Đảng có muốn nhìn vào Sự Thật?

Đảng có muốn nhìn vào Sự Thật?

clip_image001

Trần Phan

18-10-2015

Ngày 28/9/2015, báo Tuổi Trẻ online đăng bài “Cần người nói thật, dám nghĩ, dám làm” nói về quan điểm của ông Vũ Ngọc Hoàng về đề tài này qua trả lời các câu hỏi của báo Tuổi Trẻ, do Đà Trang và Võ Văn Thành thực hiện. Ông Vũ Ngọc Hoàng hiện là ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo trung ương.

Bài này xin thảo luận cũng về đề tài nói trên, dựa trên phát biểu của ông Hoàng.

Phát biểu của ông Hoàng: “Đây không phải lần đầu tiên Đảng chủ trương phải nhìn thẳng vào sự thật”

Ý kiến tiếp theo của người viết: Tôi xin được hiểu “nhìn thẳng vào sự thật” nghĩa là tìm hiểu, tiếp cận Sự Thật, thảo luận Sự Thật một cách công khai, công bố Sự Thật một cách trung thực, minh bạch…

Nếu hiểu như thế thì dựa trên quan sát những gì đảng CSVN đã làm ngoài thực tế, dựa trên học hỏi những gì được ghi chép trong tài liệu, người viết chưa thấy “Đảng chủ trương nhìn thẳng vào Sự Thật”.

Thế nào là Sự Thật

Bài viết chỉ xin đề cập tới các Sự Thật trong xã hội con người. Sự Thật trong xã hội con người tồn tại cùng với sự hiện diện của con người, và trong sự đồng ý của đa số con người trong xã hội đó.

Thí dụ: Dân chúng tỉnh bang Quebec (Canada) không chấp nhận tách khỏi Canada. Đây là Sự Thật xã hội vì: a) nếu không có sự hiện diện của dân chúng Quebec thì không có sự kiện này, và b) đa số dân chúng tỉnh bang Quebec đồng ý với phát biểu trên (sự đồng ý của đa số dân chúng được chứng thực bởi kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý được đa số dân chúng tin là trung thực).

Làm sao để tìm hiểu Sự Thật

Một đặc tính của lòng lương thiện trung thực là sự thực tâm đi tìm Sự Thật. Trong một xã hội thiếu vắng lòng lương thiện trung thực đó, Sự Thật bị giấu giếm, bóp méo hay đảo lộn bởi các thế lực cầm quyền  muốn lừa dối dân chúng. Xã hội như vậy sẽ rối loạn rồi đổ vỡ. Luôn luôn trong lòng xã hội, quần chúng nhân dân, chứ không phải chính quyền, là lực lượng chính đòi hỏi quyền được đi tìm Sự Thật. Hơn thế, đó còn là nhân tố của Sự Thật, bởi vì, như trình bày bên trên, Sự Thật của xã hội là Sự Thật được chấp nhận, được đồng ý bởi số đông.

Người đi tìm Sự Thật không thể tiếp cận được nó nếu không có tinh thần tự do suy luận, không có bản lãnh vượt ra khỏi định kiến.

Do đó, người thực tâm đi tìm Sự Thật, thực tâm muốn nhìn thẳng vào Sự Thật, từ trong bản chất là người khát khao tự do và tin tưởng vào tự do nơi người khác. Từ trong bản chất, đó là người luôn muốn hợp tác với mọi người, muốn chia sẻ thông tin, tri thức với mọi người để cùng nhau bước lên những tầng nấc cao hơn của tri thức trên con đường tìm kiếm Sự Thật.

Nếu thực sự “Đảng chủ trương phải nhìn thẳng vào sự thật” thì các tính chất nói trên phải được Đảng CSVN biểu lộ rõ ràng cho dân chúng thấy.

Thái độ của Đảng CSVN đối với Sự Thật

1) Đảng luôn biểu hiện là người không có tự do. Sự thiếu tinh thần tự do của Đảng biểu hiện ở việc 70 năm trôi qua, bao biến cố lịch sử nối tiếp nhau mà Đảng không có gì đổi mới. Tôi muốn nói tới các đổi mới to lớn ở thượng tầng kiến trúc. Vẫn bám vào cương lĩnh Đảng từ thời Trần Phú. Vẫn là xây dựng chủ nghĩa xã hội dù Liên Xô và các nước Đông Âu đã vất bỏ chủ nghĩa đó 25 năm rồi. Vẫn tụng Mác-Lê, vẫn tôn thờ ông Hồ Chí Minh. Vẫn lặp đi lặp lại công ơn trời biển của Đảng, từ Cách mạng tháng Tám, tới hai cuộc chiến dài 30 năm. Vẫn tuyên truyền thành công của cuộc Cải cách ruộng đất trời long đất lở… Bao nhiêu Sự Thật được phơi bày, một cách khoa học, khách quan với đầy đủ chứng cứ, và được loan truyền trong dân chúng với tốc độ internet. Sự ngoảnh mặt của Đảng với Sự Thật và bám víu vào những luận điệu sai lầm cũ kĩ càng chứng tỏ mức độ mất tự do suy nghĩ và suy luận của Đảng là khủng khiếp dường nào!

2) Đảng không có tự do, và bởi vì Đảng nắm vũ khí trong tay, nên Đảng cũng tước đoạt tự do của dân chúng. Dân chúng dưới chính thể độc đảng toàn trị của Đảng CSVN không có một tí gì các quyền tự do căn bản. Các biểu hiện cho thấy Đảng thù ghét tự do nơi dân chúng. Đảng sợ hãi tự do nơi dân chúng.

Do đó, Đảng đã đóng sập mọi cánh cửa dẫn tới Sự Thật. Không tự do ngôn luận. Không báo chí tư nhân. Không hội đoàn độc lập. Người dân không có lối đi tìm Sự Thật.

3) Chưa thấy Đảng hợp tác với dân chúng tìm Sự Thật. Chỉ thấy Đảng “định hướng” thông tin cho dân. Những bức tượng Lê-nin bị giật đổ tại thủ đô một số nước Đông Âu không bao giờ xuất hiện trên báo chính thống của đảng. Các tin tức về những cuộc tàn sát khủng khiếp do Stalin hay Mao Trạch Đông gây ra, công hàm Phạm Văn Đồng công nhận Hoàng Sa -Trường Sa thuộc Trung Quốc, các thông tin về Đảng, về ông Hồ Chí Minh khác với tuyên truyền của Đảng đều bị giấu kín…

Các Sự Thật lịch sử bị giấu kín, các Sự Thật thời sự cũng bị giấu kín. Những tòa nhà quá hoành tráng của quan chức nhà nước chưa bao giờ xuất hiện trên báo chính thống. Chỉ có các trang mạng đăng lên, và những nhân vật bị nêu tên im lặng. Im lặng một cách thách thức! Thi thoảng có vài trang báo chính thống đăng tin: sự trấn áp đến liền. Khi báo Tuổi Trẻ đăng tin ông Hồ Chí Minh có người phụ nữ riêng, tổng biên tập Vũ Kim Hạnh mất chức. Khi các bài báo về vụ tham nhũng PMU xuất hiện, các nhà báo bị bỏ tù!  Khi báo Người Cao Tuổi đăng chứng cớ về sự tham nhũng của các quan thanh tra cao nhất nước, tổng biên tập Kim Quốc Hoa bị truy tố.

Có ai điều tra về việc ống nước Sông Đà? Về dự án đường sắt trên cao Hà Nội mà mức độ đội vốn lên hàng tỉ đô la? Về những con đường nghìn tỉ, giá thành cao gấp mấy lần so với Mỹ, mà vừa làm xong đã hư? Về trên 200 mạng người chết trong đồn công an? Về bauxite Tây nguyên? Về vụ án Đoàn Văn Vươn? Chỉ có chính quyền, làm sai rồi tự điều tra.

Những sự việc lớn hơn càng bị giấu kín hơn. Vụ công án xôn xao dư luận là Hội nghị Thành Đô bị bưng bít triệt để. Vài nhân chứng đề cập sự việc, báo nước ngoài tung tin, Đảng càng bưng bít. Dân chúng, trong khi cảm nhận sự việc là quá có hại cho quyền lợi tổ quốc, càng xôn xao phẫn hận trước trò bưng bít Sự Thật một cách công khai đó, và vẫn chưa tiếp cận được Sự Thật.

Do đó, đa số dân chúng Việt Nam bị mù, phải sờ soạng trong bóng đêm lần mò tìm chính sách ngoại giao dưới cây gậy thao túng chỉ đường của Đảng.

Kết Luận

Tôi hiểu không dễ để ông Vũ Ngọc Hoàng có những phát biểu khác hơn, rõ rệt hơn về Sự Thật. Cho nên tôi không có lời phê phán nào về ý đồ của ông, chỉ xin nói thẳng thắn rằng:

Trong khi ông Hoàng tuyên bố: “Đảng chủ trương nhìn thẳng vào Sự Thật” thì tôi có nhận định ngược lại 180 độ: “Đảng sợ Sự Thật, giấu giếm Sự Thật và cấm đoán dân chúng tìm Sự Thật”.

Thưa ông Hoàng, thời đất nước chia đôi, nếu Sự Thật về đời sống của dân chúng miền Nam tự do giàu mạnh, ấm no đến được với dân chúng miền Bắc, thì có cuộc nội chiến hủy diệt sinh lực đất nước 20 năm không?

Nếu Sự Thật về hậu quả của Cải cách ruộng đất miền Bắc và Cải tạo công thương nghiệp miền Bắc đến được với dân Việt, thì sau 1975, nước ta có các chiến dịch tiêu diệt lực lượng công thương giàu kinh nghiệm của miền Nam không? Nếu Sự Thật về đời sống và các biến chuyển chính trị thế giới đến được với dân Việt thì đất nước ta có sớm nghiêng về nếp sống tự do dân chủ hơn không? Có tránh được thảm họa thuyền nhân không? Tiềm năng dân tộc có sớm được khai phóng và GDP nước ta có thể cao gấp 3-4 lần hiện nay không? Ta có lệ thuộc Trung Cộng như bây giờ không?

Sự Thật quan trọng như vậy, cho nên nếu có thành tâm, xin ông Hoàng cùng với các đảng viên thực lòng muốn “Nhìn Thẳng Vào Sự Thật” hoạt động theo hướng này. Bên trong Đảng, các ông cùng phối hợp góp ý, đấu tranh với Đảng, vận động người cùng ý hướng. Bên ngoài Đảng, các ông phối hợp với các nhà báo tự do, lực lượng trí thức rộng rãi trong xã hội cùng nhau tìm, công bố và bảo vệ Sự Thật. Bảo vệ những con người hoạt động vì Sự Thật. Đấu tranh cho các quyền tự do ngôn luận, báo chí tư nhân, tự do lập hội…

Chỉ cần tiếp cận được Sự Thật, dựa trên Sự Thật, nhờ Sự Thật soi sáng, dân tộc Việt Nam sẽ phát triển mạnh và vươn cao.

T.P

Nguồn: http://www.voatiengviet.com/content/dang-co-muon-nhin-vao-su-that/3011953.html

Rộ nạn buôn người ở Việt Nam dưới nhiều hình thức

Rộ nạn buôn người ở Việt Nam dưới nhiều hình thức
Nguoi-viet.com
CẦN THƠ (NV) – Tình trạng buôn người ở Việt Nam đang diễn biến phức tạp, nhất là các tuyến biên giới với quy mô ngày càng lớn. Chỉ trong nửa năm 2015, công an đã phát hiện thêm 200 vụ, liên quan 310 người lừa bán 508 nạn nhân.

Một vụ xét xử sơ thẩm hai phụ nữ về tội buôn người ở Cần Thơ
vào Tháng Tám. (Hình: Thanh Niên)

Tờ Thanh Niên dẫn tin, ngày 17 Tháng Mười, tại hội nghị cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm mua bán người trên tuyến biên giới Việt Nam – Lào, và Việt Nam – Cambodia, do Bộ Công An tổ chức tại thành phố Cần Thơ, ông Hồ Sỹ Tiến, cục trưởng Cục Cảnh Sát Hình Sự, nhận định, tình hình sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng.

Theo phúc trình, các thủ đoạn buôn người cũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, tính chất hoạt động phạm tội xuyên quốc gia và hình thành nhiều đường dây, gây cản trở cho công tác điều tra, khám phá và giải cứu nạn nhân.

Tại biên giới Việt Nam – Lào, nạn nhân chủ yếu tập trung từ các tỉnh miền Trung đã bị đưa sang Lào làm gái mại dâm hoặc lao động khổ sai trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ, các công trường và bị bóc lột sức lao động tại các khu khai thác khoáng sản.

Tin cho hay, bọn buôn người thường dụ dỗ, lừa gạt phụ nữ, trẻ em để đưa vào hoạt động trong các ổ mại dâm trá hình hay đưa đến các mỏ vàng, công trường xây dựng ở Lào để bóc lột sức lao động.

Ông Nguyễn Xuân Bắc, phó cục trưởng Cục Phòng Chống Tội Phạm Ma Túy, Bộ Tư Lệnh Biên Phòng, cũng cho biết, các dịch vụ giải trí như vũ trường, sòng bạc, massage phía Cambodia phát triển, kéo theo nhu cầu tuyển nhân viên nữ. Trong khi đó, một bộ phận phụ nữ ở các tỉnh miền Tây thiếu việc làm, trình độ thấp đã bị lừa gạt đưa sang Cambodia.

Chỉ trong năm 2014 và sáu tháng đầu năm 2015, các đơn vị chức năng đã phát hiện trên 1,000 phụ nữ, trẻ em đi khỏi nơi cư trú với lý do “đi làm ăn xa,” nhưng chủ yếu là qua Cambodia và Trung Quốc.

Cụ thể, năm 2014, Việt Nam có 469 vụ buôn người, liên quan 685 người và 1,031 nạn nhân. Khoảng trong nửa năm 2015, Việt Nam phát hiện thêm 200 vụ, liên quan 310 người đã lừa bán 508 nạn nhân.

Đáng lưu ý, theo ông Tiến, tình hình hoạt động tội phạm mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, trong đó có cả trẻ sơ sinh, học sinh tại các tỉnh biên giới phía bắc cũng diễn ra phức tạp. Chỉ riêng ba tỉnh Lào Cai, Hà Giang, và Lai Châu, trong sáu tháng đầu năm 2015, có 20 vụ xảy ra.

“Đây là những nạn nhân tiềm tàng của hoạt động mua bán người. Do vậy, số vụ trên tuyến biên giới Việt Nam – Lào, Việt Nam – Cambodia trung bình hàng năm chiếm khoảng 6% trên tổng số vụ buôn người được phát hiện ở Việt Nam,” ông Bắc cho biết.

Theo đánh giá của Tổng Cục Cảnh Sát, thời gian qua, những nhóm buôn người luôn thay đổi phương thức, thủ đoạn để ép các nạn nhân hoạt động mại dâm, ép làm vợ bất hợp pháp; mua bán người thông qua môi giới hôn nhân bất hợp pháp, cho nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài, thông qua hình thức đưa người lao động ra nước ngoài, đi du lịch, tham quan, đẻ thuê, mua bán trẻ sơ sinh… Các đối tượng chủ yếu đưa nạn nhân ra nước ngoài bán (chiếm 90%, trong đó sang Trung Quốc chiếm 70% tổng số vụ). (Tr.N)

Báo chí quốc tế đưa tin vụ “Cậu Thủy” lừa đảo hài cốt của liệt sĩ

Báo chí quốc tế đưa tin vụ “Cậu Thủy” lừa đảo hài cốt của liệt sĩ

RFA
2015-10-17

000_APH2000042811263-305.jpg

Những hài cốt bộ đội bị chết từ năm 1967 và 1969 được phát hiện năm 2000 tại thành phố Hồ Chí Minh.

AFP PHOTO
 
 Báo chí quốc tế đồng loạt đưa tin vụ Tòa án Việt Nam tuyên án chung thân cho Nguyễn Văn Thủy và 6 người khác với mức án nặng nề về tội lừa đảo hài cốt của liệt sĩ trong cuộc chiến tranh Việt Nam.

Các hãng tin AP, Reuters, AFP cũng như ABC, Washington Post đều có bài tường trình hay dẫn lại từ các nguồn tin của báo chí Việt Nam trong vụ án này.

Nguyễn Văn Thủy còn có biệt danh là “Cậu Thủy” tự xưng có thể tìm hài cốt thất lạc nhờ có khả năng ngoại cảm. Thủy cùng với đồng bọn tới các gia đình có con em là bộ đội mất tích trong chiến tranh ra giá từ 10 tới 15 triệu ứng trước và khi nào nhóm của Thủy tìm ra hài cốt sẽ đóng phần còn lại từ 100 triệu đồng trở lên.

Nhóm của Thủy trộm hài cốt của những liệt sĩ khác trong các nghĩa trang và đem về giao cho người bị lừa. Theo cáo trạng thì nhóm của Thủy đã lừa 70 gia đình với các hài cốt ăn trộm.

Vụ án được truyền thông quốc tế đưa tin không phải vì bản án nặng nề mà do tính lừa gạt tinh vi và qua mắt được dư luận cũng như chính quyền trong một thời gian rất dài.

Trước đây nhiều cán bộ đang tại chức cũng công khai đồng tình với những phong trào ngoại cảm và rất nhiều vụ lường gạt người dân đã xảy ra.

Báo chí Việt Nam cũng từng có thời gian chạy theo thị hiếu người dân thay vì phân tích sự việc theo hướng khoa học để ngăn cản các loại lừa đảo dưới dạng mê tín.

Được mùa con ông cháu cha

Được mùa con ông cháu cha

Nguyễn Thông

Ông Nguyễn Xuân Anh, tân Bí thư Thành ủy Đà Nẵng (Ảnh: Báo Tuổi Trẻ)
Ông Nguyễn Xuân Anh, tân Bí thư Thành ủy Đà Nẵng (Ảnh: Báo Tuổi Trẻ)

Những ngày qua, và nhất là hôm nay 16.10, khi Đại hội Đảng bộ một số tỉnh thành bế mạc và công bố Ban Chấp hành nhiệm kỳ mới, dư luận đặc biệt quan tâm đến những người trẻ tuổi được bầu vào những ghế “nóng”, nhất là Bí thư và Phó bí thư.

Có thể nói, nhân vật được sự chú ý nhất hôm nay là một người rất trẻ so với cương vị Bí thư Đảng bộ của một thành phố lớn hàng đầu cả nước, là ông Nguyễn Xuân Anh.

Theo báo điện tử Một Thế Giới, Đại hội Đảng bộ TP.Đà Nẵng ngày 16.10 đã bầu ông Nguyễn Xuân Anh, Phó bí thư thường trực Thành ủy Đà Nẵng giữ chức Bí thư, thay ông Trần Thọ. Báo cũng khẳng định rằng đến thời điểm này, có thể nói ông Nguyễn Xuân Anh là vị Bí thư Thành ủy trẻ nhất nước.

Ông Nguyễn Xuân Anh sinh năm 1976, trình độ tiến sĩ quản trị kinh doanh. Ông là con trai của nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Nguyễn Văn Chi. Ông Nguyễn Xuân Anh từng công tác tại báo Thanh Niên (hồi cùng chung cơ quan, tôi rất quý ông ấy và ông ấy cũng quý tôi bởi chung tính thẳng thắn), là Trưởng ban Quốc tế, sau đó chuyển về Đà Nẵng làm Phó giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư TP.Đà Nẵng, Phó chủ tịch thường trực UBND quận Liên Chiểu, Phó bí thư rồi Bí thư Quận ủy Liên Chiểu. Ông được điều động giữ chức Phó chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng trước khi làm Phó bí thư Thành ủy.

Cũng trong Đại hội Đảng bộ TP.Đà Nẵng nhiệm kỳ 2015-2020, một nhân vật trẻ khác được dư luận rất quan tâm là ông Nguyễn Bá Cảnh. Sinh năm 1983, ông Nguyễn Bá Cảnh, con trai của cố Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh, đã được Đại hội bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ TP.Đà Nẵng nhiệm kỳ 2015-2020.

Ông Nguyễn Bá Cảnh, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Đà Nẵng

Ông Cảnh tốt nghiệp Đại học Kinh tế Đà Nẵng, du học ở Anh, lấy bằng thạc sĩ quản trị công. Trở về công tác tại Đà Nẵng, ông từng giữ chức vụ Phó bí thư thường trực Thành đoàn từ cuối năm 2011. Hiện ông làm Bí thư Thành đoàn Đà Nẵng.

Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước, những thông tin từ các Đại hội Đảng bộ tỉnh thành được người dân hết sức chú ý. Sự quan tâm ấy không phải chỉ bởi họ muốn biết ai sẽ là người đứng đầu bộ máy lãnh đạo ở địa phương mà còn tò mò muốn biết những con ông cháu cha nào sẽ nối gót cha anh mình. Chính vì vậy, khi Đại hội Đảng bộ tỉnh Hậu Giang công bố danh sách Ban Chấp hành mới, các cơ quan báo chí và nhân dân đã nhắc nhiều đến một nhân vật trẻ, ông Huỳnh Thanh Phong, Giám đốc Sở Công Thương Hậu Giang, đạt 226/320 phiếu, xếp thứ 49/52 ứng viên được bầu.

H1

Ông Huỳnh Thanh Phong, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Hậu Giang

Ông Huỳnh Thanh Phong sinh ngày 23.12.1982, vào Đảng ngày 22.2.2012, cử nhân ngành tài chính, tín dụng. Trước khi làm Giám đốc Sở Công Thương, ông Phong từng giữ chức Trưởng phòng Tín dụng, Quỹ đầu tư và phát triển tỉnh Hậu Giang, được bầu làm Phó giám đốc quỹ này hồi tháng 5.2014.

Nhiều người còn biết ông là con trai ông Huỳnh Minh Chắc, nguyên Bí thư Tỉnh ủy. Ông Chắc đã làm đơn xin thôi chức Bí thư, nghỉ trước tuổi hồi tháng 7 vừa rồi. Đến tháng 10, đơn của ông Chắc được Bộ Chính trị chấp thuận. Ông đã nhận quyết định thôi giữ chức Bí thư Tỉnh ủy nhưng hiện ông vẫn là Trưởng đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Hậu Giang.

Một nhân vật khác từng thu hút sự chú ý của dư luận là ông Nguyễn Minh Triết. Ông sinh năm 1990, là con trai út của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, từng tốt nghiệp thạc sĩ tại Anh quốc.

Cuối tháng 6.2014, khi mới 24 tuổi, đang giữ chức vụ Phó ban Thanh niên trường học Trung ương Đoàn, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ – phát triển sinh viên Việt Nam, ông Triết được Ban Bí thư Trung ương Đoàn cử về làm Phó bí thư Tỉnh đoàn Bình Định nhiệm kỳ 2013-2017 theo chương trình đưa cán bộ đi đào tạo thực tế tại cơ sở.

H1

Ông Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Bình Định, được coi là tỉnh ủy viên trẻ nhất nước khi mới 25 tuổi

Sau đó, ông Triết đảm nhiệm chức Bí thư Tỉnh đoàn Bình Định. Tháng 12.2014, ông Triết được Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ định tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định nhiệm kỳ 2010-2015.

Sáng 16.10, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Định đã công bố danh sách 55 người trúng cử vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020, ông Triết đã trúng cử vào Ban Chấp hành mới. Theo báo Vietnamnet, ông Triết là người trẻ tuổi nhất trúng cử.

Ông Triết có anh trai là ông Nguyễn Thanh Nghị, 39 tuổi, tiến sĩ khoa học xây dựng, từng giữ chức Thứ trưởng Bộ Xây dựng, hiện là Phó bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang. Ông Nghị vừa được bầu vào cương vị mới quan trọng hơn, là Bí thư Tỉnh ủy tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Kiên Giang trong phiên họp Ban Chấp hành tối 16.10. Như vậy hai anh em ông Nghị-ông Triết, tức hai con trai của thủ tướng kỳ này đều đắc cử.

Vài ngày trước đó, một trong những nhân vật tạo ra sự chú ý đặc biệt cho báo giới và dư luận là ông Lê Phước Hoài Bảo, 30 tuổi (sinh năm 1985), Giám đốc Sở Kế hoạch – Đầu tư Quảng Nam trúng vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Nam nhiệm kỳ 2015-2020. Ông Bảo là con trai của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam Lê Phước Thanh. Ông Bảo tốt nghiệp Trường đại học Kinh tế Đà Nẵng, chuyên ngành Tài chính tín dụng. Từ tháng 8.2010 đến tháng 8.2012 ông Bảo được cử đi học thạc sĩ chuyên ngành Quản trị tài chính và chiến lược tại trường Claremont Graduate University, Mỹ. Ông từng giữ chức Trưởng phòng Xúc tiến đầu tư của Ban quản lý Khu kinh tế mở Chu Lai, sau đó tháng 3.2014 được bầu làm Phó chủ tịch UBND huyện Thăng Bình.

H1

Ông Lê Phước Hoài Bảo (giữa), Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Quảng Nam

Hồi tháng 7, ông Lê Phước Thanh từng gây xôn xao dư luận khi làm đơn gửi Bộ Chính trị xin thôi chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam mặc dù chưa hết nhiệm kỳ, đề nghị cho nghỉ hưu sớm bởi lý do sức khỏe. Đến đầu tháng 9, Bộ Chính trị đã chuẩn y đơn của ông Thanh.

Tại TP.HCM, một đô thị đặc biệt sôi động, đứng hàng đầu cả nước về nhiều mặt, trong đó có cả việc mạnh dạn cất nhắc sử dụng những người trẻ, thì người trẻ luôn có chỗ đứng và cơ hội phát triển. Chắc không mấy ai quên, hồi tháng 8 vừa qua, Thành ủy TP.HCM đã điều động nhân sự về làm lãnh đạo một số quận huyện, trong số đó có nhân vật đặc biệt: ông Lê Trương Hải Hiếu.

H1

Ông Lê Trương Hải Hiếu, Chủ tịch UBND quận 12, TP.HCM

Nói đặc biệt là bởi ông Hiếu là con trai đương kim Bí thư Thành ủy Lê Thanh Hải. Nhưng đặc biệt hơn bởi ông mới 34 tuổi, từng giữ các chức vụ quan trọng: Bí thư Đảng ủy phường Bến Thành (phường trọng điểm của thành phố), Phó chủ tịch UBND quận 1 (quận trọng điểm), lần này thì được điều động giữ chức Phó bí thư Quận ủy, Chủ tịch UBND quận 12. Tại Đại hội Đảng bộ TP.HCM lần thứ 10, nhiệm kỳ 2015-2020 đang diễn ra, dư luận nhận xét rằng ông Hiếu thuộc lớp cán bộ lãnh đạo trẻ mà thành phố đang đặt nhiều hy vọng. Tuy nhiên, lần này, có lẽ vì lý do tế nhị nên ông Hiếu không có tên trong Ban Chấp hành Đảng bộ cái thành phố mà chính cha ông đang làm Bí thư.

Các “thái tử đảng” (theo cách gọi của nhà báo Trương Duy Nhất) đã tạo nên hội chứng tuổi 30, đủ cả khen chê, lời ra tiếng vào. Tuy nhiên, chưa bao giờ người ta lại lẩm nhẩm câu “Con vua thì lại làm vua/Con sãi ở chùa lại quét lá đa” nhiều như lúc này.

Mỹ điều tàu áp sát đảo nhân tạo: Vai trò Việt Nam

Mỹ điều tàu áp sát đảo nhân tạo: Vai trò Việt Nam

Vũ Lan

Một thái độ chính trị nhập nhằng đến độ ngu xuẩn chưa từng thấy

Nếu ở trong một khung cảnh tự do như ở Mỹ, chắc chắn ông này sẽ bị công luận chỉ ngay vào mặt mà nói rằng: “Shut up! What the hell are you talking about?!” (Câm mồm lại! Ông đang nói cái gì mà ngu ngốc thế hả?!)

Thật đúng là “hết biết”!

Quân Tàu cướp nước đang “lộng giả thành chân”, biến đồ chơi thành đồ thật để áp đặt thô bạo quyền tự do hàng hải mà nạn nhân trực tiếp là tổ quốc Việt Nam mình. Nhưng bởi hèn nhát hay yếu thế sợ hãi không dám nói.

Nay có một tay hảo hớn phương xa, dám vung gươm phản kháng quân cường bạo Trung Hoa như Mỹ. Thế nhưng mình vẫn bị tâm lý sợ hãi và cầu an, vọt mồm bày tỏ thái độ nhập nhằng đến độ ngu xuẩn với lũ Tàu Ô cướp nước như thế. Bởi xuất phát từ ngu dốt, hèn nhát hay âm mưu bán nước đây?

Trần Kiêm Đoàn

(FB Trần Kiêm Đoàn)

Việt Nam không hoan nghênh bất cứ nước nào đi vào khu vực này nhằm mục đích làm phức tạp thêm tình hình tranh chấp tại Biển Đông.

Trước thông tin, cho rằng Mỹ sẽ điều tàu tuần tra vào khu vực giới hạn 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo Trung Quốc xây trái phép ở Biển Đông, trao đổi với báo Đất Việt ngày 13/10, ông Lê Việt Trường – Phó chủ nhiệm Ủy ban an ninh quốc phòng cho biết, theo quy định của Luật biển Việt Nam mọi hoạt động của tàu quân sự của nước ngoài trong lãnh hải của Việt Nam đều phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

clip_image001

Mỹ thông báo điều tàu tuần tra vào khu vực giới hạn 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo phi pháp của Trung Quốc

Luật Biển Việt Nam đã quy định rất cụ thể về chế độ pháp lý về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.

Theo đó, tàu thuyền, máy bay nước ngoài trước khi có hoạt động trong vùng biển của Việt Nam cần tìm hiểu kỹ để thực hiện đúng quy định của Công ước 1982 của LHQ về Luật biển và Luật biển CHXHCN Việt Nam.

Việt Nam đã tham gia Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 ngày 25/7/1994 và tôn trọng quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải theo đúng quy định của Công ước.

Luật Biển Việt Nam quy định, “việc đi qua không gây hại trong lãnh hải không được làm phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn trên biển”.

Theo đánh giá của ông Trường, ý đồ của Mỹ tuy chưa rõ ràng nhưng nhiều khả năng Mỹ muốn chứng tỏ tầm ảnh hưởng cũng như khả năng kiểm soát khu vực này. Đây cũng là tín hiệu mà Mỹ muốn nhắn gửi cho đồng minh ngoài NATO của Mỹ trong khu vực để củng cố lòng tin ở Mỹ. Thực chất, động thái này không nằm ngoài chiến lược xoay trục sang khu vực Châu Á Thái Bình Dương của Chính phủ Brack Obama.

Tuy nhiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban ANQP khẳng định dù với tính toán, mục đích gì, Mỹ cũng cần phải góp phần bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của khu vực, không làm phức tạp thêm tình hình.

“Việc Trung Quốc thực hiện các hoạt động tôn tạo, bối đắp các đảo, bãi đá ngầm, rạn san hô tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam) không được phép của Nhà nước Việt Nam là hành động phi lý và hoàn toàn không có giá trị, không thể hy vọng có được chế độ pháp lý theo Công ước của LHQ 1982 về luật biển, vì lịch sử của vấn đề là Trung Quốc đã thực hiện hành động chiếm đóng trái phép bằng vũ lực, hoàn toàn vi phạm luật pháp quốc tế.

Việt Nam mới là nước có quyền chủ quyền và quyền tài phán tại hai quần đảo này. Do đó, khi ra vào khu vực 12 hải lý ở các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, phía Mỹ phải thông báo với cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam”, ông Trường nói.

Về phía Việt Nam, ông Trường khẳng định, Việt Nam luôn hoan nghênh tất cả các nước có sự quan tâm, chia sẻ, có tiếng nói và việc làm ủng hộ, góp phần việc bảo vệ hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông nhưng phải dựa trên nguyên tắc tuân thủ luật pháp quốc tế. Việt Nam không hoan nghênh bất cứ nước nào đi vào khu vực này nhằm mục đích làm căng thẳng thêm, phức tạp thêm tình hình tranh chấp tại Biển Đông.

Ông cũng cho biết, đây mới là tuyên bố đơn phương từ phía Mỹ, tới nay Chính phủ Việt Nam chưa nhận được bất cứ một thông báo nào của nước này về hành động đưa tàu áp sát các khu vực đảo nhân tạo nói trên.

Ngày 13/10, báo chí nước ngoài dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter khẳng định, quân đội Mỹ có quyền đi lại trên biển và bay qua không phận những khu vực mà luật pháp quốc tế cho phép, bao gồm cả Biển Đông.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tuyên bố ủng hộ giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình và phản đối các hành vi cưỡng chế, vi phạm các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế, có thể làm gia tăng căng thẳng ở các vùng biển, bao gồm cả Biển Đông.

Theo Reuters, thông điệp ông Carter đưa ra là sự phủ nhận rõ ràng đối với các hoạt động xây đảo nhân tạo phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông.

V. L.

Nguồn: http://m.baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/tin-tuc-thoi-su/my-dieu-tau-ap-sat-dao-nhan-tao-vai-tro-viet-nam-3289037/

Những Viên Gạch Bị Lãng Quên

Những Viên Gạch Bị Lãng Quên

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Người ta nghĩ rằng công an Việt Nam đã bắt cóc ông Lê Trí Tuệ, một trong những sáng lập viên của Công Đoàn Độc Lập Việt Nam.

HRW

Từ Vọng Các, hôm 7 tháng 10 năm 2015, biên tập viên Gia Minh đã gửi đến thính giả/độc giả của RFA một bài tường thuật (“Công Nhân Việt Nam và TPP”) với nội dung hơi bất ngờ:

Trong khi truyền thông nhà nước loan tin khá nhiều về kết quả đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương và những cơ hội cho Việt Nam khi tham gia một khối mậu dịch tự do lớn như thế; thì đa số những công nhân tại các tỉnh thành khi được hỏi về TPP đề tỏ ra ngơ ngác không biết gì.

Một nữ công nhân tại Quảng Nam cho biết cô đang làm việc cho một công ty tư nhân. Giờ làm việc từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều; và mỗi tuần tăng ca 5 ngày cho đến 8 giờ tối. Lương tháng được 3 triệu tám trăm ngàn đồng. Sau khi làm việc cô về nhà trọ nghỉ ngơi, chẳng có giờ để đọc báo; còn TV thì không có. Cô chỉ biết mỗi tháng đóng 10 ngàn tiền công đoàn phí; còn chuyện công đoàn có bảo vệ quyền lợi cho công nhân hay không thì cô không biết; và nếu thấy công việc đang làm quá nặng nhọc thì bỏ đi tìm nơi khác có mức lương cao hơn; chứ tại nơi cô làm lâu nay ở Quảng Nam chưa có chuyện công nhân đình công để đòi quyền lợi. Khái niệm TPP đối với cô hoàn toàn xa lạ vì chưa bao giờ được nghe đến:

“Em cũng không biết nữa, khi mô tới hãy hay chứ giờ có biết gì đâu!”

Một nữ công nhân ở Nghệ An cũng cho biết hiện cô phải đóng một tháng 15 ngàn đồng tiền công đoàn phí; và tin tức về một công đoàn độc lập đối với cô cũng chưa bao giờ được nghe đến:

“Lâu nay em không nghe nói gì hết! Em cũng không có gì để hiểu được vấn đề đó.”

Tâm trạng “ngơ ngác” này hoàn toàn tương phản với nội dung của bức tâm thư ( “Nỗi Niềm Khóc Hận Thương Tâm Của Tầng Lớp Công Nhân Lao Động Nhập Cư Nghèo Từ Các Tỉnh Về Thành Phố”) đã gửi đến Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam – hơn mười năm trước – với 8 điểm đề nghị rất rạch ròi, và  thẳng thắn như sau:

1. Trả lương cho chúng tôi theo đúng hợp đồng của nhà nước Việt Nam với các nhà đầu tư, thương gia nước ngoài có công ty xí nghiệp tại Việt Nam theo mức giá đồng USD thị trường.

2. Mức lương phải ngang bằng các công nhân các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia…

3. Dẹp bỏ Công đoàn do đảng (CS) xây dựng đưa vào các công ty xí nghiệp.

4. Không được phát triển đoàn, đảng trong hệ thống công nhân chúng tôi, để rồi quay lại đàn áp chúng tôi. Vì chúng tôi chỉ là những người đi làm mướn làm thuê bình thường, không muốn tham gia chính trị, chúng tôi không muốn hệ thống độc tài độc quyền đeo đẳng chúng tôi, vì chúng tôi đã quá khổ rồi.

5. Chúng tôi có quyền tự hợp đồng lao động cá nhân và tập thể khi đã dẹp bỏ hệ thống công đoàn, vì tổ chức công đoàn không đem lại quyền lợi thiết thực cho chính người công nhân chúng tôi, mà chính họ lại ăn theo phần trăm sản xuất của chúng tôi, và mỗi khi chúng tôi muốn đòi hỏi quyền lợi chính đáng phải được sự đồng ý của công đoàn là phi lý.

6. Chúng tôi không phải đóng góp những khoản tiền như xoá đói giảm nghèo và các loại tiền do Công đoàn phát động và trừ thẳng vào lương của chúng tôi như trước đây đã có.

7. Chúng tôi phải được quyền lợi như: bảo hiểm y tế, tiền lương hưu sau khi hết độ tuổi lao động, bảo hiểm tai nạn lao động rủi ro.

8. Chúng tôi có quyền hội họp riêng tư, có quyền lập hội, gây quỹ, có quyền đấu tranh, có quyền đình công đòi hỏi các quyền lợi chính đáng, phù hợp mức lương, tương xứng với công sức lao động. Những đòi hỏi ước vọng này, chúng tôi được thực hiện cũng không gây ảnh hưởng kinh tế thị trường và nền an ninh, như nhà nước và bộ phận công an thường cho là thế lực thù địch gây ảnh hưởng kinh tế quốc gia…

Trân trọng kính chào…

Kết quả, hay nói cho chính xác hơn là hậu quả, của những nỗi niềm thương tâm (thượng dẫn) có thể đọc được trên báo Công An Nhân Dân:

“Sáng 26/10/2010, TAND tỉnh Trà Vinh đã mở phiên xét xử Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh với tội danh ‘phá rối an ninh trật tự nhằm chống lại chính quyền nhân dân’ theo Điều 89 Bộ Luật Hình sự…

Cuối giờ chiều cùng ngày, tòa đã tuyên phạt Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm tù giam, Đỗ Thị Minh Hạnh và Đoàn Huy Chương, mỗi người 7 năm tù giam.”

Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương. Ảnh: huynhngocchenh.blogspot

Thê thảm hơn nữa là những tai họa đã xẩy ra cho ông Lê Trí Tuệ, người có chức danh là Phó Chủ Tịch Công Đoàn Độc Lập Việt Nam. Vào ngày 20 tháng 11 năm 2006, nhân vật này đã gửi đến tất cả những cơ quan, cũng như mọi giới chức có thẩm quyền ở Việt Nam một lá đơn (tường trình và tố cáo) dài 1438 chữ. Phần đầu – và cũng là phần chính, gồm 444 chữ – xin được trích dẫn nguyên văn:

Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa ViệtNam
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc

Đơn Tường Trình & Tố Cáo

V/v Công an TP. Hồ Chí Minh, liên tục đàn áp, thẩm vấn, tạm giữ người tại cơ quan công an Quận 4, TP. Hồ Chí Minh chỉ vì tôi thực thi những nhân quyền cơ bản của mình.

Tôi tên là: Lê Trí Tuệ.
Sinh ngày 26/07/1979 Tại Hải Phòng.
Đăng ký hộ khẩu thường trú: 942 Tôn Đức Thắng – Sở Dầu –Hồng Bàng – TP. Hải Phòng.
Điện thoại: 0982.152.619, 0912.530.615

Chức vụ:
Hội viên Hội Cựu chiến binh Việt Nam Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Trí Tuệ
Phó Chủ tịch Công đoàn Độc lập Việt Nam.

Kính thưa các quý vị lãnh đạo Nhà nước CHXHCN Việt Nam và các cơ quan truyền thông, báo chí trong và ngoài nước,

Căn cứ vào Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948;

Căn cứ vào Tuyên ngôn Nguyên tắc Tổng Liên đoàn Lao công Thế giới [Tuyên ngôn này đã được chấp thuận chung, trong Đại hội kỳ thứ 16 của Tổng Liên đoàn Lao động Thế giới ILO (International Labor Organizations), họp tại Luxembourg, từ ngày 1 đến 04 tháng 10 năm 1968];

Căn cứ vào Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992. Điều 53 và điều 69 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) nêu rõ:

“Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý.”

“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”

Căn cứ vào những viện dẫn trên đây, làm cơ sở pháp lý dẫn tới sự ra đời và cơ sở thành lập Công đoàn Độc lập Việt Nam, tuyên bố thành lập vào ngày 20/10/2006 tại Hà Nội.

Hiện nay chúng tôi đang làm thủ tục đăng ký, để từng bước hợp hiến và hợp pháp theo quy định. Nhưng đáng tiếc thay tôi thường xuyên phải bị triệu tập lên cơ quan công an Quận 4, TP. Hồ Chí Minh để làm việc,bị cản trở quyền tự do đi lại của công dân, cản trở hoạt động khiếu nại tố cáo, ngăn cấm hoạt động xã hội, bảo vệ quyền con người cho nhân dân Việt Nam…

Lê Trí Tuệ mất tích tại Campuchia vào ngày 16 tháng 5 năm 2007. Ảnh: RFA

Ông bị tạm giữ vào hôm 29 tháng 03 năm 2007, bị ép buộc phải lên tiếng công khai giải tán công đoàn này. Lê Trí Tuệ từ chối và bỏ trốn sang Cambodia, sau khi bị đánh đập tàn tệ nhiều lần ngoài đường phố. Rồi ông đột ngột “biến mất” kể từ ngày 16 tháng 5 năm 2007 cho mãi đến hôm nay! Theo bản tin của HRW, gửi đi vào ngày 4 tháng 5 năm 2009: “Người ta nghĩ rằng công an Việt Nam đã bắt cóc ông Lê Trí Tuệ, một trong những sáng lập viên của Công Đoàn Độc Lập Việt Nam.”

Thời gian, may thay, đã không về phe với những kẻ đang nắm quyền bính ở quyền Việt Nam. Trang BS Hồ Hải vừa hân hoan gửi đi một tin mừng:

Văn bản tóm tắt Hiệp định thương mại xuyên Thái bình dương mà 12 quốc gia thành viên vừa hoàn tất phần xác trong ngày 05/10/2015 giờ miền Đông Bắc Hoa Kỳ gồm 30 chương. Mỗi chương là một lĩnh vực khác nhau. Đây là một văn bản luật cơ bản. Nó như hiến chương thương mại, kinh tế chính trị cho riêng 12 quốc gia tham gia...

Hôm nay tôi xin dịch chương 19, là chương rất quan trọng đối với các quốc gia như Việt Nam. Mặc dù, nó đã được nhiều tổ chức chính thống của đảng cầm quyền ở Việt Nam dịch ra, nhưng một số mệnh đề bị dịch sai hoặc bỏ đi một cách cố ý của bản quan trọng về quyền của người lao động…

CHƯƠNG 19: LAO ĐỘNG

Tất cả các quốc gia thành viên TPP đều là thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO: International Labour Organization) và các thành viên đã công nhận tầm quan trọng của việc thúc đẩy các quyền của người lao động đã được quốc tế công nhận. Các quốc gia thành viên của TPP nhất trí thông qua và duy trì trong luật của họ và thực hiện các quyền lao động cơ bản được ghi nhận trong Tuyên bố ILO năm 1998, cụ thể là quyền tự do lập hội và quyền đàm phán tập thể; xóa bỏ lao động cưỡng bức; bãi bỏ lao động trẻ em và việc cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; và loại bỏ phân biệt đối xử trong việc làm. Các quốc gia thành viên TPP cũng đồng ý có luật điều chỉnh tiền lương tối thiểu, giờ làm việc, và sự an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. 

Sự kiện này đã gây ra nhiều lời đám tiếu:

  • Blogger Nguyễn Vạn Phú : “… điều mỉa mai là Việt Nam phải trông chờ vào một hiệp định ký với các nước tư bản để các nước tư bản này gây sức ép buộc Việt Nam phải bảo vệ công nhân của mình, không để giới chủ bóc lột quá đáng!”
  • Blogger Ôsin: “Thật nực cười khi, chỉ khi chịu sức ép của ‘các nước tư bản’, ‘đảng của giai cấp công nhân’ mới (có thể) thừa nhận các quyền căn bản của công nhân.”

Điều “mỉa mai” và “nực cười” hơn nữa là dường như không còn ai còn nhớ gì đến số phận bi thảm của Lê Trí Tuệ, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, và Nguyễn Tấn Hoành – những thanh niên Việt Nam quả cảm và viễn kiến, những viên gạch lót đường cho tổ chức CĐĐLVN đang bị giam cầm hay dấu kín ở một nơi nào đó.

Thông Báo Tin Khẩn Cấp – LM JB Nguyễn Sang

YouTube player

Thông Báo Tin Khẩn Cấp – LM JB Nguyễn Sang

Trong thời gian qua có nhiều người giả danh là LM Nguyễn Sang trên facebook và trên youtube nhằm lừa đảo đặt mua CD hay DVD cũng như quyên góp cho chương trình tiếng hát vì người nghèo do LM Nguyễn Sang phụ trách. (LM Nguyễn Sang hiện tại không có tài khoản chính thức trên facebook cũng như trên youtube)

Linh mục JB. Nguyễn Tấn Sang, hiện đặc trách Giới trẻ Giáo phận Mỹ Tho, chánh xứ Nhà thờ Ba Giồng thuộc Giáo phận Mỹ Tho. Ngoài công việc mục vụ chăm lo giáo xứ Cha còn quan tâm đến những người nghèo tại các vùng xa xôi hẻo lánh gặp rất nhiều khó khăn.Xin Ông Bà Anh Chị Em giúp đỡ cho chương trình Tiếng Hát Vì người Nghèo bằng cách mua ủng hộ CD & DVD Thánh Ca Gốc.

– Mọi chi tiết xin liên hệ: Cha Nguyễn Tấn Sang
NHÀ THỜ BA GIỒNG
Ấp Tân Quới, Xã Tân Lý Đông, Huyện Châu Thành,Tỉnh Tiền Giang
ĐT: 0918.32.33.00
Email: sangmytho2004@yahoo.com

“Bản lên tiếng” kêu gọi không hoan nghênh CT Tập Cận Bình thăm VN

“Bản lên tiếng” kêu gọi không hoan nghênh CT Tập Cận Bình thăm VN

Gia Minh, biên tập viên RFA

RFA

phan-doi-tcb.jpg

Người dân kêu gọi không hoan nghênh chuyến công du Việt Nam của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 11 tới đây.

Citizen photo
Hơn 120 người ký tên vào một bản lên tiếng và nhiều cư dân mạng trên Facebook kêu gọi không hoan nghênh chuyến công du Việt Nam của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 11 tới đây.

Bản lên tiếng

Bản lên tiếng về chuyến công du Việt Nam sắp tới của ông Tập Cận Bình và vấn đề Biển Đông được những người ký tên cho rằng trách nhiệm bảo vệ đất nước là của toàn dân và họ là những công dân thấy cần phải lên tiếng để cảnh giác.

Bản Lên tiếng nêu ra ba điểm: thứ nhất là tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc đe dọa tự do hàng hải trong khu vực, gây ảnh hưởng lớn đến phát triển và ổn định của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương; trong đó có Việt Nam phải gánh chịu những thiệt hại về kinh tế và đe dọa an ninh quốc phòng.

Sở dĩ chúng tôi ra Bản Lên tiếng này vì thấy rằng trong thời điểm hiện tại Trung Quốc khuynh đảo đất nước chúng ta từ kinh tế đến chính trị, mọi lĩnh vực thậm chí là văn hóa nữa. Trên Biển Đông thì ai cũng biết là họ thường xuyên rượt đuổi, phá nát tàu của ngư dân Việt trên biển.
-Phạm Minh Hoàng

Thứ hai đây là thời cơ để Việt Nam tăng cường hợp tác với các quốc gia có cùng mối quan tâm về vấn đề Biển Đông, cũng như là thời điểm để xét lại mối quan hệ Việt – Trung với những khẩu hiệu do hai đảng cộng sản nêu ra trong các khẩu hiệu ‘4 tốt’ và ’16 chữ vàng’; Việt Nam cần phải sử dụng luật pháp quốc tế để kiện những hành động vi phạm của Trung Quốc đối với chủ quyền biển đảo của Việt Nam và không bị mắc mưu khi chỉ đàm phán song phương đôi bên theo ý của Trung Quốc.

Và điểm thứ ba là trong khi Trung Quốc cải tạo, bồi đắp biến những đảo chiếm được của Việt Nam thành đảo nhân tạo với mục tiêu quân sự và tiếp tục tấn công ngư dân Việt Nam đánh bắt tại Hoàng Sa và Trường Sa thì không thể tiếp đón ông Tập Cận Bình tại Việt Nam như một vị quốc khách được.

Thầy giáo Phạm Minh Hoàng, một cựu tù nhân chính trị hiện ở Sài Gòn và cũng là một trong những người ký tên vào Bản Lên tiếng cho biết lý do đưa ra bản lên tiếng:

“Bản Lên tiếng này được một số anh em đấu tranh trong nước, trong đó có rất nhiều anh em là cựu tù nhân lương tâm. Sở dĩ chúng tôi ra Bản Lên tiếng này vì thấy rằng trong thời điểm hiện tại Trung Quốc khuynh đảo đất nước chúng ta từ kinh tế đến chính trị, mọi lĩnh vực thậm chí là văn hóa nữa. Trên Biển Đông thì ai cũng biết là họ thường xuyên rượt đuổi, phá nát tàu của ngư dân Việt trên biển. Họ tiếp tục xây những đảo để làm căn cứ quân sự. Tình hình lấn chiếm Biển Đông và tấn công các ngư phủ dân thường là không thể chấp nhận được. Song song đó những ảnh hưởng về kinh tế, chính trị đến đất nước chúng ta là thường xuyên và càng lúc càng nhiều. Trong bối cảnh như thế thì chuyến thăm của ông Tập Cận Bình là không thể chấp nhận được.”

Kêu gọi trên facebook

nhv-400.jpg
Blogger Nguyễn Hữu Vinh. Courtesy photo.

Blogger Nguyễn Hữu Vinh, người tham gia ký tên vào Bản Lên tiếng và đăng hình trên facebook với biểu ngữ không hoan nghênh ông Tập Cận Bình đến Việt Nam, cũng cho biết quan điểm của ông trong việc chính quyền Hà Nội và đảng cộng sản Việt Nam mời ông Tập Cận Bình sang thăm Việt Nam trong bối cảnh như hiện nay:

“Truyền thống của Việt Nam từ xưa đến nay là không có ai rước ‘giặc’ vào nhà. Đó là một nguyên tắc. Tập Cận Bình hiện nay là chủ tịch nước Trung Quốc – đất nước đang xâm lược Việt Nam một cách rất rõ ràng. Hoàng Sa và một phần của Trường Sa- phần thiêng liêng của đất nước đang nằm dưới tay quân xâm lược. Đối với người dân Việt Nam thì đó là giặc. Tôi thấy người cộng sản học tập gương đạo đức Hồ Chí Minh hết đợt này đến đợt khác, tốn bao nhiêu tiền của dân nhưng họ quên mất một điều như Hồ Chí Minh đã nói rằng ‘còn một tên xâm lược nào trên đất nước chúng ta thì phải chiến đấu quét sạch nó đi.’Bây giờ sang làm gì? Bản thân tôi phản đối hành động rước giặc vào nhà.”

‘Biện minh’ của Hà Nội

Chuyến thăm Việt Nam của ông Tập Cận Bình trong cương vị chủ tịch nước và tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc được phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình xác nhận trong cuộc họp báo vào chiều ngày 8 tháng 10 vừa qua là sẽ diễn ra trong tháng 11 tới. Chuyến công du này là theo lời mời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Lâu nay nhiều quan chức của Hà Nội cho rằng Việt Nam là nước nhỏ bên cạnh nước lớn Trung Quốc và kinh nghiệm lịch sử cho thấy phải nhân nhượng.

Giáo sư Phạm Minh Hoàng có ý kiến về quan điểm đó như sau:

Đất nước này xưa nay chưa bao giờ như vậy, chỉ dưới thời người cộng sản mới xảy ra tình trạng đất nước, lãnh thổ rơi vào tay giặc mà thôi. Và liên tục như thế và dành cho đời con, đời cháu đòi mà thôi!
-Blogger Nguyễn Hữu Vinh

“Tạm gọi những cuộc binh biến giữa chúng ta với Trung Quốc trong quá khứ từ Hai Bà Trưng, rồi Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… trước khi ‘thần phục’ bao giờ cũng có một cuộc chiến. Như Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông, Vua Lê Lợi sau khi đánh thắng nhà Minh, cũng như Vua Quang Trung sau khi đánh thắng nhà Thanh cũng cử sứ thần sang để (chúng ta tạm gọi là) ‘thần phục’. Nhưng ‘thần phục’ của các triều đại chúng ta ngày xưa là thần phục trong tư thế mạnh; nghĩa là chúng ta vừa đánh thắng xong, chúng ta lại tiếp tục vấn đề hòa hiếu. Chuyện đó xảy ra cách đây đã bao nhiêu thế kỷ rồi; đó là thời ‘chim trời, cá nước’, các nước ai muốn đánh ai cũng được; nhưng bây giờ khác rồi: từ năm 1945 đã có Liên hiệp quốc rồi. Không phải muốn đánh ai cũng được, thậm chí như Mỹ muốn đánh Iraq cũng phải có quyết định của Hội đồng Bảo an.”

Blogger Nguyễn Hữu Vinh cho rằng cách lập luận của các quan chức trong chính phủ Việt Nam về thái độ nhân nhượng Trung Quốc như lâu nay là sự ngụy biện, ông phát biểu:

“Kể từ thời Trần, những thời trước đây, Việt Nam có thể cống nạp, này khác…; nhưng về mặt lãnh thổ chưa bao giờ nhường một tấc đất nào cho giặc. Đất nước này xưa nay chưa bao giờ như vậy, chỉ dưới thời người cộng sản mới xảy ra tình trạng đất nước, lãnh thổ rơi vào tay giặc mà thôi. Và liên tục như thế và dành cho đời con, đời cháu đòi mà thôi!

Như Cuba ở bên Hoa Kỳ nhưng họ vẫn có sự phản kháng, độc lập, tự chủ; nên không thể nói chuyện nước nhỏ, nước lớn ở đây. Thời đại ngày nay trong quan hệ quốc tế không nói chuyện nước lớn hay nước bé. Tôi cho đó là sự ngụy biện.”

Trước đây nhiều người Việt trong nước từng xuống đường tham gia những cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc. Có những đợt kéo dài được hơn 10 tuần lễ như vào năm 2011; tuy nhiên hầu hết những cuộc biểu tình như thế cuối cùng đều bị chính quyền Hà Nội ngăn chặn.

Hầu hết những người Việt Nam quan tâm đến tình hình đất nước và mối quan hệ với quốc gia láng giềng Phương Bắc trong thời gian gần đây đều tỏ ra quan ngại về những động thái của Trung Quốc tại Biển Đông. Họ mong mỏi chính quyền Hà Nội cần phải khéo léo tận dụng sự ủng hộ của quốc tế để kiềm chế thái độ ngày càng hung hăng, hiếu chiến của Trung Quốc tại Biển Đông. Họ kỳ vọng vào một thay đổi trong đối sách với chính quyền Bắc Kinh mà Hà Nội theo đuổi bấy lâu nay.

Việt Nam giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ: Phép thử của chiến lược tái cân bằng

Việt Nam giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ: Phép thử của chiến lược tái cân bằng

Diplomat

Tác giả: Ngô Di Lân

Người dịch: Trần Văn Minh

Tổng thống Mỹ Barack Obama gặp TBT Đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng. White House Photo

Hai chuyến thăm vào tháng tới của lãnh đạo Mỹ và Trung Quốc sẽ thử nghiệm khả năng tái cân bằng của Hà Nội.

Một lần nữa, khả năng tái cân bằng ngoại giao của Việt Nam sẽ được thử nghiệm vào tháng 11 này, khi các nhà lãnh đạo Việt Nam sẽ tiếp đón Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Barack Obama trong thời gian chỉ cách nhau vài ngày. Đây sẽ là chuyến đi đầu tiên của ông Obama tới Việt Nam, trong khi chuyến đi của ông Tập cũng sẽ là chuyến thăm của chủ tịch Trung Quốc đầu tiên kể từ năm 2005. Do Việt Nam cam kết duy trì mối quan hệ thân mật với cả hai cường quốc, ngay cả trong bối cảnh ngày càng căng thẳng xung quanh các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, tháng 11 này sẽ chứng tỏ một khoảnh khắc tinh tế và có tính quyết định về khả năng ứng phó với các cường quốc của Việt Nam.

Quan hệ Mỹ-Việt đã trở nên nồng ấm đáng kể trong vài năm qua, với nhiều chuyến thăm của lãnh đạo cao cấp hai nước, đạt tới đỉnh điểm trong chuyến thăm chưa từng có của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Hoa Kỳ vào tháng 7 vừa qua. Kết quả là bản Tuyên bố lịch sử Tầm nhìn chung Mỹ-Việt, trong đó đề ra một khuôn khổ quan trọng để quan hệ Mỹ-Việt có thể tiếp tục phát triển trong dài hạn. Trong bối cảnh này, chuyến đi của ông Obama tới Hà Nội sẽ chỉ củng cố và làm sâu sắc mối quan hệ hơn nữa.

Tuy nhiên, lần này rõ ràng ông Obama không tới Hà Nội để thúc đẩy Hiệp đinh Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) bởi các bên đàm phán đã đạt được thỏa thuận và Quốc hội Việt Nam gần như chắc chắn sẽ phê chuẩn hiệp định TPP. Vào thời điểm khi Trung Quốc đang cấp tốc xây dựng các hòn đảo nhân tạo ở Biển Đông và Hoa Kỳ vừa công bố kế hoạch tuần tra hàng hải trong vùng lãnh hải của các đảo này, dường như chắc chắn rằng Trung Quốc và tranh chấp lãnh thổ Biển Đông sẽ nổi bật trong các cuộc đàm phán tại Hà Nội.

Mặc dù lạc quan, giới thân Mỹ ở Hà Nội có lẽ sẽ phải thất vọng vì khó có khả năng chuyến thăm của ông Obama sẽ dẫn đến bất kỳ thỏa thuận mang tính “bước ngoặt” nào. Lại càng thiếu thực tế hơn để mong đợi một “liên minh” nào đó giữa Hà Nội và Washington được hình thành trong chuyến đi này, ngay cả trong lúc Trung Quốc đang gia tăng nỗ lực mang tính quyết đoán để tạo ra một “sự đã rồi” ở Biển Đông. Sau cùng, không rõ liệu một liên minh công khai như vậy sẽ mang lại lợi ích cho cả Hoa Kỳ và Việt Nam hay không, vì điều này chắc chắn sẽ chọc giận Trung Quốc và do đó làm cho tình hình mất ổn định thêm. Hơn nữa, Mỹ có vẻ miễn cưỡng trong việc chính thức cam kết liên minh với bất kỳ quốc gia nào mà họ cho là “không thể kiểm soát chính trị” được, như mới đây đã bác bỏ đề xuất hiệp ước phòng thủ chung của các quốc gia vùng Vịnh. Việt Nam chắc chắn không thuộc thể loại các nước trong “phạm vi ảnh hưởng” của Mỹ.

Từ quan điểm của Hà Nội, “ngả sang một bên” sẽ có thể loại trừ khả năng linh hoạt ngoại giao. Bên cạnh đó, trong mọi trường hợp, một liên minh có lẽ không phải là một bảo đảm an ninh bọc thép để đối phó với Trung Quốc, như liên minh trước đây của Việt Nam với Liên Xô đã cho thấy. Tuy nhiên, là điều hợp lý để cho rằng chuyến đi của ông Obama sẽ tăng cường quan hệ quốc phòng giữa hai nước một cách đáng kể, thậm chí có thể dẫn đến việc gỡ bỏ thêm nữa lệnh cấm bán vũ khí sát thương (đã được nới lỏng) cho Việt Nam. Hơn nữa, ông Obama có thể dùng dịp này để thu hút sự ủng hộ ngoại giao cho kế hoạch tuần tra quyết đoán hơn trong khi lôi kéo Việt Nam xa khỏi quỹ đạo của Trung Quốc. Nếu có ít nhất một số trong những muc tiêu này trở thành hiện thực, chuyến đi của ông ít nhất cũng làm gia tăng vị thế của Mỹ ở châu Á, trong khi giúp cho Hà Nội có một thế đứng mạnh mẽ hơn để thương lượng tay đôi với Bắc Kinh.

Không giống như chuyến đi được dự liệu ​​của ông Obama tới Việt Nam, chuyến đi của ông Tập xảy ra vào thời điểm xáo trộn trong quan hệ Việt-Trung. Quan hệ đã trở nên xấu đi phần nào trong những năm gần đây khi Trung Quốc trở nên hung hăng hơn trong việc khẳng định quyền kiểm soát các hòn đảo ở Biển Đông. Trong vài năm qua, ông Tập có lẽ đã thay đổi hiện trạng ở Biển Đông nhiều hơn những người tiền nhiệm của ông trong hai thập niên qua. Nổi bật nhất, vào tháng 5 năm 2014, Trung Quốc đã triển khai giàn khoan dầu Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) trước sự sự phản đối mãnh liệt của cả chính quyền và người dân Việt Nam.

Trong khi Trung Quốc đơn phương rút giàn khoan dầu sau hai tháng, cuộc khủng hoảng ngoại giao đã làm suy yếu lòng tin chiến lược giữa hai chính quyền và gây ra một cuộc tranh luận nội bộ nghiêm trọng trong giới thượng lưu ở Hà Nội. Kể từ đó, Trung Quốc chỉ gia tăng nỗ lực xây dựng đảo, với đường băng được phát hiện trên một số đảo mà cuối cùng có thể được sử dụng để tuyên bố và / hoặc áp đặt một vùng Nhận dạng Phòng không (ADIZ) trên toàn bộ Biển Đông trong một tương lai gần. Những hành động này đã cho Việt Nam thấy rằng Trung Quốc không thành thật tuân thủ các thỏa thuận mà họ đã ký kết như Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).

Với tất cả sự việc này, có vẻ như ông Tập sẽ tới Hà Nội với một sứ mệnh gần như bất khả thi: bằng cách nào đó đưa người láng giềng nhỏ hơn trở về vị trí cũ và “xóa đi làm lại” mối quan hệ với Việt Nam. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết rất rõ rằng Việt Nam sẽ không chỉ đơn giản biến thành Nhật Bản hay Philippines một sớm một chiều. Nhưng về lâu dài, với những gì đang diễn ra ở Biển Đông, không ai có thể dự đoán Việt Nam sẽ gần gũi như thế nào với cánh đi với Mỹ. Và rất khó cho bất kỳ chủ tịch Trung Quốc nào tại thời điểm này có thể thuyết phục Hà Nội một cách nghiêm túc rằng Trung Quốc chỉ đơn thuần bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình ở Biển Đông và rằng Hà Nội nên đồng hành với Bắc Kinh. Do đó không ai mong đợi bất kỳ sự “quay đầu” nào trong chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc sau chuyến đi của ông Tập.

Tuy nhiên, trong ngắn hạn, chuyến đi của ông Tập vẫn có thể sửa chữa mối quan hệ Việt-Trung trong giới hạn nào đó và có thể điều hướng sự chú ý của Việt Nam ra khỏi các tranh chấp lãnh thổ hiện nay để tập trung vào các cơ hội hợp tác giữa hai nước. Trong chiều hướng đó, sẽ không là điều bất ngờ nếu Bắc Kinh cung cấp một số giao dịch kinh tế và khoản vay ưu đãi cho Hà Nội trong chuyến đi của ông Tập. Sau cùng, phần thưởng kinh tế như thế luôn được hoan nghênh và sẽ thúc giục Việt Nam ít ra cũng đừng tiến gần hơn về phía Mỹ trong ngắn hạn và tiếp tục chiến lược “đu dây” hiện nay.

Cho đến nay, Việt Nam vẫn cam kết “đu dây” ngoại giao giữa hai siêu cường, khéo léo cân bằng bên này với bên kia để gặt hái lợi ích, trong khi tránh bị mắc kẹt vào ngõ cụt ngoại giao. Nếu mọi việc suôn sẻ tháng 11 này, chính sách “đu dây” sẽ rất có thể được củng cố như chiến lược tổng thể được ưa chuộng của Việt Nam trong tương lai gần, và sẽ dẫn tới các chọn lựa chính sách sáng tạo hơn. Trong dài hạn, chiến lược này có thể đặt nền móng cho một trật tự khu vực xung quanh các cuộc thương lượng giữa các tổ chức đa phương và các nước lớn, và điều này có thể đưa tới một tương lai đầy hứa hẹn cho các nước cỡ trung bình và nhỏ trong khu vực.

Ngô Di Lân là ứng viên tiến sĩ Chính trị tại Đại học Brandeis, nơi ông tập trung vào chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và quan hệ Mỹ-Trung. Ông cũng là một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS) của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.

Con trai Nguyễn Tấn Dũng làm bí thư tỉnh ủy Kiên Giang

Con trai Nguyễn Tấn Dũng làm bí thư tỉnh ủy Kiên Giang
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV)Con trai lớn của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa được bầu làm bí thư tỉnh ủy tỉnh Kiên Giang, trong khi người con trai thứ nhì được bầu làm tỉnh ủy viên tỉnh Bình Ðịnh.

Ngoài ra, còn có một số người khác là con của các cán bộ cao cấp đảng CSVN cũng được bầu vào một số vị trí quan trọng.


Ông Nguyễn Thanh Nghị vừa được bầu làm bí thư tỉnh ủy Kiên Giang. (Hình: nguyenthanhnghi.net)

Theo truyền thông Việt Nam, tại Hội Nghị Ban Chấp Hành Ðảng Bộ Tỉnh Kiên Giang khóa 10 lần thứ nhất diễn ra ngày 16 Tháng Mười, ông Nguyễn Thanh Nghị, 39 tuổi, được bầu làm làm bí thư tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015-2020.”

Như vậy, con trai ông Nguyễn Tấn Dũng hiện là người trẻ tuổi nhất làm bí thư tỉnh ủy một tỉnh ở Việt Nam.

Cũng vào ngày này, một người con trai khác của ông Dũng là ông Nguyễn Minh Triết, 27 tuổi, “là người trẻ tuổi nhất được bầu vào Ban Chấp Hành Ðảng Bộ Tỉnh Bình Ðịnh nhiệm kỳ 2015-2020 trong số 55 người trúng cử cho nhiệm kỳ mới.”

Trong khi đó, đại hội đảng bộ CSVN thành phố Ðà Nẵng “vừa bầu ông Nguyễn Xuân Anh, phó bí thư thường trực thành ủy, giữ chức bí thư thành ủy, thay ông Trần Thọ.”

Như vậy, ông Nguyễn Xuân Anh, cũng 39 tuổi, hiện là bí thư thành ủy trẻ nhất nước.

Ông là con trai lớn của ông Nguyễn Văn Chi, cựu ủy viên Bộ Chính Trị.

Cũng tại Ðà Nẵng, ông Nguyễn Bá Cảnh, 32 tuổi, con trai Nguyễn Bá Thanh, cựu bí thư thành ủy, đã chết vì ung thư hồi Tháng Hai, được bầu vào Ban Chấp Hành Ðảng Bộ thành phố Ðà Nẵng, trong số 52 người trúng cử nhiệm kỳ 2015-2020.

Ở cương vị bí thư thành ủy và tỉnh ủy, hai ông Nguyễn Xuân Anh và Nguyễn Thanh Nghị gần như chắc chắn sẽ được vào Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN, qua đại hội toàn quốc sắp diễn ra vào đầu năm tới.

Ông Nguyễn Thanh Nghị hiện là ủy viên dự khuyết Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN.

Trước đó, ông là thứ trưởng Bộ Xây Dựng trước khi làm phó bí thư tỉnh ủy Kiên Giang.

Ông có bằng tiến sĩ khoa học kỹ thuật xây dựng của Ðại Học George Washington ở Mỹ, và bằng cao cấp lý luận chính trị.

Khác với người em gái và chị gái đi theo đường kinh doanh, hai ông Nguyễn Thanh Nghị và Nguyễn Minh Triết tiến thân theo đường chính trị nối nghiệp cha.

Việc “cơ cấu” thân nhân bà con hoặc mua chức tước, mà Việt Nam gọi là “chạy chức,” thỉnh thoảng được thấy hé lộ trên báo chí ở trong nước. Người ta chỉ biết đến chuyện có những thứ như thế vậy khi bị truyền thông lôi ra “rọi đèn.”

Hồi tháng trước, dư luận rộ lên với tin, tại huyện Mỹ Đức, huyện ngoại thành của Hà Nội, có chuyện  “10 trong 13 phòng ban có trưởng, phó phòng là anh em, họ hàng với Bí Thư Huyện Ủy Lê Văn Sang.” Khi bị nói một người làm huyện ủy thì cả họ được nhờ và ông Sang nói rằng tất cả mọi vụ bổ nhiệm đều “đúng quy trình,” “đúng pháp luật.”

Cuối năm 2012, dư luận trong nước nóng lên khi một số báo loan tin “chạy công chức ở thành phố Hà Nội” tốn khoảng 100 triệu đồng, theo lời tố cáo của ông Trần Trọng Dực, chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm Tra Thành Ủy, tại phiên thảo luận của HĐND thành phố sáng 7 Tháng Mười Hai, về “tổng biên chế hành chính, sự nghiệp năm 2013.”

Sau các cuộc thanh tra, kiểm tra thì người ta không thấy gì cả rồi mọi chuyện chìm vào quên lãng. (TN)

GIẢI THÍCH -TẢN MẠN BA TÀU

GIẢI THÍCH -TẢN MẠN BA TÀU

Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:
“…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v… Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…”.
“…Kêu Các-chú là bởi người Minh-Hương mà ra; mẹ An-Nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…”.
“…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-Nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-Nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc …”
Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê Ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển Việt Nam, chệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa. Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:
Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!
Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp, bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua… và nhất là món hủ tíu Tiều Châu. Người ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.
Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.
Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang. Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại(Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.
Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ). Trong lĩnh vực ăn uống của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.
Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị. Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.
Theo Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:
– Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
– Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
– Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
– Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.
Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:
– Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc
– Bà hai mập, ba đồng sáu cắc
– Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về
Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu… Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia).
Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi. Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?). Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá…còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!
Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn. Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn. Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.

Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại…Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc. Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.
Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “…Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc trưng của Sài Gòn xưa. Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).
Những từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ. Lạp xưởng là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi…
Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu. Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.
Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay. Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối… Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.
Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướpngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm. Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng!
Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là sóc đĩa. Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.
Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai), thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát. Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưa)
Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do.
Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là „đại gia“. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…
Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”.
Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos! Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn – Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).

Ảnh của Kimtrong Lam.
Ảnh của Kimtrong Lam.