Blogger Điếu Cày được đề cử nhận giải nhân quyền Vaclav Havel

Blogger Điếu Cày được đề cử nhận giải nhân quyền Vaclav Havel

Blogger Điếu cày (G) từng biểu tình tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007, phản đối Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Ảnh tư liệu (Nguồn rsf.org)

Blogger Điếu cày (G) từng biểu tình tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007, phản đối Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Ảnh tư liệu (Nguồn rsf.org)

Thụy My

Blogger Điếu Cày tức Nguyễn Văn Hải hiện đang thụ án 12 năm tù giam về tội tuyên truyền chống Nhà nước. Ngày 01/05/2014, ông đã được đề cử tặng thưởng giải Vaclav Havel. Trong khi đó thân nhân ông Nguyễn Văn Hải hôm nay 03/05/2014 cho biết, ông đang bị bệnh tật đe dọa nặng nề mà không được chữa trị trong nhà tù.

Giải Vaclav Havel là giải thưởng của Hội nghị các Nghị viện Hội đồng châu Âu dành cho các hoạt động kiệt xuất của xã hội dân sự trong việc bảo vệ nhân quyền tại châu Âu cũng như các châu lục khác, được đặt ra từ năm 2013.

Năm nay trong số những người được đề cử có ông Nguyễn Văn Hải tức blogger Điếu Cày, một tù nhân lương tâm đã bị lãnh án 12 năm tù giam vào tháng 9/2012 vì tội danh tuyên truyền chống Nhà nước. Tháng 3/2013, ông đã tuyệt thực đến một tháng để phản đối điều kiện giam giữ.

Trong số các cá nhân và tổ chức đứng ra đề cử ông Nguyễn Văn Hải, có sáu cựu thành viên nhóm Hiến chương 77 của Cộng hòa Séc, và bảy tổ chức của người Việt trong và ngoài nước. Đó là nhóm Văn Lang ở Praha với tôn chỉ « Vì một xã hội dân sự », nhóm Đàn Chim Việt ở Ba Lan, và các tổ chức tại Việt Nam là Diễn đàn Xã hội Dân sự, Hội Tù nhân Lương tâm Việt Nam, Mạng lưới Blogger Việt Nam, nhóm No-U FC và Nhà xuất bản Giấy Vụn.

Trả lời RFI Việt ngữ, anh Nguyễn Trí Dũng, con ông Nguyễn Văn Hải cho biết :

Nguyễn Trí Dũng tại Việt Nam

 

03/05/2014
by Thụy My

 

Nghe (03:01)

 

 

 

Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách châu Á đến Hà Nội vào tuần tới

Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách châu Á đến Hà Nội vào tuần tới

Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Russel (www.state.gov)

Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Russel (www.state.gov)

Trọng Nghĩa

Bộ Ngoại giao Mỹ vào hôm qua 02/05/2014 thông báo : Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Đông Á Thái Bình Dương Daniel Russel sẽ dẫn đầu một phái đoàn Mỹ ghé Hà Nội trong hai ngày 07-08/05. Mục tiêu được loan báo là tham gia cuộc họp của cơ chế Đối thoại Mỹ-Việt vùng Châu Á-Thái Bình Dương. Giới quan sát cho rằng vấn đề Biển Đông chắc chắn sẽ được hai bên thảo luận.

Trong bản thông cáo báo chí ngắn gọn về chuyến công du Việt Nam của ông Russel, Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết thêm là Trợ lý Ngoại trưởng sẽ tiếp xúc với các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam, đồng thời giao lưu với các cựu sinh viên từng tham gia các chương trình trao đổi cấp chính phủ.

Theo giới quan sát, chuyến công du Việt Nam của người trực tiếp nắm hồ sơ Đông Nam Á tại Bộ Ngoại giao Mỹ diễn ra chỉ ít lâu sau khi đích thân Tổng thống Mỹ Barack Obama đến thăm hai nước Đông Nam Á khác là Malaysia và Philippines.

Điều này phản ánh mối quan tâm của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Nam Á, đặc biệt trong bối cảnh lãnh đạo 10 quốc gia trong khối ASEAN chuẩn bị họp Hội nghị Thượng đỉnh tại Miến Điện trong hai ngày 10-11/05.

Trong thời gian qua, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đặc trách Châu Á – Thái Bình Dương đã không ngần ngại có những lời lẽ rất cứng rắn đối với các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, nêu bật một số hành vi sách nhiễu của Trung Quốc nhắm vào Philippines chẳng hạn, đặc biệt là tại hai bãi ngầm đang tranh chấp là Scarborough và Second Thomas ngoài Biển Đông.

Ví dụ cụ thể nhất là bản điều trần của ông Daniel Russel trước Tiểu ban Châu Á – Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ ngày 05/02 vừa qua, trong đó ông đã cảnh cáo Trung Quốc về những yêu sách lãnh thổ đáng quan ngại ở Biển Hoa Đông và Biển Đông.

Về Biển Đông, ông Russel là một nhà ngoại giao Mỹ hiếm hoi công khai phê phán tính chất không phù hợp với luật pháp quốc tế của tấm bản đồ « Chín đường gián đoạn » mà Trung Quốc sử dụng để đòi chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông.

Ông cũng đã chỉ trích các quy định mới đây của Trung Quốc về đánh đánh bắt cá trên một phần Biển Đông, và cảnh cáo Bắc Kinh về ý đồ muốn thiết lập một vùng nhận dạng phòng không mới trên Biển Đông.

30-4: Để tang, ăn mừng, hay cơ hội để hòa hợp hòa giải?

30-4: Để tang, ăn mừng, hay cơ hội để hòa hợp hòa giải?

Hoài Hương-VOA

02.05.2014

Ngày 30 tháng Tư là một dấu mốc lịch sử đối với người Việt Nam, cả ở trong lẫn ở ngoài nước. Tại Việt Nam, ngày này thường được đánh dấu với những lễ mừng chiến thắng, nhưng ở hải ngoại, các cộng đồng người Việt khắp nơi tụ tập để đánh dấu Ngày Quốc Hận, biến cố đau thương khi Sài Gòn sụp đổ đưa đến sự cáo chung của chính phủ Việt nam Cộng hòa. Năm nay, các lễ lạc ấy dường như đượm thêm một số sắc thái phức tạp hơn.

“Ngày một triệu người vui, một triệu người buồn”, theo lời cố Thủ Tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt, một tiếng nói lạc lõng đi trước thời đại, chủ trương cải cách hướng tới hòa hợp hòa giải. Năm nay, lại có thêm hai quan chức Việt Nam khác lên tiếng theo cách riêng của họ, tỏ thái độ hòa hoãn hơn nhân cơ hội ngày 30 tháng Tư.

Một bà mẹ và ba người con miền Nam Việt Nam chạy khỏi Việt Nam trên một chiếc tàu của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, 29/4/1975 (Ảnh tư liệu.)

Một bà mẹ và ba người con miền Nam Việt Nam chạy khỏi Việt Nam trên một chiếc tàu của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, 29/4/1975 (Ảnh tư liệu.)

Quan chức thứ nhất là Thứ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn, cách đây vài ngày ông Sơn đã đưa ra những phát biểu tỏ ý muốn “xóa hố sâu thù hận” giữa hai bên, và lần đầu tiên nói tới những người bỏ nước ra đi là “những nạn nhân chiến tranh”, thay vì mô tả những người vượt biên vượt biển ra nước ngoài tỵ nạn cộng sản sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 là những kẻ phản động, đi theo đế quốc.

Mặc dù rất nhiều người không đồng ý với ông Nguyễn Thanh Sơn đã gán cho họ cái nhãn “nạn nhân chiến tranh” vì cho rằng họ không phải là nạn nhân bởi vì chiến tranh lúc đó đã chấm dứt, mà họ là những người tỵ nạn không thể, hoặc không muốn sống dưới chế độ cộng sản.

Quan chức thứ nhì là ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương Mại, người đã dẫn đầu cuộc thương thuyết để Việt Nam gia nhập WTO. Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế mùa Xuân ở Hạ Long hôm 29 tháng Tư, ông Trương Đình Tuyển nói “Đã đến lúc nên thừa nhận xã hội dân sự. Bản chất của nhà nước là quan liêu, và để khắc phục quan liêu thì cần phát huy vai trò của xã hội dân sự.”

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho VOA-Việt ngữ, Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng nói phát biểu của ông Trương Đình Tuyển, mà báo chí Việt Nam cho là khá táo bạo vì đã đề cập tới xã hội dân sự, một đề tài lâu nay vẫn cấm kỵ, có liên hệ tới hiệp ước thương mại xuyên Thái bình dương TPP mà Việt Nam đang ráo riết thương thuyết với Hoa Kỳ và các đối tác khác để vực dậy nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nói:

“Ngày hôm qua (29/04) tại Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân ở Hạ Long, chính ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Thương Mại Việt Nam, đã phải nói rằng vòng đàm phán TPP đang có vẻ như vẫn bế tắc. Khó khăn lớn nhất tại vòng đàm phán này chính là Việt Nam. Ông Tuyển cũng kêu gọi đã đến lúc thừa nhận xã hội dân sự. Xã hội dân sự là cái gì, chính là quyền đi lại, quyền được xuất cảnh tự do, được nhập cảnh tự do của các công dân. Nếu nhà nước Việt Nam chưa tôn trọng điều đó, thì làm sao có thể nghĩ tới một quy chế thị trường để có thể vào TPP được.”

Nhà báo Phạm Chí Dũng, người vừa được Tổ chức Ký Giả Không Biên giới vinh danh là một trong 100 “Anh Hùng Thông Tin” của thế giới, đã bị nhà nước tịch thu hộ chiếu, không cho sang Hoa Kỳ dự buổi điều trần tại Quốc hội về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam.

Lời bình luận của hai quan chức Việt Nam ngay trước ngày 30 tháng Tư tuy khác biệt về đối tượng nhắm tới- người Việt ở hải ngoại hay giới hoạt động dân chủ trong nước; về nội dung, cũng như về động cơ -chính trị hay kinh tế, nhiều người cho là những thông điệp đó có thể được coi là để bày tỏ thiện chí, muốn hàn gắn những chia rẽ sau thời chiến, và hòa giải với những người không đồng quan điểm với chính quyền, tham gia các tổ chức xã hội dân sự để đấu tranh cho các quyền tự do căn bản của công dân.

Điển hình như blogger Ngô Nhật Đăng, đang có mặt tại Washington trong cuộc quốc tế vận về tự do báo chí cho Việt Nam, anh chia sẻ trải nghiệm về ngày 30 tháng Tư:

Xe tăng quân đội miền Bắc Việt Nam tiến vào cổng Dinh Độc Lập, 30/4/1975 (Ảnh tư liệu.)

“Ngày 30 tháng Tư năm 75, khi đó chúng tôi mới 17 tuổi, ở Hà Nội sau một đêm rất là vui mừng vì đất nước được hòa bình, lúc đó chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm, chúng tôi không phải cầm súng bắn giết nhau và không phải bị chết nữa. Đó là cảm giác đầu tiên vào ngày 30 tháng Tư, cách đây đã 39 năm. Sau đó có một thời gian tôi đi làm, vào trong miền Nam có rất nhiều bạn bè, thậm chí những người anh rất thân là những người trong quân lực Việt nam Cộng hòa, qua đó tôi hiểu được rất nhiều.

Còn về vấn đề hòa hợp hòa giải thì ý kiến của tôi như thế này, là nhân dân không có thù hận, cho nên tôi không nghĩ tới việc hòa giải giữa nhân dân, giữa trong nước và nước ngoài. Sang đây tôi càng thấy rõ điều đó. Tôi gặp rất nhiều người, tình cờ gặp ở ngoài đường thì tất cả mọi người rất là gần gũi như là anh em. Chúng tôi đều đồng ý rằng là những người anh em chưa được gặp nhau vì những ngăn cản do nhà cầm quyền ngăn cản. Vấn đề hòa hợp hòa giải, cái gốc sâu xa của vấn đề là ai gây ra những mối hận thù, thì người đó phải đứng ra mà xin lỗi nhân dân, chứ còn nhân dân từ xưa và đến cả bây giờ đều không có chuyện thù hận lẫn nhau.”

Cũng có mặt trong phái đoàn đi vận động tự do báo chí tại Quốc hội Hoa Kỳ, nghệ sĩ Kim Chi trả lời câu hỏi của Ban Việt ngữ VOA:

“Bây giờ trong lòng tôi nó lạ lắm. 30 Tháng Tư thì tôi cũng thương nhớ đồng đội của tôi vô cùng, nhưng mà tôi cũng thương những người lính Việt nam Cộng hòa, và tôi nhận ra rằng cái cuộc chiến này người thắng người thua cũng đều đau, đều mất mát, đều đổ máu hết cho nên thật lòng mà nói thì tôi cảm thấy nó rưng rưng mà xót xa lắm chị à.”

Ttrong khi đó tại Việt Nam đã diễn ra một cuộc biểu tình vào đúng ngày 30 tháng Tư. Cuộc biểu tình đó do Phong trào Liên đới Dân Oan Tranh đấu tổ chức tại Sài Gòn đã bị công an thẳng tay đàn áp. Tin tải lên trang mạng của Danlambao.com cho biết đoàn biểu tình khởi hành từ công viên Lê Văn Tám đến hết đường Hai Bà Trưng thì một số người tham gia bị công an hành hung.

Cô Hồ Giang Mỹ Lệ, dân oan quận 4 Sài Gòn, là nạn nhân bị hành hung mạnh tay nhất, theo những hình ảnh và những chia sẻ của cô trên YouTube.

Nhưng một số người cho rằng ngày 30 tháng Tư có thể là một cơ hội để khởi sự tiến trình hòa hợp hòa giải, không những giữa những người dân thường ở cả ba miền Bắc Trung Nam, mà còn giữa những người đã cầm súng ở cả hai bên cuộc chiến. Ông Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch Đảng Việt Tân, chia sẻ quan điểm của ông:

“Tôi tin là trong số hơn ba triệu đảng viên cộng sản cũng có rất nhiều người yêu nước, muốn nhìn thấy đất nước Việt Nam phát triển một cách vững mạnh, muốn nhìn thấy một xã hội công bằng hơn, một đất nước không có tham nhũng, một xã hội lành mạnh. Tôi nghĩ rằng cái ước mơ đó là ước mơ chung của tất cả mọi con dân Việt Nam, bất kể thuộc đảng phái nào. Và cũng nhân ngày 30 tháng Tư đánh dấu 39 năm, tôi nghĩ đây là cái khởi điểm để tất cả mọi người Việt chúng ta cố gắng đoàn kết lại với nhau, cố gắng làm sao để tranh đấu trong tinh thần ôn hòa để đem lại một sự thay đổi tốt đẹp cho đất nước.”

 

Lời kêu gọi Bộ trưởng Y tế Việt Nam từ chức

Lời kêu gọi Bộ trưởng Y tế Việt Nam từ chức

Chuacuuthe.com

VRNs (03.05.2014) – Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam xác nhận lập trường: Không tin tưởng rằng việc từ chức của một bộ trưởng trong thể chế độc tài có thể thay đổi diện mạo nền y tế tồi tệ ở Việt Nam.

Nhưng về nguyên tắc phân chia quyền lực và phân công nhiệm vụ trong Nội các chính phủ của một quốc gia, những thất bại của ngành y tế Việt Nam tất nhiên được quy vào trách nhiệm của Bộ trưởng Y tế đương nhiệm là bà Nguyễn Thị Kim Tiến.

Tuy dịch sởi lan tràn khắp cả nước nhưng hiện nay Bộ Y tế Việt Nam vẫn chưa cho công bố dịch một cách chính thức. Nhiều trẻ em đã chết và rất nhiều số khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng; ngay cả người lớn cũng mắc bệnh. Sự hoang mang và căm phẫn đang dâng cao.

Nhiều nhà hoạt động Nhân quyền, nhà báo tự do, những người dùng mạng xã hội đã thể hiện sự bức xúc của mình bằng những hình ảnh và lời kêu gọi Bộ trưởng Y tế từ chức vì sự thất bại của bà trong việc nhiều trẻ em đã chết vì bị tiêm vaccine không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và tình trạng dịch sởi lan tràn không thể kiểm soát do các giới, các ngành vẫn chủ quan khi dịch sởi chưa được công bố.

Là những người phụ nữ đang hoặc sắp có con nhỏ, tất cả thành viên Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam rất bất bình vì tình trạng nêu trên và yêu cầu chính quyền Việt Nam nên áp lực bà Nguyễn Thị Kim Tiến phải hành xử như một người văn minh và có tri thức đúng như địa vị và học vị mà bà đang mang.

Mọi sự ngoan cố, tham quyền cố vị và coi thường dân chúng sẽ càng tạo nên sự bất mãn trong lòng người dân Việt Nam, và tất nhiên đưa đến hệ lụy bất ổn xã hội. Chính nhà cầm quyền Việt Nam là tác nhân gây ra bất ổn xã hội khi giới cầm quyền đã và đang hành động một cách bất xứng như thế.

Ban Điều hành Hội PNNQVN

Ngày 1 tháng 5 năm 2014

 

Hội Dân Oan Việt Nam có Ban Đại Diện

Hội Dân Oan Việt Nam có Ban Đại Diện
Thursday, May 01, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Sau nhiều tháng xin phép hành chính để hoạt động và bị cản trở, Hội Dân Oan Việt Nam vừa loan báo thành phần Ban Đại Diện gồm các tỉnh thành từ Bắc đến Nam.

Dân oan thuộc nhiều tỉnh phía Nam đi biểu tình ngày 29/4/2014 tại Sài Gòn với băng rôn “30-4 dân Việt mất quyền con người”. (Hình: Dân Làm Báo)

Một bản thông báo mới phổ biến trên nhiều diễn đàn và các trang mạng xã hội cho biết Hội Dân Oan Việt Nam ra đời với thành phần gồm ông Nguyễn Xuân Ngữ làm trưởng ban đại diện Dân Oan Việt Nam kiêm đại diện phía Nam.

Có 6 phó ban là đại diện dân oan ở Sài Gòn, Bình Dương, Cần Thơ, Hà Nội, Hưng Yên, Thái Bình, đều là những nơi có số lượng các vụ khiếu kiện và biểu tình tập thể về đất đai lớn, gây xôn xao dư luận thời gian qua. Bà Lê Hiền Đức, 82 tuổi, một người nổi tiếng về bênh vực dân oan tại Việt Nam, được mời làm chủ tịch danh dự.

Đây là hội đoàn dân sự mới nhất ra đời, một trong những hội đoàn độc lập tự quyết định thành lập và tuyên bố hoạt động mà không cần sự chấp thuận của nhà cầm quyền CSVN vốn cấm cản những tổ chức tư nhân.

Theo bản thông báo đề ngày 30/4/2014, của Hội nói trên “Ngày 24/4/ 2014 ông Nguyễn Xuân Ngữ đại diện Dân Oan phía Nam đã đến Văn Giang, Hưng Yên theo lời mời của nông dân Văn Giang, Hưng Yên để kỷ niệm 2 năm ngày nông dân Văn Giang bị cưỡng chế thu hồi đất trái pháp luật. Đại diện dân oan phía Nam đã gặp gỡ nhiều dân oan các tỉnh phía Bắc, có bàn về ý định thành lập Hiệp hội dân oan Việt Nam và chọn ngày dân oan Việt Nam. Mọi người nhất trí tiếp tục đấu tranh để thành lập hợp pháp Hiệp hội dân oan Việt Nam, trước mắt nhất trí cử Ban Đại Diện Dân Oan Việt Nam.”

Theo đó “Để ghi nhớ sự kiện ngày 24/4/2012 tại Văn Giang, một trong những vụ cưỡng chế thu hồi đất lớn nhất đối với dân oan Việt Nam và hoan nghênh tinh thần đoàn kết, đấu tranh bền bỉ của nông dân Văn Giang, mọi người nhất trí lấy ‘Ngày 24/4 hằng năm sẽ là Ngày Dân Oan Việt Nam’.

Ngày 28/2/2014, Bộ Nội Vụ CSVN gửi cho bà Lê Hiền Đức và ông Nguyễn Xuân Ngữ văn thư từ chối cho họ vận động thành lập Hội dân Oan Việt Nam, lấy cớ “không phù hợp quy định tại khoản 1 điều 2 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 4 năm 2010 của chính phủ quy dịnh về tổ chức, hoạt động và quản lý hội”.

Tuy nhiên, ngày 7/3/2014, bà Lê Hiền Đức và ông Nguyễn Xuân Ngữ gửi đơn khiếu nại nói rằng văn bản của Bộ Nội Vụ CSVN “có nội dung cấm hoặc hạn chế công dân thực hiện quyền tự do lập hội” mà như thế “trái với Hiến pháp 2013 và trái Thông điệp đầu năm 2014 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng”.

Đơn khiếu nại dẫn điều 25 của bản Hiến pháp CSVN 2013 nói “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp và lập hội”.

Khi đọc bản thông điệp đầu năm 2014, ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói trong đó rằng “…Người dân có quyền làm tất cả những gì luật pháp không cấm và sử dụng luật pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”, thư khiếu nại trích dẫn.

Ông Trịnh Bá Khiêm, một dân oan phường Dương Nội quận Hà Đông, bị đám người cưỡng chế hành hung trước khi bị đẩy lên xe Công an đưa đi nhốt. (Hình: Dân Làm báo)

Hiện Hội Dân Oan Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu thành lập nên đại diện các địa phương sẽ được bổ túc trong những ngày sắp tới. Bản thông báo số 12 của Hội dân Oan Việt Nam nói rằng nhiệm vụ trước mắt của Ban Đại diện Dân Oan Việt Nam gồm: “A/.Tập hợp các hồ sơ về dân oan để gửi các lãnh đạo Đảng và Nhà Nước, gửi công luận trong và ngoài nước để công luận biết rõ tình trạng dân oan VN. B/. Lên tiếng về các vụ việc đàn áp, cưỡng chế dân oan VN. C/. Đấu tranh chống tham nhũng trong những lĩnh vực liên quan đến dân oan. D/. Giới thiệu cho dân oan các luật sư, luật gia, chuyên gia trợ giúp trong việc khiếu nại, giải quyết các vấn đề của dân oan.”

Các cơ quan nhà nước CSVN từng nhìn nhận 70% các đơn từ khiếu kiện trong số hàng ngàn vụ khiếu kiện tập thể diễn ra hàng năm là về đất đai cưỡng chế, giải tỏa đền bù theo kiểu cướp ngày, đẩy người dân vào đói khổ trong khi làm giầu cho một số ít cán bộ đảng viên nhà nước cùng với đám công ty xí nghiệp tay sai của họ.

Mới đây nhất, khoảng gần một chục người đã bị công an bắt giam khi họ chống lại vụ cưỡng chế đất ngày 24 và 25/4/2014 tại phường Dương Nội quận Hà Đông, Hà Nội. Một số người dân đã bị hành hung trước khi bị tống lên xe của công an. (TN)

 

Những câu chuyện về ngày 30 tháng 4

Những câu chuyện về ngày 30 tháng 4

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-04-29

000_Hkg2309681-305.jpg

Tranh ảnh cổ động cho ngày 30 tháng 4 diễn ra hàng năm trên khắp nước Việt Nam.

AFP photo

Sau 39 năm, thời gian đủ để một đứa bé ra đời, lớn lên, có vợ và sinh con, và đó cũng là thời gian đủ để một đứa bé từ chỗ vô tư, hồn nhiên, ngây thơ đến chỗ trưởng thành, biết suy tư về thân phận con người cũng như thân phận một quốc gia. Hơn nữa, thời gian 39 năm đủ để làm lành mọi vết thương nếu như thịt da trên cơ thể lành tính, ngược lại, đó cũng là thời gian quá đủ để một vết thương cắn xé làm đau nhức và dẫn đến hoại thư. Câu chuyện sau 39 năm của một đời người, một dân tộc cùng những nỗ lực hòa giải, hòa hợp cũng chính là câu chuyện làm lành vết thương trên cơ thể Việt Nam.

Những thế hệ lớn lên

Một người bạn yêu cầu giấu tên, sinh đúng vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, anh ra đời trong lúc mẹ anh đang trên đường di chạy từ Xuân Lộc vào Sài Gòn, chia sẻ: “Nói chung là mình chưa thấy đó là một thiện ý thật sự cho những người muốn đặt ra vấn đề hòa hợp hòa giải, tức là đặt vấn đề với những người có quyền lực ấy. Mà mình thấy cái thiện ý đó chưa chân thành, người ta chỉ nói cái gì đó để tuyên truyền là chính thôi. Mình cứ nghe ti vi, đài ra rả đó, đại khái là những vết tích xưa cũ như là tự hào ấy. Cái đó mình cho rằng hòa hợp hòa giải khó mà đạt được, người ta chưa tin. Với những người Sài Gòn cũ thì còn lâu mới đạt được, nói nôm na ví dụ như Sài Gòn, hãy đổi hãy trả lại cái tên Sài Gòn đi sẽ thấy hòa hợp hòa giải liền.”

Theo người bạn này, sau ba mươi chín năm, sau một quá trình gia đình anh vất vả để cưu mang người cha bệnh tật sau khi rời trại cải tạo và sau đó không lâu ông qua đời, anh nhận ra rằng cuộc đời anh buồn nhiều hơn vui. Và khái niệm quê hương, đất nước gắn trong ký ức anh cùng với mùi khoai mì, mùi hạt kê độn và bánh tráng sắn thời thơ ấu. Tuổi thơ của anh bị ám ảnh bởi tiếng kẻng họp đội, tiếng loa phát thanh ngoài đầu xóm và tiếng gõ mõ liên hồi báo động an ninh… Dường như tất cả những ký ức tuổi thơ của anh đều mang mang một thanh âm đượm buồn trong sắc màu trầm, nặng của nó.

Khi lớn lên, anh phải bỏ học sớm và bươn bả ngoài cuộc đời với cái lý lịch không được tốt cho mấy bởi vì cha của anh là “ngụy quyền”. Mặc dù anh học rất giỏi và ước mơ được học đại học như bao bạn khác nhưng hoàn cảnh nghèo túng của gia đình đã khiến anh phải bỏ học, theo làm bốc vác ở bến xe, sau đó sắm xe ba gác để chở hàng và hiện tại, anh đã có xe tải để chở rau cho chợ đầu mối nhưng anh vẫn thấy tiếc nuối thời đi học của mình. Bởi ngày từ nhỏ, anh luôn tâm niệm rằng không có vốn liếng nào tốt hơn vốn liếng tri thức.

Và anh cũng cay đắng nhận ra rằng nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam, trong đó có thế hệ của anh đã không có được thứ vốn liếng quí giá của tri thức mà có chăng chỉ là cơ hội để làm việc cật lực và tích lũy tiền bạc. Nhưng rất tiếc, một khi nền tảng tri thức của con người bị hạn chế thì kéo theo vốn văn hóa cũng có nguy cơ bị hạn chế. Có nhiều tiền trên tay nhưng hạn chế về văn hóa là một tai họa. Anh đã nhìn thấy tai họa đó ngay trong thế hệ của anh cũng như nhiều thế hệ khác khi con người, xã hội mỗi ngày thêm lạnh lùng, vô cảm và tham lam.

Anh nói rằng nếu như có một cơ hội làm trẻ thơ trở lại, anh sẽ tìm đến một chân trời khác để trưởng thành, bởi vì sự trường thành mà mẹ anh đã dạy chính là phải tích lũy văn hóa, phải biết chia sẻ cùng đồng loại và phải tôn trọng quyền con người. Anh luôn dạy cho con cái mình điều này nhưng anh cũng luôn lo lắng trước môi trường giáo dục quá ư thực dụng hiện tại. Đó là anh chưa muốn nghĩ đến một xã hội đầy rẫy thù hận, tham lam, tranh giành… Như vậy, ít có sự hòa hợp hay hòa giải nào giữa con người với con người một khi quyền làm người không được tôn trọng đúng mức.

Chuyện hòa giải, hòa hợp dân tộc

Một bạn trẻ khác, tên Dũng, có người thân là thuyền nhân của những năm 1980 thế kỉ trước, chia sẻ: “Sau năm 1975 có sự sai lầm là người Việt với người Việt đối xử tàn khốc với nhau, rồi từ đó sinh ra những người trung lập, họ yêu đất nước, họ muốn hòa bình không muốn có chiến tranh gì nữa. Nhưng sự thật là người Việt với người Việt đối xử quá tàn khốc sau chiến tranh. Sau ba mươi tháng tư năm bảy lăm thì có sự thay đổi về văn hóa, chính trị… Tức nước thì vỡ bờ thôi!”

000_HKG2005042754750-305.jpg

Bộ đội cộng sản Việt Nam dẫn giải lính VNCH trên đường phố Saigon sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975.

Theo Dũng, vấn đề hòa giải hòa hợp giữa người Việt trong nước và người Việt hải ngoại là cả một câu chuyện dài không có hồi kết thúc. Vì lẽ, sự khác nhau về phông văn hóa và ý thức hệ cũng như hằng ngàn mối trở ngại xuất phát từ ý thức hệ đã dẫn đến hệ quả nếu có chăng hòa giải hòa hợp thì cũng chỉ trên hình thức chứ khó mà có sự hòa hợp về mặt nội tâm.

Giải thích thêm, Dũng cho rằng mọi sự hòa hợp đều phải có qui trình hòa giải của nó, mà muốn có hòa giải, người ta phải biết lắng nghe nhau và phải biết tôn trọng giá trị cũng như quyền lợi của nhau. Hiện tại, chỉ riêng những ngôi mộ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với thành quách xiêu vẹo, tượng đài bị giật sập, bảng ghi công bị đập nham nhở. Điều này cho thấy có sự phân biệt quá lớn giữa ta và thù, kẻ chiến thắng và người chiến bại cũng như sự tồn tại mọi biểu tượng của đối phương đều không được chấp nhận.

Nhưng, riêng vấn đề người đã khuất, mọi biểu tượng ghi công, nhớ ơn chỉ đóng vai trò thể hiện và biểu cảm những giá trị văn hóa đương đại dành cho người đã khuất, điều này không mảy may đụng chạm đến sự tồn vong của một chế độ nào nếu không muốn nói là là còn nâng tầm cho chế độ hiện tại bởi nét nhân văn và tính tôn trọng quá khứ của họ. Nhưng rất tiếc, điều này thật là khó khăn. Và đáng nói hơn là chính những đồng đội, những cha anh trong chế độ cũ không được mồ yên mả đẹp trong hiện tại sẽ là một bức rào cản rất lớn đối với tiến trình hòa giải để đi đến hòa hợp.

Một bạn trẻ khác, yêu cầu giấu tên, chia sẻ, sự hòa giải, hòa hợp dân tộc như bạn vẫn thường thảo luận với bạn đồng lứa phải đến từ hai hướng, hòa giải giữa người trong nước với nhau và hòa giải giữa người trong nước với người Việt ở nước ngoài. Trục chính của hòa giải gồm những ai? Cũng theo nhận định của bạn trẻ này, ranh giới hòa giải ở đây không phải là đường biên giới quốc gia mà là đường biên ý thức hệ và đường biên quyền lợi.

Về đường biên ý thức hệ, chỉ cần trả lời được câu hỏi rằng liệu mọi đảng viên đảng Cộng sản có thể cùng “người phía bên kia” ngồi chơi, cùng làm việc và cùng chia sẻ trách nhiệm cũng như quyền lợi về quốc gia, dân tộc với nhau hay không? Nếu câu trả lời là có thì mọi việc sẽ dễ dàng đi đến hòa hợp. Về đường biên quyền lợi, chỉ cần trả lời rằng mọi người dân Việt Nam có ai không bị oan, có ai bị ức chế, uất ức hay không? Nếu câu trả lời là không thì vấn đề hòa hợp dân tộc sẽ diễn ra nhanh chóng bởi vì lúc đó, mọi quyền lợi đã được chia đều trên toàn cõi, con người không bị chặn đứng nếp nghĩ trong biên kiến quyền lợi phe nhóm và nhân dân thấp cổ bé miệng.

Một bạn khác tên Ngọc, hiện là giảng viên đại học kinh tế Đà Nẵng thì tỏ ra lạc quan hơn khi bạn nói rằng sau 39 năm, con người đủ trưởng thành và chín chắn hơn để vượt qua mọi định kiến, đi đến hòa giải, hoàn hợp dân tộc. Và đương nhiên, muốn có điều này, mọi nỗ lực phải xoay quanh trục con người và quyền của con người!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Nhìn lại lần nữa hậu quả của ngày 30-4-1975

Nhìn lại lần nữa hậu quả của ngày 30-4-1975

Hồng Trung, gửi RFA từ VN
2014-04-27

Bộ đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn ngày 30 tháng Tư, 1975

Bộ đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn ngày 30 tháng Tư, 1975

Files photos

30-4-1975 ghi dấu ngày chấm dứt cuộc nội chiến vũ trang, huynh đệ tương tàn của hai miền Nam – Bắc sau hơn 20 năm chia cắt bởi hiệp định Giơ-Ne-Vơ 1954. Nhưng thời điểm này cũng là một trang lịch sử tang thương đau buồn và mất mát chung cho cả dân tộc Việt Nam.

Triệu người vui, triệu kẻ buồn

Khi ông Lê Duẩn đã nói: “Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và Trung Quốc.” thì rõ ràng danh nghĩa phát động chiến tranh giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước chỉ là phụ, mà mục đích chính là để thỏa vọng quốc tế hóa CS thế giới của Liên Xô, Trung Cộng. Hậu quả là dân tộc đã phải trả giá cho cuộc chiến tranh bằng xương máu của hơn 3 triệu sinh linh và sự tàn phá của bom đạn trên đất mẹ.

Như lời của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt nói về ngày 30-4-75: “là ngày có triệu người vui, triệu kẻ buồn”. Bên Cộng sản Miền Bắc vui vì thắng cuộc, thống lĩnh sự cai trị và được thu lợi những khối tài sản vật chất từ nền văn minh tư bản của chế độ VNCH. Bên Quốc gia ở Miền Nam buồn vì thua cuộc, phải chịu chính sách hà khắc của chế độ mới dưới các mỹ từ “cải tạo, chính sách kinh tế mới, cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa. ..” khiến bao nhiêu người không chịu nổi phải tìm đường vượt biên, liều mình trên biển, bỏ xứ ra đi bằng sự đánh đổi mạng sống với tỷ lệ sinh tồn rất thấp.

Ba mươi chín năm trôi qua, cứ mỗi tháng tư về là báo chí truyền thông lề phải trong nước được chỉ đạo ca ngợi tiếp tục sự tài tình của Đảng CS trong chiến dịch HCM giải phóng miền Nam song trong thực tế, chữ “giải phóng” đó có quá nhiều mâu thuẫn và cay đắng.

Xin trích lời thơ của anh Trần Trung Đạo viết tặng em gái tù nhân chính trị Đỗ Thị Minh Hạnh:

“Bom đạn đã thôi rơi nhưng tiếng khóc vẫn không ngừng,

Câu hát hòa bình nhưng nước mắt vẫn cứ rưng rưng.”

Chiến tranh vũ trang đã chấm dứt nhưng hòa bình vẫn chưa thực sự trọn vẹn. Vẫn còn đó một mặt trận tranh đấu giằng co quyết liệt từng ngày của những con người đi đòi công lý, nhân quyền, tự do dân chủ. Vẫn còn đó trên khắp ba miền Trung – Nam- Bắc phong trào đấu tranh của những người nông dân biểu tình, khiếu kiện tập thể đòi đất. Và vẫn còn đó những làn sóng bất mãn của giáo dân, tín hữu, đạo hữu của các hội đoàn tôn giáo đòi quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng. Nhà nước CSVN đã dùng vũ lực để trấn áp và qui kết bỏ tù rất nhiều người trong thời gian qua: bằng chứng sống động của sự bất ổn chính trị đương thời. Nhưng công cụ bạo lực của bất cứ nhà cầm quyền nào cũng chỉ là biện pháp trấn áp, đè nén người dân tạm thời chứ không phải là giải pháp chính trị ưu việt để tháo gỡ các bế tắc to lớn của một đất nước.

DSC00315-250.jpg

Băng rôn cho ngày 30 tháng 4 và 1 tháng 5 tại Hà Nội. RFA photo

Ba mươi chín năm là khoảng thời gian dài đủ để Việt Nam có thể tái thiết, khôi phục đất nước, phát triển phồn vinh ngang hàng với các nước Nam Hàn, Thái Lan, Đài Loan, Singapore sau chiến tranh. Nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, đất nước vẫn trong tình trạng chậm tiến, suy thoái kinh tế mặc dù đã vắt cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhà nước cũng đã thâm lạm, lãng phí vô số viện trợ nhân đạo, kinh tế của nước ngoài, chưa kể mấy trăm tỷ đô la kiều hối từ cộng đồng người Việt ở ngoài nước gửi về nước trong bốn thập niên qua.

Sự tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công vẫn tung hoành gây nhức nhối cho toàn xã hội, làm nóng trên diễn đàn Quốc hội và căn bệnh ấy như trở thành thứ bệnh nan y bất trị. Hậu quả là sự nghèo khó cùng với món nợ quốc gia khổng lồ mà “dân chịu” như lời chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu. Theo ước tính của các chuyên gia, nợ công của Việt Nam đang ở mức trên 80,070 tỷ USD; bình quân nợ công theo đầu người là 886,36 USD (gần 20 triệu VND/người. Vẫn còn bỏ ngõ một nền công nghiệp hóa dang dở, đang trên đà phá sản. Việt Nam phải nhập siêu các trang thiết bị, nguyên vật liệu trong công nghệ lắp ráp ô tô và trong ngành xây dựng từ các nhà thầu nước ngoài nên tỉ lệ nội địa hóa rất thấp; trong khi đó Cam-Pu-Chia đã qua mặt Việt Nam trong ngành sản xuất ô tô và cho ra đời dòng sản phẩm AngKor EV 2014 khiến các tiến sĩ giấy của VN phải ngượng ngùng

Dậm chân tại chỗ?

Cùng lúc đó, đến hôm nay nền giáo dục vẫn phải còn loay hoay trong nhu cầu cải cách hầu như toàn bộ với số tiền 34.000 tỷ đồng khiến mọi người dân nghe phải giật mình. Việt Nam có con số hơn 24 ngàn tiến sĩ (đông bậc nhất thế giới) nhưng lại là nước nghèo đội sổ trên thế giới. Những phát minh khoa học, những tác phẩm văn học lớn cũng rất ít có trên đăng ký bản quyền trong nước và quốc tế. Chất lượng đào tạo Đại học kém nên hầu hết các sinh viên thất nghiệp hay làm việc trái ngành chuyên môn. Đáng ưu tư nhất là ngành y tế, với vô số đề tài sôi nổi trên mặt báo, truyền thông trong suốt thời gian qua, đặc biệt là trong tháng tư này. Nạn dịch sởi đã lan tràn trên khắp cả nước cướp đi 118 sinh mạng trẻ em và gây quá tải trong các bệnh viện nhi trung ương ở Sàigòn, Hà Nội cũng chỉ vì một thứ văc-xin. Vì muốn giấu nhẹm những yếu kém, tắc trách trong ngành y tế mà bà bộ trưởng Tiến không dám công bố dịch và ngăn cấm các phóng viên nhà báo vào bệnh viện tác nghiệp.

Song song với những vấn nạn xã hội quốc nội là ngoài biên ải là sự hiểm họa đe dọa xâm lăng của Trung Quốc. Biển đảo, lãnh hải đang nguy cơ mất dần vào tay của “người bạn láng giềng 4 tốt –16 chữ vàng” bởi sự dung túng yếu hèn của đảng cầm quyền. Những dự án lớn trong ngành khai thác xây dựng là những nhịp cầu để đưa người và hàng hóa Trung Quốc vào sâu trong lãnh thổ VN một cách hợp pháp. Từ Cà Mau, Tây Nguyên, Miền Trung (Vũng Áng), Đà Nẳng đến Quảng Ninh đi đâu cũng gặp người Tàu cùng với những khu phố mang bảng hiệu chữ Tàu như một điềm báo nguy cơ cho cả dân tộc.

Lịch sử dựng nước và giữ nước là khoảng dài thời gian trước và sau công nguyên gần 4 ngàn năm, chứa đựng biết bao nhiêu công lao của các bậc tiền nhân anh hùng qua các triều đại của Việt Nam. Triều đại này suy vong, buộc phải nhường chỗ cho triều đại khác thay thế để nối tiếp sứ mạng bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Ngày 30-4-1795 chỉ là một cái mốc lịch sử. Đảng CS cũng chỉ được xem như là một triều đại trong nhiều triều đại trước đây. Đảng CSVN không phải là tổ quốc VN. Vì vậy, không thể bắt buộc QĐND, CAND và ND phải trung thành với đảng CSVN. Công hay tội chỉ có lịch sử mới có quyền phán xét, và chắc chắn sẽ được phán xét công bằng trong một thời gian không xa.

Đảng CS VN cần dừng lại ngay hành động tung hô quá khứ để tự tôn vinh chính mình, và hãy nhìn vào thực trạng hiện tại của đất nước. Đảng CSVN có khả năng gây chiến tranh để chiến thắng miền Nam nhưng đã không chứng tỏ được khả năng xây dựng nên hòa bình trong lòng dân tộc, và ổn định, phát triển đất nước trong suốt bốn thập niên qua. Hãy nhìn kỹ những vấn nạn của đất nước để trả lại quyền lãnh đạo cho dân tộc.

Viết từ Gia Lai (VN) ngày 26-4-2014

Hồng Trung

 

Hội thảo về Tự do thông tin dưới ánh sáng của GHCG tại Dòng Chúa Cứu thế

Hội thảo về Tự do thông tin dưới ánh sáng của GHCG tại Dòng Chúa Cứu thế

RFA-01-05-2014

Tự do thông tin ở Việt Nam dưới ánh sáng của Giáo huấn xã hội Công giáo

Thông báo Hội thảo Tự do thông tin ở Việt Nam dưới ánh sáng của Giáo huấn xã hội Công giáo ở Dòng Chúa Cứu Thế

Dòng Chúa Cứu Thế

Vào lúc 3 giờ 30 chiều hôm nay 1 tháng 5 năm 2014 cuộc Hội thảo chuyên đề Tự do thông tin dưới ánh sáng của Giáo hội Công giáo được nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế tổ chức với sự tham dự đông đảo của những người quan tâm.

Linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh người điều hợp chương trình cho chúng tôi biết lý do cuộc hội thảo này thành hình như sau:

Ngày hôm nay truyền thông Chúa Cứu thế tổ chức hội thảo chuyên đề về tự do thông tin dưới ánh sáng của Giáo Hội Công giáo. Thứ nhất ngày mùng 3 tháng 5 tới là ngày tự do báo chí thế giới và trong tháng 6 này Hội thánh cũng có kỷ niệm ngày Truyền thông xã hội lần thứ 48. Sở dĩ chúng tôi không chọn đúng ngày mùng 3 hay vào dịp tháng Sáu là do hôm nay là ngày nghỉ lễ nên mọi người dễ dàng sắp xếp thời gian hơn.

Cuộc hội thảo bắt đầu với phần dẫn nhập chủ đề của linh mục An tôn Lê Ngọc Thanh sau đó là bài tham luận của luật sư Lê Công Định với đề tài: Ở Việt Nam có tự do báo chí hay không. Bài tham luận của luật sư Định được gửi đến buổi hội thảo bởi ông còn bị quản chế không ra khỏi khu vực cư trú được. Một người nữa cũng có chung tình trạng tương tự như luật sư Định là giảng viên Phạm Minh Hoàng, ông cũng có bài tham luận nhưng do công an không cho phép nên ông cũng chỉ có thể gửi tới đóng góp bằng một video clip.

Người thứ ba đọc tham luận trong buổi hội thảo là TS nhà báo Phạm Chí Dũng, với đề tài “Thực trạng và kiến nghị về một nền báo chí tự do tại Việt Nam”.

Phát biểu cuối do một đại diện của Article 19 từ Hoa Kỳ gửi về một Video đóng góp ý kiến của một người quan tâm về tự do báo chí cho Việt Nam.

Linh mục Lê Ngọc Thanh cho biết thêm về cách thức góp ý trao đổi giữa những người tham dự hôm nay:

Phòng tổ chức chúng tôi chỉ khoảng 100 người thôi nhưng bây giờ đã đầy. Chúng tôi có dành sẵn khoảng 1 tiềng đồng hồ để cho mọi người. Thảo luận nhóm chia từng nhóm nhỏ để ai cũng có thể nói được và sau đó chúng tôi có hẳn một tiếng để đúc kết nên chắc chắn có giờ để trao đổi ý kiến.

Hội thảo này là hoạt động ý nghĩa và rất cần thiết cho một nền báo chí tự do tại Việt Nam. Hai người trong buổi hội thảo hôm nay vừa được tổ chức Phóng viên không biên giới công nhận là anh hùng thông tin trong danh sách 100 người toàn thế giới là linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh và TS nhà báo Phạm Chí Dũng.

 

Công an ‘ăn’ hối lộ trước mặt chuyên viên chống tham nhũng của LHQ

Công an ‘ăn’ hối lộ trước mặt chuyên viên chống tham nhũng của LHQ
Wednesday, April 30, 2014

Nguoi-viet.com
ÐẮK LẮK (NV) Các giới chức công an Việt Nam đang điên đầu vì vụ hai cảnh sát giao thông tỉnh Ðắk Lắk “ăn” tiền “mãi lộ” ngay trước mặt chuyên viên Liên Hiệp Quốc chống tham nhũng. Nạn nhân là tài xế lái chiếc xe taxi của hãng Quyết Tiến đưa ông chuyên viên Liên Hiệp Quốc đi từ phi trường Buôn Ma Thuột đến trung tâm tỉnh lỵ Ðắk Lắk.

Ông Jairo Accuna Alfaro, cố vấn chính sách về Cải Cách Hành Chính và Chống Tham Nhũng của Liên Hiệp Quốc chứng kiến từ đầu đến cuối việc hai cảnh sát giao thông Buôn Ma Thuột đòi tiền “mãi lộ” một cách trắng trợn.



Ông cố vấn Liên Hiệp Quốc vô tình làm nhân chứng cho một vụ đòi tiền hối lộ trắng trợn của cảnh sát giao thông Buôn Ma Thuột. (Hình: báo Tiền Phong)

Người phụ tá của ông cố vấn đi cùng trên xe cũng tròn mắt ra nhìn cảnh ông tài xế taxi móc 200,000 đồng, tương đương 10 đô la ra nộp cho hai cảnh sát giao thông, mà không biết mình đã phạm lỗi gì.

Ðã vậy, ông tài xế không nhận được cả biên lai thu tiền.

Sự kiện trên xảy ra vào đêm 20 tháng 4, 2014. Ðến ngày 22 tháng 4, 2014, toàn bộ câu chuyện được tung lên báo Tiền Phong với tiêu đề “Mãi lộ trước mặt chuyên gia chống tham nhũng.” Ðến đây thì mọi thứ mới nóng một cách bất ngờ.

Chỉ một ngày sau khi bài báo được phát hành, ông đại tá phó văn phòng Bộ Công An Việt Nam ra một văn bản, chỉ thị giám đốc Công an tỉnh Ðắk Lắk “kiểm tra, xử lý thông tin trên.”

Ngày 26 tháng 4, 2014, tức ba ngày sau khi nhận được chỉ thị của cấp trên, ông Trần Hiếu, phó chủ tịch chính quyền tỉnh Ðắk Lắk yêu cầu công an tỉnh phối hợp với Sở Thông Tin và Truyền Thông “điều tra, làm rõ, phản hồi cho cơ quan báo chí và xử lý các nội dung thuộc thẩm quyền.”

Ngày 29 tháng 4, 2014, ông Trần Hiếu mở cuộc họp báo khẩn cấp nói rằng, vì sự việc liên quan đến danh dự của tỉnh nên phải được “xử lý sớm, đúng và nghiêm khắc.”

Báo Tiền Phong cho biết, cuộc điều tra được xúc tiến sau đó đã xác định được danh tính của hai cảnh sát giao thông nọ. Hai người này đã nhận lỗi, nhưng cho rằng hành vi nhận tiền mãi lộ “không hoàn toàn đúng” như lời kể của viên tài xế taxi.

Báo Tiền Phong cho hay, công an tỉnh Ðắk Lắk hứa hẹn “sẽ thông báo kết quả xử lý sự việc” ngay trong tuần lễ đầu tháng 5 này. Người ta đang chờ xem liệu hai “anh” cảnh sát giao thông nọ sẽ được “xử” đến cỡ nào. (PL)

 

GS Stephen Young kể chuyện đưa người Việt tị nạn vào Mỹ

GS Stephen Young kể chuyện đưa người Việt tị nạn vào Mỹ
Tuesday, April 29, 2014

Nguoi-viet.com


Hà Giang/Người Việt


LTS:
Cách đây gần 40 năm, trong thời gian gần 30 Tháng Tư, khi chiến tranh Việt Nam sắp chấm dứt, viễn ảnh miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản ngày càng gần, Giáo Sư Stephen Young, một người có vợ Việt Nam, yêu quê hương của vợ, cùng một nhóm thanh niên trẻ làm việc trong nhiều vị trí quan trọng tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, qua Việt Nam sinh sống, đã băn khoăn về việc Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam, và tìm cách vận động chính phủ cho phép một số người Việt Nam được vào Hoa Kỳ tị nạn. Sự vận động thành công của họ mở đầu cho quy chế tị nạn vào thập niên 1980. Nhân một dịp đến thăm tòa soạn, Giáo Sư Stephen Young kể lại cho nhật báo Người Việt về thời gian này, qua một cuộc phỏng vấn, tóm lược dưới đây.



Giáo Sư Stephen Young trả lời phỏng vấn tại tòa soạn nhật báo Người Việt. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Hà Giang (NV): Kính chào Giáo Sư Stephen Young, được biết trong thời gian gần 30 Tháng Tư năm 1975, giáo sư là một trong những người đóng vai trò quan trọng trong việc vận động chính quyền Mỹ đón nhận người tị nạn Việt Nam. Ông có thể kể lại câu chuyện hầu như rất ít người biết này?

GS Stephen Young: Tôi không phải là một chuyên viên về luật di trú nhưng đại khái theo tôi nhớ trước năm 1980, Hoa Kỳ không có một quy chế về người tị nạn gì hết. Thỉnh thoảng vì nhu cầu chính trị hay vì nhu cầu ngoại giao, thì chính phủ cho phép một số người của một nước nhập vào nước Mỹ nhưng họ không có Visa, vì luật của nước Mỹ là không có Visa cho người di cư trước năm 1980. Lúc đó thì họ gọi là Parole Authority, là một cái phép đặc biệt là bên Bộ Tư Pháp phải thương lượng với Quốc Hội, thì họ định là sẽ cho vào bao nhiêu người không có Visa. Theo tôi nhớ thì sau Thế Chiến Thứ Hai thì Mỹ đón một số người Ðông Âu, Do Thái, bị Hitler muốn tiêu diệt, sau đó có một nhóm người Hungary, hình như là ba mươi mấy ngàn người thôi, sau đó nữa thì có người Cuba đến sau khi Castro lên, áp dụng chế độ Cộng Sản ở nước họ, những người Cuba họ lấy tầu thủy họ trốn qua Florida.

Ðến năm 1975, thì thoạt đầu chính phủ Mỹ không có luật nào để đón người di cư từ Việt Nam, và như thế trên nguyên tắc, trừ những người được cấp Visa, Mỹ không nhận người di cư nào hết sau ngày 30 Tháng Tư, 1975.

NV: Vào khoảng cuối Tháng Năm, 1975, Quốc Hội cho ra đời một đạo luật gọi là “Indochina Immigration and Refugees Act,” thì vai trò của giáo sư trong việc dự luật này ra đời, và được Tổng Thống Ford phê chuẩn là gì?

GS Stephen Young: Theo tôi nhớ thì việc cho người Việt vào Mỹ đã được quyết định cuối Tháng Tư rồi, 30 Tháng Tư thì đã có phép rồi, nhưng hồi đó có hai trại lớn là Fort Chaffee ở Florida và Indiantown Gap ở Pennsylvania, thì phải có một chương trình nào đó có người giúp họ mua thức ăn, lo cho họ lúc ban đầu. Chế độ bảo trợ qua những tiểu bang, chính phủ cần một đạo luật để chi tiền. Chính phủ Mỹ không thể chi tiền nếu không có Quốc Hội chấp thuận.

Không ai ngờ sẽ mất miền Nam trong vòng một tháng, hình như Ðà Nẵng mất cho Cộng Sản ngày 30 Tháng Ba, nhà tôi là người Việt, nên tôi rất quan tâm đến tình hình Việt Nam, lúc đó tôi nhớ rõ là một ngày Chủ Nhật, nghe đài phát thanh thấy mất Ðà Nẵng thì hết hồn, vì tôi biết là mất Ðà Nẵng tức là uy tín của Tướng Ngô Quang Trưởng mất rồi, và thứ nhì thì ông Thiệu không còn giữ được miền Nam nữa, chỉ có thể hy vọng là ông Trưởng lên thay thế ông Thiệu. Thành ra ngày Thứ Hai, tôi không đi làm, tôi đi Washington, DC, để nhờ một số người bạn phát động một phong trào di cư, vì tôi thấy là bây giờ người Mỹ có bổn phận vì danh dự, vì quyền lợi, nhất là vì danh dự một nước Hoa Kỳ tranh đấu cho tự do và nhân quyền cho thế giới, mà đã có mấy triệu người Việt Nam nhờ vào Mỹ để giúp họ, mà nếu mình không giúp được họ thì mình cũng không được bỏ quên luôn, vì bỏ quên luôn thì là một hành động hèn quá, không thể chấp nhận được. Mà tôi biết là cứ để yên thì ông Kissinger và ông Ford sẽ không cứu được người nào, bằng chứng là Cambodia, chị nhớ mà, nước Mỹ không mang ai ra. Tôi nhớ là vào giờ chót, khoảng 15, 16 Tháng Tư thì khi ông đại sứ Mỹ rời Phnom Penh đem ra 17 gia đình, còn mấy người Miên kia thì cứ để lại cho bị bắt.

NV: Vâng trở lại vào cái ngày Thứ Hai sau khi ông nghe tin Ðà Nẵng đã mất, lúc đó ông đang làm gì?

GS Stephen Young: Lúc đó tôi khoảng 30 tuổi, đang là luật sư, đang làm việc cho một hãng luật, mới làm việc được năm đầu tiên, thành ra là tôi đi Washington, DC. Tôi nhớ là mình đến đó mới gọi điện thoại cho một người bạn là Paker Borg. Parker với tôi học tiếng Việt cùng với nhau một năm trước khi đi qua Việt Nam để cùng làm việc cho chương trình Bình Ðịnh Phát Triển Nông Thôn, nhưng lúc đó Parker là phụ tá của Ngoại Trưởng Henry Kissinger, thì tôi nghĩ là tôi phải nói chuyện với Parker, gợi ý cho Parker, rồi Parker nhờ có ảnh hưởng trong Bộ Ngoại Giao xin vận động cho một chương trình tị nạn Việt Nam. Ông Parker lúc đó nói với tôi rằng: “Xin lỗi tôi không thể giúp được.” Tôi hỏi: “Tại sao anh lại không giúp?” Parker nói rằng ông đã từ chức Thứ Sáu vừa rồi, vì không thể tiếp tục làm việc với ông Henry Kissinger, vì “ông ta là người không tốt.”

Parker hơn tôi hai tuổi. Chị phải hiểu là một thanh niên cỡ 32, 33 tuổi, làm việc trong ngành ngoại giao mà lúc đó được làm phụ tá cho ngoại trưởng là đường công danh rộng mở lắm, nhưng nếu mình từ chức, mà nhất là sếp của mình là Kissinger nữa, thì coi như là tàn sự nghiệp rồi, bởi vì ông Kissinger sẽ “nhớ đời” cái việc này. Tôi nghe chuyện vừa thấy phục Parker mà vừa tức. Tôi năn nỉ Parker, nói chúng ta không thể buông xuôi được, ít nhất chúng ta cũng phải giúp một số gia đình qua, nếu không thì họ sẽ bị giết chết. Bởi vì một người thầy của tôi là Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, bị chính Lê Duẫn ra lệnh là phải ám sát ông ấy. Nói tóm lại, tôi nói một hồi thì Parker nói: “Steve, việc này tốt nhưng khó quá, nhưng chính phủ không làm thì mình làm. Tối nay mình sẽ đi gặp ông Lionel Rosenblatt.” Lionel Rosenblatt hồi đó cũng làm ở Bộ Ngoại Giao, phụ tá cho phó ngoại trưởng. Thế là tối hôm đó ba chúng tôi vừa uống rượu vừa tìm cách giúp người Việt Nam.

NV: Rồi sau đó thì làm sao thưa giáo sư?

GS Stephen Young: Sau đó thì Thứ Ba chúng tôi một nhóm thanh niên gặp nhau, toàn những người cùng tuổi, cùng làm việc ở Việt Nam, toàn ghét Cộng Sản, trong đó có ba người là con rể Việt Nam (có vợ Việt Nam). Có lẽ vì thế chúng tôi không thể dửng dưng với những gì sẽ xảy ra cho quê hương của vợ. Ngoài ra gia đình của vợ tôi cũng gặp nhiều khó khăn vì liên hệ với tôi.

Nói tóm lại, nhóm thanh niên chúng tôi, hăng hái nhất là ba người con rể Việt Nam, gồm tôi, Ken Quinn và Al Adams, viết thư đi khắp nơi nhờ mọi người giúp. Rồi chúng tôi bầu Parker Borger làm người lãnh đạo, vì Parker từ chức rồi, không có việc làm (cười), nhưng Parker quen biết nhiều, lại dùng điện thoại trong Bộ Ngoại Giao từ phòng làm việc của Lionel Rosenblatt để liên lạc, vận động. Chúng tôi may mắn được Thượng Nghị Sĩ Edward Kennedy tích cực tiếp tay vận động hộ, cuối cùng thì chúng tôi có được một “Administrative Action” đồng ý cho phép khoảng 150,000 người, bằng số người Cuba trước đó được nhận vào Mỹ. Và đó là khởi đầu của việc chính quyền Hoa Kỳ cho phép người Việt Nam được vào nước Mỹ, dẫn đến đạo luật gọi là “Indochina Immigration and Refugees Act” sau này, mà khi rảnh hơn chúng ta sẽ nói chuyện rõ thêm.

NV: Cảm ơn ông đã dành thì giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn.

 

440 thương phế binh VNCH dự “Tri ân” ở Sài Gòn

440 thương phế binh VNCH dự “Tri ân” ở Sài Gòn
Monday, April 28, 2014

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) .- Buổi “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” lần thứ hai vừa diễn ra ở Tu viện Dòng Chúa Cứu thế, nằm trên đường Kỳ Đồng, quận 3, Sài Gòn.

Sân Hiệp Nhất của Tu viên Dòng Chúa Cứu thế, nằm trên đường Kỳ Đồng, quận 3, Sài Gòn trong buổi “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa”. (Hình: website chuacuuthe.com)

Đây là hoạt động do Hội đồng Liên Tôn Việt Nam tổ chức, theo sáng kiến của Thượng tọa Thích Không Tánh (Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất). Buổi “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” lần đầu, diễn ra hồi tháng 8 năm ngoái.

Năm ngoái, khi tổ chức “Tri ân Quý ông Thương phế binh Việt Nam Cộng hòa” lần đầu, Ban Tổ chức giải thích, thương phế binh và tử sĩ Việt Nam Cộng hòa cũng cần được tri ân và tưởng nhớ giống như ngày 27 tháng 7 hàng năm, nhà cầm quyền CSVN tổ chức các hoạt động “nhớ ơn” những thương binh, liệt sĩ đã hy sinh tính mạng, xương máu của họ cho việc áp đặt chính thể cộng sản trên toàn cõi Việt Nam.

Năm ngoái, số thương phế binh Việt Nam Cộng hòa ghi danh tham dự “tri ân” chỉ có hơn 100 vị. Năm nay, do tài chính eo hẹp, Ban Tổ chức dự tính chỉ nhận 200 thương phế binh Việt Nam Cộng hòa ghi danh tham dự. Nhưng giờ chót, số thương phế binh Việt Nam Cộng hòa ghi danh lên đến hơn 400 vị. May mắn là giờ chót, nhiều ân nhân ở cả trong và ngoài Việt Nam nhiệt tình tiếp sức nên Ban Tổ chức không phải từ chối vị nào.

Có 60 tình nguyện viên là thanh niên, sinh viên của một số tổ chức tôn giáo, dân sự ở Sài Gòn đã ghi danh hỗ trợ Ban Tổ chức phục vụ các thương phế binh Việt Nam Cộng hòa. Một thương phế binh Việt Nam Cộng hòa cho biết, gần 40 năm qua, ông và bạn bè sống bên lề xã hội, ông không ngờ sẽ có ngày được giúp đỡ để hội ngộ với nhau, Không ngờ sự hy sinh của mình sẽ còn được nhắc đến, chứ không bị lãng quên.

Tình nguyện viên giúp đỡ các vị là thương phế binh Việt Nam Cộng hòa đến dự buổi “tri ân”. (Hình: website chuacuuthe.com)

Ông Nguyễn Hữu Cầu, cựu đại úy Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cựu tù chính trị vừa được trả tự do, tâm tình, ông bị “cải tạo” 5 năm, ở tù thêm 32 năm nữa. Đôi khi ông thấy sự khốn khổ, nhục nhằn mà ông phải gánh chịu rất lớn lao nhưng khi biết đến những cay đắng, tủi nhục, gian khổ mà các thương phế binh Việt Nam Cộng hòa gánh chịu gần 40 năm qua, ông thấy sự khốn khổ, nhục nhằn của ông chẳng đáng gì. Đặc biệt là dù tàn phế, kiếm sống khó khăn nhưng những thương phế binh Việt Nam Cộng hòa vẫn ngẩng mặt, can đảm để sống phần đời còn lại của mình.

Ngoài việc nghe chia sẻ tâm tình tri ân vì đã đóng góp xương máu cho dân tộc và xứ sở, xem văn nghệ, dùng cơm và hàn huyên với nhau, mỗi vị trong 440 vị là thương phế binh Việt Nam Cộng hòa được tặng một phần quà trị giá một triệu đồng. Sự hỗ trợ của các ân nhân còn đủ để hỗ trợ một phần chi phí di chuyển cho những vị ở xa.

Giờ chót có hai nhân viên của Văn phòng Caritas thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn tìm đến, thông báo, Văn phòng có nhã ý ráp chân giả miễn phí cho những quý ông là TPB thương phế binh Việt Nam Cộng hòa có nhu cầu.

Theo tường thuật của truyền thông Dòng Chúa Cứu thế, có một vài trường hợp không phải là thương phế binh nhưng vẫn đòi tham dự “tri ân” và bộ phận tiếp tân đã giải thích cặn kẽ để từ chối đón tiếp. (G.Đ)

Một số hình ảnh ngày Tri ân quý ông thương phế binh (Dòng Chúa cứu thế)

DSC_0040 Một thương phế binh được người nhà bế từ nơi để xe vào khu vực họp mặt

DSC_0036 Bloger Hoàng Dũng giúp một thương phế binh

DSC_0252

Một số ông thương phế binh tranh thủ chụp tấm hình trước hàng chữ “Tri ân quý ông thương phế binh”

 

Bộ công an Việt Nam đòi truy tố phóng viên Ban Việt Ngữ BBC

Bộ công an Việt Nam đòi truy tố phóng viên Ban Việt Ngữ BBC
Friday, April 25, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Bộ Công an CSVN qua ông Trung tướng Hoàng Kông Tư tuyên bố đã “khởi tố vụ án” để truy tố một phóng viên của Ban Việt Ngữ đài BBC London về tội “vu khống.”

Trung tướng Công an Hoàng Kông Tư, Thủ trưởng Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an CSVN tại một buổi lễ ở Hải Dương. (Hình báo Hải Dương)

“Ngày 25/4/2014, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã khởi tố vụ án hình sự về tội Vu khống theo Điều 122 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.” Ông Hoàng Kông Tư nói trong cuộc phỏng vấn của tờ Công An Nhân Dân (CAND) như vậy trong một phản ứng nhanh chóng bất ngờ và không che giấu sự tức giận cao độ đối với một bài viết của ký giả Nguyễn Hùng trên blog của đài BBC Tiếng Việt.

Ông Tư nói tiếp trong cuộc phỏng vấn đó là “Quá trình điều tra, nếu xác định phóng viên Nguyễn Hùng đang làm việc ở Ban Việt ngữ đài BBC ở Vương quốc Anh là tác giả bài báo thì Cơ quan An ninh điều tra sẽ tiến hành các thủ tục cần thiết yêu cầu cơ quan tư pháp Vương quốc Anh hỗ trợ triệu tập phóng viên Nguyễn Hùng về Việt Nam để điều tra làm rõ những vấn đề liên quan đến vụ án Vu khống và xử lý theo quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Ngày 24/4/2014, phóng viên Nguyễn Hùng viết một bài có tựa đề: “Dương Chí Dũng và những triệu đô la”. Trong đó, ông thuật lại những lời khai của ông Dương Chí Dũng trong phiên tòa hồi tháng Giêng vừa qua mà ông khai ra những số tiền ông đã phải hối lộ cho thượng tướng Công an Phạm Quý Ngọ tổng cộng hai lần $510,000 đô la.

Không những vậy, ông còn khai là chuyển số tiền 1 triệu đô la là tiền mà bà Trương Mỹ Lan, chủ nhân tập đoàn Vạn Thịnh Phát ở Sài Gòn nhờ ông cầm đến trao cho tướng Ngọ. Bà Mỹ Lan không trao tiền trực tiếp cho ông Dương Chí Dũng mà lại nhờ một người khác tên Tiệp cầm đến nhà ông Dũng để mang đến cho ông Ngọ.

Trong những lời của Dương Chí Dũng tại tòa, còn thấy thập thò khuôn mặt và lời phán của ông đại tướng Bộ trưởng Bộ Công An khuyên nhủ ông Dương Chí Dũng yên tâm. Ông Dương Chí Dũng hối lộ dùm bà Lan có lợi gì cho ông ta không là một chuyện khác, cũng như số tiền 1 triệu đô la đó là một vụ khác không dính gì đến vụ án mua ụ nổi. Nhưng lại được ông khai ở tòa được hiểu như lời tố cáo những ông trùm ở Bộ Công An ăn hối lộ của ông và những người khác các số tiền rất lớn mà người ta “tiền mất tật mang”.

Ký giả Nguyễn Hùng viết lại lời khai ở tòa của ông Dương Chí Dũng, được đánh máy lại từ audio của báo Tuổi Trẻ, trong bài nói trên rằng “Anh Tiệp có nói là “Anh yên tâm đi, tôi đã gặp và báo cáo với anh Trần Đại Quang – Bộ trưởng Bộ Công an, để anh Quang có ý kiến với anh Ngọ. Và anh Quang sẽ điện cho anh, để anh Ngọ không can thiệp hay gây khó cho doanh nghiệp nữa. Thì sau đó ít ngày, sau một thời gian tôi không nhớ bao nhiêu ngày, tôi có đến thăm gia đình anh Quang. Và ngồi ở phòng khách có hai anh em, anh Quang rất tình cờ tự nói ra những chuyện đó. Chính anh Quang bộ trưởng nói ra và tôi cũng báo cáo lại với anh Quang là “Anh Ngọ có giới thiệu công ty như thế…”

Ông Nguyễn Hùng viết rằng những số tiền hối lộ cho ông Phạm Quý Ngọ và một số ông lớn ở Bộ Công An “đều không được công khai điều tra”, một phần hiểu là không thấy báo chí tại Việt Nam đưa tin gì cả đối với một loại tin dư luận quan tâm như thế này. Ông Nguyễn Hùng cũng viết “Theo ông Dũng, người đưa tiền của bà Lan cho ông tên Tiệp. Các nguồn tin nói đây là ám chỉ Thiếu tướng Trần Quang Tiệp, trợ lý Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang”.

Trong bài phỏng vấn của tờ CAND ông Hoàng Kông Tư nói rằng “Trước hết, tôi khẳng định thông tin này là hoàn toàn bịa đặt, vì trong quá trình điều tra, Dương Chí Dũng có khai người đưa tiền của bà Lan cho ông tên là Tiệc. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã xác minh, làm rõ và xác định người tên Tiệc như Dương Chí Dũng khai là ông Ngô Xuân Tiệc, sinh năm 1961, thường trú tại 277 Phạm Văn Hải, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, là Chủ tịch, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư phát triển Tâm Sinh Nghĩa. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã làm việc với ông Ngô Xuân Tiệc và ông Ngô Xuân Tiệc đã viết bản tường trình cam đoan, khẳng định hoàn toàn không có sự việc như Dương Chí Dũng khai.”

Trên tờ báo lề trái Dân Quyền của Diễn đàn Xã hội Dân sự, một bài bình luận đặt một số câu hỏi và nghi vấn : “bỗng nhiễn lôi ông doanh nhân Ngô Xuân Tiệc nào đó vào cuộc, trong lúc toàn bộ hai phiên tòa xử Dương Chí Dũng chưa hề đề cập và làm rõ có hay không nhân vật này, thay vì “anh Tiệc” nào đó mà Dương Chí Dũng khai. Vậy thì liệu vị lãnh đạo cơ quan điều tra, mà ở đây là tướng Hoàng Kông Tư có vi phạm khi để lộ bí mật điều tra hay không? Tại sao toàn bộ quá trình điều tra xác minh này không được đưa vào hồ sơ vụ án để xét xử trước tòa, làm rõ có phải Dương Chí Dũng đã khai man để chạy tội?”

“Lợi bất cập hại thứ hai là ông Ngô Xuân Tiệc có thể kiện vì đã bị tiết lộ bí mật đời tư, nhân thân của ông, làm ảnh hưởng tới cuộc sống của ông, gây dư luận nghi ngờ không đáng có với ông là có liên quan tới tội trạng của Dương Chí Dũng.”

“Lợi bất cập hại thứ ba, có ý nghĩa “chính trị” là bỗng nhiên đặt ra một khả năng sẽ phải diễn ra một phiên tòa gồm Dương Chí Dũng, ông Thiếu tướng Trần Quang Tiệp – Trợ lý của Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang và ông Ngô Xuân Tiệc kia. Và cho dù phiên tòa đó chưa hoặc không diễn ra, thì vụ này sẽ được thổi bùng lên trên hệ thống báo chí, mạng xã hội. Cái “án” chưa được làm rõ này sẽ treo lở lửng trên đầu thầy trò Thiếu tướng Trần Quang Tiệp rất lâu, có thể qua cả Đại hội 12. Bất lợi vô cùng cho “công tác nhân sự”!”

Ông Hoàng Kông Tư viện cớ “ám chỉ thiếu tướng Trần Quang Tiệp” đê hô hoán “khởi tố” phóng viên Nguyễn Hùng về tội vu khống. Từ Tháng Giêng đến nay, người ta không hề thấy có một nhân vật nào tên Ngô Xuân Tiệc lên tiếng trên mặt báo đòi cải chính chuyện ông ta bị lôi vào vụ án của anh em ông Dương Chí Dũng, cho đến hôm thấy báo CAND dẫn lời ông tướng Tư.

Trên một trang mạng có tên “nguyentandung.org” mà lâu nay không ai biết đích xác chính thức của ai nhưng các bài viết trên đó đều phục vụ cho “lề phải” thì cũng có ngay một bài viết sỉ vả ký giả Nguyễn Hùng và đài BBC “cố tình đánh lận con đen”.

Ngay từ đầu bài viết có tựa đề “Lợi dụng vụ Dương Chí Dũng, BBC và Nguyễn Hùng cố tình đánh lận con đen” đã cáo buộc “BBC đã cho đăng tải bài viết với nội dung xuyên tạc, bịa đặt trắng trợn: “Dương Chí Dũng và những triệu đô la” mà người chấp bút là Nguyễn Hùng, một kẻ phản động lưu vong, tư tưởng phá hoại đặc sệt. Điều nguy hại là, khi bài viết này đăng tải, người ta “rất tin” vào những gì được “đẻ” ra từ tay Nguyễn Hùng.

Bài viết của nguyentandung.org đó viết thêm một số chi tiết về công ty kinh doanh và cá nhân của ông Tiệc nào đó rồi sỉ vả “Tư cách, phẩm chất đạo đức của người cầm bút Nguyễn Hùng như thế nào, có lẽ thông qua việc này đã rõ!”

Có nhiều lời bình luận của độc giả trên tờ Dân Quyền và trên Dân Làm Báo. Có lời bênh các ông Công an thì ít mà lời dè bỉu thì nhiều.

“Quẫn trí, điên khùng, ngu dốt, dại dột quá rồi. Để bào vệ một Đại tướng CA nghi can có tội Bộ CA lại điên rồ đòi khởi tố cả thế giới văn minh. Lời khai của Dương Chí Dũng liên quan đến việc đưa nhận hối lộ cho bộ trưởng Trần Đại Quang phải được điều tra độc lập. Kết luận của cơ quan điều tra bộ CA dưới quyền của bộ trưởng đương chức là hoàn toàn không khả tín.” Một độc giả của Dân Quyền viết. “Việc dùng các kết quả đó để truy bức phóng viên và những người liên quan là ngờ nghệch, ngu ngốc. Việc đưa tin bài của phóng viên BBC là thận trọng khách quan sẽ được cả thế giới truyền thông bảo vệ. Bộ trưởng Trần Đại Quang còn liên quan trách nhiệm không thể thoái thác về hàng chục cái chết của người dân trong đồn công an, việc này có thể bị khởi kiện quốc tế… Khi đã vấy máu người sẽ đến ngày phải bị trừng phạt. Lưới trời bao là sợi lông không lọt.”

Cả guồng máy Công an nổi tiếng là tham nhũng nhất của chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam, nhưng với chế độ thì nó là chỗ dựa để tồn tại. Liệu ông Hoàng Kông Tư và chế độ của ông có đưa được ký giả Nguyễn Hùng về Hà Nội để hành tội hay không?  Không mấy ai tin. (TN)