ở trên thân thể chúng, bàn ăn của chúng, bao tử của chúng, nhà cầu của chúng.
Tại sao phải đánh chúng khi chỉ cần đóng đường biên giới là dân của chúng không đủ tiền mua quần áo mặc, thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng, xe dream và giấc mơ thấp hèn của chúng không còn chạy đầy đường, cắt xăng dầu là cả nước chúng tối đen và chỉ cần một cú nỗ là Tây Nguyên của chúng sẽ nhuộm bùn đỏ.
Chúng ta không phải đánh, không phải bắn một viên đạn nào mà vẫn có thể làm sụp đổ thị trường chứng khoán của chúng, làm tan gia bại sản những tên đồng chí tư bản đỏ mà tài sản vốn liếng có được là nhờ vào và đang lệ thuộc vào nền kinh tế Trung Hoa made in Vietnam.
Tại sao chúng ta phải đánh!?
Cần gì phải đánh khi cả vùng biển mà chúng gọi là biển Đông đã, đang và sẽ là sân nhà của chúng ta; khi ngư dân của chúng đi đánh cá trên vùng biển của tổ tiên chúng mà lấm lét như đi ăn trộm; khi hải quân của chúng không dám lai vãng trong suốt thời gian giàn khoan khủng của ta chậm chậm tiến vào và khoan vào lòng biển của chúng nó; khi sự chống trả của chúng là những lời tuyên bố đã trở thành trò hề trên sân khấu ngoại giao; khi phản đối của chúng là những cú điện đàm với lãnh đạo ta bằng cái điện thoại không cắm dây; và chúng ta chỉ cần đuổi chúng ra khỏi nhà của chúng bằng vòi rồng phun nước.
Cần gì phải đánh để chúng ta trở thành đạo quân xâm lăng và mang tiếng dưới mắt nhìn của thế giới, làm xấu đi hình ảnh yêu chuộng hòa bình của Đại Hán. Trong khi chúng ta đã từng bước trong hòa bình thành công thu tóm từng tấc đất, tất biển, từng vùng đất, vùng biển của chúng bằng văn kiện do chính chúng ký kết. Trong khi chúng ta vô cùng hiệu quả trong tiến trình biến chủ quyền của chúng thành vùng tranh chấp, biến vùng tranh chấp thành vùng khai thác của ta và chúng chỉ dám vừa lên tiếng như chó sủa người qua đường vừa cúi đầu cam kết tất cả vì đại cục Việt-Trung.
Đó là đối với chúng ta.
Còn đối với dân của chúng:
Cần gì phải đánh khi chúng thay thế ta ngăn chặn, trấn áp, bắt giam, bỏ tù dân của chúng đứng lên phản đối Đại Hán. Đánh chúng sẽ khơi dậy lòng yêu nước của dân tộc chúng vốn đã là sức mạnh vô biên từng đánh bại chúng ta hàng ngàn năm qua. Đảng của chúng đã tích cực giúp chúng ta tiêu diệt lòng yêu nước của dân tộc chúng trong suốt bao năm qua, đã biến đa phần dân của chúng thành những đàn cừu chỉ muốn sống trong hòa bình của một cuộc đời nô lệ. Chúng đang làm tốt!
Chưa bao giờ trong lịch sử bành trướng, chúng ta có được một đám thái thú địa phương làm tay sai đắc lực và hiệu quả như chúng. Khi chúng ta có mặt ở biển Đông ngay trước cửa nhà chúng, chúng đã ra lệnh hải quân của chúng không được bén mảng sợ làm phiền lòng ta. Khi cần đốt phá, cướp của, giết người để bôi đen những tên biểu tình yêu nước, công an mật vụ của chúng ngoan ngoãn nghe lời ta tạm lánh. Khi cần cấm ngặt từng tên yêu nước năng nỗ xuống đường phản đối chúng ta, chúng đã nhiệt tình như những con chó Tứ Xuyên quên ăn quên ngủ canh gác ngày đêm. Tại sao chúng ta phải đánh chúng và sau đó phải cai trị dân của chúng? Tại sao ta phải làm công việc đối phó với 90 triệu dân của chúng trong khi giống cẩu phương nam này làm giỏi hơn chúng ta?
Chúng ta không cần đánh bởi chúng đã đánh dân của chúng thế chúng ta.
Chúng ta cũng không cần phải cướp vì chúng đã tự cướp nước của chúng để dâng để bán và sẽ tiếp tục dâng, tiếp tục bán cho chúng ta.
Khi cần chúng ta sẽ chuyển quân, kéo đại pháo, xe tăng chạy vòng quanh biên giới để giúp đảng của chúng nhân danh hòa bình, ngăn chặn hiểm họa chiến tranh mà trị đám dân muốn vọng động của chúng.
Người đứng đầu Thủ đô đã ra lệnh dân của chúng rằng:
“Biểu thị lòng yêu nước, yêu Thủ đô thông qua việc ra sức lao động, học tập, công tác và hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước nhằm phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và ổn định đời sống nhân dân…”
Người đứng đầu nhà nước ra lệnh cho dân của chúng rằng:
“Đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sốngvà góp phần cùng cả nước bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc theo đúng luật pháp của nước ta và luật pháp quốc tế….”
Chúng đã làm đúng bổn phận của một chư hầu trung thành với chính sách trị dân thuộc địa: hãy lo làm giàu và sống yên ổn. Dân của chúng chỉ được làm giàu và đó là phương thức duy nhất được cho phép để bảo vệ tổ quốc của chúng.
Không cần phải đánh. Cờ đại Hán của chúng ta sẽ từ 5 sao thành 6 sao phất phới trên toàn cõi lãnh thổ của chúng. Không bằng súng đạn mà sẽ bằng những văn kiện ký kết từng phần giao nhượng. Văn kiện sau cùng là văn kiện chúng ta viết sẵn cho chúng để chúng XIN ký kết được làm một vùng tự trị trong Đại hán vĩ đại của chúng ta.
28.06.2016
Vũ Đông Hà
DanLamBao

TẠI SAO CHÚNG TA KHÔNG MUỐN VỀ VIỆT NAM

Lời người viết:  Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó – mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi, tai nghe tận chỗ – ghi lại môt cách trung thực. 
 
*
Tôi thấy bộ mặt Saigòn đổi mới với: Những khách sạn 5 sao, 4 sao lộng lẫy. Đổi mới với những nhà hàng “ vĩ đại “ trên các tuyến  du lịch. Với những trung tâm “thư giản” sang trọng, quý phái cở câu lạc bộ Lan Anh. Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hànội. Với những trường Trung học tư thục mang tên Mỷ, giáo sư Mỷ, chương trình học của Mỷ, giảng dạy bằng tiếng Mỳ- học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỷ – 1,000 US$ đến 1,500 US$ /tháng. (Giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con? )
Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử “đỏ”, các nhà giàu mới – thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau, các quan chức đỏ đô la đầy túi. Họ đến đây để “thư giản”, uống rượu, đánh bạc, cá độ và tìm gái. Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP, XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỷ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XỌVụ cá độ hàng triệu US$ đã bị phanh phui. là một thí dụ cụ thể. Vũ trường New Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi… “ lắc” suốt đêm.
Để vài hôm sau – đâu lại cũng vào đó…
 
Tôi cũng thấy Sàigòn- người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở – vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự – ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp quẹt. nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại. Vật liệu nhập cảng đắc tiền. Nhà trong hẻm – phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi sĩ vô duyên. , lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường…
Tôi thấy Sàigòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ, ngày đêm đinh tai nhức óc và 5.000.000 chiếc Honda – phun khói mịt mù – chưa kể đến xe hơi ???
Và hệ thống cống rảnh lạc hậu. mỗi khi trời mưa lớn – nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn lạc hậu. không đáp ứng nổi nhu cầu thải rác của 10.000.000 dân nhung nhúc như kiến. Sàigòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ, hàng lậu của Trung cộng  tràn vào vô số kể. Máu kinh tế Việt Nam bị loảng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận, không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung công  giá khoản chừng 1,200 đô la Mỷ, chưa kể hàng Trung cộng  lậu thuế, rẻ mạt. Thuốc lá và bia – bia nội, bia ngoại – có đủ. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sàigòn. Đảng viên, cán bộ – giai cấp thống trị -“Nhậu”. Già nhậu, trẻ nhậu… con nít cũng tập tành nhậu. Hút thì khỏi nói. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm quyền thống trị – đã lột xác – không còn quấn thuốc rê, bập bập phà khói mịt mù nữa – mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5, Craven A, trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút – thậm chí con nít 9, 10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá. Các hảng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng. nhưng bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mông mốc, cũng không dấu được nét thô kệch của một anh nhà quê mới lên Tỉnh.

Tôi còn thấy Sàigòn với hiện tượng “tiếm công vi tư” lộng hành, ngang ngược của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê. Chưa thỏa mãn – ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy. Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu – nơi gặp gở của 2 đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ – thì rõ.

 
Còn nhiều, rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường nhan nhãn ở khắp Saigòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể: Một công thự tại vườn Tao đàn (có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) – mặt tiền ngó vào trong – mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ) – bên có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du, trị giá mỗi căn, nhiều trăm ngàn mỷ kim – ngon ơ ! Tương tự như vậy – ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà cũ, trước sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 – phố thương mãi,  quán xá la liệt chiếm mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Đạo, chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng. Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ, bây giờ là câu lạc bộ Lao động – nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo, giày vớ thể thao, buôn bán ầm ỉ, náo nhiệt suốt ngày.

> Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn. Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai? Tất nhiên là phải thưa với công an. Không lẽ công an xử công an? Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt hơn : “Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng . Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống lại Đảng sao? “ (Nhật ký “Rồng Rắn” của Trần Độ).   

> Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sàigòn – đã biến mất.
> Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự do những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ – mũi và miệng bịt kín bằng “khẩu trang”, găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi Honda chạy như bay trên đường phố.

 
Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi Nylông, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống… Những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường, những anh phế binh cụt tay, cụt chưn, lê lết trên một miếng ván gổ … đi bán vé số (một cách ăn xin trá hình).
 Image result for xe máy việtnam
Bộ mặt Sàigòn “đổi mới” bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại, những vũ trường cực kỳ tráng lệ, những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền. trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa, những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố – Nhiều người chóa mắt. choáng váng, cho là “Việt Nam bây giờ tiến bộ quá”. Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ : Như vậy có phải là tiến bộ không ? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế và giáo dục, mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng. Lợi tức đầu người của Việt Nam – theo thống kê của báo The Economist – bằng: 800 US$ năm 2011 (Hà Nội bốc lên 1,000 US$, Chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh. So với các nước láng giềng: Thái Lan: 3.500 US$ – Phi luật Tân: 2.000 US$ – Nam Dương: 1.160.US$. Tân gia Ba 30.000 US$. (The Economist World, năm 2011 – p. 158, 176, 238) – Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa. Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy – nếu đặt câu hỏi: Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu lớn, những biệt thự lộng lẫy kia? – Thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu thân nhân của họ. Và ở thôn quê – Giai cấp giàu có bây giờ là ai ? Giai cấp địa chủ là ai ? Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do, mua bán làm ăn mà có ???
*
HIỆN TƯỢNG NGƯƠI BẮC XA HÔI CHỦ NGHĨA CHIẾM HỮU TOÀN BỘ PHỐ XÁ THƯƠNG MAI QUAN TRONG Ở SAIGÒN – KHỐNG CHẾ MỌI LÃNH VỰC TRỌNG YẾU Ở MIỀN NAM.
Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng “đánh Tây, đuổi Mỷ” – cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa – Thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sàigòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sàigòn. Và các khu phố sầm uất nhứt, vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản – Từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong – Cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài, Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc, Phạm thị Trước. Hiện nay, một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại. nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán dồ nhập cảng v. v. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sàigòn thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn). Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra). Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ – dĩ nhiên – vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc. Cán bộ, công nhân viên trọng yếu – Cũng đều là người Bắc – Trừ một số cán bộ gốc miền Nam ra Bắc  tập kết – theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam – Thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc cả.
Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới – Từ Trung ương đến địa phương – Từ Tỉnh thành đến quận lỵ, thị trấn, làng xả gần – đều do đảng viên người miền Bắc XHCN – nắm giữ. Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn – điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 10,000 xe hơi đủ loại, chủ nhân cũng là người Bắc XHCN. Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất – Cũng là do người miền Bắc XHCN nắm giữ.
Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấy. Còn những vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản, cải tạo công thuơng nghiệp – nhà cửa của tù cãi tạo, của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức – tài sản những người thuộc diện tư sản – toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam – được đem đi đâu? – Không ai biết.
Thông thường – những của cãi nầy phải được sung vào công quỷ – để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẻ. Thế nhưng – sự thật trước nhứt – là các ông đem chia chác nhau. Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN (Đọc Đất đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang). Ông lớn lấy tài sản lớn. Ông nhỏ – nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết… đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy – vì lo sợ cái gì đó – bèn đem “ bán non” những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một viên chức tù cãi tạo đã sang tay đến 3 đời chủ.Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu – không ngoại lệ. Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại – là những biện pháp vá víu. Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN.   
Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá đều bị “ giải phóng” ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xả tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi), đổi tiền để vô sản hoá người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ, để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê… Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào “mua” nhà Saigòn với giá gần như cho không… và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Saigòn. 
Mang xe tăng T. 54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên “xẻ dọc Trường Sơn” bằng máu, nước mắt và xác chết… vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là “giải phóng” nhân dân miền Nam – nhưng sự thật khó chối cãi được – là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Saigòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau – để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi – những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc.  Như vậy hành vi nầy gọi là gì? Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh – một mình đối diện với luơng tâm thuần luơng của mình – các ông tự gọi mình đi.
Đến thời “mở cửa” – cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương – đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá, xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế – những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn, no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây cất xong đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diển hình: Một bệnh viện gần chợ “cua” Long Hồ – quê hương của Phạm Hùng – nước vôi còn chưa ráo đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được.
Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt – là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực – những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê – nhứt là miền Nam – ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn – đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực.
Nhà văn – bác sĩ Hoàng Chính – gọi thời kỳ sau 75 là thời “Bắc thuộc”: 
– “Năm Bắc thuộc thứ 2: Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh.
– Năm Bắc thuộc thứ 6: Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán.
– Năm Bắc thuộc thứ 12: Trong ngục thất quê hương ấy, có những bộ xương thôi tập khóc cười. “
Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.

BỘ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM

Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 37 năm dưới chế độ cọng sản. Để được trung thực – người viết ghi những điều thấy và nghe – không bình luận – tại những nơi đã đi qua. Thôn quê miền Nam – những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện. Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối. Đường sá có tu sửa phần nào. Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái Chuối xã Long Mỹ, VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được. “Cầu tre lắt lẻo”, cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cái bè, Cái răng) nay không còn thấy nữa.
Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ – chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn – còn nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy – dọc theo bờ sông Long Hồ – một số nhà gạch nhỏ mới cất. xen kẻ những mái lá bạc màu. Vùng Trà ốp, Trà Cú (Vĩnh Bình), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn. Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi.
Hai bên đường xe chạy từ Mỷ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ. Nhìn chung – có một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta chen chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai hoằng, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương.

Dưới sông – từ kinh Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang – hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau.

Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế – cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá. Basa, cá điêu hồng v. v. ở dọc bờ sông khá dài. Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu – người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỷ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời: “ Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi! “ Tôi hỏi thêm: “ Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập. các cô gái nầy không sợ sao ông? – “ Biết hết – mấy cổ biết hết, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông. Biết đâu gặp may. “Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai là không biết.
Tờ T T – số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi – trong bài: “ Nỗi đau từ những con số”- có nói đến số phận của 65.000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy: “Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang “bày hàng” để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình “ Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết: “Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Saigòn để dự tuyển. Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái. Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát GIÁC  3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện. Thậm chí – những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm”.

Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời: ‘ “Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa”. Tôi nhìn kỷ các cô gái nầy tuổi rất trẻ khoản chừng 18 đến 20, đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện – tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề.
Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức “ môi giới hôn nhân lậu”- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma Cau để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục, các cô gái làm điếm, hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An. Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhãn xảy ra hằng tuần – thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh, quận 11, Sàigòn.
Cho dù chánh thức hay lậu, hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu thì lén lút với sự che chở của Công An. Hậu quả gần giống nhau. Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đãi, đánh đập tàn nhẫn – ban ngày làm nô dịch, ban đêm phục vụ tình dục rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại. (Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng) Còn lậu thì bán thẳng vào ổ điếm. Biết bao nhiêu thảm cảnh, biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại.
Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu, lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời! 
Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đãi, đánh đập. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt?
Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người – những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để đuợc giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn?
Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau: Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hoá bừa bãi, không được nghiên cứu cẩn trọng, đất đai canh tác bị thu hẹp, Dân số gia tăng. Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác. Các cô gái miền Tây quẩn bách vì không có việc làm kinh niên – cuộc sống vô vọng mịt mờ – có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ. Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75) – những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ. thang giá trị bị đảo lộn nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước. Do vậy – khi bị dồn vào đường cùng họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn. Nhưng động lực chánh là nghèo.

NGHÈO

Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây  đi lấy chồng Đại Hàn và Đài Loan… để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa nuôi sống cả nước – sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy – nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) ? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam – thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998: ĐBSC: 37%. ĐBSH: 29% . Năm 2002: ĐBSCL: 13 %. ĐBSH: 9%. (Nhà x. b Thống kê – Hànội, trang 13 – LVB trích dẫn) Dù theo tiêu chuẩn nào: tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) – mức sống (bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa) – ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH – bởi lẽ khi nghèo về lương thực – thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá.

Đó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người viết: Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều – cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát. khi trời mưa lúc ban đêm, không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp, trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc… Cái nghèo của một người đi mượn tiền, muợn gạo. tới ngày hẹn không tiền trả. Cái nghèo của một thanh niên thất nghiệp, cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ, mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân.

Tục ngữ bình dân có câu: Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời. – Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới. ở sông Long Hồ. Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay (2011) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te. Đời ông nội – nghèo! Đời cha nghèo! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo – không đổi đời cho người nghèo thành giàu. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác – còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền. trong khi dân số lại gia tăng quá tải. Cho nên thất nghiệp không thể tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết : “Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi, nhưng mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được? “

MIỀN NAM – 37 NĂM DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN

Kinh tế Việt Nam – trong đó có miền Nam – có chút tiến bộ – so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Đối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt, cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương trình y tế, giáo dục (hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng học phí bậc Tiểu học cho con) – các chương trình tạo công ăn việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể. Và hiện tại – muốn phát triển công nghiệp – nhà cầm quyền địa phương – theo lệnh Đảng – mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược. Lòng dân phẩn uất, kêu la than khóc. Oán hận ngút trời xanh! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàigòn). Như vậy có gọi là phát triển không?

KẾT LUẬN

– 37 năm nhìn lại:

 Người ta thấy miền Bắc đã “giải phóng” dân Sàigòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ. Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau. “Giải phóng” miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ. “Giải phóng” quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển… “ Giải phóng” phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm “vợ nô lệ”, đi làm điếm ở Kampuchia, TháiLan. 
– 37 năm nhìn lại:
Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website (2010) – bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2011). Chỉ trong năm 2011 – có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc. (Theo UNI CEF – LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam)

– 37 năm nhìn lại:
Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L’expresse ngày 29-8-2011: “Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn. Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc – người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở” 

– 37 năm nhìn lại:
Miền Bắc XHCN rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam – khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc.
Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo: “Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc. Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu.” (Trích Người việt hải ngoại – Nguyễn văn Trấn)
PHÓ THƯỜNG DÂN

Tôn Sĩ Nghị – Lê Chiêu Thống, Formosa – Võ Kim Cự

Tôn Sĩ Nghị – Lê Chiêu Thống, Formosa – Võ Kim Cự

Phạm Đình Trọng (Danlambao)…Từ Hà Tĩnh chạy ngược chạy xuôi ra Hà Nội, sang Đài Bắc, đôn đáo rước đại họa Formosa về đầu độc giống nòi, tàn phá quê hương, hành động của Võ Kim Cự ở đầu thế kỷ 21 hoàn toàn giống như hành động của Lê Chiêu Thống cuối thế kỷ 18 từ Kinh Bắc tất tả chạy sang Bắc Kinh phủ phục trước Càn Long vua nhà Thanh, xin Càn Long đưa quân sang chiếm Đại Việt rồi đích thân Lê Chiêu Thống dẫn Tôn Sĩ Nghị đưa 29 vạn quân Thanh tràn qua biên giới vào chiếm Thăng Long… Lịch sử Việt Nam mãi mãi khắc tên Lê Chiêu Thống là tên bán nước ô nhục. Còn Võ Kim Cự rước Formosa về đầu độc biển Việt Nam tàn phá đất nước Việt Nam, diệt chủng giống nòi Việt Nam thì được đảng cộng sản Việt Nam đưa vào Quốc hội của đảng!…
*
Tập đoàn Formosa là một tập đoàn công nghiệp Đài Loan nhưng hoạt động sản xuất chỉ biết có lợi nhuận, không đầu tư vốn khắc phục hậu quả độc hại do dây chuyền sản xuất tạo ra đã gieo chết chóc cho con người và hủy diệt sự sống tự nhiên trong môi trường.
Chính người dân Đài Loan tháng 5.2010 đã công bố bức thư chỉ ra tám tội ác của Formosa:
1. Đặt lợi nhuận cao hơn sự sống của con người.
2. Đẩy sự sống trái đất vào cảnh khốn cùng.
3. Biến dòng sông lớn nhất Đài Loan khô cạn vì đã hút 345.000 tấn nước mỗi ngày.
4. Đầu độc bầu trời và lá phổi của sự sống.
5. Trái đất đang ấm lên còn thải thêm nhiều chất độc làm trái đất càng nóng lên mau lẹ.
6. Di họa ô nhiễm nguồn nước và không khí sẽ kéo dài trong hàng thiên niên kỷ.
7. Di họa rác thải công nghiệp sẽ gây họa đến 10 thiên niên kỷ sau.
8. Formosa là một tập đoàn nói dối, không thực hiện đúng cam kết với người dân.
Năm 2009, tổ chức Vì Môi Trường Ethecon, Đức, đã trao giải Hành Tinh Đen cho ông chủ tập đoàn Formosa FPG, Formosa Plastics Group, với bản hạch tội:
Lịch sử của FPG gắn liền với những tai họa về xã hội và môi trường trên phạm vi toàn cầu:
– Lợi dụng xu thế quốc tế đang chối bỏ các sản phẩm PVC vì thuộc tính nguy hại cố hửu của chất này, FPG càng đẩy mạnh sản xuất PVC và trở thành nhà cung cấp hàng đầu các sản phẩm này, thậm chí coi thường cả việc cấm một số sản phẩm PVC tại Đài Loan.
– Năm 1998 FPG bị bắt quả tang khi định xả 3000 tấn rác độc tại vùng cảng biển Sihanoukville của Campuchia.
– FPG thường xuyên để xảy ra các tai nạn sản xuất gây chết người, nhiều vụ nổ ở mức sát thảm họa buộc phải di tản dân chúng.
– FPG nằm trong nhóm 10 thủ phạm gây ô nhiễm lớn nhất tại Đài Loan, gây ra 25% trên tổng số khí nhà kính do Đài Loan phát ra.
– Thái độ coi thường luật pháp, môi sinh và hòa bình, cộng đồng và quyền con người của FPG có thể thấy rõ trong một ví dụ tại Delaware, Hoa Kỳ.
Và tổ chức Vì Môi Trường Ethecon dõng dạc Tuyên án: Các người chống lại nhân loại và môi trường vì tính ích kỷ, lòng tham lam vô độ, bất chấp cả luật pháp và đạo đức. Các người xứng đáng được bêu dương.
Với tội ác chống sự sống, chống loài người như vậy, Formosa đi đến đâu cũng bị xua đuổi. Là đại họa của sự sống tự nhiên, đại họa của giống nòi dân tộc, Formosa đã bị xua đuổi ở Mỹ, ở Ấn Độ nhưng một chức sắc đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên trung ương đảng, Bí thư tỉnh ủy Hà Tĩnh Võ Kim Cự đã thậm thụt tiếp xúc với Formosa, thậm thụt chạy thủ tục hành chính để rước đại họa Formosa về Hà Tĩnh với tốc độ của đội quân nhà Thanh được Lê Chiêu Thống dẫn đường từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu rầm rập tiến vào xâm lược nước ta cuối thế kỷ 18.
Từ Hà Tĩnh chạy ngược chạy xuôi ra Hà Nội, sang Đài Bắc, đôn đáo rước đại họa Formosa về đầu độc giống nòi, tàn phá quê hương, hành động của Võ Kim Cự ở đầu thế kỷ 21 hoàn toàn giống như hành động của Lê Chiêu Thống cuối thế kỷ 18 từ Kinh Bắc tất tả chạy sang Bắc Kinh phủ phục trước Càn Long vua nhà Thanh, xin Càn Long đưa quân sang chiếm Đại Việt rồi đích thân Lê Chiêu Thống dẫn Tôn Sĩ Nghị đưa 29 vạn quân Thanh tràn qua biên giới vào chiếm Thăng Long.
Cuối năm 1788 Tôn Sĩ Nghị cùng 29 vạn quân Thanh vào Thăng Long chưa kịp gây tội ác thì đầu năm 1789 đã bị vua Quang Trung của nước Nam đốc thúc quân Đại Việt đánh tan tác, thây lính Thanh chất thành gò thành đống ở kinh kỳ Thăng Long, từ Ngọc Hồi đến Đống Đa, xác quân Thanh xâm lược trôi nghẽn cả dòng sông Hồng.
Lịch sử Việt Nam mãi mãi khắc tên Lê Chiêu Thống là tên bán nước ô nhục. Còn Võ Kim Cự rước Formosa về đầu độc biển Việt Nam tàn phá đất nước Việt Nam, diệt chủng giống nòi Việt Nam thì được đảng cộng sản Việt Nam đưa vào Quốc hội của đảng!
20.07.2016
Phạm Đình Trọng

Tiếng thở dài của người dân Cồn Sẻ

Tiếng thở dài của người dân Cồn Sẻ

Mỹ Hiệp (Danlambao) – 500 triệu USD cùng một lời “xin lỗi” chứ chưa nhận tội là cái giá rất bèo so với những hệ quả mà người dân phải gánh chịu từ hành động xả độc tố ra biển của tập đoàn Formsa. Hàng triệu ngư dân, thương nhân kinh doanh thủy hải sản, những người làm dịch vụ nhà hàng, du lịch, khách sạn ở miền Trung sẽ mất kế sinh nhai trong hàng chục năm trời.
Chúng tôi về đến Cồn Sẻ (Quảng Bình), một trong 4 tỉnh miền Trung đang phải gánh chịu thiệt hại nặng nề trong vụ cá chết dạt trắng bờ vừa đúng nhá nhem tối. Ấn tượng về những người dân tụm năm tụm bảy nhìn xa xăm ra biển, những đứa trẻ nhếch nhác xây lâu đài cát ven bờ có lẽ là những hình ảnh mãi in đậm trong tâm trí chúng tôi.

Kể từ thời điểm cá chết cho đến nay, hàng chục con tàu lớn, nhỏ trong thôn phải nằm phơi nắng, phơi sướng vì số lượng cá đánh bắt được ngày càng ít. Mặt khác người dân không dám mua cá về ăn do sợ cá nhiễm độc. Thậm chí nhiều chuyến đi biển về còn bị thua lỗ. Dù vậy, ngư dân vẫn phải tiếp tục bám biển để kiếm đồng tiền trang trải cho cuộc sống. Những người có sức khoẻ thì đánh cá xa bờ, còn lại một số khác thì phải tiếp túc đánh bắt gần bờ. Việc nuôi cá lồng bè trên Sông của ngư dân thôn Cồn Sẻ cũng gặp nhiều ảnh hưởng sau vụ cá chết.

Một số bà con ngư dân cho biết trước tình trạng cá chết hàng loạt liên tiếp tấp vào bờ khiến tâm lý của bà con nơi đây vô cùng hoang mang, lo lắng. Bởi có lên thuyền ra khơi khai thác thì những loại thủy hải sản đánh bắt được cũng không có ai mua nên bà con đành kéo thuyền lên bờ rồi ngồi thẫn thờ, mắt buồn nhìn hướng biển. Chú Tính một người dân nuôi cá lồng bè tại đây cho biết. “Lúc chưa xảy ra việc cá chết thu hoạch từ việc bán cá lồng lên đến hàng trăm ngàn đồng, nhưng hiện nay thì cá không thể bán được vì người dân sợ cá nhiễm độc nên không dám mua”. Cũng theo chú Tính, thời điểm này là vụ chính để bà con đánh bắt các loại thủy hải sản. Những năm trước thời điểm này luôn náo nhiệt, từ sáng đến chiều tấp nập các con thuyền vào ra cùng những thương lái đến thu mua cá thủy hải sản nhưng giờ thì không một bóng dáng người mua, ngư dân làm cá cũng chán nản và lo lắng vì nếu không bán được cá thì không có tiền cho sinh hoạt của gia đình.

Không những thế, một vài nhà hàng hải sản của người dân cũng phải đóng cửa vì vắng tanh khách. “Trước đây thu nhập của cửa hàng mỗi ngày từ 3-5 triệu, nhưng hiện tại thì không một bóng khách, nhà hàng của chú đã phải đóng cửa cả hai tháng nay“, chú Quyết chủ nhà hàng Hồng Thủy thở dài ngao ngán khi chia sẻ với chúng tôi.
Hiện tình hình đời sống của bà con ngư dân nơi đây vô cùng khó khăn, mọi sinh hoạt bị đảo lộn hoàn toàn. Trước đây vào thời điểm này, bà con chỉ ra khơi một đêm đến sáng về đưa các loại thủy hải sản đánh bắt được đem bán cho thương lái thu về từ 1 đến 2 triệu đồng để nuôi sống gia đình… nhưng hiện tại, tất cả thuyền nơi đây đều phải neo đậu hoặc kéo lên bờ vì có cá đâu mà khai thác. Mất nguồn thu nhập, cuộc sống của tất cả người dân trong vùng đang gặp rất nhiều khó khăn. Tương lai của các em nhỏ đang tuổi cắp sách đến trường đang là một dấu hỏi lớn được đặt ra.

Không thể trông chờ mãi vào 10kg gạo chống đói từ chính phủ, người dân nơi đây đã gửi 55 đơn kiến nghị và 1 đơn chung lên chính quyền các cấp để được giải quyết nhưng cho tới nay vẫn chưa nhận được câu trả lời. Chính quyền bỗng chốc trở nên yếu hèn hơn bao giờ hết. Đấy là chưa nói đến hành động không thể chấp nhận được của chính quyền khi thẳng tay đàn áp, đánh đập dã man khiến nhiều người bị thương nặng khi có khoảng gần 2.000 bà con giáo dân xứ Cồn Sẻ, hạt Hòa Ninh, giáo phận Vinh đã xuống đường biểu tình trên đường quốc lộ đoạn qua thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình để yêu cầu nhà cầm quyền đóng của nhà máy Formosa. Thế nên, có lẽ, sự mong mỏi đó sẽ mòn mỏi theo ngày tháng!
Họ không chấp nhận ngồi trên bờ để ăn, hưởng đền bù. Bởi “ngư dân sống bằng biển, chỉ hỗ trợ, trợ cấp một số mặt khác; còn họ “sinh nghề tử nghiệp”, sống chết với biển. Bây giờ, người dân ngồi trên bờ để ăn, hưởng đền bù. Ngư dân mong muốn dù bám biển, dù có nghèo, có khổ, có chết trên biển thì vẫn cam nhận”! Quan trọng hơn, đánh bắt thủy hải sản là nghề gắn bó với bà con Cồn Sẻ bao đời nay. Nguyện vọng của bà con là Formosa phải bị truy tố trước tòa án và làm sạch môi trường biển, sau đó cuốn xéo ra khỏi Việt Nam để họ lại được quay trở về truyền thống; môi trường biển được trong sạch trở lại; để những ngư dân lại dong thuyền ra khơi dựa vào mẹ biển mưa sinh./.
22/7/2016

‘Có vấn đề’ về phương pháp xếp hạng VN là quốc gia hạnh phúc thứ 5 thế giới

 ‘Có vấn đề’ về phương pháp xếp hạng VN là quốc gia hạnh phúc thứ 5 thế giới

VOA

Chỉ số Hành tinh Hạnh phúc đo lường mức độ hạnh phúc của một nước trong mối liên hệ với sự no đủ, tuổi thọ và bất bình đẳng xã hội rồi chia cho mức độ tác động đến sinh thái của đất nước.

Chỉ số Hành tinh Hạnh phúc đo lường mức độ hạnh phúc của một nước trong mối liên hệ với sự no đủ, tuổi thọ và bất bình đẳng xã hội rồi chia cho mức độ tác động đến sinh thái của đất nước.

Báo Independent của Anh hôm 21/7 đưa tin Việt Nam đứng thứ 5 trong danh sách 10 nước hạnh phúc nhất thế giới. Đây là kết quả đánh giá về Chỉ số Hành tinh Hạnh phúc của Quỹ Tân Kinh tế học ở Anh. Chỉ số này đo lường mức độ hạnh phúc của một nước trong mối liên hệ với sự no đủ, tuổi thọ và bất bình đẳng xã hội rồi chia cho mức độ tác động đến sinh thái của đất nước.

Sau khi tin này được báo chí trong nước đưa lại, nhiều người Việt Nam đã bày tỏ trên mạng xã hội rằng kết quả đó chỉ nên coi là tính tham khảo vì trên thực tế mức độ hài lòng với cuộc sống ở Việt Nam còn thấp, chưa nói đến hạnh phúc.

Chia sẻ với quan điểm vừa kể, Tiến sỹ Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội tại Hà Nội, chỉ ra rằng phương pháp phỏng vấn, lấy mẫu ở Việt Nam của Quỹ Tân Kinh tế học có thể không đúng đối tượng. Bà nói với VOA:

“Tôi cho rằng tất cả các tiêu chí đó của Việt Nam đều có vấn đề. Tuổi thọ của Việt Nam cũng không phải là cao. Về môi trường thì rõ ràng là có quá nhiều vấn đề. Việc khai thác tài nguyên của Việt Nam từ trước đến nay rất là không bền vững. Việt Nam đang ở trong thời kỳ mà cái phân tầng xã hội nó càng ngày càng lớn. Ở Việt Nam có một số những người rất giàu, còn lại có những người rất nghèo. Cái bất bình đẳng tôi nghĩ nó khá là rõ. Nếu mà nói về bình đẳng thì cũng rất là khó để xếp Việt Nam ở một cái top cao của hạnh phúc. Tôi cảm thấy những cái đánh giá, nghiên cứu đấy có thể rất có vấn đề về phương pháp”.

Đây không phải là lần đầu tiên Việt Nam nằm trong nhóm các nước hạnh phúc nhất thế giới. Nhiều tổ chức quốc tế khác, kể cả Viện Gallup của Mỹ, trong các năm trước như 2009, 2012 cũng từng xếp Việt Nam trong số các nước hạnh phúc hàng đầu thế giới với căn cứ vào các tiêu chí khác nhau.

Mặc dù vậy, bất cứ khi nào các kết quả như vậy được đưa ra, luôn có đông đảo người Việt Nam cho rằng việc xếp hạng đó không phản ánh đúng thực tế. Để có đánh giá chính xác hơn về mức độ cảm nhận hạnh phúc ở Việt Nam, Tiến sỹ Hồng nêu ra yếu tố cần được tập trung nhất vào:

“Hiện nay có lẽ thiết thực nhất là chữ an toàn. An toàn đây là nói an toàn trong thực phẩm, an toàn giao thông, an toàn trong môi trường xã hội. Những cái mâu thuẫn xã hội hiện nay rất dễ dàng bùng nổ. An toàn nói chung ở Việt Nam bây giờ tôi nghĩ là rất là có vấn đề. Tôi nghĩ đối với người Việt Nam thì có lẽ đấy là một trong những vấn đề hết sức là ưu tiên. Thế rồi là vấn đề ô nhiễm môi trường. Cái môi trường sống hiện nay cũng không an toàn. Môi trường tự nhiên đang bị phá hủy”.

Bà viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội cũng gợi ý cần chú ý đến các dịch vụ xã hội cơ bản như dịch vụ giáo dục, y tế. Các khảo sát của chính một số cơ quan ở Việt Nam gần đây đã chỉ ra rằng người dân Việt Nam “hoàn toàn không hài lòng” vào các dịch vụ này. Bà Hồng bình luận:

“Nếu mà các vấn đề an toàn như tôi vừa nói đang có vấn đề, rồi những dịch vụ xã hội cơ bản cũng chưa đáp ứng thế thì khó có thể nói là người Việt Nam cảm thấy hạnh phúc được”.

Bà Hồng cũng nhắc đến thực tế là hiện nay đang ngày càng có nhiều người Việt Nam đi định cư ở nước ngoài. Bà nhận xét rằng “việc đó thể hiện chắc chắn là có nhiều người không hài lòng với cuộc sống ở đây”.

Theo cách đánh giá của Quỹ Tân Kinh tế học Anh, nước Costa Rica nhỏ bé ở Nam Mỹ là nước hạnh phúc nhất thế giới. Quỹ cho hay Đứng thứ nhì là Mexico mặc dù nước này có nạn tham nhũng và bạo lực băng đảng hành hoành. Trong nhiều năm nay, đã có một số lượng lớn người dân Mexico tìm nhiều cách để nhập cư vào Mỹ để tìm kiếm các cơ hội kinh tế trong khi Mỹ chỉ xếp hạng 108 về hạnh phúc trong bảng kết quả vừa rồi.

Việt Nam ‘hạnh phúc thứ 5 thế giới’

Việt Nam ‘hạnh phúc thứ 5 thế giới’

BBC 

Image copyright GETTY

Costa Rica được nêu tên là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới, theo một báo cáo hàng năm có tên Happy Planet Index.

Năm nước xếp đầu năm nay là Costa Rica, Mexico, Colombia, Vanuatu, Việt Nam, trên tổng số 140 nước.

Báo cáo này của New Economics Foundation đặt ở London, làm lần đầu tiên từ 2006.

Họ đo mức độ hài lòng nói chung của người dân dựa theo thăm dò của Gallup, tuổi thọ theo Liên Hiệp Quốc, bất bình đẳng thu nhập, và ảnh hưởng của từng cá nhân lên môi trường dựa theo dữ liệu của Global Footprint Network.

Anh quốc xếp thứ 34, còn Mỹ đứng thứ 108.

Chúng Ta/ Chúng Nó & Tiếng Nước Mình

Chúng Ta/ Chúng Nó & Tiếng Nước Mình

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

tuongnangtien's picture

tuongnangtien

RFA

Có lần, tôi (trộm) nghe giáo sư Đỗ Mạnh Tri nói rằng: “Rồi chế độ toàn trị sẽ chấm dứt tại Việt Nam. Nhưng người Việt Nam không thể xây dựng đất nước bằng cách phủ định thực tại Việt Nam. Trong thực tại ấy, có Mác.”

Thế còn Mao? Học thuyết Marx – Lénine, tư tưởng Mao Trạch Đông và tác phong Hồ Chí Minh mà. Chính Mao (chứ không phải là Hồ) mới là soạn giả của thảm kịch Cải Cách Ruộng Đất, và là tác giả của của cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với sản phẩm phụ là vô số những từ ngữ thô bạo phát sinh ngay sau khi ĐCSVN phóng tay phát động quần chúng:

“Cán bộ:’Tại sao thằng hào Thức nó lại sướng cao độ thế?’

Chị cốt cán: ‘Nó sướng cao độ thế là vì nhà nó đi bóc lột nhân dân.’

Cán bộ: ‘Thế tại sao chị lại khổ cao độ thế?’

Chị cốt cán:’Em khổ cao độ thế là vì em bị nó bóc lột em trên một cái vấn đề đi ở cho nó mười mấy năm.’ ‘Hôm nay em không đi họp được vì nhà em nó cứ khống chế em.’

Chúng ta không được phóng tay lỏng lẻo, mà phải phóng tay chặt chẽ.

Bần cố nông là con đẻ Cụ Hồ, dân nghèo là con nuôi thôi, nên mới đề ra chiếu cố.

Vì giai cấp địa chủ bóc lột mấy nghìn năm nay nên chị Phước mới bị toét mắt.” (Trần Dần – Ghi chép về Cải cách Ruộng đất ở Bắc Ninh 1955-1956. Phạm Thị Hoài biên soạn).

Ở thời điểm này, có lẽ, vì ngôn ngữ cách mạng chưa kịp đi sâu vào lòng quần chúng nên mẫu đối thoại thượng dẫn (nghe) vẫn còn hơi ngọng nghịu. Với thời gian, cùng với cuộc chiến giải phóng miền Nam, ngôn từ chiến tranh mới trở nên phổ cập và mỗi lúc một thêm… nhuần nhuyễn:

“Có một lần từ mặt trận đường 9 ghé về thăm nhà, tôi gặp đúng đêm máy bay Mỹ đánh phá Hà Nội. Còi báo động từ Nhà hát Lớn rú vang. Quầng sáng ánh đèn điện phía nội thành bỗng như dụi tắt bớt. Rồi những chùm đạn phòng không đỏ lừ thun thút lao lên vòm trời. Rồi bom nổ phía Yên Viên, Cầu Giát…

Còi báo yên, đàn chó trong làng vẫn sủa râm ran, đường làng ngõ xóm vẫn rậm rịch bước chân người, không một ai ngủ lại cả. Các cô các chị thức thẳng từ lúc đó cho tới lúc quẩy gánh rau húng, rau thơm tới các phiên chợ sớm. Người làng Láng chia sẻ âu lo với người nội thành như thế đấy!

Giữa phút tĩnh lặng, nghiêm trang ấy tôi bỗng nghe có tiếng gì động mạnh như tiếng ai đập chiếu trên mặt ao, tiếng đổ vỡ  loảng xoảng, ngay sau đó là tiếng kêu la của một người đàn bà:

Ối bà con xã viên đội một, đội hai, đội ba, đội bốn ơi! Lão chồng tôi tàn ác, thâm độc như đế quốc thực dân. Nó đánh tôi trường kỳ, gian khổ như thế này làm sao tôi chịu nổi?”

Đêm sau máy bay Mỹ tiếp tục đánh phá Hà Nội. Đúng vào giây phút không ai chợp mắt nổi ấy, bà Hin lại chạy bổ ra đường la hét váng động cả xóm:

Ới bà con xã viên ơi! Chiều nay lão chồng tôi không nấu cơm cho tôi ăn. Nó còn giấu biệt hòm gạo đi. Nó rắp tâm triệt hạ kinh tế tôi đấy mà!” (Tô Hoàng – “Nỗi Buồn Lâu Qua.” Talawas blog).

Chiến lược, cũng như chiến thuật, trong trận chiến giữa bần nông và phú nông Việt Nam được chỉ đạo sát sao từ nước XHCN anh em Trung Quốc. Cuộc chiến Bắc/Nam cũng vậy. Không ít lương thực, vũ khí, đạn dược, cùng vô số những từ ngữ (mới) cũng đều được chi viện từ nước bạn láng giềng: bảo quản, bồi dưỡng, cải thiện, đại trà, đăng ký, đề xuất, đột xuất, động viên, kiểm điểm, kiểm thảo, hộ khẩu, hộ chiếu, hộ lý, khẩn trương, nhất trí, quản lý, sư trưởng, sự cố, tham quan, thiết kế, tranh thủ, trợ lý, xuất khẩu, xử lý …

Nguồn ảnh: nhabe.hochiminhcity.gov.vn

Nhà phê bình văn học & văn hoá Vương Trí Nhàn cho rằng: “Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh… Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng…”

Đôi lúc, tôi còn nghĩ thêm là tiếng nói của miền Bắc (trong nhiều thập niên qua) cũng thế, cũng là thứ ngôn từ của thời chiến chinh, cũng “chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao … cách mạng.”

Chiến cuộc rồi tàn. Bắc/Nam thống nhất. Nam/Bắc hoà lời ca. Nhiều triệu người dân (ở vùng địch tạm chiếm) ca không nổi nên đã liều mạng đâm xầm ra biển, hoặc ù té bỏ chạy thục mạng qua biên giới xứ người.

Họ chết bờ, chết bụi, chết dấm, chết dúi, chết đói, chết khát, chết đâm, chết chém, chết đạn, chết mìn, chết chìm, chết nổi, chết trôi, chết đuối (ôi thôi) nhiều vô số kể! Đám này chết “cũng tốt thôi” vì toàn là những kẻ thuộc thành phần bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ” –theo như nguyên văn lời giải thích của Chính Quyền Cách Mạng với dư luận thế giới bên ngoài, và với lũ cột đèn (còn) kẹt lại.

Không hiểu những người vượt biên đã hành nghề ma cô, đĩ điếm và tổ chức trộm cướp ra sao – nơi đất lạ quê người – nhưng số lượng “bơ thừa sữa cặn” mà họ gửi về cố hương đã (lắm phen) cứu được toàn dân, cũng như toàn Đảng thoát chết … vì đói khát!

Từ đó, Đảng mới “dũng cảm” đổi mới tư duy và – đồng thời – đổi giọng. Những kẻ phản bội tổ quốc (qua đêm) bỗng  trở thành “khúc ruột xa ngàn dặm,” và là “thành phần không thể thiếu trong đại gia đình dân tộc.”  Nghị Quyết số 36-NQ/TƯ – về “Công Tác Ðối Với Người VN Ở Nuớc Ngoài”- đã ra đời (hơi muộn) vào ngày 26 tháng 3 năm 2004, dựa trên cơ sở đó.

N.Q này, tiếc thay, không phát huy được chút hiệu quả nào ráo nạo. Những khúc ruột xa ngàn dặm vẫn nhất định giữ nguyên thái độ xa cách, và coi mọi thứ “ma zê in” Việt Nam (Bộ chính Trị, Chính Phủ, Nhà nước, Quốc Hội… ) đều không khác gì những nùi giẻ rách – kể cả những hạn từ trong tiếng nói hằng ngày mà họ gọi một cách miệt thị là chữ Vẹm hay chữ Việt Cộng:

Chúng ta nói là “phát ngôn viên” thì chúng nói là: “người phát ngôn”

Chúng ta nói là “thăm viếng” thì chúng nói là “tham quan”

Chúng ta nói là “ghi danh” thì chúng nói là “đăng ký”

Chúng ta nói là “đá bóng” thì chúng nói là “bóng đá”

Chúng ta nói là “yếu điểm” thì chúng nói là “điểm yếu”

Chúng ta nói là “trở ngại” thì chúng nói là “sự cố”

Chúng ta nói là “xuất cảng” thì chúng nói là “xuất khẩu”

Chúng ta nói là “liên lạc” thì chúng nói là “liên hệ”

Chúng ta nói là “hiểu rõ” thì chúng nói là quán triệt”.

Chúng ta nói là “viên chức” thì chúng nói là “quan chức”.

Chúng ta nói là “chuyển âm” thi chúng nói là “lồng tiếng”.

Chúng ta nói là“dẫn giải” thì chúng nói là “thuyết minh”.

Nguồn ảnh: tếu.blogspot.com

Tôi vốn tính hơi ba phải nên rất sợ chuyện chia phe; đã thế, khi nhìn thấy một đường ranh rạch ròi, phân chia bạn/thù (quyết liệt) giữa “chúng ta/chúng nó” thì không khỏi sinh lòng ái ngại, cùng với đôi chút băn khoăn.

Uả, chớ “chúng” là ai vậy – hả Trời?

Chúng có phải là vài chục triệu đồng bào miền Bắc, những nạn nhân đầu tiên của chế độ hiện hành, những kẻ đã bị tra tấn không ngừng – từ hai phần ba thế kỷ qua – bởi cả một cái hệ thống truyền thông (loa/ đài/ sách/ báo) của ĐCSVN không?

Chúng – không chừng – cũng dám là ông hay bà hàng xóm, những người cùng đi chung chuyến vượt biên với chúng ta (hai ba mươi năm trước) chớ ai? Chúng ta nhờ may nên đến được Bangkok, còn họ vì xui  nên phải vào ngồi (bóc lịch) ở Băng Ki.

Và chúng có phải là những người trẻ cỡ tuổi con cháu của chúng ta, sinh ra và lớn lên “trong lòng cách mạng,” chưa bao giờ có dịp tiếp xúc với một thứ ngôn từ nào khác ngoài tiếng Vẹm (hay tiếng Việt Cộng) không?

Ngôn ngữ có đời sống và tuổi thọ riêng của nó. Sinh mệnh của cái được gọi là tiếng Vẹm; tuy thế, tuỳ thuộc không ít vào sự tồn vong của chế độ hiện hành.

Tiếng Việt Cộng chỉ thôi phổ cập, và dần bị đào thải, sau khi chế độ này không còn có thể tiếp tục hoành hành nữa. Và việc dứt điểm nó sẽ không thể xẩy ra nếu mọi người vẫn cứ giữ khư khư cái lằn ranh phân chia bạn/thù (“chúng ta/chúng nó”) giữa lòng dân tộc.

Công lý thực sự như một bóng ma

Công lý thực sự như một bóng ma

FB Lê Văn Luân

21-7-2016

ĐỨT GÃY

H1

Đã có lần tôi từng nói, công lý, thực sự như một bóng ma. Đến giờ, càng thấy nó đúng đắn hơn khi chứng kiến những mảnh đời, phận người ăn chực nằm chờ hàng tháng, hàng năm trời, bỏ nhà cửa, quê hương, người thân để lên số 01 Ngô Thì Nhậm, cơ quan tiếp dân trung ương, để kêu oan, để gửi đơn, và cả để gào thét giữa chốn công quyền này để tiếng kêu ấy không trở thành khói lời vô nghĩa trước những vành tai và màng nhĩ không còn để nghe nữa.

Ảnh đầu tiên là bà Phúc ở Trà Vinh, người đã được đối thoại với ông Tổng thanh tra chính phủ và được giải quyết với các nội dung: thu hồi đất không có quyết định đền bù; bồi thường theo giá rẻ mạt mà không đúng giá thị trường; không có phương án bồi thường chi tiết và không lấy ý kiến các hộ dân. Trong văn bản giải quyết trực tiếp, ông Tổng thanh tra (Huỳnh Phong Tranh) đã yêu cầu xem xét trường hợp này và có báo cáo với Thủ tướng chính phủ để xử lý việc của bà. Nhưng đến nay vẫn là văn bản trên giấy và những ngày kêu oan cực nhọc trong vô vọng.

Bên cạnh đó là người đàn ông tật nguyền mất một chân bên phải, ông từng tham gia cách mạng và bị tù đày, nay lại rơi vào cảnh mất đất, mất nhà, con cái thất học và ông phải tá túc tại những mái hiên lề đường để khiếu kiện, nhưng chỉ rơi vào im lặng và thinh không.

Rồi một người đàn ông ở Hà Nam cũng lâm vào cảnh tương tự, cũng phải vật vờ nơi này trước cảnh những bảo vệ rất biết nghe lời cấp trên để bảo vệ những hành lang khép kín khiến người dân khó thể nào tiếp cận được những phòng họp khang trang và các cán bộ mẫn cán của nhà nước phía trong.

Ở ngoài sân nắng nóng oi bức, thỉnh thoảng lại có mấy người đứng kêu to lên với khuôn miệng hướng vào những tầng nhà đang buông rèm nhiếp chính.

Trước đó, những thân chủ của tôi đã từ tỉnh lên trụ sở tiếp dân trung ương từ sớm để “bấm số” mà lấy lịch gặp người có thẩm quyền giải quyết vụ việc đến vài năm nay cứ trả đi trả lại nhưng không có động thái nào theo luật định. Đến nơi, luật sư còn bị từ chối cho vào với lý do “cơ quan đã có luật sư nên không cần luật sư nữa”. Chuyện vi phạm pháp luật thực rất ngang nhiên và đến giờ tôi thấy hầu hết các cơ quan muốn đẩy luật sư ra khỏi một vụ việc pháp lý. Họ e ngại điều gì?

Tôi đã nhìn mặt những người bảo vệ mà khẳng khái: các anh đang vi phạm luật một cách trắng trợn. Ngăn cản quyền có luật sư của công dân. Các anh đừng bất chấp mà nghe lời cấp trên, phải biết đúng, sai thế nào. Và khi người thân của các anh rơi vào cảnh này các anh mới biết ra sao.

Tôi ra ngoài quán đối diện ngồi chờ, một bác lớn tuổi ở Long An nhận ra tôi, bác đã từng qua văn phòng và được các luật sư trợ giúp một vài việc miễn phí để cho bác và vài hộ dân đi cùng khiếu nại. Nhưng rồi hôm nay gặp lại, chẳng có gì thay đổi cả, khi vụ việc và những lời kêu cứu đó vẫn cứ như muối bỏ bể, không được xem xét mà cứ đẩy đi đẩy lại, từ cơ quan trung ương đến tỉnh, rồi vòng lại từ tỉnh đến trung ương. Mệt mỏi thế mà những người dân già cả này vẫn cứ miệt mài tìm kiếm một bóng ma mà cả đời họ chưa từng thấy – công lý.

Chuyện hai thanh niên vì đói ăn mà cướp giật hai ổ bánh mỳ và chịu án tù giam với tổng cộng 18 tháng 20 ngày, đó chưa phải là điều gì ghê gớm cả, vì họ được nuôi ăn, có phòng ở, rồi sau ít thời gian hai cậu thanh niên đó lại trở về cuộc sống mà mưu sinh. Nhưng những người dân mòn mỏi gào thét giữa nơi phồn hoa, mọi tiếng kêu rơi vào thinh lặng, trước sự thờ ơ của nhiều con người, của những quy trình và hệ thống chức năng vô cảm khủng khiếp, không nơi ăn, chốn ở, mất tài sản rồi tan tác cả tình thân, mới là những mảnh đời nghiệt ngã thực sự. Vì họ không tìm bánh mỳ để ăn, mà họ tìm quyền sống của chính mình, mà chưa thấy có chút gì hiển hiện, mặc dù đã phải vung bỏ bao tháng năm cuộc đời còn lại ít ỏi phía sau.

Giải quyết cho dân thì ì ạch như thế, nhưng truy tố dân thì rốt ráo, quyết liệt và đến cùng, từ những việc nhỏ nhặt nhất. Nhưng họ sẵn sàng bỏ rơi những quyền lợi chính đáng của người dân khi nó xung đột với lợi ích nhà nước hoặc công quyền. Và họ cũng sẵn sàng bỏ qua hay nương nhẹ, dung dưỡng cho những hành vi tham ô, nhũng nhiễu, đục khoét và kể cả những hành vi đầu độc diện rộng, một cách bất chấp luật pháp.

Vẫn có những người đường đường chính chính thăng quan, tiến chức, đường quan lộ thênh thang, sau những hậu quả kinh hoàng mà họ gây ra cho xã hội.

Tôi tự hỏi, phải dồn bao nhiêu nỗi bức xúc của dân chúng lại và xô đẩy bao nhiêu mảnh đời người khác vào cảnh khốn cùng thì mới đủ để có điều phải có cho một xã hội đang ngày càng đứt gãy những giá trị văn minh mà dần tới sự hủ bại, vô pháp, vô nhân?

Dân chúng, đã quá khát tình người, niềm tin và lẽ phải, trong một xã hội mà gần như tất thảy đã đảo lộn nhưng luôn sẵn đúng theo một quy trình ma quái nào đó.

Ảnh: tôi chụp lúc gần trưa nên là thời điểm “vắng nhất” và đúng lúc người dân “nấu bữa trưa” ở trụ sở tiếp dân TW.

Ðường 2,300 tỷ đồng thành sân… phơi rơm

  •  Ðường 2,300 tỷ đồng thành sân… phơi rơm

Nguoi-viet.com

Sau hơn 2 tháng thông xe, cả hai điểm đầu và cuối của tuyến đường đều bị chắn không cho xe chạy với nhiều đống gạch, đất giữa đường. (Hình: VNExpress)

Sau hơn 2 tháng thông xe, cả hai điểm đầu và cuối của tuyến đường đều bị chắn không cho xe chạy với nhiều đống gạch, đất giữa đường. (Hình: VNExpress)

HÀ NỘI (NV) – Mới được thông xe hơn 2 tháng, nhưng tuyến đường nối khu đô thị Mê Linh với tỉnh Vĩnh Phúc dài gần 15 cây số, đầu tư 2,300 tỷ đồng, đã bị rào chắn hai đầu, trở thành sân phơi rơm.

Theo báo điện tử VNExpress, ngày 21 tháng 7, giữa tháng 5, dự án đường trục trung tâm khu đô thị mới Mê Linh, bắt đầu từ đường Bắc Thăng Long-Nội Bài, đến huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, sau 4 năm thi công được đưa vào sử dụng.

Ðể phục vụ dự án, chính quyền đã tịch thu của dân gần 142 ha với phần lớn là đất nông nghiệp. Tuyến đường có thiết kế mặt cắt ngang rộng 100 mét, mỗi bên có hai làn xe cơ giới lưu thông.

Thế nhưng, sau hơn 2 tháng thông xe, cả hai điểm đầu và cuối của dự án đều được chắn bởi hàng rào tôn. Một số phương tiện từ trong các khu dân cư ven đường đi đến đây phải quay đầu tìm lối khác.

Một điểm khác tại đoạn qua huyện Ðông Anh, lòng đường thành điểm phơi rơm. (Hình: VNExpress)

Một điểm khác tại đoạn qua huyện Ðông Anh, lòng đường thành điểm phơi rơm. (Hình: VNExpress)

Do chưa có người đi lại nên nhiều đoạn cỏ mọc um tùm. Nhiều đoạn bị vật liệu xây dựng, cát, sỏi đỗ tràn ngập che kín lòng đường. Một số công nhân cho hay, do phải sửa một số hố ga nên phải đào lên để lắp đặt lại. Thậm chí, một số điểm tại đoạn qua huyện Ðông Anh, lòng đường trở thành sân phơi rơm của người dân sống xung quanh.

Nói với phóng viên báo VNExpress, ngày 21 tháng 7, ông Nguyễn Văn Trì, chủ tịch tỉnh Vĩnh Phúc, biện minh “việc làm lễ thông xe là để thông báo dự án đã cơ bản hoàn thành, còn thực tế dự án vướng mắc trong thủ tục nghiệm thu bàn giao nên không thể đưa vào hoạt động ngay được” (?!).

Trước đó, phát biểu tại buổi lễ khánh thành, ông Trì khẳng định, “Dự án sau khi đi vào hoạt động là động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế xã hội của 2 địa phương Vĩnh Phúc và Hà Nội, phục vụ cho mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư, tạo thêm sự kết nối giữa thủ đô với các trung tâm kinh tế, khu công nghiệp.”(Tr.N)

Công an đánh đập, dùng băng keo dán miệng, trói tay công dân

Công an đánh đập, dùng băng keo dán miệng, trói tay công dân

Tinmungchonguoingheo.com

GNsP (20.07.2016) – Công an xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Tp.HCM đã hành hung, dùng giẻ lau chân nhét vào miệng, dùng băng keo dán miệng và trói tay một thanh niên trẻ khi thanh niên này kêu cứu ngay tại đồn công an, vào đêm ngày 18.07.2016.

Nạn nhân của vụ việc này tên là Nguyễn Phương. Một bạn trẻ từng tham gia nhiều cuộc biểu tình yêu cầu nhà nước minh bạch trong vụ cá biển chết trắng tại các tỉnh Miền Trung – một thảm họa của dân tộc VN do “nhân tai” Formosa gây ra và được tiếp tay, đồng lõa, bao che bởi giới chức cầm quyền.

Sự việc xảy ra khi Phương hỗ trợ bạn của Phương lên công an xã Phú Xuân đòi lại những tài sản bị thu giữ một cách trái phép vào ngày 30.06.2016. Tuy nhiên, công an chỉ cho người bị thu giữ tài sản – là bạn của Phương – vào đồn công an làm việc. Sau đó, Phương yêu cầu được vào bên trong đồn ngồi đợi bạn, nhưng yêu cầu của Phương không được đáp ứng. Phương đã rút điện thoại ra quay lại cảnh xung quanh thì công an đã lôi Phương vào đồn làm việc. Tại đây, chính lực lực công an đã đánh đập, xúc phạm Phương.

Bạn trẻ 26 tuổi này kể lại: “Em yêu cầu họ cho vào bên trong để ngồi đợi, họ không cho, em lấy điện thoại ra quay thì họ trấn áp, lôi em vào đồn làm việc. Em bị giam từ 14 giờ.Họ không cho ăn, cho uống mặc dù em có yêu cầu. Khoảng 23 giờ, những người bạn của em chạy ra công an xã Phú Xuân đòi người. Em nghe thấy tiếng của mọi người nên em cố gắng la hét để cho mọi người nghe thấy. Khi em la lên gần 10 công an lao vào trấn áp, đánh đập. Họ leo lên bàn đá vào đầu của em, họ dùng chân đánh nhiều nơi trên cơ thể. Họ đánh rất đau nhưng khi chụp phim thì không có gì xảy ra. Lúc đầu em la, họ dùng giẻ lau chân nhét vào trong miệng của em, bịt cái mặt em lại để không cho em la. Lúc đó, đói quá em không còn sức la nên em không la nữa. Khoảng 5 phút sau, có một công an đi vào muốn làm việc với em nhưng em quyết tâm không làm việc với họ bởi vì em không làm gì sai cả. Em yêu cầu họ, nếu họ giam giữ em thì phải cho em một giấy tạm giam hay tạm giữ, nhưng họ không xuất trình được và họ đi ra ngoài.”

“Sau đó, em tiếp tục gào thét, lúc này họ dùng băng keo bịt quanh miệng của em, họ dán khoảng 3-4 vòng. Rồi họ đưa tay em ra đằng sau dùng băng keo dán lại thật chặt. Lúc này em đứng lên và ngồi trên một cái ghế, [nhưng] một Đại úy công an quát vào mặt em và nói: “Mày không đáng được ngồi trên ghế, mày là phải ngồi dưới đất”, một người lôi em ngồi xuống đất. Khoảng 20 phút sau, họ mở băng keo miệng em ra, còn băng keo ở tay thì em tự tháo ra. Họ thông báo rằng, em không vi phạm gì nên họ thả em về, họ nói em đừng quậy phá gì nữa.” Bạn Nguyễn Phương kể tiếp.

Nguyễn Phương uất ức nói: “Em không ngờ công an xã Phú Xuân lại hành xử cách đáng sợ như vậy, bởi vì việc em làm không ảnh hưởng đến ai hết. Công an xã Phú Xuân hành động rất đê hèn.”

Sau khi được trả tự do, trở về nhà, Nguyễn Phương cùng với bạn bè dựng lại hiện trường cảnh công an đã dùng băng keo bị miệng và trói tay bạn trẻ này để đưa lên facbook cá nhân. Những bức hình này đã lan truyền nhanh trên trang mạng facbook.

Bạn đọc Nhung Le thốt lên: “Người với người mà sao lại hành xử nhau như thế”. Tường Nguyễn phẫn nộ: “Hành động của côn đồ”. Lm Le Ngoc Thanh kêu lên: “Không thể chấp nhận tình trạng vô chính phủ và phi pháp của công an xem công dân như rác thế này được!”. KimAnh Tran buồn bã nói: “Cảnh này giống xã hội đen!”. Còn Alau Lau nhận xét: “Cái này chắc công an cộng sản gọi là biện pháp nghiệp vụ.”

CONG AN

Sau khi được trả tự do, trở về nhà, Nguyễn Phương cùng với bạn bè dựng lại hiện trường cảnh công an đã dùng băng keo bị miệng và trói tay bạn trẻ này để đưa lên facbook cá nhân. Những bức hình này đã lan truyền nhanh trên trang mạng facebook.

Trường hợp của bạn trẻ Nguyễn Phương làm liên tưởng đến bức hình đi vào lịch sử của viên an ninh mặc thường phục, khuôn mặt đằng đằng sát khí với đôi tay rắn chắc đã bịt miệng Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý trước tòa án, khi Linh mục Lý lên tiếng phản đối phiên tòa bất công. Chính những ngược đãi bất công của giới chức đã không làm chùn bước người trẻ. Bạn Phương chia sẻ:

“Em không cảm thấy sợ hãi. Em đã từng sống ở một đất nước tự do, em cảm nhận được sự tự do của một đất nước quan trọng như thế nào, em luôn khao khát một đất nước được tự do và em muốn thực hiện những việc pháp luật cho phép mà không bị bất cứ một hù dọa nào từ phía công an.”

“Em đã từng sống ở Nhật bản được hơn 1 năm. Người Nhật Bản có thể làm những điều họ thích miễn sao không vi phạm pháp luật, không ảnh hưởng đến xã hội. Em từng chứng kiến cảnh người dân Nhật xuống đường biểu tình phản đối chính quyền để cho nhà máy điện hạt nhân tồn tại thì sẽ ảnh hưởng đến thế hệ sau của đất nước Nhật, công an đứng hai bên đường và tìm mọi cách để cho cuộc biểu tình được diễn ra một cách thuận lợi, không ảnh hưởng đến giao thông. Khi em về VN, lần đầu tiên tham gia cuộc biểu tình thì em nghĩ cuộc biểu tình sẽ diễn ra như ở Nhật Bản, em xuống đường nhưng cuối cùng em không ngờ mọi người bị cưỡng chế, đánh đập. Đó là lần xuống đường ấn tượng nhất của em vào ngày 08.05.2016, chính quyền đàn áp người xuống đường biểu tình một cách ôn hòa.” Bạn Nguyễn Phương nói.

Người dân Việt Nam vào đồn công an làm việc có nguy cơ bị người có quyền lạm quyền, hành hung, đánh đập ngay tại đồn công an, nhẹ thì bị chấn thương, nặng có thể dẫn đến tử vong là mối lo lắng của người dân Việt Nam trong bối cảnh xã hội nạn “kiêu binh”.

Điều đáng nói là nguời dân càng ngày càng nhận ra chân tướng của những người “ăn cơm dân, mặc áo của dân”, nhưng lại ác với dân thay vì bảo vệ dân. Và những côn an này được chính cấp trên,  lãnh đạo bao che, chối tội “ác”. Gần đây nhất là một video clipp được đưa lên mạng xã hội cho thấy rõ viên côn an chủ động xoay người lại, giơ chân đạp vào xe và người điều khiển khiến hai người trên xe té ngã. Nhưng viên côn an vẫn chối tội cho là chỉ giơ chân, nhẩy tránh người vi phạm đang lao xe vào mình. Với đề tài này, có rất nhiều ý kiến phản hồi ngay trên trang báo do nhà nước quản lý rằng: “Cái giơ chân có một không hai… chỉ có duy nhất trên thế giới”, ngay cả những người đồng tình với hành động ngăn chặn của côn an cũng phải lên tiếng “tuy vậy, hành vi rõ ràng đạp xe thì không nên chối như vậy”. Lâu nay, nhà cầm quyền hèn với giặc, nhưng bây giờ côn an còn hèn với dân!

Huyền Trang, GNsP

Câu Chuyện Gia Đình Với Bức Tâm Thư Gửi Các Chiến Sỹ Quân Đội Và Công An Nhân Dân Việt Nam

Câu Chuyện Gia Đình Với Bức Tâm Thư Gửi Các Chiến Sỹ Quân Đội Và Công An Nhân Dân Việt Nam

 Phạm Hồng Thúy

Vietbao.com

18 tháng 7 năm 2016

Hồng Thúy sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Ông bà nội ngoại của HT đều tham gia các hoạt động chống Pháp từ trước năm 1945. Bố HT là trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Mẹ HT là chủ nhiệm Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, đã cùng đồng đội vượt qua bom đạn, đưa lời ca tiếng hát tới các trận địa, góp phần vào nhiều thắng lợi trong sự nghiệp độc lập dân tộc.

Hồng Thúy giới thiệu như vậy chỉ để các anh chị biết rằng những dòng này không phải do một “phần tử phản động” viết ra. Bản thân HT và anh chị HT đều từng là cán bộ nhà nước. Anh Q. và chị K. làm việc trong ngành quốc phòng. Trước kia HT đã lập gia đình với anh H, một thượng úy công an đẹp trai, chính trực, liêm khiết và có với anh một con gái. Năm lên 7 tuổi cháu bị sốt xuất huyết và đã mất. Bẩy tháng sau anh H. hy sinh trong khi điều tra một vụ án hình sự. Từ đó HT về ở với bố mẹ và không có ý định lập gia đình nữa.

Tháng 8 năm 2011 nhân dân cả nước sôi sục biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm vùng biển, cắt cáp tầu thăm dò dầu trên biển VN, HT tham gia biểu tình và bị bắt giam. Chờ tới chiều không thấy con về, bố HT gọi điện cho chú N, thượng tướng công an, trước kia làm việc dưới quyền bố. Ngay sau đó HT được tự do và được một thiếu tá công an chở về nhà. Anh thiếu tá nói với bố HT: “Chú nói chị Thúy đừng tham gia biểu tình nữa, không được phép đâu. Chính bọn cháu đã đưa lên mạng kêu gọi biểu tình để bọn đầu sỏ kích động lộ mặt và xử lý đấy chú ạ”. Chủ nhật tuần ấy, chú thượng tướng N đến thăm và ngồi nói chuyện rất lâu với bố mẹ. Sau khi chú về, bố mẹ HT đều rất buồn, suốt ngày bố ngồi trước máy vi tính, thỉnh thoảng lắc đầu và thở dài, mẹ HT vẫn lúi húi với những việc hàng ngày, không nói gì. Đôi khi HT thấy có ngấn nước trên khóe mắt mẹ.

Chủ nhật tuần sau đó, bố mẹ gọi cả gia đình anh Q và chị K đến ăn cơm. Sau bữa cơm, bố bảo các cháu ra ngoài sân chơi, trong phòng khách còn lại bố mẹ và các con trai, gái, dâu, rể. Bố nói giọng nghẹn ngào: “Nước mình sắp thành một khu tự trị của Trung Quốc rồi các con ạ”. Bố nói như khóc, mắt ướt đẫm. Anh Q kêu lên: “Kìa bố ! làm gì có chuyện ấy. Bố đừng tin, bọn phản động tuyên truyền bậy đấy bố ạ”. Bố chậm rãi nói: “Chú N nói với bố đấy con ạ. Chú đang giữ trọng trách trong Đảng và Nhà nước, sao có thể tung tin đồn bậy được”. Rồi bố kể lại cho mấy anh chị em những điều chú N đã nói, và sau đó bố đã lên mạng kiểm tra lại: “Trước đây thế giới có 13 nước XHCN, Việt Nam là một. Cuối năm 1989 các nước Đông Âu đồng loạt bỏ CNXH, Liên xô đang gặp khó khăn nên không can thiệp được. Nước mình lúc ấy đang có chiến tranh biên giới với TQ và chiến tranh Campuchia, lại bị Mỹ cấm vận nên tình hình hết sức khó khăn. Bộ Chính trị quyết định đề nghị bình thường hóa quan hệ với TQ. Nhân dịp ấy, TQ ép mình sát nhập vào TQ sau 30 năm. Trước đây bố đã nghe nói đến Hội nghị Thành Đô năm 1990 nhưng bố không tin. Sau khi chú N nói, bố đã lên mạng đọc hồi ký của cựu thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng, cũng nói đến Hội nghị này, có cả ảnh các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười chụp với Giang Trạch Dân, Lý Bằng tại Hội nghị nữa”.

Anh Q nói: “Sát nhập vào thì mình cũng thành công dân TQ như hàng tỷ người TQ thôi, có sao đâu bố?”. Bố trả lời, mặt rất buồn…“Không đâu con ạ! Các con có biết ý nghĩa năm ngôi sao trên cờ TQ là gì không? Ngôi lớn nhất để chỉ người Hán, 4 ngôi sao nhỏ dành cho các dân tộc Mãn, Hồi, Mông, Tạng, là 4 sắc tộc đông nhất trong số hơn 100 dân tộc thiểu số ở TQ. Trước đây Mãn, Hồi, Mông, Tạng đều là những nước lớn và rất hùng mạnh. Người Mông Cổ đã thôn tính các nước từ Á sang Âu, cai trị cả TQ qua hàng thế kỷ. Người Mãn Thanh cũng cai trị TQ suốt 3 thế kỷ, trong khi họ chỉ coi nước mình là Man Nam xứ hay An Nam nhược tiểu quốc thôi. Bây giờ riêng VN mình đã 86 triệu dân, trong khi cả 4 dân tộc Mãn-Hồi-Mông-Tạng cộng lại chưa tới 20 triệu người. Các con có biết vì sao không?. Họ bị diệt chủng! TQ đã làm cho các dân tộc khác suy kiệt đi, để không bao giờ có thể giành lại độc lập được nữa. Riêng với Tây Tạng thì từ sau khi bị TQ chiếm năm 1959, hầu hết đàn ông và con trai Tạng bị đưa đi khai phá các vùng đất ở Tân Cương và Nội Mông, không trở về nữa. Sau này VN mình cũng sẽ như Tây Tạng thôi các con ạ !”. Các anh chị đều ngồi yên lặng, HT hỏi: “Không thể khác được hay sao bố? Con đi biểu tình, thấy nhân dân mình vẫn hừng hực khí thế, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng tuyên bố cương quyết bảo vệ chủ quyền đất nước mà”. Bố lắc đầu, mắt lại ướt đẫm và nói: “Bố cũng hy vọng như thế đấy. Bố già rồi, không còn được bao lâu nữa. Các con nhớ mình là người VN, phải có trách nhiệm trước sự tồn vong của đất nước và dân tộc”. Nhìn sang bên, HT thấy hai dòng nước mắt chảy dài trên gò má mẹ.

Từ hôm ấy, bố ngồi suốt ngày bên máy vi tính, đọc và viết rất nhiều. Bốn tháng sau bố qua đời. Năm 2014 TQ đưa dàn khoan 981 vào hải phận VN, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phản đối kịch liệt, HT lại thấy tin yêu Đảng và không nghĩ đến chuyện bố nói nữa.

HT là kỹ sư làm việc trong ngành điện lực, nhận thấy hầu hết các nhà máy điện và công trình điện quan trọng đều do các công ty TQ thắng thầu. Các anh chị kỹ sư lâu năm trong ngành thường nói: dòng điện là dòng máu của đất nước, khi có xung đột quân sự, TQ chỉ cần làm cho các nhà máy và trạm điện ngừng hoạt động thi toàn bộ hoạt động quân sự, kinh tế, xã hội của VN sẽ tê liệt. Những người nói như vậy đều lần lượt phải ra khỏi ngành điên lực.

Đầu năm 2015 có một việc lớn làm cho HT thức tỉnh: Tỉnh Nình Thuận và Tập đoàn điện lực EVN đưa ra đấu thầu dự án Nhà máy điện gió Phú Lạc ở Tuy Phong – Nình thuận. Hồng Thúy chịu trách nhiệm kiểm tra về kỹ thuật các hồ sơ đấu thầu. Nhiều nhà thầu bị loại từ các vòng ngoài, đến vòng cuối còn lại một tập đoàn Đức và hai công ty TQ. Nếu TQ thắng thầu sẽ rất nguy hiểm cho nền quốc phòng VN, vì trong mỗi máy phát điện gió trên cao hàng trăm mét, TQ đều có thể đặt thêm các thiết bị khác và trở thành một trạm quan sát, trạm thông tin, trạm rada và gây nhiễu các rada khác…(Chính phủ Mỹ đã quyết định cấm sử dụng các máy phát điện gió TQ trên toàn bộ lãnh thổ Mỹ, Xem http://www.reuters.com/…/us-usa-china-turbines-idUSBRE88R19…). Nhà máy điện gió Phú Lạc nằm gần các hệ thống phòng thủ bờ biển nam Trung bộ. Với hàng chục máy phát điện gió, TQ có thể quan sát và tiếp nhận thông tin đồng thời từ mọi hướng, theo dõi mọi hoạt động quân sự của Việt Nam trên biển và trên đất liền. Nếu xẩy ra đụng độ quân sự, quân đội TQ hoàn toàn khống chế mọi hoạt động của VN từ đất liền tới quần đảo Trường Sa. Hồng Thúy đã đề nghị loại bỏ các nhà thầu TQ, nhưng sau cùng công ty Hydrochina vẫn trúng thầu. Nghĩ rằng UBND tỉnh Ninh Thuận và tập đoàn EVN ăn cánh với nhà thầu TQ nên HT đã gửi thư trình bày sự việc lên thủ tướng, chủ tịch nước, tổng bí thư ĐCSVN và các Bộ, Ngành có liên quan. Những bức thư đó đều không được trả lời mà Hồng Thúy còn bị đuổi ra khỏi biên chế nhà nước. Đã có một sự thống nhất từ trên xuống dưới về việc giao cho TQ những công trình tuyệt mật này sao?

HT càng bức xúc hơn khi cá ở biển miền Trung chết hàng loạt, ai cũng biết do Formosa thải ra chất độc, giám đốc Chu Xuân Phàm cũng đã tự nhận lỗi khi nói: “chọn nhà máy thép hay chọn tôm cá”, hôm sau cả ban giám đốc Formosa còn cúi đầu xin lỗi…“tại hạ đáng chết”… Nhưng rồi Nhà nước lại công bố với báo chí: “cá chết vì thủy triều đỏ” và cương quyết không cho phép điều tra nguyên nhân. Những cuộc biểu tình nổ ra khắp nơi, tố cáo Formosa phá hoại môi trường, đều bị đàn áp thô bạo. Ngày 30 tháng 6 Formosa tự nhận là thủ phạm và bồi thường 500 triệu USD. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chấp nhận ngay và kêu gọi “đánh kẻ chạy đi, không đánh kẻ chạy lại”, khác hẳn với các trường hợp vi phạm trước đây, thủ phạm đều bị đưa ra xét xữ và chịu án rất nặng, bị tịch thu tài sản và lãnh cả án tử hình… Ngay trong việc Formosa nhận lỗi cũng còn nhiều điều vô lý: Formosa nói vì mất điện 4 ngày nên hệ thống lọc ngừng hoạt động, vậy máy bơm hoạt động bằng điện nào để đẩy hàng chục ngàn m³ nước thải độc hại ra biển?. Tháng sáu Formosa mới hoạt động, nhưng việc thải độc đã xẩy ra từ tháng tư, và lượng chất độc rất lớn, đủ hủy diêt một vùng biển rất rộng, vậy chất độc từ đâu ra mà nhiều thế?. Chất thải Formosa còn độc hại gấp ngàn lần chất độc da cam trước đây. Nạn nhân không chỉ là thế hệ hôm nay ăn phải cá và muối biển nhiễm độc mà còn di truyền cả cho con cháu sau này. Formosa là khối ung thư khổng lồ, toàn dân Việt Nam đòi cắt bỏ nhưng lãnh đạo nhà nước tìm mọi cách giữ lại. Rõ ràng đàng sau sự kiện là một ý đồ hủy diệt tàn bạo, và đàng sau Formosa là một thế lực rất mạnh, Đảng và Nhà nước VN đang bị thế lực đó điều khiển.

Tháng 6.2016, hai máy bay quân sự VN bay ra biển liên tiếp bị rớt. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Ai đã điều máy bay quân sự ra biển trong lúc TQ đang tập trận trên biển Đông? Máy bay chiến đấu luôn xuất phát từng phi đội từ hai chiếc để bảo vệ lẫn nhau, tại sao SU30 phải bay một mình ra biển? Tại sao anh phi công Cường lại thấy hai tầu chiến Trung Quốc trong hải phận VN khi nhảy dù khỏi máy bay? Tại sao sau khi nói ra điều này, anh Cường đang khỏe mạnh phải vào bệnh viện và không được đi dự đám tang anh Khải? Cái gì gây ra vết thương lớn ở đốt sống cổ anh Khải trước khi anh rơi xuống biển? Máy bay SU30 phát tín hiệu gặp nạn ở bờ biển Nghệ An, ai đã phát lệnh cho máy bay CASA C-212 ra Hạ Long để tìm và rơi ở đấy? Cả hai máy bay rơi xuống nước đều bị xé tan từng mảnh nhưng chỉ đưa tin máy bay gặp tai nạn, sao không nghĩ rằng máy bay bị bắn hạ? Tại sao chỉ nói đến việc tìm kiếm và đưa tang, không hề nói đến việc điều tra nguyên nhân máy bay rơi?. Rõ ràng sự kiện này cũng bị một thế lực rất mạnh dàn dựng. Hai chiếc máy bay quân sự hiện đại của VN được điều ra biển để làm mục tiêu bay cho hải quân TQ tập trận mà thôi!

Thiếu tướng anh hùng quân đội Lê Mã Lương nói: “chúng ta đã mất quyền bay trên Biển Đông…”; Thiếu tướng nguyên phó tư lệnh Quân khu 5 Trần Minh Hùng nói: “Toàn bộ tuyến đường Trường Sa, Hoàng Sa và Võ Nguyên Giáp (từ chân núi Sơn Trà đến phường Điện Nam, xã Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) là tuyệt mật, bất khả xâm phạm, nhưng đã nằm trong tay người Trung Quốc…”. Hai vị trung tướng Đồng Sỹ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh tố giác 10 tỉnh phía Bắc cho TQ thuê 305.535 ha rừng đầu nguồn là: “hiểm họa cực lớn đối với an ninh nhiều mặt của quốc gia…”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng 165 nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam đã ký giấy phản đối việc cho Trung Quốc khai thác bauxite Tây nguyên là một “nguy cơ cực kỳ lớn đối với an ninh quốc phòng”. Tất cả đều chỉ là những tiếng kêu vô vọng, không ai có đủ quyền hạn để ngăn chặn những hiểm họa đe dọa sự sống còn của đất nước !

Cũng trong thời gian này, hàng trăm ngàn “khách du lich” từ TQ tràn vào các thành phố Đà Nẵng, Hội An, Cam Ranh, Nha Trang… quậy phá. Hàng ngàn hướng dẫn viên du lich TQ công khai giới thiệu với du khách TQ rằng đây là vùng biển của TQ, lãnh thổ của TQ đã bị đánh cắp, đang trở lại với TQ, và chúng đe dọa tấn công các hướng dẫn viên du lịch người Việt. Các hàng quán TQ mở ra khăp nơi, cấm người Việt không được bước vào. Trước tất cả các hiện tượng đó, không hề thấy công an hay thanh niên xung phong được điều đến để giải quyết, và chính quyền các cấp hoàn toàn làm ngơ! Rõ ràng sự việc này cũng bị một thế lực rất mạnh dàn dựng, không phải từ Đà Nẵng, Nha Trang, Hà nội, mà từ Bắc Kinh.

Ngày 12.07.2016 Tòa Trọng tài Thường trực Quốc tế tuyên bố Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để đòi quyền lịch sử với các nguồn tài nguyên bên trong “đường lưỡi bò”. Philippine chỉ là nước nhỏ, bị thiệt hại một phần nhưng đã đứng ra kiện TQ và đã thắng lợi. Việt Nam với 93 triệu dân, lại là nước bị thiệt hại nặng nề nhất, sẽ mất toàn bộ biển vì “đường lưỡi bò” nhưng không dám làm việc này. Lãnh đạo Nhà nước Việt Nam chỉ còn là những tên tay sai đắc lực của TQ, đâu nghĩ đến đòi quyền lợi cho đất nước.

Những điều bố HT nói sau khi gặp cố thượng tướng N. trước đây 5 năm, giờ đây rõ ràng là sự thật. Nếu toàn dân VN không đứng lên đẩy lùi thế lực đen tối đang điều khiển Đảng và Nhà nước thì VN sẽ bị sát nhập vào TQ và dân tộc VN sẽ bị diệt vong. Thời gian 30 năm kể từ Hội nghị Thành Đô đã gần hết, chỉ còn lại 4 năm nữa thôi. Con tàu Đất Nước đang bị những kẻ phản bội bán rẻ cho một đảng cướp tàn ác và hiểm độc, nhưng hầu hết người trên tầu chưa biết mình đang bị lừa vào chỗ chết !

KÍNH GỬI CÁC CHIẾN SỸ CÔNG AN VÀ QUÂN ĐỘI NDVN!

Những sự việc trên đây đã thể hiện rất rõ: Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta đang bị Trung quốc thôn tính. Đội tiền trạm của quân xâm lược TQ đang nấp dưới danh nghĩa những công nhân nhà máy thép, nhà máy điện, công nhân xây dựng, khai thác bauxite, những đội trồng rừng, những thương lái và khách du lịch …đang lộng hành trên khắp dải đất Việt Nam, làm nội ứng cho những binh đoàn TQ sẽ tràn vào cướp nước ta một ngày gần đây.

Lãnh đạo Đảng và Nhà nước CHXHCN là những kẻ nội ứng nguy hiểm nhất cho giặc. Chính họ đã cấp giấy phép cho Formosa để chúng vào và đầu độc biển VN. Chính họ đã điều công an, quân đội cải trang thành thanh niên xung phong đàn áp các cuộc biểu tình ôn hòa, để bao che cho Formosa hủy diệt môi trường VN; Chính họ đã điều hai máy bay quân sự VN ra biển Đông làm mục tiêu bay cho hải quân TQ tập trận, để uy hiếp tinh thần các tướng lĩnh và sĩ quan Quân đội NDVN. Vô hình chung chúng ta đang phục vụ cho mưu đồ xâm lược của Trung Quốc. Công an và thanh niên xung phong đàn áp các cuộc biểu tình để bảo vệ cho Formosa, đâu phải để giữ trật tự đường phố?. Không quân bay ra biển để làm mục tiêu cho hải quân TQ tập trận, đâu phải để bảo vệ biển trời tổ quốc. Giờ đây những nơi đang bị người TQ quậy phá, cần được phục hồi trật tự là Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang …chứ đâu phải những cuôc biểu tình ôn hòa bảo vệ môi trường.

ó người nghĩ: chống lại TQ có thể dẫn đến xung đột đổ máu, nhiều người sẽ phải hy sinh?. Hãy nghĩ lại: nếu không chống lại TQ, đất nước Việt Nam sẽ bị TQ thôn tính, cả dân tộc VN sẽ bị diệt vong. Chúng ta chỉ còn một con đường duy nhất: đứng lên giữ lấy đất nước để cho cả dân tộc cùng tồn tại.

Cũng có người nghĩ: bây giờ mình tận tụy phục vụ, sau này có thể mình cũng được chính quyền TQ trọng dụng. Những gì đã xẩy ra ở Tây Tạng thì hoàn toàn ngược lại: cảnh sát và binh lính bản địa là những người đầu tiên bị điều tới những nơi xa xôi để không thể quay về với người Tạng được nữa. Công an và bộ đội người Việt sau này cũng sẽ như vậy, các bạn sẽ bị điều đi rất xa, sau khi VN bị sát nhập vào TQ. Cảnh sát và quân đội người Hán sẽ đến thay thế các bạn để trấn áp mọi phản kháng của người Việt. Những binh đoàn xe tăng TQ sẽ nghiền nát những đoàn biểu tình của người Việt, như họ đã từng nghiền nát hàng chục ngàn sinh viên TQ ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Trong số những người bị giết hại sau này sẽ có cả người thân của các bạn đấy! Cảnh sát và binh lính TQ sẽ thay các bạn đi cưỡng chế người Việt, cướp nhà cướp đất của cha mẹ các bạn để binh lính và dân Hán đến sinh sống. Chính sách diệt chủng với người Việt sau này chắc chắn còn tàn bạo hơn với người Tạng rất nhiều, vì VN chúng ta đã từng bị TQ thôn tính nhưng đã giành lại độc lập năm 905, trước đây 1111 năm. Bốn con số 1 liên tiếp như đang nhắc nhở chúng ta: quá khứ đau thương một ngàn năm Bắc thuộc chỉ được phép xẩy ra một lần thôi ! Nều lại chiếm được VN, TQ sẽ không để nền độc lập của VN tái diễn một lần nữa, bằng cách tận diệt người Việt, xóa sạch mọi dấu vết của dân tộc Việt trên mảnh đất này !

Từ nhiều năm nay, chính sách của TQ “mỗi gia đình chỉ có một con” cộng với thói quen “trọng nam khinh nữ” của người Hán đã làm cho số nam ở TQ nhiều hơn số nữ tới trên 200 triệu người. Sau khi đàn ông VN bị lùa tới các vùng xa xôi phía bắc TQ, hàng chục triệu đàn ông Hán sẽ lao vào VN như lũ quỷ thèm khát tình dục, bắt vợ và con gái, chị và em gái của bạn làm vợ và làm nô lệ tình dục cho chúng như đa số phụ nữ Tạng ngày nay, không ai ngăn cản được nữa.

Giữa lúc tổ quốc đang lâm nguy, các chiến sỹ quân đội và công an NDVN là những người mà cả dân tộc đang trông đợi. Sức mạnh của đất nước, sự tồn vong của dân tộc đều đang nằm trong tay các bạn và các anh chị. Hồng Thúy tin rằng các bạn, các anh chị sẽ là những người đẩy lùi ý đồ xâm lược của TQ, phá tan âm mưu của những kẻ đang tâm bán rẻ đất nước cho giặc, giữ cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam mãi mãi trường tồn. Nhiều người nghĩ rằng Trung Quốc là siêu cường, Mỹ còn nể sợ, VN chống lại TQ như trứng chọi đá, chống sao nổi?. Xin đừng quên thế kỷ 13, quân Mông Cổ thôn tính hầu hết các quốc gia trên khắp lục địa Á – Âu, chiếm cả TQ, nhưng cả ba lần đều bị quân dân nhà Trần đánh cho tơi tả phải bỏ chạy. Cũng đừng quên quân Mãn Thanh đã chiếm trọn nước Trung Hoa khổng lồ và nhiều nước lân cận, nhưng đã tan nát trước đoàn quân thần tốc của vua Quang Trung. Dân tộc Viêt Nam với 93 triệu người là sức mạnh vô địch sẽ cùng với các bạn và các anh chị đẩy lùi quân xâm lược TQ một lần nữa. Trước đây tổ tiên ta luôn phải một mình chống trả lũ ác quỷ khổng lồ phương bắc và đã nhiều lần chiến thắng, ngày nay cả thế giới tiến bộ đứng hẳn về phía chúng ta trong cuộc đấu tranh này. Thắng lợi của Philippine tại Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12 tháng 7 vừa qua lại một lần nữa khẳng định điều đó.

Sau khi gửi bức thư này tới các bạn và các anh chị, Hồng Thúy sẽ bị bắt và bị sát hại. Cái chết ấy sẽ góp phần cùng với các bạn và các anh chị giữ mảnh đất này cho con cháu chúng ta mãi mãi về sau, nên HT đã sẵn sàng đón nhận. Mong rằng những lời tâm huyết này sẽ là khúc quân hành nâng bước chân các bạn và các anh chị trong cuộc hành quân vĩ đại vì sự nghiệp thiêng liêng bảo vệ tổ quốc.

Hồng Thúy xin gửi tới các bạn và các anh chị những tình cảm yêu quý và kính trọng, như với các anh chị, cha mẹ, ông bà ruột của Hồng Thúy, cũng từng là những quân nhân Việt Nam đã cống hiến hết mình cho đất nước.

Phạm Hồng Thúy – Văn Giang – Hưng Yên

Phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện: Sốc lại Tinh thần Dân tộc để cứu Dân tộc

Phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện: Sốc lại Tinh thần Dân tộc để cứu Dân tộc

“Mệnh lệnh của tổ tiên chúng ta là hãy giữ cho bằng được di sản của tổ tiên. Không có một món tiền nào có thể mua được sinh mệnh của mấy chục triệu người con đất Việt dải đất miền Trung. Không có một nhà máy thép nào có thể cho hàng triệu ngư dân cuộc sống như là biển cả.  Vì vậy, chắc chắn người dân Miền Trung sẽ khước từ mấy triệu đồng gọi là bồi thường của Formosa vì cái họ cần là biển sạch, là tôm cá đầy khoang mỗi khi thuyền về bến. Và như vậy chỉ có cách là phải yêu cầu chính phủ Việt Nam đóng cửa và chấm dứt hoạt động của Formosa, yêu cầu Formosa phục hồi các miền biển chết cho đến khi trở lại bình thường”.

_____

Phạm Thanh Nghiên

21-7-2016

Nguyễn Xuân Diện. Ảnh:

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện sinh năm 1970 tại Làng cổ Đường Lâm, xứ Đoài, một ấp sinh hai vua là những vị anh hùng dân tộc đó là Ngô Quyền và Phùng Hưng.

Nguyễn Xuân Diện tốt nghiệp ngành Hán Nôm, ĐH Tổng hợp HN năm 1992; bảo vệ luận án Tiến sĩ năm 2007 về đề tài Ca trù. Đây cũng là luận án Tiến sĩ đầu tiên về Ca trù tại Việt Nam.

Từ sở học và hiểu biết của mình, TS Nguyễn Xuân Diện đã cất lên tiếng nói phản biện về nhiều mặt trong đời sống văn hóa nước nhà. Ông tham gia phản biện với tinh thần “tự nhiệm” và đầy kiêu hãnh của kẻ sĩ. Ông hầu như không vắng mặt trong các cuộc tưởng niệm, biểu tình ôn hòa tại Hà Nội từ năm 2011 đến nay để bày tỏ lòng yêu nước, phản đối nhà cầm quyền Bắc Kinh gây hấn trên Biển Đông, tranh đấu cho sự vẹn toàn lãnh thổ; hoặc các cuộc biểu tình bảo vệ cây xanh Hà Nội, bảo vệ biển Miền Trung mới đây.

Nguyễn Xuân Diện là chủ trang Blog với hàng chục ngàn lượt truy cập mỗi ngày với tin bài phong phú, cập nhật, trung thực và khách quan, là nơi bạn đọc khắp trong và ngoài nước gửi gắm niềm tin tưởng và quý mến.

Mới đây, ông đã tự ra ứng cử đại biểu Quốc hội với mong muốn đem trí tuệ và tâm huyết để thực thi “quyền lực” của một đại biểu Quốc hội trước các vấn đề lớn của đất nước hôm nay. Rất tiếc là đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Mặt trận – một tổ chức ngoại vi của đảng đã loại ông ngay sau vòng hiệp thương thứ hai.

Phạm Thanh Nghiên có dịp trò chuyện cùng tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện để thảo luận về một đề tài – rất tiếc, không nhiều người quan tâm, nhưng lại là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia: Văn hóa và tinh thần dân tộc.

Phạm Thanh Nghiên: Thưa tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, xin cảm ơn ông đã vui lòng dành cho tôi cuộc trò chuyện hôm nay. Thưa ông, là một nhà nghiên cứu về Hán Nôm, về văn hóa và lịch sử, xin ông cho biết một cách khái quát về sự ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc đối với nước ta như thế nào trong suốt chiều dài lịch sử ?

Nguyễn Xuân Diện: Trước hết xin cám ơn cô Thanh Nghiên đã hỏi đến tôi, và lại hỏi về một vấn đề mà tôi có chút hiểu biết, có quan tâm.

Về ảnh hưởng của văn hóa Phương Bắc, mà ở đây là văn hóa Trung Hoa, thì đây là vấn đề thuộc về quy luật. Các nền văn hóa lớn, lâu đời luôn ảnh hưởng lớn mạnh và sâu rộng ra chung quanh nó. Văn hóa Trung Hoa do vậy, có sức ảnh hưởng ghê gớm tới chung quanh như Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam. Một trong những ảnh hưởng lớn nhất, mang tính quyết định là ảnh hưởng của chữ Hán đến các nước vừa kể, và từ đó người ta gọi chung các nước có sử dụng chữ Hán là các nước trong khối “chữ vuông” (tức mỗi chữ được trình bày trong một ô vuông).

Chữ Hán là một văn tự lâu đời. Từ chữ Hán đã làm xuất hiện những đỉnh cao của văn hóa Trung Hoa và thế giới như: Sở từ, Hán phú, Đường thi, từ Tống, tiểu thuyết Minh Thanh, nghệ thuật thư pháp…

Do điều kiện lịch sử, chữ Hán đã được truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, rồi từ đó lại tiếp tục được sinh sôi tạo nên các chữ viết mới mà chữ Nôm của người Việt Nam là một ví dụ (chúng ta có chữ Nôm – Việt, chữ Nôm – Tày, chữ Nôm – Dao…). Ngôn ngữ Hán văn khi truyền sang Việt Nam, đến nay vẫn còn giữ được âm đọc từ thời Đường, giàu có về âm sắc và thâm trầm về ý nghĩa. Cách sử dụng và cách đọc chữ Hán của người Việt tạo nên từ Hán Việt rất riêng của Việt Nam và từ đó dòng văn học chữ Hán và dòng văn học chữ Nôm hình thành và phát triển, tạo nên các tác phẩm và tác gia văn học lớn.

Với hàng nghìn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam đã bị áp đặt hoặc tự áp đặt cho mình một mô hình nhà nước theo mẫu của Trung Hoa. Đó là điều khó tránh khỏi!

Phạm Thanh Nghiên: Có nghĩa là tuy chịu sự ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa, nhưng người phương Bắc đã không thể thống trị được người Việt. Vậy ông lý giải thế nào về sức đề kháng của văn hóa Việt trước sự xâm lăng của văn hóa Tàu? 

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện: Đúng rồi, thưa cô! Trong lịch sử, cứ mỗi lần có một triều đình, một nhà nước chủ trương xa rời và “ly khai” với ảnh hưởng Trung Hoa thì khi ấy tinh thần phi Hoa, giải Hoa mạnh mẽ lan tỏa trong lòng xã hội, và khi ấy đất nước được độc lập thực sự, văn hóa và tư tưởng khai phóng và nhiều thành tựu.

Thời đại Lý – Trần (thế kỷ XI – XIII) nước Đại Việt học mô hình chính trị Trung Hoa, nhưng có nhiều sáng tạo, nhiều thành tựu, nhiều thành công là bởi vì Lý – Trần là thời đại của Đa nguyên và Khai phóng.

Đa nguyên về chính trị (các thủ lĩnh tôn giáo Nho – Phật – Lão được vua mời vào cung bàn chính sự và tham khảo kế sách). Đa nguyên về tôn giáo(Nho – Thích – Đạo tịnh hành, cùng phát triển); Đa nguyên về văn hóa (Văn hóa Lý – Trần tiếp thu từ Trung Hoa – Ấn Độ và Chàm).

Chính Đa nguyên và Khai phóng khiến cho thời đại Lý -Trần trở thành một thời đại hoàng kim trong lịch sử trung đại Việt Nam.

Tóm lại, ảnh hưởng về văn hóa của Trung Quốc đối với ta là tất yếu. Nhưng tự thân sự ảnh hưởng này đã bao gồm sự tương tác qua lại, và sự tiếp biến văn hóa (tức là làm mới, làm khác). Chữ Nôm, thơ Nôm song thất lục bát, ẩm thực, ăn vận, điêu khắc đình làng…là những sáng tạo đặc biệt, riêng khác và độc lập với văn hóa Trung Hoa. Chính nhờ đó mà văn hóa Việt Nam giữ được bản sắc riêng, và tạo nên sức đề kháng và sức mạnh nội sinh mà văn hóa dân tộc ta không bị đồng hóa, thôn tính. Tức là có lúc mất nước, nhưng không mất văn hóa.

Về thể chế, nếu triều đại nào có vua sáng, tôi hiền thì biết vực cả nước đứng lên độc lập, đối thoại với Trung Hoa không chỉ biên cương, bờ cõi mà còn cả về văn hóa, phong tục và ngôn ngữ. Thời đại Lý Trần thế kỷ XI – XIII và thời đại Lê – Trịnh thế kỷ XVII – XVIII là ví dụ. Thời Nguyễn thì ta rập khuôn theo Tàu, thậm chí còn “Tàu hơn cả Tàu” nữa, vì vua lú, tôi ngu nên cuối cùng đất nước mất vào tay thực dân Pháp.

Phạm Thanh Nghiên: Có nhiều ý kiến cho rằng, kể từ khi đảng CSVN lên cầm quyền thì người Việt chúng ta đã trở nên lạc hậu về văn hóa và sa sút về tinh thần- cái tinh thần dân tộc vốn là niềm kiêu hãnh của chúng ta suốt chiều dài lịch sử. Tiến sĩ nghĩ sao về ý kiến này?

TS Nguyễn Xuân Diện: Thưa cô, người cộng sản thì vô thần, và tinh thần dân tộc thì đặt dưới tinh thần quốc tế vô sản. Vô thần thì đền chùa, đình miếu, nhà thờ họ … phải đập bỏ vì tôn giáo và tín ngưỡng là “thuốc phiện” của nhân dân lao động. Tinh thần quốc tế vô sản học theo Trung Quốc và dưới sự bảo kê của Liên Xô nên mới có cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất.

Cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc để lại hậu quả vô cùng lớn đối với văn hóa cố truyền khi chính quyền hô hào đạp đổ tầng lớp địa chủ và trí thức cũ, quét bỏ những “tàn dư phong kiến”. Về mặt văn hóa thì nhiều sách vở chữ Nho và chữ Nôm, hoành phi, câu đối của những gia tộc quyền thế bị đốt, đình, chùa, đền, miếu bị hủy hoại. Về giá trị truyền thống thì quan hệ trong nhiều gia đình, xóm giềng bị phá vỡ do những cảnh con cái tố khổ cha mẹ, láng giềng làm hại lẫn nhau khiến đạo lý cổ truyền suy sụp. Về nòi giống thì 220 ngàn người bị chết hoặc mất tích trong cải cách ruộng đất, sau các cuộc đấu tố tàn độc. Họ là những ai? Họ chính là những cá thể có trí tuệ và giàu kinh nghiệm trong việc làm giàu. Các cá thể ấy được như vậy là do họ được di truyền trong những dòng giống khoa bảng, những gia tộc nền nếp gia phong. Nghe theo Trung Quốc thực hiện cải cách ruộng đất là tiếp tục thực hiện chủ trương “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ” do Tổng bí thư Trần Phú (lúc 26 tuổi) đề ra, tiêu diệt hết tầng lớp tinh hoa, ưu tú của dân tộc.

Cảnh đấu tố ấy, mấy năm gần đây cơ hồ quay lại, với việc đấu tố cô Nhã Thuyên, đấu tố các ứng viên đại biểu Quốc hội, và gần đây nhất là đấu tố MC Phan Anh…

Tiêu thổ kháng chiến chống Pháp 9 năm đã khiến người dân đốt cháy biết bao đình chùa đền miếu. Đó chính là những bảo tàng sống động về văn hóa. Chúng ta mất bao nhiêu di sản khi lệnh “tiêu thổ kháng chiến” được ban ra?

Và rồi ngay sau đó là hợp tác hóa nông nghiệp. Người ta hùng hổ phá bỏ đền chùa, đình miếu, lấy hoành phi, câu đối làm bàn ghế, lấy bia đá để đập lúa, bắc cầu, v.v… Bài học cay đắng đó, đến nay còn hằn in trong ký ức nhiều người!

Nhưng, đã có người thấy hân hoan khi chùa lớn, tượng to, nhà thờ khủng đang được xây dựng lại khắp nơi từ nam chí bắc. Xin thưa, những nơi to lớn ấy như Bái Đính, Đại Nam Lạc cảnh nơi thì như bản sao của Tàu, nơi thì quá phô trương, kệch cỡm, khác xa truyền thống Việt.

Cách đây 10-15 năm, một số người giàu có kết hợp với các quan chức coi việc trùng tu hoặc nâng cấp mở ra các chùa chiền đấy là cách làm ăn, kinh doanh của họ. Họ chỉ mượn các vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng để kinh doanh, đây là mối lợi béo bở giữa các thế lực chức sắc tôn giáo, các doanh nghiệp giàu có và các quan chức từ trung ương đến địa phương. Ba thế lực chân vạc này nó tạo nên những cái khu du lịch Bái Đính ở Ninh Bình và Đại Nam Lạc Cảnh ở Bình Dương và sắp tới đây là khu tháp Phật ở Thái Nguyên…

Phạm Thanh Nghiên: Còn các di sản phi vật thể thì sao, thưa ông?

TS Nguyễn Xuân Diện: Xin đơn cử về lễ hội. Xuất hiện cả một phong trào sân khấu hóa lễ hội, đã làm biến dạng và tha hóa các giá trị của lễ hội. Nước ta đang dấy lên chuyện tâm linh, nhưng toàn cổ xúy cho những lệch lạc, mê lầm.

Đáng lẽ đền Trần là nơi giáo dục hào khí Đông A và tinh thần yêu nước thì thành ra nơi cổ xúy chuyện ấn triện, thăng tiến và lợi lộc, mua quan bán chức. Ấn đền Trần Nam Định, Thái Bình, rồi ấn Hoàng thành Thăng Long, và vừa rồi là ấn đền Lý Thường Kiệt ở Thanh Hóa nữa.

Đáng lẽ đền Trần Thương, đền Bà Chúa Kho là nơi giáo dục tinh thần tận tụy và liêm chính, trách nhiệm với kho dự trữ của nhà nước thì thành ra nơi mặc cả vay mượn, mua bán quàng xiên.

Đáng lẽ lễ Tịch điền, đàn Xã Tắc là nơi giáo dục lòng biết trọng nông thuần phác thì lại thành ra nơi lòe loẹt, cờ đèn kèn trống.

Lễ hội đang dẫn cả dân tộc này đi lạc đường! Dân ta đang được dẫn vào bến lú sông mê. Và nhà cầm quyền không giải được các bài toán hiện tại, bất lực, đành để cho dân xuống con thuyền lễ hội và tín ngưỡng đi vào bến lú sông mê, quên hết …quên hết…

Phạm Thanh Nghiên: Thưa Tiến sĩ, nếu cần lựa chọn một sự kiện thời sự cụ thể để “định hình” tinh thần Việt, tôi nghĩ đó là sự kiện Formosa. Liệu người dân VN có đủ sức để đẩy lùi thủ phạm gây ra nạn ô nhiễm môi trường mà hậu quả của nó ảnh hưởng lâu dài đến tương lai chúng ta và nòi giống Lạc Hồng?

TS Nguyễn Xuân Diện: Cô làm tôi giật mình trở về với thực tại rồi đấy! Vụ Formosa là một thảm họa môi trường lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, về quy mô cũng như về mức độ và tầm vóc của vấn đề. Tôi chưa xét đến di họa Formosa dưới góc độ môi trường, kinh tế, mà chỉ nói về văn hóa thôi, cũng đã thấy nó khủng khiếp thế nào!

Nó ảnh hưởng đến văn hóa và công nghiệp du lịch của 4 tỉnh miền Trung, với hàng chục bãi biển đẹp và hàng triệu người dựa vào đó để sống. Giống nòi Việt Nam sẽ ra sao? Sẽ có bao nhiêu trẻ con đẻ ra sau những tháng năm này sẽ bị ảnh hưởng, còn hơn cả ảnh hưởng từ chất độc màu da cam. Người dân ngay bây giờ đã bị phù nề, lở loét mà mạng xã hội mấy hôm nay đã đưa hình ảnh.

Cá chết, biển chết. Ngư dân trở thành người đi xuất khẩu lao động. Biển chết và bị bỏ trống, biển vô chủ vì thiếu vắng những “cột mốc sống”.

500 triệu đô la Mỹ mà Chính phủ loan báo là Formosa bồi thường, đến nay ai đã trông thấy đồng nào? Có lẽ là Chính phủ và các bộ ngành cũng chưa dám thò tay nhận những đồng tiền này, vì mấy nhẽ: Thứ nhất: Dựa vào đâu, dựa vào đánh giá nào và căn cứ pháp lý nào để nhận số tiền đó. Nhận sẽ bị Formosa kiện thẳng thừng, và khi ấy chính phủ Việt Nam có đủ mo nang để che mặt không?; Thứ nhì: Cầm số tiền đó mà bán cả mấy trăm cây số biển Miền trung, là nồi cơm của hàng chục triệu con người, mà mạng sống của họ hiện nay còn chưa biết là sẽ ra sao, vì chất độc còn chưa phát tác ra thành ung thư, dịch bệnh, thương tật… thì có xứng và có dám cầm không?

Tóm lại, mệnh lệnh của tổ tiên chúng ta là hãy giữ cho bằng được di sản của tổ tiên. Không có một món tiền nào có thể mua được sinh mệnh của mấy chục triệu người con đất Việt dải đất miền Trung. Không có một nhà máy thép nào có thể cho hàng triệu ngư dân cuộc sống như là biển cả.

Vì vậy, chắc chắn người dân Miền Trung sẽ khước từ mấy triệu đồng gọi là bồi thường của Formosa vì cái họ cần là biển sạch, là tôm cá đầy khoang mỗi khi thuyền về bến. Và như vậy chỉ có cách là phải yêu cầu chính phủ Việt Nam đóng cửa và chấm dứt hoạt động của Formosa, yêu cầu Formosa phục hồi các miền biển chết cho đến khi trở lại bình thường.

Phạm Thanh Nghiên:  Thưa Tiến sĩ, xin cảm ơn ông về buổi trò chuyện hôm nay. Chúng tôi mong lại có dịp được gặp gỡ ông trong các chủ đề khác. Xin chúc ông dồi dào sức khỏe và bền chí trong công cuộc giữ gìn văn hóa dân tộc.