Không uống bia ‘hỏa tốc,’ 7 cán bộ phải viết tường trình

Không uống bia ‘hỏa tốc,’ 7 cán bộ phải viết tường trình

Nguoi-viet.com

HÀ TĨNH (NV) – Cán bộ thuộc Sở Giáo Dục bị nhắc nhở và phải viết tường trình trong một cuộc họp nội bộ sau khi từ chối không tham gia uống và sử dụng bia được sản xuất tại tỉnh nhà.

Sở Giáo Dục và Đào Tạo Hà Tĩnh, nơi 7 cán bộ bị nhắc nhở vì không
uống một loại bia sản xuất tại tỉnh nhà. (Hình: VnExpress)

VnExpress loan tin, ngày 11 Tháng Chín, 2015, ông Dư Lý Trí, phó chánh văn phòng Sở Giáo Dục Hà Tĩnh cho biết, sau hội nghị “điển hình tiên tiến” vào cuối Tháng Sáu, một số cán bộ trong cơ quan đã tổ chức bữa tiệc tại một nhà hàng ở thành phố Hà Tĩnh. Tại đây, khi gọi đồ uống, nhiều người đã không dùng bia Sài Gòn.

“Mấy người làm tiếp thị, kinh doanh tại nhà hàng thấy cán bộ Sở Giáo dục không uống bia của hãng nên nhắn tin cho lãnh đạo tỉnh, vị này sau đó trao đổi với giám đốc sở”, ông Trí nói.

Tin cho hay, sau đó trong một cuộc họp nội bộ, 7 cán bộ liên quan đã phải viết bản tường trình sự việc và bị nhắc nhở.

Trước đó, ngày 1 Tháng Chín, trong khuôn khổ tổ chức lễ hội “Tôi yêu bia Sài Gòn,” ông Lê Minh Đạo, chánh văn phòng tỉnh Hà Tĩnh đã ký giấy mời đóng dấu “hỏa tốc” gởi tới các lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, thủ trưởng sở ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh, chủ tịch các hội, hiệp hội trong tỉnh, lãnh đạo huyện của tỉnh… tới tham gia.

Giấy mời của chánh văn phòng ủy ban tỉnh Hà Tĩnh dùng dấu hỏa tốc
yêu cầu lãnh đạo tham dự lễ hội bia. (Hình: VnExpress)

Theo một lãnh đạo Sở Công Thương Hà Tĩnh, tính đến ngày 15 Tháng Sáu, tổng thu ngân sách nội địa 6 tháng đầu năm của Hà Tĩnh đạt 2,511 tỷ đồng, trong đó dự kiến thu ngân sách từ phía Chi nhánh bia Sài Gòn đóng trên địa bàn là 380 tỷ đồng.

Theo Bộ Y Tế, Việt Nam là nước tiêu thụ bia cao thứ 3 tại Châu Á, chỉ sau Nhật Bản và Trung Quốc, với khoảng 3 tỷ lít bia trong năm 2013. Trong 10 năm gần đây, tốc độ tiêu thụ bia của người Việt Nam đã tăng hơn 200%. Rượu, bia đứng trong số 10 nguyên nhân gây tử vong cao nhất ở Việt Nam. (Tr.N)

Tưởng nhớ người mang 219 cô nhi ra khỏi Sài Gòn

Tưởng nhớ người mang 219 cô nhi ra khỏi Sài Gòn

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2015-09-03

09032015-betty-tisdale-A.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Hàng trăm người Việt đã đón mừng bà Betty Tisdale tại phòng sinh hoạt của nhật báo Người Việt ở Westminster chiều 30 tháng Tư năm 2010.

Hàng trăm người Việt đã đón mừng bà Betty Tisdale tại phòng sinh hoạt của nhật báo Người Việt ở Westminster chiều 30 tháng Tư năm 2010.

Photo courtesy Namvietnews

Tưởng nhớ người mang 219 cô nhi ra khỏi Sài Gòn những ngày cuối tháng Tư 1975

Đó là bản tin buổi chiều trên đài truyền hình Hoa Kỳ, nói về bà Betty Tisdale, vừa qua đời ngày 19 tháng Tám năm 2015, hưởng thọ 92 tuổi.

Trong cuộc chiến Việt Nam, bà Betty Tisdale đã cố vận động bằng mọi cách để mang cho được 219 trẻ mồ côi từ cô nhi viện An Lạc ra khỏi Việt Nam trong những giờ phút hấp hối sau cùng của Sài Gòn.

Từ mối duyên nợ gắn bó với cô nhi Việt Nam, điển hình là 5 em gái mồ côi bà nhận làm con nuôi từ năm 1970, trở về Hoa Kỳ bà Betty Tisdale đã sáng lập tổ chức H.A.L.O Helping And Loving Orphans, Giúp Đỡ Và Yêu Thương Trẻ Mồi Côi.

Đó là cách sống của tôi. Bạn phải nghĩ đến kết quả sau cùng của việc bạn đang làm, hãy thực hiện điều gì đó khiến cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn…

Khi loan báo về cái chết của bà Betty Tisdale hôm 19 tháng Tám, bản tin của đài truyền hình tôn vinh bà là một phụ nữ can trường đã cứu vớt biến đổi thật tốt đẹp bao nhiêu cuộc đời bơ vơ non trẻ trên thế giới.

Câu chuyện bà Betty Tisdale và trẻ mồi côi Việt ở cô nhi viện An Lạc sống lại trong trí nhớ người di tản khi bà, năm đó 87 tuổi, xuất hiện trong một buổi tri ân do nhật báo Người Việt tổ chức ở California chiều 30 tháng Tư năm 2010:

Đó là cách sống của tôi. Bạn phải nghĩ đến kết quả sau cùng của việc bạn đang làm, hãy thực hiện điều gì đó khiến cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn…

Bà Betty Tisdale gặp cộng đồng người Việt

Khoảng 300 người đã đến phòng sinh hoạt của nhật báo Người Việt để gặp gỡ và cảm ơn bà Betty Tisdale mà câu chuyện của bà đăng trên báo người Việt khiến mọi người cảm kích, thán phục.

Tại sao phải đến những 35 năm người Việt ở Hoa Kỳ mới gặp người phụ nữ Mỹ có tấm lòng nhân hậu đối với trẻ mồ côi Việt Nam này. Chủ bút Phạm Phú Thiện Giao của báo người Việt giải thích rằng câu chuyện bà Betty Tisdale thì truyền thông Hoa Kỳ nói rất nhiều mà người Việt thế hệ lớn tuổi cũng biết nhưng trước giờ chưa có một cuộc gặp gỡ nào giữa bà Betty Tisdale với cộng đồng Việt Nam cả:

Một lần, một cô nhi ngày xưa bây giờ đã 35 tuổi tên Vũ Tiến Kinh hiện đang sống ở miền Đông Hoa Kỳ, về lại bệnh viên UCLA để tìm lại người bác sĩ đã cứu mình 35 năm trước. Vũ Tiến Kinh là một trong 219 cô nhi được bà Betty Tisdale đưa sang Hoa Kỳ năm 1975.

Tiếp đó, nhật báo Người Việt đưa tin về buổi gặp gỡ giữa Vũ Tiến Kinh và vị bác sĩ ân nhân đã chăm sóc, cứu sống anh khi anh được bốc qua Hoa Kỳ lúc 4 tháng tuổi:

Và chúng tôi tự hỏi như vậy thì người đưa Vũ Tiến Kinh qua đây là ai. Qua tìm hiểu thì chúng rôi biết đó là bà Betty Tisdale, chúng tôi gởi phóng viên qua tận nhà của bà ở Seattle, Washington, để viết lại những gì đã xảy ra 35 năm trước. Có nhiều người khi đọc về câu chuyện của bà Betty Tisdale thì mới hỏi thêm rất nhiều câu hỏi mà chúng tôi không thể trả lời được nên chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất là nên tổ chức một cuộc gặp gỡ với cộng đồng. Đây là cuộc gặp gỡ tại báo người Việt nhưng ban tổ chức gồm nhiều cơ quan truyền thông khác như TV, báo, đài phát thanh Việt ngữ ở Quận Cam.

Cùng đi với bà Betty Tisdale khi đó là cô Liên, một trong 5 em bé mồ côi của cô nhi viện An Lạc, được bà nhận làm con nuôi từ năm 1970, cùng với anh Vũ Tiến Kinh là người đã dẫn đến với câu chuyện Betty Tisdale bốc trẻ mồ côi Việt sang Mỹ

Thật lạ, tôi cũng nghĩ tôi gắn bó với Việt Nam và người Việt biết chừng nào. Những việc tôi đã làm cho trẻ mồi côi Việt Nam, tình cảm và sự khâm phục của tôi đối với bà Vũ Thị Ngải, người sáng lập và giám đốc cô nhi viện An Lạc,có thể chứng tỏ điều đó.

Kể lại những giây phút khó khăn mà có lúc tưởng chừng như bế tắc khi cố vận động với Cơ Quan Di Trú Hoa Kỳ cũng như với chính phủ miền Nam lúc đó hầu có thể đưa một lúc 400 em mồ côi và bà Vũ Thị Ngải, người mà bà Betty Tisdale gọi là bà mẹ nhân ái của trẻ mồi côi ở cô nhi viện An Lạc.

Tiếc thay, bà Betty Tisdale kể tiếp lúc ấy chỉ mang được 219 em sơ sinh và dưới 10 tuổi thay vì hết cả 400 như dự tính.

Ngày 12 tháng Tư 1975, chiếc phi cơ vận tải quân sự chở 219 cô nhi Việt Nam phải đáp khẩn cấp xuống phi trường Los Angeles vì một số em nhỏ quá yếu không thể bay tiếp đến Fort Benning ở Georgia là nơi mà bà Betty Tisdale muốn đưa hết về đó để tìm cha mẹ nuôi cho các em.

Bà Betty Tisdale

Bà Betty Tisdale

Một trong những bé được đưa ra khỏi máy bay lúc ấy, thẳng đến bệnh viện UCLA, chính là Vũ Tiến Kinh mà bây giờ đã lớn và trở thành một giáo viên:

Tôi luôn nhớ ơn và coi bà như một bà mẹ đã ôm tôi trong tay, mang tôi đến một cuộc đời mới 35 năm về trước, khi mà tôi chưa đủ trí khôn để cảm nhận điều gì xảy ra.

Cách đây mấy tuần tôi đi dự một buổi họp mặt của khoảng 60 đứa trẻ An Lạc tôi mang qua Hoa Kỳ mà nay đều đã lớn. Những đứa con ấy gần như không biết gì về Việt Nam, chúng không nói được tiếng Việt trong lúc tôi biết chúng là người Việt

bà Betty Tisdale

Trước một cử tọa đang xúc động lắng nghe từng lời kể của mình, bà Betty Tisdale Tisdale luôn miệng nhắc nhở Madame Ngải, tức bà Vũ Thị Ngải, giám đốc viện mồ côi An Lạc, đã phải ở lại cùng những em nhỏ không đi được.

Bà nói như tâm sự:

Cách đây mấy tuần tôi đi dự một buổi họp mặt của khoảng 60 đứa trẻ An Lạc tôi mang qua Hoa Kỳ mà nay đều đã lớn. Những đứa con ấy gần như không biết gì về Việt Nam, chúng không nói được tiếng Việt trong lúc tôi biết chúng là người Việt

Và rồi bổng dưng như hôm nay, nhờ cuộc gặp gỡ này, bản thân tôi bỗng nhận ra có một cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ biết về tôi và rất gần với tôi mà bao lâu tôi không hề nghĩ tới.

Cuốn phim The Children Of An Lac

Năm 1980, câu chuyện 219 ở cô nhi viện An Lạc và bà Betty Tisdale, được quay thành phim với tựa đề The Children Of An Lac. Nữ nghệ sĩ Kiều Chinh, cũng có mặt trong buổi đón tiếp bà Betty Tisdale hồi 2010 ở phóng sinh hoạt báo Người Việt, nói về cuốn phim mà bà được mời giữ một vai trong đó:

Năm 1980 bà tài tử Ina Bailing, cũng là người đi tới đi lui giúp các trẻ mồ côi và chính bà cũng nuôi một số trẻ mồ côi, bà có viết một script để quay thành phim The Children Of An Lac, nói về cuộc đời bà Ngải và bà Betty Tisdale.

Lúc đó cả bà Ina Bailing lẫn nhà sản xuất là Jay Benson đề rất muốn vai bà Ngải phải là  Kiều Chinh đóng. Nhưng lúc đó Kiều Chinh hãy còn trẻ quá để đóng vai bà Ngải. Bà Ngải thì dáng người nhỏ thấp hơn Kiều Chinh, vì thế sau này họ mời một tài tử Tàu, bà Beulah Ko, đóng vai bà Ngãi, còn Kiều Chinh thì đóng vai người phụ tá của bà Ngải tức là bà Thục. Ngoài ra Kiều Chinh còn đóng một vai trò khác phia sau máy quay phim, tức là người cố vấn về kỹ thuật . The Children Of An Lac sau nay trở thành một cuốn phim mà các trường tiểu học thường chiếu cho trẻ em coi.

Hôm nay Kiều Chính tới đây mục đích để gặp những nhân vậy thật trong chuyện mà mình có cơ duyên đóng về cuộc đời của họ. Điều thứ hai mình cũng tới để cám ơn ân nhân của một số các em đã được họ trông nom bảo trợ.

Tại buổi gặp gỡ và tri ân bà Betty Tisdale ở nhật báo Người Việt 5 năm về trước, rất nhiều người đã xếp hàng để tặng hoa và nói lời cảm tạ đến bà Betty Tisdale. Nhiều người còn tự động đóng góp vào ngân quĩ của H.A.L.O Help And Love Orphans do bà sáng lập để giúp vào công việc thiện nguyện đầy ý nghĩa của bà .

Chị Trâm Anh, mong muốn được ngỏ lời chào ân nhân của những trẻ mồ côi An Lạc ngày trước, bày tỏ:

Tôi cảm kích khi thấy một người đàn bà Mỹ nhỏ thó, trông có vẻ bình thường nhưng đã làm một việc đối với tôi quá sức phi thường.

Cả đời bà giúp và cứu được 219 em mồ côi sang Mỹ, tất cả các em đã thanh tài và thành nhân. Trong buổi này một câu bà nói tôi nhớ nhất là cả đời bà tất cả cho Việt Nam. Khi bà nói như vậy thì tôi nghĩ bà nói tới những trẻ mồ côi bất hạnh bên Việt Nam. Bên nước mình bây giờ trẻ mồ côi rất đông, cho nên đến giờ này đã 87 tuổi bà vẫn tiếp tục công việc từ thiện, đến những vùng sâu vùng xa để giúp để giúp các em đó. Tôi rất hoan nghênh bào người Việt đã tổ chức buổi họp hôm nay.

Thời gian và sự sống không dành đặc quyền cho bất cứ ai, những người tốt lành cả đời như bà Betty Tisdale rồi cũng đến lúc xuôi tay nhắm mắt trong nỗi tiếc thương của 5 con nuôi Việt Nam của bà.

Có thể nỗi ưu tư mà bà Betty Tisdale mang theo về bên kia thế giới, là những trẻ Việt Nam vì sang Mỹ lúc còn quá nhỏ và không hiểu biết gì về cội nguồn của mình khi lớn lên, sẽ tan biến đi nếu bà có thể nghe lại cảm nghĩ của anh Vũ Tiến Kinh rằng

Bây giờ niềm hạnh phúc là khi bước xuống thành phố Westminster, nơi có nhiều người Việt như mình, chấp nhận mình dù như còn phải học hỏi rất nhiều nữa về cội nguồn của mình.

Hoặc là cảm nghĩ của cô con gái tên Liên mà bà nhận nuôi khi còn ở Việt Nam năm 1970, không ngần ngại thú nhận chừng như cô quá bị Mỹ hóa, không bận tâm đến nguồn gốc và có lúc đã không thỏa hiệp được với bản thân rằng cô là một đứa bé mồ côi người Việt:

Thế nhưng khi cùng mẹ bước ra khỏi máy bay và được ân cần đón tiếp, tôi chợt thấy xúc động vì tình cảm họ dành cho mẹ tôi.

Thật khó diễn tả cảm xúc trong lần đầu gặp gỡ với cộng đồng người Việt, cô Liên nói, vì đã quá nhiều lần cô không chịu nhận mình là Việt Nam dù trong thâm tâm cô vẫn nghĩ không nên nuôi cảm giác như thế. Càng nói chuyện thì càng thấy gần gũi hơn, nhất là sau buổi ăn tối với một số người trong cộng đồng thì cô nghĩ:

Tôi mới tìm thấy một cái gì đó hoặc vừa tìm về một nơi nào đó mà có thể gọi là nhà, tiếng nhà đích thực tôi chưa bao giờ biết đến trước kia.

Thanh Trúc tạm chấm dứt chuyện kể về bà Betty Tisdale và những trẻ em mồ côi An Lạc ở phút này. Hẹn các bạn trong chương trình kỳ tới.

Đại Hội Đảng: Tranh Quyền

Đại Hội Đảng: Tranh Quyền

Việt Báo

Trần Khải

10-9-2015

Những gì đang diễn tiến ở Ba Đình đều là bí mật. Đối với dân chúng: Đó là một trận đô vật trong đêm, được tắt hết đèn đuốc. Nơi đó, có những ông tướng công an như dường bị bóp mũi chết trong đêm: như Tướng Công An Phạm Quý Ngọ… Nơi đó, tình tiền tù tội đều có liên hệ bí ẩn. Nơi đó, một Nguyễn Bá Thanh đã “chuyển sang từ trần” và một Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh lùi vào bóng tối.

Bây giờ, câu hỏi ai sẽ lên nắm chức Tổng Bí Thư CSVN sắp tới? Nguyễn Tấn Dũng được xem như thân Mỹ? Hay sẽ là một ai xuất hiện, sau khi Tập Cận Bình tới thăm VN vào tháng 10 hay 11 tới? Chúng ta sẽ tổng hợp các thông tin sau để may ra, suy đoán xem trong sàn đô vật giữa đêm đó, ai có dư sức trở thành bất bại trong đaị hội này.
Bản tin VOA ghi nhận:

“Bộ Chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam đang bị chia rẽ sâu sắc và chưa đạt được đồng thuận về một số vấn đề, trong đó có biển Đông, quan hệ với Trung Quốc cũng như việc lựa chọn ban lãnh đạo tương lai, một chuyên gia nghiên cứu Việt Nam nhận định.

Giáo sư Carl Thayer nói thêm từ Australia rằng việc bất đồng như vậy có thể dẫn tới việc hoãn Đại hội 12 và dời sang một ngày khác muộn hơn.

Việt Nam tổ chức Đại hội đảng 5 năm một lần, và đại hội lần thứ 12 dự kiến sẽ diễn ra vào đầu năm 2016, nhưng ngày giờ cụ thể tới nay vẫn chưa được công bố.

Theo giáo sư kỳ cựu, chuyên nghiên cứu về Việt Nam, việc chuẩn bị cho đại hội quan trọng lần này nhằm bầu chọn đội ngũ lãnh đạo mới cho Việt Nam đã diễn ra “rất thầm lặng so với 8 đại hội trước đó tính từ khi thống nhất đất nước”.

Về các động thái đó, giáo sư Carl Thayer nhận định: “Điều gì giải thích cho các diễn biến, như sự chuẩn bị lặng lẽ một cách bất thường cho Đại hội Đảng, chậm trễ trong việc tổ chức hội nghị tiếp theo của Ban chấp hành Trung ương và việc hoãn công bố Sách trắng Quốc phòng? Lời giải thích khả dĩ nhất là sự chồng chéo của hai vấn đề gây tranh cãi – yếu tố Trung Quốc (Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư Tập Cận Bình được cho là sẽ thăm Hà Nội vào tháng 10 hoặc tháng 11) và việc lựa chọn ban lãnh đạo mới của Việt Nam”…”(ngưng trích)

Trong khi đó, bản tin BBC nhắc tới lời bình luận của Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp, đang là nghiên cứu viên khách mời tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, trích:

“Về vấn đề chuyển đổi lãnh đạo, nếu Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng được bầu làm Tổng Bí thư mới của Đảng thì mối quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ có thể trải qua một bước tiến mới. Ông Dũng, người thường xuyên thể hiện mình như một nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa, đã nhiều lần công khai lên tiếng phản đối sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông, trong đó có tuyên bố nổi tiếng rằng Việt Nam sẽ không đánh đổi chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước để lấy “hữu nghị viễn vông” [với Trung Quốc].

“Chương trình nghị sự tương đối tự do trong nước dưới sự lãnh đạo của ông Dũng cũng gần gũi với Washington hơn là Bắc Kinh. Hơn nữa, mối quan hệ cá nhân của các thành viên trong gia đình ông với phương Tây nói chung và với Mỹ nói riêng cũng có thể có ảnh hưởng tích cực lên cách nhìn của ông về Mỹ cũng như về mối quan hệ giữa Hà Nội với Washington…”(hết trích)

Thân Mỹ lộ như ông Dũng, rồi Tập Cận Bình sẽ nghĩ gì, tính gì, âm mưu gì?

Một bản tin trên Dân Làm Báo tựa đề “Vụ lô súng ‘khủng’ ở Tân Sơn Nhất: Chỉ thủ tướng mới được đưa vào Việt Nam” đã phân tích rằng:

“…vụ vận chuyển vũ khí lớn nhất từ trước đến nay, với số lượng lên đến 94 khẩu súng ngắn hiệu CZ P-07 – loại súng chuyên dụng cho các đội đặc nhiệm bảo vệ nguyên thủ quốc gia…”

Như thế, thực ra lô súng là của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Bản tin này cũng cho 1 link tới tin Kyodo bằng Anh ngữ ngày 18-3-2007, cho biết tư dinh của Nguyễn Tấn Dũng tại Sài Gòn cũng từng bị cho nổ bom ngoaì cổng vào ngày 10 tháng 2-2007.

Nghĩa là, bắn trật thì chết, bắn chậm cũng chết… Ba Đình là thế.

Có vẻ như nô bộ Ba Đình chia rẽ lớn, khó hàn gắn… Thế cho nên, tác giả Nguyễn Quang Dy trong bài viết “Tranh giành Quyền lực và Hòa giải Dân tộc” trên mạng Viet-studies cảnh giác về tình hình chia rẽ có thể dẫn tới cơ nguy Bắc thuộc mới:

“…những gì đang diễn ra hiện nay có thể là “hệ quả không định trước” của lịch sử, và có thể được lặp lại. Chúng ta không thể thay đổi được quá khứ, nhưng chúng ta có thể làm gì đó để sắp xếp lại tương lai, để tránh lặp lại những sai lầm ngu ngốc.

Thứ ba, chúng ta không thể thoát khỏi nghiệp chướng đánh lộn lẫn nhau một cách cực đoan và bạo lực, để rồi trở thành nạn nhân của Bắc thuộc (nếu không xem lại lịch sử bất ổn để học bài học nghiêm túc). Chúng ta không thể lấy lại lòng tự hào và tử tế, đứng trên đôi chân của mình để xây dựng lại đất nước hùng mạnh và độc lập (nếu không hòa giải dân tộc).”

Trong khi đó, một bài khác cùng ở mạng này có ghi chú “Bài này do một độc giả gửi cho viet-studies. Viet-studies hoàn toàn không có khả năng kiểm chứng những thông tin trong bài, nhưng xin đăng để bạn đọc xem xét.”

Bài này tựa đề “Cuộc đấu đá ngầm đằng sau vụ nhà báo Đỗ Hùng bị tước thẻ” của tác giả Bích Minh, trong đó nêu ra rằng:

“Việc nhà báo Đỗ Hùng của báo Thanh Niên đột ngột bị cách chức, tước thẻ gây ồn ào những ngày qua thực tế là chỉ là bề nổi của cuộc chạy đua quyền lực nhắm tới kỳ Đại hội Đảng XII đang đến rất gần…”

Bài viết này nêu rằng: Thứ trưởng Bộ TTTT Trương Minh Tuấn muốn lên chức Bộ Trưởng, nên làm một màn chơi nổi, tước thẻ nhà báo của Đỗ Hùng bất kể có thể làm xấu mặt VN trong các cuộc thương thuyết về hiệp định thương mại TPP vì hình ảnh nhân quyền và tự do ngôn luận vi phạm thê thảm quá.

Đặc biệt, ông Thứ Trưởng cũng hứa rằng lột thẻ nhà báo chỉ là màn trình diễn, bài Bích?Minh viết:

“Nguồn tin cũng tiết lộ rằng Thứ trưởng Tuấn cũng có hứa hẹn với lãnh đạo Báo Thanh Niên rằng Đỗ Hùng sẽ được cấp lại thẻ trong thời gian sớm nhất. Điều này càng cho thấy quyết định xử lý thực ra không nhắm vào nhà báo Đỗ Hùng hay báo Thanh Niên mà chỉ nhằm “làm màu” cho người đã ban hành quyết định đó.”

Bài viết cũng cho biết rằng

Ông Trương Minh Tuấn (sinh năm 1960) đột nhiên nổi lên từ khoảng giữa năm 2014 như một hiện tượng “kinh hoàng” của báo giới Việt Nam sau một loạt các động thái khá mạnh tay nhắm vào báo chí ngay sau khi được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng Bộ TTTT (1/2004) phụ trách lĩnh vực báo chí.

Bài viết nói rằng riêng xử lý báo chí năm 2014 của Thứ trưởng Trương Minh Tuấn:

— Bộ này đã xử phạt vi phạm hành chính một số cơ quan báo chí, xuất bản, thông tin điện tử với tổng số tiền 2,522 tỷ đồng.

Riêng trong lĩnh vực báo chí có tổng số 68 trường hợp bị xử phạt với tổng số tiền hơn 1,5 tỷ đồng; xuất bản có 9 trường hợp với 166 triệu đồng; thông tin điện tử là 31 trường hợp với hơn 850 triệu đồng.

— Số lượt vi phạm hành chính của cơ quan báo chí trong năm 2014 bị xử lý tăng hơn gấp đôi so năm 2013 (năm 2013 có 27 lượt vi phạm, năm 2014 là 57 lượt vi phạm)…

— Ngoài việc phạt nặng, đã có một mạng xã hội bị thu hồi giấy phép vĩnh viễn, một tờ báo và một trang thông tin điện tử bị đình bản ba tháng, tịch thu bảy tên miền…

Tuấn là người thuộc phe của ai?

Bài viết nói:

“Trước đó ông Tuấn là Vụ trưởng, Trưởng cơ quan thường trực Ban Tuyên giáo TW tại Đà Nẵng và sau đó là Giám đốc Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo thuộc Ban Tuyên giáo TW.”

Có phải phe Nguyễn Bá Thanh? Không rõ, nhưng có vẻ như không cùng phe với Nguyễn Tấn Dũng.

Vì hiện nay có 3 người tranh ghế Bộ Trưởng TTTT:

“Các nguồn tin thân cận với Bộ TTTT cho biết chiếc ghế Bộ trưởng Bộ TTTT sẽ là cuộc cạnh tranh khốc liệt của 3 ứng cử viên gồm: Thứ trưởng Bộ TTTT Trương Minh Tuấn; Tổng giám đốc Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) Nguyễn Mạnh Hùng và Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) Trần Bình Minh.”

Đặc biệt, Trần Bình Minh đươc xem là thân với Nguyễn Tấn Dũng.

Bài viết kể:

“…ông Trần Bình Minh, Tổng Giám đốc VTV được cho là có quan hệ thân thiết với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Trong vụ Đại biểu Quốc hội Châu Thị Thu Nga bị bắt giữ, khởi tố hồi 1/2015 đích thân ông Trần Bình Minh đã chỉ đạo các thuộc cấp của mình làm đậm vụ này một cách bất thường.

Theo những người am hiểu đó thực chất là một cách ông Minh tấn công gián tiếp Bí thư thành uỷ Phạm Quang Nghị, người bảo kê cho bà Châu Thị Thu Nga. Ông Phạm Quang Nghị được coi là ứng viên nặng ký cạnh tranh chiếc ghế Tổng Bí thư nhiệm kỳ tới với đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng….”

Nghĩa là, từ ghế Tổng Bí Thư, ghế Chủ Tịch Nước, ghế Thủ Tướng, cho tới ghế Bộ Trưởng… cũng đều đang sôi động chiến trường phi tiêu.

Không rõ bàn tay Tập Cận Bình sẽ thò tới thế nào…

Lạm thu trong trường học: vấn đề nhức nhối

Lạm thu trong trường học: vấn đề nhức nhối

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-09-09

09092015-involun-schoo-fee.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Trong giờ học của học sinh Trường Tiểu học Trần Quốc Toản (TP Hạ Long)

Trong giờ học của học sinh Trường Tiểu học Trần Quốc Toản (TP Hạ Long)

Quangninh.gov

Vào những dịp khai giảng năm học mới, các vị phụ huynh phải oằn mình với các khoản chi phí quá lớn phải nộp.

Thực tế tình trạng lạm thu như vậy ra sao và cần nên có giải pháp thế nào cho phù hợp?

Tình trạng lạm thu ở các trường học

Ở VN đến nay chưa có chế độ giáo dục miễn phí, song ngoài các khoản học phí theo quy định của nhà nước, thì các bậc phụ huynh phải đóng thêm các khoản theo yêu cầu của nhà trường và Hội phụ huynh học sinh với số tiền không nhỏ.

Đó là các khoản như: tiền quỹ Ban phụ huynh, tiền xây dựng sửa chữa trường lớp, bổ sung đèn chiếu sáng, mua sắm điều hòa, bảng chống lóa v.v…

Theo báo Lao động cho biết, lạm thu đầu năm học là vấn đề khiến không ít phụ huynh, học sinh đều cảm thấy ngao ngán, lo sợ và bức xúc. Ðể hợp thức hóa, không ít cơ sở giáo dục đã có “quy định ngầm” thông qua hình thức thu “tự nguyện”. Tại nhiều địa phương cho thấy, việc lạm thu đầu năm học diễn ra hết sức “công khai” với nhiều hình thức khác nhau.

Các khoản thu này là gánh nặng cho nhiều gia đình người lao động, mặc dù biết nhiều khoản thu là không hợp lý nhưng vì sợ ảnh hưởng đến con cái, nhiều phụ huynh vẫn phải nhắm mắt làm ngơ và đi vay mượn để đóng góp.

Chị Bé Ba, một phụ huynh học sinh có 1 con đang học cấp tiểu học ở Đồng nai chia sẻ với chúng tôi:

Sau một vài năm, bản thân các trường thấy việc thu tiền của học sinh là khó coi nên Ban phụ huynh đã được thành lập để thu tiền hộ nhà trường. Từ khi có cái Ban phụ huynh này thì việc thu tiền càng “thoải mái” vì Hiệu trưởng hoàn toàn chẳng có trách nhiệm gì

một chuyên gia thuộc VKHGD

“Số lương của 2 vợ chồng tôi mỗi tháng khoảng 5 triệu đồng, tiền chi phí đóng đầu năm là triệu mấy chưa kể tiền này tiền kia, tiền xe, tiền học phí. Do vậy mình phải biết hà tiện và nhín nhút trước, không có thì phải vay mượn trước rồi trả lại họ.”

Không chỉ vậy, năm nay phí bảo hiểm y tế cho học sinh bỗng dưng tăng vọt gấp 1,5 lần cao hơn học phí. Ông Bảy, một phụ huynh học sinh ở Long Khánh tiếp lời:

“Bây giờ công việc cũng không đều mấy, nên hàng tháng gia đình tôi thu nhập cũng khoảng 2 triệu mấy, ba triệu. Riêng tiền cho con bé đi học tháng cũng mất hơn một triệu, gồm tiền xe đò, tiền ăn, tiền nọ tiền kia. Vừa đi họp phụ huynh về họ yêu cầu nộp 1, 4 -1,5 triệu, trong lúc nhà có mỗi mình là lao động chính. Giờ chẳng lẽ cho nó nghỉ, thôi vì con nó thích đi học nên có lẽ mình phải ráng thôi.”

Đánh giá về tình trạng lạm thu trong các trường học hiện nay, một chuyên gia thuộc Viện Khoa học Giáo dục đã nghỉ hưu, không muốn nêu danh tính nhận định:

“ Trong mấy năm gần đây việc lạm thu đã tới mức không thể kiểm soát nổi. Việc thu tiền tràn lan vào đầu năm học bắt đầu từ khoảng giữa những năm 90 khi có chủ trương xã hội hóa giáo dục. Sau một vài năm, bản thân các trường thấy việc thu tiền của học sinh là khó coi nên Ban phụ huynh đã được thành lập để thu tiền hộ nhà trường. Từ khi có cái Ban phụ huynh này thì việc thu tiền càng “thoải mái” vì Hiệu trưởng hoàn toàn chẳng có trách nhiệm gì, cho dù ai cũng biết Ban phụ huynh muốn thu bao nhiêu và thu các khoản gì đều phải thông qua và được Hiệu trưởng đồng ý.”

Điều đáng nói là việc quản lý thu chi các khoản thu vừa nêu không minh bạch và công khai. Các hội cha mẹ học sinh đứng ra thu tiền dưới hình thức vận động nhưng lại là tự nguyện một cách bắt buộc. Ông Thạnh, một phụ huynh học sinh ở Quảng ngãi bày tỏ:

“Nhiều lần tôi đã phản ảnh với nhà trường, Hội cha mẹ học sinh và thầy cô giáo chủ nhiệm thu chi không công khai và minh bạch. Khi người ta không có để đóng quỹ hội thì nhà trường bắt viết giấy nhận nợ, điều này theo tôi là trái với đạo đức của nhà trường.”

Khi được hỏi, việc lạm thu trong các trường học nhằm mục đích gì và ai là người được hưởng lợi?

Vị chuyên gia giáo dục đánh giá:

“Mỗi khoản thu đều có lý do riêng. Giáo viên chỉ được hưởng chút ít trong quỹ Hội cha mẹ học sinh, Ban giám hiệu các trường hưởng nhiều nhất, giáo viên được nào có đáng là bao. Còn các khoản thu khác đều có những mục đích cụ thể, như đồng phục, trang bị bảng chống lóa, hệ thống chiếu sáng, điều hòa nhiệt độ, …ai tham gia vào những công việc này thì người đó hưởng lợi. Thường là Ban giám hiệu và các nhân viên kế toán, thủ quỹ.”

Lãnh đạo các trường luôn lý giải rằng việc thu thêm các khoản là cần thiết, với mục đích nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Tuy vậy đa số các giáo viên thì cho rằng, đó là việc không nên làm vì sẽ làm xấu đi hình ảnh của nhà trường. Thấy Tuấn, một giáo viên ở Hà nội cho biết:

“Nghe thì rất là nhân văn, nhưng thực sự những khoản đóng góp đó các cháu có tiền đâu, tiền đó là tiền bố mẹ của các cháu đóng góp mà. Các cháu đã làm ra tiền đâu để mà đóng góp các quỹ ấy?”

Nguyên nhân chính của việc lạm thu này là do phương pháp vận động của Hiệu trưởng và nhà trường làm chưa tốt, còn yếu kém nên nhân dân chưa hiểu và chưa đồng tình. Chúng tôi sẽ chỉ đạo tiến hành các bước để kiểm điểm Hiệu trưởng và lãnh đạo nhà trường có việc lạm thu. Nếu có sẽ kỷ luật

Ông Nguyễn Cường

Bộ GD&ĐT đã làm gì

Bộ GD&ĐT đã có rất nhiều văn bản, chỉ thị yêu cầu chấn chỉnh việc thu thêm trong các trường học. Ông Nguyễn Cường, cán bộ Vụ Pháp chế, Bộ GD&ĐT khẳng định:

“Nguyên nhân chính của việc lạm thu này là do phương pháp vận động của Hiệu trưởng và nhà trường làm chưa tốt, còn yếu kém nên nhân dân chưa hiểu và chưa đồng tình. Chúng tôi sẽ chỉ đạo tiến hành các bước để kiểm điểm Hiệu trưởng và lãnh đạo nhà trường có việc lạm thu. Nếu có sẽ kỷ luật.”

Trả lời câu hỏi cần có biện pháp nào để hạn chế và dần tiến tới chấm dứt tình trạng lạm thu trong các trường học?

Vị chuyên gia giáo dục khẳng định:

“Vô cùng đơn giản. Chỉ cần cách chức ngay lập tức Hiệu trưởng khi xác minh có tình trạng này trong nhà trường do ông ta phụ trách. Chỉ cần cách chức một ông thì trật tự được lập lại ngay. Nhưng khổ nỗi cấp trên không dám cách chức, vì sao thì ai cũng rõ.”

Tuy nhiên cũng cần quan tâm tới những nhu cầu chi tiêu chính đáng của nhà trường, vì có một số khoản chi là thực sự cần thiết, nhưng nhà trường không có nguồn. Vị chuyên gia giáo dục đề xuất giải pháp:

“Cũng cần quan tâm tới những nhu cầu chi tiêu chính đáng. Muốn cho minh bạch thì Nhà nước cần quy định mức học phí cao hơn hiện nay. Với số tiền học phí này, các nhà trường có thể chi dùng cho những việc cần thiết kể cả việc mua sắm các trang thiết bị. Với học sinh nghèo học giỏi, sẽ trích từ đó để có học bổng và tất cả số tiền này được quản lý theo những nguyên tắc chi tiêu ngân sách.”

Trong thực tế những khoản thu được nói là tự nguyện đóng góp nhưng nếu học sinh không đóng thì sẽ bị nhà trường kỷ luật. Trong khi đó những khoản thu được chi thế nào cũng là chuyện khuất tất, khiến nhiều người hoài nghi đặt ra câu hỏi: liệu môi trường giáo dục Việt Nam hẳn đã biến thành một môi trường kinh doanh, nhằm trục lợi cho một số cá nhân trong ngành giáo dục, mà cha mẹ học sinh là những miếng mồi ngon của họ!

Một trường hợp đi, về, và gặp nạn

Một trường hợp đi, về, và gặp nạn

GS Nguyễn Văn Tuấn

10-9-2015

Câu chuyện được tác giả Vũ Thị Nhuận thuật lại dưới đây là một trường hợp tiêu biểu của tình trạng đối xử không tốt với người đi học ở nước ngoài về (1). Câu chuyện nghe quen thuộc: sinh viên nhận được học bổng nước ngoài đi học; về nước thì không được trọng dụng và trù dập; khi nạn nhân rời trường sang một trường khác thì bị trường cũ kiện ra toà để … đòi tiền. Mà, tiền thì của nước ngoài. Đáng chú ý là câu chuyện xảy ra ở miền Tây Nam Bộ, nơi bị thiệt thòi nhất về giáo dục và khoa học, và rất cần các chuyên gia lành nghề.

Câu chuyện hơi dài, nhưng tôi tóm lược các sự kiện chính như sau:

1. Năm 20XX (không thấy nói rõ), cô Vũ Thị Nhuận, lúc đó là giảng viên của ĐH Cần Thơ, nhận được học bổng từ ĐH Kyushu để theo học tiến sĩ ngành sinh hoá. Sau khi hoàn tất chương trình học, Ts Vũ Thị Nhuận về ĐH Cần Thơ.

2. Khi về ĐH Cần Thơ, Ts Nhuận không được bổ nhiệm vào làm việc đúng chuyên môn. Theo như đơn mô tả, Ts Nhuận có những ý kiến “không giống họ” (họ ở đây có nghĩa là hội đồng khoa học của trường), nên chị bị trù dập và cô lập. Họ còn nói rằng Ts Nhuận “không làm việc bằng những tiến sĩ khác, không cống hiến nhiều bằng người có trình độ.”

3. Vì chịu không nổi sự cô lập, nên Ts Nhuận làm đơn xin nghỉ việc, và xin đi làm nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ ở Viện Y Khoa của Đại học Tokyo (không thấy nói năm nào). Tuy nhiên, trong đơn thấy nói rằng ngày 10/3/2011, Ts Nhuận đệ đơn xin nghỉ việc, nhưng ĐH Cần Thơ không trả lời.

4. Đến tháng 10/2014 thì Ts Nhuận được ĐH Y Dược Cần Thơ bổ nhiệm làm giảng viên. Tháng 11/2014, ĐH Cần Thơ phản ứng bằng cách cắt bảo hiểm xã hội, và đâm đơn kiện đòi bồi thường 569 triệu đồng (tức khoảng 28,000 USD). Đọc qua đơn kiện của ĐH Cần Thơ rất buồn cười, sai chính tả tùm lum cả.

Thế là Ts Vũ Thị Nhuận viết đơn cầu cứu đến Bộ trưởng Phạm Vũ Luận. Không biết ông bộ trưởng sẽ giải quyết sao, nhưng tôi thấy những trường hợp như thế này khá phổ biến. Mấy hôm trước báo Tuổi Trẻ có đi một loạt bài về tình trạng các du học sinh được đào tạo bài bản ở nước ngoài về nhưng không được trọng dụng. Nhiều du học sinh khi về nước cảm thấy hụt hẫng (3), và một số lại tiếp tục ra đi không hẹn ngày quay lại.

Chuyện đòi tiền cũng khá phổ biến. Khi không bổ nhiệm người ta đúng vị trí và chuyên môn (có thể hiểu là một cách “đày đoạ” hay hạ nhục), để khi nạn nhân chịu không nổi phải ra đi, thì giở chiêu trò … đòi tiền. Phải nói chiêu trò này tuy rất thô và rất thấp, nhưng có hiệu quả tuyệt vời trong việc làm nhụt chí nạn nhân. Riêng trường hợp của cô Vũ Thị Nhuận thì tôi không rõ đòi tiền gì, khi cô ấy được phía Nhật đài thọ chi phí học hành và ăn ở. Đòi tiền không phải của mình thì quả là rất lạ.

Vả lại, tôi thấy trường hợp cô Nhuận dù có rời ĐH Cần Thơ thì cô ấy vẫn làm ở Cần Thơ (ĐH Y Dược), chứ có đi ra nước ngoài đâu mà mất. Không cống hiến được cho ĐH Cần Thơ thì cống hiến cho ĐH Y Dược Cần Thơ. Nhìn “bức tranh lớn” thì Cần Thơ (và Việt Nam) không hề đánh mất cô Nhuận. Vậy thì việc kiện đòi tiền cô ấy có vẻ như là một thái độ trả đũa, thua trong việc dụng nhân tài thì kiện cho bõ ghét. Nếu thế thì phải nói rằng việc đâm đơn kiện của ĐH Cần Thơ là một hành động quá thấp của một trung tâm mang danh học thuật.

Việt Nam đang ra sức mời gọi các chuyên gia từ nước ngoài về đóng góp cho khoa học nước nhà. Ngoại trừ những người dỏm và nổ, những nhà khoa học chân chính ở nước ngoài sẽ suy nghĩ trăm lần trước khi đáp lời kêu gọi khi những sự việc như trường hợp của Ts Vũ Thị Nhuận xảy ra khá thường xuyên. Người trong nước mà còn chưa được trọng dụng thì làm sao thuyết phục được người ở ngoài nước. Miền Tây lúc nào cũng kêu là thiếu chuyên gia, nhưng trớ trêu thay chuyên gia thứ thiệt thì lại không được trọng dụng!

Tôi phải nói thêm rằng ở nước ngoài, người ta đang có trào lưu “săn” người tài trong lĩnh vực nghiên cứu y khoa (4). Các viện nghiên cứu và đại học — không chỉ ở Mĩ mà khắp thế giới, từ Nhật sang Úc và Âu châu — đều có chiến dịch săn lùng các nhà khoa học có chuyên môn cao. Ngay cả Viện Garvan cũng đang có chiến dịch này. Người ta xem đó là một “cuộc chiến” giữa các viện nghiên cứu, cuộc chiến để giành người xuất sắc. Ấy thế mà ở Việt Nam, nơi rất rất thiếu những người có chuyên môn về khoa học cơ bản như cô Nhuận, thì lại có những trường đại học trù dập người tài, và có lẽ đó là lí do giải thích tại sao đất nước này khó khá nổi.

____

Nguồn:

(1) Đơn kêu cứu (BVN).

(2) Có thể xem tài liệu qua facebook

(3) Hụt hẫng ngày trở lại… (TT).

(4) The Battle for Biomedical Supremacy (NYT).

(5) Tôi phải nói thêm rằng nếu cô Nhuận đồng ý, nhóm chúng tôi sẽ rất hân hạnh thảo luận với cô về tham gia một lab nghiên cứu ở ĐH Tôn Đức Thắng.

Việt Nam sửa đổi các luật cho phù hợp với cam kết trong TPP

Việt Nam sửa đổi các luật cho phù hợp với cam kết trong TPP

RFA
2015-09-09

Trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ, tại Thủ đô Washington DC hôm 9/9/2015  Chủ tịch Quốc hội Việt Nam tái khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương nhất quán của Việt nam. Ông Hùng đã phát biểu như vậy khi gặp gỡ Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Michael Froman.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh rằng, Quốc hội Việt Nam nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc xem xét sửa đổi các luật cho phù hợp với những cam kết trong TPP Hiệp định Đối tác XuyênThái Bình Dương.

Theo giới quan sát, phát biểu của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam tái xác định sự kiện Việt Nam chấp nhận cải tổ chính trị, trong đó có việc công nhận hình thức công đoàn độc lập và người lao động có quyền chọn lựa tham gia.

Cùng ngày hôm qua 9/9, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã có cuộc gặp thân mật với Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry. Theo tin Thống Tấn xã Việt Nam, trao đổi về vấn đề Biển Đông, hai bên nhất trí tăng cường hợp tác nhằm duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông vì lợi ích chung của khu vực và thế giới. Phía Hoa Kỳ nhất trí với lập trường của Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp, bằng biện pháp thương lượng hòa bình, dựa trên nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.

Ngoài ra Ngoại trưởng John Kerry cho biết sẽ tăng cường hợp tác với Việt nam và các nước trong khu vực trong việc bảo vệ, gìn giữ và khai thác có hiệu quả tài nguyên sông Mekong. Hoa kỳ cũng giúp đỡ Việt Nam trong việc đối phó với những nguy cơ của biến đổi khí hậu, nhất là vấn đề nước biển dâng cao hiện nay.

Ngoại trưởng John Kerry cho biết sẵn sàng  giúp đỡ Quốc hội Việt Nam trong quá trình xây dựng, sửa đổi các bộ luật phù hợp với Hiến pháp mới 2013; tăng cường hợp tác với Việt Nam trong các vấn đề nhân đạo và khắc phục hậu quả chiến tranh như chất da cam Dioxin và rà phá bom mìn còn sót lại.

Lại cưỡng chế đất, đánh người ở Phúc Đồng, Long Biên, Hà Nội

Lại cưỡng chế đất, đánh người ở Phúc Đồng, Long Biên, Hà Nội

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-09-10

 

09102015-land-conflict.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Tập đoàn Him Lam cưỡng chế đất tại phường Phúc Đồng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội để làm sân golf

Tập đoàn Him Lam cưỡng chế đất tại phường Phúc Đồng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội để làm sân golf

Facebook/NguyenVinh

Một vụ tranh chấp, xô xát đất đai vừa xảy ra vào ngày 9 tháng 9 vừa qua tại phường Phúc Đồng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Chính quyền cưỡng chế cho doanh nghiệp

Thông tin về vụ việc liên quan tranh chấp đất đai mới nhất xảy ra trên địa bàn thủ đô Hà Nội được một số facebooker quan tâm loan đi, thế nhưng mãi một ngày sau chúng tôi mới có thể liên lạc với gia đình người trong cuộc.

Cháu Hoàng Công Thiện, con của ông Hoàng Công Kiểm, chủ nhân của hộ gia đình có đất tranh chấp  vào trưa ngày 10 tháng 9 trình bày lại sự việc như sau:

“ Hôm qua bên Sân Golf họ thuê công an quận, và công an phường Phúc Đồng tổng cộng chừng 600 người trong khi gia đình cháu chỉ có mười mấy người thôi. Họ đến nhà mà giấy thu hồi đất không có, giấy đền bù không có, giấy cưỡng chế không có. Họ không có một giấy tờ gì và nói xuống để bảo vệ thi công; thế nhưng họ không bảo vệ thi công mà xộc vào nhà. Họ lôi người nhà cháu ra, cứ 10 người khênh một người nhà cháu lên xe đưa về phường Phúc Đồng. Trong khi khênh người đưa về phường họ đã đánh mẹ cháu gãy xương sườn số 7, em cháu có thai 6 tháng bị đạp vào người này còn kêu đau. Quanh nhà bị quây tôn. Ngày hôm qua trong khi bắt người họ thu hết điện thoại, còn mấy cái đang sạc pin trong nhà họ cũng vào cướp hết”

Vụ việc chưa được giải quyết thỏa đáng

Vào cuối tháng 7 vừa qua, trên facebook xuất hiện đơn kêu cứu của  cháu Hoàng Công Thiện. Theo đó gia đình từ năm 1988 đến nay sống trên khu đất 4 ngàn mét vuông tại tổ 3, phường Phúc Đồng, Quận Long Biên yên ổn không tranh chấp với ai;  thế nhưng khi có dự án Sân golf của Tập đoàn Him Lam, thì mảnh đất được ra giá; gia đình không đồng ý với giá được đưa ra dù tăng lên đến lần thứ ba và cơ sự đã xảy đến như lời của Hoàng Công Thiện:

“ Đất đai của nhà cháu gồm 4 ngàn mét vuông gồm 1 ngàn mét đất ở, và 3 ngàn mét đất đường đi. Họ quây mất 3 ngàn mét đất đường đi. Gia đình ở tại tổ 3 Phường Phúc Đồng này từ năm 1988 đến nay. Gia đình có giấy đất khai hoang và xác nhận của công an ở từ năm 1988, cũng có giấy đóng thuế nhà đất từ năm 1988 đến bây giờ. Tranh chấp xảy ra cách 6 tháng đổ về đây; thấy bảo rằng Sân Golf có đưa cho phường và quận đền bù cho gia đình 3 tỷ; nhưng gia đình chẳng thấy 3 tỷ đó đâu mà lại bị đẩy vào đất vô chủ. Thế nhưng gia đình có đầy đủ giấy tờ xác nhận đó không phải là đất vô chủ. Phường giờ nói đền bù 3 ngàn mét rơi vào 600 triệu; nhưng ra phường không giải quyết, lên quận không giải quyết; lên thành phố lại bảo về huyện.”

Vụ việc xảy ra lần thứ nhất được cho biết vào ngày 8 tháng 7 với một lực lượng chức năng gồm chừng 200 người. Và vào ngày 9 tháng 9 vừa qua số người tăng gấp ba theo như trình bày của người trong cuộc.

Chánh văn phòng, kiêm phát ngôn nhân quận Long Biên, ông Đàm Văn Huân, vào chiều ngày 10 tháng 9, trả lời câu hỏi của Đài RFA về vụ việc gia đình ông Hoàng Công Kiểm thuộc quận này như sau:

“ Gia đình ông Hoàng Công Kiểm không thuộc diện giải phóng mặt bằng mà cản trở thi công nên chúng tôi đến để bảo vệ thi công. Còn chuyện đánh người và bắt người không có.”

Nguyên trưởng Ban Giải phóng Mặt bằng Quận Long Biên, ông Nguyễn Thiệu Sơn đồng thời là quận ủy viên cũng có ý kiến về vụ việc đất đai của gia đình ông Hoàng Công Kiểm tại tổ 3 phường Phúc Đồng, quận Long Biên, Hà Nội:

“ Tôi khẳng định với ông việc cưỡng chế đối với ông Kiểm hoàn toàn đúng trình tự và qui định của pháp luật. Còn ông Kiểm muốn khiếu nại hoặc tố cáo, hoặc khởi kiện thì pháp luật Việt Nam rất dân chủ, ông có quyền khởi kiện hoặc khiếu nại, hoặc tố cáo ra các cơ quan pháp luật của Việt Nam như Tòa án Nhân dân quận, thành phố hoặc tối cao hoặc cơ quan hành chính như ủy ban nhân dân quận, ủy ban nhân dân thành phố. Tất cả những việc đó sẽ được giải quyết bằng những quyết định và bản án theo qui định của pháp luật.”

Nhiều vụ còn ‘treo’

Vụ việc đất đai của gia đình ông Hoàng Công Kiểm tại Phúc Đồng, Long Biên, Hà Nội là một trong rất nhiều vụ việc mà người dân trong cuộc phẩn uất vì cho rằng họ bị lấy đất một cách bất công.

Một nhà hoạt động tại Hà Nội, anh Trương Văn Dũng, cho biết về điểm này:

“ Ở Việt Nam những vụ việc cá nhân như của gia đình ông Hoàng Công Kiểm thì nhiều lắm; nói cho hết là từ nam ra bắc kia.”

Một vụ việc liên quan đến nhiều hộ gia đình người dân đến nay vẫn còn dằng dai là dự án Ecopark tại ba xã Cửu Cao, Xuân Quang, Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Người dân phản đối việc chính quyền thu hồi đất canh tác của họ để giao cho công ty tư nhân Việt Hưng để triển khai dự án. Trong khi dân chưa đồng ý thì chính quyền địa phương mạnh tay cưỡng chế.

Ngay tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội người dân Dương Nội cũng tiếp tục đấu tranh đòi lại đất đai được xem là tư liệu sản xuất của họ; thế nhưng chính quyền địa phương quyết thu hồi để làm dự án mà suốt gần chục năm qua vẫn còn treo.

Đại hội Đảng ở Việt Nam và nhân tố Trung Quốc

Đại hội Đảng ở Việt Nam và nhân tố Trung Quốc

Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp hồi giữa năm ngoái, khi căng thẳng trong quan hệ Việt - Trung dâng cao vì giàn khoan dầu 981.

Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp hồi giữa năm ngoái, khi căng thẳng trong quan hệ Việt – Trung dâng cao vì giàn khoan dầu 981.

VOA Tiếng Việt

09.09.2015

Bộ Chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam đang bị chia rẽ sâu sắc và chưa đạt được đồng thuận về một số vấn đề, trong đó có biển Đông, quan hệ với Trung Quốc cũng như việc lựa chọn ban lãnh đạo tương lai, một chuyên gia nghiên cứu Việt Nam nhận định.

Giáo sư Carl Thayer nói thêm từ Australia rằng việc bất đồng như vậy có thể dẫn tới việc hoãn Đại hội 12 và dời sang một ngày khác muộn hơn.

Việt Nam tổ chức Đại hội đảng 5 năm một lần, và đại hội lần thứ 12 dự kiến sẽ diễn ra vào đầu năm 2016, nhưng ngày giờ cụ thể tới nay vẫn chưa được công bố.

Theo giáo sư kỳ cựu, chuyên nghiên cứu về Việt Nam, việc chuẩn bị cho đại hội quan trọng lần này nhằm bầu chọn đội ngũ lãnh đạo mới cho Việt Nam đã diễn ra “rất thầm lặng so với 8 đại hội trước đó tính từ khi thống nhất đất nước”.

Về các động thái đó, giáo sư Carl Thayer nhận định: “Điều gì giải thích cho các diễn biến, như sự chuẩn bị lặng lẽ một cách bất thường cho Đại hội Đảng, chậm trễ trong việc tổ chức hội nghị tiếp theo của Ban chấp hành Trung ương và việc hoãn công bố Sách trắng Quốc phòng? Lời giải thích khả dĩ nhất là sự chồng chéo của hai vấn đề gây tranh cãi – yếu tố Trung Quốc (Chủ tịch kiêm Tổng Bí thư Tập Cận Bình được cho là sẽ thăm Hà Nội vào tháng 10 hoặc tháng 11) và việc lựa chọn ban lãnh đạo mới của Việt Nam”.

Với hai nhiệm kỳ làm thủ tướng, ông Dũng sẽ có các kinh nghiệm kinh tế và quốc tế vô song cho vị trí Tổng Bí thư. Ông Dũng cũng ít khả năng sẽ để cho ý thức hệ ràng buộc ông ấy trong khi đối phó với Trung Quốc. Ông đã mạnh lẽ tiếng tiếng bảo vệ chủ quyền và dọa sẽ có hành động pháp lý quốc tế đối với Trung Quốc trong khi xảy ra cuộc khủng hoảng liên quan tới giàn khoan dầu [của Trung Quốc] hồi năm ngoái.

Giáo sư Carl Thayer nhận định.

Ông Carl Thayer cũng nhắc tới khả năng sẽ xảy ra một điều “chưa từng có tiền lệ trên chính trường Việt Nam”.

Ông cho rằng hiện có nhiều đồn đoán cho rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang tìm cách trở thành Tổng Bí thư kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng và muốn được miễn áp dụng quy định phải nghỉ hưu ở tuổi 65.

“Với hai nhiệm kỳ làm thủ tướng, ông Dũng sẽ có các kinh nghiệm kinh tế và quốc tế vô song cho vị trí Tổng Bí thư”, giáo sư nghiên cứu về Việt Nam nhận định tiếp.

“Ông Dũng cũng ít khả năng sẽ để cho ý thức hệ ràng buộc ông ấy trong khi đối phó với Trung Quốc. Ông đã mạnh lẽ tiếng tiếng bảo vệ chủ quyền và dọa sẽ có hành động pháp lý quốc tế đối với Trung Quốc trong khi xảy ra cuộc khủng hoảng liên quan tới giàn khoan dầu [của Trung Quốc] hồi năm ngoái”.

Ông Carl Thayer cho rằng ông Dũng nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các Ủy viên Trung ương Đảng trong bối cảnh Bộ Chính trị đang bị chia rẽ sâu sắc, không chỉ vì sự ganh đua về mặt cá nhân mà còn về cả cách tiếp cận trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Theo giáo sư này, Việt Nam dự định đón tiếp cả Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Barack Obama vào cuối năm nay.

‘Cuộc chơi ba bên’

Trong khi đó, một tờ báo thuộc cơ quan Ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc từng đăng bài bình luận cho rằng 2015 sẽ là năm căng thẳng chính trị ở Việt Nam trong khi chuẩn bị cho Đại hội 12 với việc bầu ban lãnh đạo chóp bu mới, đồng thời nhận định rằng Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đang nhắm tới chiếc ghế Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thủ tướng đương quyền của Việt Nam có lẽ đang nhắm tới vị trí hàng đầu của đảng cầm quyền. Trong nền chính trị chia rẽ ở Việt Nam, ông Dũng, một đại diện của phe thân Mỹ, có lẽ sẽ mạnh mẽ thay đổi chiến lược quốc gia và chính sách ngoại giao của Việt Nam để hợp tác nhiều hơn với Mỹ.

Tờ Hoàn cầu Thời báo viết.

Tờ Hoàn cầu Thời báo nhận định: “Thủ tướng đương quyền của Việt Nam có lẽ đang nhắm tới vị trí hàng đầu của đảng cầm quyền. Trong nền chính trị chia rẽ ở Việt Nam, ông Dũng, một đại diện của phe thân Mỹ, có lẽ sẽ mạnh mẽ thay đổi chiến lược quốc gia và chính sách ngoại giao của Việt Nam để hợp tác nhiều hơn với Mỹ”.

Tờ báo cũng cho rằng Hoa Kỳ đang âm mưu sử dụng chiến thuật cách mạng màu cổ lỗ tại Việt Nam nhằm biến Hà Nội “thành một con tốt giống như Philippines để kiềm chế sự lớn mạnh của Trung Quốc”.

Hoàn cầu Thời báo cho rằng 2015 sẽ là “một năm sống còn” cho “cuộc chơi ba bên giữa Trung Quốc, Mỹ và Việt Nam”, và rằng trong năm nay, Trung Quốc “sẽ phải đối mặt với một tình thế còn căng thẳng hơn so với năm 2014” từ Việt Nam.

Ông Dương Danh Dy, cựu tổng lãnh sự Việt Nam ở Quảng Châu, nói với VOA Việt Ngữ rằng tờ Hoàn cầu Thời báo phản ánh quan điểm của chính phủ Trung Quốc.

Còn luật sư bất đồng chính kiến Lê Công Định nhận định trên Facebook: “Nếu đúng báo Hoàn Cầu viết như trích dẫn, thì rõ ràng Bắc Kinh đang lo ngại sự chuyển hướng chính sách ngoại giao của Việt Nam sang phía Mỹ dưới quyền lãnh đạo đảng và nhà nước của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Vậy Thủ tướng đang trở thành mối đe doạ của Bắc Kinh chăng? Giọng điệu của báo Hoàn Cầu thể hiện điều đó”.

Chủ tịch nước Nguyễn Tấn Dũng

Chủ tịch nước Nguyễn Tấn Dũng

Người Buôn Gió

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nguồn ảnh: Internet

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nguồn ảnh: Internet

Năm 2012 là năm gay go nhất đối với Nguyễn Tấn Dũng, sau khi suýt bị Bộ Chính Trị kỷ luật, ông Dũng đã buộc phải đứng giữa quốc hội, xin rút kinh nghiệm và kể lể công sức của mình phục vụ đảng từ lúc nhỏ để mong được tha thứ. Đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc lúc đó đã thẳng thừng đặt câu hỏi rằng liệu ông Dũng có nghĩ đến việc từ chức không? Đây là một câu hỏi thằng thừng mà chưa có tiền lệ đặt ra với lãnh đạo Việt Nam.

Liên tiếp năm 2013 đến 2014 Nguyễn Tấn Dũng phải đối mặt với hàng loạt hướng tấn công từ các đối thủ của mình. Sức tấn công mạnh nhất vẫn từ hướng của Nguyễn Bá Thanh vào vụ án Vinashin. Trong lúc đó Nguyễn Phú Trọng liên tục mở những cuộc chấn chỉnh đảng, phê bình và tự phê bình, những điều đảng viên không làm để nhằm triệt hạ bằng được Nguyễn Tấn Dũng.

Nhưng cái chết bất ngờ của Nguyễn Bá Thanh đã làm đình trệ công cuộc chống tham nhũng hướng vào Nguyễn Tấn Dũng. Kỳ thực, cuộc chống tham nhũng đó chỉ là cái tên của một chiến dịch thanh toán nhau trong nội bộ ĐCSVN, bởi tất cả lãnh đạo cộng sản nào cũng tham nhũng, kể cả Nguyễn Bá Thanh.

Nguyễn Tấn Dũng đã có một điểm mạnh mà không có đối thủ nào của ông ta có được. Đó là khả năng biết chia tiền, chia nguồn thu, lợi lộc cho các đồng chí. Tính quyết đoán khi cần thanh toán đối thủ hoặc có thể nhẫn nhịn làm hoà. Những khả năng thường có ở những ”Bố Già” thượng thặng. Nhờ vậy Nguyễn Tấn Dũng nắm gần hết lá phiếu của ban chấp hành trung ương Đảng để biểu quyết cho mình, thoát được vụ kỷ luật của Bộ Chính Trị năm 2012 và các đợt tấn công những năm sau đó. Để đến năm 2015, sau hai kỳ đại hội trung ương trong năm này, Nguyễn Tấn Dũng nắm gần hết quyền lực trong đảng cộng sản. Một trong những đối thủ nặng ký với Dũng là Phùng Quang Thanh bất ngờ đổ bệnh giữa năm 2015, buộc phải làm đơn xin không ứng cử nhiệm kỳ tới đây vào năm 2016 vì lý do sức khoẻ.

Việc đổ bệnh của Phùng Quang Thanh dập tắt hoàn toàn những đốm lửa le lói còn lại từ chiến dịch của Nguyễn Bá Thanh muốn tấn công Nguyễn Tấn Dũng.

Con đường của Nguyễn Tấn Dũng thênh thang hơn bao giờ hết. Các đối thủ tấn công, người thì đột tử, đột bệnh hoặc trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, an phận. Đối thủ có thể cạnh tranh với Dũng bây giờ là Trương Tấn Sang. Nhưng dường như Nguyễn Tấn Dũng không bận tâm đến Sang nhiều. Sang là một kẻ bất tài, không có thực lực, không tạo được vây cánh, cả sự nghiệp lãnh đạo của Sang không có một dấu ấn nào cho thấy Sang có năng lực. Bất quá chỉ là những lời nói ”lạ” gãi đúng bức xúc của dân chúng, ngoài ra không có gì khá hơn. Nếu một kẻ như Sang có ngồi vào trước ghế TBT nhiệm kỳ tới cũng là điều Dũng chấp nhận được.

Tất cả những vị trí trọng yếu như thủ tướng, bộ trưởng công an, bộ trưởng quốc phòng, chủ tịch quốc hội tới đây đều là tay chân thân tín của Nguyễn Tấn Dũng. Vì vậy Dũng chẳng khó khăn gì, khi để chức TBT Đảng CSVN cho người hữu danh vô thực như Sang duy trì bóng ma hồn cốt của chế độ Cộng Sản, làm bình phong cho Dũng thao túng chính trường.

Trong chế độ cộng sản Việt Nam, chức thủ tưởng, chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước chỉ là bù nhìn so với Tổng Bí Thư. Nguyễn Tấn Dũng đã thành công trong việc biến chức thủ tướng vốn ít quyền hành trước kia, thành chức có nhiều quyền lực, ảnh hưởng nhất so với các thủ tướng tiền nhiệm như Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải. Chắc chắn tương lai ở cương vị chủ tịch nước, với bộ sậu đàn em dưới trướng, Nguyễn Tấn Dũng sẽ biến chức chủ tịch nước vô vị bấy lâu thành một chức vị quyền lực mạnh nhất, lớn nhất đất nước.

Nếu Dũng làm TBT, mặc nhiên vị trí của Dũng sẽ gây khó khăn cho các đàm phán với quốc tế trước đây.  Tầm hoạt động của Dũng bị gò bó trong khuôn khổ nội bộ đất nước. Việc giao tiếp với các nước tư bản hay không cộng sản sẽ trắc trở về thủ tục ngoại giao và danh nghĩa. Ở cương vị CTN Nguyễn Tấn Dũng vẫn có danh chính, ngôn thuận để tiếp xúc thoả thuận bên ngoài và chỉ đạo trong nước thực hiện những đàm phán, thoả thuận đó.

Khả năng Dũng đạt được hai chức Tổng Bí Thư và Chủ Tịch Nước như dư luận đồn đoán là khó xảy ra. Bởi Trung Quốc sẽ không cho phép Việt Nam được bắt chước mô hình Trung Quốc bây giờ. Trừ những thủ đoạn cai trị, trấn áp người trong nước và đối phó với phương Tây bằng thái độ thù địch là được cho phép học tập, áp dụng triển khai ngay. Còn những cải cách khác về kinh tế, chính trị, Việt Nam chỉ được Trung Quốc cho phép làm theo khi cải cách đó có ở Trung Quốc từ 5 năm trở lên.

Trung Quốc đang ráo riết âm mưu ngăn cản Việt Nam chịu ảnh hưởng của Phương Tây. Cho nên một TBT kiêm CTN mà có con rể, con gái quốc tịch Hoa Kỳ như con của Dũng là điều Trung Quốc đương nhiên là không muốn.

Để cân bằng quan hệ quốc tế và quyền lực nội bộ bên trong cùng với những đòi hỏi của dân chúng về một nhà nước pháp quyền, những nhu cầu cấp thiết cần cải cách về kinh tế, pháp luật, nhân quyền, hành chính đồng thời vẫn đảm bảo sự tồn tại của Đảng CSVN mà không gây xáo trộn xã hội bất ngờ. Chắc chắn Nguyễn Tấn Dũng phải làm Chủ Tịch Nước.

Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: Hai bản tuyên ngôn độc lập

Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: Hai bản tuyên ngôn độc lập

Phạm Cao Dương

VietCatholic News

70 năm nhìn lại: Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh: HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Trong lich sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh. Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.

(A) TUYÊN NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI

Hoàn cảnh được công bố

Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng xã hội chủa nghĩa vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của của bản tuyên ngôn này. Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại”[1] không hơn không kém.

Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm Thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói được Trần Trọng Kim kể lại như sau:

“-”Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải dứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.”[2]

Người ta cần phải nhớ là hơn mươi năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời nhà vua còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của ông trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại. Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim “chịu khó” lập chính phủ mới. Ông Bảo Đại nói :

-“Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”[3]

Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn.” Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta.” Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được. Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác, như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.

Nội dung bản Tuyên ngôn

Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ hòa ước Triều Đình Huế đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng thành của nước Nhật với nguyên văn như sau:

“ “Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.

“ Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung.

“Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.[4]

Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thượng thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình.

Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:

Thứ nhất: Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển một trong hai phía đã không tôn trọng những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong..[5] Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Hoàng Đế Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn hay trực tiếp hơn từ Vua Tự Đức, căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này.

Điểm cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường đứt cho người Pháp là và trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Hoàng Đế Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận chứ không phải là do công lao của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến hay chỉ biết một cách lơ mơ. Một chi tiết khác cũng cần phải được chú ý ở đây là hai chữ “độc lập” đã được sử dụng tới hai lần: “nước Nam khôi phục quyền độc lập” và “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập”, trong một bản văn ngắn. Sau này chính Bảo Đại đã dùng danh từ “tuyên ngôn độc lập – proclamation d’indépendance” khi nói tới văn kiện này trong hồi ký của ông.

Thứ hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Ta cũng nên để ý tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói khéo léo nhằm ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật, một điều cả nhà vua và Chính Phủ Trần Trọng Kim luôn luôn quan tâm phòng ngừa.

Thứ ba: “Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc…”.”Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành của người Nhật với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.

Thứ tư: “”quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.””Mục đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á.”

Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.

Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?

Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại trong nhiều năm trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Bảo Đại, trong hồi ký của ông này xác nhận[6].

(B) BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HỒ CHÍ MINH

Hoàn cảnh được công bố

Bản tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh một mình soạn thảo, một mình đứng tên và đọc tại Quảng Trường Ba Đình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị.

Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đã đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Đại và đã được Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận. Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những gì Hoàng Đế Bảo Đại và Chính Phủ Trần Trọng Kim đã làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện công pháp quốc tế. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu. Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này rồi hay không? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần nữa?

Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ Chí Minh chắn phải biết là Bảo Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì?

Thứ nhất , là vì từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt[7], cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó.

Thứ hai , là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của ông này rằng: “Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.” [8]

Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ tịch là “Cụ Hồ Chí Minh” đã không biết Hồ Chí Minh là ai. Còn Phạm Khắc Hòe, người ở bên cạnh nhà vua và được Việt Minh móc nối cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Cộng Sản, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.[9]

Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử trước đó, trong đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật.

Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này, gọi, qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội[10] và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập”.[11] Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là “ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa”, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, “Chú phải nhớ…[12]

Tại sao vậy? Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược đươc. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” là nhằm vào mục tiêu này.

Nội dung bản Tuyên Ngôn

Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là bàn tuyên ngôn duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc hay để ý đến.

Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó, căn cứ vào sự bất lực của người Pháp không giữ được cam kết đã được ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này mà không nhằm vào một đối tượng quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước…”. Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác giả lại nhắm vào các nước Đồng Minh. Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.”” Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ còn hư vị; người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng kể công và nhất là xách động.

Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp. Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đă hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của họ, đồng thời khi tiếp xúc với họ, Hồ Chí Minh cũng nhận thấy rằng nói về lịch sử nước Mỹ với họ là một cách để chinh phục cảm tình của họ. Cũng vậy, với những gì chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp. Có điều sự trích dẫn nàychỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi.

Hồ Chí Minh không cần đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời ông. Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như-là-những-cá-nhân vào trường hợp Việt Nam như một – quốc – gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng ý riêng của mình. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.

Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật…”, sau đó “đ ã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.

Điều, như người viết đã nói ở trên, là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ trước khi người Nhật đầu hàng kể cả lấy lại xứ Nam Kỳ và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó. Lý do là vì Việt Minh “đã có đường riêng của họ rồi”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh. Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.

Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên…” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam… Phần này Hồ Chí Minh thay vì quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như – những – cá – nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai như là một cá nhân đều có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập của – cả – nước – Việt – Nam. Điều này hoàn toàn trái với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng, không thể hiểu sai được vì độc lập không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền.

Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”.” Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập. Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội.

Chính vì vậy Luật sư Trần thanh Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là một bản tuyên ngôn phi nhân quyền,[13] dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích dẫn và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương cách mạng bạo lực của những người Cộng Sản mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp điển hình.

Người ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và trong tình trạng tác giả của nó còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, Hồ Chí Minh đã xin một bản tuyên ngôn nhân quyền của người Mỹ rồi. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được. /-

Phạm Cao Dương

[1] Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.

[2] Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục).Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh Sơn, 1969. tr. 49.

[3] – nt – , tr. 51.

[4] Dương Trung Quốc, Việt Nam…, tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thời Đại Từ 1900 đến 1970, Quyển II. Saigon, ? , 1970. Fort Smith, AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.; S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris, Plon. 1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A Documentary History, Volume I: 1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam 1945, The quest for Power (Berkeley, University of California Press, 1995, tr. 71) có nói tới các bản tiéng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.

[5] Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine,Histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tome II, Paris, Adrien – Maisonneuve, 1956. tr. 809 – 812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 – 1945. Saigon,, ? ,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 – 328.

[6] Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987, tr. 16 -.

[7] S.M.Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 103

[8] Võ Nguyên Giáp, “Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên”, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 206, tr.. 255.

[9] Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Dình Huế…, tr. 76.

[10] Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114 – 115.

[11] Hồ Chí Minh, Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 – 823.

[12] – nt-, tr. 134.

[13] Trần Thanh Hiệp và Trương Giang, “Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền”, trên Nhật Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007. Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.

(*) Chú thích của Tòa sọan: Tác gỉa Phạm Cao Dương là Giáo sư, Tiến sỹ dạy môn Lịch sử và Văn hoá Việt Nam tại một số Đai học Mỹ

Báo Việt Nam đả kích phóng viên bị tước thẻ hành nghề

Báo Việt Nam đả kích phóng viên bị tước thẻ hành nghề

VOA

Nhà báo Đỗ Hùng của tờ Thanh Niên điện tử bị cách chức, rút thẻ hành nghề vì

Nhà báo Đỗ Hùng của tờ Thanh Niên điện tử bị cách chức, rút thẻ hành nghề vì “đụng chạm đến những biểu tượng thiêng liêng của dân tộc như Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.

VOA Tiếng Việt

08.09.2015

Một tờ báo ở trong nước mới viết rằng việc nhà báo Đỗ Hùng của tờ Thanh Niên điện tử bị cách chức, rút thẻ hành nghề là “bài học cho kẻ ngông cuồng”, và là “quả báo” vì “đụng chạm đến những biểu tượng thiêng liêng của dân tộc như Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.

Tờ Năng lượng mới (Petro Times) còn dẫn lời “nhiều người cho rằng, hình thức xử lý đó là xác đáng, là luật pháp đã được thực thi”.

Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn hôm 4/9 đã ký quyết định thu hồi thẻ nhà báo đối với ông Đỗ Hùng, Phó Tổng thư ký tòa soạn điện tử báo Thanh Niên, một ngày sau khi báo này “triệu tập phiên họp khẩn” để miễn nhiệm chức vụ đối với ông.

Bộ hay được các phóng viên gọi là 4T cũng yêu cầu tờ báo có số người đọc thuộc loại lớn ở Việt Nam phải nộp lại thẻ của nhà báo này trước ngày 18/9.

Cả báo Thanh Niên cũng như Bộ Thông tin và Truyền thông đều không nêu ra lý do cụ thể vì sao ông Hùng lại bị cách chức.

Trong bài viết đăng trên mục “Xã hội” hôm 8/9, tờ Năng lượng mới viết thêm rằng “Đỗ Hùng đã có nhiều lần sử dụng blog và mạng xã hội đăng tải những bài viết có nội dung sai trái, gây bức xúc trong cộng đồng suốt 2 năm qua”.

Tờ báo là cơ quan ngôn luận của ngành dầu khí Việt Nam còn sử dụng từ như “anh ta” hay gọi tên không chức danh để đề cập tới nhà báo Đỗ Hùng cùng với cách viết mang tính cáo buộc, một chiều, như thường thấy trong các thông tin về tội phạm mà công an Việt Nam từng phát cho báo chí.

Hiện trang Facebook cá nhân của ông Hùng không còn truy cập được, và VOA Việt Ngữ không thể liên lạc với ông để xin phỏng vấn.

Các nhà báo ở trong nước nhận định với VOA Việt Ngữ rằng nhà báo này vấp phải “sự cố” trên sau khi đăng một đoạn viết trên trang Facebook nhân ngày Quốc khánh 2/9, trong đó có nhắc tới ông Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Trong khi nhiều người cho rằng đoạn viết ngắn sử dụng toàn dấu sắc có tính chất hài hước, một số người khác lại nghĩ rằng nó giễu cợt những đóng góp của hai nhân vật trên.

Đoạn đó là một trong 5 bài viết bị tờ Petro Times nêu lên, coi đó là “một phần nhỏ trong những hành vi sai trái, những nội dung xấu mà Hùng phát tán trên Internet”.

Tờ báo này viết thêm: “Hùng treo trên facebook của mình bài “Quốc khánh” với sự giễu cợt, đả kích, xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cả ý nghĩa thiêng liêng của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9”.

Trong khi đó, blogger Đoan Trang, một người từng làm báo ở Việt Nam, viết trên trang Facebook cá nhân: “Không biết tuyên giáo và tòa soạn báo Thanh Niên căn cứ vào đâu để xử lý cách chức, thu hồi thẻ của một nhà báo đã viết một status hài hước trên facebook”.

Trong khi đó, nhiều phóng viên cũng đặt câu hỏi như blogger này, đồng thời bày tỏ lo ngại về nghề đầy rủi ro ở Việt Nam cũng như việc các nhà báo bị “vạ miệng” trên Facebook thời gian qua.

Một nhóm thậm chí còn lên tiếng vận động Bộ 4T trả lại thẻ nhà báo cho ông Hùng.

Cần một Quốc khánh mới cho VN

Cần một Quốc khánh mới cho VN

Võ Thị Hảo

RFA

  • Đặc xá cướp giết hiếp. Giam giữ tù lương tâm

Đợt đặc xá quy mô lớn của chính quyền VN trước 2/9/2015 với số lượng 18.298 tù hình sự đã khiến dư luận được một phen ngỡ ngàng.

Có phạm nhân giết người, tòa phạt 14 năm tù, nay ở  chưa được một nửa thời hạn đã tha bổng(có dư luận cho rằng do cô ta có thân hình bốc lửa và ở tù giùm cho một con ông cháu cha) !

Tội trộm cướp, tham nhũng, cướp giết hiếp, ma túy đều được đặc xá một cách  rộng rãi khác thường.

Riêng người có lương tâm, vô tội, chỉ đấu tranh cho sự thật và tự do nhân quyền như Trần Huỳnh Duy Thức, anh Ba Sàm, Tạ Phong Tần, Nguyễn Ngọc Già, Bùi Hằng.. và nhiều người khác thì cho đến nay vẫn bị giam cầm dù người VN và thế giới đã nhiều lần lên tiếng phản đổi.

Cung cách quản lý xã hội như vậy chính là đặc trưng của 70 vận hành chính thể sau cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2/9.

  • 70 năm dân thành “khách trọ“

Những ngày cuối tháng 8/2015, người VN chứng kiến tại Malaysia một sự kiện mà dù đã gần một thế kỷ mơ ước và gẳng gỏi, người VN cũng không thể có được. Người dân đã thực hiện quyền làm chủ đất nước và vận mệnh của mình bằng cách rầm rộ xuống đường biểu tình yêu cầu thủ tướng đương nhiệm Najib Rajak của họ phải từ chức chỉ vì phát hiện ra ông ta có dấu hiệu tham nhũng. Chính quyền không đàn áp họ, vì đó là quyền đương nhiên của dân, không ai có quyền xâm phạm.

Trong khi ở VN, nhà cầm quyền đàn áp tất cả những người ôn hòa bày tỏ nguyện vọng chống TQ xâm lấn lãnh hại, dân oan đi khiếu kiện và những người chống tham nhũng, những trí thức bất đồng chính kiền.

Đó là nghịch cảnh rõ ràng tố cáo bản chất của nền chính trị, thể hiện người dân là khách trọ hay là chủ trên đất nước của mình.

Người dân trong một nước tôn trọng dân chủ và nhân quyền thì mới thực sự có đất nước.

Tại VN, dân không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền thay đổi thể chế chính trị và nhà cầm quyền khi họ không làm những cảm kết trước dân, người dân đương nhiên chỉ là những kẻ  phải lưu vong trên chính Tổ quốc của  mình.

VN là một trong những thể chế chính trị độc tài cộng sản cuối cùng trên thế giới đã dùng những thủ đoạn khôn khéo để tồn tại, Cái gọi là thành quả đổi mới – thực chất là đổi mới nửa vời chỉ cốt để cứu thể chế chính trị cộng sản toàn trị VN khỏi sụp đổ dây chuyền theo hệ thống xã hội chủ nghĩa,  nới một chút nút thắt cổ người dân để họ làm kinh tế rồi bóc lột của họ tận xương tủy để làm giàu cho cá nhân.

Mặc dù đời sống kinh tế của người VN hiện nay có cao hơn so với thời cách đây 70 năm, nhưng trong cùng một thời gian đó, kinh tế các nước có cùng xuất phát điểm thấp như VN trong khu vực đã tăng cả 7, 8 lần.

Với bộ máy tham nhũng hiện nay, chi thường xuyên đã chiếm tới 72% ngân sách, tiền trả nợ lên tới 25%, chỉ còn khảng 3% ngân sách là chi cho đầu tư phát triển. Quan chức chính quyền, cơ quan đoàn thể nay còn không thèm giấu bộ mặt vô liêm sỉ, trơ trẽn tha hồ cấu kết với nhau cướp đoạt tiền của dân trên mọi lĩnh vực từ thuế phí chí, buộc dân phải hối lộ, đổi tiền lấy chữ ký trên mọi lĩnh vực, kể cả vay tiền nước ngoài hay cho phép đầu tưcng xuyên thất thoát, kém hiệu quả. Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nói „ Cứ vay tiền ào ào thì không phát triển đất nước, trả nợ không được thì đến ngày là sụp“.

  • “Một cổ ba tròng“

Tỉ lệ thuế và phí dân VN phải chịu  đóng/GDP cao từ 1,5 đến 3 lần các nước trong khu vực. là để nuôi tới 3 bộ máy chồng chéo chéo chức năng, nhiệm vụ với nhau: đảng cộng sản, chính phủ, các tổ chức  đoàn thể, chính trị xã hội trong Mặt trận tổ quốc từ TW tới địa phương.

Sau 70 năm cách mạng Tháng tám thành công, dân một cổ thêm ba tròng. Tiền thuế của dân đã phải trả cho giới cai trị bóc lột và để bảo vệ cho một chế độ xã hội bất công. Ông Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng Biên tập Báo Thanh niên đã nhận định rằng từ 50- 70% ngân sách nhà nước đã rơi vào túi quan tham. Người dân sẽ bị đàn áp nếu không chịu nô lệ, nhẫn nhục đóng thuế, phí nuôi bộ máy cai trị.

Lấy tiếng rằng nông dân được miễn giảm tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp,, nghe tưởng rằng nhà nước nhân đạo lắm, nhưng trên thực tế khác hẳn. Nông dân phải gánh trên 1.000 loại phí và lệ phí! Sự tham lam tàn bạo này chưa từng có trong lịch sử VN.

Sáng 10/8/2015, báo cáo  Ủy ban thường vụ QH tại phiên thảo luận dự thảo Luật phí và lệ phí cho biết, như với nông nghiệp, dù vừa qua đã ra soát bỏ nhiều loại nhưng vẫn còn 937 khoản phí và 90 lệ phí. Ông Nguyễn Sinh Hùng than: „một quả trứng mà gánh tới 14 loại phí thì đúng là …trời đất ơi(theo Vnexpress 10/8/2015 „Nông dân vẫn chịu trên 1000 loại phí và lệ phí“) .

Những lời hứa trịnh trọng được nêu trong Tuyên ngôn độc lập về thực thi quyền tự do, bình đẳng, quyền con người, điều đã khiến người VN tin và do đó đã dốc toàn lực ra ủng hộ Việt Minh và đảng cộng sản, qua 70 năm, càng ngày càng chứng minh rằng đó chỉ là mớ giấy lộn, một lá bùa hữu hiệu để chính quyền cộng sản độc tài cướp đoạt quyền con người, quyền tự chủ của người dân mà thôi.

  • Đặc trưngThời đại Hồ Chí Minh: huynh đệ tương tàn, tụt hậu xa so với thế giới, dân bị nô lệ hóa

Về việc tự vỗ ngực khen ngợi và che giấu những tội ác của mình, ít ai bằng đảng cộng sản VN. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói không một chút căn cứ thực tế :“ Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử VN, đánh dấu kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Trong khi đó, chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thừa nhận là VN đang đứng chót bảng xếp hạng tỏng nhóm ASEAN-6, thậm chí có lĩnh vực còng thấp hơn cả Lào, Campuchia, Myanmar, ba nước được coi là kém phát triển nhất trong khối.

Lời vỗ ngực tự khen trên của Nguyễn Phú Trọng cũng không khác gì lời tự khen trên xương máu những nạn nhân trong cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh cách đây gần 70 năm tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội VNDCCH: Luật cải cách ruộng đất của chúng ta là chí nhân chí nghĩa, hợp lý hợp tình…“.

* Cần cách mạng thể chế

70 năm minh chứng sự bất lương của thể chế độc tài cộng sản là đã quá đủ..

Thậm chí không một nỗ lực cải cách nào có thể thay đổi được nó về bản chất. Những người muốn cài cải cách như Trần Xuân Bách, Võ Văn Kiệt đã có quyền lực lớn nhưng cũng bó tay hoặc bị hãm hại vì cải cách là đụng đến quyền lợi riêng nhiều quan chức, chưa kể có một bộ máy tình báo Hoa Nam đứng đằng sau.

Nguyên nhân nào đã khiến người VN ngày nay nổi tiếng thế giới, nhiều nơi phải ghê tởm người VN khi VN liên tục xuất khẩu sự vô văn hóa, gái điếm, trộm cắp, buôn lậu, ma túy, sự giết chóc ra toàn thế giới? Những ác quỷ tàn sát cả mẹ cha, chồng vợ, bạn bè, thân chỉ vì vài đồng bạc từ đâu ra?

Đều là những sản phẩm của con đường vạch ra từ 70 năm trước.

Khi xã hội không có công bằng, người dân không tương lai, và hình mẫu của họ là những quan chức dối trá, cướp ngày thì được vinh thân phì gia, nhiều người dân, đặc biệt là lớp trẻ, sẽ tuyệt vọng và noi gương quan chức, cũng sống như ác quỷ.

Vì thế, cần một ngày Quốc khánh khác cho VN. Không phải quốc khánh đau thương và lọc lừa 2/9.

VTH