Nền báo chí KHUYẾT TẬT Việt Nam

Nền báo chí KHUYẾT TẬT Việt Nam

 Lê Mẫn

(VNTB)

Đó là nền báo chí Việt Nam dưới sự chỉ đạo, định hướng của nhà cầm quyền cộng sản khiến những thông tin trên mặt báo lệch lạc, sai sự thật, còn người làm báo mang tiếng là dân “trí thức” nhưng lại làm việc không khác gì những người thiếu nhận thức, thiếu lương tri…

Báo chí dưới sự cai trị của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam là một nền báo chí méo mó, nửa báo chí nửa “công văn” khi đưa thông tin theo “định hướng”. Nền báo chí sống nhờ dân nhưng lại phục vụ cho nhà cầm quyền… nói đúng hơn thì đây là một nền báo chí khuyết tật, tờ báo, người làm báo chưa hiểu hết nghĩa thật sự của cụm từ Báo chí, truyền thông là gì.

Các hoạt động báo chí ở Việt Nam không phải chịu sự kiểm soát của luật pháp quốc gia, luật báo chí mà là chịu sự kiểm soát của các cơ quan đại diện cho nhà cầm quyền cộng sản đó là người đứng đầu Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ 4T), và nội dung thì do Ban Tuyên giáo Trung ương kiểm duyệt, định hướng. Điều này khiến nhiều thông tin trên mặt báo sai sự thật, còn nhận thức của người làm báo thì lệch lạc, cam chịu, thui chột về ý chí.

Thông tin KHUYẾT TẬT

Một trong những nguyên tắc, yêu cầu quan trọng nhất của báo chí chính là SỰ THẬT. Thế nhưng, nhiều cơ quan báo chí ở Việt Nam đã không có được điều này. Chỉ đưa thông tin theo “định hướng”, né tránh những sự việc liên quan đến chính trị, quyền lợi của nhà cầm quyền cộng sản vì “nhạy cảm” (trừ một số thông tin được bật đèn xanh, phục vụ cho việc tranh giành quyền lực, thanh trừng nhau, mà bên có thế lực mạnh hơn sẽ chỉ đạo. Ví dụ như vụ Trịnh Xuân Thanh).

Điển hình nhất chính là vụ Fomosa, nhiều tờ báo, đặc biệt là VTV đã thông tin sai sự thật, khi chỉ thông tin một chiều ý kiến của nhà cầm quyền cộng sản. Trong khi biển đang bị đầu độc nặng, rất nhiều người dân bị nhiễm độc kim loại, nhân dân đói khổ vì thất nghiệp thì nhiều tờ báo liên tục đưa tin theo ý kiến của nhà cầm quyền là biển đã sạch, ngư dân phấn khởi ra khơi… không dừng lại đó, các tờ báo này còn vu vạ cho những ngư dân đi đòi quyền lợi chính đáng của mình là “phản động”, quá khích, gây rối an ninh trật tự…

Không một tờ báo nào dám phỏng vấn, đưa tin về những ngư dân-nạn nhân của thảm họa Fomosa, xem cảm nghĩ của họ như thế nào? Sau khi biển bị đầu độc, họ thất nghiệp và sống ra sao? Tại sao nhiều thanh niên ở vùng thảm họa lại không đạt yêu cầu về sức khỏe (bị nhiễm độc kim loại) khi tham gia đi xuất khẩu lao động? Tại sao người dân không đi làm, không ở nhà chăm lo sức khỏe của mình và gia đình mà lại hành hạ bản thân khi đi chang nắng, chang mưa để biểu tình, rồi bị đánh đập?…

Mặc dù, hơn 99% các tờ báo này đều sống bằng số lượt truy cập của bạn đọc, tức là người dân. Nhưng họ lại thờ ơ với quyền lợi, nỗi đau của nhân dân, thậm chí là vu vạ cho dân để đẩy dân vào đường cùng. Các tờ báo này đang tự giết chính mình, khi chọn con đường đối đầu với nhân dân.

Vâng, một nửa sự thật không phải là sự thật.

Người làm báo thui chột

Phần lớn những người làm báo tại Việt Nam là những người được xem là có trình độ học vấn cao trong xã hội, được xếp vào tầng lớp trí thức. Thế nhưng họ không có tư duy độc lập, khiến nhận thức của họ bị méo mó, cam chịu và chấp nhận làm việc trong một môi trường báo chí KHUYẾT TẬT.

Một trong những yêu cầu quan trọng của báo chí chính là tính KHÁCH QUAN. Thế nhưng, báo chí Việt Nam chịu sự định hướng của nhà cầm quyền cộng sản, nên tính khách quan này trở thành một mỹ từ xa xỉ. Họ sống bằng lượt truy cập của nhân dân nhưng lại chịu sự lệ thuộc từ nhà cầm quyền một cách vô lý!

Ngay trong quy định của “Luật Báo chí” về việc cấp thẻ báo chí đã là 1 sự vô lý đến hài hước. Khi, trước đây, người được cấp thẻ nhà báo phải hoạt động báo chí liên tục tại một tờ báo từ 3 năm trở lên và phải do Bộ 4T cấp thẻ. Điều này khiến nhiều phóng viên khốn đốn trong quá trình tác nghiệp vì chưa có thẻ nhà báo, khi các cơ quan chỉ tiếp nhà báo chứ không tiếp phóng viên… Rồi Bộ 4T thích thì phạt các tờ báo, tước thẻ báo chí của nhà báo. Thích thì dọa khi ra “đề án quy hoạch báo chí” để các chủ tờ báo chạy tiền cho Bộ 4T, trong khi Bộ này vẫn vô tư cấp phép cho tờ báo khác ra đời.

Báo chí hoạt động dựa trên những nền tảng, nguyên tắc về thông tin, chịu sự quản lý của luật pháp, vậy tại sao lại phải chịu sự quản lý vô lý của Bộ 4T, Ban Tuyên giáo Trung ương? Trong khi một tờ báo sống được là nhờ vào người dân. Vậy LUẬT PHÁP đứng ở đâu trong nền báo chí Việt Nam?

Rõ ràng, nền báo chí Việt Nam đang bị cai trị một cách sâu sắc. Mà những người bị cai trị này lại là bộ phận không nhỏ tầng lớp được xem là trí thức, họ đang có rất nhiều lợi thế trong việc tác động đến xã hội. Thế nhưng, họ lại chấp nhận sự cai trị này một cách ngoan ngoãn như những con cừu.

Nhiều người làm báo cho rằng họ đang cần mẫn, họ đang dũng cảm đấu tranh chống lại cái xấu, phơi bày những sự thật của xã hội trên mặt báo, không có họ thì nhiều người dân sẽ không biết được những sự thật này (?!) Và nếu họ đấu tranh cho quyền lợi hợp pháp của mình thì sẽ bị tước giấy phép hoạt động, bị thu thẻ nhà báo… lúc này họ sẽ chẳng làm được gì?

Tôi chỉ mong các bạn tìm hiểu lại nghĩa đúng nhất của cụm từ BÁO CHÍ. Các bạn “dám” đấu tranh cho cái xấu, sự bất công của người dân, vậy tại sao các bạn không dám đấu tranh cho quyền lợi của mình? Quyền tự do báo chí của mình, để chấm dứt những vô lý trong quy định về hoạt động báo chí? Các bạn có dám đấu tranh để tờ báo, nhà cầm quyền cộng sản đưa thông tin chính xác về vụ Fomosa không? Có dám đấu tranh để chấm dứt sự cai trị vô lý không?…

Những quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp của các bạn mà các bạn không dám đòi, chưa đòi được thì các bạn đòi được cho ai? Các bạn có thấy mình đang tự lừa dối mình không? Nếu sự đấu tranh của các bạn không phải vì cái nghề mà mình đang mưu sinh thì các bạn dám đấu tranh không?

Rõ ràng, những người làm báo trong nền báo chí cai trị Việt Nam đã bị nhà cầm quyền cộng sản “đánh” què tư duy, làm thui chột ý chí chiến đấu.

Nền báo chí của nước Việt đã và đang là nền báo chí KHUYẾT TẬT kể cả về mặt thông tin, lẫn con người làm báo.

L.M.

Nguồn: http://www.ijavn.org/2017/04/vntb-nen-bao-chi-khuyet-tat-viet-nam.html

Buổi xin lỗi ‘tử tù’ Hàn Đức Long ‘không thành’

Buổi xin lỗi ‘tử tù’ Hàn Đức Long ‘không thành’

Người nhà và gia đình cháu bé bị hại phản ứng tại buổi xin lỗi
Người nhà và gia đình cháu bé bị hại phản ứng tại buổi xin lỗi

Buổi xin lỗi ông Hàn Đức Long, người trải qua 11 năm ngồi tù oan, đã diễn ra “không thành công”, một luật sư tham gia bào chữa cho ông Hàn Đức Long nói với BBC chiều ngày 25/4.

TAND Cấp cao tại Hà Nội tổ chức buổi xin lỗi chính thức ông Long tại UBND xã Phúc Sơn, tỉnh Bắc Giang chiều 25/4.

Buổi xin lỗi gây nhiều sự chú ý, có nhiều phóng viên và người dân địa phương đến tham gia nhưng mọi việc đã không diễn ra như mong muốn, luật sư Ngô Ngọc Trai cho biết.

“Buổi xin lỗi diễn ra không thành công vì sự thiếu chu đáo của cơ quan đứng ra tổ chức, không liệu được việc gia đình cháu bé có mặt, bức xúc và gây ra sự hỗn loạn.”

Người nhà và gia đình cháu bé bị hại lớn tiếng chỉ trích cơ quan tư pháp và yêu cầu tìm ra thủ phạm trước khi công khai xin lỗi.

 

Nhưng theo luật sưTrai, yêu cầu này không có cơ sở pháp lý. Ông Long đã được quyết định không phải là thủ phạm. Ông ấy đã đi tù oan 11 năm thì cơ quan tư pháp phải đứng ra xin lỗi theo quy định của pháp luật.

“Toà án nhân dân cấp cao chỉ đọc một văn bản rất chóng vánh, trong không khí lộn xộn, hỗn loạn.”

“Với tư cách là luật sư của ông Long, tôi cho rằng việc xin lỗi đã không thành công. Tôi sẽ làm việc với gia đình ông Long để yêu cầu bên Toà án thực hiện lại việc xin lỗi.”

“Rất là đáng tiếc trong khi vụ án đã gây ra tổn thương tinh thần cho ông Long và những người liên quan, khâu tổ chức lại lầm lỗi tiếp, khiến cho tổn thương tinh thần của nhiều người lại bị ảnh hưởng.”

Ông Long và vợ có mặt tại hội trường nhưng vội ra về.

Về việc bồi thường, ông Trai cho biết gia đình ông Long đang làm việc để trình ra các cơ sở căn cứ, các khoản và các mục để các bên thương lượng đàm phán.

Bất cập trong cơ chế tư pháp

Theo luật sư Ngô Ngọc Trai, người theo đuổi vụ án oan sai của ông Long từ năm 2011: “Vụ án oan của ông Long một phần là do lỗi yếu kém do năng lực con người.”

“Một phần khác là do sự bất cập của cơ chế tư pháp, chưa thiết lập một cách khoa học, chưa bổ trợ được khiếm khuyết của con người, còn lạc hậu, dẫn đến tình trạng oán sai mà bản thân cơ quan tư pháp cũng không mong muốn.”

“Một vấn đề quan trọng khác là có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giam giữ, cả cơ quan điều tra, viện kiểm sát lẫn tòa án. Ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, chỉ có tòa án mới có quyền ra lệnh bắt giữ.”

 

Theo truyền thông Việt Nam, thi thể cháu bé Nguyễn Thị Yến, sinh năm 2000, được phát hiện năm 2005 sau khi mất tích.

Ông Hàn Đức Long bị bắt giam và thú nhận mình là thủ phạm trong vụ án hãm hiếp và giết cháu bé. Nhưng tại các phiên tòa ông Long kêu oan, không nhận tội và ông nói bị ép cung, bức cung.

Tuy nhiên, sau đó ông vẫn đi tù 11 năm và từng bốn lần bị tuyên án tử hình. Ông được thả vào ngày 20/12/2016 sau khi cơ quan tư pháp xác định không có đủ bằng chứng kết tội.

Đà Nẵng lùi một buớc, nhượng bộ giáo dân Cồn Dầu

Đà Nẵng lùi một buớc, nhượng bộ giáo dân Cồn Dầu 

Một giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu đối thoại với chính quyền thành phố Đà Nẵng. (Hình: Tuổi Trẻ)

VIỆT-NAM (NV) – Đại diện chính quyền thành phố Đà Nẵng vừa tuyên bố sẽ đáp ứng yêu cầu “tái định cư tại chỗ” của giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu, tọa lạc tại phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ.
Tuy nhiên chưa rõ sự nhượng bộ này đã đủ để kết thúc vụ đối đầu, đòi công bằng giữa giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu với chính quyền thành phố Đà Nẵng hay chưa (?).

Cách nay tám năm (2009), chính quyền thành phố Đà Nẵng công bố kế hoạch xây dựng Khu Đô thị sinh thái Hòa Xuân, diện tích khoảng 430 héc ta. Theo kế hoạch này, khoảng 2.000 gia đình cư trú ở các khu vực: Tùng Lâm, Lỗ Giáng, Cẩm Chánh, Trung Lương và Cồn Dầu phải rời khỏi nơi “chôn nhau, cắt rốn” của họ, chưa kể 8.000 người chết phải nhường “nơi an nghỉ cuối cùng” cho một “nhà đầu tư”.

Trong khi khoảng 1.600 gia đình ở Tùng Lâm, Lỗ Giáng, Cẩm Chánh, Trung Lương ngậm đắng nuốt cay dọn đến sinh sống tại các “khu tái định cư” thì 380 gia đình của Giáo xứ Cồn Dầu kháng cự yêu cầu mà họ khẳng định là phi lý này. Ngoài việc bảo vệ nhà cửa, ruộng vườn, giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu còn cương quyết bảo vệ mồ mả của ông cha. Giáo xứ Cồn Dầu có một nghĩa trang với chừng 1.000 ngôi mộ.

Ngày 3 tháng 5 năm 2009, khi giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu đưa cụ bà Đặng Thị Tân, 91 tuổi đến an táng tại nghĩa trang của giáo xứ thì công an Đà Nẵng đổ đến ngăn chặn vì theo quy hoạch thì không được chôn cất thêm bất kỳ ai trong nghĩa trang. Công an Đà Nẵng đã thẳng tay đánh đập những người phản đối, hàng chục người trọng thương. Sau đó có thêm sáu người bị bắt, bị phạt tù vì “gây rối trật tự công cộng”, “chống người thi hành công vụ”.

Vụ đàn áp để thu hồi đất ở Cồn Dầu bị nhiều tổ chức quốc tế và chính phủ một số quốc gia chỉ trích. Đó cũng là lý do hàng chục giáo dân Cồn Dầu, trốn sang Thái Lan được Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc cho hưởng quy chế tị nạn chính trị.

Tuy không giữ được nhà cửa, ruộng vườn và mồ mả cha ông nhưng từ đó đến nay, giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu không bỏ cuộc. Họ kết thành đoàn, liên tục cùng nhau đi khiếu nại cả ở Đà Nẵng lẫn Hà Nội, bất kể khiếu nại liên tục bị bác.

Mới đây, chiều 24 tháng 4, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã tổ chức “đối thoại” với các gia đình là giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu “không đồng tình với phương án tái định cư của thành phố Đà Nẵng”. Theo tờ Tuổi Trẻ thì chính quyền thành phố Đà Nẵng đã gửi 87 thư mời đến những gia đình suốt tám năm vừa qua dứt khoát không giao đất, không làm thủ tục nhận đất trong các khu tái định cư nhưng chỉ có ba gia đình chịu quá bộ đến dự cuộc “đối thoại”.

Đáng chú ý là trong buổi “đối thoại” gần như đơn phương đó, ông Hồ Kỳ Minh, Phó Chủ tịch thành phố Đà Nẵng, vẫn tỏ ra nhẫn nại, loan báo, chính quyền thành phố này sẽ giải quyết yêu cầu “tái định cự gần nhà thờ Cồn Dầu” của giáo dân Cồn Dầu. Viên Phó Chủ tịch thành phố Đà Nẵng bảo rằng, để có đất hoán đổi, thỏa mãn yêu cầu “tái định cự gần nhà thờ Cồn Dầu” cho giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã phê duyệt kế hoạch lấy một phần công viên gần nhà thờ Cồn Dầu để phân chia thành 368 lô đất cho giáo dân “tái định cự gần nhà thờ Cồn Dầu”.

Giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu cũng có thể hoán đổi đất đã được giao trong khu tái định cư láy một lô đất mới gần nhà thờ Cồn Dầu. Với những gia đình chưa chịu giao đất, chủ đầu tư – Công ty Tập đoàn Mặt Trời – sẽ hỗ trợ xe, chi phí để di dời tài sản… (G.Đ)

 

Kẻ gieo rắc sợ hãi cũng biết sợ hãi

Kẻ gieo rắc sợ hãi cũng biết sợ hãi

Vũ Đông Hà (Danlambao) – Ngày 4 tháng 6 năm 1989, quảng trường Thiên An Môn nhuộm máu. Quân đội và xe tăng được lệnh của lãnh đạo đảng CSTQ xả súng vào quần chúng. Trong suốt gần 7 tuần lễ trước đó, bắt đầu từ 15 tháng 4, nửa triệu người dân Trung Hoa, phần lớn là sinh viên, đã vượt qua sợ hãi để làm người tự do đúng nghĩa tại quảng trường có hình chân dung vĩ đại của Mao. Cả ngàn thanh niên thiếu nữ đã chết. Họ đã thắng nỗi sợ hãi nhưng bị dẹp tan trong máu và nước mắt vì một điều đơn giản: họ đã đẩy một guồng máy cai trị tàn ác vào vị trí đường cùng khi thiểu số lãnh đạo và tập đoàn thừa hành của guồng máy ấy chưa biết sợ; vẫn còn những cái đầu điên cuồng tuân lệnh và những ngón tay chưa biết run bấm vào cò súng. 

Cuộc cách mạng của sợ hãi không chỉ là một cuộc cách mạng một chiều: làm người dân hết sợ. Nó còn cần được thực hiện theo một tiến trình khôn ngoan, có lượng giá để từng bước: làm cho độc tài bắt đầu biết lo; chùn bước chùng tay; hãi sợ; và cuối cùng là đầu hàng.

Cách mạng chỉ nên được đẩy đến giai đoạn dứt điểm để thành công khi “cán cân sợ hãi” bắt đầu nghiêng về phía độc tài. Nếu không sẽ có nhiều xác suất dẫn đến một cuộc tắm máu vì vũ khí đang nằm trong tay kẻ thống trị. Ngay cả khi buộc phải có “sự thương lượng” với tập đoàn độc tài, cán cân sức mạnh giữa quần chúng và guồng máy lúc đó phải được tương đối cân bằng thì những đòi hỏi chính đáng và lâu dài của nhân dân mới có thể được đáp ứng. Nếu không thì “sự thương lượng” sẽ mở cho độc tài một giải pháp thoát hiểm và công cuộc đấu tranh bị rơi vào một trò chơi chính trị. 

Câu chuyện của một cô gái xuất khẩu lao động một cán bộ công an phường

Hồng Lĩnh là một sinh viên ở một tỉnh miền Tây. Trong khi bạn bè rủ nhau trở thành cô dâu Đài Loan thì Hồng Lĩnh làm đơn xin đi lao động hợp tác. Cán bộ phường là một gã côn đồ, hống hách, xem dân như cỏ rác. Hồng Lĩnh cũng không thoát khỏi hoàn cảnh đó, vừa sợ hãi, vừa căm giận, vừa phải nhịn nhục khi đến xin chữ ký. “Cuối cùng em nghiệm ra rằng em là nô lệ cho sự sợ hãi của chính em và từ đó danh dự, nhân phẩm của em đã trở thành nô lệ cho chúng nó “ – Hồng  Lĩnh tâm sự. 

3 năm sau, Hồng Lĩnh về nước. Những cảm nhận ở nước ngoài làm em có một nhận thức mới về chính mình. Ngày lên phường để khai báo, cũng tên cán bộ phường đó, cũng thái độ hống hách, coi thường người dân. “Em đã đứng thẳng dậy, nhìn thẳng vào mắt nó và rất nghiêm trang nhưng rất dữ, “quạt” nó cả 10 phút không ngừng nghĩ. Anh biết gì không? Mặt mày nó tái mét, khi em dừng nói nó bối rối dữ lắm, không biết phản ứng ra sao. Cuối cùng nó lí nhí xin lỗi và bỏ tuốt vào bên trong. Từ đó đến nay, thái độ của nó đối với em khác hẳn. Em ngộ ra một điều là qua nhiều năm, tụi em vì thời thế đã tự tạo cho mình khả năng tự vệ khi bị làm khó làm dễ; ngược lại có kẻ quen tấn công người khác thì không có khả năng phản ứng khi bị tấn công vì chưa có kinh nghiệm bao giờ. Tụi nó chỉ biết núp bóng bộ đồng phục ở trên người và cái bóng của hệ thống…”

Nỗi sợ hãi của kẻ bị tách riêng để tấn công

Không riêng gì đảng CSVN, những cá nhân cầm quyền và thuộc hạ của các nước độc tài khác đều núp bóng cơ chế để vừa trốn tránh trách nhiệm vừa mang cảm giác an toàn. Những tấn công vào cơ chế không làm cho cá nhân trong tập đoàn cai trị lo sợ nhiều mà đôi khi lại gia tăng cảm giác an toàn của họ khi chúng ta vô tình kết họ vào một khối. 

Viễn ảnh về ngày tàn của chế độ không phải không có trong đầu của một bộ trưởng hay bí thư tỉnh ủy hoặc một tên công an côn đồ. Hình ảnh của Muammar Gaddafi bị lôi ra khỏi ống cống và bị giết không phải không ẩn hiện trong đầu của họ. Nhưng trong viễn ảnh nhiều ác mộng đó, họ tự nhủ rằng, cùng lắm thì cả một thể chế sụp đổ, một vài “đồng chí” cao cấp nhất sẽ bị đem ra xử còn “ta” sẽ hạ cánh an toàn. Từ đó, họ “yên tâm” tiếp tục thủ ác trong khung cảnh toàn cơ chế, hệ thống bị tấn công.

Không ai có thể phản biện được với khuynh hướng lên án toàn bộ, không để sót kẻ gây ra tội ác vì đó là phán xét hợp lý và mang tính công bằng, phù hợp với chuẩn mực của công lý. Tuy nhiên, trong tiến trình tranh đấu, đôi khi cảm xúc, công bằng và công lý đành phải nhường chỗ cho nhu cầu thực tiễn của mục tiêu xóa bỏ độc tài: hiệu quả đạt được. Sẽ không mang lại nhiều hiệu quả mong đợi khi tấn công cả hệ thống tham nhũng, cả tập đoàn công an còn đảng còn mình là ác ôn, trong khi mỗi cá nhân trong tập thể xấu xa đó không có cảm giác cá nhân mình đang bị tấn công. Đối với những kẻ gieo ác, khi một tên sợ hãi sẽ dẫn đến tâm lý sợ hãi của đồng bọn. Bệnh sợ hãi là bệnh hay lây cho dù chúng là những kẻ nắm quyền. Ngược lại, khi lực chúng ta còn mỏng và còn yếu, tập trung tấn công vào một điểm vẫn mang lại nhiều kết quả hơn là tấn công cả một tảng núi. 

Khi bắt đầu bằng những kế hoạch, việc nhắm vào một cá nhân, một thành phần đang bị oán ghét nhất trong bộ máy cai trị sẽ có khả năng làm nhiều người tham gia hơn. Nó sẽ tạo ảnh hưởng đến cá nhân kẻ thủ ác. Nỗi sợ hãi sẽ lây lan, ảnh hưởng và làm suy yếu guồng máy. Khi gió bắt đầu xoay chiều, chính những người phục vụ trong guồng máy sẽ xé rào và chạy về phía nhân dân – đó là trường hợp của một số đại sứ, bộ trưởng của chế độ Gaddafi trong thời điểm quyết định của cuộc cách mạng tại Lybia.

Đánh vào những tên cai ngục, nhà tù sẽ đổ.

25.04.2017

Vũ Đông Hà

danlambaovn.blogspot.com

Tàu biển Việt Nam có nguy cơ trở lại danh sách đen

Tàu biển Việt Nam có nguy cơ trở lại danh sách đen

RFA
2017-04-24
 
Một chiếc tàu biển Việt Nam, ảnh minh họa.

Một chiếc tàu biển Việt Nam, ảnh minh họa.

Courtesy of vinamarine.gov.vn
 
 

Đội tàu biển của Việt Nam được cảnh báo có thể bị đưa trở lại ‘danh sách đen’ do có nhiều tàu không bảo đảm an toàn cũng như tỷ lệ bị lưu giữ tại nước ngoài cao hơn tàu của những nước khác.

Tổ chức Chính quyền Cảng biển các nước khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đưa ra cảnh báo như vừa nêu.

Thống kê cho thấy trong quí 1 năm nay, số  tàu biển của Việt Nam chạy tuyến quốc tế bị lưu giữ ở nước ngoài khi bị kiểm tra về an toàn và phòng ngừa ô nhiễm được cho biết tăng với tỷ lệ cao nhất so với trung bình trong 3 năm qua ở mức gần 5%.

Lý do tàu Việt Nam bị lưu giữ được cho biết vì bị hư hỏng về an toàn chống cháy nổ, trang thiết bị cứu sinh, tình trạng kín nước, các hệ thống sử dụng trong trường hợp có sự cố, an toàn hàng hải, hệ thống quản lý tàu…

Đội tàu biển của Việt Nam trước năm 2014 bị Tổ chức Chính quyền Cảng biển Các nước Khu vực Châu Á- Thái Bình Dương liệt vào ‘danh sách đen’.

Cục Hàng Hải Việt Nam thừa nhận từ đầu năm đến giữa tháng tư vừa qua, có hơn 300 lượt tàu biển của Việt Nam bị kiểm tra tại các cảng biểng nước ngoài.

‘Vượt Tù, Vượt Biển’ cùng Huỳnh Công Ánh

Cát Linh, phóng viên RFA
2017-04-24
 
Bìa cuốn hồi kỳ Vượt Tù Vượt Biển của Huỳnh Công Ánh.

Bìa cuốn hồi kỳ Vượt Tù Vượt Biển của Huỳnh Công Ánh.

RFA photo
 
 Cuốn hồi ký “Vượt tù Vượt biển” của tác giả Huỳnh Công Ánh được giới thiệu đến với mọi người sau 42 năm kể từ tháng 4 năm 1975.

Trong đó, những sự kiện, hình ảnh của miền Nam kể từ buổi sáng 30 tháng 4-75, cuộc sống của người lính Việt Nam Cộng hoà trong trại cải tạo, hay những chuyến vượt biển kinh hoàng được tác giả kể lại trong cuốn hồi ký với vai trò là một nhân chứng lịch sử.

Nhân vật Tôi

Nhân vật “tôi” xuyên suốt trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển” là Đại uý Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà, người tù vượt ngục trại Long Giao, người lái tàu vượt biển hai lần, chủ tịch Hội Cựu Quân nhân tại đảo Pulau Bidong năm 1981; người sáng lập Phong trào Hưng ca Việt Nam: nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh.

Tất cả những vai trò từng tồn tại trong 70 năm cuộc đời được ông gói ghém trong 21 chương của “Vượt tù, vượt biển”, cuốn hồi ký ông ấp ủ 38 năm. Khi thực hiện được, thì đã bước sang năm thứ 42 kể từ buổi sáng 30 tháng 4 năm 1975.

“Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu. Mặc dù tuổi đã lớn nhưng những hình ảnh không bao giờ quên. Vì tuổi lớn, có những sự kiện có thể mất đi nhưng không có gì thêm bớt. Và những nhân vật vẫn còn nằm yên đó..”

Thật sự là như thế. Sài Gòn buổi sáng 30 tháng 4 năm 75 hiển hiện ra dưới ngòi bút của ông với đầy đủ âm thanh, sắc thái, mùi vị. Ông gọi những chương đó là “Tan hàng, Bỏ súng”.

Tan hàng; Bỏ súng

“30.4. Hình như suốt đêm qua Sài Gòn chập chờn không ai tròn giấc ngủ. Tôi không thể nằm yên ở nhà chịu trận mà không biết những gì đang xảy ra bên ngoài đường phố. Tôi rời nhà với đôi mắt cay xè. Sài Gòn vẫn nắng chói chang…

Sáng sớm hôm nay một chiếc trực thăng HU.1D bên kia đường, đỗ trên nóc nhà đón thân nhân, đã vướng dây điện, nằm chúi đầu như sắp rơi xuống đất. Ngoài đường cả một cảnh tượng hỗn loạn đang xảy ra, xe cộ xuôi ngược, và chưa lúc nào đường phố thấy người đi bộ nhiều như sáng nay, nhiều người chạy trên đường với thái độ hốt hoảng…”

Cho tới bây giờ, những hình ảnh suốt từ năm 75 ra tới miền Bắc, rồi trốn tù, nó nằm mãi trong đầu.
– Huỳnh Công Ánh

“Cảm giác trưa ngày 30 tháng 4 là cảm giác không biết mình sẽ đi về đâu sau cái ngày Việt Cộng chiếm miền Nam, sau ngày buông súng. Lúc đó cứ nghĩ là bây giờ họ thắng rồi, họ lấy hết đất nước rồi, cảm giác như đờ đẫn, không biết đứng ở đâu, không biết làm gì. Cho tới khi có thông cáo đi tù cải tạo 10 ngày thì cũng vui mừng, giỡn đùa…ôi 10 ngày nhằm nhò gì, 3 tháng cũng nhằm nhò gì. Ở tù 10 ngày, 3 tháng hay 1 năm rồi ra có cơ hội đi làm ăn hoặc đi học lại, vì tôi tổng động viên năm 68, hai mươi mấy tuổi thôi, tôi cũng ước mơ đi học lại.”

Qua những tình tiết tác giả kể lại trong “Bỏ súng”, người đọc sẽ thấy và hiểu những lớp xi măng đầu tiên xây dựng nên một thành trì xã hội chủ nghĩa ngày nay.

“…Thời gian của tháng 5-75 là thời gian của xôn xao họp hành, thành lập khu phố, kê khai giấy tờ và học tập cái gọi là “chính sách của cách mạng”. Chị giúp việc nhà hàng xóm kế cận căn nhà tôi ở, nghe đâu cũng là Việt Cộng nằm vùng, bây giờ là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân phường.”

Về Long Giao

Những tháng ngày sau đó của Huỳnh Công Ánh và đồng đội của ông được lột tả thật đến từng tiếng thở, tiếng ngáy, tiếng máy xe nổ ầm ì trong đêm khuya. Cách ông tường thuật đoạn đường về Long Giao mà bần bật lên đó là niềm tin, niềm hy vọng, rồi tiếp nối là sự hoang mang, để rồi cuối cùng là thất vọng.

“Giờ này trong bóng tối, chen chúc trong chiếc xe, tôi mới thấy ân hận. Vợ con tôi chắc đã ngủ rồi mà không biết cảnh chồng và cha đang ngồi trên chiếc xe bít bùng này và đi về đâu? Hoàn cảnh này không thể có chuyện đi “học tập 10 ngày” được rồi. Cũng có thể chúng chở ra biển, rồi nhận chìm tàu, hay đem lên núi xử bắn rồi lấp xuống hố.”

7 năm trong trại tù Long Giao trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh không thiếu những câu chuyện bi hài. Những mẫu chuyện ngắn, được kể lại gọn gàng qua những lời đối thoại không văn vẻ, nhưng rất “trịnh trọng” bởi cách xưng hô “thưa gửi các bộ”, đủ để người đọc phải vỡ oà cái cảm xúc vừa buồn cười, vừa cay đắng.

000_HKG2005042754750-400.jpg
Một bức ảnh chụp ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho thấy lính Việt Nam Cộng Hòa bị hộ tống bởi bộ đội Bắc Việt. AFP photo

“…Những tuần lễ đầu ở Long Giao, khi đi ngang qua các vọng gác của các bộ đội, thấy nhiều viên đá cục chất đống dưới chân vọng gác. Sau mới biết, bộ đội sau khi đi đại tiện, họ dùng đá để lau chùi. Bộ đội mà thế thì huống gì là tù, lấy giấy ở đâu? chỉ dùng lá, cục đá hoặc chà dưới cỏ. Man rợ như thế đấy.

Cũng có những câu chuyện nực cười khác

Khi mới vào Long Giao, có anh tên là Lê Thông, mang kính cận dày cộm. Một hôm đi ngược chiều với bộ đội, tên bộ đội gọi giật lại:

Anh kia, ai cho phép anh đeo kiếng?

Báo cáo cán bộ, tôi bị cận thị. Anh Thông trả lời

Cận thị là cái gì? Lấy xuống, lấy xuống mau!

Báo cáo cán bộ lấy kiếng xuống thì tôi quờ quạng lắm, làm sao thấy đường đi?

Tôi không đùa với anh đâu nhé. Lấy xuống mau!”

Vượt tù, vượt biển

Từ những chương này trở về sau, là những mốc thời gian tác giả gọi là tàn khốc nhất. Chính vì vậy mà trong suốt 38 năm, dù trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, ông vẫn không quên một chi tiết nào. Từ cuộc vượt ngục lịch sử thoát khỏi những ngày học tập cải tạo trong trang phục của bộ đội Bắc Việt cho đến hai lần lái tàu vượt biển.

“Khi ở tù, phải có 1 thời gian suy nghĩ rất là lâu, bao nhiêu năm liền về ý định trốn tù. Vượt biển thì khốc liệt lắm, trong vòng có mấy ngày thôi. Tôi đã từng bị mảnh đạn bị thương, rồi bỗng nhiên trở thành người chỉ huy cứu 29 người trên tàu sống sót trong 17 ngày trôi trên biển. Chính mình cũng bị hải tặc Thái Lan khoét lưỡi lê trong hậu môn chảy máu đi không được, bị kẹp tay tra khảo. Nó khốc liệt sợ hãi hơn đường trốn tù. Cái hãi hùng của chuyến vượt biên thứ hai nếu xảy ra giống như chuyến thứ nhất thì liệu vợ, con và cháu và em của mình sẽ ra sao? vì mình mà họ chết. Nếu mình chết 1 mình không sao. Nhưng liên luỵ đến con nhỏ, cháu mình thì cảm giác nó sợ sệt, không ăn không ngủ được nhiều hơn là trong tù.

Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy.
– Huỳnh Công Ánh

Vượt biên là mình phải làm sao cho tàu đi không chìm dưới biển, làm sao để tránh hải tặc vô cướp, hiếp dâm…Khi đi rồi không biết sẽ đi về đâu? Tấp vô bến nào hay được tàu vớt hay bị chìm tàu?”

Những ký ức tưởng như sẽ dần nguôi ngoai, nhưng không phải thế. Ông nhớ lại cuộc đời của một người tỵ nạn đến Mỹ ba mươi mấy năm, và thấy rằng nó cay đắng thâm trầm nghiệt ngã hơn thời gian 7 năm học tập cải tạo rất nhiều.

“Cho đến giờ này, thỉnh thoảng, cái gọi là hãi hùng nó vẫn còn. Có nhiều đêm ngủ phải đá lung tung, hoặc nhiều đêm ngủ giật mình ôm mền ôm gối chạy. Nhiều khi trong giấc chiêm bao mình thấy họ bắt mình, kéo mình, mình vẫy vùng, đá vào người vợ nằm kế mình. Nhiều lần như thế, nghĩa là nó ám ảnh mình suốt đời.

Thành ra cái chuyện ám ảnh, lo âu, dĩ vãng trong tù là nhớ vanh vách, chỉ có đọc ra, ghi ra, chứ không thêm thắt, hư cấu, văn chương gì cả.”

Nhân chứng lịch sử

Khó mà tìm được một mỹ từ hay một chi tiết bắt người đọc phải suy nghĩ trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh. Thay vào đó, từng câu từng chữ hiện ra gãy gọn, thật thà, có cả cái tiếng chửi thề không lẫn vào đâu được của người miền Nam, đưa người đọc của nhiều thế hệ quay về sống với từng giây phút của năm tháng đó, chứng kiến những câu chuyện đó.

Ông nói rằng để thoát được những chuyến đi ấy, ông đã chịu ơn tình của nhiều người. Những ân tình đó là nguyên nhân đến 38 năm sau cuốn hồi ký mới ra đời. Niềm vui của ông được diễn tả bởi hai chữ “bàng hoàng” vì ông cho rằng ông đã thực hiện được sứ mệnh của cuộc đời mình.

Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân.
– Huỳnh Công Ánh

“Ước mơ và khát vọng lớn nhất là tôi làm tròn vai trò người chứng nhân của lịch sử, khúc quanh lịch sử cay nghiệt nhất mình là chứng nhân. Và mình đứng cửa giữa, tức là lòng mình đã chùng xuống rồi. Ba mươi mấy năm tôi mới viết, thì sự hận thù ra ngòi bút, ra trong tư tưởng không còn nữa. Nó đã bình tâm rồi. Mình muốn mình là người Việt Nam yêu nước, mình muốn mình là nhân chứng thật sự giữa hai chế độ miền Bắc và miền Nam. Và nhân chứng đó chỉ đưa ra hình ảnh thôi, không phê phán, không chửi rủa, không đả đảo, không hận thù.”

Điều ông mong muốn, với vai trò là một nhân chứng kể lại một khúc quanh của lịch sử, người đọc, và thế hệ sau sẽ tự biết cái nào đúng, cái nào sai, cái nào cần thiết cho giống nòi Việt Nam.

Khi chương cuối cùng của hồi ký “Vượt tù, vượt biển” khép lại, người đọc vẫn còn thấy đâu đó buổi sáng hỗn loạn của ngày 30 tháng 4 lịch sử. Với nhiều người khác, biến cố ấy không chỉ dẫn đến một cuộc vượt tù cải tạo và hai chuyến vượt biển của Huỳnh Công Ánh, mà còn dẫn đến một câu chuyện dài chưa có hồi kết của đất nước, dù đã bước sang năm thứ 42.

NHẤT PHÁ SƠN LÂM

From facebook:  Trung Minh Le shared Dương Hòa Đức‘s post.
 
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.

Dương Hòa Đức added 2 new photos.Follow

NHẤT PHÁ SƠN LÂM

Nhìn bản đồ 1943 và bản đồ 1997 về rừng cây Việt Nam thì không cần bình luận một chữ nào về thành tích phá hoại của lũ thất học.
Đánh Việt Cộng thì cần gì Dioxin hay Chất độc da cam da quýt gì.

Cứ cho nó thấy một nạm tiền, hay một chức danh có thể làm ra tiền cho dù bất nghĩa thì sai nó giết cha mẹ nó, nó cũng làm.

Vì tiền, tụi nó “cờ lờ vờ, cờ lờ mờ vờ” cạo sạch không còn một nhúm cây để gọi là sinh thái.

Hút cát bán cho Trung Cộng xây bồi đấp đảo, nhà cửa hỏng chân trụt xuống sông.

Sắp đến mùa mưa là lũ quét sẽ triệt hạ nhóm nhà trung du.

KHI ĐÁM CÔNG BỘC LÀ NÔ LỆ CỦA ĐỒNG TIỀN.

nói ” Thượng tôn pháp luật” là xúc phạm ĐCS.

From facebook: Trần Bang shared Manh Dang‘s post.
Ngay lời nói đầu của Hiến pháp 2013 có đoạn: “Thể chế hoá cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kế thừa Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1990… “. Tất cả các Hiến pháp đã nêu do ĐCSVN biên soạn và Hiến pháp 2013 không công nhận Tam quyền phân lập, nên không có Tư pháp độc lập, không có độc lập thì làm gì có Quyền lực của Tư pháp?

Có thẩm phán, kiểm sát viên nào không phải là đảng viên đảng cộng sản VN?

Đảng CS nắm cả ba quyền, gọi là “đảng thống nhất lãnh đạo”.

Ông Chung là 1/200 ủy viên BCH trung ương đảng, cơ quan lãnh đạo cao nhất của ĐCSVN giữa hai kỳ Đại hội đảng.

Ông Chung được BCH phân công là Chủ tịch TPHN, và vụ này ông được phân công giải quyết, thương lượng với Dân Đồng Tâm. Nên Toà án, VKS, Công an điều tra HN thực tế đều là cấp dưới (về mặt đảng) của ông Chung, nên họ đều phải chấp hành ông Chung.

Điều 4, Hiến pháp 2013: ” ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và XH”.

Đảng cộng sản đẻ ra pháp luật, luôn đứng trên pháp luật. Pháp luật chỉ là công cụ của đảng, nên nói ” Thượng tôn pháp luật” là xúc phạm ĐCS.

Tết đến vẫn có khẩu hiệu ” Mừng đảng mừng xuân”,

Không có ” Mừng nhà nước, mừng nhân dân VN” đâu?

Nên nói “Đồng Tâm Vô Pháp” không sai, nhưng chưa đủ!

Vì VN vô pháp từ khi đảng cướp chính quyền năm 1945!

Đồng bào Đồng Tâm, Mỹ Đức, HN đọc để cảnh giác

From facebook:  Trần Bang shared Bảo Nhi Lê‘s post.
Đồng bào Đồng Tâm, Mỹ Đức, HN đọc để cảnh giác… bởi nông dân Thái Bình đấu tranh chống tiêu cực cuối thế kỷ 20 đã bị đàn áp rất thâm hiểm, độc ác, dã man theo kiểu Mao- Đặng của TQ ( hơn thời trung cổ)…

 

“…Gia đình nộp đơn kiện thì công an chỉ những trại tù rất khác nhau; thí dụ họ giam con người ta Quảng Ninh thì họ chỉ cho thân nhân vào Nghệ An tìm; họ giam con người ta ở Thanh Hóa thì họ chỉ thân nhân lên Vĩnh Phú tìm; họ giam con người ta ở Vĩnh Phú thì họ nói là giam ở tận Ðắc Lắc v.v.

Như thế có nghĩa là để cho những nông dân nghèo khó, ngu ngơ không biết đường biết xá, đi tìm thân nhân vài lần là hết tiền nên đành phải bỏ cuộc.

Trong các nhà tù, thì chúng nó ra lệnh cho những thằng tù muốn lập công với công an, là bọn tù hình sự, những thằng tàn ác nhất, tìm cách gây sự với những nông dân và cựu chiến binh cầm đầu cuộc nổi dậy; rồi bọn hình sự này thủ tiêu những nạn nhân bằng cách dùng đũa nhọn đóng vào tai lúc người ta đang ngủ. Nạn nhân chết ngay tức khắc, không thể kêu một tiếng nào cả. Chính thân nhân những người chết kể lại cho tôi nghe chuyện đó.

Ðó là cuộc tàn sát trong bóng tối một cách hèn hạ, cực kỳ khôn khéo, cực kỳ hèn hạ, cực kỳ đểu cáng và chúng nó là những đao phủ số một nên mới nghĩ ra hình thức thủ tiêu dã man như thế…” 

hàng ngàn bà con Giáo dân xứ Song Ngọc, Phú Yên đi phản đối kẻ đánh người, cướp điện thoại và 200 áo

From facebook:  Trần Bang shared Hoàng Bình‘s post.
Nhờ các Linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam, Nguyễn Duy Tân cùng hàng ngàn bà con Giáo dân xứ Song Ngọc, Phú Yên đi phản đối kẻ đánh người, cướp điện thoại và 200 áo (nghi là ca QL cướp mang về huyện ) ở công an huyện Quỳnh Lưu 

Cuối cùng, những chiếc áo ” Formosa get out” này công an huyện Quỳnh Lưu đã phải trả lại cho dân, họ hứa sẽ điều tra về sự việc trên.

Hết Formosa rồi tới Lee&Man

From facebook:  Trần Bang shared Van Trang‘s post.
Hết Formosa rồi tới Lee&Man

Công nghiệp giấy được xếp vào loại gây ô nhiễm hơn cả công nghiệp khai khoáng, bởi phải khai thác các nguồn xen-lu-lô tự nhiên, sử dụng nhiều chất tẩy trong quá trình sản xuất và đặc biệt việc tái chế giấy như Lee & Man càng thải ra nhiều chất độc hại và nguy hiểm. ‘Đừng để Lee & Man bức tử sông Hậu’ là lời kêu gọi thống thiết của người miền Tây lúc này.”

Nguồn VOA

Hậu đồng tâm trong bóng đêm & rắn rết

Hậu đồng tâm trong bóng đêm & rắn rết

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) – Sẽ còn nhiều lươn lẹo, mưu mẹo ở Đồng Tâm. – G.S. Tương Lai

Ngay sau biến động Đồng Tâm, vài trang mạng (Đàn Chim ViệtVấn Đề…) đã đăng lại “Báo Cáo Về Vụ Nổi Dậy Ở Thái Bình” của G.S. Tương Lai – khi ông còn đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng Viện Xã Hội Học Việt Nam. Đây là một tập tài liệu khả tín, khách quan – dài 53 trang – với phần kết luận hơi (bị) lạc quan:

“Sự kiện Thái Bình, nếu với cái nhìn tỉnh táo, sẽ là một cơ hội để chúng ta có thể nhìn rõ thực trạng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của nông thôn nước ta, do vậy mà có những chủ trương đúng sách lược đúng, đưa nông nghiệp và nông thôn đi vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.”

Hai mươi năm sau, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Khánh An (VOA) vào hôm 17 tháng 4 năm 2017, G.S. Tương Lai – tiếc thay – đã còn giữ được sự lạc quan và niềm hy vọng (“có những chủ trương đúng sách lược đúng“) như hai thập niên trước nữa. Ông buông thõng: “Sẽ còn nhiều ‘lươn lẹo,’ ‘mưu mẹo’ ở Đồng Tâm.”

Mọi sự “lươn lẹo, cũng như “mưu mẹo” sắp tới – tất nhiên – không đến từ phía những người nông dân Việt Nam chân chất. Nỗi bi quan của G.S. Tương Lai khiến tôi chợt nhớ đến lời tuyên bố của ông, đúng hai năm trước – vào hôm 29/04/2015 – khi trả lời Thụy Mi ( RFI ) về một câu hỏi có liên quan đến vấn đề thời cuộc:

“Chúng tôi khẳng định rằng khả năng tốt nhất, có ý nghĩa lớn nhất là tự những người lãnh đạo trong giới cầm quyền hiện nay tự chuyển biến, để họ biết đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của dân tộc lên trên hết. Từ sự chuyển biến đó, dần dần từng bước thay đổi thể chế chính trị, thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu làm được như thế, họ sẽ lấy lại uy tín.”

Làm thế nào để người dân Việt có thể đặt lại niềm tin vào “giới cầm quyền mưu mẹo” và “lươn lẹo” (rõ ràng) là một nan đề, nhất là riêng với nông dân – giới người vừa lên tiếng kêu than rằng “chúng tôi đã bị lừa quá nhiều rồi.”

Giữa tình cảnh hoang mang, căng thẳng, và lo sợ của hàng vạn con dân chân lấm tay bùn này – tuyệt nhiên – không thấy một vị “lãnh đạo cấp cao” nào “vào cuộc” cả. Chủ Tịch Nước, Chủ Tịch Quốc Hội, Thủ Tướng… đều câm như hến!

Kẻ lên tiếng, mỉa mai thay, chỉ là một thường dân – theo tường thuật của Viễn Đông (VOA) nghe được vào hôm 19 tháng 4 năm 2017:

“Người nông dân nổi dậy” ở Hải Phòng, từng đứng lên chống lực lượng thu hồi đất, cho biết rằng ông “sẵn sàng đứng ra làm trung gian” giữa người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, với chính quyền nhằm giúp làm hạ nhiệt căng thẳng hiện nay…

Người nông dân, từng được hàng xóm láng giềng và người thân ở Hải Phòng đón chào như người hùng sau khi được đặc xá trở về, nhận định tiếp:

“Theo ý kiến cá nhân tôi, chính phủ phải vào cuộc, phải thành lập đoàn thanh tra để làm rõ. Chính phủ phải có kết luận rõ ràng, công bố công khai và xử lý tất cả các quan chức từ xã, huyện, thậm chí cả thành phố Hà Nội. Nếu có dấu hiệu sai phạm phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Sau đó, phải thả khẩn cấp những người mà chính quyền bắt. Cái sai về chính quyền phải xử lý trước”.

Tôi vô cùng trân trọng thiện ý, cũng như thiện chí, của kỹ sư Đoàn Văn Vươn; tuy thế, vẫn không khỏi cảm thấy ái ngại khi đọc lại những sự kiện đã xảy ra tại quê hương ông – theo tường trình của Gia Minh (RFA) vào hôm 2 tháng 10 năm 2012:

“Tin cho biết cuộc làm việc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hải Phòng bắt đầu từ lúc 2 giờ chiều, và đến 5 giờ Chủ nhiệm văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam có cuộc họp báo thông tin về kết luận của Thủ tướng tại Trung tâm hội nghị quốc tế.

Theo ông Vũ Đức Đam thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận hai quyết định giao đất QĐ447 và QĐ220 của huyện Tiên Lãng đều không đúng pháp luật. 

Đến hai quyết định thu hồi 460 và 461 cũng trái pháp luật. Vì quyết định thu hồi không đúng nên việc cưỡng chế cũng không đúng. 

Còn về việc hủy hoại tài sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, thủ tướng yêu cầu xử lý theo đúng qui định của pháp luật.” 

Dù Thủ Tướng “kết luận rõ ràng” như trên nhưng rồi anh em ông Đoàn Văn Vươn vẫn cứ phải đi tù, còn người chỉ huy vụ “trận đánh đẹp” (phá hủy nhà cửa của nạn nhân) Đại Tá Đỗ Hữu Ca – Giám Đốc Công An Hải Phòng thì được thăng cấp!

 

 

 

 

 

 

 

 

Ông Đỗ Hữu Ca – Giám đốc CA TP HP được thăng hàm Thiếu tướng. 
Ảnh & thú thích: báo Pháp Luật

Dù vậy, xét cho cùng, qúi ông Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Qúi vẫn còn được coi là những người may mắn vì đã được công luận biết đến tên tuổi nên không thể tự nhiên mà “mất hút” trong hệ thống lao tù được.

Rất nhiều người dân Việt đã không có được sự “may mắn” tương tự:

“Cách đây chừng một thập kỷ đã xảy ra vụ nổi loạn của nông dân Thái Bình. Những người dân cày đói ăn biểu tình yêu cầu bọn quan chức địa phương hoàn lại những món tiền bị cưỡng đoạt trái phép. Cuộc khởi loạn thoạt tiên xảy ra trên bảy huyện trong tỉnh, trước hết là Quỳnh Phụ, sau đó lan ra các tỉnh lân cận như Hải Hưng, Vĩnh Phú, Quảng Ninh…

Phóng viên nước ngoài rầm rộ đổ đến Hà Nội… Họ đón tiếp niềm nở, nụ cười thường trực gắn trên môi: trà ngon, gà vườn, quà tặng rẻ tiền nhưng lạ mắt… Kèm theo đó là sự hứa hẹn mềm mỏng: ‘chúng tôi sẽ để các ông các bà xuống tỉnh Thái Bình trong thời gian ngắn nhất, với điều kiện đảm bảo được sự an toàn của quý vị’. 

Sự trì hoãn đó có hiệu lực. Một tuần, hai tuần, ba tuần trôi qua. Các ông tây bà đầm không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi. Quỹ thời gian có hạn. Hà Nội chỉ là một quán trọ xoàng. Hành tinh mênh mông còn có biết bao nơi chốn mời gọi… Họ lần lượt ra đi.

Khi phóng viên nước ngoài cuối cùng lên máy bay và các ống kính đã chĩa về hướng khác là lúc cuộc đàn áp bắt đầu. Trong một đêm, hàng nghìn cựu chiến binh đã bị bắt…

Cuộc vây bắt diễn ra êm nhẹ. Hoàn toàn trong bóng đêm. Sót lại là tiếng kêu khóc của đám dân quê đói khổ, thất học, thân nhân của những người bị cùm trói và tống vào xe thùng sắt.

Các cựu chiến binh Thái Bình, những người đã hiến dâng toàn bộ tuổi thanh xuân trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, những thương bệnh binh nạn nhân của chất độc da cam, những người thường được ca ngợi véo von là anh hùng cứu nước. Họ sẽ được đảng Cộng sản thân yêu đối xử ra sao?

Họ bị phân tán vào khắp các trại tù, sống trà trộn giữa đám tội phạm thật sự. Ở đó, họ sẽ chết trong một thời gian rất ngắn bởi chính các bạn tù này. Bọn tội phạm được lệnh thủ tiêu họ. Đương nhiên, ‘lệnh mồm’ và ban bố một cách thì thầm đến tận từng cá nhân. 

Đây chính là ‘phương thức châu Á’, nhóm danh từ tôi tạm mượn ông Karl Marx tôn kính ở phương Tây. Bọn tội phạm được hứa hẹn giảm án theo thành tích: giết một người án 20 năm giảm xuống 18 năm. Giết hai người, 18 năm còn lại 16… Cứ thế mà thực thi.

Khởi sự là các cuộc khiêu khích, gây hấn. Sau đấy là cuộc tàn sát bằng các hình thức khác biệt, trong đó một hình thức đặc biệt hiệu nghiệm và rất ấn tượng: giết người bằng đũa ăn. Người châu Á ăn cơm bằng đũa. Dụng cụ ẩm thực biến thành vũ khí sát nhân là sự ứng biến tuyệt vời. 

Người ta vót những chiếc đũa bằng gốc tre đực, thứ tre cứng như sắt, một đầu đũa được chuốt nhọn như kim đan. Khi các cựu chiến binh Thái Bình đang ngủ, bọn tội phạm bất thình lình đóng chiếc đũa này vào lỗ tai của họ. Với độ dài 25cm, đũa xuyên suốt từ tai nọ sang tai kia. Nạn nhân chết tức khắc không kịp bật một tiếng kêu.

Như thế, trong bóng đêm và trong sự im lặng, những người cầm đầu cuộc biểu tình của dân cày Thái Bình đã chết theo kiểu ấy.” (Dương Thu Hương – “Bóng Đêm Rắn Rết & Nước Mắt.” Paris, tháng 4/2007).

Mai hậu, liệu có cách nào để tránh cho những người dân cầy ở Đồng Tâm khỏi phải “chết theo kiểu ấy,” trong “bóng đêm” đang bao phủ Việt Nam không?

24/4/2017