Con trai Nguyễn Tấn Dũng làm bí thư tỉnh ủy Kiên Giang

Con trai Nguyễn Tấn Dũng làm bí thư tỉnh ủy Kiên Giang
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV)Con trai lớn của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa được bầu làm bí thư tỉnh ủy tỉnh Kiên Giang, trong khi người con trai thứ nhì được bầu làm tỉnh ủy viên tỉnh Bình Ðịnh.

Ngoài ra, còn có một số người khác là con của các cán bộ cao cấp đảng CSVN cũng được bầu vào một số vị trí quan trọng.


Ông Nguyễn Thanh Nghị vừa được bầu làm bí thư tỉnh ủy Kiên Giang. (Hình: nguyenthanhnghi.net)

Theo truyền thông Việt Nam, tại Hội Nghị Ban Chấp Hành Ðảng Bộ Tỉnh Kiên Giang khóa 10 lần thứ nhất diễn ra ngày 16 Tháng Mười, ông Nguyễn Thanh Nghị, 39 tuổi, được bầu làm làm bí thư tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015-2020.”

Như vậy, con trai ông Nguyễn Tấn Dũng hiện là người trẻ tuổi nhất làm bí thư tỉnh ủy một tỉnh ở Việt Nam.

Cũng vào ngày này, một người con trai khác của ông Dũng là ông Nguyễn Minh Triết, 27 tuổi, “là người trẻ tuổi nhất được bầu vào Ban Chấp Hành Ðảng Bộ Tỉnh Bình Ðịnh nhiệm kỳ 2015-2020 trong số 55 người trúng cử cho nhiệm kỳ mới.”

Trong khi đó, đại hội đảng bộ CSVN thành phố Ðà Nẵng “vừa bầu ông Nguyễn Xuân Anh, phó bí thư thường trực thành ủy, giữ chức bí thư thành ủy, thay ông Trần Thọ.”

Như vậy, ông Nguyễn Xuân Anh, cũng 39 tuổi, hiện là bí thư thành ủy trẻ nhất nước.

Ông là con trai lớn của ông Nguyễn Văn Chi, cựu ủy viên Bộ Chính Trị.

Cũng tại Ðà Nẵng, ông Nguyễn Bá Cảnh, 32 tuổi, con trai Nguyễn Bá Thanh, cựu bí thư thành ủy, đã chết vì ung thư hồi Tháng Hai, được bầu vào Ban Chấp Hành Ðảng Bộ thành phố Ðà Nẵng, trong số 52 người trúng cử nhiệm kỳ 2015-2020.

Ở cương vị bí thư thành ủy và tỉnh ủy, hai ông Nguyễn Xuân Anh và Nguyễn Thanh Nghị gần như chắc chắn sẽ được vào Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN, qua đại hội toàn quốc sắp diễn ra vào đầu năm tới.

Ông Nguyễn Thanh Nghị hiện là ủy viên dự khuyết Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN.

Trước đó, ông là thứ trưởng Bộ Xây Dựng trước khi làm phó bí thư tỉnh ủy Kiên Giang.

Ông có bằng tiến sĩ khoa học kỹ thuật xây dựng của Ðại Học George Washington ở Mỹ, và bằng cao cấp lý luận chính trị.

Khác với người em gái và chị gái đi theo đường kinh doanh, hai ông Nguyễn Thanh Nghị và Nguyễn Minh Triết tiến thân theo đường chính trị nối nghiệp cha.

Việc “cơ cấu” thân nhân bà con hoặc mua chức tước, mà Việt Nam gọi là “chạy chức,” thỉnh thoảng được thấy hé lộ trên báo chí ở trong nước. Người ta chỉ biết đến chuyện có những thứ như thế vậy khi bị truyền thông lôi ra “rọi đèn.”

Hồi tháng trước, dư luận rộ lên với tin, tại huyện Mỹ Đức, huyện ngoại thành của Hà Nội, có chuyện  “10 trong 13 phòng ban có trưởng, phó phòng là anh em, họ hàng với Bí Thư Huyện Ủy Lê Văn Sang.” Khi bị nói một người làm huyện ủy thì cả họ được nhờ và ông Sang nói rằng tất cả mọi vụ bổ nhiệm đều “đúng quy trình,” “đúng pháp luật.”

Cuối năm 2012, dư luận trong nước nóng lên khi một số báo loan tin “chạy công chức ở thành phố Hà Nội” tốn khoảng 100 triệu đồng, theo lời tố cáo của ông Trần Trọng Dực, chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra Thành Ủy, tại phiên thảo luận của HĐND thành phố sáng 7 Tháng Mười Hai, về “tổng biên chế hành chính, sự nghiệp năm 2013.”

Sau các cuộc thanh tra, kiểm tra thì người ta không thấy gì cả rồi mọi chuyện chìm vào quên lãng. (TN)

GIẢI THÍCH -TẢN MẠN BA TÀU

GIẢI THÍCH -TẢN MẠN BA TÀU

Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:
“…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v… Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…”.
“…Kêu Các-chú là bởi người Minh-Hương mà ra; mẹ An-Nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…”.
“…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-Nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-Nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc …”
Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê Ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa. Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:
Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua… và nhất là món hủ tíu Tiều Châu. Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.
Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.
Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang. Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại(Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.
Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ). Trong lĩnh vực ăn uống của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.
Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị. Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.
Theo Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:
– Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
– Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
– Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
– Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:
– Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc
– Bà hai mập, ba đồng sáu cắc
– Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về
Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu… Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia).
Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi. Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?). Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá…còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!
Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn. Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn. Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.

Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại…Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc. Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.
Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “…Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc trưng của Sài Gòn xưa. Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).
Những từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ. Lạp xưởng là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi…
Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu. Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.
Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay. Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối… Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.
Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướpngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm. Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng!
Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là sóc đĩa. Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.
Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai), thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát. Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưa)
Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do.
Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là „đại gia“. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…
Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”.
Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos! Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).

Ảnh của Kimtrong Lam.
Ảnh của Kimtrong Lam.

Bộ Ngoại Giao Mỹ: Việt Nam vẫn chưa có tự do tôn giáo

Bộ Ngoại Giao Mỹ: Việt Nam vẫn chưa có tự do tôn giáo
Nguoi-viet.com

WASHINGTON (NV) Ðó là nhận định tổng quát của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong báo cáo thường niên về tự do tôn giáo trên thế giới.

Theo báo cáo này, chế độ Hà Nội vẫn hạn chế hoạt động của các nhóm tôn giáo không đăng ký, đặc biệt là những nhóm tôn giáo mà chính quyền Việt Nam cho là có liên quan đến chính trị.


Ông Kpuih Bơp bị bí thư xã Ayun, huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai đánh trọng thương vì “lợi dụng tôn giáo gây ảnh hưởng chính trị.” Hành vi bị cáo buộc “lợi dụng tôn giáo gây ảnh hưởng chính trị” là phát mền cho trẻ mồ côi. (Hình: website chuacuuthe.com)

Ngay sau đó, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Việt Nam, lập tức lên tiếng phản bác rằng, báo cáo vừa kể là “không khách quan” vì trích dẫn những thông tin sai lạc về Việt Nam. Nhân vật này cho rằng, chính quyền Việt Nam đã và đang thực thi nhiều chính sách, cũng như biện pháp cụ thể để bảo đảm rằng dân chúng có thể thụ hưởng đầy đủ các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng.

Trong thực tế, chẳng riêng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có nhận định như vừa kể. Hồi tháng 5 vừa qua, Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam từng đề nghị chính quyền Việt Nam viết lại dự luật về tín ngưỡng, tôn giáo, sau khi chính quyền Việt Nam đề nghị lãnh đạo và tín đồ các tôn giáo tại Việt Nam “góp ý” cho dự luật này.

Cần lưu ý rằng, chính quyền Việt Nam chỉ dành hai tuần cho lãnh đạo và tín đồ các tôn giáo tại Việt Nam “góp ý” về dự luật tín ngưỡng, tôn giáo.

Trước đó, trong nhiều cuộc đối thoại với Liên Hiệp Quốc, đại diện chính quyền nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế về nhân quyền tại Việt Nam, các viên chức đại diện chính quyền Việt Nam nhiều lần nhấn mạnh, việc soạn thảo dự luật tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy Việt Nam đang cố gắng cải thiện tình trạng nhân quyền và càng ngày càng tôn trọng tự do tôn giáo.

Tuy nhiên thư góp ý của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, gửi chủ tịch Quốc Hội Việt Nam và trưởng Ban Tôn Giáo Chính Phủ cho thấy, nội dung dự luật tín ngưỡng, tôn giáo mà chính quyền Việt Nam từng “quảng cáo” là một… nỗ lực đáng ngại.

Theo Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, dự luật tín ngưỡng, tôn giáo đã “đi ngược lại với quyền tự do về tín ngưỡng và tôn giáo, gây lo ngại nhiều hơn là đem lại sự bình an cho mọi người.”

Trong phần nhận định chung về dự luật này, Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam nhận định, dự luật bao gồm “những điều luật chỉ nhằm mang lại quyền lợi cho giới cầm quyền mà quên đi quyền lợi của người dân.” Thiếu sót quan trọng nhất của dự luật là không công nhận tổ chức tôn giáo là một “pháp nhân,” điều đó đồng nghĩa với việc không xác nhận tổ chức tôn giáo có quyền “tồn tại hợp pháp trước pháp luật Việt Nam.”

Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam phân tích 14 điểm bất hợp lý, không khả thi, mâu thuẫn với cả Hiến chương Liên Hiệp Quốc lẫn Hiến Pháp của Việt Nam thể hiện ở nhiều chương, nhiều điều trong dự luật.

Do dự luật tín ngưỡng, tôn giáo trái ngược với cả Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền lẫn Hiến pháp mới của Việt Nam, thậm chí còn có sự thụt lùi so với Pháp Lệnh Tín Ngưỡng, Tôn Giáo năm 2004 bởi “tạo ra quá nhiều thủ tục rườm rà, nhiều cơ chế khắt khe, ràng buộc, khiến các sinh hoạt tôn giáo bị cản trở,” Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam khẳng định rằng, Công Giáo Việt Nam “không đồng ý với dự luật tín ngưỡng, tôn giáo.” Ðồng thời đề nghị “soạn lại một dự luật khác phù hợp với xu thế tự do, dân chủ và mang tầm vóc của xã hội tiến bộ.”

Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam khuyến cáo, dự luật được viết lại cần phải được tham khảo ý kiến của các tổ chức tôn giáo và đặc biệt là chính quyền Việt Nam phải “công nhận tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo” để những pháp nhân này được bảo vệ bằng luật pháp.

Hôm 14 tháng 10, khi báo cáo về tự do tôn giáo thường niên được công bố, ông David Saperstein, đại sứ đặc trách về tự do tôn giáo của Hoa Kỳ, nhấn mạnh, trong những lần đến Việt Nam, ông tận mắt chứng kiến các nhóm tôn giáo bị buộc phải thực hiện nhiều thủ tục nhiêu khê và tùy tiện để được hoạt động hợp pháp. (G.Ð)

 

Cải cách chính trị: Nước cao quá gối

Cải cách chính trị: Nước cao quá gối

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-10-15

000_Hkg10160977-622.jpg

Ảnh minh họa chụp tại Thanh Oai, ngoại thành Hà Nội hôm 18/3/2015.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Việt Nam đã thực hiện cải cách thể chế lần thứ nhất khi thực hiện cuộc Đổi Mới cuối thập niên 1980; tiếp theo là một đợt cải cách thể chế nữa khi tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm 2007. Tuy vậy giới học giả chuyên gia cho rằng, cải cách chính trị ở Việt Nam không theo kịp cải cách kinh tế và nền kinh tế không còn động lực để phát triển. Sự kiện Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP được xem như một cơ hội để Việt Nam một lần nữa thực hiện cải cách sâu rộng cả về chính trị và kinh tế. Chung quanh vấn đề này, Nam Nguyên phỏng vấn Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội hiện nghỉ hưu ở TP.HCM.

Có thể có những bước chuyển?

Nam Nguyên: Thưa Luật sư, trên báo chí các cựu bộ trưởng, các chuyên gia thường xuyên báo động về tình trạng trì trệ của guồng máy nhà nước. Họ lo ngại đã không có sự cải cách chính trị đồng bộ với cải cách kinh tế và điều này đã thể hiện trong thời gian vừa qua. Hướng sắp tới Việt Nam sẽ còn hội nhập sâu rộng hơn nữa như  với TPP hoặc FTA với EU chẳng hạn. Luật sư nhận định gì?

Tôi cho rằng việc Việt Nam muốn sửa đổi, thay đổi trong khi Hiến pháp chưa thay đổi thì có thể có những bước chuyển. Còn việc Hiến pháp Việt Nam mà có sửa thì cũng không có gì khó.
-LS Trần Quốc Thuận

LS Trần Quốc Thuận: Vấn đề cải cách kinh tế đồng thời cải cách chính trị thì đã được đặt ra từ Đại hội Đảng lần thứ 10, lần thứ 11 cũng nhắc lại luận điệu này và lần này cũng nhắc lại. Trong dịp tiếp xúc cử tri vừa qua tại Hà Nội Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng có nhắc lại là tất cả cải cách phải tiến hành một cách đồng bộ. Như vậy vấn đề này đã được nhấn mạnh hơn và theo những phát biểu vừa rồi thì sẽ đưa ra Đại hội để bàn, đặc biệt đây là một trong những vấn đề sẽ được Đại hội dồn hết tâm trí, để có những bước đi thế nào cho thích hợp với Việt Nam và đáp ứng tình hình chung của khu vực và thế giới.

Nam Nguyên: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn khẳng định đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng và Nhà nước. TT Hoa Kỳ Obama cũng nói tôn trọng về khác biệt chế độ chính trị của VN. Do vậy nhiều ý kiến nói vẫn có thể cải cách thể chế chính trị mà không cần thay đổi Hiến pháp. Thí dụ vấn đề đặc quyền đặc lợi của doanh nghiệp nhà nước…tạo sân chơi bình đẳng bằng thực tế hành động. Luật sự nhận định gì về khả năng này?

LS Trần Quốc Thuận: Tôi cho rằng việc Việt Nam muốn sửa đổi, thay đổi trong khi Hiến pháp chưa thay đổi thì có thể có những bước chuyển. Còn việc Hiến pháp Việt Nam mà có sửa thì cũng không có gì khó. Nhưng mà nếu kỳ Đại hội Đảng này đặt ra và tình hình bức bách đòi hỏi phải có cải cách, đòi hỏi một thể chế cho phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế phát triển và nhất là thích hợp việc Việt Nam vào TPP, tôi cho rằng việc đó không phải là vấn đề gì ghê gớm. Nhưng mà vấn đề đó chắc chắn là phải được đặt lên bàn hội nghị rồi.

Phải sửa đổi luật cho phù hợp

000_Was8970858-622.jpg

12 nước thành viên Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt TPP tại Atlanta, Mỹ ngày 5/10/2015.

Nam Nguyên: Thưa Luật sư, nhiều người lo ngại về hệ thống pháp luật của Việt Nam thiếu sót nhiều quá và sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện cải cách pháp luật nhưng không đáp ứng và không mang lại lợi ích  phát triển kinh tế. Lần này, Luật sư có nghĩ là cải cách pháp luật triệt để phù hợp thế giới có thể xảy ra được hay không. Đây là một điều thật sự không dễ dàng để thay đổi sự suy nghĩ của từng con người?

LS Trần Quốc Thuận: Tôi cho rằng việc suy nghĩ của từng con người một cũng đã đặt ra và phải suy nghĩ cho phù hợp thôi. Bởi vì Việt Nam đã vào TPP rồi, đã vào một cơ chế đặc biệt, đặc thù và mở rộng, tất cả mọi thứ sẽ mở toang ra hết… thì đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi, phải sửa đổi rất nhiều luật cho phù hợp. Nếu không sửa đổi luật cho phù hợp thì làm sao Việt Nam là thành viên của TPP được. Cho nên vấn đề đó, theo lộ trình thì TPP có thể phải hai năm nữa mới có hiệu lực thi hành thì có lẽ trong thời gian đó, Việt Nam cái gì chứ cái món mà người ta bảo ‘nước cao quá gối cũng nhảy’ thì Việt Nam có khi cũng phải nhảy.

Tôi tin rằng nếu không sửa đổi thì nó vênh pháp luật trong nước và pháp luật nước ngoài thì làm sao Việt Nam có thể tồn tại được, nhất là vào TPP các qui định rất ngặt nghèo, rất chặt chẽ. Cho đến bây giờ việc phổ biến toàn văn những chi tiết TPP tại Việt Nam cũng chưa được tiến hành, bởi vì vấn đề này người ta hứa hẹn là sẽ đưa ra Quốc hội bàn, nhiều Quốc hội sẽ cùng bàn và Quốc hội Việt Nam sẽ bàn trước khi TPP có hiệu lực.

Bởi vì Việt Nam đã vào TPP rồi, đã vào một cơ chế đặc biệt, đặc thù và mở rộng, tất cả mọi thứ sẽ mở toang ra hết… thì đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi, phải sửa đổi rất nhiều luật cho phù hợp.
-LS Trần Quốc Thuận

Câu chuyện đó ở Việt Nam nếu mà Đại hội Đảng kỳ này cũng quyết đi theo con đường ấy, mà chắc cũng phải đi thôi chứ không còn con đường nào khác. Chắc là tất cả thực hiện được, mà muốn thực hiện được thì dĩ nhiên phải sửa luật. Kể cả nếu cần thiết phải sửa Hiến pháp thì cũng phải sửa.

Nam Nguyên: Thưa Luật sư như vậy có thể có chút ít lạc quan về tương lại của Việt Nam và cần có sự định hình ban lãnh đạo tương lai của Đảng và Nhà nước trong kỳ Đại hội tới, thì việc thực hiện cải cách mới có thể có chuyển động rõ rệt hơn?

LS Trần Quốc Thuận: Bây giờ việc cải cách thể chế phải bàn bạc đẩy mạnh cải cách kinh tế đồng thời đẩy mạnh cải cách chính trị song song đồng bộ, chứ không thể làm cho nó vênh được, thì đó là đòi hỏi bức bách phải làm. Còn vấn đề con người của thể chế ấy, cơ cấu ấy ban hành như thế nào để đáp ứng được thì đó cũng là vấn đề đặt ra. Nhưng mà Việt Nam là một tổ chức khép kín chứ không phải là một tổ chức vận động ồn ào, bây giờ trên mạng các blogger cũng vận động ủng hộ ông này ông kia, những cuộc vận động đó có vẻ không bình thường. Ở Việt Nam tôi cho rằng đó là những thủ đoạn chính trị bỏ tiền ra để hô hào ủng hộ ông này, ông nọ. Nếu bỏ tiền ra thì theo văn hóa việt Nam người ta chưa chắc ủng hộ cho người đó. Cho nên cách làm như vậy hoàn toàn không bình thường.

Còn trong thời gian vừa qua, năm mười năm vừa qua làm việc thì người ta biết người nào toàn tâm toàn ý, lo cho dân, lo cho nước, cuộc sống riêng tư gia đình thế này thế kia…thì người ta sẽ chọn. Còn trí tuệ này nọ, thì cái đó vô biên, cũng không phải những người hô hào cho lớn hay là nói những lời nói có cánh nhưng thực tế làm ngược lại… Cho nên người ta nói là có lẽ cuộc tiếp kiến Tập Cận Bình và Obama sắp tới nó cũng cho thấy người nào có thái độ, quan điểm thế nào thì người ta sẽ nhìn thấy rõ và cũng là cái cách để chọn nhân sự.

Nhân sự ở Việt nam thực tế bây giờ vấn đề quan trọng là người đó phải yêu nước thương dân, mà muốn yêu nước thương dân thì phải có cuộc sống riêng tư đàng hoàng thì không có vơ vét, không có lo cho gia đình nhiều quá. Đó là những tiêu chí hàng đầu mà dân tộc Việt Nam hướng tới từ xưa đến giờ.

Nam Nguyên: Cảm ơn LS Trần Quốc Thuận đã trả lời phỏng vấn.

Những Trang Viết Giữa Cơn Mưa

Những Trang Viết Giữa Cơn Mưa

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Thời đại đúng là của loài thú mang mặt người.

Tuấn Khanh

Ông bà mình từng dậy: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn.” Tôi không biết cái đơn vị đo lường (“một sàng”) này chứa được cỡ bao nhiêu sự khôn ngoan nhưng nếu các cụ nói thì gần 10 ngày qua tui chả học được thêm cái gì ráo trọi – nếu không có nét.

Hơn tuần rồi tôi không đi được đâu vì Cambodia mưa quá. Sáng mưa tầm tã, trưa mưa lai rai, chiều mưa xối xả, đêm mưa rả rích.

Từ California, nơi mà lâu nay Trời chả ban phát cho một giọt nước nào, vừa bước ra khỏi máy bay đã thấy phi trường Phnom Penh mù mịt trong mưa. Tui xúc động thiếu điều muốn khóc luôn. Thiệt là mát trời ông Địa!

Lâu quá, tui không được thấy mưa mà. Những trận mưa nhiệt đới ào ạt, hào phóng (cỡ này) có khác gì ở Việt Nam đâu. Cứ tưởng như là mình đã bước chân được tới cố hương rồi vậy.

Suốt đêm nằm nghe tiếng nước rào rạt đổ trên mái nhà sao mà thấy đã quá trời, quá đất. Mất cả ngàn Mỹ Kim tiền vé máy bay (hay hơn nữa cũng được) để chỉ được nằm nghe mưa rơi cả tuần như vậy cũng đủ khiến cho tui cũng hả hê, sung sướng, và mãn nguyện lắm rồi.

Tưởng vậy nhưng không phải vậy. Chỉ sau vài bữa mưa tối trời tối đất là tôi bắt đầu, thấp thoáng, nhìn thấy … quan tài. Ô té ra, y như ở quê mình, mưa quá xá thì Cambodia cũng sẽ bị lụt thôi.

Tuy “thế nước không lên” tới mông hay tới háng như ở Sài Gòn hay Hà Nội nhưng Phnom Penh cũng có chỗ ngập cỡ nửa bánh xe, còn thường thì cao hơn mắt cá.

Thế nước Cambodia cũng đang lên. Ảnh: cambodjakids

Cứ lò dò, bì bõm đi tìm quán nhậu trong mưa thì thế nào có bữa bị lọt chân vô lỗ cống, và lọi giò là cái chắc. Thôi thì có kiêng có lành. Tôi quyết định cứ ở yên trong nhà trọ, ăn mì gói, uống cà phê pha liền, hút thuốc lá vặt, và “chơi” với computer thôi.

Và đến tình cảnh này mới biết các cụ nhà ta đã bị thời thế bỏ lại rất xa. Chả cần phải đi đâu tôi vẫn học hỏi được đôi  điều thú vị từ vài trang nét:

Chuyện thứ nhứt là công an đã tìm ra thủ phạm đánh chết thiếu niên Đỗ Đăng Dư, như tin loan của báo Vnexpress và … toàn thể đồng nghiệp:

“Theo công an Hà Nội, khoảng 8h30 ngày 4/10, Dư, Bình, Trường và Đức Anh ăn sáng tại buồng giam. Theo lịch phân công, sau khi ăn xong Dư phải rửa bát cho các bị can cùng buồng. Do thấy rửa bát bẩn, Bình gọi Dư đến ngồi ở khu vực giữa 2 bệ xi măng nơi bị can ngủ tát 2 cái vào má trái, dùng chân trái đá 3-4 lần vào đầu nạn nhân theo hướng từ trên xuống dưới.

“Quá trình điều tra, ngày 8/10, Công an Hà Nội đã khởi tố bị can Vũ Văn Bình về tội danh Cố ý gây thương tích; đồng thời tổ chức khám nghiệm hiện trường.”

Té ra hung thủ là một thiếu niên cùng tù, chớ đâu phải mấy chú công an. Vụ này không hiểu sao vừa đọc tới đây tôi lại nhớ đến một câu tuyên bố xanh rờn của nhà văn Nguyên Ngọc: “Một đảng, một nhà nước kỳ lạ. Đánh người toàn bằng đánh trộm, thụi ngầm và phi tang.”

Vậy mà tưởng đâu cái kiểu “đánh trộm, thụi ngầm và phi tang” chỉ dành riêng cho “bọn phản động bị các thế lực thù địch ngoài nước xúi giục chống phá nhà nước” thôi chớ. Ai dè chiến thuật này cũng áp dụng luôn cho đám nhóc con ở trong tù nữa. Thế mới biết chính sách của nhà nước ta thiệt là nhất quán.

Chuyện thứ hai (“Không Thể Cứ Trả Lời Theo Kiểu Kangaro”) cũng thú vị không kém, qua ngòi bút duyên dáng của Tiến Sĩ Tô Văn Trường:

Xem phim Úc hơi khó nghe hơn phim Mỹ nhưng cũng hiểu nội dung. Có người bạn lớn tuổi bảo rằng nói tới Úc lại hậm hực là cái dân Úc dùng tiếng Anh mà sao cái từ dầu hôi (dầu hỏa) cứ một mực gọi là Parafine (trong khi cả thế giới đều dùng từ này để chỉ sáp nến “sáp đèn cày”!

Thực tế, chẳng cứ gì dân Úc mà ngay cả dân “Anh rặc” cũng có từ sai toét tòe loe – đó là từ kangaroo (con chuột túi). Lần đầu tiên, có người Anh tới Úc, họ thấy con vật lạ, hỏi thổ dân bản địa và được trả lời “kangaroo”, họ bèn ghi vào tự điển tên loài vật này. Ai dè, tới mãi sau có người nghiên cứu thổ ngữ của dân bản địa thì mới hay rằng “kangaroo” nghĩa là : “tôi không hiểu” (ông nói gì) đã lỡ rồi nên con vật này đành mang cái tên “tôi không hiểu”. Đúng là “oan thị Kính”!

Ông T/S mở đầu bài viết đã có duyên (rồi) mà đóng lại còn bất ngờ và duyên dáng hơn nhiều: “Kết luận cho bài viết này là con đường Đại hội Đảng khóa XII đang muốn mở ra cho đất nước có tên gọi là “Kangaroo”!

Mà thiệt, đọc xong bản tin của RFA (“Bế Mạc Hội Nghị Trung Ương ĐCSVN Khóa Thứ 12”) sao tui thấy mọi chuyện ngó bộ mơ hồ và mù mịt quá hà:

“Chiều ngày hôm qua, hội nghị trung ương đảng cộng sản Việt nam khóa thứ 12 kết thúc.

Trong diễn văn bế mạc, ông Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng nói là ông đánh giá cao việc chuẩn bị công tác nhân sự của hội nghị này. Công tác nhân sự đó bao gồm các báo cáo nhân sự Bộ chính trị, Ban bí thư, và các chức danh chủ chốt từ đây đến đại hội đảng lần thứ 12 vào năm tới.

Ông Trọng nói thêm là Trung ương đảng đã thảo luận một cách dân chủ, công tâm và toàn diện về danh sách nhân sự lần đầu tiên được giới thiệu cho khóa 12, cùng với những phương án chọn lựa khác nhau.

Xin được nhắc lại là theo qui định hiện hành, các ủy viên trung ương đảng của khóa cũ không thể tự ứng cử cũng như nhận đề cử vào vị trí ủy viên trung ương của khóa mới.

Có một điều khác mà nhiều nhà quan sát chính trị Việt nam quan tâm theo dõi là liệu các vị lãnh đạo chủ chốt hiện thời của Việt nam là Tổng bí thư đảng, Thủ tướng chính phủ, Chủ tịch nước, và chủ tịch Quốc hội có tiếp tục giữ chức vụ sau đại hội đảng sắp tới hay không!

Ông Nguyễn Phú Trọng nói trong diễn văn bế mạc rằng Trung ương đảng đã thảo luận việc xem xét các trường hợp đặc biệt như vừa nêu để định ra tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh.

Điều đó cho thấy là có khả năng các vị lãnh đạo chủ chốt hiện nay có thể sẽ tiếp tục đảm nhiệm chức vụ hiện hành của mình trong thời gian tới.”

Nghĩa là “có thể” sẽ không có gì thay đổi ráo trọi. Và chuyện dài nhân sự của ĐCSVN thì tui cũng có nghe kể trước đó rồi, hơi dài dòng chút xíu:

Vừa qua, Ung Văn Khiêm cho tôi biết trước đây Sài Gòn là cứ địa vững bền của Duẩn và Thọ, nhưng đến nay nó đã gần như tuột khỏi hai ông. Khiêm cũng cho hay Thành uỷ Sài Gòn quyết hẩy đi bằng được hai người của Thọ trong Thành uỷ là Mười Hương và Mai Chí Thọ. Cái này có ý kiến của Duẩn không? Tôi đã hỏi và Khiêm lắc đầu, không rõ.

Tóm lại nhiều náo động quanh ghế Tổng bí thư. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà gần đây đâu đâu cũng kháo chuyện lý lịch Giáp có mấy vết to: xin học bổng sang Pháp học (kiểu Nguyễn Tất Thành xin vào trường Hành chính quốc gia Pháp), con nuôi mật thám Marti. Vào đảng không có ai giới thiệu, nịnh Cụ Hồ để được Cụ Hồ o bế. Ngay tướng Giáp có lẽ cũng không hiểu tại sao ông lại bị trù dữ đến như vậy?

Một buổi sáng, Lê Liêm và tôi đạp xe qua Uỷ ban nhân dân Hà Nội và Bưu điện. Tôi hỏi Lê Liêm: Anh trông mặt tiền Uỷ ban nhân dân mới kia có giống cái máy chém không? Liêm ngước nhìn xong nói: Ờ, nom thế mà thấy giống máy chém thật. Rồi chợt thở dài hỏi tôi có nghe thấy người ta bôi nhọ anh Giáp không? Tôi nói có. Liêm nói tôi đã trực tiếp hỏi anh Giáp. Anh Giáp nói cũng nghe thấy. “Thế anh im à”, Liêm hỏi. Giáp nói Giáp đã gửi ba thư lên cho Bộ chính trị. Xin cho Giáp gặp để làm rõ các vấn đề. Bộ chính tri im. Thư thứ hai đề nghị Bộ chính trị cho ngăn lại những lời đồn bậy nhưng Bộ chính trị kiên trì miễn đối thoại. Lại cái thứ ba đề nghị Bộ chính trị cho Giáp gặp, và lại tét.

Lê Liêm bảo tôi: Thấy uy tín anh Giáp trong dân và cán bộ còn lớn nên họ bôi nhọ anh ấy.

Đến đầu Tràng Thi, Lê Liêm bảo tôi: Anh nghe tôi nói cái này xem để biết nhé… (im một lát, mắt buồn, hạ giọng nói tiếp), mấy hôm trước, thằng con mình (tôi không nhớ là Thao hay Công nữa) nó bảo tất cả tại bố mà nên khổ thế này. Mình tưởng nó bảo tại mình vướng xét lại. Nhưng rồi nó nói tiếp. Thì ra thế này. Tại bố theo một dúm các ông ấy tha về đất nước cái chủ nghĩa nó đã bịt miệng dân không cho ăn lại còn bóp cả mồm dân không cho nói… Thì ngay đến bố đấy mà có được ăn được nói đâu!

Từ đấy đến ngã tư Điện Biên Phủ – Hoàng Diệu, gần tới nhà Lê Liêm, chúng tôi im lặng hoàn toàn.

Chiều nay, sau khi bàn chuyện tại sao Khiêm vào lại đảng, tôi nói lại chuyện này cho Minh Việt.

Việt nghe rồi cúi xuống. Nhân sự ư? Bận tâm với nó làm gì! Thì đó, con súc sắc tung ra, không nhất thì nhị, không nhị thì tam, không tam thì tứ, đều cùng một xưởng tiện gọt nên, đêu cùng tay một chủ sòng bôi đen tô đỏ rồi ném ra chiếu. (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Té ra từ thời Lê (Lê Duẩn, Lê Đức Thọ…) qua tới thời Nguyễn (Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Phú Trọng…) vẫn cũng chỉ là cái “xưởng tiện” ấy, và con “súc sắc” ấy thôi. Bận tâm với nó làm gì!

Cũng định bỏ lơ luôn thì lại nghe tiếng trách từ một ông bạn đồng nghiệp trẻ, Bùi Thanh Hiếu:

“Với cơ cấu diễn ra như trên cho thấy không có gì thay đổi đáng kể trong đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự trông chờ ĐCSVN trao trả dân chủ, quyền lực cho người dân tự quyết chỉ là giấc mơ hão huyền. Khi mà việc nhân sự cấp cao lãnh đạo đất nước còn do đảng CS quyết định trong bóng tối với nhau êm ấm, người dân thờ ơ không quan tâm, không phản đối. Đương nhiên chả có lý gì đảng CSVN sẽ không có đại hội đảng khoá 13, 14, 15 hay 20…”

Đúng là cái thằng phải gió. Đã định đội mưa chạy (đại) đi mua một chai gì đó về uống cho đến say rồi ngủ mà nó lại mỉa mai như thế khiến mình cũng phải cảm thấy có đôi chút tâm tư. Nỗi niềm tâm tư, giữa một buổi chiều mưa, của một người (viễn xứ) mà nhà không có rượu!

Mùa mưa ngập và đời hàng rong

Mùa mưa ngập và đời hàng rong

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
RFA

10122015-hanoi-rain-season-n-stree-vend.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

 Hà nội mùa mưa

Hà nội mùa mưa

 

 Những người buôn gánh bán bưng trái cây trên thủ đô, những người đạp xe cọc cạch từ con phố này qua con phố khác, từ ngày này qua tháng nọ, bươn bả kiếm cơm, những người bán quán vỉa hè cả nhà trông chờ vào nồi nhưn phở hay tủ bánh mì… Tất cả họ đang gặp khó khăn trong mùa mưa này, khi thành phố Hà Nội thi thoảng tự biến thành những dòng sông uốn lượn, người dân tự biến thau nhựa, thùng nhựa thành thuyền để bơi và nhiều người bán trái cây lang thang bắt cá trên phố để cải thiện bữa cơm. Chuyện như nói đùa nhưng lại rất thật trên thành phố Hà Nội.

Ế ẩm, buồn và lo…

Một người tên Lò gốc Hưng Yên, buôn trái cây tại thành phố Hà Nội, mỗi sáng, bà và những người buôn bán trái cây khác cùng chở trái cây ra đứng ở góc đường Yết Kiêu, gần tòa soạn báo Công an thủ đô để bán, quãng đường đi từ nhà trọ đến điểm bán cho bà nhiều trải nghiệm, bà chia sẻ: “Ngày bình thường thì cũng có khách nhưng mà trời mưa thì hàng bán kém lắm, không có khách, ế lắm! Ngày có khách thì bán được năm chục nghìn, nhiều thì trăm nghìn, ngày hiếm khách thì có khi không được đồng nào, khó lắm!”

Theo bà Lò, mùa mưa tới là mùa ế ẩm của nhiều loại hàng hóa bán dạo, không riêng gì trái cây mà hầu hết các loại hàng bán rong đều gặp khó khăn, từ việc di chuyển cho đến số lượng người mua. Bởi thường thì những ngày trời mưa, các gia đình hay chọn cách cùng nhau đi đến siêu thị vào cuối tuần để mua sắm hàng loạt và để dành dùng cho cả tuần, chỉ hiếm họa lắm mới có giới lao động nghèo mua hàng dạo.

Rất tiếc là giới lao động nghèo hiếm có ai sống ở trung tâm Hà Nội, hoàn toàn không có. Chính vì vậy, những ngày mưa, hầu hết người bán rau hành hay trái cây phải tản về các khu ngoại ô để bán. Và đây là khoảng thời gian đáng sợ nhất đối với họ. Vì đường sá mưa lạnh, có khi nước ngập đến gối, thậm chí có ngày nước ngập đến bụng, rau cải, trái cây bị ngâm trong nước dơ theo người, mỗi khi có xe lớn chạy qua, từng đợt sóng đánh ập vào hàng hóa khiến trái cây hay rau cải trôi lỏm ngỏm, lại phải đi nhặt từng bó rau, từng trái cam, trái táo trong dòng nước đục ngầu.

Và những bó rau, trái cây như vậy phải tìm nguồn nước sạch để rửa trở lại trước khi bán nhưng không mấy tự tin. Nhiều khi bà muốn bỏ đi nhưng nếu bỏ đi thì mất vốn, mà bán thì lại áy náy lương tâm. Nhiều lúc gặp một người lao động nghèo, cầm đồng tiền còn xoắn tròn do thói quen bó dây thun, lựa tới lựa lui rồi lựa trúng ngay những trái cam vừa rớt xuống nước để mua vì nhìn nó bóng bẩy, sạch sẽ, mặc dù rất áy náy nhưng bà cũng không thể nói thật với họ, xem như nhắm mắt làm liều vì chén cơm manh áo.

Cũng theo bà Lò, hầu hết người bán hàng rong đều là dân tỉnh đến từ Hưng Yên, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Ninh Bình, thậm chí Bắc Kạn tìm lên Hà Nội buôn thúng bán mẹt với ước mơ đời bớt khổ. Riêng bà Lò, với người chồng nằm liệt giường do bệnh tai biến não, một người mẹ già và ba đứa con, đứa đầu đi làm thợ hồ, hai đứa nhỏ còn học phổ thông, bà và đứa con trai đầu phải làm lụng cật lực để đắp đổi qua ngày cho cả nhà.

Trung bình, những ngày trời nắng, bà Lò kiếm được từ một trăm đến một trăm rưỡi ngàn tiền lãi từ việc bán trái cây hoặc rau đậu, bữa nào trúng lắm thì kiếm được chừng hai trăm ngàn đồng nhưng hiếm có ngày nào trúng như vậy. Mỗi ngày, sau khi mua thức ăn, trả tiền điện, tiền nước và tiền nhà trọ, bà dư được từ bốn chục ngàn đồng đến bảy chục ngàn đồng để gởi về quê lo cho gia đình.

Một cụ bà ngồi bán rau bên đường

Một cụ bà ngồi bán rau bên đường (RFA)

Bà Lò nói như cười mà như khóc rằng bà cũng là người trong số hiếm hoi những lao động nghèo tỏ ra mừng rỡ khi đường ống sông Đà bị vỡ. Vì ngày đó bà không phải tốn tiền nước cho việc giặt dũ, tắm táp, chỉ cần chờ đêm đến, đạp xe ra bờ hồ Tây, tìm chỗ để giặt và tắm luôn một lượt là xem như thành công, tiết kiệm được ít nhất cũng mười ngàn đồng.

Nhưng bà Lò cũng nói rằng bà không mong chi đường ống sông Đà bị vỡ nữa, bởi vì khi thiếu nước xài thì người ta cũng không có nước để rửa rau hay nấu canh, bán rau hay bán trái cây gì cũng ế ẩm vì đường ống vỡ. Chuyện tưởng như không liên quan nhưng lại rất quan trọng và có mối liên hệ mật thiết với nhau cả.

Công an rượt, chuyện cơm bữa

Một người bán trái cây khác tên Diễn, cũng thường đứng ở góc đường Yết Kiêu, Hà Nội, chia sẻ: “Mưa gió thì người ta đi lại khó khăn, ít người đi lại, hàng bán được có 50%, một nửa thôi. Mưa gió đi lại khó khăn, kinh tế nữa, phải có tiền thì mới mua được nhiều. Khó khăn là khó khăn chung, mưa gió bao giờ mà không khó khăn chung, người lao động ai cũng khó hết, phải có tiền thì mới tiêu thụ được hàng hóa chứ, chỉ có công nhân viên chức mới có lương bổng, thu nhập đều nó khác!”

Theo ông Diễn, bán trái cây bây giờ khó hơn trước đây rất nhiều, hơn nữa, đang là mùa mưa, mọi thứ cứ nhặng xị cả lên. Khi đường sá bị ngập, việc đi lại khó khăn, những con đường nào ráo nước trở thành nơi tập kết của lực lượng giao thông, góc ngã ba Yết Kiêu cũng không ngoại lệ. Mà khi công an giao thông hay công an khu vực đến đây thì cơ hội đứng bán trái cây, bán rau hay bán hoa hầu như không có. Người bán lo mà chạy trước khi họ ra tay.

Hoặc là bị hất đổ trái cây, tịch thu phương tiện làm ăn, hoặc là bị rượt đuổi chạy bán sống bán chết, hoặc là bị phạt với mức tiền rất nặng, chiếm đến bốn, năm ngày buôn bán. Nói chung, gặp công an là xem như tuần đó quá đen đối với người buôn bán hàng rong. Đối với con người, nhất là người lao động chân chính, buôn thúng bán mẹt để nuôi con ăn học mà đe nẹt, quát tháo, rượt đuổi, giật gánh… Tất cả những hành vi đó không hề có chút tính người.

Mùa mưa này, có biết bao nhiều gia đình phải bó gối trông chờ vào gánh rau, xe trái cây của những lao động nghèo giữa thủ đô. Và có bao nhiêu người trong số họ đủ sức khỏe để lội qua những con phố ngập nước, lội miệt mài ngày này qua ngày khác để kiếm cơm cho gia đình?!
Đây là một câu hỏi buồn cho những người bán hàng rong giữa lòng Hà Nội.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Việt kiều Mỹ bị đập đầu chết trong nhà giữa Sài Gòn

Việt kiều Mỹ bị đập đầu chết trong nhà giữa Sài Gòn
Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) Một ông Việt kiều Mỹ về thuê nhà sống một mình ở quận Phú Nhuận, thành phố Sài Gòn, bị kẻ thủ ác dùng búa đập đầu giết chết mà không ai hay biết.

Thanh Niên loan tin, trưa 13 tháng 10, thi thể một người đàn ông đang trong quá trình phân hủy mạnh được phát hiện tại một căn nhà trên đường Phan Ðình Phùng, phường 1, quận Phú Nhuận.

Căn nhà nơi xảy ra vụ án mạng. (Hình: Thanh Niên)

Theo tin điều tra ban đầu cho biết, nạn nhân là Huỳnh Công Anh (68 tuổi), Việt kiều Mỹ về thuê nhà sống một mình tại đường Phan Ðình Phùng hơn 2 năm nay. Thường ngày, ông Anh vẫn ra vào hẻm 270 mua đồ ăn, thức uống…

Vào sáng 13 tháng 10, một người giao báo hàng ngày cho ông cảm thấy lạ vì đã 4 ngày nay ông Anh không lấy báo, nên đã thông báo cho chủ nhà trọ ở ngay nhà cạnh bên. Sau đó, chủ nhà phát hiện có mùi hôi thối liền báo công an. Khi công an đến hiện trường kiểm tra thì thấy thi thể nạn nhân đang trong quá trình phân hủy mạnh.

Một cán bộ trong đoàn khám nghiệm hiện trường cho biết, ông Anh được phát hiện chết tại lầu 1 căn nhà 3 tầng đã thuê trong tư thế nằm dưới sàn nhà, đầu chảy máu.

Tại hiện trường có một số dấu hiệu nghi vấn như xuất hiện vết máu trên công tác đèn, ở bậc cầu thang có một đôi dép nữ dính máu và một chiếc búa, một số đồ đạc trong nhà bị xáo trộn…

Nhiều nghi vấn có thể ông Việt kiều bị giết chết để cướp của. Hiện nguyên nhân cái chết của ông Anh đang được cơ quan chức năng điều tra. (Tr.N)

Chiến thuật trấn áp sự phản kháng trong nước

Chiến thuật trấn áp sự phản kháng trong nước

Cảnh sát canh gác trước Tòa án Nhân dân TP HCM.

Cảnh sát canh gác trước Tòa án Nhân dân TP HCM.

Nguyễn Hưng Quốc

13.10.2015

Trong bài “Vietnam’s rising repression”, đăng trên tờ New Mandala mới đây, giáo sư Zachary Abuza, một nhà Đông Nam Á học, cho rằng những sự đàn áp của chính quyền Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến càng lúc càng gia tăng và càng lúc càng tinh vi. Ông tóm tắt những sự đàn áp ấy vào năm chiến thuật chính:

Thứ nhất, trấn áp những luật sư thường đứng ra bảo vệ và bào chữa cho những người đối kháng bị chính quyền bắt giữ và đem ra xét xử. Tiêu biểu nhất cho những luật sư này là Lê Công Định, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Đài và Võ An Đôn.

Thứ hai là sử dụng những tội danh khác, phổ biến nhất là tội danh trốn thuế, để đánh lạc hướng dư luận là ở Việt Nam không hề có tù nhân lương tâm.

Thứ ba là sử dụng công an chìm để hành hung những nhà hoạt động dân chủ và những người hay lên tiếng phê phán chế độ, kể cả các nhà báo đang tiến hành các cuộc điều tra việc công an đàn áp dân chúng. Theo tổ chức Theo dõi Nhân quyền, riêng trong năm 2014, đã có tới 14 nhà báo bị hành hung.

Thứ tư là gia tăng kiểm duyệt trên mạng lưới internet. Việt Nam được xem là quốc gia có hệ thống kiểm duyệt truyền thông khắt khe nhất thế giới.

Cuối cùng, thứ năm là tập trung bóp chết những trang blog có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng.

Theo tôi, trong năm chiến thuật được Zachary Abuza nêu lên ở trên, hai chiến thuật sau cùng có thể được gộp làm một: Trấn áp những tiếng nói đối kháng trên mạng lưới internet. Có ba hình thức trấn áp chính: Một là dựng tường lửa, đặc biệt với các trang web đặt trụ sở ở hải ngoại; hai là dùng tin tặc để tấn công các trang web thù nghịch; và ba là bắt bớ những blogger có nhiều ảnh hưởng như trường hợp của Trương Duy Nhất (2 năm tù), Phạm Viết Đào (15 tháng tù), Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh (bị bắt ngày 5 tháng 5 năm 2014, chưa xét xử) và Nguyễn Quang Lập (bị bắt và tạm giam 2 tháng, đã thả).

Ngoài các chiến thuật mà Zachary Abuza nêu trên, tôi nghĩ còn một chiến thuật khác chính quyền Việt Nam gần đây sử dụng nhiều để đàn áp những người bất đồng chính kiến: Trục xuất họ ra khỏi đất nước, chủ yếu là đẩy họ sang Mỹ. Cho đến nay, họ đã trục xuất bốn người: nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ (ngày 23 tháng 2 năm 2011), luật sư Cù Huy Hà Vũ (ngày 7 tháng 4 năm 2014), blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải (ngày 21 tháng 10 năm 2014) và gần đây nhất, blogger Tạ Phong Tần (ngày 19 tháng 9 năm 2015).

Việc đưa các nhà bất đồng chính kiến từ nhà tù đi thẳng sang Mỹ có ba lợi ích cho họ: Một là đáp ứng được các yêu sách từ phương Tây, chủ yếu là từ Mỹ; hai là chứng tỏ họ có tinh thần nhân đạo, và ba là để vô hiệu hoá những nhà bất đồng chính kiến ấy. Hai lợi ích đầu tương đối dễ thấy. Tôi chỉ xin phân tích lợi ích thứ ba.

Trên nguyên tắc, sống ở nước ngoài, đặc biệt tại Mỹ, các nhà bất đồng chính kiến ấy sẽ được tự do hơn. Họ muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, không ai cấm cản được họ cả. Hơn nữa, họ cũng được sự ủng hộ của nhiều người trong cộng đồng, nhờ thế, họ dễ tập hợp thành một lực lượng với những tầm vóc nhất định. Nhưng tự do cũng là một con dao hai lưỡi. Lưỡi kia của tự do là: người ta mất tư cách nạn nhân, những người bị đày ải trong lao tù của bạo chính. Mất tư cách nạn nhân, người ta cũng mất cả tư cách là anh hùng bởi anh hùng chỉ được thể hiện trong điều kiện đối diện với thử thách và đặc biệt, với sự áp bức. Sống ở hải ngoại, tự do phơi phới, không ai có thể anh hùng hơn ai được. Khái niệm anh hùng của những người bất đồng chính kiến trở thành một thuộc tính của quá khứ, một thứ vang bóng một thời. Hơn nữa, sống ở nước ngoài, người ta cũng mất cả tư cách chứng nhân; tiếng nói của họ, do đó, cũng mất sức nặng của người trong cuộc.

Nói cách khác, mất cả ba tư cách nạn nhân, anh hùng và chứng nhân, người ta mất tất cả. Họ trở thành bình thường như bao nhiêu người bình thường khác. Họ lại thua những người bình thường khác ở chỗ: Họ ra ngoại quốc muộn hơn, gặp nhiều khó khăn trong tiến trình hội nhập vào cuộc sống mới hơn, bởi vậy, với một mức độ nào đó, họ cũng mất thế giá hơn. Đó là chưa kể trong môi trường tự do ở hải ngoại, người ta rất dễ bộc lộ những sự nghi ngờ hay đố kỵ nhắm vào những người mới từ Việt Nam sang: Họ là “tay sai” hay “sứ giả” của Việt Cộng sang phá hoại cộng đồng. Trường hợp của Nguyễn Chí Thiện trước đây là một ví dụ. Lúc còn trong nước, ông là một nhà thơ anh hùng; sang Mỹ, ông chỉ còn là một nhà thơ. Không những vậy, ông còn đối diện với những tin đồn thất thiệt, trong đó, có tin đồn ông chỉ là một Nguyễn Chí Thiện… giả.

Trong bài “Chuyện Cù Huy Hà Vũ sang Mỹ” đã đăng trên blog này năm ngoái, tôi có nêu lên kinh nghiệm của nhà văn Dương Thu Hương và nhà văn Alexander Solzhenitsyn. Lúc còn ở trong nước, các tác phẩm văn học cũng như các bài viết về chính trị của Dương Thu Hương được đón nhận nhiệt liệt. Từ năm 2006, bà sang sống hẳn ở Pháp. Sống ở đâu thì Dương Thu Hương cũng vẫn là Dương Thu Dương thôi. Vẫn thông minh, sắc sảo, thẳng thắn và tài hoa. Không có gì thay đổi. Nhưng rõ ràng là sự tiếp nhận của những người chung quanh, từ cộng đồng người Việt đến cộng đồng quốc tế, đã thay đổi: Bà chỉ còn là một nhà văn chứ không phải nhà văn đối kháng nữa. Với bà, người ta hờ hững dần. Và bà cũng im lặng dần.

Mà không phải chỉ có Dương Thu Hương. Lớn hơn Dương Thu Hương rất nhiều, nhà văn Alexander Solzhenitsyn, giải Nobel văn chương năm 1970, bị trục xuất khỏi Nga vào năm 1974; và sau một thời gian ngắn sống ở Tây Đức và Thụy Sĩ, ông được mời sang Mỹ. Ông định cư ở Mỹ cho đến năm 1994, khi chế độ cộng sản đã sụp đổ tại Nga, ông mới về nước. Trong gần 20 năm ở Mỹ, Solzhenitsyn chỉ sống một cách lặng lẽ ở một địa phương khuất lánh heo hút. Trừ sự ồn ã ở vài năm đầu, sau đó, dường như người ta quên mất ông, hơn nữa, có khi còn bực bội vì ông. Một số quan điểm của ông, lúc còn nằm trong nhà tù Xô Viết, được xem là dũng cảm; lúc đã sống ở Mỹ, ngược lại, lại bị xem là cực đoan.

Cả Solzhenitsyn lẫn Dương Thu Hương đều không phải là những người làm chính trị. Họ chỉ là những nhà văn, khi còn trong nước, được xem là đối kháng. Nhưng ngay cả khi là một nhà văn, người ta còn không được nghe, huống gì chỉ là một người hoạt động chính trị? Cơ hội để được nghe chắc chắn sẽ hiếm hoi hơn nhiều.

Bởi vậy, việc trục xuất những người bất đồng chính kiến ra khỏi nước được xem là một cách vô hiệu hoá họ. Chiến thuật này đã từng được Liên Xô sử dụng thường xuyên trong suốt thời chiến tranh lạnh.

Bây giờ đến lượt Việt Nam.

Những bạn tôi từ miền đất Quảng Ngãi

Những bạn tôi từ miền đất Quảng Ngãi

 Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Tôi sinh trưởng tại tỉnh Nam Định trong vùng đồng bằng sông Hồng thuộc miền Bắc. Nhưng từ năm 1954 lúc đến tuổi 20, thì di cư vào miền Nam và lập nghiệp ở Sài gòn cho đến ngày qua định cư bên nước Mỹ kể từ năm 1996.

Từ trên 60 năm nay, tôi có duyên quen biết gắn bó với nhiều bạn hữu xuất thân từ tỉnh Quảng Ngãi là một khu vực mà theo vị trí địa lý, thì nằm ở giữa khỏang cách từ Nam Định tới Sài gòn.

Nay nhân dịp đầu xuân Bính Thân 2016, tôi xin ghi lại những kỷ niệm thật dễ thương với một số trong những người bạn thân thiết đó, lần lượt như sau đây.

I – Luật sư Bùi Chánh Thời.

Anh Thời là một sinh viên học chung lớp với tôi tại Đại học Luật khoa Sài gòn bắt đầu từ năm 1955 và đến năm 1958, thì chúng tôi cùng tốt nghiệp văn bằng Cử nhân Luật khoa. Sau đó, chúng tôi cùng hành nghề luật sư nên vẫn thường gặp nhau nơi pháp đình Sài gòn. Vào giữa thập niên 1960, anh Thời mở chung văn phòng luật sư với anh bạn đồng nghiệp Đòan Ý cũng là một đồng môn với chúng tôi.

Anh Thời lập gia đình sớm, ngay từ cái thời còn là sinh viên, anh nói đặc giọng Quảng ngãi nghe hơi nặng, mà người bạn đời của anh là chị Thân Thị Tố Tâm thì lại nói giọng Huế nghe thật là du dương. Trong khi phần đông sinh viên chúng tôi còn phải đi xe đạp, thì anh Thời đã có xe hơi để thường chở chị ấy đi dậy học tại trường Gia Long rồi.

Trước năm 1975, luật sư Thời là một nhân vật khá nổi tiếng không những với nghiệp vụ biện hộ cho các thân chủ trước các tòa án, mà anh còn tham gia việc giảng dậy về luật pháp tại Đại học Huế. Về chính trị, anh cũng tham gia sinh họat thật sôi nổi cùng với các bạn có chung một lập trường đối lập được gọi là thành phần thứ ba. Giới báo chí liệt kê anh vào nhóm thân với khối Phật giáo Ấn Quang – mà có người còn nói là anh Thời đã có thời gian sinh sống trong một ngôi chùa ở miền Trung. Hồi còn là một học sinh ở Huế, anh Thời đã nổi tiếng với những bài thơ được nhiều bạn trẻ ưa thích. Anh lấy bút hiệu là Như Trị – cùng thời với nhà thơ Tạ Ký nữa. Anh quen nhiều với anh Cao Huy Thuần là bạn cùng học luật với chúng tôi. Đó là một trí thức khá nổi tiếng mà đã qua dậy học và định cư ở Pháp từ lâu.

Thế nhưng sau 1975, mọi họat động chuyên môn của giới luật sư chúng tôi cũng như lọai sinh họat chính trị nói trên thì đều bị ngưng trệ tất cả. Và cũng giống như đại đa số những bạn đồng nghiệp khác, luật sư Thời đã không còn có cơ hội thi thố tài năng đang độ chín mùi của mình nữa. Anh sống âm thầm kín đáo lặng lẽ, thu hẹp sinh họat trong phạm vị nhỏ bé của riêng gia đình mình mà thôi.

Chẳng bao lâu sau, anh chị Thời lại còn gặp phải một tai họa thật là não nề đau đớn. Đó là vào năm 1978 – 79, anh chị gửi hai cháu nhỏ đi vượt biên cùng với gia đình anh chị Luật sư Nguyễn Hữu Lành trong chuyến tàu có nhiều nhân vật tên tuổi khác ở miền Nam. Ấy thế, mà con tàu bị biệt tăm giữa biển khơi, anh chị không bao giờ được biết tung tích của hai đứa con của mình ra sao nữa. Để rồi sau đó, cả hai anh chị cũng phải liều mình đem một cháu út ra đi và lần này anh chị đã gặp may mắn mà đến định cư ở Australia.

Vào cuối năm 2011, tôi đã có dịp đến thăm gia đình anh chị Thời tại thành phố Canberra là thủ phủ của Liên bang Australia. Sau mấy chục năm gặp lại nhau, cả hai chúng tôi đều mừng mừng tủi tủi, thật là cảm động chuyện trò trao đổi tin tức về một số bạn hữu thân thiết đã từng sát cánh với nhau bao nhiêu năm xưa ở quê nhà Việt nam. Tôi nhận thấy anh chị đã đạt tới tình trạng trầm lắng bình thản sau bao nhiêu nghịch cảnh sóng gió cuộc đời – đặc biệt là thái độ an nhiên tự tại để tiếp tục sống bên nhau trong những ngày tháng của tuổi xế chiều.

Hai anh bạn trẻ cùng đi với tôi bữa đó, thì xưa kia cũng đã từng là học trò của luật sư Thời, nên họ đều nhắc lại những kỷ niệm thật sâu đậm với vị thày khả kính thuở ấy. Và rõ ràng cuộc trùng phùng này đã làm sống lại cái tình cảm thân thương và niềm an ủi chân thật giữa hai phía anh chị Thời với ba người chúng tôi vào một ngày mùa hè ở Úc châu cuối năm 2011 vậy.

II – Thày Thích Tâm Quang.

Bắt đầu từ năm 1966, lúc tôi giữ nhiệm vụ Quản lý chương trình phát triển quận 6 Sài gòn, thì hay có dịp gặp gỡ trao đổi với Thày Tâm Quang là một tu sĩ từ miệt Quảng Ngãi vào làm việc Phật sự ở khu vực Phú Lâm gần với ngã ba Cây Da Xà. Ông thày còn rất trẻ cỡ trên dưới tuổi 25, nhưng có sức làm việc bền bỉ nhẫn nại ít ai sánh kịp. Ông không lo xây cất chùa, mà lại dồn hết nỗ lực vào việc mở trường học cho các em nhỏ tại địa phương có nhiều gia đình lao động nghèo khó. Và ngòai ra thì đi giúp những nơi có nhiều nạn nhân chiến cuộc đến tạm cư.

Với thái độ cởi mở hồn nhiên, ông đi tiếp xúc với nhiều giới chức tại Bộ Xã Hội cũng như tại những cơ quan từ thiện nhân đạo quốc tế và tạo được mối thiện cảm sâu xa của nhiều nhân vật đặc trách về công tác xã hội ở Sài gòn thời kỳ trước năm 1975. Nhờ có sự tín nhiệm đó, mà mỗi khi ông thày cần đến dụng cụ huấn nghệ hay vật phẩm gì để giúp đồng bào, thì các cơ quan xã hội này luôn sẵn sàng cung cấp cho thày lãnh nhận để đem phân phối lại cho bà con nạn nhân thiên tai bão lụt hay nạn nhân chiến cuộc tại các địa phương xa xôi hẻo lánh.

Qua sự giới thiệu của thày Tâm Quang mà tôi có dịp gặp gỡ quen biết với Thượng Tọa Thích Hồng Ân là vị sư phụ của ông và cũng là bậc tu sĩ cao cấp nhất tại Quảng Ngãi. Và vào năm 1972, nhân chuyến đi thăm các cơ sở cứu trợ nạn nhân chiến cuộc tại miền Trung, tôi đã có dịp đến thăm viếng ngôi chùa trên núi Thiên Ấn là cơ sở tôn giáo lâu đời mà hồi ấy do Thày Hồng Ân phụ trách trông coi. Tôi vẫn còn nhớ ở phía chân núi còn có mộ phần của nhà ái quốc Hùynh Thúc Kháng được bà con ở địa phương chung nhau xây dựng và bảo trì khá tươm tất tại đây. Quả thật địa danh “Núi Ấn, Sông Trà” là một thắng cảnh đặc trưng nổi bật của tỉnh Quảng Ngãi – tức là núi Thiên Ấn và sông Trà Khúc.

Và cũng qua thày Tâm Quang mà tôi còn quen biết được cả ba người anh em đều là những nhân vật có tên tuổi ở Quảng Ngãi nữa. Đó là các anh Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Diễn và Nguyễn Văn Hàm. Cả ba anh đều đi dậy học, viết văn viết báo, làm thơ. Chỉ có anh Diễn ở lại Quảng Ngãi mà nay đã qua đời. Còn anh Xuân và Hàm đều sinh sống lâu năm ở Sài gòn.

Tôi còn rất nhiều kỷ niệm với thày Tâm Quang qua những chuyến đi công tác cứu trợ nạn nhân chiến cuộc ở Bình Tuy, Bà Rịa, Long Khánh v.v… Thông thường, thày luôn được Thượng Tọa Thích Quảng Long hồi đó đảm trách Tổng Vụ Xã Hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cho mượn xe và cả tài xế để chuyên chở đi khắp nơi thăm viếng úy lạo đồng bào đang phải lánh nạn trong các khu tạm cư hoặc di chuyển từ vùng đất Quảng Trị vào miền Nam.

Sau 1975, mặc dầu gặp nhiều khó khăn, chúng tôi vẫn có dịp gặp lại nhau, thường là thày Tâm Quang đến thăm tôi tại nhà và cho biết tin tức của nhiều bà con bạn hữu khác. Quả thật, tình cảm thân thiết giữa chúng tôi mỗi ngày càng thêm bền chặt, gắn bó lâu bền. Là người tận tâm chăm sóc cho giới bình dân lao động theo đúng tinh thần từ bi hỉ xả của Đức Phật, thày Tâm Quang cũng còn có thái độ cởi mở phóng khóang và thuận thảo đối với giới tu sĩ và tín đồ Công giáo và Tin lành nữa.

Tôi thật nhớ câu nói của thày đã nói với tôi từ gần 50 năm trước, đó là: Người tu luyện theo giáo l‎ý nhà Phật thì luôn tìm cách thực hành phương châm này “Tự độ để độ tha. Tự giác để giác tha”.

Mới đây vào năm 2011 – 2012, thày Tâm Quang lại có dịp qua Mỹ và chúng tôi lại gặp nhau nhiều lần để hàn huyên tâm sự ngay tại Quận Cam ở California. Thày cũng đến thăm Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu tại thành phố Amarillo tiểu bang Texas và đã có mặt cùng với người thân trong những giờ phút cuối cùng của Bác sĩ Phiêu vốn là người bạn tâm huyết lâu năm của thày.

III – Một số người bạn khác nữa xuất thân từ Quảng Ngãi.

Dĩ nhiên là tôi còn quen biết nhiều người quê ở Quảng Ngãi. Nhưng vì bài báo có giới hạn, nên tôi xin ghi vắn tắt về hai người bạn lớn tuổi đã qua đời và một người bạn trẻ hiện sinh sống ở Canada.

31 – Nhà báo lão thành Hồ Văn Đồng.

Anh Đồng là một nhà báo lâu năm ở miền Nam. Anh cùng lứa tuổi với các anh Dõan Quốc Sĩ, Hùynh Văn Lang, tức là lớn hơn tôi cả một con giáp. Hồi trước 1975, tôi có gặp anh Đồng tại nhà Luật sư Trần Văn Tuyên một vài lần, nhưng chưa có dịp nói chuyện trao đổi nhiều với anh. Vào năm 2001 – 2002, tôi mới hay có dịp gặp gỡ chuyện trò tâm sự với anh khi thì ở Virginia, khi thì ở California. Nhà báo Phạm Bá Vinh chủ bút tờ Sóng Thần có cho tôi biết là chính ông Hồ Văn Đồng là một vị huynh trưởng đã tận tình hướng dẫn và truyền nghề viết báo cho anh.

Đóng góp cuối cùng của anh Đồng là đã hòan thành việc dịch thuật sang tiếng Việt cuốn sách “Le dossier noir du Communisme” (Hồ sơ đen của chủ nghĩa Cộng sản) do giới nghiên cứu sử học bên Pháp sọan thảo. Anh đã ra đi vào năm 2006 ở Virginia vào tuổi 84.

32 – Giáo sư Phạm Văn Diêu.

Là một giáo sư về Văn học Việt nam cả ở Trung học và Đại học, anh Diêu được nhiều người ái mộ với công trình nghiên cứu nghiêm túc về văn chương quốc ngữ. Điểm đáng chú ‎ ý nhất của anh Diêu là : Tuy là người cháu gọi ông Phạm Văn Đồng là chú ruột, nhưng anh Diêu lại có lập trường quốc gia khác hẳn với ông Đồng là một đảng viên cộng sản cấp cao. Sau năm 1975, anh Diêu không hề tỏ ra là kẻ a dua, đứng về phía bên cộng sản là kẻ thắng cuộc như dân gian thường nói đó là cái “thái độ phù thịnh”.

Lần cuối cùng tôi gặp anh Diêu là vào giữa năm 1982, anh tỏ ra không có gì là mặn mà với chế độ cộng sản cả. Rất tiếc là anh Diêu đã mất sớm vào cuối năm 1982 lúc chưa đến 55 tuổi. Con cháu anh Diêu hiện nay phần đông cư ngụ tại nước ngòai như Canada, Mỹ.

33 – Kỹ sư Lê Quang Phiêu cỡ tuổi ngòai 40 hiện ở Canada.

Năm 2012, nhân dịp đến thăm Canada, tôi đã có dịp gặp em Phiêu tại thành phố Toronto. Tôi liền hỏi em có bà con gì với cụ Lê Quang Sách là một vị chức sắc có tên tuổi của Đạo Cao Đài ở Quảng Ngãi, Phiêu gật đầu xác nhận em là cháu gọi cụ Sách là bác mà năm đó đã trên 85 tuổi. Nghe vậy, tôi bèn nhờ Phiêu hỏi ông bác giùm tôi về vụ rất đông tín đồ Cao Đài bị Việt minh cộng sản sát hại tại Quảng Ngãi hồi tháng 8 & 9 năm 1945. Em nhận lời và vào tháng 4 năm 2015, tôi lại đến Toronto và gặp Phiêu để hỏi về chuyện này. Phiêu cho biết đã đi California thăm bác Sách và được bác nói cho biết nhiều chi tiết về vụ thảm sát này – mà riêng về phía tín đồ Cao Đài, thì con số nạn nhân bị sát hại đã lên tới gần 3,000 người.

Cụ thể là chính cụ Sách lúc đó cũng bị bắt cùng với thân phụ và bao nhiêu bà con khác nữa. Trong vụ thảm sát này, ông cụ thân sinh là ông nội của em Phiêu thì bị giết, còn người con là ông Sách vì theo lời khuyên của cha mà khai nhỏ tuổi đi nên mới thóat chết.

Thành ra cụ Sách là một nhân chứng rất khả tín mà hiện còn sống để cung cấp cho chúng ta những tư liệu thật chính xác về vụ tàn sát bạo ngược này do người cộng sản cuồng tín gây ra ngay từ năm 1945 mà họ gọi là “Cách Mạng Tháng Tám” đó vậy.

IV – Những người bạn đã từng làm việc ở Quảng Ngãi.

Ngòai ra, tôi cũng còn có rất nhiều người bạn thân thiết quê ở miền Bắc mà lại có thời đến làm việc tại Quảng Ngãi. Điển hình như trường hợp các bạn sau đây.

41 – Giáo sư Uông Đại Bằng.

Sau khi tốt nghiệp Đại học sư phạm năm 1962, thì anh Bằng được cử về dậy học tại trung học Trần Quốc Tuấn ở thị xã Quảng Ngãi. Trong mấy năm phục vụ ở đây, ngòai chuyện giảng dậy ở nhà trường anh Bằng còn nhiệt tình tham gia sinh họat với các em thanh thiếu niên ở địa phương, nên hiện vẫn còn giữ được nhiều kỷ niệm với bà con ở đây. Ca sĩ Hồng Vân hồi đó cỡ tuổi 15 – 16 cũng là một học sinh nổi tiếng là rất hăng hái tham gia với sinh họat văn nghệ của trường trung học công lập lớn nhất tại Quảng Ngãi.

Sau này, từ năm 1966 cho đến 1975, anh Bằng về làm Hiệu trưởng trung học Lương Văn Can ở quận 8 Sài gòn. Anh được các học sinh và phụ huynh rất yêu mến vì sự tận tụy hy sinh của anh trong sự nghiệp giáo dục nơi địa phương được coi là kém phát triển nhất của thành phố Sài gòn.

Cụ thể là hiện nay các em cựu học sinh Lương Văn Can ở trong nước vẫn luôn mời thày Hiệu trưởng Uông Đại Bằng đến tham dự những buổi hội ngộ hàng năm với các em. Và các em ở hải ngọai vẫn tổ chức các buổi gặp gỡ với ông thày mỗi khi thày có dịp đi thăm bà con tại Úc châu hay tại Mỹ.

42 – Giáo sư Phạm Tất Hanh.

Cũng vào đầu thập niên 1960, thì anh Hanh đến dậy Anh văn tại Quảng Ngãi. Và đặc biệt, anh Hanh rất chăm lo việc sinh họat về mặt tâm linh đạo đức cho giới thanh thiếu niên công giáo ở địa phương. Sau này anh về Sài gòn và vẫn tiếp tục dậy môn Anh văn cho các học sinh trung học. Và trong số các học sinh này, rất nhiều em đã đi tu và trở thành linh mục, nữ tu công giáo.

Vì sự tận tụy chăm sóc bồi dưỡng cho học sinh như thế, nên thày Hanh được sự quý mến chân tình của nhiều thế hệ học sinh, trong đó có nhiều em ở Quảng Ngãi mà đã từng được thày giáo Hanh hướng dẫn từ nhiều năm trước.

Hơn nữa, từ ngày qua định cư ở Mỹ anh Hanh còn có sáng kiến thành lâp Quỹ Học Bổng Nguyễn Trường Tộ để trợ giúp những học sinh ở miệt quê Gia Kiệm Long Khánh siêng năng học tập mà gia đình gặp khó khăn về kinh tế. Sau khi anh Hanh qua đời vào năm 2011 vì bệnh ung thư, thì Quỹ Học Bổng này được bà con ở địa phương đặt tên mới là Quỹ Học Bổng Phạm Tất Hanh.

43 – Anh chị người Mỹ Earl và Pat Martin.

Earl Martin và Pat Hostetter là hai thiện nguyện viên thuộc tổ chức xã hội Mennonite Central Committee (MCC) của Giáo Hội Tin Lành Mennonite làm việc tại Quảng Ngãi từ năm 1967 để giúp các nạn nhân chiến cuộc. Vào năm sau hai người làm đám cưới và tiếp tục công tác nhân đạo tại Quảng Ngãi. Sau khi cả hai về học thêm ít lâu tại Đại học Stanford, thì trở lại phục vụ ở Việt nam cho đến năm 1975.

Earl Martin có tên Việt nam là Chú Kiến. Anh kể cho tôi nghe câu chuyện thật ngô nghĩnh thế này: “Hồi mới đến, tôi phải đi tìm nhà để mướn ở thành phố Quảng Ngãi. Trẻ con thấy lạ bu theo tôi đông lắm. Rồi vào lúc đứng trước cửa một nhà nọ, tôi giẫm phải một đàn kiến nên bị nó đốt ngứa quá, đành phải dậm chân hòai cho kiến chạy đi. Lũ trẻ bèn kêu to lên: Kiến cắn, Kiến cắn v.v… Và từ đó, trẻ con đặt cho tôi cái tên mới là chú Kiến”.

Còn chị Pat, thì có tên là Cô Mai. Anh chị nói và đọc được tiếng Việt và quen biết gắn bó thân tình với khá nhiều bà con ở Quảng Ngãi.

Pat Martin có lần tâm sự với tôi: “ Là người Mỹ, tôi rất đau buồn về vụ thảm sát ở Mỹ Lai do quân đội Mỹ gây ra…” Và tôi cũng đã góp lời với chị rằng : “Dĩ nhiên là người Việt nam, thì tôi cũng hết sức đau đớn với vụ thảm sát ở Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 do chính người cộng sản Việt nam gây ra vậy…”

Từ năm 2000 đến nay, tôi thường đến cư ngụ tại nhà anh chị ở thành phố Harrisonburg tiểu bang Virginia, để tham dự những khóa hội thảo về Xây dựng Hòa bình do Đại học Eastern Mennonite University (EMU) tổ chức vào mùa hè mỗi năm (mà thường được gọi là Summer Peacebuilding Program = SPI). Qua anh chị Earl & Pat Martin, tôi học hỏi được bao nhiêu điều quý‎ báu mà những người yêu chuộng Hòa bình đang cố gắng theo đuổi thực hiện tại khắp nơi trên thế giới – với tư cách là thành viên của các tổ chức thuộc khu vực Xã hội Dân sự.

V – Để tóm lược lại.

Bài viết đến đây đã khá dài rồi, tôi chỉ xin tóm lược lại trong vài điểm như sau:

51 – Thứ nhất: Cũng như Quảng Nam ở phía Bắc và Bình Định ở phía Nam, Quảng Ngãi quả là một nơi xứng đáng với cái danh hiệu “Địa Linh – Nhân Kiệt”. Nhưng từ khi người cộng sản nắm giữ được quyền bính trong tay, thì họ đã gây ra không biết bao nhiêu đau thương khổ ải cho bà con nơi “miền đất cày lên sỏi đá” này. Cụ thể là vụ sát hại tập thể hàng mấy ngàn người ngay trong tháng 8 và 9 năm 1945.

Cũng như vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, sự việc độc ác tàn bạo tày trời này – dù cách nay đã 70 năm – thì chúng ta cũng không thể nào dễ dàng mà bỏ qua cho người cộng sản được.

52 – Thứ hai: Hiện nay số bà con gốc từ Quảng Ngãi đang định cư ở nước ngòai khá đông và đang quy tụ lại với nhau qua các Hội Ái Hữu – để vừa an ủi tương trợ lẫn nhau, vừa tìm cách giúp đỡ thế hệ trẻ ở bên quê nhà. Đó là điều thật đáng phấn khởi và tôi xin thành thực cầu chúc cho Quý Hội Ái Hữu Quảng Ngãi tiếp tục đạt thêm nhiều thành quả tốt đẹp hơn nữa vậy./

Costa Mesa California, cuối năm Ất Mùi 2015

Đoàn Thanh Liêm

Ý kiến của luật sư liên quan đến vụ em Đỗ Đăng Dư

Ý kiến của luật sư liên quan đến vụ em Đỗ Đăng Dư

LS Ngô Ngọc Trai

Vụ em Đỗ Đăng Dư

Nhiều khả năng Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an huyện Chương Mỹ đã phạm tội hình sự.

Thứ nhất: Em Dư lấy trộm 1,5 triệu là chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản. Vì căn cứ theo Điều 138 Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài sản, tài sản trộm cắp phải có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên mới bị xử lý hình sự. Do vậy với số tiền chỉ là 1,5 triệu thì việc tạm giữ hình sự để khởi đầu cho việc xử lý hình sự em Dư là trái pháp luật.

Tại sao lại có vi phạm đơn giản như vậy?

Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định rõ tại Điều 86 về tạm giữ hình sự, theo đó tạm giữ phải có quyết định của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra công an huyện và phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp xin phê chuẩn.

Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

Do vậy khi thấy số tiền trộm cắp chỉ là 1,5 triệu chưa đến mức xử lý hình sự thì ngay Trưởng công an xã là người có kiến thức phải biết hành vi của em không phải là tội phạm nên chỉ cần lập biên bản lại để xử lý hành chính và tha cho em. Chẳng lẽ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng công an huyện mà lại không biết, lại ra quyết định tạm giữ để khơi mào xử lý hình sự. Như thế là trái pháp luật.

Do vậy tôi cho rằng việc đầu tiên là việc tạm giữ hình sự em Dư là trái pháp luật.

Thứ hai: Ngoài việc ra quyết định tạm giữ hình sự trái pháp luật, tại sao lại xử lý hình sự với hành vi trộm cắp chỉ 1,5 triệu chưa đến mức 2 triệu?

Có khả năng trong khi bị tạm giữ hình sự trong quá trình khai báo em Dư đã khai ra 4 vụ trộm cắp khác và giá trị tài sản lớn hơn 2 triệu nên đủ mức xử lý hình sự. Nhưng liệu việc áp dụng biện pháp bắt tạm giam em có đúng luật hay trái luật?

Căn cứ theo điều 303 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thủ tục tố tụng hình sự xử lý người chưa thành niên, thì trẻ vị thành niên chỉ bị bắt giam nếu có phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Theo Điều 138 về tội trộm cắp tài sản thì em Dư phải trộm cắp tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên mới là phạm tội nghiêm trọng và bị áp dụng biện pháp tạm giam. Còn nếu em chỉ trộm cắp vặt giá trị tài sản chỉ vài trăm nghìn hoặc một vài triệu, giá trị không đến 50 triệu thì không được bắt tạm giam em.

Như vậy nếu làm rõ được giá trị tài sản trộm cắp chưa đến 50 triệu đồng mà vẫn áp dụng biện pháp bắt giam em Dư sẽ là trái pháp luật.

Tóm lại: Tôi cho rằng rất có khả năng Cán bộ điều tra của công an Huyện Chương Mỹ và Viện kiểm sát huyện Chương Mỹ đã có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hình sự, có khả năng đã vi phạm pháp luật hình sự và phạm vào tội ra quyết định trái pháp luật theo Điều 296 Bộ luật hình sự

Điều 296. Tội ra quyết định trái pháp luật
1. Người nào có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án ra quyết định mà mình biết rõ là trái pháp luật gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.

Việc Thủ trưởng hay Phó thủ trưởng cơ quan điều tra ra Quyết định tạm giữ hình sự, Quyết định tạm giam em Dư nhiều khả năng đã phạm vào tội ra quyết định trái pháp luật nêu trên.

Đi sâu vào vụ án có thể còn có những vi phạm khác nữa, việc điều tra các sai phạm này thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cụ thể trích từ một bài báo như sau:

Ngày 6-8-2015, tin từ lãnh đạo VKSND Tối cao cho biết, sáng cùng ngày VKSND Tối cao đã tổ chức lễ ra mắt Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp (Vụ 6). Ông Nguyễn Việt Hùng được lãnh đạo VKSND Tối cao bổ nhiệm giữ chức Vụ trưởng Vụ 6.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được lập thêm cơ quan chuyên sâu chuyên xử lý các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp, tức là những tội phạm do các cán bộ tư pháp gây ra. Do vậy gia đình em Dư và các luật sư cần làm đơn trình báo tới vụ 6 Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu trên.

Cuối cùng: Việc bắt giam em thiếu cơ sở xác đáng và đặt tính mạng sức khỏe của em vào môi trường giam giữ không an toàn cho thấy nền tư pháp hình sự hiện tại vô cùng nghiệt ngã và nặng nề bạo quyền.

Việc em Dư phải khai ra 4 vụ trộm cắp tôi tin chắc cũng do bị đánh đập, điều này đặt ra đòi hỏi phải có quy định về quyền im lặng, việc lấy lời khai phải có luật sư tham gia, trong phòng giam giữ và phòng hỏi cung phải lắp camera ghi âm ghi hình.

Nếu không thực hiện những việc này thì tội ác do cán bộ công quyền gây ra (vô tình hay cố ý) cho con người sẽ vẫn còn tiếp diễn.

Xem the^m:

Vụ Đỗ Đăng Dư: là luật sư, chúng ta có thể làm gì?

Vài điều suy nghĩ ở cái chết Đỗ Đăng Dư đọc từ báo đảng Cộng Sản

Vài điều suy nghĩ ở cái chết Đỗ Đăng Dư đọc từ báo đảng Cộng Sản

Người Buôn Gió

Câu chuyện về cái chết của Đỗ Đăng Dư trong trại giam số 3 công an TPHN gây xôn xao dư luận. Về khía cạnh pháp luật thì đã có những người am hiểu bình luận, nhất là về thi hành giam giữ, khởi tố với người dưới 18 tuổi.

Tuy nhiên bài viết này nhìn từ góc độ kinh nghiệm của một người từng kinh qua tất cả các thể loại tạm giam trong chế độ này.

Sau nhiều ngày im ắm từ khi cháu Dư đưa vào bệnh viện. Đến khi tin cháu Dư chết được xác nhận chính thức. Đồng loạt báo chí đưa ra một bản tin gần như giống nhau hoàn toàn. Điều đó cho thấy báo chí được lệnh im lặng chờ đợi và chuẩn bị khi nào đưa bài. Một sự chỉ đạo được từng ấy báo chí có lẽ phải từ cỡ Bộ Chính Trị.

Thứ nhất

Báo Tiền Phong mô tả, Đánh chết bạn tù vì rửa bát bẩn:Các bị can bị tạm giam cùng buồng đã đỡ và hô hoán báo cáo cán bộ quản lý để đưa Dư đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông. Đến tối cùng ngày, Dư được chuyển lên Bệnh viện Bạch Mai để tiếp tục theo dõi, điều trị”.

Báo An ninh thủ đô mô tả, Làm rõ trách nhiệm, xử lý nghiêm việc hành hung bị can Đỗ Đăng Dư:Khoảng 5 phút sau, Dư đi ra khỏi khu vệ sinh thì bị ngã xuống sàn nhà. Bình, Trường và Đức Anh đã chạy lại đỡ Dư dậy. Cùng lúc đó, đồng chí Nguyễn Mạnh Cường – cán bộ quản giáo phát hiện sự việc như trên đã báo cáo chỉ huy đơn vị. Ban Giám thị Trại tạm giam số 3 đã chỉ đạo khẩn trương đưa Đỗ Đăng Dư đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa Hà Đông”.

Theo các bạn thì sự thật nằm ở đâu, phạm nhân hô hoán để cán bộ quản giáo biết hay là cán bộ quản giáo cùng lúc đó phát hiện sự việc. Tóm lại là pham nhân hô hoán hay cán bộ phát hiện. Đây là điểm mâu thuẫn rất lớn giữa hai tờ báo lớn. Sự mâu thuẫn này cho thấy có sự giả tạo ở thời điểm nhạy cảm, quan trọng nhất trong tình tiết vụ án đó là phát hiện vụ án. Và nếu như vụ án được bắt đầu bằng một sự giả tạo thì ắt quá trình của nó phải mang đậm sự giả tạo, đó là điều tất nhiên.

Đoạn tin dưới đây tất cả các tờ báo đều đưa tin giống nhau.

Khoảng 8h30 ngày 4-10-2015, Dư, Bình, Trường và Đức Anh ăn sáng tại buồng giam. Theo lịch phân công, sau khi ăn xong Dư phải rửa bát cho các bị can cùng buồng. Do thấy Dư rửa bát bẩn, Bình gọi Dư đến ngồi ở khu vực giữa 2 bệ xi măng nơi bị can ngủ. Bình đứng đối diện Dư và dùng tay phải tát 2 cái vào má trái, dùng chân trái đá 3, 4 lần vào đầu Dư theo hướng từ trên xuống dưới.

Với những người bình thường khi đọc sẽ không phát hiện được điều gì trong mẩu tin đưa trên. Nhưng với số lượng gần 5000 người bị tạm giam (không tính tạm giữ) một năm ở Hà Nội (khi chưa nhập Hà Tây). Ít nhất sẽ có vài chục nghìn người ở Hà Nội từng bị tam giam thấy điểm khác lạ trong bản tin này.

Thứ hai

Không có lịch phân công rửa bát trong buồng tạm giam công an TP. Chỉ có ”nhân dân ” hay “lái xe”… những thành phần bị bắt nạt, hèn yếu nhất trong buồng giam phải thực hiện công việc này.

Thứ ba

Mọi việc đánh đập không bao giờ diễn ra vào buổi sáng tầm 8 giờ 30, nhất là một cách nghe rất truyền thống là bắt đồng phạm quỳ dưới ”mà” (tiếng lóng chỉ lối đi giữa sàn). Đây là giờ mà cán bộ gọi lấy cung, đi lấy quà, lăn tay…vì thế mọi việc tra tấn giữa các tù nhân với nhau như vậy chỉ diễn ra vào buổi chiều tối. Sau giờ điểm danh.

Thứ tư là tù nhân ăn gì vào buổi sáng mà dùng đến bát, đũa, thìa. Ăn mỳ tôm hay ăn xôi, miến, phở. Hay trại giam số 3 Hà Tây có cho tù nhân ăn bữa sáng đựng trong bát? Người viết bài này đã trải qua gần như tất cả các thể loại tạm giam, từ công an phường, công an quận, công an thành phố đến công an bộ. Chưa bao giờ trại giam cấp ăn sáng cho tù nhân. Ở trại tạm giam số 1 của CATPHN tất cả bát nhựa đều để ở khu ngoài có khoá ngăn, đến giờ ăn trưa phạm nhân được mở ra lấy bát ăn cơm, sau đó cất lại khu ngoài.  Chỉ có những đại ca có tên tuổi trong giang hồ hoặc là đại bàng trong buồng giam mới có suất ăn sáng bằng bát nhựa, có thể dùng nhựa và vải vụn làm chất đốt để đun nước sôi nấu mỳ tôm.

Thứ tư

Thế mà mấy thằng oắt con chưa đến 18 tuổi ăn sáng trong buồng tạm giam bằng bát. Muốn ăn thế thì gia đình phải hối lộ vài triệu một thằng cho quản giáo trong một tháng để quản giáo làm ngơ cho đun nấu, mang bát vào ăn, ăn sáng một cách thảnh thơi như vậy.

Thứ năm

Chúng ta nên nhớ Lê Văn Luyện, sát thủ 17 tuổi bị giam chung với các phạm nhân khác đều thành niên. Không có cái gọi là phòng giam C15 nào để giam riêng vị thành niên cả. Tôi đã từng ở chung phòng với một cậu bé giết 16 tuổi phạm tội giết người và ông già 65 tuổi tội lừa đảo. Nếu ở trại tạm giam có phòng giam cho trẻ em dưới 18 tuổi thì bắt buộc các trại giam, trại cải tạo cũng phải có phòng cho trẻ em dưới 18 tuổi. Thực tế là trẻ em dưới 18 tuổi phạm tội đến mức phải bị lệnh tạm giam rất ít, trừ những tội đặc biệt nghiêm trọng … vì thế trại tù không có phòng cho trẻ em dưới 18 tuổi. Thường thì chúng sẽ được ưu ái giam vào buồng tiền án, tiền sự lần đầu hay tiếng lóng gọi là ”tù con so”.

Vậy là 5 điều khó tin nhất trong nhà tù lại xảy ra cùng một lúc. Sự thực thì những yếu tố này có thể diễn ra trong nhà tù, nhưng ở tỷ lệ cực thấp cho mỗi yếu tố. Nhưng ở vụ án này xác suất thật tình cờ đến kinh ngạc là cả 5 yếu tố khó tin lại có thể có cùng một lúc.

Thứ sáu

17 tuổi Đỗ Đăng Dư bị bạn tù là Vũ Văn Bình đánh chết. Cái cách đánh mà chỉ có những đại bàng từng trải, có uy lực mới làm được. Đó là đủ uy vũ để bắt người khác quỳ xuống và dùng chân đá theo hướng từ trên xuống.

”dùng chân trái đá 3, 4 lần vào đầu Dư theo hướng từ trên xuống dưới.”

Bạn hãy thử hình dung bạn đánh một người đang ngồi, bạn đá từ trên xuống sẽ thế nào? Người bình thường chỉ đá từ dưới lên vào mặt hay ngực người ngồi. Vũ Văn Bình mới 17 tuổi đi chân đất (trong tù không có giầy , nếu có chỉ là giày vải mềm loại buộc giây nhưng đã bị quản giáo thu dây) đá vào đầu Dư theo hướng từ trên xuống. Không ai dại gì đá từ trên xuống vào đỉnh sọ người, vì đó là chỗ cứng nhất, thế đá lại khó nhất. Vậy mà Vũ Văn Bình thực hiện được những cú đá như trong báo chí miêu tả.

Sự thực chỉ có thể trong tình huống ấy là Vũ Văn Bình giơ gót chân và nện xuống lưng của Đỗ Đăng Dư. Bất kể ai từng đi tù đều hiểu đó là cách đánh phổ thông nhất. Nhưng thường người thực hiện đánh như vậy là người có nhiều năm tù giam ở những trại tạm giam, trại tù mới có kinh nghiệm để thực hiên như vậy. Nếu Vũ Văn Bình trước đó từng bị giam giữ nhiều lần hay qua trường giáo dưỡng thì có thể Bình biết được cách đánh chuyên nghiệp như vây. Nhưng nếu Bình đã rành cách đánh như thế thì Bình sẽ hiểu quy tắc không thể manh động đánh trong giờ hành chính. Một người có cách đánh điềm tĩnh, lỳ lợm, uy hiếp đầy toan tính như bắt người khác ngồi dưới lòng ” mà” (nơi tiện cho việc tra tấn nhất trong buồng giam) không thể nào manh động làm sai điều cốt lõi là đánh ngay trong giờ cao điểm là 8 giờ 30.

Thứ bảy

Thủ phạm Vũ Văn Bình ở tuổi vị thành niên, sau khi đánh chết Đỗ Đăng Dư bị khởi tố vì tội ” cố ý gây thương tích ”. Các nhân chứng trong buồng đều dưới 18 tuổi. Nguyên nhân xuất phát từ Dư thiếu trách nhiệm trong việc rửa bát cho sạch theo lịch phân công. Thủ phạm không dùng hung khí chỉ dùng tay chân không đánh vài phát.

Những tình tiết ngẫu nhiên có được sẽ là điều khoản giảm tội Vũ Văn Bình đến tối đa.

Những yếu tố cực kỳ hiếm hoi có thể xảy ra bỗng nhiên xuất hiện đồng loạt trong cái chết của Đỗ Đăng Dư. Mới kể sơ sơ đã là 7 yếu tố mà bất kỳ ai từng ngồi trong trại giam đều thấy được. Đây là một kịch bản được dưng lên, những yếu tố được lồng ghép để vụ việc thành đơn giản. Việc luật sư chứng kiến việc mổ tử thi không ký vào biên bản không phải là điều hay như người ta vẫn nghĩ. Lẽ ra anh ta phải xin sao ra làm hai bản. Anh ta ký nhận vào một bản và ghi rõ lý do tôi đồng ý với những vết thương bên ngoài như đã thể hiện trong biên bản và tôi phản đối biên bản khám nghiệm  vì có những vết thương nội tạng bên trong không được thể hiện.

Công nhận những vết thương bên ngoài như đã nhìn thấy. Như thế ít ra anh ta sẽ có chứng cứ về những vết thương bên ngoài. Mà vết thương bên ngoài do dùng chân không đá thì để lại dấu vết thế nào hay không thì quá dễ hiểu, nhất là dẫn đến tử vong, điều ấy chỉ có trong truyện của Kim Dung.

Nhưng anh ta đã không ký nhận mặc dù có mặt, anh ta trở ra tay không với lời khuyên gia đình nên mang xác đi chôn luôn, để đó chả giải quyết gì. Đó là điều tôi không thể nào hiểu nổi.

Có lẽ tôi không hiểu là phải, vì tôi chưa học xong cấp ba. Còn anh ta đã học xong đại học, thêm khoá học nữa để bồi dưỡng thành luật sư. Suy nghĩ của một thằng kinh nghiệm tù nhiều và suy nghĩ của một luật sư học hành đầy đủ, đến nơi, đến chốn không thể hiểu nhau là điều tất nhiên. Như câu ví chim sẻ không thể hiểu được chí của đại bàng vậy.

Bao giờ mới hết tình trạng bệnh viện quá tải?

Bao giờ mới hết tình trạng bệnh viện quá tải?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-10-10

  • RFA
  • 000_Hkg9725957-622.jpg

Một bệnh viện ở Hà Nội, ảnh minh họa chụp trước đây.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Phải cam kết nằm ghép

Bệnh nhân phải ký giấy cam kết đồng ý nằm ghép khi đến điều trị tại bệnh viện Nhiệt đới Trung ương tại Hà Nội. Đây là tin do tờ Tuổi Trẻ loan đi hôm đầu tháng 10. Điều này cho thấy tình trạng quá tải ở các bệnh viện tại Việt Nam là hết sức đáng lo ngại.

Việt Nam nằm trong danh sách 33 quốc gia có tỷ lệ giường bệnh thấp nhất trên thế giới, 1 giường bệnh/1.000 dân.

Thống kê của Cục Quản lý Khám chữa bệnh – Bộ Y tế cho biết, hiện nay tình trạng các bệnh viện công đang quá tải ở mức trầm trọng. Công suất sử dụng giường bệnh luôn ở mức từ 90-110%, bệnh nhân thường phải nằm 2-3 người/giường, thậm chí có nơi tới 4-5 người/giường. Trong lúc đó tỷ lệ bác sĩ trên 1 vạn dân mới ở mức 7,4 bác sĩ/ 10.000 người.

Từ hôm vào bệnh viện con tôi có được nằm ở giường đâu, toàn nằm dưới đất chứ làm gì có giường, vì còn các cháu bé hơn con mình nên mình phải nhường. Có đến 4 cháu chung một giường thì làm sao mình có thể nằm được.
-Ông Thịnh

Do đó, tình trạng ở các bệnh viện 2-3 người bệnh nằm chung một giường hay ngồi la liệt ngoài hành lang, hoặc phải chầu trực xếp hàng khám chữa bệnh từ 4-5 giờ sáng là hiện tượng hết sức phổ biến.

Ông Thịnh, quê ở Nam Định một người nhà bệnh nhân đang điều trị tại bệnh viện Nhi Trung ương ở Hà nội cho biết:

“Từ hôm vào bệnh viện con tôi có được nằm ở giường đâu, toàn nằm dưới đất chứ làm gì có giường, vì còn các cháu bé hơn con mình nên mình phải nhường. Có đến 4 cháu chung một giường thì làm sao mình có thể nằm được.”

Điều đáng nói là, tình trạng nằm ghép 2-3 người bệnh/giường được coi là chuyện đương nhiên, và người bệnh phải biết chấp nhận. Ông Thành quê ở Thanh hóa tiếp lời:

“Bệnh viện đông quá, phải nằm 02 cháu một giường nhưng do các cháu ốm đau nhiều quá thì phải chấp nhận như thế, biết làm sao được?”

Tình trạng quá tải ở các bệnh viện hiện nay đã ở mức đáng báo động; nhất là mỗi khi xảy ra dịch bệnh. Nói về tình trạng quá tải ở các bệnh viện hiện nay, BS Đông ở bệnh viện Ung bướu TP. HCM ghi nhận:

“Từ trước đến giờ bệnh viện luôn quá tải, nguyên nhân là do nguồn bệnh nhân từ các tỉnh chuyển lên thêm tới 60-70%. Theo định biên thì bệnh viện có 1.300 giường nhưng chỉ có 700 giường nội trú thôi, nhưng số bệnh nhân nội trú luôn là 1.700-1800 người, kể cả bệnh nhân ngoại trú là 8.000 người. Vì thế tình trạng một giường nằm 2-3 người thậm chí không phải là nằm nữa, mà gọi là ngồi.”

Phòng cấp cứu của một bệnh viện công ở Việt Nam.

Theo báo Thanh niên online, Bộ Y tế cho biết tình trạng quá tải bệnh nhân sẽ làm chất lượng khám chữa, chăm sóc người bệnh tại bệnh viện bị ảnh hưởng. Ngoài ra môi trường bệnh viện cũng dễ bị nhiễm khuẩn hơn và cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều tiêu cực trong ngành y như: vòi vĩnh, hạch sách người bệnh và gây ra nguy cơ mất an ninh trong bệnh viện.

Đã có 20 bệnh viện tuyến trung ương ký cam kết không để bệnh nhân nằm ghép và thực hiện nghiêm túc thông tư số 14/2014/TT-BYT ngày 14/4/2014 về quy định việc chuyển tuyến giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc các trường hợp từ chối tiếp nhận người bệnh trái quy định gây ảnh hưởng sức khỏe của người bệnh, làm bức xúc đối với người bệnh.

Nguyên nhân

Trả lời câu hỏi: nguyên nhân do đâu khiến cho tình trạng quá tải ở các bệnh viện trở nên trầm trọng?

Do khả năng và chất lượng khám chữa bệnh ở các tuyến khác nhau, nên người dân không tin các bệnh viện ở tuyến cơ sở, họ đã bằng mọi cách tìm về các bệnh viện tuyến trên để khám chữa và điều trị. BS Quảng ở bệnh viện Đa khoa Đan phượng, Hà Nội cho biết:

“Nếu như bệnh viện được đầu tư trang thiết bị thì bệnh viện sẽ đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh, không phải chuyển bệnh nhân lên tuyến trên sẽ giảm được tình trạng quá tải. Đồng thời các bác si sẽ được phát huy năng lực, được sử dụng các thiết bị hiện đại từ đó sẽ nâng cao chất lượng điều trị. Và sẽ tạo được sự hài lòng của người bệnh khi đến khám chữa bệnh.”

Nguyên nhân cơ bản là số giường bệnh trên đầu người quá thấp, số bệnh nhân nội trú trong 20 năm qua tăng gấp 10 lần, song số giường bệnh chỉ tăng có 2 lần. Bên cạnh đó đầu tư của ngân sách nhà nước dành cho ngành Y tế ở mức quá thấp, đặc biệt là vốn cho xây dựng bệnh viện còn quá ít, BS Đông khẳng định:

Tình trạng quá tải hiện nay của của chúng ta đã quá căn cơ, nguyên nhân cơ bản nhất là chúng ta thiếu nhân lực và thứ 2 là do chúng ta quá thiếu bệnh viện.
-BS Đông

“Tình trạng quá tải hiện nay của của chúng ta đã quá căn cơ, nguyên nhân cơ bản nhất là chúng ta thiếu nhân lực và thứ 2 là do chúng ta quá thiếu bệnh viện.”

Một thực tế khá trớ trêu, trong lúc các bệnh viện công thì quá tải song các bệnh viện hay các cơ sở y tế tư nhân được đầu tư với số lượng vốn lớn, khang trang lại đang phải đối mặt với vấn đề thiếu bệnh nhân. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do chính sách Bảo hiểm Y tế còn quá nhiều bất cập. BS Hưng thuộc bệnh viện Chuyên khoa Nội Khánh Lương, một bệnh viện Tư nhân ở Hà nội giải thích:

“Vì đa số bà con ta có mức sống còn quá thấp nên là khám chữa bệnh họ chỉ trông chờ vào Bảo hiểm Y tế, mà Bảo hiểm Y tế thì các nơi khác chuyển đến thì họ được giảm 40%. Nhưng bây giờ khám ngoại trú thì họ không được giảm đồng nào. Chính vì thế mà họ không dám đến khám chữa bệnh ở các bệnh viện ngoài công lập.”

Tuy vậy, trong thời gian qua ở các BV luôn có các nỗ lực bằng nhiều cách khác nhau để giảm thiểu vấn đề quá tải của bệnh viện và bước đầu cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Nói về giải pháp, BS Vĩnh ở bệnh viện Nhi trung ương cho biết:

“Bằng cách tạo ra một lớp lọc nữa, tức là với những trường hợp người bệnh nếu cho về nhà thì chưa yên tâm, nhưng nếu cho ở lại viện thì chưa cần thiết thì chúng tôi đưa họ vào khu vực lưu ngắn để theo dõi họ trong khoảng 4-5 giờ đồng hồ.”

Để giải quyết tình trạng quá tải thì không chỉ xây thêm bệnh viện hoặc tăng số giường bệnh, mà phải tăng chất lượng điều trị, một cán bộ thuộc Trung tâm Phát triển năng lực quản lý khám, chữa bệnh – Cục Quản lý khám chữa bệnh – Bộ Y tế cho chúng tôi biết về giải pháp:

“Đầu tiên là phải nâng cao chất lượng điều trị, làm thế nào để giảm số ngày nằm viện càng ít càng tốt, bằng cách chúng tôi sẽ đưa ra các tiêu chuẩn được nằm viện một cách chặt chẽ, không cho nhập viện một cách ồ ạt. Đối với các bệnh nhân không xứng đáng phải nằm viện thì chúng tôi sẽ chuyển xuống tuyến dưới hoặc cho họ điều trị tại nhà với các tư vấn thật là chi tiết.”

Người dân thiếu đói, thất học, bệnh tật nhưng không được chạy chữa đúng mức là những hình ảnh thể hiện sự nghèo đói, kém văn minh, đồng thời qua đó cũng cho thấy sự quan tâm của nhà nước đối với dân chúng ở mức độ nào? Hậu quả của quá tải bệnh viện không những làm cho người bệnh gặp rất nhiều khó khăn, phiền toái mà còn gây nhiều hệ lụy xấu cho ngành Y tế.