50 năm nhìn lại di sản VNCH  30-4-1975-2025

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

07/03/2025

Lúc này đã bước vào mùa xuân của năm 2025, đánh dấu một khởi đầu chặng đường 50 năm mất miền Nam, 30 tháng tư 1975 sắp tới.  Kể từ đó đến nay, nhiệt kế xem ra vẫn hừng hực lửa của hận oán và mất mát.  Vẫn chưa bao giờ có một tiếng nói chính  thức về cái mà người ta thường rêu rao Hòa hợp và hoà giải dân tộc. Tuyên truyền có thể có, thực tế là không.

Có một điều gì đó ngăn cản hầu như không thể vượt qua!!

Điện Biên Phủ đã qua, chia đôi đất nước, ta vẫn còn một nửa. 30 tháng tư, 1975, mất cả nước với nhiều tên gọi, nhiều chính sách vô nhân đạo như một trả thù của kẻ chiến thắng.

Làm sao quên được những lời nhục mạ như: ngụy quân, ngụy quyền. Chính sách  học tập cải tạo không ngày về. Có những người chịu đựng 17 năm tù, người khác chết rũ tù có đi mà không bao giờ trở lại.

Chính sách cải tạo hằng trăm ngàn quân  dân cán chinh mà thực tế không cải tạo được lấy một người.

Có cần phải nhắc lại hàng trăm ngàn người đã phải đi học tập cải tạo tại miền Bắc trên những vùng cao, hiểm trở, đồi núi lạnh lẽo rét buốt, phải lao động cực khổ, đói ăn, chết dần chết mòn không?

Đó là chính sách  về cái chết từng ngày, chết mòn nhục nhã và đau khổ thay vì một phát súng giải thoát.

Tưởng rằng cuộc chiến đã tàn cuộc!! Cuộc chiến với xác người, thiệt hại vật chất đã qua. Nhưng một cuộc chiến quá khứ vẫn như tro tàn âm ỉ. Hận oán vẫn ngút trời dễ dầu gì quên được!!

  • Ngay đối với kẻ thắng cuộc, nhiều người cảm thấy như bị lừa đảo…Thật vậy, cảm giác ngỡ ngàng đến sửng sốt với những kẻ chiến thắng khi vào tiếp thu miền Nam vẫn còn đó. Hình ảnh anh bộ đội khi quay về Bắc làm quà cho con là một con búp bê và chiếc khung xe đạp.

Thấm thía và nhục nhã lắm thay!!

Chưa bao giờ có một tiếng nói chính thức về cái mà người ta rêu rao, tuyên truyền về miền Nam. Họ kinh ngạc như những anh mán rừng bởi vì họ đã đem cả tuổi trẻ hy sinh và đánh cuộc , cuối cùng chỉ là nỗi thất vọng ê chề khi họ vào miền  Nam- như trường hợp nhà văn nữ Dương Thu Hương.

Sau này, bà đã kể lại nỗi thất vọng khi thấy miền Nam trù phú, tự do như thể ngoài sức tưởng tượng của bà. Sau này, bà đã viết tố cáo sự lừa bịp, dối  trá trong cuốn tiểu thuyết: Thiên Đường mù để tố cáo sự giả trả ấy.

Bà còn phẫn nộ tự nhận mình nay là kẻ làm giặc chống lại chế độ.

Ngày hôm nay, hàng triệu thanh niên miền Bắc đã “-sinh Bắc tử Nam”, chúng ta hãy  thực tình ngay thẳng nhìn lại những lời tuyên truyền dối trá “ đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, từng là mục tiêu của sự chế riễu và khinh rẻ miền Nam. Thực tế chỉ là cuộc chiến  ủy nhiệm  như lời tuyên bố của Lê  Duẩn: “ Ta đánh Mỹ là đánh  cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại;”

( Xem Vũ Thư Hiên: Đêm giữa ban ngày, trang  422.):

50 năm đã qua, nhưng nỗi đau còn nguyên vẹn, nặng trĩu trong tim họ, mặc dù họ không phải là nguyên nhân những nỗi đau ấy.

Trong 20 năm, từ 1975 đến 1995, Mỹ đề ra chính sách cấm vận nhằm cô lập Việt Nam, cộng thêm những chính sách hà khắc của nhà nước, dân chúng đói ăn, cơm độn khoai sắn bo bo..đã buộc hàng triệu người liều mình đi ra biển…Cái mà sau này người ta gọi là “ Boat people”.   Sau này đã có bao nhiêu người đến được bến bờ tự do, bao nhiêu người  bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp? Thật không kể xiết!!!

Trong khi đó, chính quyền Hà Nội qua thứ trưởng  ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn vẫn kêu gọi hòa hợp, hòa giải dân tộc qua Nghị Quyết 36? Hòa giải với ai? Với người đã chết hay người còn sống? Với thương phế binh VNCH? Với quá khứ của nền Đệ I Và Đệ II cộng Hòa?

Thực tế cho thấy, các thương phế binh này đã bị bỏ rơi, chỉ nhờ vào sự tương trợ của các tổ chức hải ngoại quyên góp tiền gửi về trong nhiêu năm quá.

Tất cả số phận quân dân miền Nam đã sống cô lập bên lề xã hội cộng sản.

Tôi  chỉ cần nêu ra một trường hợp cụ thể  là trong lãnh vực tôn giáo như Phật giáo kể từ năm 1981 đã trở thành Phật giáo nhà nước dưới sự kiểm soát của chính quyền không nói làm gì.

Riêng công giáo còn có cái tiếng là tự chủ, độc lập dưới cái dù che của Vatican. Tuy nhiên, điều cần và đủ là họ chỉ được nói và phát biểu hoàn toàn trong phạm vi nhà thờ. Ngoài ra là một cấm kỵ không có văn bản, họ không bao giờ dám đề cập xa gần đến Đệ I  và Đệ II  cộng hòa.

Các giám mục cai quản hiện nay phải biết im lặng, không dám phê phán về tệ nạn xã hội xảy ra hằng ngày trước mắt họ..

Đó là bàn tay bạo lực được che đậy, dấu kín. Muốn yên thân, họ phải câm lặng như những loại chó câm- chó không biết sủa- một từ ngữ của giám mục người Pháp, đức cha Seitz, (Kim) trong Les chiens Muets

Chó là để sủa, chó không biết sủa có còn là chó không?.

  • Hai mươi năm miền Nam nhập cuộc và 30 năm sau giải phóng.

Tôi xin được lấy lại lời của triết gia  E. Mounier như một cột mốc khởi điểm tóm gọn tinh thần của miền Nam tự do:

Đôi khi lịch sử cũng ban thưởng cho kẻ cứng đầu, và một hòn đá tảng đặt đúng chỗ, có thể chuyển hướng cả một dòng sông.”

Miền Nam là những ai trong mỗi chu kỳ lịch sử? Nhiều lắm kể sao cho xiết. Vấn đề là: Liệu có thể kiếm ra được ai là hòn đá tảng có thể chuyển hóa cả một dòng sông?

Hãy cùng nhau nhớ lại về mặt lịch sử, chính trị. Hai miền Nam-Bắc trở thành hai thực thể đối đầu. Sự ngăn cách không hẳn chỉ nằm ở dòng sông Bến Hải  mà còn in sâu trong tâm thức người dân miền Nam, bên này người Việt quốc gia chống ý thức hệ cộng sản bên kia, chủ nghĩa cộng sản vô thần..

Mà thực tế cùng là người Việt, cùng máu đỏ da vàng, nhưng không còn nhìn nhận nhau là người Việt nữa. Chỉ có bạn, đồng chí hay kẻ thù!!!Lẳn ranh thật rõ ràng và dứt khoát không có cơ may nào nối lại.

Hòn đá tảng mở đầu cho miền Nam xoay ngược tình thế lịch sử, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, giáo dục chính là ông Ngô Đình Diệm.

Từ một chế độ thực dân, phong kiến thối nát, bóc lột và hại dân, ông Diệm biến nó trở thành một chế độ dân chủ cộng hòa.

Cần nhắc với  nhau rằng khi ông Diệm nhận chức Thủ tướng về nước, miền Nam đang ở bên bờ vực thẳm về chính trị, kinh tế, bị khuynh đảo bởi nhiều thế lực cả bên trong lẫn bên ngoài..

Lúc ấy, chỉ cần ổn định tình thế là đủ trở thành vị cứu tinh. Stephan Pan, trong Viet Nam crisis đã nhận xét không sai: “Ngo Đinh Diêm assumed the prime ministership in 1954 when his country was facing economic chaos, political íntasbility and external subversion, not on a massive scale, but on a scale that kept increasing intensity. He led South Viêt Nam through this initial crease, changed it from a  the first national monarchy in a republic and built the first national loyalty íts people ever know.

Đến lượt nhà văn đại diện cho giới trí thức miền Nam lúc bấy giờ, Mai Thảo đã hãnh diện tuyên bố: “Sài gòn, thủ đô văn hóa miền Nam. Sài gòn thay thế cho Hà Nội, từ một đô thị miền Nam trở thành một thủ đô tinh thần của toàn thể đất nước, Saigòn sáng tạo và suy tưởng”

( Tạp chí Sáng Tạo, số đầu 1956).

Bên cạnh Sáng Tạo, còn nhiều báo chí, tập san ra đời như  Tạp chí Văn Hóa Á Châu của giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Quê Hương của giáo sư Nguyễn Cao  Hách, Tin Sách của giáo sư Thanh Lãng, Luận đàm của hội Giáo chức với các cụ  Thẩm Quỳnh và Nghiêm Toản, tạp chí Bách Khoa của của Huỳnh Văn Lang, Hiện Đại của thi sĩ Nuyên Sa, Thế kỷ 20 của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch..

Trong 20 năm ấy, miền Nam đã hình thành một sắc thái văn hóa riêng, một nền giáo dục chuyên môn và nhất là tinh thần làm việc, về ý thức dân chủ, về ý thức tự do về những giá trị nhân bản.

Và nhất là quyền con người.

Tâm thức ấy, lý tưởng ấy đã khắc sâu, truyền thừa chẳng những trong 20 năm miền Nam mà còn là hành trang khi đối đầu với thế lực với kẻ thắng cuộc trong suốt hành trình 30 năm còn lại sau này.

Tuy nhiên, trong thế đối đầu với cộng sản, chọn lựa giữa tranh đấu cho dân chủ của một miền Nam dân chủ, tự do và tác động sống còn vẫn là chọn lựa đối đầu với cộng sản phía bên kia thật sự không dễ dàng gì!!  Phải hy sinh điều gì, dân chủ hay độc đoán?

Vì thế, trong viễn tượng đường dài, ngay trong tình huống thất vọng thua cuộc, giới trí thức miền Nam vẫn hoàn tất vai trò nhân chứng, vai trò phản biện, vai trò tố cáo và cả vai trò tiên tri cho cả giai đoạn sau 30 tháng tư. Nên nhớ cho bởi khát vọng tự do, dân chủ đã thấm đẫm trở thành máu thịt với khát vọng xóa bỏ mọi thứ độc tài đảng trị, khát vọng về công bình xã hội, khát vọng về một cuộc cách mạng cho người nghèo, vì người nghèo, khát vọng chấm dứt phân ly, thù hận trong cộng đồng dân tộc vẫn là khát vọng  chung của đất nước.

Tình hình miền Nam sau 1954, mỗi ngày thêm ổn định như nhận định của giáo sư Vũ Văn Mẫu: “Quá khứ trong sạch của Ngô Đình Diệm khi làm việc quan, tính tình khí khái của ông khi từ chức Thượng Thư Bộ Lại trong nội các đầu tiên của Bảo Đại.”

Trong giai đoạn này, chính phủ Ngô Đình Diệm đã giải quyết vấn đề định cư cho cả  triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam, giải quyết vấn đề các giáo phái, ổn định kinh tế và quan trọng là: phát triển đào tạo giáo dục.

Giáo sư Lý Chánh Trung ghi nhận dưới thời ông Diệm, năm 1954-1955 có 1000 trường tiểu học với 7000 lớp học. Qua năm 1961-1962 có 4172 trường tiểu học với 21.817 lớp học. Gần 200 trường trung học đã được xây dựng cho các tỉnh ly và quận lỵ. Ngay các vùng hẻo lánh, nghèo nàn như Gio Linh, Bồng Sơn, Cà Mâu, Trà Oạn vv.. đều có trường học.

Viện Đại học Sài gòn được trao trả ngày 11/5/1955. Hai năm sau thành lập Đại học Huế ngày 12/11/1957. Và năm 1958, đại học Đà Lạt.

Chính sự phát triển đồng  bộ về giáo dục từ tiểu học, trung học, đại học và các ngành chuyên môn là điều mà trong suốt thời kỳ chiến tranh Hà Nội đã không bao giờ thực hiện được.

Về an ninh, năm 1956, 80% cán bộ hạ tầng Việt minh bị triệt hạ. Trại tù Chí Lợi ở Bình Dương tập trung đến  6000 chính trị phạm cộng sản bị bắt giam.

Đặc biệt ở miền Trung, cán bộ cộng sản dưới thời của Ngô Đình Cẩn gần như bị trừ diệt toàn bộ cán bộ nằm vùng.

Đây là điều mà người Pháp không làm được trong suốt 9 năm chiến tranh Việt-Pháp.

Vào những năm đầu của chính thể ông Diệm, người ta có thể đi suốt ngày đêm từ Cà Mâu đến Bến Hải một cách an toàn. Thôn quê miền Nam tương đối an toàn.

Để tóm tắt giai đoạn này, xin trích dẫn nhận định của một sử gia trẻ tuổi Edward Miller như sau: “ Ngô Đình Diệm là người có hoai bão. Với tư cách lãnh đạo miền Nam từ 1954 đến 1963. Diệm mong muốn trở thành người lãnh đạo hàng đầu trong việc xây dựng chính quyền Quốc gia, ông cương quyết tìm ra một đường lối khác biệt với con đường mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản  Việt nam đang theo đuổi.” ( Ngô Đình Diệm was a dreamer. As ruler of South Viêt Nam from 1954 to 1963. Diệm aspired to greatness as nation builder and he was determined to find  an alternative to the path taken by Hồ Chí Minh and the Vietnamese Communists.)

Hay như ông  Denis warner, người Úc nhận xét: Diêm là The last Confucius- Nhà nho cuối cùng con lại.

  • Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu

Khi chế độ Diệm sụp đổ, Hà Nội cho là thời cơ may đã đến bất ngờ với họ. Họ cấp tốc thi hành những biện pháp tức thời sau đây:

  • Chọn một số Trung đoàn đưa gấp vào Quân Khu V và Tây nguyên.
  • Mở rộng đường vận chuyển chiến lược 559
  • Đưa gấp vào chiến trường những vũ khí chống lại thiết vận xa M.113.
  • Bùi Tín có mặt trong đoàn cán bộ 24 người vào miền Nam quan sát tình hình tại chỗ.
  • Đưa đại tướng Nguyễn Chí Thanh trở lại quân đội để vào miền Nam nhận nhiệm vụ tổng tư lệnh và lên đường ngay tháng 12/1963.

Chính vì thế,  sau 1963, chính phủ quân nhân do tướng Thiệu cầm đầu đã gặp rất nhiều trắc trở tứ phía với sự xâm nhập từ miền Bắc vào Nam trên đường mòn Hồ Chí Minh. Nhiều dấu hỏi được đặt ra tại sao người Mỹ có mặt ở Việt Nam, tại sao họ rút lui, tại sao thua?

Câu trả lời đã có hồi đáp của TT. Nguyễn Văn Thiệu: “ Họ đã bỏ rơi chúng tôi. Họ đã bán đứng chúng tôi. Họ đã đâm sau lưng chúng tôi. Đó là sự thực. Họ đã phản bội chúng tôi. Một đồng minh vĩ đại đã  thất ước với một đồng minh nhỏ bé.” ( They abandoned us. They sold us out. They stabbed us in the back. It ís true. They betrayed us. A great ally failed a small ally.

( Trong” The ten thousand day war- Michal Mac lear, trang 395.)

Cuộc chiến ngày một thêm khốc liệt. 10 ngàn binh sĩ cộng sản đã trở thành tro bụi dưới bom đạn B.52 ở Khe Sanh, rồi tết Mậu Thân cũng vậy…

Cộng thêm vào đó, việc chống đối chiến tranh của giới văn nghệ sĩ miền Nam ngày càng lan rộng từ nhiều phía. Họ là những tên tuổi nổi tiếng là thành phần thiên tả, lực lượng thứ thú ba, đòi hỏi chấm dứt chiến tranh từ một phía như Nguyễn văn Trung, Lý  Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, vương Đình Bích, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín và nhiều người khác…

Sau này họ mới vỡ lẽ ra rằng, điều mà họ đòi hỏi tự do ngôn luận, tự do báo chí là những điều thật ra họ đã có sẵn trong túi áo của họ..

Cái mà người viết bài này dành bẽ bàng gọi tên nó là ảo tưởng của trí thức miền Nam và chúng ta có vẻ tất CẢ là NHỮNG KẺ VẼ ĐƯỜNG CHO HƯƠU CHẠY. Hay nói một cách bình dân là những kẻ tiếp tay, nối giáo cho giặc.

  • Một trang sử mới bắt đầu và mở ra: 30/4/1975- 25/5/2025

Tôi vẫn tin rằng: trong cái rủi có cái may. Lịch sử đôi khi cũng đem lại những cái bất ngờ đầy ý nghĩa và thú vị như một bù trừ, một báo hiệu tin lành..

  • Cuộc di cư. Chẳng mấy ai ngờ và tin rằng cuộc di cư đem lại những thành quả bất ngờ là thống nhất Nam Bắc một nhà. Nếu cuộc di cư năm 1954-1955 đã đem lại những thành quả đáng khich lệ khi một triệu người di cư vao miền Nam đã tạo ra hai dòng chảy văn học, hai nếp sống văn hóa, sức mạnh đoàn kết, ý chí vươn lên, hai giọng ngôn ngữ, hai nếp sống tôn giáo giữa Bắc và Nam.

Nó hòa quyện vào nhau như thể là một. Nó tạo ra sức mạnh của miền Nam với một quân đội được huấn luyện tại các trường hạ sĩ quan  Đồng Đế, chuẩn úy tại Thủ Đức và thiếu úy ở trường sĩ quan Đà Lạt và được được trang bị đầy đủ.

Sự quyết tâm rời bỏ quê cha đất tổ, bỏ lại tất cả lên đường vào Nam là một cuộc bỏ phiếu bằng đôi chân. Đã có gần 2 triệu đôi chân như thế, từ già trẻ lớn bé, từ người nông dân đến trí thức thành thị, từ giới nhà văn đến giới tu sĩ đã ơi ới gọi nhau lên đường vào miền Nam.

  • Một chiến dịch Passage to Freedom là niềm tự hào của người ra đi và sự mở rộng bàn tay đón tiếp của  con dân miền Nam.

Người miền Bắc cộng sản sau này chưa bao giờ được hưởng cái ân huệ ấy và sẽ không bao giờ xảy ra.!!

  • Cuộc di tản sau 1975.

Với cái tinh thần ấy, cuộc di tản của người miền Nam cũng sẽ nối tiếp con đường của cuộc di cư năm 1954 và nó còn mở ra nhiều cơ hội hơn thế nữa của thế giới tự do.

Tôi có dịp viết một bài về cuộc di tản ra chiến hạm chỉ huy Blue Ridge cùng với 30 chiến hạm đủ loại của Hạm đội 7 đang đậu sẵn ở ngoài khơi bờ biển VN , cách Vũng tàu khoảng 30 dặm vào lúc miền Nam đang hấp hối..

Các chiến hạm ấy đang chờ để đón lính Mỹ và người Việt Nam từ đất liền… Sứ mạng lần này không giống với 21 năm về trước tại vịnh Hạ Long.

Trên boong chỉ huy của chiến hạm của viên Đô Đốc hạm đội 7, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả, nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường Việt Nam như Stanlay Karnov, David Haberstam, Neil Seehan, John Kenneth Galbraith và nhiều người khác. Dầu vạy còn được biết 125  nhà báo trong số họ, đủ quốc tịch tình nguyện ở lại để tường thuật cơn hấp hối của miền Nam…

Bên cạnh đó, người ta còn nhận thấy có phụ tá trùm mật vụ Frank Snepp đã  vừa đến đây,  người mà trước đây đã hộ tống  tt. Nguyễn Văn Thiệu ra đi trước đó mấy ngàyự

  1. Snepp đến đây với mục đích là để đón tiếp một nhân vật quan trọng nhất-đại diện cho nước Mỹ- trong lúc này. Đó là đại sứ Martin. Ông là người Mỹ cuối cùng rời Việt Nam mà trên tay chỉ ẵm theo một gói nhỏ: Đó là lá cờ nước Mỹ.

Lá cờ đã được cuốn lên có nghĩa là nước Mỹ không còn ở đó nữa..!!.

Ngay khi vừa bước lên chân lên boong tàu vào lức 2 giờ 47, giờ Sàigon. Ông đại sứ đã nhận được một điện chúc mừng của H.Kissinger với nội dung như sau:” Với lời ngợi khen nồng nhiệt  vì ông đã chu toàn trách nhiệm Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!

Trong khi đó, những con thuyền nhỏ như lá tre của dân tỵ nạn nhấp nhô trên mặt biển. Đó là những con thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy cộng sản. Họ là ai? Họ có thể là bất cứ ai. Số phận họ rồi sẽ ra sao? Chẳng ai tiên đoán được tương lai họ như thế nào ? Chỉ biết rằng con số được vớt đi trên biển là 100.000 người được vớt đi từ các chiến hạm trong tổng số 250.000 được đi bằng các phương tiện khác như máy bay..

Sự ra đi trên biển cả thật bi tráng và tuyệt vọng như số phận những lá tre trên một đại dương!!

Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nay ngồi nghĩ lại, nhiều người đã không mường tượng nổi họ đã có thể làm được một điều như vậy!

Cứ như một phép lạ Hy Lạp. Cứ như sự đáp trả như một cát tát vào mặt người cộng sản. Cứ như một lời tố cáo trực tiếp: chúng tôi có mặt. Cứ như một tín hiệu cho thấy: đất lành chim đậu. Cứ như một dấu hiệu đâu là quê hương đích thực, đâu là bến đỗ, đâu là chỗ để về…

Nhưng cái Sô vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì.

Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, ngay cả việc trốn chạy.

Nhận xét ấy ăn khớp với điều mà Sir Robert Thompson, một chuyên gia về du kích dưới thời đệ I cộng hòa đưa ra lời tiên đoán trước đó vào ngay 23/3/1975 như sau:” Chúng ta sắp chứng kiến một cuộc đầu hàng chiến lược của Hoa Kỳ.. Cuộc  triệt thoái khỏi Đông Dương là cuộc rút lui lớn nhất thế giới từ khi Napoleon rút lui khỏi Moscou.”.

Một vụ cần nói lại trong chuyến tàu vượt biển này là có một chiếc trực thăng do một vị tướng không quân chở theo một trung tướng quân đoàn đã đáp trực thăng xuống tàu chỉ huy Blue-Ridge. Một sĩ quan đã báo việc này lên vị đô đốc. Ông đã ra lệnh và nói vị thiếu tướng không quân nội dung như sau: Nói với y là đây không thuộc lãnh thổ VNCH mà là nước Mỹ ngoài biển. Và yêu cầu họ cởi bỏ quân phục cũng như lon chậu, đồng thời giữ im lặng, không được tuyên bố điều gì.

Được biết, sau đó vị tướng Không quân đã quỳ phủ phục xuống sàn tàu và thề rằng sẽ có một ngày ông sẽ trở về.

Quả thực, sau này ông đã quay trở về VN, nhưng không phải để phục quốc mà để bắt tay hòa giảo với chính quyền cộng sản..

  • Thế hệ người Việt thứ hai.

Phần những đồng bào may mắn đến được miền Đất Hứa đã hy sinh đời mình cho đời sau con cái, đã tận tụy làm ăn.. Con cái họ nay đã trưởng thành với phần đông thành công trên xứ người, không phụ lòng cha mẹ.

Cả một thế hệ tương lai đầy hứa hẹn như một biểu tượng  thành  công nơi xứ người trong sự hội nhập đem lại hãnh diện cho cá nhân gia đình mà còn góp phần vào gia tài chung của thế giới.

Chúng ta chỉ cần nhìn lại miền Nam Cali, nơi có gần một triệu người Việt sinh sống. Họ tạo  thành một sức mạnh kinh tế, xã hội, văn hóa. Đã có  các tướng lãnh trong nhiều binh chủng Hoa Kỳ, đã có ngững chuyên viên thượng thặng trong nhiều cơ quan chính phủ Hoa Kỳ.. Người Việt hải ngại ngày nay có quyền hãnh diện về những thành quả ấy.

Phần giới trẻ sẽ dần quên quá khứ và những gì chúng biết được, nghe kể lại từ cha ông chúng sẽ chỉ còn là những hoài niệm quá khứ mờ nhạt, lu mờ.

  • Và cái ngày hôm nay, sau 30 tháng tư, 1975, sau 50 năm.

Sau 50 năm, tôi và những người Việt di tản trên dưới 3 triệu người trên khắp thế giới tự hỏi chúng ta được gì? Và mất gì?

Câu hỏi rất thiết thực và xác đáng cần có câu trả lời. Phần tôi, không có tư cách gì đại diện thay cho hơn 3 triệu người ấy.

Nhưng tôi thành thực nghĩ rằng, khi ra đi, tôi đã mất trắng tất cả như một thứ ăn cướp ngày một cách công khai. Từ quê hương, nhà cửa, bạn bè, họ hàng và cả quãng đời tuổi trẻ miền Nam của tôi được lớn lên, được ăn học trở thành người thông tuệ.

Sang xứ người, tôi đã có lại tất cả mọi thứ, con cái tôi được ăn học đến nơi đến chốn mà nếu ở VN, rất có thể, chúng sẽ dở dang không ra ông ra thằng..

Phần trong giới quen biết, những người có căn bản học vị như bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, kỹ sư đều có cơ may trở lại nghề cũ, hội nhập và đời sống thu nhập cao…

Nghĩ lại những điều ấy, tôi thấy rằng món quà cao quý nhất mà đất nước này dành cho tôi và những người khác là Tương Lai.

Có thể có tương lai, có niềm hy vọng là có tất cả mà chính quyền cộng sản không hề có để ban phát.

Kỷ niệm 50 năm ngày mất miền Nam, thay vì nguyền rủa bóng tối, tôi an ủi thân phận mình vẫn còn chút gì và bằng lòng về những điều ấy cho riêng mình…

Tương lai với đầy triển vọng và hứa hẹn vẫn thuộc về chúng ta.


 

Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam và các Vị Tử Đạo Bà Rịa

Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam và các Vị Tử Đạo Bà Rịa

“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9)

Và Người đã dạy tất cả chúng ta:

“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; nếu chết đi thì nó mới sinh được nhiều bông hạt khác.” (Ga 12,24)

Đức Kitô là hạt lúa miến mà Chúa Cha đã gieo vào mảnh đất thế gian. Người đã tự hủy cách hoàn hảo, đơm hoa kết trái dồi dào. Người đích thực là vị tử đạo đầu tiên, trung kiên với sứ mạng được Thiên Chúa Cha trao phó. Người đã chết để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chân lý. Cuộc đời rao giảng, cuộc tử nạn và phục sinh của Người đã trở thành điểm khởi đầu và cùng đích cho đời sống đức tin của các Kitô hữu.

Khởi đi từ các tông đồ, trải qua lịch sử hơn 2000 năm của Giáo hội Công Giáo, các tín hữu ở khắp cùng trái đất đã vui mừng đón nhận vinh phúc tử đạo và coi đó là phương thế tuyệt vời để được chung phần với Đấng Phục Sinh. Các ngài đã sống và chết trong những bậc sống và hoàn cảnh khác nhau để làm chứng cho các giá trị Tin mừng.

Giáo hội Việt Nam hạnh phúc và tự hào khi được cùng chia sẻ vai trò chứng nhân cho con người trên quê hương Việt Nam này. Kể từ ngày các nhà thừa sai gieo mầm đức tin tại Việt Nam, hàng trăm ngàn tín hữu trên mảnh đất hình chữ S đã anh dũng tuyên xưng niềm tin của mình, dù phải chịu bắt bớ, tra tấn, tù đày và hy sinh mạng sống.

Gương sáng của các ngài đã được Giáo hội Hoàn Vũ ghi nhận và tôn vinh. Ngày 19 tháng 6 năm 1988 đã trở thành cột mốc trọng đại trong lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam, tại quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng Hiển Thánh.

Trong số 117 vị, có 08 vị Giám mục đều là thừa sai ngoại quốc, 50 Linh mục với 13 vị người nước ngoài và 37 vị  người Việt Nam, 14 Thầy Giảng; 01 Chủng Sinh và 44 Giáo dân. Trong 117 cái chết anh dũng, có 01 vị chịu bá đao, 04 vị chịu lăng trì, 06 vị chịu thiêu sống, 75 vị chịu xử trảm, 22 vị bị xử giảo và 09 vị chết rũ tù.

Hướng về các bậc tiền bối với tâm tình ngưỡng mộ và biết ơn, cũng như để nhắc lại gương sáng của các ngài, hôm nay, Giáo hội Việt Nam đã công bố mở Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố lịch sử trọng đại này. Năm Thánh khai mạc vào ngày 19.6.2018 (ngày tuyên phong 117 vị Thánh Tử đạo Việt Nam) và Bế mạc vào ngày 24.11.2018, ngày Lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong năm lịch phụng vụ. Trong Năm Thánh này, các tín hữu được hưởng Ơn Toàn xá khi tham dự lễ khai mạc và bế mạc Năm Thánh, cũng như khi hành hương đến các địa điểm được chỉ định.

Tại Giáo phận Bà Rịa, thánh lễ khai mạc Năm Thánh được cử hành lúc 09g30 ngày 19.6.2018 tại Nhà thờ Chánh Tòa; thánh lễ bế mạc vào lúc 09g30 ngày 18.11.2018 tại Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu.

Nhà thờ Mồ được chọn làm nơi hành hương cho các tín hữu trong năm thánh. Nhà thờ Mồ nằm cách Nhà thờ Chánh Toà hiện nay khoảng 300m, trên khu đất trước đây là nghĩa trang giáo xứ. Dù chỉ là một ngôi nguyện đường khiêm tốn, nhưng đây chính là nơi cất giữ cả một ký ức hào hùng của cộng đoàn tín hữu Bà Rịa. Nơi đây ghi danh 288 vị anh hùng đức tin, và ghi dấu nhiều tín hữu vô danh khác, đã đổ máu đào làm nên lịch sử hào hùng cho mảnh đất Bà Rịa.

Chúng ta cùng lần giở lại những trang sử hào hùng cách đây gần 150 năm, để nhìn thấy dòng máu đỏ đã tuôn trào, làm nảy sinh và tăng trưởng bao thế hệ tín hữu. Năm 1861 – 1862 được ghi dấu là 02 năm lửa máu của Phước Tuy, tên gọi trước kia của Bà Rịa. Chính quyền thời đó ngờ vực người Công giáo theo Tây, cụ thể là các nhà sừa sai ngoại quốc cùng các binh sĩ Pháp và Tây Ban Nha, nên đã ra sức lùng bắt các tín hữu. Có khoảng 700 tín hữu đã bị bắt và giam vào 04 ngục thất:

Ngục Chánh tại làng Phước Lễ, giam 300 nam tín hữu.

Ngục thứ Hai cách ngục Phước Lễ khoảng hơn 3000 thước, dọc theo con đường Bà Rịa –  Xuân Lộc. Nơi đây giam giữ 135 tín hữu.

Ngục thứ Ba cách Phước Lễ độ hơn 5000 thước, trên đường hướng về Đất Đỏ, Long Điền. Có 140 tín hữu đã bị giam giữ tại đây.

Ngục thứ Tư trong làng Phước Thọ, trung tâm Họ Đất Đỏ, là nơi giam giữ 125 nữ tín hữu và trẻ con.

Thế rồi ngày hạnh phúc của các tín hữu đã đến. Ngày 7 tháng Giêng dương lịch năm 1862, người Pháp dẫn binh chiếm Phước Tuy, chính quyền địa phương tưởng rằng họ tiến vào giải thoát các tín hữu nên đã phóng hỏa 4 ngục thất. Ngoài một số tín hữu thoát thân, có tất cả 444 vị đã bị chết trong cuộc thiêu sinh đó.

Sau vài tháng tạm yên ổn, cuối năm 1862, một cuộc bắt bớ khác lại tái diễn ở vùng Gò Sầm, Đất Đỏ. Một cuộc lùng sục, truy đuổi các tín hữu lại diễn ra, chủ yếu vùng Đất Đỏ và Họ Thôm (Long Tâm). Lần bách hại này tuy ngắn ngủi nhưng cũng gần 200 tín hữu đã bị sát hại.

Tuy vậy, đúng như lời Chúa nói: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, nếu chết đi thì nó mới sinh được nhiều bông hạt khác. Các tín hữu đã nằm xuống vì đức tin, giọt máu của các ngài đã thấm vào mảnh đất Bà Rịa, làm đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái là bao thế hệ Kitô hữu. Đạo Công giáo dần dần phục hưng và phát triển trên mảnh đất Bà Rịa.

Những năm sau đó, nhiều linh mục, trong đó có các Cha Cố người ngoại quốc, đã lần lượt đến để đồng hành, chăm sóc các tín hữu. Đặc biệt, Họ Bà Rịa vinh dự được Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (sau này là Giám mục tiên khởi của Giáo hội Việt Nam) coi sóc từ năm 1917 đến 1926. Nhiều họ đạo đã được thiết lập, nhiều nhà thờ và các cơ sở tôn giáo như trường học, đất thánh, lầu chuông, phòng thuốc,…cũng dần xuất hiện. Các cử hành phụng vụ, các sinh hoạt giáo hội tại các họ đạo cũng ngày càng phát triển về quy mô và số lượng. Đặc biệt, ngày càng có nhiều anh chị em lương dân tìm đến với Giáo hội để được học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Khai tâm Kitô giáo.

Nhìn lại hành trình đức tin trong những thế kỷ qua, nhìn thấy những thành quả tốt đẹp của Giáo hội hiện tại, mỗi người chúng ta càng được nhắc nhớ phải tỏ lòng tri ân các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các Vị Tử đạo tại Bà Rịa cùng hàng trăm ngàn Kitô hữu vô danh khác đã hy sinh tính mạng để bảo vệ đức tin. Chúng ta tri ân các ngài bằng chính cuộc đời nhân chứng của mình. Đó cũng là lúc chúng ta tiếp nối sứ mạng của các ngài, thi hành nhiệm vụ của mỗi người tín hữu đã được Chúa Phục sinh trao phó.

Về việc tổ chức mừng năm thánh, tại Giáo phận Bà Rịa, ngoài thánh lễ khai mạc và bế mạc Năm thánh, mỗi giáo xứ, giáo họ biệt lập, các dòng tu, các giới và các thành phần tông đồ cấp giáo phận sẽ thực hiện một ngày hành hương riêng kính viếng Nhà thờ Mồ. Ngoài ra, tại mỗi giáo hạt sẽ cử hành ngày sinh hoạt để học hỏi, tôn vinh và cầu nguyện cùng các Thánh tử Đạo Việt Nam cũng như các Vị Tử đạo Bà Rịa.

Sống tinh thần Năm Thánh, mỗi tín hữu được mời gọi chiêm ngắm và học hỏi gương sống đức tin của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Việc học hỏi này vừa giúp chúng ta hiểu biết hơn về lịch sử Hội Thánh và Các Thánh Tử Đạo, vừa thúc đẩy chúng ta noi theo gương sống của các ngài, tích cực sống tinh thần tử đạo trong cuộc sống hàng ngày hôm nay.

Ước gì, nhờ việc tham dự các cử hành Năm Thánh Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mỗi Kitô hữu chúng ta được hưởng trọn vẹn những ơn ích thiêng liêng mà Năm Thánh đem lại, biết dùng ơn Chúa ban để hăng hái phụng sự Chúa, và tích cực góp phần vào việc loan báo Tin Mừng trên quê hương đất nước chúng ta.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu cho dân tộc Việt Nam chúng con. Amen.

Lm. Antôn – Phước Tỉnh


 

Nửa thế kỷ khai tử, Sài Gòn vẫn bất tử-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

February 27, 2025

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

“Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên”[*].

Sài Gòn, danh xưng đã có từ hơn ba thế kỷ để chỉ một vùng lãnh thổ trung tâm phía Nam Việt Nam, nơi đã từng hào phóng đón nhận biết bao thế hệ người Việt cất công nam tiến khai phá vùng đất mới.

Sài Gòn, nhờ vị trí đắc địa đã trở thành một điểm giao thoa của nhiều tôn giáo, nền văn hóa, dân tộc, thành phần … biến sự thân thiện, chân thật, hào sảng trở thành tâm tính địa phương.

Một quán cà phê ở Sài Gòn ngày nay có tên là “Sài Gòn Xưa” như một hoài niệm một thời đã được sống mà không thể nào quên. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Sài Gòn, nơi đã từng là thủ đô của cả một quốc gia dưới nền Cộng Hòa trước khi ngơ ngác thấy mình có danh tính mới vào ngày 2 Tháng Bảy 1976.

Trước đó, thời thuộc Pháp, Sài Gòn vốn đã là trung tâm hành chính của vùng Đông Dương bao gồm Việt, Miên (Cambodia ngày nay) và Lào. Khi ấy, dinh toàn quyền Đông Dương (Dinh Norodom) được người Pháp cho đặt tại Sài Gòn.

Sau khi giành được độc lập, tư cách pháp lý của đô thành Sài Gòn được xác lập vào ngày 22 Tháng Mười 1956, với Sắc lệnh số 143-NV của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhằm đổi tên các tỉnh thành miền Nam Việt Nam, theo đó, đổi tên Sài Gòn – Chợ Lớn thành đô thành Sài Gòn của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, quản lý vùng lãnh thổ từ dưới vĩ tuyến 17 đến Cà Mau theo Hiệp định Genève năm 1954.

Đến ngày 2 Tháng Bảy 1976, sau khi chế độ Cộng Sản thống nhất được lãnh thổ, họ đã thông qua quốc hội để đổi tên đô thành Sài Gòn trở thành thành phố Hồ Chí Minh, vốn là tên giả lãnh tụ của họ: ông Nguyễn Sinh Cung.

Lần giở tài liệu từ khối ý thức hệ Cộng Sản, họ đã từng có tiền lệ đổi tên địa danh bằng tên lãnh tụ.

Trong đó, năm 1925, họ đã đổi tên thành phố Volgograd, tọa lạc tại bờ tây hạ lưu sông Volga, một trong những trung tâm công nghiệp lớn của nước Nga, thuộc Liên Xô cũ trở thành thành phố Stalingrad, tên lãnh tụ Joseph Stalin của Liên Xô khi ấy. Đến năm 1961, sau khi Stalin đã qua đời, thì thành phố mới được phục hồi lại tên cũ Volgograd.

Cũng vậy với thành phố Saint Peterburg. Năm 1924 bị đổi thành thành phố Leningrad, tên lãnh tụ Cộng Sản. Đến tận năm 1991,sau khi Liên Xô tan rã, thành phố mới được phục hồi tên cũ.

Lấy cảm hứng từ các sự kiện đổi tên thành phố này, một bác sĩ thân Cộng là ông Nguyễn Hữu Nghiệp đã vận động nhóm thân hữu cùng đề xuất lấy tên ông Hồ Chí Minh để đổi tên cho đô thành Sài Gòn. Đề xuất này đăng tải trên báo Cứu Quốc, xuất bản tại Hà Nội vào ngày 27 Tháng Tám 1946.

Đến 30 năm sau, khi cưỡng chiếm được miền Nam, giành quyền quản lý toàn lãnh thổ, trong đó có đô thành Sài Gòn, chế độ Cộng Sản đã thay đổi thành thành phố Hồ Chí Minh.

Dịp ấy, người miền Nam, người Sài Gòn tiếc nuối danh tính cũ, vốn đã có từ hàng trăm năm, đã uất hận than thở: “Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên”.

Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn thường được gọi là “Nhà thờ Đức Ba” tọa lạc ở trung tâm thành phố. Lễ Giáng Sinh hàng năm, không phải chỉ có tín đồ Thiên Chúa Giáo, cả triệu người đổ dồn về đây và các đường phố chung quanh hân hoan chào mừng ngày lễ Chúa giáng trần. (Hình: Chris Jackson/AFP/Getty Images)

Tuy đã bị khai tử, nhưng sau nửa thế kỷ, có vẻ như danh xưng Sài Gòn chưa một lần mất dấu. Cái tên Sài Gòn vẫn cứ tồn tại nhờ chính hệ thống truyền thông của chế độ Cộng Sản trong nước, khi bị gắn tên vào những sự kiện tiêu cực, như: Nếu mưa thì “Sài Gòn ngập đến đầu gối”, nếu nắng “Sài Gòn vật vã dưới nắng nóng”, nếu chết “Phát hiện xác chết nam giới nổi trên sông Sài Gòn”, nếu nghiện ngập “Bắt khối lượng ma túy lớn ở Sài Gòn”, nếu chơi bời “Phát hiện ổ mại dâm ở Sài Gòn”, nếu tệ nạn “Chém nhau trên phố Sài Gòn”, thậm chí, nếu hỏa hoạn “Cháy lớn ở Sài Gòn” … đều là những cái tít trên mặt báo của chế độ.

Nhờ vậy, dù nằm ngoài toan tính của chế độ, nhưng đã góp phần giữ gìn lại cái tên Sài Gòn.

Điều đó như đúng tính chất Sài Gòn, nơi không chỉ giao thoa của nhiều tôn giáo, văn hóa, dân tộc, thành phần. Mà còn chứa chấp đủ mọi loại hỷ, nộ, ái, ố tồn tại trong cuộc đời mà vẫn bao dung thân thiện, cũng từ đó mà định hình tính cách hào sảng chẳng dễ thấy từ những nơi khác.

Mới đây, đến cả người đứng đầu chế độ Cộng Sản là ông Tô Lâm cũng đã phải nhắc cái tên Sài Gòn với đầy vẻ tiếc nuối, ông dẫn câu chuyện về Singapore đã từng thèm muốn vị thế Sài Gòn từ thập kỷ 60 như thế nào…

Được nhắc nhở thường xuyên bởi chính những kẻ muốn khai tử cái tên Sài Gòn, giờ lại còn được công khai ca ngợi, thì xem ra, Sài Gòn bất tử. Sài Gòn sống dai dẳng hơn cả đời người, chủ nghĩa, ý thức hệ, sự thắng thua … Sài Gòn cũng chẳng cần đến một lời tuyên bố về sự hồi sinh. Bởi lẽ, Sài Gòn đã từng chết bao giờ mà cần phải hồi sinh?

Hoa Thịnh Đốn, ngày 26 Tháng Hai 2025
Đặng Đình Mạnh

[*] Nước Mắt Cho Sài Gòn (Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên) – Nguyễn Đình Toàn


 

Có hai tù nhân lương tâm vừa lặng lẽ trở về

Tác Giả: Đàn Chim Việt

22/02/2025

Nhà hoạt động nhân quyền Vũ Quang Thuận

Ông Trần Phi Dũng (sinh năm 1966), thành viên nhóm Ân Đàn Đại Đạo (còn được gọi là Hội đồng Công Luật Công Án Bia Sơn hay Công Án Bia Sơn) vừa mãn án hôm 10/2/2025, sau 13 năm tù.

Ông Trần Phi Dũng

Ông Dũng bị bắt tháng 2/2012 cùng với 21 thành viên khác với cáo buộc “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”- điều 79-BLHS năm 1999. Trong vụ án này, tòa án Phú Yên đã kết án 21 người tổng cộng 299 năm tù giam, chưa kể hàng chục năm bị quản chế sau án tù. Riêng ông Phan Văn Thu, người sáng lập Ân Đàn Đại Đạo, bị tuyên án “Chung thân” và đã qua đời trong nhà tù Gia Trung vào năm 2022, sau 10 năm thụ án.

Ân Đàn Đại Đạo xây dựng khu sinh thái Đá Bia rộng 48 héc-ta tại khu vực Suối Lớn, Đèo Cả, thuộc xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên theo hướng “tiền sinh thái, hậu tổ đình”. Khu sinh thái Đá Bia được chính Nhà nước công nhận là khu “sinh thái quốc gia”. Tuy nhiên, hồi tháng 2 năm 2012, nhà cầm quyền bất ngờ lùa công an đột nhập vào khu sinh thái và bắt giữ hàng chục người, đương nhiên cướp trắng tài sản mà họ đã gầy dựng được.

Ngoài ông Phan Văn Thu, hai người khác cũng đã qua đời trong tù do bị ngược đãi và bệnh tật là ông Đoàn Đình Nam (qua đời năm 2019) và ông Phan Thanh Ý (năm 2022).
Ông Trần Phi Dũng ra tù trong tình trạng sức khỏe suy kiệt với một số căn bệnh nan y như tiểu đường, viêm khớp và huyết áp…

Do hoàn cảnh nghèo khó nên trong suốt 13 năm ở tù, gia đình ông chỉ đi thăm nuôi khoảng một năm từ một đến hai lần. Vì thế, con đường tù đày của ông Trần Phi Dũng càng trở nên khắc nghiệt. Hiện ông Dũng vẫn chưa thể đi bệnh viện để khám bệnh vì kinh tế quá khó khăn và việc đi lại của ông gặp khó khăn do án quản chế.

Trong một diễn biến khác, nhà hoạt động nhân quyền Vũ Quang Thuận, còn được biết tới với biệt danh “Võ Phù Đổng” vừa được trả tự do vào sáng 22/2/2025. Thông tin được xác nhận bởi trang facebook Huỳnh Nghĩa. Ông Thuận được trả tự do sớm 9 ngày so với bản án 8 năm tù giam ông đã bị tuyên.

Tin cho hay, sáng ngày 22, cán bộ trại giam Nam Hà đã chở ông Thuận từ nhà tù này tới một bệnh viện tại Hà Nội để khám bệnh. Khám bệnh xong, công an đã chở ông về Thái Bình, là nơi ông có hộ khẩu thường trú, thay vì đưa ông về Hà Nội theo nguyện vọng, nơi trước khi bị bắt ông đã sống cùng mẹ và em trai trong một căn nhà trọ.

Ông Vũ Quang Thuận sinh năm 1966, người sáng lập phong trào Chấn Hưng Nước Việt, bị bắt vào đầu tháng 3 năm 2017 với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88-Bộ luật Hình sự 1999, cùng với hai đồng sự khác là Nguyễn Văn Điển và sinh viên Trần Hoàng Phúc. Ông Thuận bị kết án 8 năm tù giam, 5 năm quản chế. Trong thời gian ở tù, ông Thuận đã phải chiến đấu chống lại bệnh tật và sự ngược đãi của cai tù. Ông Thuận bị bệnh phổi nặng và sức khỏe ngày càng suy kiệt, đặc biệt là 3 năm trở lại đây.

Chính phủ Mỹ và nhiều cơ quan nhân quyền quốc tế đã phản đối bản án dành cho Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc và ca ngợi họ như những công dân can đảm, chiến đấu vì các giá trị tự do.

Phạm Thanh Nghiên


 

Tô Lâm bị dư luận viên chỉ trích vì nói dân Singapore ‘mơ ước sang BV Chợ Rẫy’ chữa bệnh hồi 60 năm trước

Ba’o Nguoi-Viet

February 15, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN, bất ngờ bị giới dư luận viên chỉ trích về phát ngôn cho rằng khoảng 50, 60 năm trước, người Singapore “mơ ước sang bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh.”

Trang Facebook “Tifosi” có hơn 300,000 lượt follow, chuyên định hướng thông tin và tuyên truyền theo ý đảng, hôm 15 Tháng Hai bỗng nhiên đăng một bài dài phản bác phát ngôn nêu trên là “không chính xác.”

Ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN. (Hình: Sài Gòn Giải Phóng)

Bài đăng trên trang này liệt kê rằng trong giai đoạn cuối thập niên 1960, Singapore có tới tám bệnh viện lớn và lượng bác sĩ tính bình quân trên đầu người lớn nhất Đông Nam Á.

“Trong giai đoạn 1969-1972, Singapore là quốc gia có ít trẻ sơ sinh thiệt mạng nhất ở Đông Nam Á với chỉ khoảng 15 trên 1,000 trẻ em, chi tiêu y tế bình quân đầu người lớn nhất Đông Nam Á, số giường bệnh bình quân cao nhất…,” trang “Tifosi” viết.

Việc một trang của giới dư luận viên dám bình luận rằng phát ngôn của ông Tô Lâm “không chính xác” khiến công luận ngạc nhiên.

Đáng nói, bên dưới bài đăng có nhiều ý kiến tranh cãi, tán đồng bình luận cho rằng các phát ngôn gần đây của ông Tô Lâm “có vấn đề” và khen Facebook “Tifosi” “rất can đảm.”

Facebooker “Đinh Dôn” đặt câu hỏi: “Page nay ‘chơi lớn’ thế. Muốn bị bế [bắt] à?”

Facebooker “Tran Van Tuan” thì nói dạo gần đây thấy ông Tô Lâm “phát biểu nhiều cái khiến mình không thích lắm,” như “đem một số tỉnh thành của Trung Quốc ra so sánh với Việt Nam” và sau vụ trao huân chương [Sao Vàng] cho “đồng chí X” [Nguyễn Tấn Dũng, cựu thủ tướng].

Facebooker này nhấn mạnh rằng nếu được bầu tổng bí thư thì “mình sẽ bầu cho bác [Phạm Minh] Chính vì ông này thực sự là người nghĩ cho đất nước.”

Facebooker Trần Khoa nói: “Chuẩn luôn. Đôi lúc chả hiểu lãnh đạo mình đang bị nhét chữ hay là đúng không hiểu về lịch sử đất nước thật. Thấy có những tít rất mị dân!”

Bệnh viện Chợ Rẫy tại Sài Gòn. (Hình: Tài Nguyên và Môi Trường)

Một số ý kiến khác thì bày tỏ sự nghi ngờ về trình độ “không tới đâu” của các thư ký, trợ lý của ông Tô Lâm.

Ngoài phát ngôn liên quan Singapore, ông Tô Lâm cũng gây tranh luận khi thừa nhận Sài Gòn trước đây là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, là “Hòn Ngọc Viễn Đông,” khái niệm mà giới dư luận viên thường tỏ vẻ bực tức mỗi khi có ai đó nhắc đến để so sánh với thực trạng của TP.HCM sau 1975. (N.H.K) [qd]


 

NỀ NẾP CỦA NGƯỜI MIỀN NAM CẦN GÌN GIỮ – Nguồn: Nguyễn An Chi

Nguồn: Nguyễn An Chi

Trước 1975 ở miền Nam, vợ chồng thường gọi nhau là “mình”.

Khi giới thiệu vợ với người khác thì người chồng thường nói:

  • Xin giới thiệu với anh, đây là nhà tôi.

Ngược lại trong trường hợp khách đến tìm thì người vợ lại nói:

Thưa anh, nhà tôi đi vắng. Nếu cần việc gì thì anh có thể nhắn lại.

Đạo vợ chồng nghĩa phu thê thời đó có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng. Những chuyện ly thân ly hôn rất hiếm khi xảy ra. Thậm chí có nhiều trường hợp chỉ mới là người yêu chưa hề được nắm bàn tay nhưng vẫn chờ đợi nhau hàng chục năm với tất cả sự nhớ nhung trung trinh chung thủy.

Miền Nam trước 1975 , không có chuyện giấy tờ nhà đất xe cộ đứng tên cả 2 vợ chồng như thời nay . Chỉ 1 người đại diện, thường là người chồng, vì xã hội miền Nam trước 1975 hiếm có chuyện vợ chồng lừa gạt nhau , tranh giành tài sản. Hồi đó, nếu có ly hôn ,cũng không có chuyện phân xử tranh giành quyền nuôi con và chu cấp. Tất cả đều là tự nguyện thu xếp của 2 vợ chồng ….

Người lớn đã như vậy nên đối với con cái thì người miền Nam rất chú trọng vấn đề giáo dục.

Thông thường mấy đứa nhỏ gọi Ba – Má, Cha – Mẹ, vùng thôn quê thì có nhà gọi là Tía – Vú. Có nhiều gia đình lại gọi Papa – Maman theo Tây.

Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954 thì mới nghe những cách xưng hô Thầy – U, Bố – Đẻ, Cậu – Mợ

Nhà của người miền Nam xưa không bao giờ có chuyện phơi quần áo phía trước mặt tiền. Trước nhà là bộ mặt của gia đình, không có chuyện phơi bày những thứ sinh hoạt riêng tư như vậy.

Con cái trong nhà của người miền Nam thường được dạy dỗ rất kỹ theo lễ giáo.

Đi thưa về trình, trước khi đi đâu thì phải nói Thưa Ba, con đi tới nhà bạn… Lúc về thì cũng nói Thưa Ba, con mới về…

Có khách đến thăm nhà thì phải bước ra khoanh tay cúi đầu chào Thưa Bác, Thưa Chú, Thưa Cô, Thưa Dì…

Khi đã thưa gửi đàng hoàng thì vào trong lấy ly nước đem ra mời khách, làm gì cũng bằng cả hai tay.

Trong khi khách nói chuyện với Cha Mẹ thì tuyệt đối tránh mặt không lai vãng, không được phép đùa giỡn hay nói chuyện lớn tiếng.

Trong lúc đang ăn không được nói chuyện, uống nước hay làm cho chén đũa kêu thành tiếng, nhai thức ăn không được phát ra tiếng sì sụp sột soạt, không ợ hơi vì như vậy là bất lịch sự..

.Con gái đến tuổi cập kê khi ngồi thì phải khép hai chân lại, không được phép nằm ngửa ở bất cứ đâu nếu không phải là trong buồng riêng đã đóng kín cửa. Các cô ấy cũng không được phép tự ý ra nhà trước chào khách nếu không được Cha Mẹ gọi.

Trò chuyện với bất cứ ai cũng phải dùng lời lẽ chuẩn mực, không được nói những từ ngữ dung tục không thanh tao đứng đắn.

Đi mà kéo lê chiếc dép kêu lẹt xẹt: bị đòn. Người lớn đang nói chuyện mà chen vào một câu thì gọi là ăn cơm hớt: bị đòn. Buổi trưa ăn cơm xong mà không chịu ngủ cứ đùa giỡn hoặc nói lớn tiếng: bị đòn… Con nít ngày xưa rất dễ ăn chổi lông gà với những tội trạng như vậy.

Chỉ cái chuyện ăn uống đi đứng nằm ngồi sinh hoạt thôi mà ngày xưa ta đã được ông bà cha mẹ giáo huấn rất kỹ. Qua đó đã hình thành nên nhiều thế hệ người miền Nam có tính cách lễ phép gia giáo khiêm cung khoan hòa như đã thấy…

Được thụ hưởng cung cách dạy dỗ của ông bà cha mẹ như vậy mà nếu ngày hôm nay mỗi người cố gắng truyền lại những điều tốt đẹp đó cho thế hệ con cháu thì đó chính là đã góp một phần quan trọng để giữ gìn danh tiếng cao quý đáng hãnh diện nhất của chúng ta: NGƯỜI MIỀN NAM !

Nguồn: Nguyễn An Chi

From: taberd-6 & NguyenNThu


 

Leo Thang Bạo Lực Tại Việt Nam: Hai Vụ Án Giết Người Gây Chấn Động

Ba’o Dat Viet

February 12, 2025

Hai vụ án giết người nghiêm trọng đã diễn ra tại Việt Nam, thu hút sự chú ý của dư luận và cơ quan chức năng, làm dấy lên lo ngại về tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng trong xã hội.

Tại tỉnh Bình Phước, vào rạng sáng ngày 10 Tháng Hai, một cuộc xô xát nghiêm trọng đã xảy ra tại xã Tân Tiến, huyện Bù Đốp. Công an tỉnh đã bắt giữ Nguyễn Hữu Nghĩa, 42 tuổi, với cáo buộc giết người. Vụ việc bắt đầu từ mâu thuẫn gia đình giữa bà Hoàng Thị Thương và chồng cũ tên Hải, dẫn đến một cuộc hỗn chiến đẫm máu. Trong lúc xô xát, Nghĩa đã dùng dao làm bếp chém ông Phạm Văn Nhu, chồng mới của bà Thương, khiến ông Nhu tử vong do vết thương quá nặng. Nghĩa sau đó đã đến đầu thú tại Công An Huyện Bù Đốp.

Một vụ việc khác tại Sài Gòn cũng gây rúng động không kém, khi Nguyễn Hoài Sơn, 23 tuổi, bị bắt giữ với cáo buộc tương tự sau khi đã giết anh Phong, 19 tuổi, trong một cuộc ẩu đả tại quán cà phê. Theo điều tra ban đầu, mâu thuẫn phát sinh từ việc anh Phong mượn điếu cày nhưng không đi mà còn đứng gần đó nói khích. Căng thẳng gia tăng khi hai bên to tiếng và sau đó xảy ra xô xát. Ông Sơn đã dùng dao đâm trực tiếp vào tim anh Phong, khiến nạn nhân tử vong tại chỗ. Sơn đã cố gắng trốn chạy bằng cách phi tang hung khí và di chuyển đến Đà Lạt, nhưng cuối cùng cũng bị bắt tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

Những vụ việc này không chỉ là bi kịch cá nhân mà còn là dấu hiệu của những vấn đề sâu xa hơn trong xã hội, nơi mà các tranh chấp và mâu thuẫn cá nhân có thể dễ dàng biến thành bạo lực. Các vụ án mạng như vậy càng làm dấy lên nhu cầu cấp thiết về sự can thiệp của cơ quan chức năng để ngăn chặn tình trạng này, đồng thời củng cố hệ thống pháp luật và tăng cường công tác giáo dục pháp luật để giảm thiểu những hành vi tương tự trong tương lai.


 

Nhân cách hoá và nội địa hoá-Mai Bá Kiếm

Ba’o Tieng Dan

Mai Bá Kiếm

10-2-2025

Nguyên thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc rất khoái “nhân cách hóa” đồ vật thành con người. Đến thăm tỉnh nào, anh “Bãi” đều chỉ đạo tỉnh đó phải là đầu tàu để kéo nền kinh tế cả nước đi lên. Không chỉ “nhân cách hóa” 63 đầu tàu trong nước, anh “Bãi” còn “nhân cách hóa” cột đèn tuốt bên Mỹ bằng câu ví von linh ứng “Cột đèn bên Mỹ nếu có chân sẽ đi về Việt Nam hết”. Và y như trong kinh – in như trong ky, tổng thống Trump đã trả đợt “cột đèn” đầu tiên về Ấn độ, sắp tới sẽ có “cột đèn về Việt Nam” đúng tâm tư của anh “Bãi”.

Cho dù, có nhiều hãng xe hơi (vốn FDI) lắp ráp ở Việt Nam, nhưng tỷ lệ nội địa hóa các linh kiện rất thấp, đến con ốc, vít còn chưa làm được, thậm chí bác Tổng bí thư Tô Lâm còn chỉ ra “hàng dệt may, túi xách, giày da xuất khẩu mấy tỷ đô, nhưng vải, da, cây kim, sợi chỉ của người ta hết, mình chỉ bỏ công thôi”, nhưng thủ tướng Phạm Minh Chính đã đặt hàng các công ty trong nước “nội địa hóa” thép đường ray, “nội địa hóa” toa tàu điện mới ớn chứ!

Việt Nam có nhiều tập đoàn thép rất hoành tá tràng, doanh số hàng chục ngàn tỷ đồng nhưng chỉ luyện được thép CT.3, cao lắm là thép carbon C.45, chưa luyện được thép cứng hơn như nhíp xe hay thanh tà vẹt nói gì đến thép hợp kim? Ai ở Hà Nội đều bết huyện Thạch Thất còn kỹ nghệ nấu sắt vụn bằng than đá, dầu cặn, để đúc ra phôi sắt, cán thành sắt xây dựng; và những nhà nấu sắt thủ công này đều phất lên giàu có, thì Hòa Phát không là đại tỷ phú sao được?

Ai ở TP.HCM đều thấy hàng ngày có nhiều xe container chở một cuộn thép chạy từ cảng Bến Nghé ra, vì Việt Nam chưa cán được sắt tấm, Tôn Hoa Sen phải nhập sắt tấm 3 zem – 5 zem về đưa vào máy cán sóng thành tole. Nếu Hòa Phát “nội địa hóa” đúc đường ray, chắc chắn phải nhập phôi thép về đúc, mà chưa chắc đã khử được bọt khí!

Khoảng năm 1996, khi thủ tướng Võ Văn Kiệt họp với các chủ tịch tỉnh tại dinh Thống Nhất, tôi có hỏi Bộ trưởng Công nghiệp Đặng Vũ Chư “Tại sao trong 6 ngành mũi nhọn để Việt Nam thành nước “hiện đại hóa – công nghiệp hóa” có “cơ khí chế tạo máy”, có “vật liệu mới” mà không có mũi nhọn “luyện kim”, mà Việt Nam chỉ sản xuất CT.3 và C.45 thì lấy thép hợp kim đâu mà chế tạo máy và dụng cụ cắt gọt?” Suy nghĩ một hồi Bộ trưởng Đặng Vũ Chư nói “Thôi ông ơi, ông báo Phụ Nữ mà hỏi chi chuyện chuyên môn sâu?”

Vì không xem luyện kim là ngành mũi nhọn, nên kỹ nghệ thép Việt Nam đến giờ còn nhập phôi cán sóng, đúc thành sắt hộp, sắt ống…. Nước mình quá vui khi có hai đời thủ tướng “nhân cách hóa” rồi “nội địa hóa”. Hy vọng chỉ đạo “Nội địa hóa” sẽ thành hiện thực để ngành luyện kim Việt Nam sánh vai cùng Đức, Anh, Mỹ, Nhật…


 

Lộ clip Phạm Minh Chính dẫn đoàn xe 100 chiếc đi thị sát cao tốc ở Cao Bằng

Ba’o Nguoi-Viet

February 9, 2025

CAO BẰNG, Việt Nam (NV) – Một tuần sau khi ông Phạm Minh Chính, thủ tướng Việt Nam, đi thị sát công trường thi công tuyến cao tốc Đồng Đăng-Trà Lĩnh, tại tỉnh Cao Bằng, một đoạn video clip cho thấy đoàn xe của ông này lên đến cả trăm chiếc.

Trong đoạn clip được chia sẻ nhiều trên mạng xã hội hôm 9 Tháng Hai, đoàn xe của ông Chính dài cả cây số, hú còi inh ỏi và bật đèn ưu tiên trước khi rẽ vào một đoạn đường đất đỏ, nơi có hàng trăm công nhân thi công cao tốc.

Ông Phạm Minh Chính (người cầm cây), thủ tướng Việt Nam, và bầu đoàn thê tử tại công trường thi công cao tốc ở huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng. (Hình: Cao Bằng)

Khi xuống xe, ông Chính được một người đàn ông đi theo sau chải đầu giùm, trước khi bước vào khu vực có hai hàng người đang xếp hàng chờ.

Facebooker Lê Duy Khương bình luận bên dưới đoạn clip: “Một ông thủ tướng đi thị sát mà một đội quân đi hộ tống đông vậy? Hèn chi một đất nước đầy tài nguyên khoáng sản, vị trí địa lý thuận lợi, có một đảng sáng suốt lãnh đạo mà mãi sau khi giành được Sài Gòn gọi là thống nhất đất nước, mãi 50 năm rồi mà không chịu phát triển, biết đến bao giờ thì dân Việt Nam mới không qua Thái Lan làm thuê nữa.”

Một ý kiến khác bày tỏ thắc mắc: “Sao quan chức nào đi đến đâu cũng huy động một lực lượng công an và xe cộ nhiều đến như vậy trong khi lãnh đạo luôn tự hào Việt Nam an ninh và an toàn nhất thế giới, không có khủng bố này nọ như một số quốc gia khác.”

Trong khi đó, báo Lạng Sơn đăng bộ ảnh cho thấy ông Phạm Minh Chính “diễn” cảnh chỉ chỏ trên công trường và chỉ đạo nhà thầu “tăng năng suất, tăng ca kíp, tăng tốc hơn nữa để thông tuyến cao tốc huyết mạch từ hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn đến tỉnh Cà Mau trong năm 2025.”

Đoàn xe hộ tống ông Phạm Minh Chính hôm 2 Tháng Hai tại tỉnh Cao Bằng được nhìn thấy cả trăm chiếc. (Hình: Chụp qua màn hình)

Ông Chính được dẫn lời yêu cầu nhà thầu thi công tuyến cao tốc “phấn đấu thi công vượt tiến độ, tích cực áp dụng kinh tế tuần hoàn, đào chỗ này, đắp chỗ kia, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần.”

Ngoài ra, ông Chính yêu cầu lãnh đạo tỉnh Cao Bằng “tiếp tục huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết, trong đó có các lực lượng cựu chiến binh, phụ nữ, thanh niên… hỗ trợ đẩy nhanh tiến độ thi công cao tốc…”

Vụ đoàn xe 100 chiếc của Thủ Tướng Chính được ghi nhận cùng lúc với đoàn xe 45 chiếc của ông Tô Lâm, tổng bí thư CSVN, đi viếng nghĩa trang Vị Xuyên ở tỉnh Hà Giang trong lúc đảng hô hào “tinh gọn bộ máy” và “chống lãng phí.” (N.H.K)


 

Trần Đức Thảo sống và chết như thế nào qua “Những lời trăng trối”?

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

01/02/2025

Tôi đã đọc Trần Đức Thảo, Những lời trăng trối của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê với nhiều trăn trở, nhiều đêm mất ngủ, buồn cũng có và thương tiếc cũng có và cuối cùng đi đến một thái độ thở dài với một thứ triết lý bi quan:

Quả đúng là một kiếp người!!!

Quả đúng là một hành trình chữ nghĩa đầy gian lao và khổ cực phải đối đầu với nỗi sợ thường trực hầu như suốt đời. Cái đói no vốn là thiết thân với sự sinh tồn, vậy mà so với nỗi sợ hãi bị theo dõi và ám hại xem ra chả thấm thía gì.

Cuộc đời triết gia Trần Đức Thảo là khổ trăm chiều: Nỗi khổ giữa lý tưởng và thực tế, giữa nhân cách và quyền lực, giữa ta và người, giữa mình và chính mình. Đó là cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ.

Và cuối cùng ông đã vượt thắng được tất cả, vật ngã kẻ thù – vật ngã biểu tượng của trục của điều xấu là: chính Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác xít.

Nhưng nhiều lúc tôi tự hỏi phải chăng ông sinh ra nhầm thời đại và chọn nhầm chỗ cư ngụ, nhầm chế độ do ảo tưởng trí thức, lý tưởng hóa chủ nghĩa cộng sản?

Giả như ông cứ ở Paris trong một bầu khí tự do suy tưởng của giới thượng lưu trí thức Pháp?

Hoặc cùng lắm, ông về Sài Gòn thì cuộc sống và tương lai chữ nghỉa của ông sẽ như thế nào?  Đã hẳn là ông sẽ được kính trọng và ông sẽ có 10 cuốn Phénomologie thay vì một cuốn.

Nếu ông ở lại bên Pháp, ông sẽ được chào đón bởi  những người trí thức hàng đầu của Pháp về triết học như J.P Sartre và nhóm Les Temps modernes, hay nhóm chủ thuyết Hiện tượng luận như Merleau Ponty hay nhóm cộng sản trong Les enjeux, Révolution và nhất là người học trò đã nhận ông là bậc thầy duy nhất về triết thuyết cộng sản là Althusser.

Sau nữa, ông còn được chào đón và nối tiếp bởi các thế hệ trí thức Việt Nam bậc đàn em như Phạm Trong Luật, Phan Huy Đường, Nguyễn Ngọc Giao sau này.

Nếu đối đế lắm ông về Sài gòn, ông sẽ có chỗ ngồi xứng đáng của một trí thức hàng đầu, ung dung ngồi thao diễn lưu loát bằng tiếng Pháp cho đám môn sinh triết học mà không có mối e ngại họ không hiểu tiếng Pháp.

Và sẽ có những người nối nghiệp ông về triết thuyết Hiện Tượng Luận của Husserl.

Chuyện đó đâu có gì là khó ở Sài Gòn- nơi quy tụ gió bốn phương-. Aristote sẽ có dịp gặp Hégel để bàn về tri thức luận, Karl Marx gặp Boris Pasternak để tranh luận về giai cấp và vấn đề thân phận người.  Bụt gặp Suzuki để trao đổi về con đường giải thoát. Jésus ngồi đối luận với Khổng Tử về Nước Trời và trật tự trần thế.

Sẽ là chuyện bình thường có Sartre ở Paris và Sartre ở giữa Sài gòn với hiện sinh chủ nghĩa và Trần Đức Thảo với triết thuyết Hiện tượng luận.  Không chỉ có 5 buổi trao đổi giữa đôi bên mà sẽ có những giao lưu tư tưởng thường trực công khai và dân chủ.

Rất tiếc là cuối cùng Sài gòn chỉ còn là mảnh đất rao truyền triết lý hiện sinh một cách rầm rộ chẳng những đối vời J.P Sartre mà còn của Martin Heidegger, Gabriel Marcel và A. Camus nữa..

Và những điều vừa trình bầy trên không phải là chuyện vu vơ về Sài Gòn.

Khi được Trần văn Giàu và Trần bạch Đằng thu xếp vận động cho ông Thảo vào sống ở Sài Gòn. Ông đã ngạc nhiên không ít, ông viết:

Mới đặt chân xuống cái thủ đô của miền Nam này, mọi sự đã làm tôi kinh ngạc. Qua bao nhiêu năm chiến tranh gian khổ mà sao Sài Gòn nó lại khang trang hiện đại như vậy? Tôi cứ ngỡ cả miền Nam đói khổ vì bị Mỹ-Ngụy bóc lột đến nỗi miền Bắc đã phải ‘cắn hạt gạo làm tư’ để cứu giúp miền Nam cơ mà.. Và mọi người ở đây nói năng cởi mở thoải mái như vậy? Ngay những cán bộ Đảng ở đây cũng có thái độ tự do quá. Họ đãi đằng, giễu cợt tôi, coi tôi cứ như anh mán, anh mường ở rừng mới được về thành phố. Phải nói thẳng ra là có một điều của Sài Gòn đã làm tôi bàng hoàng đến cùng cực.

 Đó là những bài hát của một anh chàng nhạc sĩ trẻ của miền Nam, nói đúng ra là của Mỹ-Ngụy chứ không phải của Đảng.

 Tên anh ta là Trịnh Công Sơn. Các bài hát của anh ta mang nỗi niềm day dứt, oán trách chiến tranh. Cứ như anh ta khóc than thay cho cả dân tộc ở cả hai miền Nam Bắc.

 Giữa những năm tháng chiến tranh một mất một còn ác liệt như thế mà sao anh ta dám cất lên tiếng kêu than như vậy. Những lời ca của những bản nhạc đã làm tôi xúc động bồi hồi không cầm được nước mắt. [1].

 Ở đây, xin ghi nhận thêm, khi vào Saigòn, ông có ghé thăm ông Nguyễn Văn Trung nhiều lần. Theo ông Trung, ông Thảo ngỏ ý mượn ông Trung sách của Hegel để tham khảo và nói chuyện do Đại học Tổng hợp thành phố mời.Cũng theo ông Trung, ông  Thảo luôn cảnh giác có người theo dõi ông. Ông cho biết: “ tôi bị một nhóm người, ông kể tên từng người- có chức có quyền ở  Hà Nội, luôn luôn theo sát tôi từng bước.”

 Dư luận cho hay là ông bị bệnh. Ông ghi trong sổ tay là ông T. vị lãnh đạo là nhân viên Phòng II, nhưng không gửi đơn đi. Ông cũng tố cáo hai bạn học cũ  ở Pháp  làm tay sai cho Pestain trong một bức thư có gửi đi. Ông cũng ngây ngô gửi những thư về Triết học cho Trung Ương Đảng.

Nói cho cùng, điều gì ông còn đáng được trân trọng là những điều ông đã viết khi còn công khai viết, nghiên cứu trong nhiều năm. Và đó là những điều làm ông nổi tiếng ở Âu Châu, đặc biệt là Paris. Nó đóng góp vào gia tài của giới trí thức Pháp vào những năm 1945-1946.

Khi về Việt Nam, Hồ Chí minh đã không trọng dụng và cứ thế khiến ông suy tàn đi..

Trở lại cuốn Hồi Ký, có thể nói trong toàn bộ  cuốn Những lời trăng trối, đây là lần duy nhất chỉ một lần thôi ông bày tỏ niềm xúc động và những lời khen trân trọng đối với miền Nam Việt Nam!! Miền bắc cộng sản hầu như tuyệt đối không có trong mắt của Trần Đức Thảo.

Và nếu sự việc xảy ra chỉ khác một chút thôi- cái giây phút gặp Hồ Chí Minh-ông đã nhận ra được con người ấy trong lần tiếp xúc đầu tiên- ông sẽ tránh được những nghịch cảnh đau lòng sau này.

 Làm gì còn cái cảnh chuột và người. Cả một đàn chuột rúc, rỉa ông. Ở Hà Nội vào những năm ấy, họ nhất loạt tố cáo ông như trường hợp Phạm Huy Thông với bài:  Mặt thật của Trần Đức Thảo.

Ông Trần Đức Thảo với nhân cách cao vời đã không chấp đám học trò. Nhưng nói về trường hợp Phạm Huy Thông, ông bày tỏ như sau:

Anh chàng ấy hồi ở Pháp thì tôi có biết, nhưng không thân..Sau này nhân vụ đấu tố nhóm Nhân Văn Giai Phẩm thì Phạm Huy Thông đã ngả theo phe Tố Hữu để tố khổ tôi một cách hằn học thật là tồi tệ bất ngờ. Cách thức tố cáo, buộc tội tôi như thế đã làm cho y sau này bị xấu mặt cả đám văn nghệ sĩ cán bộ. Bởi lúc ấy, những gì mà mỗi trí thức đã viết ra, thì đều phơi bầy cái mặt trái, mặt thật xấu xa, hèn kém của họ’.[2]

 Hay bội bạc hơn nữa, cảnh trò tố cáo thầy như trường hợp nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến.[3] Nguyễn Đình Chú.

Và chua chát nhất là bài của của một môn sinh phản thầyKhắc Thành trong bài Quét sạch nọc độc Trần Đức Thảo trong việc giảng dạy triết học.

 Cảnh chuột và Người chỉ có thể xảy ra ở Hà Nội- Và chỉ ở Hà NộiAi là chuột ai là Người trong những tên tuổi sau đây:

 Có cả một chiến dịch nhằm đánh phá vào một mình ông với các tên tuổi như: Bác sĩ Hồ Đắc Di, giáo sư Phạm Hữu Tước, giáo sư Nguyễn Lân, giáo sư Nguyên Hoán. Trường Giang, Thiều Quang, Ngô Vi Luật, Chu Thiên, Lê Dân.

Cả một danh sách dài biên niên mà Lại Nguyên Ân đã ghi lại[4]

Đấy là món nợ của trí  thức Hà Nội mà không một ai trả nổi dù đây đó đã gióng lên những lời xin lỗi. Bởi vì ai là kẻ gây ra món nợ này? Cứ hỏi và câu hỏi cứ trèo lên cao mãi, phải chăng là Tố Hữu? Cũng không phải, Trường Chinh cũng không nốt mà trèo lên đến đỉnh điểm thì còn trơ trọi có một người.

Người đó là Hồ Chí Minh- Đẹp mãi tên Người-.

Vì thế trả nợ cho Trần Đức Thảo không đơn giản và nhẹ nhàng thoải mái như khi trả nợ cho Lê Đạt, Trần Dần..Với Lê Đạt, Trần Dần, chỉ cần cho họ trở lại biên chế, lương bổng, vài cái bằng khen và cho cầm bút thì họ đủ bằng lòng và xóa nợ tất cả.

Nhưng đối với Trần Đức Thảo khi ông đã nhiều lần gọi tất cả lãnh đạo cộng sản là chúng nó- chúng nó tính từ Hồ Chí Minh trở xuống đến Phạm Văn Đồng- thì những nhân sĩ, trí thức, nhà văn lấy tư cách gì mà đòi trả nợ cho Trần Đức Thảo? Cho dù nay ông còn sống, ông cũng không cần ai trả vì theo ông những kẻ tố cáo ông thì tự họ làm xấu mặt họ..

Kẻ tố cáo bỗng nhiên trở thành kẻ bị cáo.

Nói cho cùng, cái dại của ông là chỗ đáng sống ông không chọn như Paris hay Saigon lại chọn Hà Nội. Chọn Hà Nội là tự chọn vào cái chỗ chết. Nhưng đối với ông chết để sống trung thực.

Con đường Paris-Luân Đôn-Praha-Moscou—Bắc Kinh- Việt bắc là con đường không bằng phẳng-chông gai, gập ghềnh ngay từ đầu- mà ông đã tự chọn, cậy cục đảng cộng sản Pháp đến cả lãnh đạo Liên Xô để được về. Chọn nhầm chế độ- một chế độ của tội ác và đọa đầy.

Chọn ai không chọn lại chọn một người mà sau này chính ông gọi là một thứ gian hùng chẳng khác gì Tào Tháo..

Ông đã sống như thế- sống vất vưởng, tủi nhục- vì chính những chọn lựa của mình. Khó mà trách ai được.

Nhiều lúc tưởng ông như một người đi trên mây, dở khùng, dở dại.

Nhiều lúc tưởng chừng bộ máy nghiền cộng sản đã bẻ gẫy ông. Trong vụ Nhân Văn Giai phẩm, rõ ràng đảng sai ông đúng. Vậy mà ông cũng đã có lần cúi đầu thú tội: Ông đã xin lỗi trước đảng và trước nhân dân. Ông cũng đã thú nhận là trong nhiều lần học tập, ông cũng đã phải dơ tay như mọi người hô: Nhất trí, nhất trí.

 Ông cũng biết nhẫn nhục, cũng biết sợ chết và hầu như cả đời ông bị ám ảnh về nỗi sợ hãi bị ám sát.

Nhưng khi chết, ông đã để lại một di sản tinh thần vô cùng quý báu- không phải những sách như Phénomologie et matérialisme dialectique(1951)- Sách này đã làm nên danh phận ông- mặc dầu vậy nó có cũng được không có cũng không sao.

Bời vì, thứ chủ nghĩa mà ông đeo đẳng gần như suốt cả cuộc đời nay ông đã rũ sạch. Nó chỉ còn là một món hàng bị phá sản mà chính chủ nhân của nó đã tìm cách bán tống bán táng đi rồi.

Cuối cùng một điều tối quan trọng. Sống có thể ông không làm được gì-. Ông tỏ ra vô ích. Nhưng cái chết của ông chỉ đến lúc ông nằm xuống. Đảng tưởng rằng đã loại trừ được một tên cộng sản quấy rầy- un communiste dérangeant-.

 Đảng mới bật ngửa ra đã không khai trừ được ông.

  Lúc ông chết  mới thật sự là lúc ông sống thật với ván bài lật ngửa.

Ông đã có thể thất bại suốt cuộc đời- dù rất có thể, ngay cả cái cái chết của ông đã bị nghi ngại là người ta đã ám toán ông bằng thuốc độc.

Cứ như đọc diễn tiến mấy ngày cuối đời trong Những lời trăng trối của ông thì phải đi đến kết luận là ông đã bị đầu độc đến thượng thổ, hạ tả và đưa vào bệnh viện cấp cứu thì ngày hôm sau, ông đã tắt thở.

Mặc dầu vậy, vượt mọi toan tính đê tiện của những kẻ thù, ông đã để lại được chúc thư cuối đời qua cuốn Những lời trăn trối.

Đây là sự bất ngờ vượt mọi dự đoán của kẻ thù ông. Ông đã đánh lừa được tất cả mọi người..

Nay tất cả mọi người đều ngỡ ngàng về tập sách Những lời trăng trối…

 Ngỡ ngàng là phải, vì những lời trăng trối chết người này- những lời tâm huyết có thể quyết định sinh mạng Trần Đức Thảo- đáng nhẽ phải trao và tín nhiệm những trí thức thiên tả như Nguyễn Ngọc Giao-. Người đã giúp đỡ ông nhiều trong thời gian trước đây ở Sài gòn cũng như sau này ở Paris, Nguyễn Ngọc Giao đã tìm nơi ăn chốn ở và tiền tài trợ mỗi tháng 10.000 fr cho Trần Đức Thảo- một mối giao tình vừa là tình bạn vừa theo nghĩa đồng chí. Hoặc chị X, cũng cánh tả thường đến thăm ông thường xuyên tại phố Le Verrier..

Không!! Trần Đức Thảo không tin ai cả, dù là những thành phần cánh tả, dù có liên hệ bạn bè..

Trớ trêu và oái ăm thay! Ông lại tin và trút hết tâm sự cho hai người xa lạ, kể như chưa quen biết. Những người trí thức này, Nguyễn Văn Canh và Tri Vũ Nguyễn Ngọc Khuê chỉ vì có một tấm lòng quý mến ông và đã được ông tin cẩn và trút hết tâm sự mỗi tuần trong suốt 6 tháng trời, chạy đua với thời gian.

Tự quý vị tìm câu trả lời họ là ai? Người cộng sản- người thiên tả- người quốc gia như hàng ngàn hàng vạn người quốc gia hiện đang sống ở Paris…

 Trí thức thiên tả ở Paris muốn tìm ở Trần Đức Thảo một con người thông minh sắc sảo của thập niên 1950.[5] Nhưng sau khi nghe ông Thảo thuyết trình về Triết học của Staline ở trường đại học Denis Diderot thì mọi người đều thất vọng. Ông Lê Thành Khôi bỏ về nửa chừng. Nguyễn Ngọc Giao, một người có lòng muốn giúp đỡ ông Thảo nhiều trong việc tìm chỗ ăn, chỗ ở cho ông Thảo than:

‘Ông trình bày xong thì tôi ra về, không ở lại nghe phần hỏi đáp..(…) Nghe ông nói bữa ấy, tôi buồn quá. Dường như tôi không phải là người duy nhất cảm thấy buồn..[6].

 Nay nếu có dịp đọc Những lời trăng trối thì Nguyễn Ngọc Giao sẽ buồn hay vui, hay cảm thấy bẽ bàng?

Bẽ bàng hơn cả có thể là viên Đại sứ Trịnh Ngọc Thái ở Pháp đã bị Trần Đức Thảo qua mặt sau cái chết có thể do chính y đạo diễn..tưởng rằng đã tịch thu được mọi tài liệu tại ngôi nhà số 2 Le Verrier ngay sau khi ông Thảo chết vào 2 giờ sáng ngày 24 tháng tư năm 1993..

Và tại Sài gòn, một nhân vật quyền thế nắm sinh mạng Trần Đức Thảo là Sông Trường, y chính là người đã trục xuất Trần Đức Thảo ra khỏi Việt Nam với một vé máy bay aller mà không có retour.

Hãy nghe y nói với Trần Đức Thảo:

‘Chúng tôi đã bố trí, đã chuẩn bị cho anh một lối thoát vừa danh dự vừa lý tưởng. Vì anh chưa nghĩ thấu đáo đấy thôi. Tất cả đã sẵn sàng rồi! Nhất định là anh không thể lưu lại cái đất Sài Gòn này như vậy nữa đâu! Đảng đã quyết định, nhất định là anh sẽ phải ra đi thôi!!![7]

 Và một người cuối cùng là tiến sĩ Cù Huy Chử. Ông này tự cho mình là người được ông Trần Đức Thảo  tín nhiệm và đã trao hết di sản tinh thần cho ông nắm giữ. Và mới đây, vì chưa có cơ hội đọc cuốn Những lời trăng trối, ông đã tổ chức vinh danh Trần Đức Thảo theo kiểu ‘nhổ ra rồi lại liếm’…Cho đến ngày hôm nay thì ông vẫn giữ im lặng.. Phần tôi thì vì tôn trọng sự trung thực, tôi bắt buộc vạch trần những gian dối  của ông thôi. Xin ông hiểu cho và từ nay nhớ chừa cho đến chết: Đừng bao giờ làm như thế nữa.

Nội dung cuốn sách Những lời trăng trối bàng bạc từng chi tiết, từng sự việc, dù là chuyện lớn, chuyện nhỏ, dù là chuyện liên quan đến Trần Đức Thảo hay không chỉ tóm tắt vào hai chủ đề lớn:

Hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh bằng chứng minh, bằng lý luận, bằng những nhận xét sâu sắc để vạch trần bộ mặt thật của Hồ Chí Minh.

 Về điểm này, từ xưa đến nay, chưa ai có đủ tư cách cũng như can đảm làm như ông.

Điểm thứ hai, ông chứng minh và cho thấy rằng Marx sai lầm. Staline sai lầm và trong chuỗi lý luận ấy Hồ Chí Minh chỉ là kẻ ăn theo hiển nhiên là sai lầm.

Với hai quan điểm nhìn ấy, dù ông không còn nữa, ông đã một cách nào đó gián tiếp xóa sổ đảng cộng sản Việt Nam!!

[1] Trần Đức Thảo, Những lời trăng trối, trang 210

[2] Trần Đức Thảo, Những lời trăng trối, trang 346, Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ.

[3] Hoàng Ngọc Hiến, Cách cho của giáo sư Trần Đức Thảo, phần chót của bài viết, ông thú nhận:Năm 1958, trong đợt  đấu tranh tư tưởng ở trường Đại Học Tổng Hợp, tôi đã phê phán Trần Đức Thảo hết sức gay gắt trong một bài tham luận. Cũng như mọi triết gia, ông Trần Đức Thảo là người đọ lượng. Ở nhà trí thức lỗi lạc này, tôi còn cảm nhận một điều gì đó lớn hơn sự độ lượng, trích trong báo Văn Nghệ, số 1, Bộ mới, tháng 7-1993, trang 2

[4] Lại Nguyên Ân, Món nợ với giáo sư Trần Đức Thảo, 5-5-2013

[5] Đám trí thức thiên tả này đã chót bám theo Đảng. Nay biết rõ bộ mặt thật thối tha của Đảng. Bỏ thì không nỡ, chống thì chống nửa vời thành ra một đám người lạc loài, một loại trí thức ‘cánh tả Caviar’ con nhà giàu ngồi nói thánh nói tướng, bất kế thực tại đất nước bên nhà ra sao..

[6] Nguyễn Ngọc Giao, Với Trần Đức Thảo, một chút duyên nợ, Diễn Đàn Xuân Tân Mão

[7] Trần Đức Thảo, Ibid, trang 236


 

Thủ phạm gây ra chiến tranh Việt Nam- Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

30/01/2025

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua, tháng 12/1920.

 

Trong suốt 20 năm chiến tranh Việt Nam cả thế giới lên án miền Nam và đòi miền Nam phải chấm dứt chiến tranh, tạo lập hòa bình. Ngoài các cuộc biểu tình đòi hòa bình diễn ra trên thế giới, nhiều phong trào đòi hòa bình diễn ra tại miền Nam. Trong khi đó tuyệt nhiên không một phong trào hòa bình nào diễn ra tại miền Bắc, đòi chính quyền miền Bắc chấm dứt chiến tranh. Bây giờ thì ai cũng hiểu chính quyền độc tài vô sản ở miền Bắc không cho ai được thành lập hội nhóm, phong trào và nhất là không được công khai bày tỏ chính kiến khác với đảng. Ngày nay, thời gian 50 năm sau chiến tranh đã đủ dài để bình tâm nghiên cứu xem ai là thủ phạm gây ra chiến tranh trên đất nước Việt Nam, đẩy toàn dân vào khổ đau.

Sau khi củng cố được chính quyền tại Liên Xô, Stalin cũng như Lê Nin và Trostky, theo đuổi chủ trương của Karl Marx phát động chiến tranh liên tục qua cái gọi là “Lý thuyết Cách mạng Thường Trực” (Theory of Permanent Revolution). Mục tiêu của Karl Marx là phải xây dựng một phong trào cộng sản toàn cầu (global movement) để “nhuộm Đỏ” thế giới. Thế chiến thứ II bùng nổ, nương theo đà thắng lợi của Đồng Minh Anh Mỹ trước Phát xít Đức, Liên Xô tiến chiếm các nước Đông Âu và nhuộm Đỏ các nước này (Mãi 44 năm sau, 1989, các nước Đông Âu mới thoát khỏi ách thống trị của Liên Xô.) Sau khi nhuộm Đỏ Đông Âu, Liên Xô gia tăng bước tiến của Lê Nin, gieo mầm cộng sản sang Châu Á, nơi đó Trung quốc là quốc gia thích hợp nhất vì dân số đông mà tuyệt đại đa số là nông dân nghèo. Từ 1924 Lê Nin đã gửi Borodin sang Trung Hoa làm cố vấn cho ông Tôn Dật Tiên, rồi sau này cho Tưởng Giới Thạch. Liên Xô cũng gửi ông Hồ Chí Minh sang Trung quốc làm thư ký cho Borodin. Hai hạt giống cộng sản này đã thành công trong việc phát triển phong trào cộng sản tại Trung quốc và cuối cùng, vào năm 1949, ông Mao Trạch Đông đã thành công trong việc xây dựng chính quyền cộng sản tại Trung Hoa. Vẫn tiếp tục lý thuyết Cách mạng Thường trực, Cộng sản Trung hoa tìm cách phát triển phong trào cộng sản tại ba nước Đông Dương, Việt-Mên-Lào.

Với sự giúp sức của Trung Cộng, đảng cộng sản Việt Nam (Việt Minh) đã đánh bại Pháp tại Điện Biên Phủ năm 1954. Theo lý thuyết Domino, Hoa Kỳ e rằng nếu Việt Nam và toàn thể ba nước Đông Dương rơi vào tay cộng sản thì các quốc gia Thái Lan, Miến Điện rồi Indonesia và cuối cùng là Ấn độ, tất cả sẽ rơi vào cộng sản. Vì vậy Hoa Kỳ phải nhẩy vào Hội nghị Geneve 1954 ngăn chặn cộng sản nhuộm Đỏ trọn Việt Nam. Liên Xô khi đó cũng chưa phục hồi hoàn toàn sau thế chiến Thứ II; Trung cộng còn mệt mỏi sau đụng độ với Hoa Kỳ trong chiến tranh Triều Tiên năm 1953, cho nên cả hai đều tránh đụng độ trực diện với Anh Mỹ; và miễn cưỡng ép buộc Việt Minh phải chấp nhận chia đôi Việt Nam ở Vĩ Tuyến 17. Bài Phong trào Đồng khởi miền Nam 1960 – Bước ngoặt chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên báo Quân đội nhân dân ngày 19-12-2019 đã viết, “do mưu đồ của các thế lực phản động quốc tế cũng như tương quan lực lượng và tình hình chính trị phức tạp của thế giới lúc đó, nên nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị-xã hội khác nhau.”

Nhưng theo lý thuyết Cách Mạng Thường Trực của Cộng sản thì việc ngưng chiến năm 1954 chỉ là tạm thời để rồi sớm muộn gì cũng phải tiếp tục gây chiến nhuộm Đỏ trọn vẹn miền Nam. Marx viết, Cách mạng không bao giờ ngừng cho tới khi tất cả giới giầu có đều bị đánh đổ và giai cấp vô sản lên nắm quyền, xây dựng nhà nước “Độc tài vô sản” (the dictatorship of the proletariat) [The revolution shall become unceasing until all the more or less wealthy classes have been removed from power and until the proletariat has captured political power. (Karl Marx and Friedrich Engels, Volume 3, Gosizdat, 1921, p 501)] Ở đây tôi thấy phải giải thích thêm nhóm từ Chuyên Chính Vô Sản. Đây là sự dịch thuật bịp bợm của Ban Tuyên Giáo Trung Ương, thay vì phải dịch theo đúng chữ của Marx dùng là chế độ Độc tài vô sản thì họ đã tránh chữ Độc tài bằng chữ Chuyên Chính mặc dù dân chúng cả miền Bắc, kể cả những cán bộ cộng sản, kể cả thành phần giáo viên triết học Mác Lê, trong mấy chục năm họ cứ “tụng” xây dựng chế độ Chuyên Chính Vô Sản mà chẳng hiểu “Chuyên Chính” là gì.

Để chuẩn bị cho cuộc chiến, cộng sản thực hiện hai việc, gài cán bộ nằm vùng ở lại miền Nam và chôn giấu vũ khí. Để gài cán bộ nằm vùng ở lại, cộng sản lập danh sách chỉ định những cán bộ phải ở lại và những cán bộ được phép ra Bắc. Trái lại, chính quyền Miền Nam không có nhu cầu gây chiến (và cũng không có khả năng gây chiến) nên đã chở tất cả những ai muốn di cư vào Nam, kể cả toàn bộ gia đình con cháu họ. Hầu hết những cán bộ được phép tập kết ra Bắc phải để vợ và con nhỏ ở lại để khi cán bộ Tập kết được đưa trở lại vào Nam hoạt động bí mật thì có cơ sở vợ con làm chỗ dựa. Cán bộ cao cấp nhất được đảng chỉ đạo bí mật ở lại miền Nam để lãnh đạo cuộc nổi dậy trong tương lai là ông Lê Duẫn, sau này làm Tổng Bí Thư Đảng.

Sau hai năm dự trù cuộc bầu cử trên cả nước không thành vì miền Nam không chấp nhận kiểu bầu cử phản dân chủ của miền Bắc (như hiện nay đang diễn ra trên cả nước), tức thì miền Bắc chỉ thị cho các cơ sở nằm vùng ém sẵn tại miền Nam đồng loạt nổi lên chống chính quyền. Sau đó, để gia tăng tấn công phá hoại miền Nam, đảng cộng sản miền Bắc, trong Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tháng 1-1959, “đã vạch ra đường lối, phương pháp cách mạng miền Nam. Nghị quyết xác định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Về phương pháp cách mạng, báo điện tử quân đội nhân dân viết, “Được ánh sáng Nghị quyết 15 soi đường, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam…diễn ra mạnh mẽ theo phương châm “hai chân, ba mũi”, với sự phối hợp nhịp nhàng giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang (LLVT), giữa chính trị, quân sự và binh vận, đập tan từng mảng lớn bộ máy chính quyền tay sai ở cơ sở, giành quyền làm chủ hàng nghìn xã, thôn, giải phóng khoảng 5,6 triệu dân khỏi ách áp bức, kìm kẹp của địch.” (Báo điện tử Quân đội nhân dân ra ngày Thứ năm, 19/12/2019 – https://www.qdnd.vn/cuoc-thi-viet-quan-doi-anh-hung-quoc-phong-vung-manh/phong-trao-dong-khoi-mien-nam-1960-buoc-ngoat-chien-luoc-cua-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-605650

Tháng 1-1959 Đảng cộng sản công bố nghị quyết 15 phát động chiến tranh. Bốn tháng sau, miền Bắc mở đường xuyên rừng núi Trường Sơn xâm nhập người và khí tài vào miền Nam. Báo điện tử Bộ quốc phòng ngày 17-04-2015 viết, “Ngày 19/5/1959, Thường trực Tổng Quân ủy Trung ương đã chính thức giao nhiệm vụ cho “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” – Đoàn 559 có nhiệm vụ mở đường Trường Sơn, chi viện cho chiến trường miền Nam. Với khẩu hiệu có tính chất mệnh lệnh: “Ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”, ngày 13/8/1959, chuyến hàng đầu tiên vượt Trường Sơn bằng phương pháp thồ gùi đã được cán bộ, chiến sỹ Đoàn 559 đưa tới Tà Riệp – địa danh ở vùng Bắc A Lưới (tỉnh Thừa Thiên – Huế), khẳng định quyết định lịch sử của Đảng và Bác Hồ vĩ đại, đánh dấu những bước tiến thành công cho chiến trường miền Nam trên con đường huyết mạch 559.)  cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng, 17/04/2015, “Tiếp lửa” trên đường 559 huyền thoại).

Năm 1960, Đảng cộng sản họp Đại hội toàn quốc lần thứ III thành lập 2 cơ quan lãnh đạo cuộc chiến tranh tại Miền Nam: 1-Thành lập Trung ương Cục miền Nam và 2-thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. “Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được triệu tập. Đại hội chủ trương thành lập Trung ương Cục ở miền Nam để giúp Trung ương Đảng, Bộ Chính trị chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam. Đại hội III của Đảng cũng chủ trương phải xây dựng tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất ở miền Nam.” (Bài: 20-12-1960: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập) và ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.

Đến đây lịch sử đã rõ. Chạy theo lý thuyết “Cách mạng Thường Trực” của Karl Marx, được hướng dẫn và hỗ trợ bởi Liên Xô và Trung Hoa cộng sản, đảng cộng sản Việt Nam đã phát động chiến tranh huynh đệ tương tàn bằng các biện pháp 1-cắm cài cơ sở nhân lực và vũ khí tại miền Nam sau 1954. 2-Tháng 1-1959 công bố nghị quyết 15 chính thức phát động chiến tranh tại miền Nam, khởi đầu bằng các hoạt động khủng bố, phá hoại, bắt cóc, ám sát nhằm “đập tan từng mảng lớn bộ máy chính quyền tay sai ở cơ sở, giành quyền làm chủ hàng nghìn xã, thôn.” 3-Ngày 19/5/1959, đảng chính thức bắt buộc (tình nguyện kiểu cộng sản) nam nữ thanh niên vượt sông Bến Hải vào Nam mở đường Trường Sơn để đưa người và khí tài tấn công miền Nam. 4-Để lừa bịp thế giới, đảng đã che dấu hành động xâm lăng miền Nam, bằng cách cho thành lập ở miền Nam một tổ chức bình phong là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam vào ngày 20-12-1960. 5-Cũng đồng thời trong nghị quyết 15 phát động chiến tranh, đảng cộng sản đã thành lập Trung ương Cục miền Nam để trợ giúp bộ Chính trị giám sát, lãnh đạo cuộc chiến tranh tại miền Nam. Sau 1975, với sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật thông tin, nhiều thành phần có trình độ của miền Bắc đã nhận định sự phát động chiến tranh tại miền Nam của đảng cộng sản miền Bắc là một sai lầm. Facebooker Bùi Công Tự (cựu cán bộ miền Bắc) đã viết một stt như sau:

Vài hình ảnh về thành phố Tours (Tua) nước Pháp – nơi mà nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng là điểm khởi đầu những sai lầm lịch sử của chúng ta!

Toàn cảnh Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua, tháng 12/1920.

Ghi chú của Nguyễn Tường Tâm lấy từ Wikipedia: Nguyên Ngọc (sinh năm 1932), là một nhà văn, nhà báo, biên tập, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng của Việt Nam. Ông còn được xem là một nhà văn quân đội, gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên, từng được phong hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tham khảo:
(1) Nikolai Bukharin (1924). The Theory of Permanent Revolution
(2)- [Book] Lenin and Trotsky – What they really stood for.


 

Xe VinFast ‘tự động chạy,’ gây náo loạn Tân Sơn Nhất, báo Việt Nam ‘im lặng’

Ba’o Nguoi-Viet

January 26, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Mạng xã hội dấy lên hàng ngàn bình luận về một video clip cho thấy một chiếc xe điện mang nhãn hiệu VinFast của hãng Xanh SM “tự động chạy” mà không cần tài xế tại phi trường Tân Sơn Nhất vào đêm 25 Tháng Giêng (26 Tháng Chạp).

Trong đoạn video clip, chiếc xe màu đen là loại VF 8, trị giá hơn 1 tỷ đồng ($39,872), mất kiểm soát, chạy hơn cả trăm mét trong lúc ít nhất hàng chục người, gồm người dân và nhân viên bảo vệ của Tân Sơn Nhất đuổi theo, tìm cách chặn chiếc xe.

Chiếc xe điện VinFast của hãng Xanh SM “tự động chạy” tại phi trường Tân Sơn Nhất vào đêm 25 Tháng Giêng. (Hình: Chụp qua màn hình)

Thậm chí, một số người đàn ông được nhìn thấy “dũng cảm” chạy trước đầu xe trong lúc những người khác đứng la hét, hoảng loạn.

Chiếc xe điện chỉ dừng lại khi bị chặn bởi các xe đẩy hành lý, khiến nhiều người chứng kiến thở phào.

Vụ việc thu hút sự hiếu kỳ của hàng trăm người ra đón hoặc tiễn người thân. Nhiều người trong số này dùng điện thoại phát livestream trên mạng xã hội.

Đoạn clip đăng trên Facebook Hoàng Dũng thu hút hơn 3,000 lượt bình luận, đa phần là cười nhạo tính năng “tự động chạy” bất ngờ xuất hiện trên xe điện VinFast.

Tính đến sáng 26 Tháng Giêng, không thấy bất kỳ tờ báo ở Việt Nam đưa tin này.

Trong khi đó, các diễn đàn, hội nhóm chuyên về công nghệ, xe hơi, kinh tế cũng tuyệt đối giữ im lặng.

Hàng chục người tìm cách chặn chiếc xe VinFast. (Hình: Chụp qua màn hình)

Đây không phải là ngoại lệ. Hầu hết các vụ xe gây tai nạn mang nhãn hiệu Vinfast tại Việt Nam đều được báo chí nhà nước tránh nêu tên hãng xe này.

Facebooker Hoàng Dũng bình luận trên trang cá nhân: “[Các báo] tiếp tay cho Phạm Nhật Vượng – xét cho cùng, cũng là một dạng tội ác. Đừng dạy nhà giàu cách tiêu tiền. Câu này tuyệt đối đúng. Nhưng phải chỉnh nhà giàu cách tôn trọng mạng sống người khác. Điều đó là cần thiết. Xin đừng lôi mạng người Việt ra để thử nghiệm xe nữa, Vượng à!”

Vụ xe điện VinFast tự chạy ở phi trường Tân Sơn Nhất diễn ra chỉ một ngày sau khi báo chí trong nước đồng loạt đăng bài “Doanh thu mảng sản xuất của Vingroup lần đầu chạm mốc tỷ đô la mỗi quý.”

Trong khi đó, đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) hôm 23 Tháng Giêng đưa tin, cổ phiếu Vingroup gần chạm đáy, áp lực lên VinFast trong khi nhà đầu tư ngoại quốc bán tháo.

Xe đẩy hành lý được đem ra chặn chiếc xe VinFast. (Hình: Chụp qua màn hình)

Bản tin dẫn lời ông Leif Schneider, người đứng đầu công ty luật quốc tế Luther tại Việt Nam cho biết năm 2025 “có thể là chỉ báo về sức khỏe tài chính nói chung của Vingroup”.

“Vingroup có thể phải đối mặt với tình trạng sụt giảm tài chính hơn nữa nếu hiệu suất của VinFast không được cải thiện. Voệc cắt giảm hỗ trợ của Vingroup cho các công ty con có thể giúp giảm bớt căng thẳng tài chính,” ông Schneider nói.

Dữ liệu mới nhất cho thấy VinFast đã lỗ gần $2 tỷ trong ba quý đầu năm ngoái, nhưng đang thu hẹp khoản lỗ khi doanh thu tăng nhờ doanh số bán xe vượt mục tiêu đã điều chỉnh giảm xuống. (N.H.K) [kn]