Bờ biển Việt Nam đang rơi dần vào tay Trung Quốc

Bờ biển Việt Nam đang rơi dần vào tay Trung Quốc

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-09-30
Không được để phố biển Đà Nẵng trở thành phố Tàu !

Không được để phố biển Đà Nẵng trở thành phố Tàu !

Báo Đời Sống Pháp Luật

Biển Việt Nam đang ngày càng hẹp dần bởi đường lưỡi bò của Trung Quốc, đây là câu chuyện có thể nói rằng hiện tại, hiếm có ai là không biết chuyện này. Nhưng, bờ biển Việt Nam đã và đang rơi dần vào tay Trung Quốc, người Trung Quốc có mặt trên toàn bộ các bãi biển đẹp của Việt Nam và nơi nào họ xây dựng, nơi đó bị sóng xâm thực nặng nề, điều này cũng giống như nơi nào có mặt người Trung Quốc trên dãy Trường Sơn, nơi đó trở nên trơ trọi. Chuyện này có vẻ như không mấy ai được biết, ngoại trừ các quan chức Việt Nam.

Việt Nam miễn thị thực cho người Việt định cư ở nước ngoài

Việt Nam miễn thị thực cho người Việt định cư ở nước ngoài

Du khách chờ lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhất.

Du khách chờ lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhất.

30.09.2015

Một nghị định mới của chính phủ Việt Nam cho phép người Việt ở hải ngoại, vợ hay chồng người nước ngoài và con cái của họ sang thăm Việt Nam mà không cần phải xin thị thực nhập cảnh.

Báo Thanh Niên hôm nay nói thêm rằng quy định duy nhất là họ phải có sổ thông hành có hiệu lực trong ít nhất là thêm một năm nữa, và trình giấy tờ cá nhân cho các cơ quan cấp visa trong khu vực. Họ sẽ được cấp giấy miễn thị thực có hiệu lực tối đa là 5 năm.

Người nước ngoài hiện ở tại Việt Nam có thể xin cấp giấy miễn thị thực tại Cục Quản lý xuất nhập cảnh Việt Nam.

Theo Thông tấn xã Việt Nam, Giấy miễn thị thực được cấp cho người nhập cảnh Việt Nam thăm thân nhân, giải quyết việc riêng. Giấy miễn thị thực sẽ được đóng vào sổ thông hành.

Biện pháp này là nhằm đẩy mạnh con số du khách tới thăm Việt Nam đã giảm mạnh trong năm qua.

Số du khách tới thăm Việt Nam trong tháng 9 chỉ lên tới 626,000 người, giảm 5,8% so với tháng trước đó, theo các số liệu của Tổng Cục Du lịch Việt Nam.

Mặc dù con số này tượng trưng cho mức tăng 8,3% so với cùng kỳ năm ngoái, tổng số du khách tới Việt Nam trong 9 tháng đầu năm đã giảm 5,9%.

Theo báo Thanh Niên, một số người quy cho tình trạng kinh tế toàn cầu khó khăn hơn, tuy nhiên giới truyền thông lưu ý rằng các nước láng giềng của Việt Nam ghi nhận số du khách tăng đáng kể trong cùng thời gian này.

Theo Thanh Nien, TTXVN

Ai đã ra lệnh giết Đức Thày Hùynh Phú Sổ?

Ai đã ra lệnh giết Đức Thày Hùynh Phú Sổ?

Tài liệu cần được công bố rộng rãi.

Ghi nhận của Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Sự kiện người cộng sản ra tay bắt cóc rồi sát hại Đức Thày Hùynh Phú Sổ, vị sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo vào ngày 16 tháng 4 năm 1947 tại khu vực miền Tây Nam Bộ – thì đã được nhiều người biết đến qua những chứng từ rõ ràng rất đáng tin cậy. Việc sát hại một vị lãnh tụ tôn giáo rất mực uy tín này đã gây ra những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng đối với đại khối quần chúng tín đồ vốn đa số là nông dân ở địa phương đồng bằng sông Cửu Long suốt bao nhiêu năm nay.

Thế nhưng, cho đến gần đây người cộng sản cũng chỉ nói vu vơ đại khái rằng : “Những sự việc đáng tiếc như thế là do địa phương làm sai trái – chứ không phải do cấp trên ở trung ương quyết định v.v…” Tuy vậy, giới nghiên cứu sử học vẫn tìm ra được các bằng chứng xác đáng liên hệ đến hành vi tội ác này là do giới lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản vào thời gian ấy. Xin trình bày vấn đề ngắn gọn như sau.

I – Vào năm 2000, bác sĩ Trần Ngươn Phiêu đã tiết lộ trong một bài báo rằng: “Có hai sử liệu hiện được lưu trữ tại Thư Viện Quốc Gia Pháp ở Paris, cụ thể như sau:

1- Quyết Định đề ngày 28 – 4 – 1947 của Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, do Phó Chủ tịch Phạm Ngọc Thuần ký: Cách chức Ủy viên Đặc biệt và Truy tố Hùynh Phú Sổ về tội phản bội.

2 – Thông Cáo ngày 20 – 5 – 1947 của Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ cho biết một phiên tòa đặc biệt được thành lập ngày 25 – 4 – 1947, đã lên án tử hình và cho hay đã xử tử Hùynh Phú Sổ.

(Các tài liệu này đã được nhà văn Như Phong Lê Văn Tiến phát hiện khi sang Pháp sưu tầm trong văn khố Thư viện Quốc gia Pháp – (Bibliothèque Nationale de Paris – Centre des Hautes Études sur l’Afrique et l’Asie Moderne – Notes sur le PGHH, Tác giả: Savani).

Bài báo khá nhiều chi tiết này của Bs Phiêu đã được đăng trên Việt Báo mà tôi đã tìm được trên online.

II – Và mới nhất đây, trong một bài báo phổ biến vào tháng 10 năm 2014, Giáo sư Shawn McHale giảng dậy tại Elliot School of International Affairs tại thủ đô Washington DC cũng đã tiết lộ rằng: “Thực ra, (việc xử tử nhà lãnh đạo Hòa Hảo Hùynh Phú Sổ) đó là một quyết định của tòan bộ Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, và Tướng Nguyễn Bình vị Tư lện quân sự cho miền Nam đã chấp thuận – (In fact, it was a decision of the entire Administrative Committee of Nam Bộ, and General Nguyễn Bình, military commander for the south, approved of it).

Trong phần Chú Thích, tác giả MCHale còn ghi nguyên văn chi tiết như sau:”I found a photograph of the order, signed by General Nguyễn Bình, this past summer in the French archives in Aix-en-Provence. See Indochine.Haut Commissariat de l’Indochine. Service de Protection du Corps Expéditionnaire dossier 385. BỐ CÁO CUẢ UỶ BAN HÀNH CHÁNH NAM BỘ. “VỤ ÁN HÙYNH PHÚ SỎ”. Ngày 27 tháng 5 năm 1947. (Signed:) NGUYỄN BÌNH.

Qua Ghi Chú này, thì chính Tướng Nguyễn Bình là vị có thẩm quyền cao cấp nhất tại Nam Bộ đã ký tên chấp thuận quyết định lên án và thi hành việc xử tử Giáo chủ Hùynh Phú Sổ vào năm 1947 vậy.

Và nếu coi kỹ lại, thì tài liệu do Giáo sư McHale ghi ở trên đây cũng chính là tài liệu số 2 như BS Phiêu đã ghi trong bài báo nói trên. Chỉ có điều khác là tài liệu do nhà văn Như Phong tìm ra thì được ghi là ở tại Thư viện ở Paris. Còn tài liệu do GS McHale nêu ra, thì ở tại Văn khố tại Aix-en Provence.

III – Tóm lược lại.

Theo sự hiểu biết của bản thân, thì tôi chưa được thấy phóng ảnh của 3 văn kiện nói trên được phổ biến ở đâu cả. Vậy tôi xin bà con, ai mà có bản phóng ảnh về các tài liệu này, thì xin vui lòng phổ biến rộng rãi cho công chúng được biết đến sử liệu có giá trị rất chính xác này.

Hoặc nếu chưa ai có, thì tôi xin các vị học giả đang cư ngụ tại Pháp vui lòng đến tìm kiếm mấy tài liệu đó và cho công bố để bà con được biết với. Mong lắm thay.

Costa Mesa California, Ngày Đầu Thu năm Ất Mùi 2015

Đoàn Thanh Liêm

Ghi chú:

Bài báo của Giáo sư Shawn McHale có nhan đề là “Caught Between Propaganda anh History” là bài Điểm sách về cuốn “Lịch sử Nam bộ Kháng chiến” do Hội Đồng chỉ Đạo Biên Sọan Lịch Sử Nam Bộ Kháng Chiến ấn hành năm 2010. Bài báo được đăng trong Tủ sách“Cold War International History Project”, October 2014

Hàng ngàn người Việt chết dần, chết mòn vì nhiệt điện chạy than

Hàng ngàn người Việt chết dần, chết mòn vì nhiệt điện chạy than

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Ðó là kết quả nghiên cứu của nhóm mô hình hóa học khí quyển thuộc Ðại học Harvard về “các tác động tới sức khỏe do gia tăng phát thải từ than” ở Ðông Nam Á và Việt Nam.

Tại hội thảo về “than và nhiệt điện dùng than” do Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID), thuộc Liên Hiệp Các Hội Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam tổ chức, GreenID dẫn nghiên cứu vừa kể để cảnh báo, hiện nay, mỗi năm, tại Việt Nam có khoảng 4,300 người Việt thiệt mạng do sức khỏe suy giảm, bởi tình trạng ô nhiễm từ nhiệt điện dùng than.


Một nhà máy nhiệt điện dùng than tại Việt Nam. (Hình: Tuổi Trẻ)

Nếu chính quyền Việt Nam tiếp tục cho phép đầu tư-vận hành các nhà máy nhiệt điện dùng than theo “qui hoạch” đã được phê duyệt thì số người thiệt mạng sẽ tăng lên thành 25,000 người/năm.

GreenID tính toán, quá trình đốt than để tạo điện sẽ thải vào không khí 15 triệu tấn tro, một lượng lớn các chất nguy hiểm (lưu huỳnh dioxit – SO2, oxit nitơ – NOx, carbon dioxit – CO2, thủy ngân, thạch tín,…). Những chất này sẽ phá hủy hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, tăng nguy cơ bị ung thư phổi, đột quị, mắc các bệnh về tim mạch, bệnh mãn tính hoặc bệnh truyền nhiễm về đường hô hấp… Chưa kể các loại khí sunfat và nitrat còn gây ra mưa axit, hủy hoại những dòng suối, những cánh rừng.

Ðáng ngại là theo GreenID, trong khi thế giới đang chuyển từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo thì Việt Nam quyết định đi theo chiều ngược lại. Một qui hoạch mang tên “Tổng sơ đồ điện VII” mà thủ tướng Việt Nam phê duyệt hồi 2011, xác định, đến năm 2020, các nhà máy phát điện bằng than sẽ chiếm 46.8% cơ cấu năng lượng của Việt Nam. Tới năm 2030, tỷ lệ này là 56.4%.

Sở dĩ các chuyên gia môi trường gọi “Tổng sơ đồ điện VII” là một kế hoạch hủy diệt môi trường, sức khỏe và tính mạng con người, bởi số người chết vì các nhà máy nhiệt điện dùng than cao gấp ba lần số người chết vì tai nạn giao thông, chưa kể chi phí khổng lồ do phải chăm sóc sức khỏe của các nạn nhân.

Vào lúc này, hàng chục nhà máy nhiệt điện dùng than đang được xây dựng ở cả đồng bằng sông Hồng lẫn đồng bằng sông Cửu Long.

Thậm chí tháng trước, bất chấp những cảnh báo về sự nguy hại cho sức khỏe và tính mạng con người của các nhà máy dùng than để phát điện, Việt Nam vẫn cho phép hai doanh nghiệp Trung Quốc là Công ty Lưới điện Phương Nam và Công ty Ðiện lực Quốc tế khởi công dự án Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 1, tọa lạc ở huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, trị giá 1.75 tỉ Mỹ kim.

Hai doanh nghiệp của Trung Quốc góp khoảng 20% vốn, 80% còn lại do năm ngân hàng của Trung Quốc cho vay. Thiết kế và toàn bộ thiết bị do Trung Quốc cung cấp. Theo dự kiến, việc xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 sẽ khoảng bốn năm. Sau đó hai doanh nghiệp Trung Quốc được phép khai thác trong 25 năm rồi giao lại cho Việt Nam. Dự án xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 là một phần trong cái gọi là “Tổng sơ đồ điện VII.”

Ngoài việc gây ô nhiễm trầm trọng cho môi trường, đe dọa sức khỏe, sinh mạnh của hàng chục ngàn người, “Tổng sơ đồ điện VII” còn đe dọa an ninh năng lượng của Việt Nam vì đặt hơn một nửa cơ cấu nguồn điện vào nhiệt điện dùng than, trong khi Việt Nam sẽ phải nhập cảng lượng lên tới 46 triệu tấn vào năm 2020 và 157 triệu tấn vào năm 2030. (G.Ð)

Đối tác Trung Quốc tham gia dự án tòa nhà “nhìn xuống lăng Bác”

Đối tác Trung Quốc tham gia dự án tòa nhà “nhìn xuống lăng Bác”

Đôi lời: Bài viết này đã bị gỡ bỏ khỏi trang Trí Thức Trẻ và VietTimes, là 2 trang web đăng bài viết đầu tiên. Sau đó, trang tinbao24h.com đã đăng lại. Hiện nội dung chỉ còn trên trang tinbao24h.com và trên bản web cache của trang VietTimes. Link bài viết đó trên VietTimes đã bị redirect qua bài viết này: Hà Nội kiểm tra khu đất 8B Lê Trực. Xin được đăng lại nội dung bài này, vì còn nhiều độc giả chưa kịp đọc.

____

Trí Thức Trẻ/ VietTimes

28-9-2015

H1

TS Phạm Sỹ Liêm cho rằng, nếu một tòa nhà cao tầng như thế thì có thể khống chế một diện rất rộng và xét về khía cạnh an ninh thì không nên có công trình này ở gần Lăng Bác.

Tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng an ninh

Thủ tướng Chính phủ vừa có văn bản yêu cầu Hà Nội chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan kiểm tra,về việc chấp hành quy định về quản lý quy hoạch kiến trúc, đầu tư xây dựng của tòa nhà cao tầng tại số 8B Lê Trực (Q.Ba Đình, Hà Nội).

Trong tháng 9/2015, Hà Nội phải báo cáo gấp về việc này.

Liên quan đến việc này, hiện có nhiều ý kiến về vị trí của cụm công trình, bởi tòa nhà được cho là cao nhất khu vực Ba Đình, cao hơn hẳn Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhà cao vọt ngay gần Lăng Bác: “Cần làm rõ ai ký cho xây“

Trao đổi với chúng tôi TS Phạm Sỹ Liêm, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng, nguyên Phó Chủ tịch UBND tp Hà Nội cho biết, ông cũng đang theo dõi các thông tin liên quan đến công trình này.

Theo TS Liêm, việc quy hoạch khu vực Ba Đình đã được Bộ Xây dựng thực hiện và Thủ tướng Chính phủ chấp thuận.

“Khu vực Lăng Bác, Phủ Chủ tịch… là các công trình di sản được bảo tồn và để bảo vệ thì luôn được quy hoạch một bán kính để bảo vệ.

Ở đây, trong khu vực Ba Đình, ngay từ thời Tổng Bí thư Trường Chinh đã có chỉ đạo, các công trình xây dựng xung quanh khu vực này, có bán kính lên tới cả nửa km thì không được cao quá Lăng Bác.

Ngay khi thực hiện nhà Quốc hội, cuộc thi tuyển chọn phương án cũng có điều kiện không được cao quá Lăng, cho nên các nhà kiến trúc đã phải tính toán rất kỹ”, TS Liêm cho hay.

H1Mặt trước tòa nhà có biển Discovery Complex II. Ảnh: NLĐ

TS Liêm cũng đặt vấn đề, quy định đã vậy nhưng không hiểu việc quản lý quy hoạch ở khu vực này như thế nào.

“Thực ra, hiện nay, phía Quán Thánh, Nguyễn Cảnh Chân cũng đã có những tòa nhà lên cao tầng và bây giờ tiếp tục có tòa nhà này rất gần khu vực Lăng.

Ở đây, Bộ Xây dựng cần rà soát để so sánh với quy hoạch để trả lời rõ xem viêc xây dựng công trình này có vi phạm không?”, TS Liêm nhấn mạnh.

Giải thích về việc tại sao phải hạn chế chiều cao các công trình quanh khu vực Lăng Bác, Quảng trường Ba Đình, TS Liêm lý giải, nếu các công trình xung quanh cao lên sẽ khiến cho khu Quảng trường Ba Đình và Lăng Bác bé lại.

“Cũng như xung quanh hồ Hoàn Kiếm chúng ta cũng không cho phép nhà cao tầng, bởi nhà cao tầng lên cao sẽ làm hồ bị thu nhỏ lại và ở đây cũng như vậy.

Quảng trường Ba Đình là công trình nổi tiếng của thủ đô và cả nước, phải có một bề rộng, uy nghi nhất định, nếu bé lại thì sẽ làm giảm bớt giá trị.

Thứ nữa, việc hạn chế chiều cao các công trình xung quanh cũng là nhằm bảo đảm an toàn, an ninh cho các cơ quan Trung ương.

Ở đây, tập trung các cơ quan Trung ương Đảng, Phủ Chủ tịch, Quốc hội, Chính phủ… là đầu não của cả nước, cùng với đó cũng là nơi tiếp các nguyên thủ, đoàn ngoại giao các nước đến, chưa kể nhiều hoạt động diễu hành, kỷ niệm… được tổ chức.

Nếu một tòa nhà cao tầng như thế thì có thể khống chế một diện rất rộng và xét về khía cạnh an ninh thì không nên có công trình như thế này”, TS Liêm nhấn mạnh.

Đồng thời, TS Liêm cũng đề nghị, Bộ Công an cũng nên có ý kiến xung quanh việc xây dựng tòa nhà này, bởi, đây là cơ quan chịu trách nhiệm đảm bảo an ninh, an toàn cho khu vực này.

Cần làm rõ ai là người ký phép cho xây dựng

TS Liêm cũng đặt thêm vấn đề, trong sự việc này, công trình đã được xây dựng và đang hoàn thiện nên một câu hỏi được nhiều người quan tâm, đó là ai ký phép cho tòa nhà.

“Tôi chắc rằng, Sở Xây dựng Hà Nội là nơi cấp phép xây dựng và Sở Quy hoạch kiến trúc Hà Nội là nơi thỏa thuận quy hoạch nhưng cần làm rõ xem ai là người ký phép và có sự tác động nào ở ngoài không”, TS Liêm nêu ý kiến.

Cùng với đó, TS Liêm cũng nhắc lại, việc thời gian vừa qua, nhiều công trình ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng quốc gia ở Đà Nắng hay đỉnh đèo Hải Vân cũng đã được báo chí phản ánh và sau đó, các cơ quan chức năng cũng đã vào cuộc, dừng các dự án này.

“Theo tôi hiểu, các cơ quan quốc phòng, an ninh đều phải xem xét các địa điểm nhạy cảm về vấn đề này và quy định bán kính bảo vệ.

Đã có nhiều trường hợp trước đó được phản ánh, phát hiện, tạm dừng nhưng tại sao vẫn lại xuất hiện tòa nhà trên. Do đó, sau đây, tôi đề nghị cần phải có chủ trương, quyết sách rõ ràng về vấn đề này”, TS Liêm bày tỏ.

Về hướng xử lý, theo TS Liêm, ở đây, các cơ quan chức năng cần đối chiếu quy hoạch và nếu chiều cao quanh khu vực Lăng cho phép bao nhiêu thì phải tiến hành xử lý, tháo dỡ công trình tòa nhà này đảm bảo đúng.

“Nếu tối đa cho phép được bao nhiêu thì phải tháo dỡ xuống như vậy, dứt khoát phải làm còn thiệt hại đối với doanh nghiệp thì cơ quan nào cấp phép phải tiến hành đến bù, bởi, ở đây, người ta cũng xin phép, làm đầy đủ thủ tục.

Nếu sai thì là ở người cho phép chứ không phải ở họ”, TS Liêm nhận định.

Đồng quan điểm đó, KTS Nguyễn Tấn Vạn, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam cũng cho rằng, cần phải xem xét lại quy hoạch chiều cao các công trình quanh khu vực Lăng Bác để từ đó có hướng xử lý.

“Ở đây cần phải kiểm tra xem lại quy định là khu vực này được xây bao nhiêu tầng và xem ai là người cho phép tòa nhà này xây cao đến như vậy”, KTS Vạn nói.

Tòa nhà số 8B Lê Trực vừa bị Thủ tướng yêu cầu kiểm tra nằm nổi bật trên phố Lê Trực, mặt trước hướng ra phía Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tòa nhà Quốc hội.

Hiện tại tòa nhà đã xong phần thô đang đi vào hoàn thiện, mặt trước tòa nhà đang được lắp kính.

Tòa nhà số 8B Lê Trực (Discovery Complex II) là tổ hợp trung tâm thương mại, văn phòng cho thuê, căn hộ chung cư cao cấp và biệt thự liền kề, có tổng diện tích 5.600 m2.

Chủ đầu tư là Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng Phát triển Kinh Đô (KinhDo TCi Group).

Dự án có tòa nhà cao 17 tầng và 4 tầng hầm, trong đó 5 tầng trung tâm thương mại, tầng trên cùng là bể bơi, tầng 6-17 là căn hộ, diện tích mỗi sàn 1.900 m2.

Đối tác Trung Quốc tham gia vào dự án

Dự án 8B Lê Trực có tên quen thuộc là Discovery Complex 2, nằm trên khu đất 5.600m2 cao 17 tầng, 4 tầng hầm.

Trong đó 5 tầng được sử dụng làm trung tâm thương mại, trên cùng là bể bơi, từ tầng 6-17 là căn hộ.

Trên tất cả các website của dự án Discovery Complex 2 (Lê Trực Tower) chủ đầu tư được đăng ký là Công ty CP Đầu tư Xây dựng Phát triển Kinh Đô (Kinh Đô TCi Group) và Công ty Cổ phần May Lê Trực.

Kinh Đô TCi Group là doanh nghiệp được thành lập từ năm 1997, là chủ đầu tư hàng loạt dự án tại các vị trí trung tâm như Kinh Đô Building tại 93 Lò Đúc, Discovery Complex tại 302 Cầu Giấy.

May Lê Trực này có giấy phép kinh doanh số 0100964054, ngày cấp 25/1/2000.

Trên các website của dự án này, các đơn vị tham gia gồm đơn vị thi công là nhà thầu Hòa Bình (Hoa Binh Corp); Đơn vị tư vấn thiết kế – Công ty tư vấn Đại học Xây dựng, Đơn vị tư vấn, giám sát – Viện Khoa Học Công nghệ Xây Dựng – Bộ Xây Dựng, ngân hàng Quân đội (MBBank) hỗ trợ vay vốn…

Theo thông tin trên website của Kinh Đô TCi Group, tập đoàn này có một đối tác duy nhất trong lĩnh vực xây dựng là Tập đoàn xây dựng Quảng Châu (GMC – Trung Quốc).

Đây là một trong 500 công ty xây dựng lớn nhất Trung Quốc, là nhà thầu chính của dự án Capital Garden do Kinh Đô TCi Group làm chủ đầu tư. Được biết, GMC cũng tham gia hợp tác vào dự án 8B Lê Trực.

Thông tin về Hoa Binh Corp được treo bên hàng rào tôn 4 phía dự án trước đó đã được gỡ bỏ.

Vị trí đắc địa hay nhạy cảm?

Discovery Complex 2 nằm trên lô đất là 5.600m2. Dự án nằm cách cửa sân vận động Hà Nội (sân Hàng Đẫy) 300m, gần sân vận động Cột Cờ, cách bệnh viện Xanh Pôn 500m, cách Hồ Tây 500m.

Từ tòa nhà 18 tầng này có thể duy trì đến nhiều trung tâm, đặc biệt là có khả năng bao quát toàn bộ những cơ quan nhạy cảm của Chính phủ từ những tầng cao.

Cụ thể, Discovery Complex 2 cách Quảng trường Ba Đình, Bảo tàng Hồ Chí Minh và quần thể Chùa Một Cột, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh 500m (200m đường chim bay), cách Hoàng thành Thăng Long 600m (200m đường chim bay), cách tòa nhà Quốc Hội 500m (200m đường chim bay), cách Trung tâm Hội nghị Quốc tế 600m (200m đường chim bay), cách văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chính phủ, Phủ Chủ tịch từ 600 – 700m (300m đường chim bay).

Ngoài ra, đường Trần Phú được mở rộng và kéo dài tạo cho dự án số 8B Lê Trực thêm gần 100m mặt tiền với địa chỉ 67 Trần Phú (Ba Đình, Hà Nội).

Dự án kéo dài đường Trần Phú này đã thêm 450m đường, chi phí trung bình 0,5 tỷ đồng/m, tổng mức đầu tư 225 tỷ đồng.

Với việc mở thêm con đường được mệnh danh đắt nhất hành tinh này, cùng với vị trí có một không hai kể trên, giá bán của dự án thuộc loại đắt nhất Hà Nội với phân khúc chung cư.

Với khu một – được cấp quyền sử dụng đất có diện tích căn hộ từ 90, 115, 130, 127, 152, 157 m2 giá giao động từ 74 triệu – 82 triệu đồng/m2.

Khu 2 được cấp quyền sử dụng trong 50 năm có diện tích từ 56, 58, 77, 86 m2 có giá giao động từ 62 triệu – 66 triệu đồng/m2.

Hiện tại, dự án đã cất nóc và tiến hành hoàn thiện, chuẩn bị bàn giao căn hộ. Theo lời tư vấn của nhân viên bán hàng, dự án còn rất ít căn hộ.

THỨC TỈNH

THỨC TỈNH
Trich EPHATA 660
PHAN XUÂN SINH
 
Luật vượt biển đến Hồng Kông năm 1982, sau khi cải tạo tại Tiên Lãnh được sáu năm. Chuyến đi của anh suông sẻ chỉ mất hai ngày hai đêm trên biển. Điều trước tiên, Luật đánh điện tín về nhà báo tin cho vợ con biết anh đã vượt thoát khỏi Việt Nam an toàn để chị mừng.
Anh theo chân những người tỵ nạn vào phố Hồng Kông xin việc làm, anh được một nhà hàng sắp xếp cho anh rửa chén bát, việc làm cũng không đến nỗi khổ cực, lương tương đối khá. Mỗi ngày người ta cho anh mang về trại thức ăn dư thừa để anh chia cho những người không tìm được việc làm. Ở đây anh cảm thấy thoải mái hơn khi ở quê nhà rất nhiều. Không ai quan tâm hoặc theo dõi kẻ khác, không phạm pháp thì không sợ sệt ai. Trong trại ai cũng thân thiện, tận tâm chỉ vẽ nhau những điều người khác không biết. Mọi người chung quanh thương mến anh vì bản tính hiền lành. Ở Hồng Kông gần một năm thì anh được phái đoàn Mỹ nhận cho đi định cư. Thế nhưng có một điều làm Luật thắc mắc mãi, tại sao một ông thầy chùa đã giúp đỡ anh tận tình như vậy ? Anh chưa hề quen biết ông. Anh nhớ lại cái đêm vượt biên bị Công An phát giác, anh nhảy xuống sông vừa bơi vừa lặn, trước khi tàu Công An kẹp sát. Lên bờ vì trời tối anh không biết đây là nơi nào. Anh lần mò trong bóng tối chừng ba tiếng đồng hồ vẫn không thấy đường cái. Bỗng nhiên anh trông thấy ánh đèn từ xa, anh đi tới, thì ra đây là ngôi chùa nhỏ. Anh vào chùa gặp vị sư còn trẻ, Sư hỏi anh cần gì ? Anh tình thật thưa rằng anh đang lạc đường và xin được giúp đỡ.
Vị Sư đưa anh vào chánh điện rồi đến thưa với thầy trụ trì. Thầy trụ trì chừng trên dưới sáu mươi tuổi, mặc bộ đồ màu lam, nước da ngăm đen, khuôn mặt hiền từ. Khi nhìn thấy anh Thầy có vẻ hơi giật mình. Thầy bảo người Sư trẻ dọn cơm cho anh ăn. Trong lúc nói chuyện để anh an tâm, Thầy cho anh biết sẽ không có ai làm phiền hay quấy rối anh. Anh muốn ở đây bao lâu cũng được. Thầy đích thân dọn phòng cho anh ngủ. Anh tự hỏi giữa lúc khó khăn, gạo châu củi quế, thế mà nhà chùa lại rộng lượng quá vậy.
Sáng dậy, anh bước ra phòng rửa mặt thì đã thấy Thầy ngồi tại bàn ăn đang uống trà. Thầy mời anh cùng uống trà và nói chuyện. Tuyệt đối Thầy không hỏi anh về cuộc sống hiện thời, về gia đình, về nơi ăn chốn ở. Thầy dặn anh có ai hỏi thì bảo anh là bà con ở quê ra thăm thầy. Thầy cũng cho anh biết ngôi chùa nhỏ nghèo nàn nên ăn uống sơ sài, không biết anh có chịu được không ? Anh chắp tay cám ơn Thầy và nói “Được Thầy bảo bọc, chuyện ăn uống không thành vấn đề, tất cả đều tốt với tôi. Xin Thầy đừng bận tâm”. Khi còn ở nhà, anh và vợ con bữa đói bữa no, làm gì được như thế này.
Trong những ngày ở chùa, Thầy ít khi gặp anh, ít nói chuyện với nhau ngoại trừ vào bữa ăn.  Không hiểu sao Thầy cố giữ anh lại, mà không cho biết lý do. Chừng mười ngày sau, khi ăn cơm chiều xong, Thầy bảo anh ngồi lại để Thầy nói chuyện. Chỉ còn lại hai người đối diện nhau, Thầy nói với anh:
“Khi anh bước chân vào chùa này, tôi đã biết anh là người trốn thoát Công An lùng bắt vì tội vượt biên. Ở đây tôi đã gặp vài trường hợp giống anh và tôi đã che chở nên họ về nhà an toàn. Như anh biết chùa là nơi mở rộng vòng tay giúp đỡ cho những người sa cơ thất thế, chúng tôi làm hết sức mình trong điều kiện cho phép. Hơn nữa, vượt biên theo tôi không phải là cái tội, họ chỉ trốn thoát chế độ không phù hợp với họ, không chống cự, không phản đối, thì không thể bảo họ mang tội. Trường hợp của anh khác với những người kia, khác như thế nào sau này anh sẽ rõ.
Đêm nay có một chuyến vượt biên uy tín mà tôi tin tưởng, tôi muốn gửi anh đi trong chuyến này, 11 giờ sẽ có người tới dẫn anh đi. Tôi đã chuẩn bị sẵn cho anh mọi thứ, gồm có hai bộ quần áo để anh thay đổi khi tới nơi, và một lượng vàng cho anh tiêu dùng trong thời gian chờ định cư đến nước thứ ba.”
Anh trố mắt nhìn Thầy mà không nói nên lời, anh đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Không biết lý do gì mà Thầy tận tình giúp đỡ anh như vậy. Thầy bảo anh về phòng nằm nghỉ, chờ đến giờ có người tới đưa đi. Thầy không cho anh nói một lời nào dù là lời cám ơn. Thầy lên chánh điện tụng kinh. Anh nằm suy nghĩ mãi về sự giúp dỡ này của Thầy. Một lượng vàng là một tài sản không nhỏ vào thời điểm đó. Thế mà Thầy lại biếu anh, chưa kể Thầy còn phải đóng tiền cho chủ ghe để được đi, chứ không ai cho đi không. Anh thắc mắc sao lại có một người tốt như vậy. Anh hứa với lòng mình, sau khi an cư lạc nghiệp ở xứ người, anh trở về thăm thầy, anh hỏi thầy lý do tại sao thầy đã giúp đỡ anh. Anh nghĩ sẽ hoàn trả lại số vàng bằng gấp bao nhiêu lần mà Thầy đã chi phí cho anh.
Thầy nói chùa đã từng che chở cho những người vượt biên bị bể, đã đưa họ về nhà, đó là một việc làm tốt, một công đức cao cả mà chỉ có Bồ Tát mới hành xử như vậy. Vì biết bao nhiêu hệ lụy sẽ gây rắc rối cho chùa và cho Thầy nếu chính quyền biết được. Ấy vậy mà Thầy chẳng sợ gì. Niềm tin nào đã làm cho Thầy hành động một cách liều lĩnh như thế. Sống giữa một xã hội mà người dân chỉ còn cách trốn ra nước ngoài mới yên thân, thì còn sợ chi chuyện bắt bớ. Tuy nhiên ở trường hợp của Thầy lại khác, Thầy đứng ngoài mọi liên hệ với những người chạy trốn, mà lại dang tay ra đỡ cho họ khỏi bị tù tội. Còn hoàn cảnh của anh được Thầy che chở rồi lại tìm cách đưa đi tiếp. Qua sự việc này, Thầy đã tạo cho anh một niềm tin vào cuộc đời, vẫn còn có người đầy lòng nhân ái.
Anh nằm trong phòng không nhắm mắt được. Anh nghe tiếng tụng kinh của thầy ngoài chính điện, giọng thầy trầm bổng uy nghi, gieo vào lòng anh một thức tỉnh và suy tư. Anh chưa bao giờ nghe được những lời kinh có uy quyền, thấm đẫm vào lòng anh một cách sâu xa, xoa dịu những nhọc nhằn căng thẳng mà anh đã từng gánh chịu.
Anh suy nghĩ, đây mới chính là nơi Phật hiện diện. Không cần chi chùa phải lớn, phải nguy nga. Chính ngôi chùa nhỏ bé này, ở một nơi hẻo lánh mà đã chứa lực đại hùng của Phật, sáng tỏa trong lòng anh sự từ bi mà bây giờ anh mới ngộ ra được. Người anh lâng lâng như đang bước vào một cõi tâm thức, tiếng kinh như thinh lặng, đôi lúc dìu dặt, đôi lúc khoan thai, có phải chăng đang dìu anh ra khơi trong êm ả, một chuyến đi mà anh không còn mang nỗi sợ. Rồi anh thiếp đi lúc nào không hay.
Gần 11 giờ đêm, Thầy vào gọi anh dậy. Thầy trao cho anh cái bọc nylon chứa hai bộ quần áo và một lượng vàng. Thầy bảo anh cẩn thận cất vàng vào túi quần sau cài nút lại. Trong bọc nylon có một lá thư, Thầy dặn khi lên ghe lớn hãy đọc. Nếu trường hợp bị Công An phát hiện, bằng mọi cách phải hủy lá thư trước. Thầy đứng ngay cửa nhìn anh ra khỏi chùa. Người dẫn đường đưa anh ra ghe nhỏ cách đó chừng nửa giờ. Trên ghe có khoảng mười người, rồi ghe chạy ra sông cái tấp vào ghe lớn đang chờ sẵn. Khi leo lên ghe anh làm rớt bọc Nylon xuống sông không vớt lên được. Như vậy lá thư và hai bộ áo quần mất từ đó.
Đúng như lời Thầy nói, chuyến đi rất an toàn, hai ngày sau tới Hồng Kông. Anh đổi lượng vàng ra thành 10 chỉ, để tiêu dùng trong những ngày sống ở trại tị nạn. Anh tiện tặn vì không biết chờ đợi đến bao lâu mới đi định cư ở nước thứ ba. Anh may mắn được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và cho đi sớm. Một gia đình người Mỹ ở Oakland California làm sponsor cho anh.
Lúc đó Oakland chưa có người Việt nhiều, thành phố toàn người Mỹ đen và Mễ. Dần dần những năm sau người Việt tới định cư và những quán Café mọc lên ở đường E.14. Chính ở đây là nơi truyền những tin tức từ Việt Nam qua, chuyện bàn luận Chính trị bắt đầu sôi nổi trên bàn Café của những chính khách không tên tuổi. Đúng, sai không ai cần biết, có cãi vã với nhau khi bất đồng, nhưng tất cả đều bỏ lại bàn, không ai mang trong lòng. Đó là niềm vui duy nhất của mỗi cuối tuần cho những người Việt tha hương sinh sống trong Thành phố.
Anh share phòng với một gia đình Việt Nam, ăn uống anh tự túc nấu lấy, nên tiết kiệm thêm một ít tiền. Anh viết thư bảo vợ thỉnh thoảng qua chùa Mân Thái cúng Phật và thăm Thầy Trụ Trì. Anh cho chị biết, Thầy là ân nhân của anh và gia đình, chị phải thay anh thăm viếng Thầy thường xuyên.
Sau khi có quốc tịch Hoa Kỳ, anh làm hồ sơ bảo lãnh vợ con. Anh thu xếp một chuyến về Việt Nam, để trước hết thăm Thầy, sau đó hỏi về lý do Thầy đã tận tình giúp anh. Một thắc mắc cứ canh cánh trong lòng khiến anh trăn trở mãi. Thầy thường che chở cho những người vượt biên, nhưng Thầy chưa bao giờ nói là đã giúp ai phương tiện và vật chất để họ tiếp tục đi như anh. Thăm viếng gia đình, bà con hang xóm xong, anh đón xe đi Mân Thái thăm Thầy.
Chùa vẫn y nguyên như xưa, như những ngày anh sống dưới sự bảo bọc của Thầy. Anh gặp vị sư trẻ, vị sư này nhận ra anh ngay. Thầy nhìn anh, đôi mắt Thầy sáng lên đầy ngạc nhiên và vui mừng. Anh chạy đến ôm Thầy, anh cảm thấy sung sướng, nước mắt ràn rụa. Thầy mời anh ngồi trên chiếc bàn ăn ngày nào. Anh tình thật thưa với Thầy là lúc hối hả leo lên tàu lớn trong đêm tối, anh đánh rơi bọc Nylon có lá thư và hai bộ áo quần Thầy cho, nên đến bây giờ anh vẫn không biết trong thư Thầy viết gì. Thầy cười hiền hòa và nói trong thư căn dặn anh phải giữ gìn sức khỏe, luôn luôn nghĩ tới vợ con, chứ không có gì quan trọng. Thế nhưng anh không nghĩ như vậy, có một điều gì bí mật mà Thầy chưa tiện nói ra.
Anh ở lại chùa vài ngày để trò chuyện với Thầy, luôn tiện anh xin Thầy cho anh quy y. Thầy đồng ý. Thế là mỗi đêm, khi Thầy tụng kinh anh cũng chắp tay ngồi phía sau, vừa nghe câu kinh Thầy tụng vừa thấy lòng mình lắng xuống, như ngộ ra được một cái gì đó rất tâm linh mà không thể nào diễn tả được. Mỗi lần tụng xong câu kinh Thầy gõ một tiếng chuông, rồi cúi xuống lạy. Tiếng chuông ngân vang trong đầu anh, như dẫn dắt anh bước vào sâu thẳm của cõi siêu hình. Dạy cho ta những đạo đức để giữ mình, để sống với tha nhân. Anh cảm thấy những ngày ở chùa tuy ngắn ngủi nhưng anh đã học được nhiều điều quý giá. Một buổi tối sau khi ăn cơm xong, Thầy và anh ngồi uống trà nói chuyện. Thầy nhìn thẳng vào mắt anh, rồi từ từ nói:
“Chắc anh thắc mắc trong lòng bấy lâu nay, là tại sao tôi tận tình giúp anh, tiếp tay làm tròn ước nguyện mong muốn của anh là vượt thoát ra khỏi đất nước. Chẳng qua đó là cái ơn mà tôi phải trả cho anh trong thời kỳ chinh chiến. Có lần anh đã giúp tôi mà anh tuyệt nhiên không hay biết. Bây giờ tôi xin kể đầu dây mối nhợ của câu chuyện. Anh không còn nhớ, nhưng với tôi chuyện gặp anh lúc đó tôi không bao giờ quên được. Trước khi nhắc lại chuyện cũ, Tôi xin nói về tôi.
Tôi có vợ và hai con, hồi đó gia đình chúng tôi sống trong vùng mất an ninh. Tôi hoạt động Cách mạng và làm đến chức Huyện Ủy Viên. Vợ con tôi chết trên chuyến đò tiếp tế bị máy bay phát hiện, từ đó tôi là người không có gia đình. Tôi được cấp trên giao cho nhiệm vụ hoạt động trong vùng Hòa Vang và Điện Bàn. Để dễ dàng đi lại, tôi giả làm một nhà sư mặc áo nâu sòng, trên vai luôn luôn mang cái bị chuông mõ, nhưng thực tế trong đó chứa những tài liệu hoạt động và một khẩu súng ngắn. Tôi tránh đi lại ban ngày vì sợ dễ bị phát giác. Thường di chuyển vào lúc mặt trời sụp tối và Du kích địa phương báo trước cho tôi biết đoạn đường nào an toàn để đi.
Buổi chiều tôi nhận được lệnh là sáng hôm sau tôi có một cuộc họp với thượng cấp tại xã Thanh Trường, huyện Điện Bàn. Tôi và hai cận vệ yên tâm ra đi, người cận vệ đi đầu bi đau bụng nên ngồi lại đi cầu, như vậy tôi trở thành người đi đầu. Đi được một đoạn thì tôi bị một toán lính Quốc Gia phát hiện, người đi phía sau tôi núp vào bụi cây nên thoát được. Tôi được dẫn vào trình diện ông Trung úy Đại đội trưởng, người Chỉ huy cuộc hành quân đó. Tôi nghĩ trong bụng, tôi không thể nào thoát được lần này, thế nào họ cũng xét người và chiếc bị mang trên vai, đầy tài liệu và cây súng ngắn trong đó…
Dưới ánh đèn nho nhỏ, ông Trung úy ngước lên nhìn tôi với khuôn mặt hiền từ, hỏi tôi một câu cho lấy lệ: “Thầy đi đâu trong đêm tối ? Thầy có biết vùng này nguy hiểm lắm không ?” Tôi thưa với ông rằng: “Xóm trên có người mới mất, tôi đến tụng kinh rồi ra về. Không ngờ trời sụp tối mau vậy.” Người lính đứng gần hỏi ông Trung úy có cần xét ông thầy này không ? Ông Trung úy nói khỏi cần, rồi sai người lính trải Poncho cho thầy ngủ lại, sáng mai hãy về, chứ đi trong đêm thế nào cũng bị bắn. Tôi nghĩ lúc đó có người khuất mặt che chở cho tôi nên họ không xét người tôi.
Sáng hôm sau thức dậy, ông Trung úy đưa cho tôi một ca nước trà, rồi tôi lên đường. Suốt trên đoạn đường đi, tôi suy nghĩ mãi về ông Trung úy. Điều gì đã làm cho ông cư xử với tôi như vậy ? Ông có biết rằng trong đêm đó tôi có thể giết ông rồi bỏ chạy, giữa đêm khuya tối mịt làm sao bắn trúng tôi ? Ai đã khiến tôi, ngăn cản tôi không làm điều đó. Trong chiến tranh không từ nan bất cứ thủ đoạn nào, giết người không một chút cắn rứt. Nhưng giữa anh và tôi, hai kẻ thù gặp nhau ở điểm “lòng nhân ái”, không biết nó đã tiềm ẩn trong người tự lúc nào mà khi nó tỉnh dậy lại vào lúc đúng nhất.
Từ đêm đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về tâm linh, chiếc áo nâu sòng tôi đang mặc, phải có cái duyên tôi mới khoác nó lên người. Trong những năm cuối cùng chiến tranh chiếc áo như đã che chở cho tôi tránh những lằn tên mũi đạn. Tôi nguyện trong lòng, sau khi cuộc chiến chấm dứt, thế nào tôi cũng tìm gặp anh. Ánh mắt và khuôn mặt anh không làm sao tôi quên được. Anh đã cứu tôi không những tại mặt trận, mà còn cứu tôi ra khỏi vũng lầy của sự hận thù. Tôi luôn luôn âm thầm cầu nguyện cho anh thoát khỏi mọi tai ương.
Cái đêm anh bước vào chùa, khi anh ngước lên nhìn tôi, cũng ánh mắt ấy cách đây hơn mười năm giống hệt nhau. Tôi giật mình, ân nhân năm xưa bây giờ đã đến, tôi có bổn phận phải giúp anh, phải đưa anh thoát khỏi nghịch cảnh mà anh và gia đình gánh chịu. Bây giờ anh đã hiểu rồi chứ ? Đây là cơ hội cho tôi trả lại anh món nợ cũ. Điểu làm tôi suy nghĩ mãi là cơ duyên nào đưa anh tới đây ? Có phải chăng ơn trên đã dẫn dắt anh. Trong cuộc sống thiên hình vạn trạng, rất hiếm có trường hợp giống nhau. Thế mà chúng ta lại rơi đúng vào sự trùng hợp này một cách bất ngờ.”
Anh sững sờ nhìn Thầy, một câu chuyện mà anh không hề nghĩ đến, cho đến bây giờ Thầy nhắc. Đúng là trường hợp hi hữu, tất cả đều có sự sắp xếp của ơn trên. Ký ức anh bắt đầu quay về khoảng không gian mười năm trước đây:
“Hồi đó đơn vị anh hành quân ở khu vực Miếu Bông, sát Quốc lộ 1, giữa đường từ Đà Nẵng vào Vĩnh Điện. Gần 6 giờ chiều, anh được lệnh di chuyển vào khu vực xã Hòa Lân gần một con lộ đá từ Non Nước vào Hội An. Chính sự di chuyển này đánh lạc hướng du kích địa phương và những liên lạc viên, vì họ không ngờ đơn vị của anh di chuyển ban đêm. Ông Huyện ủy viên tưởng rằng không có lính Quốc gia hành quân, nên ông mới đi trên lộ trình này. Khi ông bị lính chận lại, ông rất ngạc nhiên tại sao một cuộc hành quân như vậy mà du kích không phát giác được.
 Chỉ huy Đại đội đóng gần cái miễu, anh treo chiếc võng bên ngoài, định nằm nghỉ thì người lính gác dẫn một ông thầy chùa vào trình diện. Anh ngước nhìn thấy ông thầy chùa cũng lớn tuổi, con người khắc khổ tội nghiệp. Anh không nghi ngờ gì cả, bảo ông nghỉ lại đây cho an toàn rồi ngày mai về sớm. Đi trong đêm nguy hiểm vì có thể gặp đơn vị Quốc Gia khác đi kích, lúc đó khó tránh khỏi rắc rối. Đơn giản là như vậy, chứ anh hoàn toàn không có ý nghĩ gì khác, hoặc nghi ngờ ông thầy chùa là Việt Cộng.
Sáng hôm sau khi ông thầy chùa đi rồi, thì anh mới tự hỏi tại sao mình không lục xét ông thầy, biết đâu ông là Việt Cộng thì sao ? Giữa thời buổi chiến tranh bất cứ ai cũng có thể nghi ngờ. Nghĩ như vậy, nhưng anh không cho lính chạy theo gọi ông trở lại. Chuyện này anh cũng lãng quên, bây giờ Thầy nhắc anh mới nhớ lại.”
Anh nhìn Thầy, nhưng hoàn toàn không còn nhớ khuôn mặt. Càng nghĩ anh càng cảm thấy sự màu nhiệm của đức tin, có thể biến đổi được con người, xoa dịu những vết thương tưởng chừng như không bao giờ xóa đi được. Anh lặng người để tâm hồn lắng xuống, nhìn Thầy như cảm nhận có được một luồng hùng lực tỏa sáng. Khuôn mặt Thầy hiền từ, ăn nói chậm rãi, từ tốn. Anh thấy, Thầy hoàn toàn lột xác. Thường thường chính trị viên nào cũng ăn nói lưu loát, cứng rắn, họ là những người nắm sinh mạng của đơn vị, đẩy những chiến binh dưới quyền mình vào chỗ dầu sôi lửa bỏng. Bây giờ lời Thầy có một hấp lực mang đến sự an lành cho mọi người. Ôi, tất cả đều nằm trong nghiệp số.
“Thưa Thầy, thế thì lúc nào Thầy mới chính thức bước vào đường tu hành ?” Thầy nhìn anh cười. Bây giờ anh mới để ý nụ cười của Thầy hiền lành, đúng là một bậc chân tu:
“Sau 30 tháng 4 năm 1975, khi quân Cách Mạng hoàn toàn chiếm Miền Nam, cũng vào ngày đó tôi chính thức đi tu. Những bạn bè cũ cùng chiến đấu với tôi rất ngạc nhiên. Lúc được hưởng những sung sướng nhất, giàu sang nhất, tôi lại chọn lấy con đường cực khổ nhất. Tôi trả lại tất cả những chức vụ, đảng viên, những quyền hành v.v… chỉ xin một điều, hãy để cho tôi yên, đừng quấy phá làm phiền tôi. Những ai đến thăm chùa, những ai ngụ trong chùa xin các người đừng gây rắc rối cho họ. Những ngày tôi theo Cách Mạng, hy sinh cả vợ con, sự cống hiến của tôi đã đủ. Bây giờ cho tôi yên phận trong tuổi già. Tôi nghĩ chỉ có con đường này mới giải thoát được tôi, vợ con tôi dưới suối vàng cũng mỉm cười.
Lúc đầu họ không chịu, nhưng tôi quyết liệt quá, họ đành phải chìu ý tôi. Họ bảo tôi lãnh đạo Phật Giáo tỉnh, tôi từ chối. Tôi muốn làm một người tu hành đúng nghĩa nhất. Không lợi dụng chiếc áo cà-sa nữa, vì tôi đã lợi dụng nó quá nhiều trong thời chiến tranh để che đỡ mình.
Lúc đầu khi về chùa tôi thỉnh một bộ kinh và sắm chuông mõ, tôi tự trồng trọt để nuôi thân. Dân địa phương họ biết tôi trước đây hoạt động cho quân Giải Phóng nên họ rất e dè, ít người lui tới. Dần dần người này truyền đạt cho người kia về tôi, họ thấy tôi không nguy hiểm mà trái lại rất dễ thương. Từ đó chùa có một sinh khí mới, buổi tối ai rãnh thì đến chùa tụng kinh với tôi. Đạo hữu họ cũng biết chùa che chở cho nhiều người trốn thoát Công An, họ cho đó là việc làm đúng. Công An họ tin rằng tôi là một đảng viên, không thể chấp chứa những thành phần phản động. Nhưng họ không ngờ rằng tôi bây giờ đã hoàn toàn lột xác, tất cả đều là anh em, không thù không oán. Chính vì vậy chùa đã bao che cho những người vượt biển trốn tại đây.
“Thưa Thầy, chùa này đã có trước đây hay mới làm và người đệ tử theo Thầy từ lúc nào ?” – “Chùa này trước đây là chùa hoang, nằm trong vùng oanh kích tự do nên không ai dám lui tới. Làng mạc tiêu điều, dân làng ra Thành phố tỵ nạn tránh bom đạn, chùa không còn ai hương khói. Chỉ có tượng Phật lành lặn, còn tất cả đều bị đạn bắn phá. Chính điều này cũng làm cho tôi bao nhiêu đêm suy nghĩ, tượng Phật không hề hấn gì cũng lạ thật.
Những năm cuối cuộc chiến, tôi ngủ dưới bệ tượng Phật, tôi cảm thấy an tâm, hình như có một cái gì đó che chở cho tôi. Tôi nguyện trong lòng, sau khi đất nước hòa bình, tôi sẽ về đây tu bổ lại ngôi chùa và sinh sống. Nếu gặp được phước duyên tôi sẽ đi tu, gia đình vợ con không còn nữa, chẳng còn chỗ nào làm nơi nương tựa. Trong thời chiến tôi lấy nơi đây làm nơi cư ngụ và hoạt động. Sau này, như mong ước, tôi tu bổ dần dần trở thành một ngôi chùa tuy không lớn, nhưng đạo hữu đến cũng khá đông.
Tôi dự định sang năm đủ tiền, sẽ xây lại lớn hơn, để những người con Phật có nơi khang trang hành lễ trong những ngày vía lớn. Người Thầy trẻ phụ giúp tôi trong chùa, lúc thầy đến mới 10 tuổi, cha mẹ thất lạc lúc chạy loạn. Thấy tội nghiệp tôi nuôi nấng cho ăn học. Bây giờ thầy đã là kỹ sư công nghệ. Tôi bảo thầy có thể ra đời lấy vợ, vì chuyện ở chùa chỉ là hoàn cảnh bức bách lúc đó. Thầy bảo là con quyết tâm tu hành theo chân sư phụ. Thôi biết đâu cũng là cơ duyên. Tôi không bao giờ sai bảo thầy nhỏ những gì mà tôi có thể làm được, thầy thấy tôi làm việc này thì thầy làm việc khác, từ xưa đến giờ trở thành một nề nếp.
Cách đây hai năm cha mẹ của thầy trẻ từ nước ngoài về tìm thầy. Khi họ lạc nhau thầy đã 10 tuổi nên thầy dễ dàng nhận ra cha mẹ. Cha mẹ sẽ bảo lãnh cho thầy đi, nhưng thầy vẫn chưa quyết định. Tôi có khuyên thầy nên đi, dù sao tình ruột thịt cũng cần thiết hơn. Tôi nghĩ thế nào thầy trẻ cũng rời khỏi chùa, nên tôi đang tìm một người sau này sẽ thay tôi. Cái khó không phải là không có người, mà người thay thế tôi có được lòng bà con, có siêng năng tu tập, có đủ nghị lực để quán xuyến ngôi chùa không. Và điều quan trọng nhất là đừng để chùa biến thành công cụ phụng sự Chính trị. Nhiều đêm suy nghĩ nhưng chưa tìm được người như vậy. Thật tình thì có lo lắng cũng không được. Thôi thì cứ để mọi chuyện từ từ, người nào có Phật duyên tự nhiên sẽ đến.
Bây giờ tôi già rồi, những việc nặng nhọc không làm được, người đệ tử của tôi quán xuyến hết. Hơn nữa đạo hữu cũng khá nhiều, mỗi ngày có vài người đến chùa làm công quả, nên tôi có thì giờ nghỉ ngơi, chỉ lo Phật sự. Tôi tự tu hành, học trong kinh sách của Phật dạy. Phần nhiều kinh sách viết bằng chữ Hán nên đã gây cho tôi khó khăn lúc ban đầu.
 Mặc dù Thầy không đi tu từ nhỏ, nhưng quyết tâm cố gắng của Thầy, kiên trì học hỏi của Thầy, đã tạo cho Thầy một con người thông hiểu giáo lý nhà Phật, có một kiến thức rộng. Thầy không có một vị sư đỡ đầu, trong Phật Giáo gọi người này là Thầy Bổn Sư, nên khi gặp những rắc rối liên quan đến sự tu hành, Thầy tìm đến những cao tăng xin chỉ dạy. Mỗi tháng hai lần, ngày mồng Một và ngày Rằm, Thầy thuyết giảng để đạo hữu hiểu những điều Phật dạy, để sửa mình, để tu thân. Chính quyền tại đây biết rõ về Thầy nên không ai đến quấy rầy. Vì vậy Thầy yên tâm tu hành.
Từ khi chính thức bước vào cửa chùa, Thầy không quan tâm đến sự việc bên ngoài. Tiếng tăm của Thầy dần dần được những Phật tử quanh vùng biết đến và từ đó sinh hoạt Phật sự trong chùa trở nên nhộn nhịp hơn. Có người đề nghị với Thầy nên trùng tu lại ngôi chùa cho phù hợp với số đạo hữu ngày càng gia tăng. Thầy nhận biết điều này, nhưng Thầy không dám kêu gọi đóng góp. Thầy cố tiện tặn để dành nhưng vẫn chưa đủ tiền thực hiện.
Một buổi sáng trong lúc uống trà, anh đặt một bọc tiền trên cái khay nhỏ, rồi thưa với Thầy: “Thưa Thầy, đây là số tiền con dành dụm từ lâu, con hứa khi về quê nhà con sẽ nhờ Thầy dùng nó để làm việc gì mà Thầy cảm thấy cần thiết phải làm. Con không nghĩ là trả lại cái ơn mà Thầy đã giúp, vì ơn này to lớn quá con không trả nỗi. Con thấy Chùa hư hại quá nhiều, Thầy cho con góp một tay với Thầy xây dựng lại tốt hơn. Nếu có thiếu hụt trong lúc trùng tu, con sẽ gửi về thêm để Thầy trang trải.”
Thầy nhìn anh, Thầy cảm thấy như anh trả lại món nợ trước đây Thầy đã giúp anh vượt biên, nhưng khi nghe anh trình bày thành thật. Thầy trầm tư, đắn đo có nên nhận của anh hay không ? Cuối cùng Thầy quyết định:
“Lòng tốt của anh Thầy ghi nhận. Tuy chùa cũng rất cần, nhưng nhận số tiền này của anh Thầy cảm thấy áy náy quá. Thôi thì thay mặt chùa, Thầy cám ơn anh. Thầy sẽ nhờ người vẽ kiểu rồi từ từ thực hiện theo đó. Làm cho đến khi nào hết tiền thì ngưng, có tiền làm tiếp. Ngày xưa các vị sư tổ xây chùa từ đời này qua đời khác, không có ai xây chùa chỉ một đời. Lấy kinh nghiệm này, Thầy sẽ thực hiện cho đến khi nào Thầy không còn khả năng…”
Thầy và anh bàn nhiều chuyện, trong đó để tiết kiệm tiền bạc, Thầy định làm một lò nung gạch, đào đất trước sân chùa để làm gạch. Cái hố lấy đất sau này sẽ trồng sen, trở thành một hồ sen. Thấy những dự tính của Thầy hợp lý, anh cũng vui thích.
Trở lại Mỹ, mỗi đêm anh ngồi trước bàn thờ tụng kinh. Lúc đầu anh không biết tụng kinh như vậy để làm gì, sau vài tháng anh ngộ ra được một điều cái “quả” mà anh nhận được bây giờ, gia đình yên vui, vợ con sẽ đoàn tụ, công việc trôi chảy, chính nhờ vào cái “nhân” mà anh đã gieo. Anh tụng kinh là nhắc nhở mình phải luôn luôn gìn giữ cái tâm ngay thẳng. Anh không nghĩ đến những chuyện cao siêu, chỉ biết đơn giản là tu thân tích đức. Anh cảm thấy tâm hồn anh thanh thản hơn, bỏ ra ngoài những hệ lụy rắc rối không mang tới niềm vui cho mình, cho mọi người. Câu kinh anh tụng trở nên nhiệm màu.
Vợ con anh sau vài năm tới Mỹ theo diện đoàn tụ. Anh có hỏi vợ về ngôi chùa ở Mân Thái. Vợ anh cho biết ngôi chùa đã xây xong, không lớn lắm nhưng khang trang. Thầy có làm một tấm đá gắn trên tường khắc tên những người đóng góp xây dựng nên ngôi chùa như một lời tri ân.
Nhiều đêm không ngủ được anh lại nghĩ tới ngôi chùa, nghĩ tới Thầy. Ngôi chùa nhỏ nhưng chứa một tấm lòng quá lớn. Đối với gia đình anh đây cũng là thánh địa, đã cứu giúp anh vượt qua những khó khăn. Trong chiến tranh, chỉ một lần ngẫu nhiên gặp gỡ mà người Thầy đã giác ngộ, đã từ bỏ hết những danh vọng, những quyền thế, xóa sạch những hận thù, những dĩ vãng đen tối. Chấp nhận một cuộc sống thanh bần khổ cực.
Mấy ai trên đời này làm được như Thầy ? Công đức của Thầy theo anh, đó là một ngọn Thái sơn mấy ai leo tới. Năm nay Thầy đã bát tuần, như một quyển kinh đã đọc đến những trang gần cuối. Thầy không có gì phải vướng bận khi ra đi, chắc Thầy cũng đã sẵn sàng đi theo Phật. Cuộc đời, mọi vật rồi cũng sẽ trở thành cát bụi, chỉ còn chăng là một tấm lòng. Anh viết thư cho quý đạo hữu hãy báo tin cho anh biết khi Thầy viên tịch, anh sẽ thu xếp về ngay để tiễn đưa Thầy lần cuối.
PHAN XUÂN SINH

Khúc ruột ngoài da

Khúc ruột ngoài da

Tạp ghi Huy Phương


Theo định nghĩa chữ “kiều” là “ở nhờ, đi ở nhờ làng khác hay nước khác” nên những người này thường được gọi là kiều cư, kiều dân. Chế độ Cộng Sản ở trong nước dùng chữ Việt kiều hay kiều bào để chỉ chung những người Việt hiện đang sống ở hải ngoại. Đây không phải là kiểu dốt chữ nhưng họ có thâm ý “nhận vơ” cho rằng những người Việt này là công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài.

Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh ở Hà Nội, cơ quan phụ trách ra vào Việt Nam
của “Việt Kiều.” (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Do sự “nhận vơ” đó mà ông Trương Tấn Sang trong dịp được Tổng Thống Mỹ Barack Obama tiếp kiến ở Tòa Bạch Ốc hồi Tháng Bảy, 2013, đã cám ơn chính phủ Mỹ đã chăm lo cho các người Việt ở Hoa Kỳ. Đây là lời cám ơn vô duyên, khá trơ trẽn, có lẽ trong thâm tâm hay cố tình, ông Sang cho tất cả những người Việt ở Mỹ đều là con dân của chế độ Cộng Sản Việt Nam, trong khi thực chất Việt kiều của ông chỉ là những người Việt du học tạm thời, nhân viên ngoại giao, mang thông hành Việt Nam đang ở Mỹ.

Trong một bài viết về Học Viện Quân Sự West Point của Hoa Kỳ bằng tiếng Việt, một tác gỉa trong nước đã hạ bút rằng: “Sinh viên người Việt ở West Point khá đông, nhưng đều là Việt kiều…” thật tình tôi không hiểu hết ý của tác giả, và đây là một câu khá ngớ ngẩn.

Tại Trung Quốc, khái niệm “Hoa Kiều” mang tính cách đứng đắn hơn, vì “Hoa Kiều” chỉ để nói đến những người còn mang quốc tịch Trung Quốc đang “ở nhờ” bên ngoài đất nước của họ. Còn nếu như muốn nói đến tất cả mọi người gốc Hoa tại nước ngoài, không kể họ đang tạm trú hay là thường trú nhân, có quốc tịch hay không có quốc tịch, thì các cơ quan truyền thông nước này dùng danh từ “Hải Ngoại Hoa Nhân” (người Hoa ở hải ngoại). Chúng ta, nhất là những người trong nước, phải dùng danh từ “người Việt hải ngoại” để gọi những người Việt đang sinh sống ở nước ngoài mà không thể cá mè một lứa, hễ cứ người Việt ở ngoại quốc, ai cũng là… “Việt Kiều.”

Những ai đã sống dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa hẳn đã không quên “Hoa Kiều” tập trung ở Chợ Lớn, họ di cư sang Việt Nam từ mấy đời trước, làm ăn buôn bán, sinh con đẻ cái, nhưng không chịu vào quốc tịch Việt Nam. Chính phủ Ngô Đình Diệm, không những đã ra sắc luật cấm ngoại kiều, bất cứ Chà Và hay Tàu Chợ Lớn, đang sinh sống tại Việt Nam làm tám nghề chính liên quan đến huyết mạch kinh tế, mà còn bắt buộc những người cư trú lâu đời phải nhập tịch Việt Nam, từ đó, họ không còn là “ngoại kiều” nữa, mà trở thành “người Việt gốc Hoa” tồn tại cho đến ngày nay. Vậy thì ngày nay chúng ta nhận là “người Mỹ gốc Việt” hay “người Úc gốc Việt” là chính danh.

Vậy thì chính phủ Cộng Sản cũng đừng bao giờ nhận vơ những Dương Nguyệt Ánh, Lương Xuân Việt, Alan Phan là Việt Kiều. Có điều lạ là chỉ thị số 45-CT/TW ngày 19 Tháng Năm của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam “về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới” có 2,199 chữ, nhưng không hề có một chữ “Việt kiều” nào. Tuy vậy trong Bách Khoa Toàn Thư tiếng Việt, người ta vẫn còn dùng chữ một cách lơ lửng: “Việt kiều hay người Việt hải ngoại…”

Nói chung toàn bộ người Việt hiện nay ở ngoại quốc, có khoảng 4 triệu người Việt sinh sống trên hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong đó có gần 2 triệu người ở Mỹ là những người Việt ở hải ngoại, phần lớn là người tị nạn, không mang quốc tịch Việt Nam (khi ra đi đã bị “cắt” hộ khẩu) không thể gọi đây là Việt kiều!

Nếu nhắm vào các sinh hoạt của người Việt ở ngoại quốc, chúng ta sẽ khẳng định ai là Việt kiều, ai là không. Việt kiều là những người mang cờ đỏ sao vàng, thường tụ tập tại các sứ quán Việt Nam Cộng Sản trong các dịp lễ, Tết, sắp hàng đón tiếp các quan chức Cộng Sản sang thăm nước họ đang sinh sống hoặc “hồ hởi” về nước tham gia các buổi hội nghị hay đón tiếp để được mang thêm hai chữ “yêu nước!”

Nghĩa tốt xấu của mỗi Việt kiều tùy theo hoàn cảnh, được báo chí trong nước loan tin.

Nếu một Việt Kiều Mỹ hay Úc về nước lường gạt thì đó là một người Việt tha phương cầu thực đang sinh sống ở nước ngoài, nhưng nếu là một Việt kiều tiếng tăm, thành công vượt bực thì đó chính là một người gốc gác Việt Nam, khúc ruột ngàn dặm thương yêu trìu mến của chúng ta.

Cộng Sản là bậc thầy của chuyện đổi giọng và đổi trắng thay đen, cho nên Việt Kiều nguyên xưa kia, chỉ là “những kẻ chạy theo bơ thừa sữa cặn của Đế Quốc Mỹ” nay đã hóa thân thành “khúc ruột ngàn dặm, một thành phần không thể thiếu của tổ quốc.” Và chúng lên mặt kẻ cả dạy dỗ: “Ủng hộ và khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài tôn trọng pháp luật và hội nhập vào xã hội nước sở tại, nơi bà con sinh sống,” cũng như sẽ “phối hợp chặt chẽ với các nước có người Việt Nam sinh sống nhằm hỗ trợ bà con có địa vị pháp lý vững chắc, bảo đảm cuộc sống lâu dài ở nơi cư trú.”

Trước kia những nhà đại trí thức như Nguyễn Khắc Viện, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường cũng nghĩ lầm là Việt Cộng yêu nước mà trở về, mới sống trong tai ương, chết trong vùi dập. Ngày nay, bài học của những Việt Kiều cỡ lớn như Nguyễn Trung Trực (Úc), Trịnh Vĩnh Bình, (Hòa Lan), Nguyễn Gia Thiều (Pháp), Nguyễn An Trung (Nhật), Nguyễn Đình Hoan (Mỹ)… đến Việt kiều “tép” như Trần Trường đã cho chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là Cộng Sản.

Gần đây việc một “Việt Kiều” tên Bùi Văn Tánh, nguyên dân Nha Trang, năm 1980 vượt biển đến Mỹ, định cư tại Mỹ đã 25 năm, trở về cố quốc bị công an bắt giữ về tội vượt biên trước đây. Tị nạn ở hải ngoại hiện nay có bao nhiêu người mang tội vượt biển, vượt biên trái phép, trốn trại, cướp tàu, trốn thuế, hối lộ chính quyền địa phương, mua bãi, “sở hữu hai bao cao su đã dùng rồi,” tội còn sờ sờ ra đó!

Chúng ta “được gọi” là “khúc ruột ngàn dặm” nhưng 40 năm qua chúng ta đã chịu bao cảnh “ruột héo, gan bầm,” đoạn trường (đứt ruột!) khi phải bỏ nước ra đi.

Tiền Baht và Tiền Bác

Tiền Baht và Tiền Bác

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Lão bà nghỉ chợ bần thần
Đem tiền[Cụ Hồ] ra đếm mấy lần chửa xong
Xếp riêng rồi lại xếp chung
Miệng thời lẩm bẩm mà … (không rõ nhời) !

Lão Nông

Tôi dừng chân ở Bangkok (lần đầu) vào một buổi chiều Hè, năm 1980. Đây cũng là thời điểm tôi mới làm quen với cuộc sống tha hương nên đã ghi lại vài chục câu thơ (hơi) ướt át:

Chiều về trên xứ lạ
Cười nụ cười Anglais
Buồn qua hơi thuốc Thái
Thèm một phin cà phê

Chiều về trên xứ lạ
Xe ngược xuôi trăm đường
Trăm ngàn khuôn

Chiều về trên xứ lạ
Excuses me
I’m sorry nói mãi
Thương một câu chửi thề

Chiều về trên xứ lạ
Thoáng thấy mình trong gương
Tôi nhìn tôi bối rối mặt lạ
Mong một người đồng hương
Sao trông mình thảm thương

Chiều về trên xứ lạ
Ngỡ ngàng Chinatown.
Ðây rượu nồng thịt béo
Mà bạn bè nơi nao

Dừng chân nơi quán lạ
Thèm cơm chiều hương quê
Mẹ cha ơi đừng đợi
Chiều nay con không về
(Chị ơi thôi đừng đợi
Chiều nay em chưa về)

Thì cũng nói cho nó bảnh, và nghe cho có vần điệu (chơi) vậy thôi chớ tiền đâu ra mà … “dừng chân nơi quán lạ” – hả Trời? Tui “chuồn” ra Bangkok, từ một trại tị nạn chuyển tiếp, và trong túi chỉ có vỏn vẹn mỗi một đồng đô.

Vào thời điểm này, một Mỹ Kim tương đương với 24 đồng tiền baht. Xe bus lượt đi lượt về đã mất hết 4 baht rồi, tô mì xe giá 5 baht, chai Coca Cola 3 baht nữa. Tiền còn lại chỉ đủ mua (lẻ) vài điếu thuốc lá Samit nữa thôi.

Không lẽ “dừng chân nơi quán lạ” uống (đại) dăm chai bia Singha rồi bỏ chạy sao? Mà chạy đi đâu giữa kinh đô Vọng Các xa hoa, và xa lạ này?  Đ… mẹ, tui chỉ (thường) say thôi chớ có điên hồi nào đâu – mấy cha?

Tiền Baht. Ảnh: fotolibra.com

Ba mươi lăm năm sau, tôi trở lại chốn xưa (vào mùa Hè năm 2015) với cả … đống U.S.A dollar trong túi. Tiền đã nhiều mà một Mỹ Kim hôm nay còn đổi được tới 35 đồng baht lận. Tuy vậy, mãi lực của tiền Thái không còn được như xưa nữa.

Giá xe bus đã lên hơn gấp bốn, tới 9 baht. Và đó là loại xe không máy lạnh, dành cho người nghèo. Nghe nói nay có loại xe điện mới, rất tân kỳ (lạnh ngắt và sạch bóng) đi lại trong thành phố rất tiện nhưng tôi chưa có dịp thử nên không biết giá cả ra sao.

Tô mì hôm nay đã giá gấp 7 rồi, 35 baht. Chai Coca Cola cũng vậy, 10 baht chớ không còn 3 baht như hồi năm cũ  nữa. Lương bổng, lợi tức của người dân Thái – tất nhiên – cũng tăng, và chắc là tăng kịp với đà lạm phát nên không nghe thiên hạ ca cẩm gì nhiều về nạn vật giá leo thang, như ở Việt Nam. Mọi người, xem ra, có vẻ hài lòng với cuộc sống tương đối an lành và phú túc mà họ đang được hưởng.

Khác với những quốc gia láng giềng, dường như, không có cái khoảng cách hay sự tương phản nào (rõ nét) giữa mức sống giữa nông thôn và thành thị ở Thái Lan. Những người chạy taxi, và ngay cả xe tuck tuck, hay xe ôm nữa –  nơi xứ sở này – trông cũng tự tin và thoải mái hơn đồng nghiệp của họ ở Cambodia, hay Lào.

E là mình chủ quan nên tôi viết thư hỏi một anh bạn, người đã sống ở Thái Lan từ năm 1992, hiện là một trong những thông tín viên thường trực của RFA ở Bangkok. Qua ngày sau, tôi nhận được hồi âm:

Anh Tư mến,

Em đọc thư anh viết từ hôm qua, song bận quá giờ mới viết trả lời anh được.

Đợt vừa rồi tìm hiểu để viết về cuộc sống của những người Việt tỵ nạn ở Thái lan, đặc biệt là những người Thượng Tây nguyên thì vượt quá sức tưởng tượng của em.

Họ khổ quá, thương họ quá dù rằng mình cũng hiểu phần nào song không hình dung trên thực tế thì nó là như thế.

Chuyện lương của cháu K. 300$/tháng (9,000 baht) là mức lương tối thiểu của một lao động phổ thông người Thái theo quy định của nhà nước. Mức lương đó mà dành cho 03 người thì khá vất vả, vì riêng tiền thuê nhà ở Bangkok một phòng 12-14 m2 có nhà vệ sinh tồi nhất cũng phải mất 2-2,500 baht. Số tiền còn lại còn trăm thứ phải tiêu: diện, nước, internet và ăn uống tiêu dùng.

– Lương của một Hạ sỹ quan CS Thái lan khoảng 18,000 baht

– Lương của một Sỹ quan CS Thái lan mới ra trường khoảng 20,000 baht.

– Lương cho giáo viên thì rất cao, bằng khoảng 130% của lương viên chức khác.

– Lương của một viên chức trung bình khoảng 23,000 baht.

Nhìn chung lương viên chức ở Thái lan thì thấp, song họ có các chế độ đãi ngộ khác kèm theo khá tốt như các vấn để an sinh xã hội dành cho người nhà của viên chức như bố, mẹ, vợ con v.v…

Mặt khác ở Thái lan có chế độ giáo dục miễn phí 12 năm, chữa trị y tế hoàn toàn free 100%, có trợ cấp cho người già, người tàn tật. Vì vậy với mức lương trung bình 23,000 baht/tháng cũng đủ sống không phải kiếm thêm. Hầu như không thấy hiện tượng viên chức người Thái phải làm thêm. Hầu như đối tượng này có nhà riêng và xe hơi.

Những người có khả năng thì họ đi làm cho các công ty tư nhân, lương cao hơn khoảng 140% so với lương viên chức.

Vật giá ở Thái lan khá rẻ. Thức ăn bán sẵn cho 03 người một bữa có 03 món thịt, cá và canh khoảng 100 baht là tạm ổn, cơm thì nấu ở nhà.

Lái xe taxi cũng là một nghề tự do kiếm tiền khá, song nếu phải thuê xe thì một ngày cũng phải trả tiền thuê khoảng 7-800 baht/ngày nên cũng chẳng thừa được bao nhiêu. Còn lại khoảng 7-800 baht/ngày sau khi trừ tiền mua gaz.

Có xe riêng thì được nhiều. Chạy xe ôm là việc dễ làm, chỉ cần có moto và trả phí hàng ngày chừng 50-60 baht cho chủ bến (Cảnh sát) thì mỗi ngày chịu khó cũng kiến được khoảng 1,000 baht.

Lạm phát ở nước Thái thì ít so với VN, em ở bên này 23 năm thì thấy vật giá mới tăng khoảng 150%, thế cũng là phù hợp với tốc độ suy thoái kinh tế toàn cầu. Tất nhiên cũng phải kể đến nguyên nhân chính là việc nâng mức lương tối thiểu của lao động phổ thong từ 6,000 baht/ tháng lên 9,000 baht/tháng.

Em viết vội cho anh như vậy, có gì cần biết anh cứ bảo em nhé.

Chúc anh khỏe.

Ở VN thì đơn vị tiền tệ không phải là tiền baht mà là tiền Bác. Đồng tiền này được lưu hành trên toàn quốc từ ngày 23 tháng 9 năm 1975. Sự kiện này được báo Sài Gòn Giải Phóng (số ra ngày 27 tháng 9 cùng năm) ghi lại thế này đây:

Nhiệm vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ… Làm trung gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi… Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho nhân dân ta.”

Tiền Bác. Ảnh: facebook

Ba mươi tám năm sau, nhà báo Huy Đức mới có lời bàn thêm, và bàn ra, nghe như một tiếng thở dài: “Không biết ‘tủi nhục’ đã mất đi bao nhiêu … nhưng rất nhiều tiền bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.”  (Bên Thắng Cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Thảo nào mà trong dân gian không thiếu những câu thơ (nghe) hơi thừa cay  đắng:

Máu rợn mùi tanh, cuộc đổi đời

Ba lần cướp trắng lúc lên ngôi

Miền Nam “ruột thịt” âm thầm hiểu: 

Cách mạng là đây: bọn giết người !

Mà đắng cay là phải vì hiện nay Việt Nam đã trở thành một trong mười quốc gia có đồng tiền trị giá thấp nhất thế giới, , theo như ghi nhận của dondwest.hubpages.com/hub/Worthless-Fiat-Currency:

1. Somalia
2. VIETNAM
3. São Tomé and Príncipe
4. Iran
5. Indonesia
6. Laos
7. Guinea
8. Zambia
9. Paraguay
10. Sierra Leone

Theo thời giá thì 100 baht, nếu tiện tặn, có thể đủ tiền chợ nguyên ngày cho một gia đình ba người. Còn 1.000 ngàn đồng tiền Bác thì ngay cả đến giới ăn xin cũng không muốn nhận – như tường thuật của nhà báo Bạch Nga, trên Vietnamnet:

Trong khi ngồi đợi xe ở trạm trung chuyển xe bus Long Biên, tôi được dịp chứng kiến cảnh một bà lão ăn xin chê tiền của khách.

‘Cô tính thế nào chứ 2 nghìn bây giờ chả đủ mua mớ rau, lần sau đã mất công cho thì cho ‘tử tế’ nhá!’

Câu nói của bà lão ăn xin khiến nhiều người phải sốc…

Chị Hương (Cầu Giấy – Hà Nội) chia sẻ câu chuyện có thật mà như đùa: ‘Nói thật, có lần gặp hai chị em nhà này đi ăn xin, thương tâm quá tôi liền rút ví ra đưa cho chúng 3 nghìn lẻ. Ngay lập tức, nó gọi tôi lại, giơ tờ 5 nghìn đồng lên trước mặt tôi bảo: cho chị thêm 2 nghìn cho đủ mua mớ rau nhé.”

Ảnh: vtc

Lý do khiến đồng Bác bị nhân dân, cũng như nhân loại, rẻ rúng được nhà báo Nguyễn Vũ Bình lý giải như sau:

“Nhà nước VN, từ khi thành lập tới nay, đều giữ bí mật về lượng tiền in ra, phát hành. Ngoài mấy lần đổi tiền, làm người dân vô cùng điêu đứng, thì khi bước vào chuyển đổi cơ chế kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường cũng liên tục vi phạm nguyên lý về mối tương quan giữa lượng tiền phát hành và năng lực của sản xuất của nền kinh tế.

Việc in tiền không căn cứ và không có giới hạn khiến cho giá cả hàng hóa năm nào cũng tăng ít nhất từ 20-50%/năm (trong khi các nền kinh tế thị trường chỉ từ 5-7%). Đồng tiền mất giá đã bóp méo toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh cũng như giảm mức sống mà người dân đáng ra phải được hưởng…”

Những cái “người dân đáng ra phải được hưởng” – xem chừng – mỗi lúc một xa khỏi tầm tay, và càng ngày thì cuộc sống càng thêm “điêu đứng.”  Đã đến lúc mà vấn đề được đặt ra theo một chiều hướng khác, thách thức thấy rõ:

“Liên tiếp trong một thời gian ngắn, xăng và điện tăng giá, một số thành phố sẽ thu phí đường bộ đối với xe máy từ ngày 1-7 tới… Tiền điện tăng 100%, giá xăng dầu được dự báo vẫn theo chiều hướng tăng vọt dù giá nhập giảm tới… 40%, nồi cơm của nhiều gia đình chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng bởi thu nhập không tăng kịp theo tương xứng. Nhiều bà nội trợ chắc chắn sẽ chật vật vì phải cắt khoản chi tiêu này, giảm khoản kia để tổ ấm của mình tồn tại…

Ảnh: Pháp Luật

Trong cuộc sống sự nhẫn nại là một đức tính tốt nhưng vấn đề là nhẫn nại của chúng ta có giới hạn không?” (Benjamin Ngô. “Sự Nhẫn Nại Của Chúng Ta.” Báo Pháp Luật, số ra ngày 28 tháng 6 năm 2015).

Tôi may mắn không “phải” sống ở Việt Nam nên không dám lạm bàn chi về mức độ “giới hạn nhẫn nại” của đồng bào mình. Lêu bêu ở xứ người, đôi lúc, tôi chỉ trộm nghĩ rằng giá mà đừng có Bác (và mấy đồng bạc của Người) thì thiệt là đỡ khổ cho dân Việt biết chừng nào!

Muốn bắt ai thì bắt?

Muốn bắt ai thì bắt?

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-09-23

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu khai mạc kỳ họp mùa hè của Quốc hội tại Hà Nội, tháng 5, năm 2015.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (ảnh minh hoạ) Vào ngày 14/9 ông phát biểu tại phiên thảo luận về Bộ luật hình sự (sửa đổi) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là: “không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung, muốn bắt ai thì bắt”.

AFP

Một số nhà hoạt động và cựu tù chính trị tại Việt Nam bị cơ quan an ninh và công an bắt giữ với cớ để điều tra.

Trường hợp của họ ra sao?

Trường hợp gần nhất và lâu nhất

Vụ việc bắt giữ gần nhất là đối với cựu tù nhân chính trị, cựu trung tá Trần Anh Kim, xảy ra vào sáng ngày 21 tháng 9 vừa qua. Bà Nguyễn Thị Thơm, vợ ông này cho biết cơ quan chức năng đến nơi làm việc rồi đưa bà ra trụ sở Công an Thành phố Thái Bình. Bà bị giữ tại đó từ khi bị đưa đi vào buổi sáng cho đến khoảng 4:30 chiều mới được đưa về nhà. Theo bà khi về đến nhà bà mới được giao lệnh nói chồng bà bị bắt đi vì trong máy tính của ông ta có ‘tuyên bố’ gì đó.

Sau hơn 24 tiếng đồng hồ, bà vợ cựu tù chính trị Trần Anh Kim, ra Sở Công an Thành phố Thái Bình để hỏi thăm về người chồng bị bắt đưa đi. Sau hơn 48 tiếng đồng hồ, bà này cho biết:

“ Chiều hôm qua lúc 4 giờ tôi ra Công an Thái Bình hỏi; đến chỗ cổng nói với người trực cho tôi gặp Phòng Điều tra An ninh. Họ bảo có chuyện gì, tôi nói hôm qua họ bắt ông Kim và nay giam ở đâu cho tôi biết để đi thăm nuôi. Chú trực cổng gọi lên phòng Điều tra An ninh và tôi được phó phòng trả lời đang giam ông Kim ở Trại Tạm giữ- Tạm giam ở Thái Bình. Đó là trại lần đầu ông Kim bị bắt cũng giam ở đó. Tôi đến Trại Tạm giam thì họ nói về đi, thứ năm đi tiếp tế. Có thông tin gì thì vài ba ngày nữa sẽ báo cho tôi. Tôi muốn gặp cán bộ để hỏi nhưng không có ai, còn nhân viên thì họ không dám trả lời. Còn từ hôm qua đến nay tôi chưa được họ báo gì về thông tin ông Kim cả.”

Một người bị bắt giam hơn một năm nay là ông Nguyễn Hữu Vinh, người chủ xướng trang blog Anh Ba Sàm. Ông này cùng người cộng sự Nguyễn thị Minh Thúy vào ngày 5 tháng 5 năm 2014.

Luật sư Hà Huy Sơn, người tham gia bào chữa trong vụ việc Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh vào sáng ngày 23 tháng 9 cho biết:

Tôi hiện là người bào chữa (ông Nguyễn Hữu Vinh bị bắt giam hơn một năm nay) nhưng chưa được thông báo vụ án đang do cơ quan nào giải quyết cả

Luật sư Hà Huy Sơn

“ Văn bản mới nhất mà tôi nhận được là ngày 17 tháng 8; đó là kết luận điều tra bổ sung. Và từ đó cho đến nay tôi chưa nhận được thông báo của cơ quan nào cả; nên hôm nay tôi đang làm văn bản yêu cầu các cơ quan trả lời.

Tôi hiện là người bào chữa nhưng chưa được thông báo vụ án đang do cơ quan nào giải quyết cả.”

Ngoài những trường hợp vừa nêu, trong tháng 9 này có hai người bị bắt đi đến nay vẫn chưa được thả và thông tin về họ cũng rất ít, chỉ được một số nhà hoạt động quan tâm đưa lên mạng. Đó là trường hợp của ông Lê Vũ Đài và Nguyễn Hữu An. Cả hai bị bắt từ ngày 2 tháng 9 vừa qua.

Mực sư Nguyễn Trung Tôn, người biết về ông Lê Vũ Đài cho biết một số thông tin về ông này như sau:

“ Anh Lê Vũ Đài là người Tiền Hải, Thái Bình, sinh năm 1989. Trước đây anh cùng bà con Tiền Hải, Thái Bình đi khiếu kiện nhiều nơi. Trong tay anh có một số bằng chứng về việc cán bộ tham nhũng rồi này kia… Trong một giai đoạn anh tham gia khiếu kiện đông người, nhưng sau này do áp lực nào đó anh đi vào Thanh Hóa theo một công ty giấy và làm kỹ thuật.”

Từ ‘gây rối trật tự’ đến ‘chính trị’

Một trường hợp khác bị bắt từ ngày 12 tháng 4 năm nay ở Hà Nội khi tham gia tuần hành kêu gọi bảo vệ cây xanh ở thủ đô; đó là anh Nguyễn Viết Dũng.

Gia đình anh này cho biết mãi 20 ngày sau khi bắt giam, cơ quan chức năng mới thông báo cho gia đình biết việc bắt giữ anh này để điều tra. Ông Nguyễn Viết Hùng, cha của anh Nguyễn Viết Dũng, vào trưa ngày 23 tháng 9, từ nhà riêng ở Xóm Trần Phú, xã Hậu Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, cho biết:

“ Gia hạn thêm 2 tháng điều tra vì theo thông tin thì họ không điều tra được gì nên tự gia hạn thêm 2 tháng. Gia đình cũng chỉ biết thế qua luật sư Trần Thu Nam chứ ngoài ra có được biết gì đâu.

Nói tóm lại từ khi bị bắt đến nay là hơn 5 tháng rồi. Khi được 3 tháng thì họ nói với bên luật sư gia hạn thêm hai tháng. Từ hôm đến giờ, tôi đi thăm cháu được 4 lần, nhưng chỉ gửi quà thôi chứ không được gặp mặt. Gửi quà qua quản giáo của công an quận.”

Luật sư Trần Thu Nam, người tham gia bào chữa cho anh Nguyễn Viết Dũng, cũng chia sẽ một số thông tin về anh này sau vài lần tiếp xúc với anh trong tù:

Tôi nói thật là ta phát biểu nhiều khi cũng vi phạm, bắt cũng được đấy. Nói như vậy để thấy là không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung như vậy, muốn bắt ai thì bắt, đâu có được.

chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng

“ Sức khỏe thì tốt thôi, không sao cả. Dũng mắt kém, bị cận mà ăn uống trong trại giam không như bên ngoài, nên sức khỏe không được tốt bằng ở ngoài. Thiếu chất nên mắt kém đi, tay chân không được linh hoạt nữa. Theo tin mới nhất từ luật sư Lê Văn Luân, cũng bào chữa trong vụ án này, mới trong buổi sáng ngày hôm nay thì có trao đổi sức khỏe của Dũng bình thường, có lên cân; nhưng do mất vệ sinh nên bị ghẻ ngoài da một chút, bệnh ngoài da.

Đó là về sức khỏe, còn về nội dung thì anh có khai tham gia đi dự buổi tuần hành cây xanh cùng các bạn trẻ khác, và anh có cầm những cái áo in hình logo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngày xưa. Đó là sự ngưỡng mộ của anh ta, và là ý kiến cá nhân.”

Bị kết án theo những điều luật mơ hồ

Ông Nguyễn Viết Hùng cho biết con ông khi bị bắt đang mặc áo quần theo quân phục trước đây của một binh chủng Việt Nam Cộng Hòa. Ông cho rằng việc làm đó không có gì sai trái vì đó là sở thích cá nhân. Cũng như trước đây con trai ông là Nguyễn Viết Dũng từng một lần treo cờ vàng ba sọc đỏ trên nhà. Lần đó cơ quan chức năng xã đã đến bắt gỡ cờ xuống và đưa anh Nguyễn Viết Dũng lên trụ sở. Tại đó Nguyễn Viết Dũng tranh luận với các bộ xã và họ phải để Dũng về.

Trường hợp của những người bị giam giữ lâu như blogger Anh Basam Nguyễn Hữu Vinh hay của những người mới bị bắt gần đây đều được nhiều người biết rõ việc làm của họ cho là không có gì vi phạm Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, cũng như một số người từng bị bắt trước đây thì cuối cùng cơ quan chức năng cũng qui họ vào những điều của Bộ luật Hình sự như điều 88- tuyên truyền chống nhà nước, hay 258- Lợi dụng quyền tự do, dân chủ xâm phạm quyền và lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích của cá nhân, tập thể, hoặc nặng hơn là điều 79- âm mưu hay có hoạt động lật đổ chính quyền.

Những điều luật này lâu nay bị lên án là mơ hồ và được yêu cầu phải sửa đổi. Chính chủ tịch quốc hội Việt Nam, ông Nguyễn Sinh Hùng được truyền thông trong nước trích dẫn phát biểu tại phiên thảo luận về Bộ luật hình sự sửa đổi rằng ‘“Tôi nói thật là ta phát biểu nhiều khi cũng vi phạm, bắt cũng được đấy. Nói như vậy để thấy là không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung như vậy, muốn bắt ai thì bắt, đâu có được”.

Blogger Tạ Phong Tần: Tôi sẽ kiện Việt Nam ra tòa quốc tế

Blogger Tạ Phong Tần: Tôi sẽ kiện Việt Nam ra tòa quốc tế

Cộng đồng người Việt trong đó có blogger Điếu Cày ra đón blogger Tạ Phong Tần tại sân bay Los Angeles.

Cộng đồng người Việt trong đó có blogger Điếu Cày ra đón blogger Tạ Phong Tần tại sân bay Los Angeles.

VOA Tiếng Việt

22.09.2015

Nhà bất đồng chính kiến mới được tự do cho biết rằng bà cùng blogger Điếu Cày sẽ đưa Việt Nam ra tòa quốc tế vì đã tống giam bà và ông Điếu Cày trái pháp luật.

Tuyên bố được đưa ra hôm 21/9, hai ngày sau khi bà Tần được Việt Nam phóng thích và lặng lẽ cho đi Mỹ. Nữ blogger này nói với VOA Việt Ngữ:

“Tôi làm còn hoành tráng hơn anh Điếu Cày ấy chứ vì anh Điếu Cày khi sang Mỹ là bị cướp hết các giấy tờ như bản kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và các thứ khác. Anh Điếu Cày còn thiếu hồ sơ để khởi kiện nhưng mà tôi mang đi được đầy đủ hết. Vụ kiện của tôi còn hoành tráng hơn vì tất cả các bài viết của tôi đã đăng công khai với tên Tạ Phong Tần trên mạng Internet. Khi bọn họ đưa những thứ đó ra trước tòa để buộc tội tôi, nhưng họ không dám tranh luận với tôi là cụ thể tôi sai ở chỗ nào. Khi tôi yêu cầu được đối chất với các điều tra viên giám định tài liệu đó thì cũng không được đáp ứng. Đó là việc vi phạm luật pháp Việt Nam một cách hết sức trầm trọng, chưa nói tới việc vi phạm luật pháp quốc tế. Ngay cả căn cứ theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tôi không phạm tội.”

“ Tôi bị bắt buộc phải ra đi. Một là tôi phải ngồi đủ 10 năm trong tù và 5 năm quản chế. Hai là tôi phải sang Mỹ. Trong những cái tệ thì chúng ta phải chọn cái nào đỡ tệ hơn chứ? Chúng tôi đi ra nước ngoài thì việc đấu tranh sẽ còn khó khăn hơn nhưng vẫn còn hơn là chúng tôi phải ngồi ở trong tù, không thể làm gì được…

Blogger Tạ Phong Tần nói.”

Bà Tần, chủ trang blog Công lý và Sự thật, bị bắt vào ngày 5/9/2011 và bị kết án tù 10 năm vào năm 2012 vì tội Tuyên truyền chống Nhà nước theo điều 88 Bộ Luật Hình sự.

Bà cũng là một trong những thành viên sáng lập Câu lạc bộ Nhà báo tự do cùng với blogger Điếu Cày (Nguyễn Văn Hải) năm 2007.

Những năm qua, nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế cũng như các nước phương Tây đã kêu gọi Hà Nội trả tự do cho blogger từng làm trong ngành công an của Việt Nam.

Bà Tần kể với VOA Việt Ngữ về quyết định đi Mỹ:

“Tôi bị bắt buộc phải ra đi. Một là tôi phải ngồi đủ 10 năm trong tù và 5 năm quản chế. Hai là tôi phải sang Mỹ. Trong những cái tệ thì chúng ta phải chọn cái nào đỡ tệ hơn chứ? Chúng tôi đi ra nước ngoài thì việc đấu tranh sẽ còn khó khăn hơn nhưng vẫn còn hơn là chúng tôi phải ngồi ở trong tù, không thể làm gì được. Tôi đã bỏ phí mất hơn 4 năm ngồi trong tù, và tôi cảm thấy thời gian rất là phí phạm. Khi tình hình xã hội Việt Nam có sự thay đổi, thì tôi cũng sẽ quay lại Việt Nam để giúp đỡ những người dân trong nước.”

“ Tôi làm còn hoành tráng hơn anh Điếu Cày ấy chứ vì anh Điếu Cày khi sang Mỹ là bị cướp hết các giấy tờ như bản kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và các thứ khác. Anh Điếu Cày còn thiếu hồ sơ để khởi kiện nhưng mà tôi mang đi được đầy đủ hết. Vụ kiện của tôi còn hoành tráng hơn vì tất cả các bài viết của tôi đã đăng công khai với tên Tạ Phong Tần trên mạng Internet…

Blogger Tạ Phong Tần cho biết.”

Cuối năm ngoái, ít lâu sau khi đặt chân tới Mỹ, blogger Điếu Cày cũng tuyên bố sẽ kiện chính quyền Hà Nội ra tòa quốc tế vì đã tống giam trái phép các thành viên của Câu lạc bộ Nhà báo tự do, và bày tỏ tự tin rằng ông sẽ “thắng kiện”.

Nhà bất đồng chính kiến này từng nói:

“Họ không có đủ chứng cứ để buộc tội chúng tôi. Vụ án đã bị vỡ, bị sụp đổ rồi nhưng họ cố tình giam nhốt chúng tôi. Vì vậy mà chúng tôi phải đi ra ngoài này để bắt đầu vụ án đó từ một tòa án khác, tòa án của cộng đồng quốc tế. Chúng tôi từng bước một sẽ tiến hành việc đó. Tôi sẽ tìm kiếm các nguồn lực, các tổ chức quốc tế để giúp đỡ chúng tôi đưa vụ đó ra tòa quốc tế. Tôi tin rằng, về mặt pháp lý, chúng tôi sẽ thắng kiện.”

Việt Nam luôn bác bỏ các cáo buộc cho rằng Hà Nội bóp nghẹt tiếng nói của người dân cũng như bắt giữ những người bất đồng chính kiến.

Tuy nhiên, mới đây, hôm 14/9, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói rằng Việt Nam “không thể để một cái tội chống nhà nước quy định chung chung, muốn bắt ai thì bắt”.

Người đứng đầu cơ quan lập pháp của Việt Nam cũng đề nghị phải làm rõ tội danh chống phá nhà nước nhằm “đảm bảo công bằng, đảm bảo quyền con người và quyền của công dân”.

Bị công an ép nhận tội, dù không giết người

Bị công an ép nhận tội, dù không giết người
Nguoi-viet.com

SÓC TRĂNG (NV) – Ông Trần Hol, 29 tuổi và ông Thạch Sô Phách, 26 tuổi vừa giải thích tại sao họ thú nhận đã giết ông Lý Văn Dũng, 42 tuổi.

Ông Trần Hol (trái) và ông Thạch Sô Phách (phải). (Hình: VietNamNet)

Hồi đầu tháng 7 năm 2013, ông Lý Văn Dũng, 42 tuổi, một người chạy xe ôm, ngụ tại huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng bị giết với 7 nhát dao. Chiếc xe, điện thoại di động và ví của nạn nhân vẫn còn tại hiện trường.

Đến trong tuần tháng 7 năm 2013, công an Sóc Trăng xác định vụ án mạng này là do hiềm khích cá nhân và bắt khẩn cấp ông Trần Hol vì ông Hol từng có xung đột với nạn nhân. Sau đó công an lần lượt bắt giữ thêm năm người khác là bạn bè của ông Hol gồm: Trần Cua, Trần Văn Đỡ, Thạch Sô Phách, Thạch Mươl, Khâu Sóc.

Tất cả thú nhận đã cùng nhau giết ông Dũng. Công an còn bắt thêm một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Bé Diễm, tiếp viên của một quán nhậu tại thị trấn Lịch Hội Thượng, huyện Trần Đề, với lý do “không tố giác tội phạm.”

Theo kết luận điều tra của công an tỉnh Sóc Trăng và cáo trạng của Viện Kiểm Soát tỉnh Sóc Trăng thì Thạch Sô Phách thú nhận đã cùng các bạn của mình là: Hol, Đỡ, Cua, Sóc, Mươl đánh và đâm ông Dũng. Riêng cô Nguyễn Thị Bé Diễm thì “thừa nhận” có nghe và biết về “âm mưu” của nhóm thanh niên này.

Sau khi hoàn tất “kết luận điều tra,” các điều tra viên trong “Ban Chuyên Án” được thượng cấp khen thưởng. Họ đã nhận quyết định khen thưởng và chờ nhận hiện kim là tiền thưởng do “thành tích phá án nhanh.”

Đúng lúc đó thì có một cô gái tên là Lê Thị Mỹ Duyên, ngụ tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, đến công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Sài Gòn, đầu thú vì là đồng phạm trong vụ án giết ông Dũng. Cô Duyên cho biết, cô đã cùng cô Nguyễn Kim Xuyến, ngụ tại huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, giết ông Lý Văn Dũng để cướp tài sản nhưng vụ cướp bất thành. Sau đó cả hai rời Sóc Trăng lên Sài Gòn. Tại Sài Gòn, cô Xuyến có quan hệ tình cảm với người khác. Cô Duyên quyết định ra đầu thú để cả hai có thể ở bên nhau đến trọn đời trong… tù.

Công an Sài Gòn không phải là công an Sóc Trăng nên hệ thống tư pháp đã kiểm tra toàn bộ lời khai của cô Duyên và nhận thấy những lời khai này trùng khớp hoàn toàn với các tình tiết của vụ án. Cũng vì vậy, tháng 2 năm 2014, Viện Kiểm Soát tỉnh Sóc Trăng phải ký, công bố quyết định đình chỉ điều tra đối với 7 người mà chính họ phê chuẩn lệnh bắt.

Cáo trạng do cơ quan điều tra của Viện Kiểm Soát Tối cao lập và vừa công bố cho biết, sở dĩ bảy thanh niên không “giết người,” không “che giấu tội phạm” nhưng vẫn “nhận tội” vì đã bị tra tấn.

Ông Thạch Sô Phách giải thích lý do ông “thú nhận” đã cùng các bạn mình “giết người” là vì điều tra viên Triệu Tuấn Hưng treo lên cửa sổ bằng còng số 8, chỉ còn để các đầu ngón chân chạm đất, rồi dùng tay, đầu gối, đánh liên tục vào bụng. Triệu Tuấn Hưng còn dùng khăn lau bàn bọc nước đá buộc vào hạ bộ của ông Phách…

Ông Trần Hol cũng bị tra tấn như ông Phách nhưng ông Hol dứt khoát không chịu nhận tội theo ý các điều tra viên. Cuối cùng, ông Hol đầu hàng vì điều tra viên Nguyễn Hoàng Quân đánh vào cổ. Lối tra tấn này khiến nạn nhân kiệt sức vì không thể ăn, uống và không nhận tội thì sẽ chết do kiệt sức.

Theo dự kiến thì ngày 24 tháng này, tòa án tỉnh Sóc Trăng sẽ đưa hai điều tra viên: Nguyễn Hoàng Quân, Triệu Tuấn Hưng ra xử vì “dùng nhục hình” và kiểm soát viên Phạm Văn Núi ra xử vì “thiếu trách nhiệm.”

Tuy nhiên cả bảy thanh niên bị bắt oan, truy tố oan cùng khẳng định, ngoài Quân và Hưng còn hàng chục điều tra viên khác tham gia tra tấn, ép họ nhận tội. Tình trạng tương tự cũng đã xảy ra tại trại tạm giam của công an tỉnh Sóc Trăng.

Ông Hol cho biết, trước khi bị giải về công an tỉnh Sóc Trăng, ông đã bị hàng chục sĩ quan của công an huyện Trần Đề đánh đập trong phòng tạm giam.

Ông Trần Văn Đở – một trong bảy người từng phải “cúi đầu nhận tội” tố cáo, ông nhớ có một điều tra viên tên Huy của công an huyện Trần Đề tham gia tra tấn ông và tại trại tạm giam của công an tỉnh Sóc Trăng, có cả ông Nguyễn Hoàng Phú – phó phòng cảnh sát điều tra (PC 45) của công an tỉnh Sóc Trăng, tham gia tra tấn ông.

“Ban Chuyên án” được khen thưởng vì thành tích “phá án nhanh” trong vụ ông Lý Văn Dũng bị giết có ông ông Nguyễn Việt Thanh, trưởng phòng PC45 làm trưởng ban. Các ông Nguyễn Hoàng Phú, Phan Văn Lắm – cùng là phó phòng PC45 và ông Hồ Văn Nhiều – phó công an huyện Trần Đề làm phó ban. Chưa kể hàng chục điều tra viên khác là thành viên.

Chỉ có hai điều tra viên trong “Ban Chuyên Án” này bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Những thành viên khác trong “Ban Chuyên Án,” từ trưởng ban trở xuống chỉ phải kiểm điểm và bị cảnh cáo hay khiển trách.

Ông Hol – một trong bảy nạn nhân bảo với tờ VietNamNet rằng, “Ban Chuyên Án” đã làm gia đình ông tan nát, bạn bè không nhìn mặt nhau. Đó là một ác mộng và ông mong nó qua mau. (G.Đ)

Cô dâu 14 tuổi và hành trình bị bán sang Trung Quốc

Cô dâu 14 tuổi và hành trình bị bán sang Trung Quốc

VOA
Trà Mi
20-9-2015
Ảnh cưới của Lý Thị Minh lúc 14 tuổi, và ông Pay Long Phe, một thợ hồ Trung Quốc. Ảnh cưới của Lý Thị Minh lúc 14 tuổi, và ông Pay Long Phe, một thợ hồ Trung Quốc.

Ảnh cưới của Lý Thị Minh lúc 14 tuổi, và ông Pay Long Phe, một thợ hồ Trung Quốc.
Ảnh cưới của Lý Thị Minh lúc 14 tuổi, và ông Pay Long Phe, một thợ hồ Trung Quốc.

Hôn nhân đổi chác giữa các cô gái Việt với đàn ông nước ngoài không phải là hiếm, nhưng câu chuyện gửi tới các bạn hôm nay sẽ phơi bày sự thật đau lòng về thảm trạng buôn người mà nạn nhân là các bé gái ở những vùng biên giới của Việt Nam đang hàng ngày bị bắt cóc bán cho những người đàn ông nông thôn ở Trung Quốc mua về làm vợ.

Đó là nghịch cảnh của 3 chị em Lý Thị Sua, Lý Thị Minh, và Lý Thị Sinh cùng bị bắt cóc và bị bán sang Trung Quốc vào năm 2011 lúc Sua mới lên 13, Minh tròn 14, và Sinh bước vào tuổi 20. Hai người em là Sua và Minh đã tìm cách thoát về Việt Nam, còn cô chị hiện chưa biết tung tích ở đâu, sống chết thế nào.

Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi với Minh, cô gái dân tộc Hmong không nói được tiếng Kinh, bị gián đoạn rất nhiều lần vì nỗi sợ hãi, lo lắng, và những chấn động tâm lý chưa nguôi ngoai sau khi cô vượt thoát người chồng Trung Quốc trở về Việt Nam với gia đình ở xóm Khuổi Vin, xã Lý Bôn, huyện Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng) hôm 22/7 vừa qua.

Minh vẫn còn nhớ như in cái ngày định mệnh đã rẽ ngoặc cuộc đời cô, thay đổi tương lai của cô bé tuổi cài trâm bị bán, bị ép làm vợ một người đàn ông quê mùa, ít học ở xứ lạ quê người. Không có ngày ấy thì giờ đây Minh lẽ ra đang là một thiếu nữ bước vào tuổi 18 đầy hoa mộng và hứa hẹn. Nhưng sau 4 năm bị bán sang Trung Quốc, Minh giờ đây là một bà mẹ trẻ đã bỏ lại đứa con thơ chưa dứt sữa để chạy trốn khỏi người chồng Trung Quốc.

Cô dâu 14 tuổi

Chuyện xảy ra ngày 28 tháng 4 năm 2011, khi chị em Minh được 3 thanh niên mới quen, trạc ngoài đôi mươi, người dân tộc Nùng, rủ đi lễ hội ở chợ Khâu Vai, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Trong số này có một người tên là Lò Văn Hiền, trú ở xã Đức Hạnh, cùng huyện Bảo Lâm với 3 nạn nhân. Sau khi mời các cô ăn uống dọc đường, thay vì đi Hà Giang như hứa hẹn, nhóm thanh niên đã chở thẳng 3 chị em qua Trung Quốc sang tay cho một đường dây buôn người chuyên săn tìm các cô gái Việt bán cho những người đàn ông Trung Quốc không đủ khả năng lấy vợ bản xứ.

Qua lời thông dịch của anh trai, cô Minh thuật lại:

“Sau khi Hiền cùng đồng bọn đưa 3 chị em chúng tôi tới đường biên giới Việt Nam-Trung Quốc, họ cho chúng tôi xuống xe và tát chúng tôi mỗi người một cái. Lúc đó, chúng tôi mới tỉnh vì trước đó họ có cho chúng tôi uống nước và có thể có chứa chất gây kích thích tâm lý. Họ đòi điện thoại của chúng tôi. Hiền và đồng bọn đã đánh 3 chị em tôi, đưa dao kề cổ khống chế và dọa giết nếu chúng tôi bỏ chạy. Sau đó, họ đưa chúng tôi vào nhà một người Hmong ở Trung Quốc cách đường biên giới Việt Nam khoảng 7 giờ đồng hồ. Trong nhà này có một người đàn ông khoảng 45-50 tuổi chuyên mua bán phụ nữ từ Việt Nam sang Trung Quốc. Họ cho người canh gác 3 chị em tôi rất nghiêm ngặt. Sáng hôm sau, họ bán chị Sinh và Sua đi trước. Hiền và đồng bọn thì về Việt Nam. Khi tôi van xin được nhìn 2 chị em của tôi lần cuối thì ông chủ nhà đưa cho xem một khẩu súng ngắn và nói ‘Chúng tao sẽ dùng khẩu súng này đi đón 2 chị mày.’ Một ngày sau, có một cặp vợ chồng tới đón tôi chở thẳng tới tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc. Vợ là người Hmong Việt Nam.”

Minh không rõ tên của người đàn ông Trung Quốc tới đón cô đi bán, nhưng người đàn bà Hmong Việt Nam đi cùng, theo cô được biết, tên là Thào Thị Tráng, một tay buôn người chuyên nghiệp thường xuyên cung cấp gái cho những người Trung Quốc muốn lấy vợ Việt Nam. Minh nói lúc đó cô đã nhìn thấy bà Tráng bán 3 cô gái Việt khác, trong đó có một người tên là Mị từ huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, Việt Nam.

Tới Sơn Tây, bà Tráng đưa hình 3 người đàn ông Trung Quốc cho Minh xem và bảo cô phải lấy một trong ba người này làm chồng, nếu không, sẽ bị mang đi bán xa hơn nữa. Không thể chống cự, cuối cùng Minh phải nhận lời làm vợ một người trong ảnh tên là Pay Long Phe, lớn hơn cô 20 tuổi.

Sau cuộc ngã giá, Minh bị bán cho ông Pay, một thợ hồ ngụ tại số 18 đường Bắc, thôn Hà Khẩu, xã Cao Hồng Khẩu, huyện Ngũ Đài. Đây là một vùng quê nghèo, hẻo lánh thuộc tỉnh Sơn Tây có đa phần dân cư là thành phần lao động chân tay, làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày.

Mẹ và em trai ông Pay, qua điện đàm với chúng tôi, dường như hơi bất thường, nói năng không được minh mẫn và mạch lạc. Sau rất nhiều cuộc gọi, khó khăn lắm chúng tôi mới gặp được ông Pay.

Người đàn ông này thừa nhận đã mua cô Minh với giá trên 60.000 nhân dân tệ, khoảng 130 triệu đồng Việt Nam, nhưng ông từ chối tiết lộ bất kỳ thông tin nào về kẻ môi giới. Ông nói ông không biết gì về người này và chưa từng gặp mặt trực tiếp. Ông Pay Long Phe kể:
“Một trong những bà con trong gia đình tôi giới thiệu tôi với người môi giới này vì anh ấy cũng lấy vợ Việt Nam thông qua đường môi giới này.”

Khi được hỏi cuộc mua bán diễn ra thế nào, ông Pay nói tới giờ hẹn, một người nào đó không phải là chủ môi giới đã thả cô Minh vào làng rồi gọi ông ra nhận. Chúng tôi thắc mắc vì sao ông không lấy vợ bản xứ mà đi mua vợ từ Việt Nam, người thợ hồ Trung Quốc không ngần ngại giải thích:

“Tôi nghe nói vợ Việt Nam rất dễ dạy, ngoan hiền, lại siêng năng làm lụng.”
Về số tiền khá lớn ông đã bỏ ra, ông Pay nói đó là giá trung bình phải chi để cưới vợ ở đây, nhưng cưới vợ Trung Quốc còn tốn hơn nhiều vì những đòi hỏi về tiền bạc, nhà cửa, và sính lễ vượt quá khả năng giới lao động như ông.

Kế hoạch vượt thoát

Minh cho biết sau khi bị ông Pay mua về, cô dâu bất đắc dĩ phải chung sống với gia đình chồng gồm 8 người. Hằng ngày cô phải đi làm mướn phụ tiền chi tiêu, nhưng bị gia đình chồng canh chừng rất nghiêm ngặt, tới điện thoại cô cũng không được dùng.
Ở tuổi 14, Minh đã phải chịu đựng biết bao tủi khổ trong cuộc hôn nhân cưỡng ép hơn 4 năm trời mà không một lần dám bỏ trốn vì cô được nghe kể có một trường hợp tương tự sau 2 lần vượt thoát bất thành bị bắt lại, bị đánh đập rất dã man. Minh chia sẻ:
“Mỗi lúc cãi nhau, ông chồng đều nhắc tới chuyện mua tôi và nói rằng nếu không nghe lời thì sẽ mang bán tôi đi một nơi thật xa nữa.”

Bản thân không rành ngôn ngữ bản địa, lại bị đưa đi quá xa, có tìm đường chạy về thì chắc gì đã thành công mà rủi bị bắt lại thì khó sống. Nghĩ vậy nên Minh đành khoanh tay chấp nhận số phận.

Mãi đến tháng 3 năm nay, lần đầu tiên Minh nhờ được một phụ nữ Hmong từ Hà Giang sang Sơn Tây làm vợ người Trung Quốc giúp thông tin với cha mẹ ruột ở Việt Nam. Từ ngày nối liên lạc được với gia đình, Minh nung nấu quyết tâm trở về.

Biết ý muốn của ông Pay bỏ tiền mua vợ chủ yếu kiếm một đứa con, Minh nghĩ chỉ có cách sinh con mới có thể được gia đình chồng tin yêu và có thể thuyết phục họ cho cô về Việt Nam thăm gia đình. Vì vậy, Minh đã cố gắng ‘ngoan ngoãn’ và sinh cho ông Pay một đứa con.
Kế hoạch của cô diễn ra suôn sẻ khi ông Pay cho phép cô lần đầu tiên sau hơn 4 năm ở với ông được về thăm cha mẹ hôm 22/7 vừa qua, lúc con của Minh vừa tròn 18 tháng. Ông đưa Minh tới cửa khẩu Săm Pun, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, và nhờ một phụ nữ buôn bán tại đây dắt qua biên giới, nơi cô đã điện thoại hẹn gia đình đến đón. Minh thuật lại:

“Lúc sắp về, gia đình chồng bàn bạc rất kỹ, nhưng tôi không biết họ nói với nhau cái gì. Lúc tới biên giới, ông chồng dặn về 3 ngày phải quay lại ngay vì đã có một đứa con rồi.”
Nhưng vừa bước chân qua biên giới Việt Nam, Minh đã quyết định không bao giờ trở lại Trung Quốc nữa. Ngay hôm sau, cô đã gọi điện báo cho ông Pay và lập tức thay đổi số điện thoại liên lạc.

Minh nói dứt áo ra đi khi con thơ hãy còn khát sữa là một quyết định hết sức đau lòng và đầy uẩn khúc, nhưng người mẹ trẻ cương quyết thà bỏ con chứ không thể trở lại kiếp sống ‘nô lệ mới’:

“Tôi có nhớ tới đứa con của tôi, nhưng nghĩ lại thấy họ mua bán tôi như một món đồ chơi và một thứ vật nuôi, tôi thấy rất buồn. Nỗi nhớ con tới đâu thì thời gian rồi sẽ quên đi, không đau bằng họ bán tôi như vật nuôi và đánh đập tôi lúc tôi bị họ bắt cóc. Nghĩ tới đó tôi thấy rất cay, rất buồn. Nỗi nhớ con rồi sẽ qua nhưng nỗi đau về thể xác và tinh thần lúc tôi hãy còn là một đứa trẻ con sẽ không qua được, nên tôi quyết định không về nữa.”
Quyết định của Minh khiến người chồng Trung Quốc hết sức bàng hoàng. Ông nói những cô gái được mua về làm vợ như Minh trong làng của ông, có người đã ở đây hơn chục năm nay mà không hề bỏ chạy. Ông Pay trần tình:

“Tôi chỉ muốn cô ấy quay về, đứa con tội nghiệp còn quá nhỏ, nhưng tôi không liên lạc được với cô ấy nữa. Nếu cô ấy quay lại, tôi sẽ cho cô ấy đi đi về về thăm gia đình.”
Tố cáo buôn người và hồi đáp của chính quyền

Vừa về được Việt Nam, Minh đã lập tức trình báo công an huyện Bảo Lâm và gửi đơn tố cáo lên công an tỉnh Cao Bằng về vụ bắt cóc phụ nữ-trẻ em bán sang Trung Quốc mà 3 chị em cô là những nạn nhân trực tiếp.

Người anh cả trong gia đình Minh, anh Lý Thành Lương, cho biết:
“Họ bảo ‘Về được thì tốt rồi,’ chỉ như vậy thôi. Lúc 3 chị em vừa mới mất tích, gia đình đi tìm khắp nơi và lên trình báo công an huyện Bảo Lâm nhiều lần và xin giấy thông hành qua Trung Quốc tìm kiếm, nhưng công an huyện nói không đủ thẩm quyền làm việc này và chỉ lên đồn biên phòng làm. Tới đồn biên phòng, họ bảo không phải thẩm quyền họ làm, mà của công an. Trở lại công an huyện, họ chỉ lên công an tỉnh Cao Bằng. Không có giấy phép đi, gia đình chúng tôi, tôi đây, trực tiếp liều mạng đi tìm ở khu vực giáp biên giới 1, 2 lần nhưng không thấy. Vì mình không có người thân, không biết liên lạc ở đâu nữa, cho nên bó tay. Chỉ biết nhờ vào công an thôi mà họ cũng không giúp được.”

Anh Lương kể hôm 5/4 sau khi nối được liên lạc với Minh, gia đình anh đã gặp trực tiếp ông Lý Hữu Cư , Đội trưởng Đội Phòng chống Tệ nạn Xã hội của Công an huyện Bảo Lâm, nhưng ông Cư nói công an không giúp được và bảo rằng “Biết được còn sống là mừng lắm rồi.”
Trong ba chị em bị bắt cóc bán sang Trung Quốc vào năm 2011, cô Lý Thị Sua là người đầu tiên may mắn chạy thoát về Việt Nam và đã nhiều lần làm đơn tố cáo gửi công an tỉnh, huyện xin can thiệp giải cứu hai chị em còn lại, nhưng cũng không được hồi đáp. Có lần cô nhận diện được kẻ bắt cóc và báo công an, nhưng Lô Văn Hiền bị câu lưu không lâu lại được thả. Phó trưởng công an huyện, ông Dương Minh Hải, nói với gia đình rằng xác minh Hiền không phạm tội nên phóng thích.

Chúng tôi rất nhiều lần liên lạc với công an huyện Bảo Lâm để ghi nhận ý kiến giới hữu trách, nhưng không lần nào được hồi đáp. Trong nhiều tuần lễ liên tiếp, chúng tôi gọi vào số di động của Phó trưởng công an Dương Minh Hải đều không được bắt máy.

Bộ Công an Việt Nam nói đã phối hợp với công an Trung Quốc tấn công tội phạm buôn người từ Việt Nam sang Trung Quốc, nhưng không cho biết đã giải cứu được bao nhiêu trường hợp.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, đồng sáng lập Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Á Châu (CAMSA), tổ chức phi vụ lợi hỗ trợ các nạn nhân bị buôn người tại các vùng biên giới Việt Nam trong đó có trường hợp của cô Minh, cho biết CAMSA đã có phương án can thiệp:

“Chúng tôi đang chờ thêm một thời gian ngắn nữa để xem sự hồi đáp của chính quyền Việt Nam tới đâu, lúc đó chúng tôi sẽ khởi động một cuộc vận động chính phủ Hoa Kỳ can thiệp. Chúng tôi thật sự đã báo động Bộ Ngoại giao Mỹ rồi. Đến nay chúng tôi đã can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp cho 11.000 nạn nhân đã được giải cứu mà không hề có một trường hợp nào được chính quyền Việt Nam điều tra , chưa kể tới vấn đề trừng phạt. Nhưng dù sao chúng tôi cũng phải đi qua thủ tục báo động với chính quyền địa phương trước đã. Luật pháp Hoa Kỳ có điều khoản giải cứu cho nạn nhân và chính phủ Mỹ có cơ quan đánh giá từng quốc gia mỗi năm. Chính phủ nào không hợp tác phòng-chống buôn người thì có thể bị đưa vào cấp hạng 3, có thể bị chế tài. Chúng tôi tin rằng với sự can thiệp của Mỹ, chính phủ Việt Nam sẽ có động cơ để tích cực hơn trong vấn đề giải cứu nạn nhân và trừng trị thủ phạm buôn người.”
Báo chí nhà nước nói trong quý đầu năm nay có 70 vụ buôn người bị phát hiện trên cả nước, với 145 nạn nhân. Trong đó, cứ 10 vụ thì có 8 trường hợp bị bán sang Trung Quốc và các tỉnh trọng điểm bao gồm Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An.

Theo thống kê của CAMSA, chỉ riêng trong xã Lý Bôn của chị em cô Minh hiện có trên dưới 20 phụ nữ bị mất tích. Thời gian gần đây cứ 1, 2 tháng lại xảy ra một trường hợp như thế.
Trong khi chưa có giải pháp chống buôn người hiệu quả, những kẻ buôn người chưa biết sẽ phải trả giá như thế nào, nhưng những trường hợp như cô Minh là một kinh nghiệm đau đớn cho các nạn nhân Việt Nam, một bài học cay đắng cho những người đàn ông Trung Quốc mua vợ, và là hồi chuông cảnh báo cho toàn xã hội.

Những đứa trẻ từ các cuộc hôn nhân kiểu ‘nô lệ mới’ như thế, số phận chúng rồi sẽ ra sao? Làm sao có thể chấm dứt những hậu quả đau lòng này? Thật đáng buồn, câu trả lời hãy còn bị bỏ ngõ.