“Kinh tế mới” cái thời mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc…

Dân Nông is with Nông Dân.

 Chỉ có những ai từng bị đày ải vào vùng kinh tế mới, thì mới hiểu hết được sự thiếu thốn  khốn khổ trăm bề của một đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong rừng thiêng nước độc giống như tôi .

  Trời chưa rạng sáng ba mẹ đã nắm cơm vào rừng bẻ măng, lấy củi .

 Ở nhà một mình chị Hai trông bầy em bốn năm đứa nheo nhóc…

 Tôi nhớ có một lần ba mẹ đi rừng, ở nhà với chị tới bữa cơm trưa chị em ăn cơm nguội, có nồi thịt gà kho nước lễnh bễnh để làm canh .

Tôi đang ăn thì chị Hai không cho ăn nữa, nói để dành cho bữa chiều.

Tôi không chịu cứ một mực đòi ăn rồi khóc giãy nãy , dỗ mãi không được chị Hai nổi quạu cầm cái búa ba hay đi rừng giá lên đầu tôi dọa nạt cho tôi im .

 Ngày đó còn bé tôi đâu có biết chị Hai có trách nhiệm phân chia đồ ăn để lo cho chúng tôi, tôi cứ nghĩ chị Hai dành ăn với tôi nên tôi cứ ấm ức mãi … chờ ba mẹ đi rừng về để méc .

Chờ tới chiều tối thì ba mẹ tôi cũng về, thấy ba mẹ về tôi òa khóc nức nở, bao nhiêu ấm ức trong ngày tôi kể hết cho ba mẹ nghe , với giọng điệu ngọng nghịu cùng tiếng khóc nức nở :

    – Ba mẹ có biết không, con ở nhà chị Hai ăn hiếp con, nhà còn có chút lướt lịt (nước thịt) mà chị không cho con ăn, chị còn lấy cái búa ba đi tầm (  búa ba hay đi rừng lấy trầm) để lên đầu con con lém ( xém)chết .

Ba mẹ nghe tôi vừa méc vừa khóc tức tưởi mà không nhịn được cười, vừa thương con , vừa giả vờ la chị Hai cho tôi hết ấm ức .

” Kinh tế mới ” cái thời mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc, làm thịt con gà kho cả nắm muối rim mặn chát .

Rồi mỗi ngày lấy ra một ít nấu nước lềnh bềnh chan cơm, ăn bữa trước phải để dành bữa sau , ám ảnh cái cảnh cơm độn củ mì, củ lang, chỉ một vài hạt cơm dính trên lát củ, bát cơm trắng là mơ ước của tất cả mọi người sống trong vùng kinh tế mới giống như tôi.

Giờ nghĩ lại đúng thật là ác mộng .


 

XÓT XA CẢNH XE MÁY BỊ NHẤN CHÌM TRONG NƯỚC LŨ Ở HUẾ

Báo Tin Tức Việt Đức

XÓT XA CẢNH XE MÁY BỊ NHẤN CHÌM TRONG NƯỚC LŨ Ở HUẾ

Trưa 27-10, nước lũ trên các sông TP Huế đã lên cao, ngập lụt bủa vây.

Dự báo đỉnh lũ sông Bồ, sông Truồi sẽ vượt lũ lịch sử, sông Hương ở mức rất cao.

Khu vực phường Vỹ Dạ.

Nhiều xe máy tại chung cư Vicoland, phường Vỹ Dạ bị nước lũ nhấn chìm.

Họ đã cứu được hơn 50 người như vậy

 Thao Teresa

Họ là những giáo dân nghèo, sống bằng nghề chài lưới. Nơi ở của gia đình họ là căn nhà tạm bợ dưới chân cầu Bến Thuỷ bắc qua con sông Lam nối hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Cuộc sống bấp bênh, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, vậy mà suốt 20 năm qua, mỗi khi nghe có người nhảy cầu tự tử là họ lại lao ngay xuống dòng nước xiết để cứu, và họ đã cứu được hơn 50 người như vậy. Đó là vợ chồng anh Hoàng Văn Mạnh – chị Đậu Thị Phúc và em vợ, anh Đậu Văn Toàn.

Nhiều người dân chài vẫn kiêng kỵ việc cứu người rơi xuống sông vì tin rằng họ thuộc về Hà Bá, nếu cứu sẽ bị Hà Bá đòi thế mạng. Là người Công giáo, và tin rằng cứu người là việc tốt, nếu thấy chết mà không cứu thì càng áy náy hơn nên anh Mạnh, anh Toàn và chị Phúc đã vượt qua nỗi sợ “Hà Bá” và sông sâu, nước xiết, liều mình bơi chiếc xuồng nhỏ ra giữa dòng cứu người bị nạn lên bờ. Những người được cứu thì già, trẻ, lớn, bé có đủ và lý do họ chọn cách tự tử cũng rất nhiều: nghèo khổ, nợ nần, giận chuyện gia đình, điểm thấp, có thai ngoài ý muốn… Sau khi được cứu sống và được anh chị ân cần tâm sự, khuyên giải, họ hối hận và từ bỏ ý định kết thúc cuộc đời. Có người bỏ đi không lời cám ơn, nhưng cũng có người coi anh chị như ân nhân, thường quay lại báo đáp.

Nhưng vẫn có những lần dù cố gắng hết sức mà lực bất tòng tâm, như vụ người cha ôm hai con nhỏ nhảy cầu Bến Thuỷ vừa rồi. Đêm đó ngay mùa lũ, nước sông Lam dâng cao, sóng ngầm dưới chân cầu cuộn xiết, dù anh chị cùng với lực lượng cứu hộ quần thảo cả một khúc sông nhưng không thể nào tìm thấy dấu hiệu sự sống. Họ chỉ có thể giúp đưa thi thể về quê cho gia đình mai táng. Những lần như vậy, anh Mạnh, anh Toàn và chị Phúc ray rứt mãi, cả đêm không ngủ được. Nhưng họ vẫn tiếp tục cứu sống những người khác. Chỉ trong 20 ngày đầu tháng 10, anh Mạnh, anh Toàn và chị Phúc đã cứu được ba người, trong đó có một bé gái 12 tuổi vì bị bạn bắt nạt nghĩ quẩn nhảy xuống sông. Có khi, trong 1 tháng anh chị cứu được 5-7 người. Cả con trai anh Mạnh, chị Phúc cũng tham gia cứu người với gia đình.

Mùa mưa bão năm nay, căn nhà xiêu vẹo của ba anh chị lại bị bão đánh sập một phần, trong nhà chắc chỉ còn cái bàn thờ là nước lũ chưa dâng tới. Thương cho hoàn cảnh của họ, hàng xóm và nhiều mạnh thường quân đã giúp họ tu sửa lại căn nhà bên bờ sông. Nhiều lần anh Mạnh, anh Toàn và chị Phúc muốn chuyển đi nơi khác sinh sống nhưng vì không biết chữ, không biết làm gì ngoài chài lưới nên họ vẫn cứ ở lại khúc sông Lam và cây cầu Bến Thuỷ có nhiều người tự tử này. Nhưng chưa bao giờ họ từ chối việc cứu người, không phải để được ghi ơn hay báo đáp, mà chỉ để sống đúng với lương tâm mình. Có lẽ, ý Chúa cũng muốn họ gắn bó với nơi này để trao cho những người nông nổi, quẫn trí cơ hội thứ hai làm lại cuộc đời.


 

Em trai Hoàng Phủ Ngọc Tường qua đời tại Sài Gòn

Ba’o Nguoi-Viet

October 25, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Ông Hoàng Phủ Ngọc Phan, em trai ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, qua đời tại Sài Gòn, thọ 85 tuổi.

Anh em ông Tường cùng với nhà văn Nguyễn Đắc Xuân, từng bị cho là “đồ tể khát máu” trong vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở thành phố Huế.

Ông Hoàng Phủ Ngọc Phan. (Hình: Thanh Niên)

Theo tờ Thanh Niên hôm 25 Tháng Mười, ông Phan, là nhà văn và còn có bút danh Hoàng Thiếu Phủ, được nhà cầm quyền Việt Nam trao “Huân Chương Quyết Thắng,” “Huân Chương Chống Mỹ Cứu Nước”…

Báo Công An Nhân Dân hồi năm 2013 cho rằng anh em ông Tường cùng với ông Xuân “là những nhân vật nòng cốt của phong trào đấu tranh đô thị ở Huế” và rằng những cáo buộc nhắm vào ba ông này “là sự vu khống tráo trở.”

Bản tin dẫn lời ông Hoàng Phủ Ngọc Phan rằng những tài liệu chỉ trích anh em ông và ông Xuân “đều rặt một luận điệu cũ rích.”

Hồi trung tuần Tháng Bảy, 2023, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, gốc người Quảng Trị nhưng sinh ra ở Huế, qua đời tại Sài Gòn ở tuổi 86 sau một thời gian dài bị bệnh phải ngồi xe lăn.
Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, một trong những nhân vật nổi tiếng chống đối chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) rồi thoát ly lên rừng theo Cộng Sản, bị không ít người lên án phải chịu trách nhiệm vụ thảm sát hàng ngàn quân cán chính và dân lành vô tội khi quân Cộng Sản mở chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân 1968 ở Huế.

Cái làm ông Tường nổi tiếng nhất không phải về tài viết văn làm thơ mà là những tranh cãi về vai trò của ông, người em trai Hoàng Phủ Ngọc Phan, và ông Nguyễn Đắc Xuân, trong vụ thảm sát hàng ngàn người trong cuộc “tổng công kích” Tết Mậu Thân.

Đám tang ông Hoàng Phủ Ngọc Tường diễn ra hồi Tháng Tám, 2023 tại thành phố Huế. (Hình: Thanh Niên)

Nạn nhân của họ không riêng gì quân cán chính địa phương mà còn gồm cả đàn bà, trẻ em cũng bị giết chung. Rất nhiều người bị đập vỡ sọ, bị chôn sống, bị cột chùm với nhau bằng dây kẽm gai rồi đẩy chung xuống hố tập thể. Tài liệu cũ với hình ảnh, bài viết, phim tài liệu thời sự của báo chí, truyền hình, và hồi ký, bằng tiếng Việt và ngoại ngữ, là các bằng chứng không thể chối cãi về sự dã man và độc ác cùng cực của Cộng Sản tại Việt Nam.

Trong khi nhà cầm quyền Việt Nam cho tới giờ này vẫn chối và đổ vạ ngược lại cho Mỹ và VNCH, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số người hiếm hoi, mấy năm trước, nhìn nhận cuộc tàn sát ở Huế Tết Mậu Thân là do Cộng Sản gây ra.

Về phần mình, trong một bức thư gửi qua nhà văn Nguyễn Quang Lập, ông Tường phủ nhận mình có mặt ở Huế khi vụ đại thảm sát diễn ra khi viết rằng mình là “kẻ ngoài cuộc.”

Tuy nhiên, dù ông có trực tiếp nhúng tay vào máu hay không, ông Tường vẫn không phải là “kẻ ngoài cuộc.”

Trước đó, năm 1981, khi trả lời nhóm người làm bộ phim tài liệu truyền hình Mỹ “Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình” của nhà báo Stanley Karnow, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện trong đó, gọi các nạn nhân vụ thảm sát là “những con rắn độc.”

Nhưng khi viết trong bức thư nhờ ông Nguyễn Quang Lập phổ biến trên Facebook năm 2018, sau 50 năm xảy ra vụ tắm máu Mậu Thân, ông Tường viết rằng “hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân là một sai lầm không thể nào biện bác được.”

Đồng thời, ông Tường còn nói ông đã dối trá khi kể lại vụ tắm máu đó như một kẻ tham dự trực tiếp nhưng lại không có mặt. (N.H.K) [đ.d.]


 

CSVN và nhận thức sai lầm, công khai xúc phạm Vua Gia Long

Ba’o Nguoi-Viet

October 24, 2025

Chuyện Vỉa Hè – Đặng Đình Mạnh

Những ngày gần đây, dư luận trong nước sôi nổi tranh luận quanh việc một số cá nhân công khai xúc phạm Vua Gia Long, tức Nguyễn Phúc Ánh, người sáng lập triều Nguyễn, đồng thời là đối thủ chính trị của Hoàng Đế Quang Trung, tức Nguyễn Huệ.

Nhiều ý kiến cho rằng, những lời xúc phạm như vậy là không thể chấp nhận được và cần phải bị xử lý theo pháp luật.

Pháo hoa chào đón năm mới trên bầu trời Đại Nội Huế, năm 2020. (Hình minh họa: Linh Pham/Getty Images)

Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, sự xúc phạm này không chỉ nằm ở hành vi của một vài cá nhân, mà phản chiếu một căn bệnh lịch sử kéo dài nhiều thập niên, khi đã chủ trương áp đặt và bóp méo lịch sử do chính chế độ Cộng Sản trong nước gây ra.

Khi lịch sử bị chính trị hóa

Trong suốt nhiều thập niên qua, lịch sử Việt Nam được viết không phải bởi những học giả độc lập, mà bởi những người phục vụ mục tiêu chính trị của chế độ. Những trang sách giáo khoa, những bài giảng, thậm chí những tượng đài, phim ảnh… của hệ thống tuyên truyền đã khắc sâu trong tâm trí của không ít người dân hình ảnh Vua Gia Long như một tên “tội đồ dân tộc,” một kẻ “cõng rắn cắn gà nhà,” “rước voi về dày mả tổ.”

Trong khi đó, lại thần thánh hóa Vua Quang Trung như một biểu tượng duy nhất của chủ nghĩa anh hùng dân tộc, với “áo vải, cờ đào” để đối lập lại với hình ảnh Vua Gia Long.

Cách diễn giải lịch sử một chiều, thiếu khách quan đó không chỉ biến sử học thành công cụ tuyên truyền và giáo dục, mà còn tước đi của người dân quyền được hiểu biết trung thực về quá khứ, về lịch sử của chính dân tộc mình. Người dân chỉ được dạy phải yêu ai, ghét ai, tin ai, và khinh ai… theo đúng định hướng chính trị của chế độ, chứ không được học cách đặt nghi vấn dựa trên dữ kiện có thật của lịch sử.

Sự đảo chiều của nhận thức và trách nhiệm

Đến nay, khi Việt Nam đã bước vào thời kỳ hội nhập, khi thông tin không còn bị bưng bít, nhiều nhà nghiên cứu, học giả độc lập đã chỉ ra rằng cách nhìn nhận về Vua Gia Long trong suốt nhiều thập niên qua là sai lầm nghiêm trọng.

Vua Gia Long, tức Nguyễn Phúc Ánh, không chỉ là người có công thống nhất giang sơn sau hơn hai trăm năm chia cắt, bị chia cắt Đằng Trong – Đằng Ngoài, mà còn là người đặt nền móng cho một nhà nước phong kiến tập quyền hiện đại nhất Đông Nam Á đầu thế kỷ XIX, xây dựng luật pháp, hệ thống hành chính, thuế khóa và ngoại giao một cách hết sức bài bản. Những đóng góp ấy từng bị cố tình lãng quên, thậm chí bị bôi nhọ.

Đến khi sự thật được phục hồi, chế độ chỉ âm thầm sửa sai bằng cách phục hồi tên đường, tu bổ lăng mộ một số nhân vật lịch sử triều Nguyễn. Thế nhưng, chế độ hoàn toàn tránh né mọi sự đối thoại công khai về trách nhiệm của mình trong việc làm sai lệch nhận thức lịch sử của hàng triệu con người, trải qua nhiều thế hệ.

Điều đáng nói là sai lầm về lịch sử không phải lỗi của người dân, mà là lỗi của bộ máy tuyên truyền và giáo dục của chế độ. Trong đó, người dân chỉ là sản phẩm của nền giáo dục và tuyên truyền một chiều đó. Người dân đã tin điều được dạy và ngày nay, họ lặp lại điều được dạy mà đôi khi không biết rằng mình đang xúc phạm đến tiền nhân, đến lịch sử dân tộc. Thậm chí, trái lại, họ cho rằng mình đang bảo vệ “sự thật” về lịch sử.

Nói khác, họ chỉ đang hành động theo niềm tin sai lầm mà chế độ đã gieo vào nhận thức của họ. Nếu vậy, việc chỉ trừng phạt người dân mà không thừa nhận sai lầm của chế độ là bất công và giả dối.

Lịch sử không có chỗ cho sự thù hận

Quang Trung và Gia Long, hai nhân vật lịch sử kiệt xuất trong lịch sử, họ đều là sản phẩm của thời đại và đều hành động theo niềm tin và bối cảnh lịch sử riêng. Mọi sự phán xét họ bằng tiêu chuẩn đạo đức của thế kỷ XXI đều không phù hợp.

Nếu Vua Quang Trung đại diện cho tinh thần phản kháng và ý chí độc lập từ phía Tây Sơn, thì Vua Gia Long lại đại diện cho sự thống nhất và tái thiết quốc gia sau nội chiến. Hai vị vua ấy là hai mặt của cùng một đồng xu/lịch sử Việt Nam, một bên là khát vọng độc lập, bên kia là khát vọng thống nhất.

Vì thế, lịch sử cần được nhìn bằng con mắt bao dung, khách quan và trí tuệ về bối cảnh lịch sử, chứ không thể bằng cảm xúc chính trị nhất thời.

Điều sai lầm lớn nhất không phải là sự tranh luận giữa hai phe Quang Trung – Gia Long trong công chúng, mà là việc chế độ từng áp đặt một “chính sử” duy nhất, buộc dân chúng phải tin vào một phiên bản lịch sử được tô vẽ theo cách thiếu khách quan và không trung thực.

Khi nhận trách nhiệm trở thành thước đo văn minh

Nếu một chính quyền thực sự muốn xây dựng một xã hội văn minh, tôn trọng pháp luật, thì trước khi xử lý những cá nhân xúc phạm nhân vật lịch sử, họ phải dũng cảm đối diện với trách nhiệm đạo đức của mình, công khai xin lỗi về việc từng xuyên tạc lịch sử.

Một lời xin lỗi không làm giảm uy tín của chế độ, mà trái lại, nâng tầm trí tuệ và nhân cách của quốc gia. Điều có giá trị như của hiếm hiện nay. Nhiều quốc gia trên thế giới đã làm như vậy, Nhật Bản xin lỗi về tội ác chiến tranh; Đức quốc xin lỗi về Holocaust; Canada xin lỗi thổ dân vì những chính sách đồng hóa. Những lời xin lỗi ấy không chỉ mang tính biểu tượng, mà còn giúp xã hội hàn gắn vết thương, phục hồi sự thật, và tái thiết lòng tin.

Còn ở Việt Nam, một lời xin lỗi, nhận trách nhiệm về cách tuyên truyền và giáo dục sai trái trong quá khứ, về việc biến một vị vua có công với dân tộc thành kẻ tội đồ, cũng chính là một hành động khai phóng. Nó chứng tỏ chế độ đã đủ trưởng thành để chấp nhận sai lầm, và đủ bản lĩnh để đặt chân lên con đường văn minh thật sự.

Nhật Hoàng Akihito và Hoàng Hậu Michiko đến thăm hoàng cung Huế, Tháng Ba, 2017. (Hình minh họa: HOANG DINH NAM/AFP via Getty Images)

Xử lý công bằng phải bắt đầu từ nhận thức đúng

Nếu chế độ đã từng gieo mầm sai lầm về lịch sử cho người dân qua giáo dục, tuyên truyền, thì trách nhiệm đầu tiên không phải là “trừng trị” những người xúc phạm nhân vật lịch sử, mà là chấn chỉnh lại toàn bộ nhận thức lịch sử quốc gia về hàng loạt sự kiện lịch sử. Dĩ nhiên, phải bao gồm cả sự kiện nội chiến huynh đệ tương tàn, kết thúc vào ngày 30 Tháng Tư 1975 và diễn biến sau đó.

Phải công khai nhìn nhận những giai đoạn tuyên truyền và giáo dục sai trái; Phải cải tổ chương trình giảng dạy lịch sử, tôn trọng sự đa chiều của nghiên cứu học thuật; Và quan trọng hơn, phải xin lỗi công khai vì đã khiến người dân hiểu sai trong suốt nhiều thế hệ.

Chỉ khi làm được điều đó, chế độ mới tạo dựng được nền tảng đạo đức và pháp lý để xử lý những hành vi xúc phạm lịch sử đang xảy ra. Bởi khi chế độ là nguồn gốc của sự sai lầm, thì công lý không thể chỉ áp dụng đối với người dân sai lầm.

Tóm lại, sự thật lịch sử không thể bị giam trong khuôn khổ của ý thức hệ. Theo đó, Vua Gia Long và Vua Quang Trung, hai con người từng ở hai chiến tuyến đến mức “Rừng không thể hai cọp, nước không thể hai vua,” thì giờ đây, đều là những trang lịch sử chung của dân tộc Việt Nam.

Nếu chế độ còn để sự thù hận, thiên kiến hoặc tuyên truyền và giáo dục chính trị xen vào việc giảng dạy và nhận thức về lịch sử, thì không chỉ là sự xúc phạm hai vị vua, mà còn phản bội lại trí tuệ và phẩm giá của cả dân tộc được hun đúc, kế thừa từ lịch sử ấy.

Do đó, một lời xin lỗi, nhận trách nhiệm từ chế độ hôm nay, về những sự tuyên truyền và giáo dục sai lầm trong quá khứ, không chỉ là trách nhiệm lương tâm, mà còn là món nợ phải trả cho quá khứ.

Tôi, tác giả, với sự hiểu biết về chế độ Cộng Sản trong nước, không tin rằng họ đã chuẩn bị gì cho một tâm thế đầy trách nhiệm như thế. [kn]


 

“Giúp đỡ ông già 70 tuổi”, “Con tôi bị ung thư…Cảm ơn.”

Lê Linh 

Giữa dòng xe ken đặc trên đường Đoàn Văn Bơ, phường Xóm Chiếu, TP.HCM (khu vực trước đây thuộc quận 4), một ông lão tóc bạc ngồi tựa lưng vào cột điện, tay cầm cây tiêu gỗ. Tiếng nhạc trầm, chậm rãi, len qua khói xe và tiếng còi buổi sáng.

Trước mặt ông là hai tấm bảng cũ, ghi dòng chữ nguệch ngoạc:

“Giúp đỡ ông già 70 tuổi”, “Con tôi bị ung thư…Cảm ơn.”

Bên cạnh là chiếc nón lá úp ngược, vài tờ tiền lẻ gói trong túi xách đen.

Mình dừng xe, ghé lại hỏi vài câu, nhưng ông không đáp. Một người bán nước gần đó nói nhỏ: “Ông bị nặng tai”. Mình chỉ kịp gửi vội ông ít ngân lượng có được, rồi lại hòa vào dòng người vì có hẹn. Đoạn đường này thường xuyên kẹt, nên mình chưa biết ông tên gì, nhà ở đâu, có thổi tiêu bao lâu rồi.

Tiếng tiêu của ông không kéo dài, cũng không cầu kỳ. Giữa muôn nỗi lo đầu ngày, tiếng tiêu của ông như liều thuốc khiến người ta lặng đi vài giây, thấy mình đang sống chậm lại giữa Sài Gòn vẫn cuồn cuộn.

Cre: Phong Bụi


 

 RƠI!

Đặng Nam is with Exile Hoài Thạch Sơn.

 RƠI!

Thứ trưởng Bộ Giáo dục Lê Hải An chết do rơi từ tầng 8 xuống đất. Ông Lê Hải An là người ký quyết định kỷ luật một số cán bộ vi phạm, chạy điểm, tuy nhiên sau đó bị Bộ trưởng Nhạ hủy bỏ quyết định này.

Tháng 8 năm 2019, ông Phạm Văn Khương – phó giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội bị rơi xuống đất từ tầng 27 của tòa nhà Vinaconex 1 (quận Cầu Giấy).

Ngày 16/01/2019, Phòng Cảnh sát Hình sự (Công an tỉnh Quảng Nam) thông tin, ông Phan Tấn Nghị – Phó Chánh Thanh tra tỉnh Quảng Nam – tử vong là do rơi từ tầng 3 của trụ sở này xuống đất tử vong.

Ngày 29/10/2018, Nữ cán bộ y tế Bệnh viện đa khoa tỉnh Tiền Giang tử vong sau khi nhảy từ lầu 2 tại bệnh viện.

Ngày 13/7/2016, Công an tỉnh Đồng Tháp cho biết, thượng tá Huỳnh Hữu Khiêm (52 tuổi, Phó phòng Hậu cần) đã rơi lầu 6 của trụ sở tử vong.

Ngày 4/11/2016, ông Lê Hoàng Vân. (46 tuổi, ngụ Bình Dương),cán bộ công ty nhà nước rơi từ lầu 4 trường ĐH Bình Dương (P.Hiệp Thành, TP.Thủ Dầu Một, Bình Dương) xuống đất tử vong.

Ngày 12/10/2015, chị Nguyễn Thị Thanh (34 tuổi, cán bộ thư viện Trường ĐH Đồng Tháp) đã rơi từ lầu 5 của trường và tử vong tại chỗ.

Ngày 09/12/2012, Ông Lê Quốc Thái Cán bộ Sở GTVT Khánh Hòa rơi từ tòa nhà 6 tầng của Sở GTVT tỉnh xuống sân ở vị trí gần đường Hàn Thuyên, nằm bất động trên vũng máu.

Ngày 5/10/2011, ông Trương Mạnh Tuấn (51 tuổi, ở phường Phước Hải, TP Nha Trang, Khánh Hòa) bị rơi từ tầng 2 của trụ sở Công an phường Phước Hải.

Còn rất nhiều vụ cán bộ “tự tử” bằng vũ khí tại nhà riêng như vụ thiếu tá Nguyễn Văn Thanh (55 tuổi, cán bộ Phòng Hậu cần) tự sát bằng súng tại nhà riêng vào ngày 25/6/2016.

CÒN NHỮNG NGƯỜI TỬ TẾ:

Nhà báo chống tham nhũng Trần Quang Thanh bị tạt acid khiến dung mạo bị dị dạng, thân thể bị hủy hoại 81%.

Nữ phóng viên Đặng Tuyền (bút danh Hải Đường) phóng viên báo Pháp luật TP.HCM, bị tử vong tại bến đò thôn 1, xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì.

Phóng viên báo Tuổi Trẻ Hoàng Khương, tác giả của bài điều tra về hành vi nhận hối lộ bị tuyên án 4 năm về tội đưa hối hộ…

MỘT ĐẤT NƯỚC ĐANG RƠI!


 

Câu chuyện của Trịnh Bá Phương

Kim Dao Lam

 Fb Cinta Bali Anda L

Câu chuyện của Trịnh Bá Phương và Đỗ Thị Thu (Thu Đỗ ) không chỉ là bi kịch của một gia đình bị đàn áp, mà là bản hùng ca về ý chí không khuất phục.

Dù bị tù đày, Trịnh Bá Phương vẫn giữ ánh mắt kiên định, không chấp nhận lùi bước trước bất công. Việc anh chính thức kháng cáo là hành động khẳng định quyền con người – quyền được nói lên sự thật và đòi hỏi công bằng.

Trong mười phút ngắn ngủi được gặp chồng, chị Đỗ Thị Thu không chỉ là người vợ đến thăm người thân bị giam, mà là người truyền lửa.

Chị đã mang đến cho anh niềm tin rằng cộng đồng vẫn dõi theo, rằng những gì anh làm không vô nghĩa. Sự điềm tĩnh, kiên gan của chị giữa bão tố cho thấy tình yêu không chỉ là cảm xúc, mà còn là một hình thức của đấu tranh – đấu tranh để giữ phẩm giá, giữ công lý cho người mình yêu.

Giữa bức tường sắt lạnh của nhà tù, hai con người ấy vẫn gặp nhau trong tự do của tâm hồn.

Họ chứng minh rằng tự do không phải là ân huệ ban phát, mà là quyền thiêng liêng mà con người phải kiên quyết giành lấy, dù bằng nước mắt hay bằng lòng can đảm.

Đó không chỉ là tình yêu giữa vợ và chồng – mà là tình yêu với công lý, với nhân phẩm, với Tổ quốc.

Ngọn lửa không tắt

Câu chuyện của họ là niềm cảm hứng cho những ai đang sống trong sợ hãi: rằng chỉ cần một người dám đứng lên, hàng ngàn trái tim sẽ nối theo.

Đỗ Thị Thu không đơn độc. Trịnh Bá Phương không gục ngã.

Ngọn lửa của họ vẫn đang cháy sáng, soi đường cho một ngày mai nơi tự do không còn là giấc mơ, mà là hiện thực được giành lại bằng lòng quả cảm và tình người.

Tự do không phải là ban phát.

Tự do là kết quả của những con người như họ – những người dám đứng, khi kẻ khác cúi đầu.


 

Con ơi, mẹ sẽ chờ con về!

Võ Hồng Ly

 21.10.2025

Nhật ký thăm tù của cô Nguyễn Thị Huệ, mẹ của người thanh niên yêu nước Huỳnh Đức Thanh Bình :

Cả tuần Sài Gòn mưa dầm. Hôm nay, 21/10/2025, mẹ đi thăm con Huỳnh Đức Thanh Bình ở trại giam Xuân Lộc lại là ngày nắng đẹp, thật là may mắn!                                                                                                                  

Với mẹ những lần thăm gặp con là một lần hạnh phúc, nhìn con khoẻ mạnh nở nụ cười khi nói chuyện với mẹ là bao mệt nhọc tủi buồn như tan biến. Con ơi, mẹ đếm từng ngày mong con về: còn gần 1.000 ngày nữa.                                                                                                   

Con và các chú, các anh gởi lời cảm ơn chị HLy và Nhạc sỹ TKhanh đã gởi thuốc, gởi dầu nóng cho anh em. Con kể từng món quà con nhận từ gói chà bông, đậu phộng rang của chú Tuyến đến hộp tóp mở nước mắm của chị Mai Trần, cá đù của chị Châu và cá một nắng của cô Bảo Liên… đều thấm đẫm tình thương yêu và sự quan tâm đến con và các chú, các anh chú. Còn nhiều nữa những sự quan tâm mà không sao kể xiết.                                                                           

Hôm nay mẹ kể về món quà thịt bò xào của cô Thu Vang. Cô mới ra tù chỉ khoảng hơn năm, buổi sáng bán thịt bò ở một chợ nhỏ, chiều cô giúp việc nhà theo tiếng. Cô đang ở nhà thuê nhưng tấm lòng dành cho con và các anh em trong đó thiệt là sâu nặng. Mẹ nhận 1,5 ký thịt bò từ cô, nhìn sự tảo tần và giọt nước mắt khi cô nói về con và các anh em, lòng mẹ thiệt sự xúc động… những món nợ ân tình này lớn quá, suốt cuộc đời mẹ con mình không trả nổi!                                                                                   

Mẹ kể chuyện về án tù “thêm 11 năm” của anh Phương. Nhìn ánh mắt thảng thốt của con, mẹ chỉ khuyên con thận trọng và thầm nguyện cầu cho gia đình cậu ấy được bình an. Bởi ngày cậu ấy ra tù thì đứa con mới sinh khi Phương bị bắt đã tròn 21 tuổi, còn gì đau xót bằng!                                               

Giữa những thị phi tranh chấp, những bất công phi lý vẫn còn những khoảng lặng bình an, những tốt đẹp giữa những con người với nhau, mẹ con mình biết ơn vì những duyên lành, những điều nhỏ nhoi đơn giản và dù chỉ là cỏ dại vẫn cố vươn về ánh sáng để nở những nhành hoa.                                                  

Con ơi, mẹ sẽ chờ con về!


 

Ngân 98 và chiếc bẫy của Bộ Công an: Ai mới thật sự phạm tội?

Thai Pham

Chan Dung Lanh Dao

Ở Việt Nam, làm doanh nhân không chỉ là chuyện kinh doanh,  đó là một cuộc chơi sinh tồn trong ranh giới mong manh giữa luật pháp và quyền lực. Người ta phải đổ mồ hôi, trí tuệ, thậm chí cả “mưu mẹo” để tồn tại trong một hệ thống mà luật đôi khi chỉ là công cụ phục vụ cho phe mạnh hơn. Và khi đã “béo” đủ, khi có tiền, danh, hoặc tiếng, họ có thể bị “thịt” bất cứ lúc nào.

Vụ Ngân 98 chỉ là một lát cắt của cả cơ chế đó. Cô bị bắt vì bán thực phẩm chứa chất cấm, nhưng nghịch lý ở chỗ: mọi sản phẩm của cô đều có giấy phép, chứng nhận, kiểm nghiệm, tất cả đều do chính cơ quan nhà nước cấp. Nếu sản phẩm thật sự độc hại, thì lỗi nằm ở ai? Ở người kinh doanh, hay ở hệ thống đã cấp phép, kiểm định, và thu phí từ nó suốt nhiều năm?

Câu hỏi khó chịu hơn: tại sao 5 năm qua không ai động đến? Phải chăng vì cô vẫn “đóng phí bình thường”? Phải chăng vì đến một thời điểm nào đó, khi cần một “con dê tế thần”, một “vụ án điểm”, hoặc một màn dằn mặt trong nội bộ quyền lực, thì cái tên Ngân 98 được rút ra khỏi ngăn kéo?

Đây không còn là câu chuyện riêng lẻ. Những vụ việc từ Thùy Tiên, Quang Linh Vlog đến Shark Bình đều cho thấy một quy luật âm thầm: khi pháp quyền không minh bạch, doanh nhân chỉ là quân cờ. Người nào “biết điều” thì sống, người nào “lên tiếng” hoặc “chạm phe” thì bị xử lý,  nhân danh “chống sai phạm”.

Đó không phải là pháp trị, mà là pháp quyền có chọn lọc — nơi quyền lực điều khiển luật pháp, chứ không phải ngược lại.

Ở các quốc gia thật sự có pháp quyền, một vụ việc như Ngân 98 sẽ dẫn đến điều tra cả hệ thống: ai cấp phép, ai kiểm định, ai giám sát. Nhưng ở Việt Nam, chỉ có “người nhỏ” bị trói tay, còn “người cấp phép” thì lặng lẽ biến mất khỏi radar.

Khi công lý không còn là cán cân, mà là con dao, thì doanh nhân không còn làm kinh tế, họ đang chơi trò sinh tồn trong chuồng mổ của quyền lực. Và trong trò chơi ấy, ai “được nuôi” hôm nay, sẽ “bị thịt” vào ngày mai.

Chân dung lãnh đạo

#chandunglanhdao


 

NÓI VỚI CÁC BẠN AN NINH CỘNG SẢN – Đặng Đình Mạnh

Chân Trời Mới Media

Đặng Đình Mạnh

Có lẽ, trong cuộc sống hôm nay, giữa bao nhiêu âm thanh hỗn độn của thời cuộc, những lời nói thẳng thắn thường sẽ là thứ khó nghe nhất. Tôi biết điều đó. Nhưng có những điều, nếu không nói ra, thì sẽ mãi là sự vô trách nhiệm, sự im lặng nhức nhối giữa những con người gọi nhau là đồng bào được sinh ra từ cùng một quê hương, xứ sở.

Cho nên, tôi xin phép nói đôi lời với các bạn an ninh.

Tôi bình thường, và đã từng là một luật sư vô danh bình thường trong hàng vạn luật sư đang hành nghề trên khắp miền đất nước. Có lẽ khác chăng là tôi chọn hành nghề theo cách mà phần đông đồng nghiệp bĩu môi, chê bai không làm là bảo vệ cho các tù nhân chính trị, dân oan. Vô tình, cách hành nghề ấy lại chạm vào lĩnh vực mà các bạn – những người làm công tác an ninh – đặc biệt quan tâm.

Và thế là tôi trở thành khách mời bất đắc dĩ uống trà, cà phê cùng các bạn không ít lần. Nhờ những lần gặp gỡ đó, tôi có dịp quan sát các bạn gần hơn, không chỉ qua hình ảnh của người mặc sắc phục, mà là qua ánh mắt, lời nói, nụ cười, cả những nỗi băn khoăn rất con người đằng sau bộ sắc phục.

Phần lớn các bạn, những người mà tôi tiếp xúc đều rất thông minh, nhạy cảm. Tôi nhớ, điểm tuyển sinh vào các trường an ninh, công an thường luôn ở mức cao. Có vẻ như, những người giỏi giang nhất, mạnh khỏe nhất trong thế hệ trẻ đã chọn ngành của các bạn để lập thân với niềm tin rằng đang góp phần bảo vệ xứ sở của chúng ta.

Thế nhưng, cuộc đời, như chúng ta đều biết, hiếm khi giống với các giấc mơ.

Một lần, tại phòng làm việc ở gần cổng số 235 Nguyễn Văn Cừ, giữa giờ nghỉ ít phút, C., một bạn trẻ bất ngờ cao giọng nói với tôi: “Sao bất công quá, tôi làm người bảo vệ đất nước này, mà sao nhiều người lại không thiện cảm với tôi?”

Tránh câu trả lời trực diện, tôi đáp: “Anh biết lý do mà!”. Có lẽ nghĩ rằng mình hớ sau câu hỏi có vẻ quá riêng tư và bộc lộ về mình, nhất là trong căn phòng có gắn camera theo dõi, nên C. im bặt.

Cuộc đời không như mơ đối với các bạn lúc này. Phần thưởng là những ưu quyền mà Đảng dành cho bạn như bả vật chất, bả quyền lực để các bạn hãnh diện, hách dịch lên mặt với nhân dân đều có mặt trái, là sự hoang mang, sợ hãi trong tâm trí các bạn và sự khinh rẻ của nhân dân.

Vì lẽ, dù thông minh, nhưng sự tuyên truyền của Đảng đã làm các bạn mờ mắt, thay vì các bạn ngộ nhận, tưởng rằng mình là người sáng mắt nhất, là người khôn ngoan nhất, đang gánh vác trọng trách vinh quang nhất. Đảng đã trộn lẫn đất nước, tổ quốc, nhà nước, chính quyền, chính phủ, Đảng, nghị quyết, Hiến pháp… vào chung một bệ thờ, rồi choàng nó như một thánh tích vào đôi vai của các bạn, rồi bảo “Còn Đảng, còn mình”. Các bạn đã tin đó là lời thánh và đã ra sức đàn áp nhân dân để bảo vệ thánh tích.

Đàn áp nhân dân! Quá dễ để mà thực hiện. Vì sau ngần ấy năm cai trị bằng bàn tay sắt máu, thất nhân tâm, nhân dân đã nhũn mình như con chi chi. Chưa kể, các bạn còn được giao quyền, giao súng, giao luôn cả thú tính, để nếu cần thực thi “nghiệp vụ” ngành.

Sau đàn áp, đất nước đã trở nên hình hài gì?

Có bao giờ, cả đất nước như một trại tập trung của quân phát xít? Có bao giờ, đến cả than thở cũng phải nhìn trước, ngó sau? Có bao giờ, chỉ chí thú làm ăn mà cũng phải lo cướp ngày, cướp đêm, cướp ngoài chợ, cướp trên đường bởi những kẻ có thẻ ngành? Có bao giờ, đất nước tham ô, tham nhũng nhung nhúc như thế? Có bao giờ, bất công tràn lan, dân oan tràn khắp, xã hội chỉ còn biết tôn trọng quyền và tiền? Có bao giờ, người hành xử với người mà như thú hoang, kể cả trong gia đình, học đường, ngoài xã hội? Có bao giờ, dòng người tìm mọi cách trốn chạy khỏi đất nước đã từng dừng lại trong 50 năm qua? Có bao giờ, đất nước tan hoang đến tận cùng như ngày hôm nay? Có bao giờ? Có bao giờ?…

Và có bao giờ, các bạn đã thấy rằng mình vô tình hoặc hữu ý góp công tạo nên sự tan hoang đó?

Nhân dân có thể không thông minh bằng các bạn, nhưng may mắn, nhân dân không bị nhiễm tuyên truyền đến mức để nhầm lẫn những thứ đặt trên bệ thờ của chế độ là một.

Rằng đất nước, tổ quốc là của nhân dân, không phải là của riêng của đảng phái nào cả, kể cả Đảng. Cho nên, Đảng không có tư cách độc quyền về đất nước, tổ quốc.

Rằng nhà nước là thực thể bất biến, dù chế độ có thể thay đổi từ Quân chủ Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa hoặc Cộng Sản Việt Nam. Cho nên, chế độ Cộng Sản Việt Nam có sụp đổ thì vẫn có chế độ khác thay thế và dù chế độ nào thay thế, vẫn sẽ tốt lành hơn chế độ mà các bạn đang phụng thờ, bảo vệ.

Rằng chính quyền chính danh phải được thiết lập từ lá phiếu bầu cử tự do thể hiện nguyện vọng của người dân, do người dân quyết định. Chứ không phải từ “Cướp chính quyền”, hoặc từ các kỳ đại hội đảng mà nhân dân chỉ là kẻ đứng ngoài lề như khán giả.

Cho nên, dù có “Cướp chính quyền”, có “Đại hội đảng” thì lẽ ra, vẫn phải khôi phục lại bầu cử tự do để có một chính quyền chính danh trước nhân dân và trước thế giới văn minh.

Rằng chính phủ là bộ máy điều hành đất nước vì lợi ích nhân dân, chứ không phải vì lợi ích đảng phái. Trong đó, quân đội là lực lượng bảo vệ đất nước trước ngoại bang và cảnh sát là lực lượng giữ gìn trật tự trị an trong nước.

Ngày nào còn đất nước, còn nhân dân là còn quân đội, còn cảnh sát. Cái gọi “Còn đảng, còn mình” chỉ là sự tiếm quyền phản động, lũng đoạn chính phủ và là lý lẽ của kẻ ngụy biện. Vì lẽ, Đảng có giải tán thì lực lượng quân đội, cảnh sát trong một quốc gia vẫn cần phải được duy trì vì sự cần thiết của các lực lượng này trong một quốc gia.

Rằng nghị quyết là văn bản nêu ý chí của một đảng phái, một nhóm người, chứ không phải là ý chí của nhân dân. Cho nên, nghị quyết chỉ có giá trị trong đảng, trong nhóm. Nghị quyết không có giá trị với nhân dân và càng không có quyền đứng trên hiến pháp. “Nghị quyết đứng trên hiến pháp” là quan điểm phản động, là sự phá hoại mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền.

Rằng hiến pháp được ban hành từ quốc hội, mà quốc hội ấy được hình thành từ bầu cử tự do, thì hiến pháp ấy mặc nhiên là văn bản pháp lý cao nhất, chi phối mọi hành xử trong quốc gia, là cơ sở của một nhà nước pháp quyền. Theo đó, nhân dân có quyền tham chiếu hiến pháp để thực hiện các quyền công dân mà không cần chờ văn bản hướng dẫn thi hành từ chính phủ.

Nhân dân hiểu tất cả những điều nêu trên. Thông minh như các bạn còn hiểu điều đó nhanh hơn, chính xác hơn nhân dân. Trừ phi, các bạn cố tình nhắm mắt để bảo vệ Đảng, bảo vệ đặc quyền mà Đảng trả công cho các bạn.

Các bạn thừa biết, đặc quyền của các bạn đều phải đánh đổi bằng đồng lương còm cõi mà tất cả các ngành khác đang phải gánh chịu.

Các bạn thừa biết, việc tăng quân số một cách bất thường trong lực lượng an ninh, công an đã lên đến một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ bác sỹ, giáo viên… trên dân số quốc gia.

Các bạn thừa biết, lực lượng an ninh, công an đã chi tiêu những nguồn lực khổng lồ trong ngân sách quốc gia vốn như một giòng sông đang cạn trơ đáy.

Các bạn thừa biết, để nuôi lực lượng an ninh, ngành công an phải chiếm dần các ngành nghề “hái ra tiền” trong đất nước.

Các bạn thừa biết, nhân danh an ninh, cán bộ an ninh chiếm giữ dần các chức vụ chính quyền, đẩy những nhà kỹ trị ra ngoài chuyên môn của họ. Biến chính quyền thành một bộ máy an ninh khổng lồ.

Các bạn thừa biết, tuy lực lượng an ninh ngày càng gia tăng về số lượng, nhưng trật tự trị an vẫn ngày càng kém cỏi.

Các bạn thừa biết, nhân dân đã oán ghét chế độ mà các bạn đang bảo vệ đến dường nào. Và dĩ nhiên, các bạn cũng biết, nhân dân đang nghĩ gì về các bạn.

Các bạn thừa biết quy luật “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” thì với một chế độ tham tàn, thất nhân tâm, nhân dân sẽ đẩy hay lật con thuyền?

Hôm nay, nhân dân nhũn như con chi chi để đổi sự tạm yên thân. Nhưng bạn có nghĩ, khi có cơ hội, thì họ có băm vằm các bạn ra không? Hãy nghĩ đến ngày đó. Hãy nghĩ đến con cái bạn và nhìn vào mắt chúng tự hỏi rằng: “Bạn có muốn chúng sống cuộc đời sợ hãi như bạn? Bạn có muốn chúng sống trong một xã hội mà con người hành xử với nhau như thú hoang? Và, bạn có muốn chúng sống trong đất nước tan hoang như thế này?”.

Ngẫm thêm, Đảng nói “Còn Đảng, còn mình”, như thủ đoạn để lung lạc suy nghĩ của các bạn theo hướng giữa các bạn và Đảng có mối quan hệ “Đồng sinh, đồng tử”. Thực tế, vắt tay lên trán, cán bạn có nghĩ rằng Đảng tin cậy các bạn đúng như mối quan hệ “Đồng sinh, đồng tử” đấy không?

Nếu Đảng tin cậy các bạn, tại sao Đảng lại cấm các bạn xuất cảnh? Phải chăng Đảng không muốn các bạn thấy rằng thế giới bên ngoài đã văn minh đến mức độ nào so với đất nước mà Đảng đang tiếm quyền? Rằng Đảng đã tuyên truyền dối trá như thế nào về hiện tình thế giới bên ngoài? Phải chăng Đảng muốn giữ các bạn trong sự “ngu dân” vĩnh viễn để dễ bề dối trá, thao túng, lợi dụng?

Thông minh như các bạn là để cứu quốc, để kiến quốc, để tạo dựng lại niềm tin, niềm hy vọng… cho quê hương xứ sở, chứ không phải để làm kẻ ngu trung, làm công cụ cho tập đoàn tội ác và phản động.

Các bạn đã từng biết về số phận bi thảm của những kẻ độc tài đầu sỏ, như hai vợ chồng Ceaușescu của Nam Tư, Gaddafi của Libya, Saddam Hussein của Iraq; Hoặc ít ra, cũng phải trốn chui, bỏ chạy trước cơn căm giận của đồng bào mình để sống đời lưu vong như Ben Ali của Tunisia, Assad của Syria, Sheikh Hasina của Bangladesh, K.P.Sharma của Nepal…

Nếu còn chút tự trọng, hãy đứng về phía nhân dân, vì chỉ có nhân dân mới luôn luôn là người ở bên các bạn.

Và nếu một ngày nào đó, chế độ này sụp đổ – như quy luật về tất cả các chế độ độc tài phải sụp đổ – thì ít ra, trong trang sử của dân tộc, vẫn còn chỗ cho những người lính an ninh biết quay đầu đúng lúc, biết chọn xứ sở, chọn phẩm giá, thay vì chọn Đảng.

Tỉnh lại đi các bạn, để mà còn cứu lấy nhân phẩm của chính mình, cứu lấy tương lai tốt lành cho con cháu mình, cứu lấy đất nước tội nghiệp, khốn cùng của chúng ta. Nếu không, ngẫm xem, xứ sở mấy nghìn năm văn hiến, lịch sử vẻ vang đến thế, không ngờ, nó sẽ biến mất trong thế hệ chúng ta phải không các bạn?

Hoa Thịnh Đốn, ngày 11 Tháng Mười 2025

Đặng Đình Mạnh


 

SỰ TÀN BẠO VÔ GIỚI HẠN

Luân Lê

SỰ TÀN BẠO VÔ GIỚI HẠN

Nhìn hình ảnh cháu bé bị đánh đập và tra tấn man rợ khiến tôi bủn rủn chân tay. Theo tin bé bị tên cha dượng tra tấn với thời gian dài khi vết thương mới hằn lên vết thương cũ (dày đặc). Xét về sự tàn bạo thì đây hẳn là điều hiếm có thể thấy xưa nay (hắn còn dùng búa đập vào đầu bé). Nhưng xét về hiện tượng bạo lực trong xã hội hiện nay có thể thấy chúng ta đều không bình thường về tâm thần. Sự bạo lực man rợ ở mọi mặt và trong mọi ngành đều có cả.

Thật khiếp đảm với cảnh tượng mà ngay cả loài thú vật cũng sẽ không làm một cách tương tự như trong trường hợp này. Trước đó một bé đã từng bị dì ghẻ và cha đẻ bạo hành tới chết ở TP HCM, cũng mới đây cha đẻ đánh con ruột một cách tàn nhẫn ở Hưng Yên (Thái Bình cũ), mấy bữa trước thì người vợ phải giết chồng vì bị đánh đập nhiều lần rồi hắn còn đe doạ giết cả hai con ở Đà Nẵng, gần hơn thì kẻ làm bố giết hai con bằng cách mang con ra sông để nhảy tự tử ở Nghệ An, nay bé bị tra tấn như hình ảnh thương tâm này được cho là ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

Trông thôi ta đã không thể không rùng mình thay cho bé, vì ai sẽ chịu đựng được cảnh bị đánh đập tàn khốc này trong thân thể một đứa bé đây chứ? Nếu không trừng trị bằng nhiều năm tù với loại tội bạo lực và bạo hành thì những cảnh này sẽ còn tiếp diễn trong các gia đình, và cần phải ngay lập tức thay đổi cả tiêu chí đánh giá, cách tiếp cận trong giải quyết cũng như các biện pháp can thiệp của những vấn đề bạo hành trong nhận thức một cách có hệ thống.

Xót xa và thật sự kinh hoảng quá.