Tháng Tám 1945, Cách mạng hay Cách … Cái mạng?

Tháng Tám 1945, Cách mạng hay Cách … Cái mạng?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-08-31

08312015-august-1945-revolut-or-devolution.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Ô. Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945

Ô. Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945

File photo

Cách mạng

Theo lịch sử chính thống của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam hiện nay, cách đây 70 năm, vào ngày 19/8, tại Hà Nội Mặt trận Việt minh do đảng cộng sản lãnh đạo giành lấy chính quyền từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ngày 25/8 một biến cố tương tự xảy ra ở Sài gòn. Và cuối cùng là ngày 2/9/1945, ông Hồ Chí Minh, người đứng đầu đảng cộng sản và Mặt trận Việt minh tuyên bố một nước Việt nam độc lập.

Tất cả những sự kiện đó được gọi là cuộc cách mạng tháng Tám, thời điểm khởi đầu cho sự cầm quyền độc tôn của đảng cộng sản trên từng phần và cuối cùng là toàn bộ nước Việt nam ngày nay. Những tuần lễ tháng tám hàng năm đều được nhà nước do đảng cộng sản lãnh đạo cho tổ chức lễ hội rất trọng thể.

Nhà báo, blogger Lê Diễn Đức điểm lại tất cả những sự kiện lịch sử trong thời gian đó cách đây 70 năm, và ông nêu lý do vì sao Mặt trận Việt minh đã chiến thắng trong thời điểm đó:

Mục đích của Việt Minh trong sáng, rõ ràng đã đánh đúng vào lòng yêu nước, tinh thần chống Pháp, Nhật, nên tập hợp được lực lượng quần chúng đông đảo. Khi Pháp trở lại Đông Dương, Việt Minh tiếp tục cuộc vận động, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến 9 năm và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ.

Cũng có những nhà phân tích lịch sử cho rằng sự kiến tháng tám năm 1945 không hẳn là một cuộc cách mạng, mà nó chỉ là một chính biến. Chính biến ấy thành công do lợi dụng được khoảng trống quyền lực giữa quyền lực của thực dân Pháp và quân chiếm đóng Nhật bản trong giai đoạn tranh tối tranh sáng cuối cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Trang Bauxite VN bình luận:

Cách mạng đã 70 năm tuổi nhưng không có bất kỳ một công dân Việt Nam nào biết có một hình ảnh nào khác về cách mạng ngoài hình ảnh mà bộ máy tuyên truyền dàn dựng lên. Chắc chắn rất nhiều người ngạc nhiên và không tin khi học giả nước ngoài viết rằng Cách mạng tháng Tám thực chất chỉ là một cuộc chính biến, một cuộc khởi nghĩa, ngay cả các nước láng giềng Việt Nam cũng đã có nước làm cách mạng “na ná”Việt Nam. Tóm lại cái gọi là”cuộc cách mạng long trời lở đất” thực ra cũng chỉ là chuyện thường ngày ở huyện thôi.

Hơn nữa có người còn nói rằng trong cuộc cách mạng này, những người cộng sản đã cướp thành quả của những tổ chức cách mạng khác.

Ông Nguyễn Gia Kiểng, người thành lập tổ chức Tập hợp dân chủ đa nguyên đấu tranh cho dân chủ tại Việt nam không đồng ý với những nhận định này. Ông nói rằng những người cộng sản cho rằng cuộc cách mạng của họ là quan trọng, là long trời lở đất cũng không quá đáng, vì cuộc cách mạng ấy thay hình đổi dạng nước Việt nam cho đến ngày nay.

Ông Nguyễn Gia Kiểng cũng nói rằng những người cộng sản không cướp thành quả của ai cả, mà họ có được những thành quả ấy sau bao nhiêu hy sinh. Ông Kiểng so sánh đảng cộng sản với các tổ chức khác như Quốc Dân Đảng hay Đại Việt, những tổ chức yếu ớt và không đủ lực lượng để tạo nên một biến chuyển gì vào thời điểm quan trọng đó.

Cuộc cách mạng đem lại những gì sau 70 năm?

Ông Nguyễn Gia Kiểng nói tiếp về cuộc cách mạng của những người cộng sản:

Lỗi lớn nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam là đã kéo đất nước Việt Nam vào ngõ cụt, vào thảm kịch, chứ không phải là vì họ tranh giành ngày 19/8. Họ có thể xứng đáng nắm chính quyền vào ngày 19/8. Lẽ ra sau ngày 19/8 Việt Nam phải đi theo một hướng khác, nhưng nó đã bị lôi kéo vào quĩ đạo cộng sản. Kết quả là 30 năm chiến tranh, 6 triệu người chết, bao nhiêu gia đình ly tán, con người hận thù lẫn nhau đến tận ngày hôm nay.

Lỗi lớn nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam là đã kéo đất nước VN vào ngõ cụt, vào thảm kịch, chứ không phải là vì họ tranh giành ngày 19/8. Họ có thể xứng đáng nắm chính quyền vào ngày 19/8. Lẽ ra sau ngày 19/8 Việt Nam phải đi theo một hướng khác, nhưng nó đã bị lôi kéo vào quĩ đạo cộng sản

Ông Nguyễn Gia Kiểng

Theo ông Kiểng, một trong những gia tài mà người cộng sản để lại sau 70 năm cầm quyền là sự thờ ơ của người dân Việt nam, đặc biệt là giới trẻ. Ở trong nước thì thanh niên quan tâm đến những ngày kỷ niệm tháng tám như một cơ hội để vui chơi, mà thanh niên Việt ở nước ngoài thì bị mất gốc rất sớm, Việt nam đối với họ chỉ còn là một kỷ niệm.

Giải thích điều đáng buồn đó ông Kiểng nói:

Sau ngày 19/8 Hồ Chí Minh đã đưa Việt Nam vào quỹ đạo cộng sản

Sau ngày 19/8 Hồ Chí Minh đã đưa Việt Nam vào quỹ đạo cộng sản

Tại sao có sự lãnh đạm đối với đất nước như vậy? Bởi vì chế độ cộng sản không chỉ đã làm cho người ta phẫn nộ, mà còn làm người ta chán nản đối với đất nước. Phải nói là thảm kịch Việt Nam đã rất lớn. Thành tích của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất kinh khủng. Cách Mạng Tháng Tám đáng lẽ ra phải là một cơ hội vinh quang của Việt Nam nhưng đã trở thành một thảm kịch lớn.

Blogger Nguyễn Vũ Bình, người từng làm việc cho cơ quan lý luận của đảng cộng sản mô tả hình ảnh của chế độ mà những người cộng sản thành lập và duy trì cho đến nay trong bài viết mang tên Phác họa chân dung một chế độ. Trong bài này ông Bình cho rằng việc cầm quyền của đảng cộng sản được dựa trên ba nền tảng:

1/Sự gieo rắc sợ hãi trong dân chúng đối với bộ máy của đảng,

2/ Thiết lập sự lệ thuộc của dân chúng vào đảng,

3/ Kiểm soát tư tưởng của dân chúng bằng cách chia rẽ họ và đốc thúc họ tố cáo, kiểm soát lẫn nhau.

Nguyễn Vũ Bình viết tiếp:

Đi sâu vào phân tích cách thức guồng máy chuyên chính vô sản hoạt động nghiền nát tất cả sự phản kháng của người dân mới thấy được nghệ thuật cai trị của cộng sản. Đó cũng chính là nghệ thuật tiêu diệt và đày đọa con người.

Làm cách mạng để xây dựng lên chế độ độc đảng toàn trị, không có tự do, dân chủ và nhân quyền. Đó là một cuộc cách mạng vô nghĩa và thất bại. Bởi chúng ta đã thay thế sự cai trị văn minh của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị độc ác, tàn bạo, tham lam của giặc nội xâm

Nhà báo Lê Diễn Đức

Trong một lần trao đổi gần đây với đài Á châu tự do, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một cựu tù chính trị cũng có nhấn mạnh đến kinh nghiệm cai trị của đảng cộng sản trong mấy mươi năm qua, và điều đó chính là một trở ngại cho con đường dân chủ hóa Việt nam.

Nhà báo Lê Diễn Đức thì trích lời nhà bất đồng chính kiến Luật sư Nguyễn Văn Đài về bản chất của cuộc cách mạng, hay chính biến tháng 8/1945

Làm cách mạng để xây dựng lên chế độ độc đảng toàn trị, không có tự do, dân chủ và nhân quyền. Đó là một cuộc cách mạng vô nghĩa và thất bại. Bởi chúng ta đã thay thế sự cai trị văn minh của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị độc ác, tàn bạo, tham lam của giặc nội xâm

Kết quả của cuộc cách mạng ấy, theo blogger Lê Vũ Bình, sẽ dẫn tới một tương lai không hề sáng sủa, giống như sự sụp đổ của hàng loạt nhà nước cộng sản khác trong thế kỷ 20.

Những nhà nước cộng sản đã không thể xây dựng được một nền kinh tế theo đúng nghĩa tạo ra của cải vật chất. Trong khi, để duy trì một hệ thống khổng lồ bảo đảm sự vận hành và thống trị, nó lại cần một nguồn lực vô tận, điều không bao giờ có được. Chính vì vậy, các chế độ cộng sản, sau khi đã tạo ra được lâu đài thống trị uy nghi, cuối cùng đều tự sụp đổ vì sức nặng của chính nó. Và Việt nam chắc chắn cũng không phải là ngoại lệ.

Một điều cũng đáng ghi nhận trong thời điểm 70 năm sau cách mạng tháng tám 1945, ông Vũ Minh Giang, người được coi là nhà lý luận hàng đầu của những người cộng sản hiện nay nói với báo chí Việt nam điều mà ông nhận ra về sự cần thiết hay không của các cuộc cách mạng:

Tôi từng tham dự một hội nghị quốc tế nhân kỷ niệm 200 năm cách mạng tư sản Pháp. Tại đây giới sử học đưa ra một luận điểm mới và lạ. Họ đánh giá cao những cuộc cải cách trong lịch sử, trong đó cải cách Meiji được phân tích rất nhiều. Thậm chí họ còn cho rằng con đường cải cách là cách đi thông minh và cần tới tầm nhìn của giới lãnh đạo, biết mình lạc hậu để cải đổi. Cách mạng bùng nổ ra khi chính quyền cản trở sự phát triển, không chịu đổi thay nên bị lật đổ.

Điều ông Giang phát hiện ra ở thế kỷ 21 cũng là điều mà nhà văn Lỗ Tấn bên Trung quốc gửi gấm qua lời nói ngô nghê của nhân vật AQ của ông cách đây gần 100 năm Cách mạng là… Cách cái mạng!

Làm gì?

Nhà văn Võ Thị Hảo cho rằng cuộc cách mạng tháng tám 1945 là một cái bẫy đã đưa cả dân tộc Việt nam vào một đại bi kịch ngày nay. Bà kêu gọi hãy chôn cái bẫy đó xuống, điều đó không phải chỉ tốt cho người dân mà còn cho cả những người đang cầm quyền nữa:

Và không chỉ dân đâu, chính những người có quyền lực đang hành ác hiện nay cũng cần thoát khỏi chiếc bẫy đó, vì chẳng quyền lực, địa vị, tiền bạc nào tồn tại được mãi mãi. Họ và con cháu họ cũng cần được trở lại làm người, sống trong tự trọng và bình an.

Chúng ta không nên quy kết buộc tội lẫn nhau. Chúng ta nói lên những trách nhiệm nhưng phải nói Cách Mạng Tháng 8 đã như thế không phải là do trách nhiệm riêng của Đảng Cộng Sản mà là trách nhiệm của cả một thế hệ trí thức VN. Lớp trí thức đó đã bất lực để cho một đảng, có lẽ vì cuồng tín và thiển cận, kéo đất nươc vào thảm kịch

Ông Nguyễn Gia Kiểng

Blogger Song Chi thì đặt câu hỏi Một chế độ tồi tệ đến thế chúng ta vẫn chịu được. Thì là lỗi của chúng ta hay lỗi của nhà cầm quyền?

Và bà nhận định tiếp dường như sự phản kháng của người dân Việt nam cho đến nay chỉ mang ý nghĩa tiêu cực:

Có vẻ như lâu nay lối thoát duy nhất của chúng ta là… chửi. Chúng ta chửi chế độ, chửi bọn quan tham, bọn bán nước, bọn bất tài… Chưa bao giờ trước đây người dân VN từ ông tài xế taxi, bà bán bún ngoài chợ cho tới dân trí thức, các blogger, nhà báo tự do…có thể thoải mái chửi chế độ, chửi nhà cầm quyền đến thế. Nhà cầm quyền có biết không? Thừa biết. Nhưng tại sao họ vẫn để lơ? Thứ nhất là vì người ta chửi nhiều quá, nếu bất cứ ai chửi chế độ cũng bắt bớ, giam cầm thì có mà bắt mà giam hàng chục triệu người. Thứ hai, bởi vì chửi không làm cho chế độ này sụp được, thậm chí chửi nhiều khi còn là một cách xả xú páp, chẳng thà để dân chửi cho hả rồi dân lại lùi lũi lo kiếm ăn còn hơn dân ôm lấy nổi căm giận trong lòng và một ngày xuống đường, đấu tranh lật đổ chế độ.
Chúng ta chửi không làm cho chế độ này sụp đổ được

Cùng tìm câu trả lời là phải làm gì trước hiện trạng hôm nay, Ông Nguyễn Gia Kiểng nhấn mạnh rằng trách nhiệm trước bi kịch của dân tộc ngày nay là không chỉ của riêng những người cộng sản:

Đến giờ phút này chúng ta không nên quy kết buộc tội lẫn nhau. Chúng ta nói lên những trách nhiệm nhưng phải nói Cách Mạng Tháng 8 đã như thế không phải là do trách nhiệm riêng của Đảng Cộng Sản mà là trách nhiệm của cả một thế hệ trí thức Việt Nam. Lớp trí thức đó đã bất lực để cho một đảng, có lẽ vì cuồng tín và thiển cận, kéo đất nươc vào thảm kịch.

70 năm sau, một tia hy vọng được nhóm lên khi một lớp trí thức trẻ, dù còn ít đã dấn thân trên con đường dân chủ hóa Việt nam, không câu nệ quá khứ, mà đòi hỏi nhà cầm quyền hãy làm những gì mà mình đã đặt ra.

Trong bài Giải pháp tránh sự sụp đổ sau 70 năm, người cựu tù chính trị Nguyễn Tiến Trung viết:

Việc vi phạm hiến pháp, pháp luật phải chấm dứt ngay. Đó cũng nhằm tránh sự sụp đổ. Đó cũng chính là giải pháp cho Việt Nam, toàn dân, kể cả các đảng viên cộng sản yêu nước, bắt tay nhau hiện thực hóa “nhân dân làm chủ, pháp luật chuẩn mực”, bắt đầu từ bản hiến pháp của toàn dân.

Tránh sự sụp đổ phải chăng cũng chính là ý tưởng cho một cuộc dân chủ hóa mà Tiến sĩ Nguyễn Quang A nói với chúng tôi rằng ít tốn kém cho dân tộc nhất. Và cũng có thể tránh cái mà nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng các cuộc cách mạng thường hay ăn thịt những đứa con của mình, tránh cái mà AQ của Lỗ Tấn nói Cách mạng là… Cách cái mạng!

70 năm sau Cách mạng tháng Tám

70 năm sau Cách mạng tháng Tám

Quân đội Nhân dân Việt Nam phất cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy của Pháp tại Điện Biên Phủ

Quân đội Nhân dân Việt Nam phất cờ chiến thắng trên nóc hầm chỉ huy của Pháp tại Điện Biên Phủ

Nguyễn Hưng Quốc

Đầu tháng 9 này, chắc chắn giới lãnh đạo và giới truyền thông Việt Nam sẽ làm ầm ĩ về những thành tựu họ đã đạt được trong suốt 70 năm kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhân dịp này, chúng ta cũng nên nhìn lại vấn đề công và tội của đảng Cộng sản đối với đất nước.

Công lớn nhất và đáng kể nhất của đảng Cộng sản là cuộc kháng chiến chống Pháp, kéo dài 9 năm, kết thúc với trận đánh oanh liệt tại Điện Biên Phủ vào năm 1954, chấm dứt ách đô hộ kéo dài gần một thế kỷ của thực dân Pháp. Dĩ nhiên, người ta có thể cho đó là thành tích của cả dân tộc chứ không hẳn của riêng đảng Cộng sản. Người ta cũng có thể phản biện lại: ngay trong điều gọi là công trạng này đã có mầm mống của tội ác qua việc đảng Cộng sản loại trừ những người yêu nước không phải cộng sản hoặc chống lại cộng sản. Tuy vậy, nhìn chung, chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng Cộng sản trong việc mang lại độc lập cho Việt Nam.

Điều đáng tiếc là công trạng vừa nêu cũng là công trạng duy nhất mà đảng Cộng sản đã mang lại cho đất nước. Kể từ trận Điện Biên Phủ trở đi, với tư cách đảng cầm quyền độc tôn ở miền Bắc, và sau đó, kể từ năm 1975, trong cả nước, đảng Cộng sản vấp phải hết sai lầm này đến sai lầm khác, sai lầm nào cũng đẫm máu, và vì tính chất đẫm máu ấy, sai lầm biến thành tội ác.

Trước hết, đảng Cộng sản hoàn toàn sai lầm trong việc gây ra cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm ở miền Nam. Đã đành mục tiêu khá chính đáng: thống nhất đất nước. Nhưng, như lịch sử gần đây chứng minh, để thống nhất đất nước, người ta không nhất thiết phải chọn biện pháp chiến tranh. Đông Đức và Tây Đức, sau mấy chục năm phân hoá, đã được thống nhất một cách hoà bình. Nam Hàn và Bắc Hàn không may mắn như vậy, cho đến nay, vẫn còn chia cắt, nhưng sự chia cắt ấy cũng không phải là một bất hạnh bởi vì ít nhất một nửa nước, Nam Hàn, cũng được sống một cách sung sướng và đầy tự hào với nền kinh tế phát triển vượt bực. Đảng Cộng sản Việt Nam, do thiếu kiên nhẫn và phần nào, cũng do hiếu chiến, đã chọn biện pháp bạo lực để thống nhất đất nước, dẫn đến hậu quả là một cuộc chiến tranh kéo dài với khoảng ba triệu người, ở cả hai miền, bị giết chết một cách thảm khốc và những chấn thương trong tâm lý, cho đến bây giờ, bốn mươi năm sau, vẫn còn khiến nhiều người nhức nhối.

Sau năm 1975, khi chiến tranh kết thúc, đảng Cộng sản lại vấp phải một sai lầm nghiêm trọng khác: Thay vì hoà hợp và hoà giải dân tộc, xoá bỏ hận thù, hàn gắn các vết thương do cuộc chiến tranh kéo dài mang lại để mọi người an tâm xây dựng lại đất nước, họ lại lập ra các trại cải tạo để giam nhốt và hành hạ những người thuộc phe thua cuộc, hơn nữa, còn có những chính sách kỳ thị nặng nề đối với dân chúng miền Nam, khiến cho đến nay, bốn mười năm sau, các vết thương chia rẽ vẫn còn sâu hoắm.

Có thể kể thêm vô số các sai lầm khác của đảng Cộng sản, trong đó, nổi bật nhất là các chính sách cải cách ruộng đất làm cả chục ngàn người bị chết, các chính sách chống xét lại đẩy hàng ngàn người vào cảnh tù đày, các chính sách đánh tư sản mại bản và ép dân đi kinh tế mới khiến hàng chục ngàn người lâm vào cảnh khốn cùng. Tuy nhiên, hai sai lầm và cũng là tội ác lớn nhất của đảng Cộng sản là: Một, làm nền kinh tế Việt Nam ngày càng kiệt quệ và hai, làm băng hoại nền văn hoá truyền thống của Việt Nam.

Trước hết, về kinh tế, hầu như ai cũng biết, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, kinh tế Việt Nam, đặc biệt ở miền Nam, khá cao so với các quốc gia trong khu vực. Dạo ấy, Sài Gòn vẫn được xem là “hòn ngọc Viễn Đông”, niềm mơ ước của nhiều quốc gia khác. Vài năm sau 1975, khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia nghèo đói nhất thế giới. Hiện nay, tình trạng khá hơn một chút, nhưng Việt Nam vẫn chỉ thuộc quốc gia có thu nhập vào loại trung bình thấp.

Mới đây, trong cuộc hội thảo về kinh tế do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam tổ chức vào ngày 28 tháng 8, các chuyên gia đều thừa nhận Việt Nam thua kém hẳn các quốc gia khác ở Châu Á. Với thu nhập bình quân trên đầu người khoảng 2000 Mỹ kim hiện nay, Việt Nam chỉ bằng Philippines năm 2010, Indonesia năm 2008, Thái Lan năm 1993, Malaysia năm 1988 và Hàn Quốc năm 1982. Nói cách khác, “GDP bình quân đầu người của Việt Nam đang thụt lùi so với Hàn Quốc khoảng 30-35 năm, Malaysia khoảng 25 năm, Thái Lan khoảng 20 năm, Indonesia và Philippines khoảng 5-7 năm.” Người ta cũng tiên đoán nếu mức phát triển kinh tế hiện nay không được cải thiện, khoảng cách nêu trên sẽ càng ngày càng lớn. Hơn nữa, Việt Nam còn có nguy cơ bị Campuchia và Lào qua mặt.

Chuyện kinh tế và phát triển rất dễ thấy, tuy nhiên, theo tôi, lầm lẫn – đúng hơn, tội ác – nghiêm trọng nhất của đảng Cộng sản là phá hoại văn hoá Việt Nam, một yếu tố trừu tượng và mơ hồ, khó nhận biết, nhưng có ảnh hưởng sâu sắc đến cách sống cũng như quan hệ giữa người với người. Các cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất vào giữa thập niên 1950 làm phá nát quan hệ hàng xóm vốn là một nét đẹp trong văn hoá truyền thống của dân tộc. Các cuộc phê bình và tự phê bình làm cho không ai còn tin ai được nữa. Các nỗ lực phá hoại sự hình thành của xã hội dân sự làm cho con người càng ngày càng trở thành vô cảm trước những nỗi đau khổ của người khác. Các hành động trấn áp những người yêu nước, đặc biệt trong các phong trào chống Trung Quốc, khiến mọi người đâm ra dửng dưng trước số phận của đất nước. Hậu quả của tất cả của những điều vừa kể là con người càng ngày càng trở nên ích kỷ, và hậu quả của sự ích kỷ này là con người càng ngày càng độc ác hơn. Không phải ngẫu nhiên mà các tội ác trong xã hội càng lúc càng trở thành phổ biến.

Những sự tụt hậu về kinh tế có thể được khắc phục nếu không phải trong vài năm thì cũng vài chục năm, nhưng những sự đổ vỡ trong văn hoá và đặc biệt trong đạo đức và quan hệ giữa người với người thì rất khó hàn gắn và để lại rất nhiều di hại, làm ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế cũng như tiến trình dân chủ hoá của đất nước. Hơn nữa, nó cũng ảnh hưởng cả đến những nỗ lực chống lại các âm mưu bành trướng của Trung Quốc. Đó mới chính là điều đáng lo sợ nhất.

Đài Loan: TQ sắp tuyên bố vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông

Đài Loan: TQ sắp tuyên bố vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông

Chiến đấu cơ SU-27 của Trung Quốc bay ngang khu vực Biển Đông.

Chiến đấu cơ SU-27 của Trung Quốc bay ngang khu vực Biển Đông.

Các công trình lấp biển xây đảo của Trung Quốc ở Biển Đông đã thay đổi hoàn toàn cấu trúc chiến lược trong khu vực, và theo hãng tin CNA của nhà nước Đài Loan hôm nay, giờ đây, Trung Quốc sẽ đẩy nhanh tiến trình quân sự hoá và sẽ tuyên bố một khu nhận dạng phòng không trong khu vực.

Trong một phúc trình nộp cho viện lập pháp về sức mạnh quân sự của Trung Quốc, Bộ Quốc phòng Đài Loan nói vào tháng 9/2013, Trung Quốc đã khởi sự đổ cát lên Đá Gạc Ma, một trong hơn 50 bãi cạn và đá ngầm trong Biển Đông. Trung Quốc sau đó tiến hành lấn biển xây đảo tại 6 bãi đá khác và đang xây một bến cảng, nhiều phi đạo và các cơ sở hạ tầng khác.

Phúc trình này nói rằng nay Trung Quốc đang đẩy nhanh tiến trình quân sự hoá các đảo mới để sử dụng như những tiền đồn trong Biển Đông.

Ngoài việc tuyên bố chủ quyền và khai thác tài nguyên thiên nhiên tại đây, Trung Quốc sẽ tuyên bố một khu nhận dạng phòng không trong khu vực.

Một bản tin của công ty truyền thông Fairfax Media của Úc hôm nay trích các nguồn tin quân sự cấp cao của Australia, nhận định rằng Trung Quốc đã thắng vòng đầu tiên trong cuộc tranh chấp để giành quyền kiểm soát Biển Đông khi hoàn tất việc xây dựng một quần đảo gồm các đảo mới do họ tạo ra.

Bản tin nói thêm rằng không có vật chướng ngại nào đáng kể thực sự cản trở Trung Quốc tiếp tục thắng vòng tranh chấp kế tiếp, trước sự do dự của chính phủ Mỹ và các đồng minh, trong đó có cả Australia, sẽ thực hiện những lời hứa đưa ra trước đó là sẽ thách thức những tuyên bố bất hợp pháp của Trung Quốc bằng các cuộc diễn tập để bảo vệ “quyền tự do hàng hải”.

Theo Fairfax Media, các nhà phân tích quân sự dự kiến là tới năm 2017, Trung Quốc sẽ trang bị các đảo tân tạo với những bến cảng, các căn cứ quân sự, pháo binh, đường băng và các hệ thống radar tầm xa. Những phương tiện này sẽ cho phép Trung Quốc phóng ra xa sức mạnh quân sự và phi quân sự tới những vùng biển xa xôi nhất, nơi có tranh chấp gay gắt nhất trong Biển Đông.

Những phương tiện đó cũng sẽ giúp Bắc Kinh cản trở các nước tuyên bố chủ quyền khác tại các vùng biển này, và gây gián đoạn các tuyến hàng hải hiện là nơi qua lại của 3/5 thương mại quốc tế.

Công ty Truyền thông Fairfax Media dẫn lời một nguồn tin chính thức nói rằng: “Trung Quốc đã thắng vòng đầu. Hiện rất khó có thể thấy được là họ sẽ bị cản lại, để không thắng vòng kế tiếp”.

Hồi tháng 5, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đòi ngưng tất cả mọi hành động cải tạo đất, và đề ra kế hoạch cho máy bay quân sự và tàu bè đi ngang qua vùng biển tranh chấp trong phạm vi 12 hải lý cách các đảo nhân tạo. Những cam kết này đã được Bộ trưởng Quốc phòng Úc Kevin Andrews mạnh mẽ ủng hộ, nhưng theo Fairfax Media, các chuyến bay ấy, kể cả phi vụ của máy bay trinh sát, diễn ra bên ngoài phạm vi 12 hải lý cách các đảo nhân tạo.

Trong khi Hoa Kỳ và các đồng minh gặp khó khăn trong việc hành động để đi kèm với lời nói của mình, thì hàng đoàn tàu nạo vét của Trung Quốc hoàn tất công tác cải tạo đất, kể cả xây nền móng cho một phi đạo dài 3.000 mét trong khu vực trên bãi Đá Subi, có khả năng phục vụ các phi cơ lớn nhất của Không quân Trung Quốc.

Bản tin nói rằng các công trình cải tạo đất phần lớn đã hoàn tất đúng lúc trước khi Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình sang thăm Washington trong 2 tuần nữa, trong khi các hình ảnh vệ tinh cho thấy là việc sử dụng các tàu nạo vét của Trung Quốc trong Biển Đông đã giảm khoảng 90% trong mấy tuần gần đây.

Một số chiến lược gia tin rằng Trung Quốc sẽ được rộng tay hành động cho tới ít nhất là năm 2017, là lúc Lào phải nhường chức Chủ tịch ASEAN lại cho một nước hội viên khác, và một chính phủ mới ở Hoa Kỳ đã lên cầm quyền.

Tuy nhiên một số giới chức Mỹ và Úc nói Trung Quốc chỉ thắng về mặt chiến thuật, nhưng sẽ thất bại về mặt chiến lược, trong bối cảnh các nước trên khắp khu vực sẽ có phản ứng bằng cách thắt chặt các quan hệ với nhau và với Hoa Kỳ.

Theo CNA, Sydney Morning Herald.

Những câu nói đáng nhớ của cố TBT Lê Duẩn

Những câu nói đáng nhớ của cố TBT Lê Duẩn

FB Lịch sử hiện đại: Chiến tranh và CM

Cố Tổng bí thư Lê Duẩn và những câu nói đáng nhớ:

“Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta”

“Thưa Bác, chúng ta muốn thắng Mỹ, có một điều rất quan trọng là chúng ta phải không được sợ Mỹ, nhưng cũng không được sợ Trung Quốc và không được sợ Liên Xô.”

Khi Trung Quốc đề nghị viện trợ 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện kèm lái xe của họ, Lê Duẩn không đồng ý nhận bất cứ một chiếc xe nào vì tin rằng Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ, ông nói: “Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này”

“Chính trị là nghệ thuật về các khả năng”

Nhân dịp Tết 1976, Tổng bí thư Lê Duẩn tuyên bố: “Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh”.
Khi Lê Duẩn yêu cầu thành ủy Hà Nội bán chịu bàn ghế, giường tủ cho công nhân viên, thanh toán bằng cách trừ lương hàng tháng nhưng không được thi hành, ông tức giận nói:“Tôi hỏi thì nói không có tiền. Kìa, không có thì in ra! In ra! Không sợ lạm phát! Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ?”

Năm 1976, khi về thăm quê ở làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, khi thấy người dân đang luộc khoai mì đón Tết ông nói: “Mồng 1 tết mà tôi đến thăm nhà nào cũng thấy luộc sắn. Bà con ta còn nghèo quá! Trong đời hoạt động cách mạng, tôi đã chịu nghèo khổ, nhưng bây giờ đất nước đã được thống nhất, phải lo làm sao để cho dân giàu lên. Phấn đấu để đồng bào ta, các ông bà già, trẻ con mỗi bữa có một quả trứng, một cốc sữa mà rất khó.”

Năm 1976, Phát biểu của Tổng bí thư Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25: “Chế độ ta là chế độ chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết phải là đường lối của giai cấp vô sản. Cốt tủy của chuyên chính vô sản là ở đó chứ không phải là ở chỗ sử dụng bạo lực. Đường lối đó là sự kết hợp lý luận Mác – Lê Nin với thực tiễn cách mạng của nước mình. Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng với ai, chia sẻ với ai và hợp tác với ai cả. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là: nhất thiết phải xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ sản xuất cá thể, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhất thiết phải làm thế, không cho phép ai đi ngược lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó nhất thiết phải là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Không ai được chống lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó thì bị bắt. Đó là chuyên chính.”

Ngày 13 tháng 3 năm 1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ tập thể.”

Ảnh: Tổng bí thư Lê Duẩn năm 1969. (Sovfoto/Getty Images).

Nhiều liệt sĩ Cộng Sản Việt Nam ‘hy sinh’ hai lần

Nhiều liệt sĩ Cộng Sản Việt Nam ‘hy sinh’ hai lần

Nguoi-viet.com

QUẢNG TRỊ (NV) – Một cựu sĩ quan công an đã sử dụng hài cốt của 70 liệt sĩ bị Cộng Sản Việt Nam bỏ quên, làm phương tiện để chiếm đoạt khoảng tám tỷ đồng.

“Cậu Thủy” (trái) tại hiện trường một vụ tìm hài cốt liệt sĩ ở Quảng Trị
hồi tháng 8 năm 2013. (Hình: Tuổi Trẻ)

Viện Kiểm Sát tỉnh Quảng Trị vừa truy tố: Nguyễn Văn Thúy, 56 tuổi, ngụ tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh; Mẫn Thị Duyên, 53 tuổi, vợ ông Thúy; Nguyễn Văn Hoành, 46 tuổi, em ruột ông Thúy; Mẫn Đức Phương, 27 tuổi, em ruột bà Duyên; Nguyễn Trường Sơn, 28 tuổi và Nguyễn Anh Chiều, 32 tuổi, cùng là con rể ông Thúy. Vũ Đức Chung, 69 tuổi, quản trang Nghĩa trang liệt sĩ huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum – về các tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản,” “xâm phạm mồ mả, hài cốt,” “trộm cắp tài sản.”

Năm 2008, ông Thúy, một cựu sĩ quan công an từng ở tù vì “lừa đảo chiếm đoạt tài sản,” tự nhận và được nhiều cá nhân và tổ chức, kể cả báo giới quảng bá là một “nhà ngoại cảm.” Danh hiệu “nhà ngoại cảm” xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng đầu thập niên 2000, dùng để chỉ những người có khả năng liên lạc với người chết để hỏi han về chỗ họ bị vùi thây cho thân nhân tìm tới cải táng.

Sở dĩ các “nhà ngoại cảm” được nhiều giới tung hô, có “đất dụng võ” vì tại Việt Nam vẫn còn hàng trăm ngàn liệt sĩ từng “hy sinh” để Cộng Sản Việt Nam thống trị toàn cõi Việt Nam, bị chính quyền Cộng Sản Việt Nam lãng quên. Thân nhân của họ thì không an lòng bởi không biết họ bị vùi lấp ở đâu.

Việt Nam có hàng chục “nhà ngoại cảm” nổi tiếng và ông Thúy là một trong số này. Từ khi trở thành “nhà ngoại cảm,” ông Thúy được gọi là “cậu Thủy.”

Sau một thời gian giúp nhiều gia đình tìm hài cốt liệt sĩ là thân nhân của họ, tháng 7 năm 2013, “cậu Thủy” chính thức được Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Việt Nam (hoạt động bằng vốn do ngân sách của nhà cầm quyền trung ương cung cấp) hỗ trợ để “tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ” tại Quảng Trị, Đắk Lắk, Bình Phước, nhân dịp 65 năm “Ngày Thương Binh-Liệt Sĩ.”

“Cậu Thủy” đã tìm được 79 hài cốt liệt sĩ và được Ngân Hàng Chính Sách Xã Hội Việt Nam bồi dưỡng khoảng bảy tỷ đồng. Sau đó người ta mới phát giác, “cậu Thủy” không có khả năng liên lạc với người chết. Dựa trên thông tin về đơn vị, địa điểm thiệt mạng do thân nhân của liệt sĩ cung cấp, “cậu Thủy” cho người đem hài cốt mà “cậu Thủy” tích trữ đi chôn trước, rồi mới chỉ chỗ cho thiên hạ đi tìm, đào sau.

Để tăng độ tin cậy về hài cốt tìm được đúng là của liệt sĩ (có sự tương đồng về mức độ bị phân hủy theo thời gian), “cậu Thủy” cho người đến các nghĩa trang liệt sĩ ở Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên -Huế, Đắk Lắk… đào trộm. Đồng thời còn làm cũ, chôn kèm: dép râu, ba lô, võng… Đáng chú ý là vì nhu cầu tìm kiếm hài cốt của thân nhân liệt sĩ thì lớn, số lượng hài cốt liệt sĩ có thể đào trộm tại các nghĩa trang liệt sĩ lại có hạn nên “cậu Thủy” thường chia một bộ hài cốt thành… nhiều phần!

Theo cáo trạng, “cậu Thủy” tổ chức đào và lấy trộm khoảng 70 bộ hài cốt liệt sĩ nhưng đến khi bị bắt, “cậu Thủy” đã “tìm được” 105 liệt sĩ mất tích. Chưa kể, trong kho của “cậu Thủy” vẫn còn một số hài cốt nữa nhưng không thể xác định là bao nhiêu bộ!

Hàng trăm ngàn người đã chết khi giúp Cộng Sản Việt Nam “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.” Họ trở thành liệt sĩ và dù nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam “đời đời nhớ ơn” nhưng đến nay, cha mẹ, anh em, con cháu của họ vẫn không biết thi thể của họ bị vùi lấp ở đâu.

Thập niên 1980, 1990, nhà cầm quyền nhiều địa phương ở Việt Nam từng tổ chức một số đợt “tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.” Có hàng chục scandal liên quan đến các vụ “tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ” đó. Phổ biến nhất là lập khống số lượng hài cốt tìm được và xây mộ giả để lấy tiền. Có nơi như Đồng Nai, các “đồng chí, đồng đội” còn chẻ xương, cắt sọ hài cốt liệt sĩ để tăng số lượng hài cốt tìm được.

Đó cũng là lý do phong trào “tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ” xẹp xuống, nhường chỗ cho phong trào “ngoại cảm.” Phong trào nào cũng có nhiều liệt sĩ Cộng Sản Việt Nam “hy sinh” không chỉ một lần. (G.Đ)

Rồi có một ngày…

Rồi có một ngày…

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Tôi thường nghe những câu hỏi trăn trở của những người tị nạn Cộng Sản bỏ nước ra đi:

– Liệu năm nay Việt Nam có gì thay đổi không?

– Bao giờ thì Việt Nam không còn Cộng Sản?

(Hình minh họa: Andreas Altwein/AFP/Getty Images)

Hầu hết những người Việt bỏ đất nước từ những ngày cuối cùng của Tháng Tư, 1975, khi Cộng Sản tràn vào Sài Gòn, đã nói với tôi rằng, họ chỉ trở lại Việt Nam khi không còn chế độ Cộng Sản trên quê hương nữa. Một vài vị lớn tuổi “gần đất xa trời” an ủi với nhau rằng, “có lẽ ta đâu mãi thế này” và mong được sống thêm vài năm nữa, để nhìn ngày tàn của chế độ Cộng Sản.

Nhưng bao giờ thì chế độ Cộng Sản sụp đổ?

Năm năm? Mười năm? Mười lăm năm? Và bây giờ 40 năm đã trôi qua!

Mà khi Việt Nam không còn Cộng Sản nữa thì đất nước này sẽ ra sao?

Cũng khó tưởng tượng ra có một cuộc thay đổi êm ái, đảng cầm quyền ra đi, tổ chức bầu cử tự do, các cơ chế hoàn toàn thay đổi, Hiến Pháp được viết lại, Việt Nam có đa đảng. Nhiều người còn mang ảo tưởng lạ lùng là “hải ngoại” sẽ được Bộ Chính Trị Đảng CSVN mời về “bàn giao” trong êm thấm trong khi họ lặng lẽ cuốn gói ra đi, và những “chủ tịch,” “thủ tướng,” và “quốc trưởng” ở đây sẽ về nhậm chức mà không cần đổ một giọt máu, kiểu nói “bất chiến tự nhiên thành” và dưới cái quan niệm sẽ được cường quốc này, đất nước nọ “bật đèn xanh…”

Nếu có một cuộc cách mạng thật sự đúng nghĩa bùng nổ, thì cuộc cách mạng lật đổ chế độ Cộng Sản ở Việt Nam phải là một cuộc cách mạng đổ máu tàn khốc nhất trong lịch sử. Bốn mươi năm qua, chế độ Cộng Sản này đã gây bao nhiêu thảm họa, tai ương cho miền Nam và đối với miền Bắc là 70 năm. Chẳng ai là không có mối thù với Cộng Sản, từ thời Việt Minh cho đến ngày miền Nam sụp đổ. Bao nhiêu thủ đoạn tù đày, kỳ thị, đánh tư sản, đổi tiền, đày đọa người dân rời bỏ thành phố hay đuổi họ xuống tàu ra biển.

Chẳng có gia đình nào tránh khỏi đau khổ, tù đày, chia lìa, chết chóc hay bần cùng. Ngay trong thời đại “tự do,” “hạnh phúc,” liệu những gia đình nạn nhân Đoàn Văn Vươn bị cưỡng chế chiếm đất, những mẹ con như gia đình bà Phạm Thị Lài trần truồng bị kéo lê trên nền đất, những phụ nữ như bà Lê Thị Trâm bị xe xúc chèn lên thân, cũng như gia đình có thân nhân chết mờ ám trong đồn công an, hàng triệu nạn nhân của chế độ công an trị, có bằng lòng một cuộc chuyển quyền êm ái không?

Cho thuận lẽ nhân quả ở đời sẽ có một cách mạng “máu kêu trả máu, đầu van trả đầu?”

Nhưng thành phần nào sẽ cầm đầu cuộc cách mạng này, và đừng có ảo tưởng là sẽ có một lực lượng ngoại nhập phát xuất từ Mỹ, từ Úc hay từ… Tàu.

Tuy vậy cũng sẽ không có chuyện biển máu với 3 triệu đảng viên Cộng Sản Việt Nam bị đem ra bắn bỏ, bị tịch thu tài sản, bị lùa vào các trại tù, hoặc đẩy chạy sang Tàu. Nhưng làm thế nào để Việt Nam có một cuộc thay đổi, Cộng Sản không còn là đảng cầm quyền và Việt Nam sẽ trở thành một đất nước có chế độ đa đảng. Nhưng vào thời điểm đảng Cộng Sản không còn nữa, Việt Nam sẽ ra sao?

Cũng như sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã, ở Việt Nam cũng sẽ có rất đông đảo, hàng triệu người đã vứt thẻ đảng và ra khỏi đảng. Trừ một số đảng viên đã chuẩn bị “hạ cánh” với bất động sản, tiền ngân hàng hay cơ sở kinh doanh ở Mỹ, Úc, Canada… nhưng 3 triệu đảng viên Cộng Sản với châm ngôn “đảng còn ta còn” và tổng cộng các lực lượng an ninh đủ loại với ít nhất là 6.9 triệu người (theo Giáo Sư Carl Thayer) với khẩu hiệu “công an nhân dân chỉ biết còn đảng, còn mình” sẽ là một vấn nạn khó xử cho xã hội mới, một khi “mất đảng,” nhưng chúng nhất quyết chưa chịu “mất mình.”

Người viết không có khả năng phân tích tình hình chính trị Việt Nam sau khi không còn đảng Cộng Sản cầm quyền hay chuyện kinh tế của Việt Nam thời hậu Cộng Sản, nhưng cứ nghĩ đến cái đất nước tan hoang, sau 40 năm cai trị của đảng này, thì cái giấc mơ nghĩ đến một ngày nào đất nước hết Cộng Sản, cũng chẳng phải là một giấc mơ tốt đẹp.

Có thể Cộng Sản sẽ để lại cho đất nước những cái cầu tráng lệ, những xa lộ tối tân, những con tàu “siêu tốc,” những cái tháp truyền hình đi vào kỷ lục, những lâu đài kiến trúc đẹp đẽ, những sân bay hiện đại và dai dẳng những món nợ con cháu trả mấy đời không hết. Và những vạn dặm rừng, nghìn vuông đất cho thuê chưa lấy lại được, nhưng cũng không đau xót bằng hằng triệu con người mất cả niềm tin vào tương lai, lòng người ly tán, đạo lý suy đồi.

Muốn xây dựng lại xã hội phải xây dựng con người, mà xây dựng một con người phải mất bao nhiêu năm?

Hồ Chí Minh sao chép câu “Bách niên thụ nhân” của Quản Trọng bên Tàu, nhưng với hạt giống vốn bể nát, thối tha của người khác đã vứt đi lượm đem về, gieo trồng trên đám đất đai chai lỳ toàn trị, bón bằng những thứ phân bón tha hóa, xấu xa, dối trá; tưới bằng thứ nước dơ bẩn của bạo lực, cường quyền, thì cây không có trái, hoa không dám nở, mà chỉ sinh sản ra một loài cỏ dại. (*)

Một xã hội mà chủ động mãi dâm còn tuổi vị thành niên, khi bị công an bắt còn xin về đi thi trung học phổ thông. Một xã hội mà một thanh niên chỉ mới 22 tuổi cắt cổ sáu người mà vẫn có giấc ngủ yên lành. Một xã hội có những đứa trẻ 14 tuổi đi bán dâm trong khi đã mang thai bốn tháng. Một xã hội mà thanh niên lớn lên không có nhà máy, chỉ toan tính chạy vạy tìm cách ra nước ngoài làm thuê, ở mướn. Một xã hội mà thiếu nữ nông thôn lớn lên không có một thời yêu đương, thơ mộng, bỏ ruộng vườn, lăm le đi khỏi mướt kiếm một tấm chồng, hay kể cả chuyện bán thân, miễn có một đời sống no đủ. Một xã hội mà sinh viên, người mẫu sẵn sàng lên giường vì đồng đô la. Một xã hội mà người ác, kẻ tham được bảo vệ, người làm điều xấu không biết nhục, kẻ trung trực, ngay thẳng thì bị đọa đày.

Liệu có một vị cứu tinh dân tộc nào xuất hiện trong giai đoạn này để cứu nước, độ dân không? Nước Nhật sau hai quả bom nguyên tử ném xuống hai thành phố Hiroshima và Nagazaki, và cả trận sóng thần xảy ra năm 2011, đã đứng dậy tái thiết, khắc phục hậu quả của những thảm họa chiến tranh và thiên tai, nhờ tinh thần và phẩm chất truyền thống của dân tộc Nhật. Nhưng với “thảm họa dân trí, đạo đức” mà chế độ Cộng Sản để lại cho Việt Nam, sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, mà chúng ta thường gọi là một trận hồng thủy, mà những điều tốt đẹp, đạo đức của dân tộc đã bị băng hoại, cuốn trôi, chúng ta làm cách nào để xây dựng lại đất nước này?

Bao giờ thì có thay đổi, bao giờ thì không còn Cộng Sản? Đây chính là những nỗi trăn trở của cả dân tộc, nhưng là những chuyện khó khăn bắt đầu chứ không phải là những điều kết thúc tốt đẹp mà chúng ta vẫn thường mơ ước! Đó chính là nỗi thống khổ của Việt Nam, và còn khổ đến bao giờ.

(*) “Cộng sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là trùng độc, sinh sôi, nảy nở, trên rác rưởi cuộc đời.” (Dalai Latma)

Hội chứng Cộng sản

Hội chứng Cộng sản

VietTuSaiGon

RFA

Sau gần hai mươi năm không gặp nhau, tôi gặp lại người bạn cũ, khác với cái thuở hai thằng rủ nhau đi phụ hồ, tối đến, buồn quá, lại rủ nhau thức đến 11h đêm, đợi lò mổ bò làm thịt xong, mua một ít lòng về luộc chấm mắm gừng, uống một xị rượu để sáng mai tiếp tục đi phụ hồ… Anh ta bây giờ giàu có, xe cộ, nhà cửa, tiền bạc rủng rỉnh… Nhưng nói chuyện một lúc, tôi thật sự giật mình và tự hỏi “không hiểu con người như thế này sao lại giàu được hay vậy ta?!”.

Sở dĩ tôi phải hỏi thầm như vậy vì tôi nhận ra giữa sự giàu có và tri thức của anh ta tỉ lệ nghịch đến độ khó tin. Nhưng không sao, tri thức không phải ai cũng có đủ để tỉ lệ thuận với sự giàu có, thậm chí có nhiều người giàu có tri thức nhưng lại nghèo tiền bạc. Chuyện ấy bình thường thôi. Vấn đề đáng bàn ở đây là quan điểm sống cũng như suy nghĩ, nhận định về xã hội của anh ta làm tôi bất ngờ.

Tôi vẫn luôn tin rằng với những người xuất thân từ gia đình nghèo khổ và bị ép chế bởi có lý lịch cha làm việc cho “ngụy quyền” như tôi và anh, chắc chắn khi vượt qua số phận, trở nên giàu có, kinh nghiệm sống cũng như những vết thương về lý lịch sẽ giúp tâm hồn chúng tôi trở nên đẹp hơn. Điều này tôi mường tượng giống như cây dó bầu sau khi bị mưa bão đánh tơi tả sẽ cho ra lõi trầm, chính cái lõi trầm khẳng định giá trị cũng như khả năng vượt thoát cái chết và thương tật của cây dó bầu. Điều đó cũng như chính sự giàu có, kinh nghiệm sống và sự tiến bộ sẽ khẳng định giá trị của con người sau một quá trình nghèo khổ, bị ép chế.

Nhưng không, tôi đã lầm, đó chỉ là sự tưởng tượng vô nghĩa của tôi. Anh bạn nghèo ngày xưa của tôi không những giàu có mà công tâm để nói là anh ta rất khốn nạn. Đương nhiên là anh ta chưa hề khốn nạn gì với cá nhân tôi nhưng anh lại khốn nạn với nhiều người khác nghèo khổ, khốn nạn với cộng đồng và xã hội.

Sau một thời gian dài làm phụ hồ, anh phất lên một cách bí ẩn, trở thành giàu có và nhận công trình xây dựng với một đội ngũ kĩ sư xây dựng và thợ thầy khá vững vàng. Không dừng ở đó, có đủ tiền bạc và đàn em, anh cho vay nặng lãi và nhanh chóng trở thành “đại gia” trong xã hội. Đã có nhiều người nghèo mất trắng mọi thứ bởi nợ anh ta, và anh ta không ngần ngại cho đàn em đến xiết nợ của người khác giữa ban ngày, mức lãi có khi lên đến 30% mỗi tháng khiến cho con nợ nhanh chóng kiệt quệ dưới tay anh ta. Nhưng không ai làm gì được anh ta vì anh chơi với các quan chức đứng đầu ngành an ninh tỉnh và huyện, chuyện nhậu nhẹt, chè chén và quà cáp đối với giới quan chức là chuyện thường ngày.

Có thể nói rằng nhờ vào các quan hệ, toa rập, chằng níu giữa anh ta và giới quan lại mà anh ta trở thành một loại Năm Cam mới, tinh vi và yên ổn hơn. Đặc biệt, khi nói chuyện, một hai anh bảo vệ đảng Cộng sản, anh bảo vệ đến độ tôi không dám nhắc đến hai từ này với anh. Bởi nếu nhắc đến mà không kèm với thái độ tôn kính thì không chừng anh ta đập bàn, cho đàn em xử mình như chơi. Vì thấy mức độ mê tín vào đảng của anh ta thì dễ dàng nhận ra kết cục như vậy.

Anh luôn đưa ra quan điểm nhân dân phải sống dưới sự che chở của đảng, phải tin vào đảng, thậm chí thần tượng đảng, thần tượng bác Hồ mới là người trưởng thành. Bằng chứng của sự trưởng thành này là anh đã rất giàu, chơi với giới quan chức và đẳng cấp của anh cũng ở trên cao, thuộc giới thượng lưu… Nghe anh nói một lúc, tôi chỉ thấy miệng đắng ngắt, không thể nhấp thêm ngụm bia nào nữa, vờ có việc gấp mà cáo lỗi, về trước.

Trên đường về, tôi sực nhớ đến câu nói của một anh bạn: “Đất nước này không phải chỉ có hơn ba triệu đảng viên Cộng sản đâu! Nó có đến hơn chín chục triệu đảng viên Cộng sản đó. Chúng ta đang sống trong một thứ hội chứng Cộng sản!”.

Anh này đưa ra quan điểm như vậy và cho rằng không chỉ có những đảng viên đã được kết nạp vào đảng Cộng sản mới là đảng viên, mà những thứ tư duy Cộng sản, hội chứng Cộng sản đã nhiễm dần vào máu huyết của người dân theo từng ngày, từng ngày, để đến một lúc, họ trở thành một đảng viên thụ động và còn yêu đảng, yêu Hồ Chí Minh ghê gớm hơn cả những đảng viên chính thức.

Sự mê tín vào đảng Cộng sản này được tích tụ một cách tiệm tiến trong quá trình tồn tại, nó chuyển hóa từ sợ hãi sang thỏa hiệp và cuối cùng là cơ hội. Nghĩa là với cách quản lý đầy sắc máu, nhà nước Cộng sản đã đẩy đại bộ phận nhân dân đến chỗ sợ hãi, đánh mất chính mình để tồn tại. Và đến một lúc nào đó, người ta cảm thấy những bất công, vô lý là chuyện bình thường, không có gì đáng bàn, người ta chấp nhận, thỏa hiệp với bất cộng, xem bất công và đàn áp như một lẽ đương nhiên. Và một khi đã xem điều đó là đương nhiên, người ta dễ dàng thích nghi để tìm ra cơ hội có lợi cho bản thân. Những kẻ cơ hội trong chế động Cộng sản đều là những kẻ có khuynh hướng phát triển như trên.

Và một khi đã nắm được cơ hội trên tay, người ta bắt đầu phát triển, mở rộng cơ hội. Đương nhiên cơ hội ở đây sẽ có đội trên đạp dưới, có toa rập, có đạp lên nỗi đau của đồng loại mà đi, có thủ đoạn và có cả sự bỉ ổi, vô luân. Bởi lẽ, đây là cơ hội dưới triều đại độc tài Cộng sản.

Và một khi thứ cơ hội này lan tỏa ra trên toàn xã hội, một thứ không khí khác bao trùm lện xã hội, một ông xe ôm hay một bà bán trứng vịt lộn cũng có thể là đảng viên không chính thức, bà ta có thể đấu tố hàng xóm, có thể tìm cách nịnh bợ ông chủ tịch phường, chủ tịch xã để lấn sang phía bà bán bánh mì một chút đất vỉa hè để đặt thêm bộ bàn. Và đương nhiên bà ta lấy làm hãnh diện vì mình có thế lực đảng trong tay! Ông xe ôm cũng thế, ông có thể trở thành một cộng sự viên đắc lực của ngành an ninh để đấu tố những kẻ nào dám nói xấu đảng, nói xấu bác Hồ, với ông, đây là một chiến công, mặc dù cho đến giờ ông không có nghề ngỗng gì, phải chạy xe ôm bởi cơ hội làm người của ông đã bị mất vì lý lịch “ngụy quân” của ông ta!

Đứng trên góc độ tạo ra hiệu ứng mê tín đảng và bao trùm không khí xã hội một thứ “hội chứng Cộng sản” thì rõ ràng là nhà cầm quyền độc tài Cộng sản Việt Nam đã rất thành công, không phải tốn xu nào vẫn tạo ra được hơn chín chục triệu đảng viên, trong đó có nhiều đảng viên không có thẻ nhưng lại có quyền lực đảng và yêu đảng hơn rất nhiều so với các đảng viên chính thức. Bởi với họ, sự giàu có, tài phiệt của họ hình thành là nhờ vào ơn đảng, ai đụng đến đảng là khó sống với họ!

Nhưng nhà cầm quyền Cộng sản, đảng Cộng sản quên mất một điều: Khi mà tấm thẻ đảng trở nên rẻ rúng, khi mà quyền lực đảng đã rơi vào tay tài phiệt và mafia, khi mà tính đảng không còn thiêng liêng như những ngày người ta chấp nhận đói khổ, rúc rừng, chịu sốt rét và bom đạn, cái chết để đi theo đảng… Thì lúc đó, cả một tập hợp đảng lại lúc nhúc những con vi trùng tội ác có thể làm cho cơ thể đảng nổ tung sau khi trương phình và tự hoại lẫn nhau. Đó là điều khó tránh khỏi trong lúc này!

Tị nạn giáo dục : Còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi hết…

Tị nạn giáo dục : Còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi hết…

Bình Luận

Phù Sa phỏng vấn nhà văn Dạ Ngân

Du học để “tị nạn giáo dục”

Các ông bố, bà mẹ hiện đại ở các đô thị đang có xu hướng “ấn” con đi du học càng sớm càng tốt ? Xu hướng này phản ánh điều gì về tâm lý và sự thay đổi trong xã hội hiện nay ?

Xin đừng quên người Việt mình rất chăm con, bất đắc dĩ người ta mới chịu xa con sớm và họ biết rõ, con mình sẽ “lóng ngóng” ở xứ người một thời gian dài.

Nhưng tại sao có tâm lý đua nhau cho con đi sớm ? Là vì cung cách của nền giáo dục không còn khiến người ta an tâm.

Tính hiếu học của người Việt đang bị thách thức. Những người có tiền không dại gì để con mình chịu đựng sự thể nghiệm mãi của những nhà cải cách và phải học theo kiểu “nhồi sọ” ở trường, lại còn phải học thêm học nếm mãi.

Ở khía cạnh giáo dục, chị lý giải hiện tượng này như thế nào ?

Ngày nay, nhiều người Việt ra nước ngoài là để tị nạn giáo dục.

Tình hình đã mười mươi như vậy, nhưng hình như phía vĩ mô không muốn thay đổi. Làm giáo dục mà không triết lý giáo dục thì sao thiết kế được?

Sao các môn xã hội không có sức hấp dẫn mà còn khiến Học Sinh bội thực, ngán ngẩm ? Các em không thích môn văn, không yêu môn sử, không thiết tha môn địa, không “vào” với môn đạo đức công dân? Vậy thì giỏi toán và giỏi các môn tự nhiên để làm gì, để làm người Việt ngô ngọng hay làm rô – bốt ?

Tôi thấy bất an với kiểu làm sách giáo khoa, tôi ngạc nhiên với sự im lặng của chính các thầy cô trong ngành giáo dục. Họ biết cả đấy, họ chán đấy mà họ không làm gì, không ai lên tiếng, họ sợ họ hèn hay họ đã chai lì cả rồi ?

Nếu tôi là một quan chức trong ngành giáo dục thì chắc chắn tôi sẽ từ chức. Không làm gì nổi nữa, chỉ có cách cho con cho cháu “tị nạn” mà thôi.

Không phải chép văn mẫu đã là “được làm người”

Một gia đình có con trúng học bổng Singapore năm 14 tuổi đã phấn khích thốt lên: “ôi, cháu tôi đã được làm người”.

“Ôi, cháu tôi được làm người” là một câu nói có vẻ quá lên nhưng bên trong nó có sự thật đó chứ!

Hãy xem trường điểm và trường chuyên đã làm cho cha mẹ các em phải chạy chọt và gây thêm ách tắc giao thông như thế nào? Hãy xem tuổi thơ của các em nhỏ đang được chơi hay đang bị học kiểu “nhồi thức ăn cho ngỗng”? Một cô cháu họ của tôi kể, trong thực hành môn Văn lớp 4 của con nó có thứ đề đại loại: “Hãy viết một bức điện tín”. Chính tôi đã từng giúp cho đứa cháu ngoại học lớp 5 ở Hà Nội làm đề ngoại khóa là “Hãy viết suy nghĩ của em về chiến thắng của trận Điện Biên Phủ trên không?”.

Có phải bắt các em làm chính trị gia hay làm công dân sớm? Sao không để cho các em tiểu học được phát triển tự nhiên cả trong tình yêu đất nước, gia đình, thầy cô và tiếng Việt mà cứ làm cho chúng chán ngấy lên vậy?

Cho con du học là xu hướng đã có từ thời thuộc Pháp, để con cái được học cái văn minh, được sống và được thụ hưởng môi trường văn hóa cao. Tại sao người ta thích cho con đi Singapore, đảo quốc ấy có đúng là thiên đường ở châu Á mà chúng ta đang mơ ước không?

Nhưng chị có nghĩ rằng bọn trẻ sẽ có những tổn thương tâm lý vì xa bố mẹ từ khi còn quá nhỏ?

Tôi không có con nhỏ nhưng tôi đã khuyến khích và đóng góp cho cháu ngoại của tôi vào trường quốc tế từ đầu cấp II. Vì sao? Vì ở đó nó được học chương trình giảm tải, nó được học tiếng Anh bằng phương pháp đúng và không phải làm văn mẫu.

A ha! Riêng việc không phải làm văn kiểu học thuộc lòng và chép nguyên xi văn mẫu đã là “được làm người” rồi. Nó học văn một cách hào hứng và tiếng Việt của nó dậy hương là vì nó được làm văn theo suy nghĩ của mình. Cả nhà xúm nuôi một đứa bé, cực nhưng mà vui, không bị sốc, không bị stress vì “né” được nhiều “ngón hành hạ” của ngành giáo dục trong nước.

Các trường ở Singapore họ hay nhảy vào các trường điểm và trường chuyên của chúng ta để “hớt váng” từ năm lớp 9 hoặc lớp 10.

Số đi du học tự túc thì đủ lứa tuổi. Các em phải chịu thiệt thòi nhưng nền giáo dục của các nước văn minh rèn người khá hay.

Theo tôi, đi từ đầu cấp III là vừa, cho đi sớm hơn là sẽ có hậu quả.

Con mình nuôi lớn mà người ta “dùng”

Việc mỗi gia đình tự lo cho tương lai của con cái như vậy sẽ tạo ra một nguồn nhân lực tốt cho đất nước ?

Rõ ràng là nhân tài sẽ thất thoát. Con cái mình nuôi lớn mà người ta dùng, toàn là người thông minh và nhiều người tài đấy chứ. Có đau không, có ức không? Đành chịu.

Các vị ở trên cao có xót không, xót sao không tìm cách và không thay đổi?

Liệu gia đình và chính các em Học Sinh đó có phải trả cái giá nào không ?

Đừng có mà đùa dai với truyền thống hiếu học của người Việt. Sẽ còn đi nhiều, đi trống rỗng, đi bằng hết, nếu những người cầm trịch của chúng ta không giật mình thì sẽ không cứu vãn được làn sóng tị nạn này đâu.

Rồi sẽ có thêm những thế hệ Việt kiều không biết tiếng Việt, quê hương đất nước xa vời. Đừng nghĩ người Việt sẽ cố kết tình quê hương và đất nước như cộng đồng người Tàu. Chúng ta là những người Việt trần ai, rất dễ bời rời và mất gốc khi ở xứ người.

Nhà văn, nhà báo Dạ Ngân sinh năm 1952, từng tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du. Là tác giả của nhiều truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết nổi tiếng. Trong đó, đặc biệt và gây tiếng vang nhất là tiểu thuyết “Gia đình bé mọn” đã đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội.

Nghèo đói vẫn cao, đất đai rơi vào tay nhà nước tại nông thôn VN

Nghèo đói vẫn cao, đất đai rơi vào tay nhà nước tại nông thôn VN

Theo khảo sát, có 27% các hộ nông thôn đã bị mất đất trong năm 2014, tức tăng 10% so với 2 năm trước đó. Trên 98% đất nông dân bị mất trong thời gian 2012-2014 là vào tay nhà nước.

Theo khảo sát, có 27% các hộ nông thôn đã bị mất đất trong năm 2014, tức tăng 10% so với 2 năm trước đó. Trên 98% đất nông dân bị mất trong thời gian 2012-2014 là vào tay nhà nước.

Trà Mi-VOA

Đời sống ở nông thôn Việt Nam còn ‘ảm đạm’ theo một nghiên cứu mới công bố ngày 26/8 tại Hà Nội được Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online trích dẫn hôm nay.

Cuộc khảo sát mang tên ‘Đặc điểm kinh tế nông thôn Việt Nam: Kết quả điều tra hộ gia đình nông thông năm 2014 tại 12 tỉnh’ được thực hiện trên 3648 hộ gia đình từ Bắc chí Nam do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Viện Khoa học Lao động và Xã hội, và Viện Chính sách Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn phối hợp thực hiện trong năm 2014.

Báo cáo cho biết tình trạng nghèo khó ở các vùng nông thôn Việt Nam vẫn còn cao dù tỷ lệ đói nghèo có giảm từ 27,1% năm 2012 xuống còn 13,2% trong năm ngoái.

Vẫn theo báo cáo, tuy tỷ lệ nghèo giảm, người nông dân Việt Nam chưa thể thoát nghèo ‘một cách bền vững’, khả năng bị nghèo trở lại còn rất cao.

Bị giải tỏa đất đai thiệt thòi quá lớn. Tôi không nói dân nữa, tôi nói ngay tôi bây giờ bị thiệt thòi quá lớn. Con cái giờ không có nhà ở, còn phải đi thuê nhà ở. Nói sự thật thì chúng tôi khó nói mà nói giả dối thì không nói được…Chúng tôi là gia đình cách mạng, chúng tôi đang chiến đấu vì cuộc sống này, đấu tranh chống tham nhũng vì cuộc sống này.

Ông Út Long, nông dân ở Hà Tây.

Các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam như Lào Cai và Điện Biên có tỷ lệ nghèo cao nhất, với 44,3% và 37,3%.

Nông dân ở Lào Cai và Lai Châu có thu nhập trung bình hằng năm thấp nhất, tương ứng từ 16 đến 17 triệu đồng/người. Dân nông thôn ở Phú Thọ, Long An, và Hà Tây được đánh giá có lương bình quân cao nhất, từ 35 đến 38 triệu đồng/năm.

Dù Long An là một trong ba tỉnh nông dân có thu nhập hằng năm cao nhất theo cuộc khảo sát, nhưng bà Nguyễn Thị Bảy, một nông dân trong vùng cho biết đời sống kinh tế của bà con địa phương càng ngày càng eo hẹp, xuống dốc:

“Nói chung đời sống kinh tế của nhân dân eo hẹp hơn mấy năm trước dữ lắm, mùa màng giờ buôn bán bị thất giá chứ không được như mấy năm trước. Đời sống mình thấy cũng tạm ổn thôi chứ cũng chật hẹp lắm. Thấy càng ngày càng khó khăn hơn. Chế độ độc tài cộng sản đâu để cho người dân được thoải mái đâu. Mình cũng tạm mà sống thôi.”

Bà Bảy nói các chính sách hỗ trợ của nhà nước dành cho gia đình nghèo chưa công bằng và không hiệu quả vì nạn tham nhũng và truyền thống ưu tiên cho các hộ ‘có công với cách mạng’:

“Hộ nghèo không giảm, mấy hộ nghèo theo cộng sản thì có giảm. Gia đình nghèo của họ, họ mới giảm thôi. Số người nghèo không tham gia, không thuộc diện chính sách thì đâu được hưởng gì đâu. Họ ưu tiên cho gia đình chính sách không à. Gia đình thường không được ưu tiên.”

Báo cáo nói dù thu nhập trung bình và tiêu chuẩn sống của cư dân nông thôn Việt Nam có cải thiện, nhưng vẫn còn khoảng cách lớn về mặt thu nhập, tiếp cận các dịch vụ công, và có được lương thực đầy đủ giữa các gia đình khá giả với các hộ kém may mắn.

Tình trạng thất nghiệp ở nông thôn, theo báo cáo, cũng chưa được giải quyết tận gốc.

“Hộ nghèo không giảm, mấy hộ nghèo theo cộng sản thì có giảm. Gia đình nghèo của họ, họ mới giảm thôi. Số người nghèo không tham gia, không thuộc diện chính sách thì đâu được hưởng gì đâu. Họ ưu tiên cho gia đình chính sách không à. Gia đình thường không được ưu tiên.

Bà Nguyễn Thị Bảy, nông dân ở Long An, nói.

Khảo sát cũng cho biết người dân ở nông thôn Việt Nam còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các chính sách liên quan đến đất đai và rằng đa số đất canh tác của nông dân bị rơi vào tay nhà nước.

Theo khảo sát, có 27% các hộ nông thôn đã bị mất đất trong năm 2014, tức tăng 10% so với 2 năm trước đó. Trên 98% đất nông dân bị mất trong thời gian 2012-2014 là vào tay nhà nước.

Nghệ An và Hà Tây là hai tỉnh có tỷ lệ nông dân bị mất đất cao nhất, theo cuộc nghiên cứu. Ở hai nơi này, cứ 10 hộ dân có tới gần 5 hộ bị nhà nước tịch thu đất đai, phương tiện sinh kế chủ yếu của họ.

Ông Út Long, nông dân ở Hà Tây, là một nạn nhân bị nhà nước trưng thu đất. Gia đình ông ròng rã đi khiếu kiện từ năm 2004 tới nay nhưng chưa được giải quyết dù ông là một cán bộ hưu trí thuộc diện ‘có công với cách mạng.’ Ông Long chia sẻ tình cảnh của mình:

“Bị giải tỏa đất đai thiệt thòi quá lớn. Tôi không nói dân nữa, tôi nói ngay tôi bây giờ bị thiệt thòi quá lớn. Con cái giờ không có nhà ở, còn phải đi thuê nhà ở. Nói sự thật thì chúng tôi khó nói mà nói giả dối thì không nói được. Nói tóm lại, bị giải tỏa đất đai đời sống sa sút quá lớn. Chúng tôi là gia đình cách mạng, chúng tôi đang chiến đấu vì cuộc sống này, đấu tranh chống tham nhũng vì cuộc sống này.”

Những mặt tiến bộ được phản ánh trong phúc trình vừa công bố về đời sống nông thôn Việt Nam bao gồm việc tiếp cận nước sạch, vệ sinh môi trường, và chất lượng nhà ở.

Tình trạng di cư ở nông thôn được xem là có cải thiện. Tỷ lệ dân nông thôn di cư trong năm 2012 là 22%, nhưng tới năm ngoái đã giảm xuống còn 15%, theo cuộc khảo sát.

Truyền thông trong nước trích dẫn nhận định của các chuyên gia cho rằng dân nông thôn Việt Nam dễ bị tác động bởi các yếu tố môi trường xung quanh và ‘thiếu các biện pháp phòng vệ.’

Khảo sát đầu tiên được thực hiện vào năm 2002 và kể từ năm 2006 tới nay được tiến hành mỗi hai năm một lần. Các câu hỏi đặt ra trong cuộc nghiên cứu tập trung về thu nhập, tiền để dành, sở hữu đất đai, di cư, và giáo dục của người dân nông thôn.

Vì sao công an dùng vũ lực với dân?

Vì sao công an dùng vũ lực với dân?

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ
2015-08-28

Vì sao công an dùng vũ lực với dân? Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg9497762.jpg

Công an giữ trật tự tại phiên xử LS Lê Quốc Quân hôm 18/2/2014

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Một số nhà hoạt động tại Việt Nam hôm nay sau khi đến thăm cựu tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật mới mãn án tù vào ngày hôm qua bị chặn đánh trên đường trở về.

Gia Minh hỏi chuyện một trong những nạn nhân là chị Trần Thị Nga vào lúc11 giờ sáng ngày 28 tháng 8 và chị kể lại sự việc:

Chúng tôi là những người bạn đến nhà Trần Minh Nhật để đón anh ra tù vào ngày 27 tháng 8 năm 2015; hôm nay chúng tôi đón xe để về nhà thì trên đường từ nhà Trần Minh Nhật đến xã Nghĩa Thắng, tỉnh Lâm Đồng, chúng tôi bị một lực lượng công an tỉnh Lâm Đồng, huyện Lâm Hà đi theo chúng tôi và dừng chúng tôi lại tại xã Nghĩa Thắng. Họ mặc thường phục và trèo lên xe đánh chúng tôi. Bên ngoài họ mặc thường phục nhưng bên trong vẫn là quần áo công an xã. Trong số những người đánh chúng tôi hôm nay, hôm qua tại ủy ban nhân dân xã chúng tôi có quay phim, chụp ảnh được mặt của những người đó. Hôm qua tại ủy ban xã họ cùng đàn áp mẹ, chị và em gái của Trần Minh Nhật khiến bị ngất xỉu ngay tại ủy ban xã.

“ Chính những người công an- những người thi hành nhiệm vụ, thi hành pháp luật lại chà đạp lên pháp luật một cách trắng trợn như thế là không thể chấp nhận được.
– Chị Trần Thị Nga”

Chúng tôi có 3 đoàn đi theo ba hướng khác nhau: một đoàn đi Daklak đến giờ này chưa bị vấn đề gì, một đoàn đi Sài Gòn trên nửa đoạn đường cũng bị công an giả dạng côn đồ đánh đập rất dã man, trong đó có cô giáo Bích Hạnh và cháu bé cũng bị đàn áp trong đoàn đó; còn đoàn chúng tôi gồm 10 người, trong đó có giáo sư Phạm Minh Hoàng, cựu tù nhân lương tâm Chu Mạnh Sơn, cựu tù nhân Trương Minh Tam và tôi là Trần Thị Nga, những người bị đánh nhiều nhất. Họ đánh và lục đồ của chúng tôi.

Khi chúng tôi bị đánh có một số người dân ở đó ra hỗ trợ chúng tôi và nói họ biết những người đánh chúng tôi: đó là công an huyện Lâm Hà. Tôi có quay phim người nhân chứng xác nhận điều đó.”

Chính quyền vi phạm pháp luật

Gia Minh: Tình hình đến lúc này thế nào rồi? Họ vẫn cho mọi người đi?

Chị Trần Thị Nga: Sau khi họ đánh chúng tôi và người dân đi đường vào can thiệp thì lực lượng công an giả dạng côn đồ đã bỏ đi. Hiện nay một số người vì công việc nên phải về nhà, còn chúng tôi đang trên đường đến một hiệu thuốc hoặc một chỗ để chăm sóc vết thương cho bạn Chu Mạnh Sơn vì bị chảy máu rất nhiều và dưỡng sức một chút rồi chúng tôi mới có quyết định làm gì tiếp. Nhưng đặc biệt chúng tôi cần phải đưa vụ việc công an giả dạng côn đồ đánh chúng tôi như thế này thứ nhất ra công luận, ra quốc tế và đặc biệt ra pháp luật của Việt Nam. Chính những người công an- những người thi hành nhiệm vụ, thi hành pháp luật lại chà đạp lên pháp luật một cách trắng trợn như thế là không thể chấp nhận được.

Gia Minh: Bản thân chị cũng từng có những lần bị đánh như vậy và việc khiếu nại trước hết với cơ quan công quyền ra sao và được trả lời như thế nào?

Chị Trần Thị Nga: Ngày 25 tháng 5 năm 2014, khi tôi đang bế con trên tay và đặc biệt đang cho con bú, thì tôi bị 5 công an dùng hung khí là những tuýt khung sắt đánh tôi gãy chân. Hình ảnh những người đánh tôi đều có quay phim, chụp ảnh được những tên côn đồ đó. Tôi đã làm đơn gửi công an Thành phố Hà Nội cũng như nơi tôi bị đánh là công an huyện Thanh Trì, và Bộ Công an, Viện Kiểm sát Tối cao. Ông Nguyễn Duy Thuần, vào năm 2014, sau khi xem đơn cũng như các bằng chứng video, hình ảnh những kẻ đánh tôi, ông ta nói không nhận đơn củng như bằng chứng vì ‘tôi đi đấu tranh nhân quyền công an đánh cho là phải’.

Phía công an huyện Thanh Trì và công an Hà Nội đưa cho tôi quyết định đình chỉ điều tra vụ án vì không xác minh được hung thủ. Tôi hỏi tại sao không xác minh được hung thủ khi mặt được cung cấp đầy đủ, chính người công an thụ lý hồ sơ của tôi nói ngay tại công an huyện Thanh Trì rằng ‘mày câm mồm đi, mày có biết bố mày đánh mày không’.

Vì sao họ dùng vũ lực?

Gia Minh: Sự việc đã xảy ra với bản thân chị và lại tiếp tục xảy ra, thì chị thấy tiếp tục cách khiếu nại, làm đơn gửi chính quyền như vậy có hữu hiệu không?

Chị Trần Thị Nga: Tôi biết những việc làm của ngành công an vi phạm pháp luật đối với bản thân chúng tôi. Điều đó cho thấy chính ngành công an và chính quyền cộng sản hiện nay họ đang thua về pháp lý nên họ dùng vũ lực với chúng tôi liên tục như thế. Việc họ đánh đập tôi và trả lời không thụ án hồ sơ vụ án như vậy, tôi thấy việc làm của tôi vẫn có giá trị vì vào tháng 7 năm 2015, Liên Hiệp Quốc có làm việc với chính phủ Việt Nam về quyền của người phụ nữa và trẻ em.

Khi đó phó ban Liên Hiệp Quốc về quyền phụ nữ và trẻ em có lên tiếng chất vấn chính phủ Việt Nam về vụ án của tôi liên tục bị đánh và chính quyền Việt Nam nói không hề biết đến vụ việc của tôi. Lúc đó tôi cung cấp cho phái đoàn Liên hiệp quốc những bằng chứng về vụ việc ông Nguyễn Huy Thuần, Viện Kiểm sát Tối cáo trả lời và những bằng chứng, những giấy tờ, công văn bên phía công an, cũng như Viện Kiểm Sát trả lời tôi về vụ án đó. Cho đến nay phía chính phủ Việt Nam vẫn chưa trả lời cho Liên Hiệp Quốc vè vụ việc của tôi.

“ Chính ngành công an và chính quyền cộng sản hiện nay họ đang thua về pháp lý nên họ dùng vũ lực với chúng tôi liên tục như thế.
– Chị Trần Thị Nga”

Tôi thấy chúng tôi làm vấn đề pháp lý mặc dù công an, tòa án có vụ trả lời tôi là ‘chị không được phép kiện công an vì công an là cơ quan hành chính của nhà nước, công an có quyền cướp tài sản, đánh đập người dân nhưng người dân không có quyền khiếu kiện.’ Đó là câu của chánh án tòa án Phủ Lý và tôi có ghi âm được.

Gia Minh: Tất cả những hành động bị sách nhiễu, đánh đập đến thương tích như vừa qua đối với nhiều người hoạt động và bản thân chị có tác động gì?

Chị Trần Thị Nga: Là con người chúng tôi bị đánh đập thương tích, đó là những vết thương trên cơ thể, và cũng có thể nói đó là những vết thương về tâm hồn; bởi vì một con người không ai muốn cơ thể của mình bị hành hạ và tâm hồn của mình bị căng thẳng. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản đã dùng vũ lực để đàn áp người dân cũng như chúng tôi những người dám dấn thân đâu tranh cho công lý và sự thật mà không lên tiếng nói lên sự thật này thì còn nhiều người dân Việt Nam còn bị đánh đập, bị cướp đi quyền của mình. Tôi thấy mình cần phải lên tiếng không phải để bảo vệ quyền căn bản của mình mà bảo vệ quyền căn bản của những đứa trẻ, những người già không đủ khả năng để bảo vệ quyền của họ.

Gia Minh: Xin chân thành cám ơn chị Trần Thị Nga.

Hai tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật và Thái Văn Dung mãn án tù

Hai tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật và Thái Văn Dung mãn án tù

RFA

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok

08272015-new-release-2-prison-of-concien.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Vào lúc 11 giờ trưa ngày 27 tháng 8 năm 2015, tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật được tự do tại UBND xã Đạ Đờn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng sau 4 năm tù giam.

Vào lúc 11 giờ trưa ngày 27 tháng 8 năm 2015, tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật được tự do tại UBND xã Đạ Đờn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng sau 4 năm tù giam.

Hai tù nhân lương tâm trẻ Trần Minh Nhật và Thái Văn Dung thuộc nhóm thanh niên Công giáo- Tin Lành bị kết án tù về tội ‘âm mưu lật đổ chính quyền’ theo điều 79 Bộ Luật Hình Sự Việt Nam vừa mãn án tù.

Sau khi ra khỏi nhà giam họ chia sẽ lại một số điều trong thời gian bị bắt, bị tù tội và những suy nghĩ lúc này với biên tập viên Gia Minh, Đài Á Châu Tự Do trong phần sau.

Không nhận tội

Phiên tòa sơ thẩm xử nhóm hơn chục thanh niên Công giáo- Tin Lành diễn ra tại thành phố Vinh trong hai ngày 8 và 9 tháng giêng năm 2013. Họ bị buộc tội có hoạt động nhằm lật đổ chính quyền Hà Nội hiện nay và là đảng viên của Đảng Việt Tân trụ sở chính tại Hoa Kỳ.

Các phiên xử sơ thẩm hay phúc thẩm đều được nói là công khai, thế nhưng rất ít người thân của những thanh niên bị đưa ra xét xử được cho vào phòng xử án; bởi vậy đó thông tin về việc họ nhận tội ra sao cũng không được nhiều người tường tận.

Theo các cựu tù nhân sau khi ra khỏi nhà giam thì suốt thời gian từ khi bị bắt cho đến lúc đưa đi thụ án và trước ngày mãn án, họ đều bị áp lực phải ký giấy nhận tội; nhưng điều này không được đáp ứng như lời của anh Trần Minh Nhật sau khi về đến nhà từ trại Gia Trung vào trưa ngày 27 tháng 8 như sau:

“ Tôi không phạm tội gì cả mà tôi không phạm tội thì không ai có thể ép tôi ký nhận tội cả. Dĩ nhiên trước đó họ có đưa vào một bản cam kết không tái phạm tội; nhưng tôi đã xé bản cam kết không tái phạm tội vì tôi tự hỏi ‘tôi phạm tội gì’; thế nên những đơn đó không có giá trị với tôi”

Cựu tù nhân lương tâm Thái Văn Dung, người mãn án hôm ngày 19 tháng 8 vừa qua cũng nói về điều này:

“ Tất nhiên 3 tháng, 6 tháng, quí xét giảm ản họ đưa ra các bản cam kết để xét giảm án, nhưng tôi ghi trong đó không nhận tội. Tôi không công nhận điều 79 Bộ Luật Hình sự.”

Đấu tranh trong tù

Trong thời gian bị giam giữ, những cựu tù nhân chính trị như các anh Trần Minh Nhật, Thái Văn Dung …đấu tranh đòi hỏi quyền lợi cho bản thân cũng như những tù nhân khác. Họ từng phải áp dụng biện pháp cuối cùng là tuyệt thực.

Anh Trần Minh Nhật cho biết đáp ứng của trại giam sau những lần tuyệt thực của các anh em tù chính trị như bản thân anh trong nhà tù:

“ Tôi thấy tại những trại giam tôi qua, họ có một số cơ chế trong đó áp bức những người tù, đặc biệt phân biệt đối xử một số đối tượng. Họ không tôn trọng và không bảo đảm những qui định đã cam kết. Chúng tôi không đòi hỏi gì nhiều mà chỉ đòi hỏi con người cần được tôn trọng và nhân quyền cần được bảo đảm. Thế nhưng họ đã phớt lờ. Chúng tôi làm đúng thủ tục đến cùng rồi mới phải dùng đến hình thức tuyệt thực. Thật đáng tiếc khi người ta không cư xử với nhau bằng trái tim thì họ có những cách hành xử không đúng mực. Đó là điều tôi rất tiếc về những người thi hành pháp luật. Còn dĩ nhiên sau khi tuyệt thực có những thứ cải thiện mang tính hình thức. Tôi nói hình thức vì ví dụ như Trại Phú Sơn 4, Thái Nguyên, gọi là ‘thay đổi’ nhưng chỉ là hình thức mang tính chiếu lệ thôi!”

Tù nhân lương tâm Thái Văn Dung, một trong 14 Thanh Niên Công giáo và Tin lành, vừa mãn hạn tù 4 năm

Tù nhân lương tâm Thái Văn Dung, một trong 14 Thanh Niên Công giáo và Tin lành, vừa mãn hạn tù 4 năm

Thái Văn Dũng cũng kể lại việc thực hiện biện pháp tuyệt thực và kết quả của những lần đó:

“ Lần tuyệt thực nhiều nhất là vào ngày 1 tháng 1 năm 2015, tức kỷ niệm 1 năm Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra đời, mà quyền tự do tín ngưỡng họ không thực thi cho mình. Hiến pháp chỉ có trên giấy tờ chứ không có tính thực tiễn, áp dụng vào đời sống của mọi người. Lúc đó tôi tuyệt thực 12 ngày đòi hỏi quyền lợi về sách tôn giáo, họ vẫn không cho mình đọc.

Vào tháng 12 năm 2014, họ chuyển từ K5 Trại giam Thanh Hóa, tức là thời điểm trại Thanh Cẩm chuyển về K 3 Thanh Hóa thì trong buồng có TV và quạt điện, còn sách tôn giáo họ vẫn không cho mình đọc.”

Tiếp tục con đường đã chọn

Cựu tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật trong ngày đầu ra khỏi trại giam có những chia xẻ như sau:

“ Có một điều phải nói rằng có một điều mà tôi sẽ không bao giờ đánh đổi những gì mà tôi đã trải qua vì đó là một bài học vô giá. Bài học để tôi có thể nhìn nhận về con người, trong đó tôi nhận thấy rằng một xã hội không đặt nền tảng trên sự bình đẳng, không đặt nền tảng trên công lý và yêu thương giữa con người với nhau thì đừng nói gì đến văn minh hay tiến bộ cả. Tôi nghĩ rằng tôi cần phải trả món nợ đó. Món nợ đối với gia đình của tôi, những người yêu thương tôi, món nợ đối với tổ quốc nơi tôi dã sinh ra trong tư cách một công dân- nơi mà người dân của tôi dường như đang bị những áp bức không cần thiết; và món nợ với niềm tin mà tôi đã sống, và nhờ đó mà tôi vượt qua được những năm tháng tù đày. Tôi nghĩ rằng tôi luôn sống trong tư cách của một người công dân, và với tôi là người có niềm tin, tôi sẽ sống như tôi cần phải sống; tôi thấy rằng tôi sẽ luôn tôn trọng tất cả mọi người như tuân thủ pháp luật, nhưng tôi là một con người tự do nên tôi sẽ hành xử như một con người tự do.”

Thái Văn Dung cũng cho biết hướng công việc hiện nay của bản thân:

“ Mình công khai hoạt động nên bây giờ mình hoạt động một số vấn đề về các tổ chức xã hội dân sự, đấu tranh đòi những quyền lợi chính đáng mà con người chúng ta cần được hưởng.

Tất nhiên sẽ có một số vấn đề, sắp đến họ sẽ tìm cách trù dập mình, họ làm một số vấn đề cho mình nhụt chí. Đối với những vấn đề đó tôi đã chuẩn bi tâm lý sẵn sàng rồi, cần thiết cũng có thể đi vào tù lần thứ hai.”

Xin được nhắc lại anh Phao lô Trần Minh Nhật bị bắt tại Sài Gòn vào ngày 27 tháng 8 năm 2011 và bị kết án 4 năm tù giam và 3 năm quản chế. Tuy nhiên theo anh này thì tại phiên phúc thẩm, tại tòa Hội đồng xử án chỉ tuyên bố anh bị 4 năm tù giam mà không nói gì đến quản chế, thế nhưng trong văn bản lại có. Anh tỏ ra thắc mắc về cách làm việc này của tòa Việt Nam.

Giaon Thái Văn Dung bị bắt vào ngày 19 tháng 8 năm 2011 tại Hà Nội. Anh bị kết án 4 năm tù giam và 4 năm quản chế.

Trong nhóm những thanh niên Công giáo- Tin Lành bị đưa ra xét xử ở Vinh có 2 người chịu mức án cao nhất 13 năm tù cho mỗi người là Hồ Đức Hòa và Đặng Xuân Diệu.

Nhóm này còn có Nguyễn Đặng Minh Mẫn hiện thụ án 8 năm tù tại Trại giam Yên Định, Thanh Hóa. Đây cũng là nơi giam giữ cô Tạ Phong Tần, bị tuyên án 10 năm tù với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’.

Việt Nam nếu đa đảng sẽ đổ máu?

Việt Nam nếu đa đảng sẽ đổ máu?

Lê Diễn Đức

RFA

Khi nói đến tiến trình tiến tới dân chủ hoá của Việt Nam, mặc dù còn mờ mịt, xa vời, có ý kiến cho rằng, xã hội Việt Nam nếu có đa đảng sẽ đổ máu.

Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) luôn tuyên truyền rằng, khi họ là lực lượng duy nhất giữ độc quyền cai trị thì xã hội ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này đánh trúng vào tâm lý của dân chúng vốn sợ chiến tranh, xung đột sau một cuộc chiến đã quá dài và tổn thất sinh mạng và vật chất quá lớn.

Cách nguỵ biện trên rõ ràng là bóp méo hoặc thiếu hiểu biết về khái niệm dân chủ.

Dân chủ về bản chất không chỉ là một mô hình nhà nước, cũng không hoàn toàn giống như người ta viết trong các bản hiến pháp.

Dân chủ là quan điểm sống, dựa trên lòng tin vào con người, vào nhân loại và chủ nghĩa nhân đạo. Dân chủ là một cuộc thảo luận. Nhưng cuộc thảo luận chỉ thực sự có ý nghĩa nơi mà con người tin cậy lẫn nhau và tìm kiếm sự thật một cách lương thiện. Dân chủ có nghĩa là cuộc nói chuyện giữa những người bình đẳng, sự suy nghĩ của những công dân tự do trước con mắt quan sát của toàn xã hội.

Wiston Churchil, cựu Thủ tướng Anh, đã có lần nói đùa nhưng rất chính xác rằng, “Dân chủ là mô hình nhà nước tệ nhất, ngoại trừ tất cả các mô hình nhà nước được biết cho đến nay”.

Có nghĩa rằng, Dân chủ không phải là phuơng thức hoàn hảo, nhưng là tốt nhất, phục vụ cho nhân loại trong lịch sử.

Chính trị Dân chủ gìn giữ hài hoà giữa sự thống nhất và đa dạng, cũng như sự xung khắc, dựa trên nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Chính trị dân chủ không phân chia bạn-thù. Vinh quang của nó không phải là chiến tranh, và mục tiêu của nó không phải là tiêu diệt kẻ thù. Trong xã hội dân chủ có ba nhóm người: ủng hộ/dao động/đối thủ. Mục tiêu của Dân chủ là kéo về phía mình những người dao động để nhận được đa số.

Chính trị Dân chủ không phải là vấn đề sống và chết. Dân chủ không cho phép sử dụng các phương tiện chiến đấu, xung đột vũ trang, giết chết đối thủ. Dân chủ tìm cách thuyết phục các chương trình của mình để tìm kiếm sự ủng hộ mới nhằm đạt được đa số, mà nhờ đó sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử.

Dân chủ là một hệ thống chính trị duy trì và phục hồi sự đồng thuận của xã hội và đồng thời giữ gìn, điều chỉnh sự khác biệt và tranh cãi miễn là nó nằm trong khuôn khổ pháp luật. Dân chủ tìm kiếm điểm cân bằng giữa hai xu hướng tương phản, một trong số đó là sự thống nhất, và hướng kia – những khác biệt và mâu thuẫn. Một điểm cân bằng – tức là một sự thỏa hiệp, nhượng bộ, tuy nhiên không loại trừ việc giữ lập trường của mình và thuyết phục các khuynh hướng khác chấp nhận. Trong ý nghĩa này – thỏa hiệp là linh hồn của nền dân chủ.

Từ ngày ra đời đến khi cướp được chính quyền, rồi cưỡng chế miền Nam, giữ vai trò thống trị duy nhất trên đất nước Việt Nam, ĐCSVN luôn luôn chủ trương đàn áp, thủ tiêu mọi lực lượng chính trị khác quan điểm với mình. Một chế độ công an trị được thiết lập. Các nhà bất đồng chính kiến bị tù đày, cô lập. Báo chí truyền thông trở thành công cụ tuyên truyền phục vụ cho mục đích cầm quyền. Sự thống nhất của dân chúng mà như ĐCSVN nói, ví dụ như đi theo đảng và tin chọn đảng làm lãnh đạo, đều là sự áp đặt. Bởi vì cấu trúc nhà nước được hình thành qua sự sắp đặt của các đại hội đảng, chứ không qua bầu cử tự do.

Trong một tư duy dùng bạo lực để tiêu diệt đối thủ/kẻ thù ấy, nói rằng, nếu có đa đảng, ở Việt Nam sẽ đổ máu không có gì là lạ.

Vào năm 1989, khi người dân Ba Lan tập trung trong Công đoàn Đoàn Kết, biểu tình, bãi công dồn dập, làm tê liệt đời sống đất nước, có nghĩa rằng, Đảng Cộng Sản Ba Lan đã nhận thấy một tín hiệu khác. Sự đàn áp cao độ của nhà cầm quyền trong giai đoạn ban hành tình trạng thiết quân luật 1981-1983 với gần 10 ngàn người đối lập dân chủ bị bắt giam và xét xử, đã không mang lại kết quả nào, ngược lại, càng đổ thêm dầu vào ngọn lửa của cao trào cách mạng.

Đảng Cộng Sản Ba Lan, lúc bấy giờ, chấp nhận ngồi vào bàn tròn đàm phán với lực lượng đối lập và kết quả là chấp nhận sự hoạt động của các tổ chức xã hội và tiến hành bầu cử tự do (hạn chế) vào ngày 3 tháng 6 năm 1989. Thắng lợi toàn diện của phe đối lập trong cuộc bầu cử này, đã dẫn đến những thắng lợi tiếp theo trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1990 và bầu cử quốc hội toàn phần năm 1991.

Cuộc chuyển hoá từ chế độ độc tài qua dân chủ đã diễn ra êm ả, hoà bình và không đổ giọt máu nào. Tất cả ai vào sân chơi dân chủ đều tôn trọng một nguyên tắc khắt khe, bất di bất dịch của nó là không triệt hạ nhau bằng bạo lực. Chỉ lá phiếu của người dân là vũ khí duy nhất để loại bỏ nhau trong cuộc tranh đua quyền lực.

Các cuộc chạy đua vào Nhà Trắng ở Mỹ cũng làm nổi bật sự khác biệt giữa hai khuynh hướng Cộng hoà cvà Dân chủ. Trong mỗi kỳ bầu cử, nước Mỹ gần như bị chia thành hai phần tương đương màu xanh (Dân Chủ) và đỏ (Cộng hoà). Người đắc cử Tổng thống thường cũng chỉ nhích hơn người thua cuộc 1-3% số phiếu, điều này cho thấy cuộc tranh đua hết sức quyết liệt.

Cộng đồng người Việt ở Mỹ như người ta nhận xét khá phức tạp và chia rẽ. Trong các kỳ bầu cử địa phương, người ta sôi nổi công kích nhau trên các phương tiện truyền thông, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là sự lựa chọn của dân chúng. Không có bất kỳ mâu thuẫn nào dẫn đến xung đột bạo lực.

Dân chủ là phải biết thất bại, biết nhìn nhận nó một cách sòng phẳng, nhưng có trách nhiệm. Vì thế, người thua trong cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ luôn gọi điện chúc mừng người chiến thắng.

Rất tiếc, Việt Nam hiện nay chưa có một lục lượng đối lập có tổ chức đủ mạnh để buộc ĐCSVN phải ngồi vào bàn thương lượng. Nhưng những người bất mãn với chế độ và có ý thức phản kháng không ít. Các tổ chức dân sự đang nhen nhóm hoạt động là hạt nhân cần thiết cho sự phát triển xã hội dân chủ tương lai.

Một khi tạo được áp lực mạnh mẽ của quần chúng, nhà cầm quyền ắt sẽ thay đổi. Và nếu ĐCSVN can đảm nhận rằng, sân chơi dân chủ là nơi bình đẳng nhất cho cuộc tranh đua, thì chắc chắn chẳng thể nào có đổ máu.

Mặc dù xã hội Việt Nam tồn tại những bất đồng sâu sắc do chính sách của ĐCSVN gây ra, nhưng thiết nghĩ, khi đã chấp nhận dân chủ, đồng ý với luật chơi, tất cả các tổ chức khác sẽ bình đẳng với ĐCSVN trong việc tranh giành lá phiếu của người dân.

Như vậy, đổ máu hay không chẳng phụ thuộc vào việc xã hội Việt Nam có đa đảng mà hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ hành xử của ĐCSVN.

© Lê Diễn Đức – RFA