‘Ngưng phá’ cơ sở tôn giáo ở Thủ Thiêm

‘Ngưng phá’ cơ sở tôn giáo ở Thủ Thiêm

FacebookTinMungChoNguoiNgheo 
Các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm căng băng rôn và cầu nguyện

Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm nói Ủy ban Nhân dân Quận 2, TP Hồ Chí Minh vừa ‘tạm ngưng tháo dỡ’ trường học của nhà dòng.

Được biết kể từ hôm 22/10, các lực lượng của Quận 2 tiến hành đập phá một cơ sở giáo dục vốn được các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm xây dựng từ thời thập niên 1960.

Hình ảnh lan truyền trên mạng xã hội cho thấy chính quyền huy động lực lượng an ninh, dân quân tự phát, chở dù bạt, ghế đá ra án ngữ lối đi nhằm ngăn cản giáo dân đến cầu nguyện cùng các nữ tu.

Hôm 24/10, soeur Đặng Thị Mỹ Hạnh cho BBC Tiếng Việt biết sau cuộc họp giữa đại diện nhà dòng và Ủy ban Nhân dân Quận 2 vào sáng cùng ngày, chính quyền ‘tạm ngưng tháo dỡ’ và các nữ tu trở vào tu viện.

“Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm tiếp tục làm đơn gửi thành phố yêu cầu bồi thường thỏa đáng vụ này,” soeur Hạnh nói.

‘Biến chuyển tích cực’

Linh mục Đinh Hữu Thoại, Phòng Công lý-Hòa bình Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, cho biết thêm: “Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm đã làm đơn yêu cầu chính quyền trở lại cơ sở bị sử dụng trái mục đích từ bốn năm nay nhưng không có kết quả.”

“Trong việc đấu tranh đòi lại quyền sở hữu cơ sở của nhà dòng, các nữ tu chỉ biết cầu nguyện, làm đơn cầu cứu và kêu gọi mọi người chia sẻ thông tin rộng rãi.”

Linh mục Thoại nhấn mạnh rằng chừng nào chính quyền chưa thay đổi Luật Đất đai và Luật Tôn giáo thì những vụ việc tương tự khó được xử lý ổn thỏa.

Ông cũng nhận định rằng từ vụ đòi đất ở giáo xứ Thái Hà, Hà Nội năm 2011 đến nay, các vụ đòi lại cơ sở tôn giáo tại Việt Nam đã có biến chuyển tích cực là tin tức lan nhanh hơn trên mạng xã hội và nhận được quan tâm từ các tổ chức nhân quyền quốc tế.

Hôm 24/10, Linh mục Thoại đã cùng các chức sắc tôn giáo khác trong Hội đồng Liên tôn Việt Nam cùng ký tên vào Thư ‘Hiệp thông với Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm’ gửi đến các cộng đồng tôn giáo tại Việt Nam và các cơ quan nhân quyền quốc tế.

Cùng ngày, BBC Tiếng Việt đã cố gắng liên hệ với Ủy ban Nhân dân Quận 2 nhưng không nhận được phản hồi.

  TinMungChoNguoiNgheo 
Các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm tiếp tục giữ phương thức đấu tranh ôn hòa thông qua việc cầu nguyện

‘Hiến tặng trường cho mục đích giáo dục’

Hội Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm là nhà dòng Mến Thánh Giá đầu tiên của giáo phận Sài Gòn, được thành hình từ khoảng năm 1840.

Các nữ tu đến thập niên 1960 đã xây dựng lên ba trường học gồm trường Nữ Thủ Thiêm, trường Nam Thủ Thiêm và trường Nữ thánh Anna với tổng diện tích 4000 mét vuông.

Sau 4/1975, việc hiến trường diễn ra với việc Giáo hội Sài Gòn cam kết “sẵn sàng để nhà nước sử dụng các cơ sở tư thục Công Giáo trong Giáo phận Sài Gòn vào công tác giáo dục”, theo nội dung một văn bản của Tổng Giám mục Sài Gòn Phaolo Nguyễn Văn Bình ký.

Kể từ cuối 2011, với dự án ‘xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm’ của Quận 2, ba ngôi trường này đã ngưng hoạt động, không còn được sử dụng cho mục đích giáo dục nữa, và do đó Nhà dòng viết đơn yêu cầu trả lại.

Tuy nhiên, yêu cầu này đến nay chưa được đáp ứng.

Được biết trường Nam Thủ Thiêm đã bị đập bỏ hồi 11/2012, hiện chỉ còn là một bãi đất trống.

Những năm gần đây, khiếu nại đòi nhà đất tôn giáo tăng lên ở một số tỉnh phía Nam và Hà Nội. Hầu hết đều liên quan đến nhà đất có nguồn gốc tôn giáo bị chính quyền trưng thu, trưng dụng hoặc mượn không trả lại.

Thủ Thiêm nằm ở vị trí chiến lược bên trong vành đai tăng trưởng Đông Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 2011, báo chí nhà nước gọi vụ đòi đất ở Thái Hà là ‘âm mưu chống chính quyền’ và cáo buộc các giáo sĩ Thái Hà ‘kích động gây rối’.

THÔNG BÁO VỀ CÁC THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN CHO CÔNG LÝ – HÒA BÌNH THÁNG 10 / 2015

THÔNG BÁO VỀ CÁC THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN CHO CÔNG LÝ – HÒA BÌNH
THÁNG 10 / 2015

Sài Gòn ngày 23/10/2015

Kính gửi:

– Anh chị em tín hữu,
– Quý vị quan tâm đến công cuộc dấn thân cho công lý và hòa bình trên Đất Nước Việt Nam,

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Với ý thức về tầm quan trọng của quyền tự do tôn giáo,

trước những sự kiện đang xảy ra (ví dụ tại Kon Tum và tại Thủ Thiêm – Sài Gòn) chứng tỏ quyền tự do tôn giáo chưa được tôn trọng thật sự trong thực tế,

trong sự hiệp thông cách đặc biệt với các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm,

vào lúc 20 giờ, Chúa Nhật 25 tháng 10 năm 2015,

tại Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn (số 38 đường Kỳ Đồng, Quận 3, Sài Gòn)

và tại Nhà Thờ Thái Hà (số 180/2 phố Nguyễn Lương Bằng, quận Đống Đa, Hà Nội),

các thánh lễ cầu nguyện cho công lý – hòa bình sẽ được cử hành,

với hai ý cầu nguyện đặc biệt sau đây:

1. Cầu nguyện cho quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam được các nhà cầm quyền thực sự tôn trọng;

2. Cầu nguyện cho hành trình gian nan đi tìm công lý của các nữ tu Hội Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm được thành công.

Xin kính mời anh chị em tín hữu và mọi người thành tâm thiện chí quan tâm đến công cuộc dấn thân cho công lý và hòa bình trên Đất Nước chúng ta, đến tham dự, hiệp thông và cầu nguyện trong các thánh lễ nói trên.

Ban Công lý – hòa bình
Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam

Nhà cầm quyền có thể chai lỳ trước một bản án oan khốc sắp đem thi hành?

Nhà cầm quyền có thể chai lỳ trước một bản án oan khốc sắp đem thi hành?

Cái lũ người thuộc về cái thể chế gây án oan, sau khi “rút kinh nghiệm sâu sắc” vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn, đã tìm ra những biện pháp tự che giấu bộ mặt thật của mình.

Chúng “thả” ông Huỳnh Văn Nén ra, cho tại ngoại, với lý do bênh tật. Chúng “miễn khởi tố” Nguyễn Quang Lập và Hồng Lê Thọ… chẳng vì lý do gì sất.

Còn với ngưởi tử tù Lê Văn Mạnh mà chúng đã bức cung và nhục hình để cố giết cho bằng được… thì chúng sẽ cho thi hành án trong vòng ít giờ nữa.

Này, những Nghị, và những Rứa, và những Phiêu, lũ người cùng quê Thanh Hóa, lũ người tự hào là “của Dân, do Dân, vì Dân”, hãy nhìn vào tấm áo em Mạnh gửi cho mẹ, chi chít chữ cốt nói với mẹ là em vô tội.

Lũ các người có mẹ hay không?

Lũ các người có còn biết xúc động nữa không?

Chí ít, hãy can thiệp, hãy tạm cho em Mạnh chịu án chung thân.

Hãy một lần trong đời, biết xúc động.

Hãy tha mạng sống cho một thanh niên.

Những cặp mắt khắp Việt Nam, khắp năm châu, đang đổ dồn vào các người.

Hãy một lần trong đời tỏ ra biết nghĩ, biết cảm xúc, biết lo cho tương lai của những con những cháu những chắt nhà các người!

Hãy ra lệnh ngừng giết em Lê Văn Mạnh.

Hãy làm người!

Phạm Toàn

Hỡi các nhà lãnh đạo,

Hãy động lòng trước tiếng kêu oan ức thống thiết của một tử tù sắp bị xử chết

Ngày 26/10/2015, tử tù Lê Văn Mạnh (trú tại xã Yên Thịnh, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá) sẽ bị thi hành án tử hình với tội danh hiếp dâm, giết người.

Trong vụ án này có nhiều oan khuất chưa được làm rõ. 11 năm qua bà mẹ của tử tù đã kêu oan cho con khắp các cửa, chưa được soi xét thấu đáo. Tử tù đã viết nỗi oan ức bị tra tấn, bức cung… không nhận tội theo mớm cung thì chết! Người tử tù đã miệt mài bao ngày tháng viết những dòng chữ chi chít trên tấm áo để giãi bày nỗi oan ức của mình…

Trường hợp này cũng y như trường hợp Nguyễn Thanh Chấn: Phải nhận tội để khỏi bị tra tấn chết. Nhận rồi đi kêu oan. Ông Chấn kêu oan mãi cũng vô vọng. May kẻ thủ ác đã ra đầu thú, nếu không ông Chấn cũng bị xử chết rồi.

Các vị cần biết rằng, sau vụ oan sai của ông Chấn, những người bức cung đã bị xử lý, đền bù, thì vụ này, những người đã tra tấn, bức cung anh Lê Văn Mạnh rất lo sợ, họ muốn thi hành án càng nhanh càng tốt, cho xong mọi chuyện, để trốn tránh trách nhiệm.

Các vị cần biết rằng, đã có nhiều người chết oan ức trong tay công an rồi. Vụ em Dư mới đây đang làm nhức nhối lương tri cả xã hội. Lại đến vụ này nữa, lòng dân sao yên!

Xin các vị lãnh đạo hãy một lần lắng nghe, thấu cảm tiếng kêu oan thống thiết của một người mẹ có con sắp bị xử chết tức tưởi.

Xin các vị hãy cho dừng thi hành án lại để điều tra làm rõ những uẩn khuất của vụ án.

Bằng cương vị của mình, các vị hãy ra lệnh hoãn thi hành án anh Mạnh để điều tra cho rõ. Hãy cứu lấy một mạng người có thể bị chết oan.

Mạc Văn Trang

TRÍCH ĐƠN KÊU OAN CỦA TỬ TÙ LÊ VĂN MẠNH

(Nguyên văn từ lá thư và chiếc áo của tử tù Lê Văn Mạnh nhờ bạn tù gửi ra)

Trịnh Bá Phương

23-10-2015

clip_image002

Mặc dù chúng tôi đang phải mang trên mình nỗi oan quá lớn này và chúng tôi luôn tin tưởng rằng, không có nỗi oan nào là không được minh oan dưới sự công bằng của pháp luật cả. Vấn đề chỉ là thời gian bao lâu mà thôi, nhưng nhất định sẽ có ngày tôi được minh oan.

Dù tôi còn sống hay đã chết, tôi và gia đình tôi sẽ kêu nỗi oan này cho đến hơi thở cuối cùng, cho tới khi chúng tôi được minh oan mới thôi. Vì tôi bị chết oan thực sự và gia đình tôi biết rõ điều đó, đối với cuộc đời của tôi đến bây giờ đã chấm hết tất cả, bằng những bản án đầy bất công, mà trên cuộc đời này có còn nỗi oan trái nào, và sự bất công nào, và nỗi đau nào trên cuộc đời lớn hơn những gì tôi và gia đình tôi đang phải gánh chịu một cách đầy oan ức, oan sai và đầy bất công này không?

Gia đình tôi tan nát, vợ tôi chán đời bỏ đi để lại hai đứa con thơ dại của tôi bơ vơ không cha không mẹ. Phải sống nhờ hai bên gia đình nội ngoại, mỗi đứa một phương trời đã không có cha có mẹ như những chúng bạn cùng trang lứa, hai anh em chúng lại không được ở cùng nhau. Tuy rằng bản thân tôi đang phải sống trong môi trường biệt giam tù đầy và cùm kẹp suốt ngày đêm, nhưng đó cũng chỉ là nỗi đau buồn của thể xác, chứ làm sao bằng được nỗi xót thương của các con khi mà phận làm cha như tôi không thể đem lại cho các con tôi một mái nhà hạnh phúc, đầy tình yêu thương, không nuôi dạy các con thành người, không lo được cho chúng một cuộc sống ấm no bằng bạn, bằng bè cũng trang lứa.

clip_image004

Phận làm con như tôi không một ngày phụng dưỡng cha mẹ mà còn bắt tất cả mọi người mang theo tôi một nỗi oan quá lớn này. Tất cả cũng chỉ vì nỗi oan này, vì sự bất công của pháp luật đã đem tôi đến và bắt tôi phải gánh chịu, và vì cái gọi là thành tích phá án của cơ quan điều tra đã đẩy tôi, toàn bộ gia đình tôi, dòng họ tôi vào nỗi oan nhục này.

Tôi biết rằng vì cái đau đớn của xác thịt khi bị đánh đập tra tấn tôi dã man để ép cung mà tôi không thể chịu đựng nổi cái đau đớn xác thịt đó để rồi tôi phải đi nhận nỗi oan vào người, phải nhận cái tội lỗi mà tôi không hề gây ra vào người theo lời mớm cung của điều tra viên, tôi biết đó là cái sai lầm lớn nhất của cuộc đời mình, và tôi cũng đã cố gắng hết sức mình để sửa lại cái sai này, nhưng tất cả mọi sự cố gắng của tôi và gia đình tôi đều trở nên vô vọng bằng những bản án quá bất công và khi tôi nhận được công văn trả lời của toà án nhân dân tối cao đã bác bỏ lá đơn xin giám đốc thẩm của tôi thì tất cả mọi niềm tin sau cuối của tôi đều sụp đổ hoàn toàn, bởi những quyết định quá bất công của các cấp có thẩm quyền, thực sự giờ đây tôi quá chán nản và suy sụp hoàn toàn, và tinh thần khủng hoảng nặng nề về tư tưởng, khi mà niềm tin vào công lý về sự công bằng của pháp luật sau cùng của tôi bị tước đoạt nốt đi.

Trong những ngày vừa qua tôi cũng chẳng ăn uống được gì, ngày hôm nay tôi cố gắng lắm mới có thể viết lên lời kêu oan thống thiết này, để trình lên ông chánh án toà án nhân dân tối cao, và cầu xin ông hãy soi xét cho mỗi oan này của tôi. Tôi biết khi toà án nhân dân tối cao bác đơn xin giám đốc thẩm của tôi thì tất cả đối với tôi đã hết, lúc này tôi chỉ còn biết rằng tôi bị chết một cách đầy oan ức, và đang phải gánh chịu tất cả những nỗi bất công của pháp luật.

clip_image006

Tôi chỉ biết rằng mình bị chết oan, và tôi sẽ cố gắng kêu nỗi oan này của tôi cho đến hơi thở cuối cùng của cuộc đời mình, còn các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước có giải quyết cho tôi hay không, hay giải quyết như thế nào thì đó là quyền hạn và trách nhiệm của họ. Còn tôi bị chết oan thì tôi phải kêu oan cho đến hơi thở cuối cùng, và khi tôi bị chết đi thì gia đình tôi sẽ tiếp tục kêu oan cho tôi, vì trong xã hội này mọi người đều phải tôn trọng pháp luật, sống và làm theo pháp luật, pháp luật làm đúng thì tôi và gia đình tôi được hưởng đúng và được minh oan. Pháp luật làm sai thì gia đình tôi phải chịu sai, và tôi phải chịu chết oan.

Suy cho cùng sống ở trên đời này ai mà không một lần phải chết, còn sống làm sao để hơn đời một cái tâm mới là cao quý. Còn tôi không gây nên tội lỗi cho cháu Loan nên tôi không có gì phải hổ thẹn với linh hồn của cháu Loan khi gặp nhau nơi chín suối cả và không có gì có thể làm tôi run sợ cả, kể cả cái chết, sống làm sao cho tâm hồn mình thanh thản, sống làm sao để không phải hổ thẹn với lương tâm của mình là được. Tôi còn sống ngày nào tôi sẽ cố gắng sống làm sao cho tốt cho bản thân, với anh em bạn bè đồng phạm đến giây phút cuối cùng, để không ai có thể trách tôi được một điều gì, để gia đình tôi, các con tôi bớt phần lo lắng cho tôi và cố gắng kêu oan cho đến hơi thở cuối cùng, còn được đến đâu thì đến, còn lại gia đình tôi sẽ giúp tôi tiếp tục kêu oan đến cùng, còn lúc nào pháp luật và nhà nước bắt tôi phải chết đưa tôi đi giết một cách oan ức thì tôi cũng hiên ngang đón nhận như một phần tất yếu của cuộc đời phải đến thôi.

clip_image008

Cuộc đời này cũng có còn nỗi đau đớn oan sai và bất công nào hơn tôi nữa không. Tất cả chỉ vì tôi được đẩy ra để làm vật thí mạng, để nhận thay tội cho một kẻ sát nhân, bệnh hoạn nào đó, và vì cái gọi là thành tích phá án của cơ quan điều tra công an tỉnh Thanh Hoá. Tôi không gây nên tội lỗi cho cháu Loan và gia đình tôi biết rõ điều đó cho nên từ trước đến giờ gia đình tôi không hề đền bù cho gia đình cháu Loan. Bởi không ai lại đền tiền cho một người khác khi mà họ biết rõ con họ không gây nên tội lỗi.

***

Kính thưa ông chánh án toà án nhân dân tối cao, nỗi oan này của tôi là có thật hoàn toàn.
Tôi khóc để máu mắt trình lên chánh án toà án nhân dân tối cao những lời kêu oan thống thiết này, cầu xin ông chánh án toà án nhân dân tối cao soi xét cho nỗi oan của tôi và cho thụ lý lại vụ án của cháu Hoàng Thị Loan để điều tra làm sáng tỏ vụ án, bắt đúng người đã gây nên tội lỗi với cháu Loan. Xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan làm sai cho ai cả, trả lại sự công bằng cho tôi được minh oan, để pháp luật luôn là chỗ dựa cho nhân dân và xã hội, để nêu cao tính công bằng và nghiêm minh cho pháp luật.

Tôi xin cam đoan những lời kêu oan thống thiết này của tôi để trình lên ông chánh án toà án nhân dân tối cao là sự thật, nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trước pháp luật. Tôi xin chân thành cảm ơn ông chánh án toà án nhân dân tối cao đã xem xét cho lời kêu oan thống thiết này của tôi.

Lời khẩn cầu kêu oan của người làm đơn.

Lê Văn Mạnh

Nguồn: https://www.facebook.com/trinhbaphuong.trinhba/posts/1634944223433941

__________

Khẩn: Chiếc áo kêu oan của người tử tù

Bạch Cúc

22-10-2015

clip_image010

Chiếc áo kêu oan của tử tù Lê Văn Mạnh. Ảnh: FB Nguyễn Đức Giang

Chiếc áo của người tử tù, chằng chịt những lời kêu cứu oan khuất, được một người bạn tù lén gửi cho gia đình theo ngả thăm nuôi, nhờ đưa về cho người mẹ già.

Người mẹ ấy suốt 11 năm ròng lang thang kêu cầu công lý nhưng vô vọng…

Chỉ còn 3 ngày nữa thôi, có còn kịp không? Ngày 26/10/2015, tử tù Lê Văn Mạnh (trú tại xã Yên Thịnh huyện Yên Định tỉnh Thanh Hoá) sẽ bị thi hành án tử hình với tội danh hiếp dâm giết người.

Bà Nguyễn Thị Việt (mẹ tử tù) cho hay:

– Anh Mạnh bị công an đánh chết đi sống lại, bị ngất và bị tạt nước vào mặt cho tỉnh, thòng lọng cổ treo lên đánh tiếp, anh Mạnh sợ chết nên phải khai nhận… Mạnh bị bịt mặt nên không thể nhận ra người tra tấn ép cung mình.

– Anh Mạnh có chứng cứ ngoại phạm: nhân chứng khẳng định ngày nạn nhân chết anh Mạnh ở nhà em gái phụ giúp chuyển đồ, nhưng tòa đã bác bỏ.

– Luật sư Việt Hoa ở Thanh Hóa, bào chữa cho Mạnh tại phiên tòa Sơ thẩm đã bị đình chỉ hành nghề một năm sau đó. Tại phiên tòa Phúc thẩm, Mạnh tự bào chữa cho mình vì trước đó đã từ chối Luật sư do tòa chỉ định.

Công lý trong trái tim mỗi người, xin cộng đồng hãy cùng lên tiếng, chia sẻ thông tin để hy vọng cứu được một mạng người!

clip_image011

clip_image012

clip_image013

clip_image014

Các bạn có thể tham khảo thêm thông tin tại đây:

– Cô Nguyễn Thị Việt kể về anh Lê Văn Mạnh bị ép cung đánh đập:

Bà Nguyễn Thị Việt Cùng dân oan 3 miền kêu cứu Đài Truyền Hình Đưa Tin về sự oan ức của mình (FB Dương Văn Tuyến).

B.C.

Nguồn: https://www.facebook.com/Bachcuc.kimchi?pnref=story

__________

Chúng ta đang sống trong một xã hội vô lương và mất nhân tính!

Bạch Cúc

Xã hội, văn hóa xã hội được định hình và phát triển ra sao một phần tùy thuộc vào thể chế chính trị điều hành và tác động vào nó.

Một thể chế chính trị văn minh và nhân văn thì sẽ tạo ra một xã hội bình đẳng, văn minh và nhân văn. Người ta có thể nhận diện, đánh giá chung một xã hội dựa trên những hành động, lời nói và cách đối nhân xử thế giữa người với người, giữa người với vật trong xã hội đó. Còn với một thể chế chính trị độc tài, tàn ác thì cái xã hội theo sau nó chắc chắn cũng tỉ lệ thuận với các “thuộc tính” này.

Bạn thấy Xã Hội Việt Nam ngày nay ra sao, thế nào? Có đáng để chúng ta trăn trở, xót xa và suy gẫm…?

Quay ngược trở lại khoảng mười mấy hai mươi năm trở về trước. Lúc ấy, chỉ cần nghe có tin “giết người, chết người” là hầu hết dân chúng đều bàng hoàng, ngạc nhiên lẫn phẫn nộ… Nhưng ngày nay, người với người có thể giết hại lẫn nhau một cách quá đơn giản và nhanh chóng. Hoặc, con người gặp vô số cái chết đến quá bất ngờ với đủ loại lý do khiến cho dân tình chẳng còn thấy lạ lẫm, để mà ngạc nhiên hay bàng hoàng nữa…

Người ta có thể giết chết nhau chỉ bởi do một ánh mắt, một lời nói…

Người ta có thể dễ dàng dùng “Pháp luật” để bắt bớ và cầm tù nhanh chóng những người dám lên tiếng vì chính nghĩa;

Chẳng ở nơi nào trên thế giới mà khẩu hiệu “Độc lập, tự do, hạnh phúc” được nhắc nhiều như vậy nhưng lại bị “vi phạm nghiêm trọng” như vậy!…

Bỏ qua thời kỳ chiến tranh, bạn có đồng ý với tôi rằng chưa bao giờ tính mạng người Việt lại có thể rẻ mạt đến như vậy?

Hằng hà sa số những cái chết oan ức ngoài đường do tai nạn xe cộ;

Hàng triệu bệnh nhân nơm nớp đau đớn chờ đến ngày giã biệt cuộc sống vì căn bệnh ung thư do thuốc độc từ môi trường sống lẫn thực phẩm;

Sản phụ đi sinh nở cũng chết ngang xương vì sự tắc trách của bệnh viện;

Trẻ em chết oan đơn giản và hàng loạt sau khi được tiêm chủng;

Đặc biệt, bạn có ngạc nhiên không khi chưa thấy ở nơi đâu giống như Việt Nam, nơi mà người dân chỉ cần bị bắt nhốt vào đồn Công an là bỗng dưng lăn đùng ra chết rồi được thông báo là họ tình nguyện “tự tử chết”!

Chúng ta đang sống ở một nơi nào vậy? Một thiên đường XHCN nhưng tìm mãi không thể thấy những giá trị nhân văn cơ bản nhất. Chúng ta đang sống ở một xã hội mà Lòng Tự Trọng và Sự Xấu Hổ chỉ được xem như điều xa xỉ!

Những người lẽ ra phải bảo vệ đất nước và bảo vệ nhân dân thì lại là những người bán rẻ đất nước và làm hại nhân dân;

Những người được trao trách nhiệm thi hành “công vụ” lại trở thành kẻ cướp ngang nhiên trấn lột dân chúng ngày đêm ngoài đường;

Những người có chức to thì ăn to, chức nhỏ thì ăn nhỏ và họ có thể ăn bất cứ thứ gì từ gạch cát, xi măng cho đến hố xí và cả tiền cứu trợ…

Xã hội này đang xây dựng giá trị con người bằng những điều gì vậy? Phải chăng là bằng đồng tiền, bằng quyền lực và cả bằng sự vô lương và mất nhân tính!

Tôi chẳng thể quên những năm tháng làm Quản giáo tại một trại cai nghiện. Dù chỉ là quãng thời gian ngắn ngủi nhưng hiện thực ở “xã hội thu nhỏ” đó đã biến đổi tôi hoàn toàn, và tôi mang theo những ký ức trăn trở đó làm hành trang để buộc mình phải có một lối sống khác và có cách nhìn khác về chế độ, về xã hội mà tôi đang sinh sống.
Bạn sẽ khó có thể hình dung được sự thật, nếu như bạn chưa từng được “trải nghiệm” để có thể hiểu một cuộc sống tù đày là thế nào? Nơi tôi làm việc trước kia chắc chắn không thể khắc nghiệt bằng những trại tù, nhưng cũng đủ khiến tôi phải “kinh hoàng” nhận ra: ở xã hội này người ta có thể dễ dàng tước đi những quyền sống cơ bản nhất của một con người, huống chi là trong một môi trường lao tù thật sự!

Bạn có thấy bất nhẫn không khi thấy người ta hành hạ súc vật? Vậy bạn thế nào, cảm xúc của bạn ra sao khi biết có những anh em chung dòng máu Việt của bạn đang bị người ta ngược đãi, đối xử ác độc còn tệ hơn cả súc vật. Tôi buộc phải nói rằng những người đang “hành xử” như vậy là những người có cách sống vô lương và mất nhân tính nhất! Tôi đau xót và không thể lý giải tại sao?

Tại sao cùng là con người, cùng là những đứa con được sinh ra trên một miền đất mẹ mà người ta có thễ nhẫn tâm tàn hại và hành hạ lẫn nhau như vậy?

Tại sao người ta có thể dửng dưng, im lặng và quay lưng trước lời khẩn cầu và kêu cứu của người khác?

Bạn ơi, Xã hội này sẽ ra sao? Thế giới này sẽ ra sao khi loài người đánh mất Tình Thương và lòng Trắc Ẩn?

Xin bạn hãy cùng tôi gửi một thông điệp, xin hãy chia sẻ và đồng hành với những “Người Khốn Khổ” – những “Tù Nhân Lương Tâm” đang trong song sắt nhà tù để đòi quyền được sống và quyền tự do cho họ.

Làm ơn hãy:

“CHIA SẺ, ĐỒNG HÀNH VỚI KHÁT VỌNG SỐNG, KHÁT VỌNG TỰ DO CỦA NHỮNG TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM VÔ TỘI!”

B.C.

Nguồn: https://www.facebook.com/Bachcuc.kimchi?pnref=story

__________

Chỉ còn mấy chục giờ nữa!

Nguyễn Đức Giang

22-10-2015

Em Lê Văn Mạnh bị Toà án tỉnh Thanh Hóa KẾT ÁN TỬ HÌNH vào ngày 26/10/2015 với tội danh “hiếp dâm & giết người”.

Bản án có nhiều điều khuất tất, chứng cứ em ngoại phạm (lúc đó có nhiều nhân chứng thấy em dọn đồ cho gia đình), Viện Kiểm sát cũng yêu cầu giám đốc thẩm vụ án, 11 năm nay mẹ em Mạnh là chị Nguyễn Thị Việt đi kêu oan cho con trai nhiều nơi, với 6 lần xét xử…, nhưng ” quả bóng ” trách nhiệm của các cơ quan luật pháp đã đùn đẩy, từ địa phương đến trung ương, không giải quyết.

Nhà chị Việt là một gia đình thuần nông, nghèo khó, không có tiền để thuê luật sư, khi biết tin con trai Lê Văn Mạnh sẽ bị tử hình vào ngày 26/10/2015, thứ hai, chị mới lo sợ chạy ra HN, kêu cứu các cơ quan pháp luật của trung ương, của Quốc hội, của Chủ tịch nước và sự chung tay của những người dân sống ở HN, giúp chị kêu oan cho con!

Kính mong sự quan tâm của cộng đồng, đồng hành, đoàn kết cùng gia đình chị Nguyễn Thị Việt cứu lấy con trai Lê Văn Mạnh! Gấp lắm rồi bà con ơi!

clip_image015

clip_image016

clip_image017

clip_image018

N.Đ.G.

Nguồn: https://www.facebook.com/giang.nguyenduc/posts/863869573729223

__________

Chúng tôi yêu cầu

CLB Nhà báo Tự Do

Chúng tôi YÊU CẦU nhà cầm quyền CSVN đình chỉ ngay lập tức vụ án Lê Văn Mạnh. Cho tiến hành mọi thủ tục tố tụng, tranh tụng lại từ đầu nhằm hạn chế sẽ xử tử oan một sinh mạng con người.

Bởi vì :

Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Lê Văn Mạnh phạm tội “Giết người”, “Hiếp dâm” và “Cướp tài sản” Số hiệu 14/2007/HS-GĐT ghi rõ:

“1. Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 756/2006/HSPT ngày 26-7-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án hình sự sơ thẩm số 61/2006/HSST ngày 13-3-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa;

2. Giao hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung;

3. Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Văn Mạnh cho đến khi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý lại vụ án.

Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

Trong lời khai nhận tội của bị cáo có nhiều mâu thuẫn và thiếu thống nhất nhưng chưa được điều tra làm rõ, vì vậy cần phải điều tra lại”.

Như vậy, vụ án có nhiều tình tiết khuất tất chưa được làm rõ. Giết một mạng người là điều rất nghiêm trọng.

Bà Nguyễn Thị Việt, mẹ của tử tù Lê Văn Mạnh ra Hà nội mang biểu ngữ kêu oan cho con trai ngày 22/10/15 đã bị nhân viên công quyền cướp biểu ngữ.

Theo thông báo mới đây Ngày 26/10/15 con trai bà Việt sẽ bị tử hình.

Rất mong cộng đồng lên tiếng để cứu một mạng người khỏi bị chết oan uổng.

C.L.B.N.B.T.D.

Nguồn: https://www.facebook.com/caulacbonhabaotudo

clip_image019clip_image020clip_image021clip_image022

Việt Nam ngả về Mỹ hay Trung Quốc?

Việt Nam ngả về Mỹ hay Trung Quốc?

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh (phải) bắt tay Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter trong cuộc gặp tại Hà Nội ngày 1/6/2015.

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh (phải) bắt tay Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter trong cuộc gặp tại Hà Nội ngày 1/6/2015.

Trà Mi-VOA

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam tuyên bố Việt Nam cần cân bằng trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ, ‘không đi với nước lớn này để chống lại nước lớn khác’.

Truyền thông trong nước dẫn tuyên bố của đại tướng Phùng Quang Thanh tại buổi thảo luận về an ninh quốc phòng chiều 22/10 ở Quốc hội khẳng định Việt Nam theo đường lối đối ngoại tự chủ, không ngả về bên nào hay bị chi phối bởi nước nào.

Ông Thanh nói chỉ cần ‘lệch lạc, đứng về một nước lớn nào quay lưng lại nước lớn khác sẽ gây phức tạp’.

Phát biểu của lãnh đạo ngành quốc phòng Việt Nam được đưa ra giữa bối cảnh quan hệ Việt – Trung tuột dốc xuống mức thấp nhất vì tranh chấp Biển Đông và bang giao Việt – Mỹ ngày càng trở nên nồng ấm.

Washington đang chuyển trọng tâm về Châu Á để kiềm chế Trung Quốc ‘giương oai diễu võ’ trong lúc Hà Nội tìm cách xích lại gần hơn với cường nước cựu thù để đối phó với sự o ép về nhiều mặt của Bắc Kinh.

Từ sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 xâm nhập vùng biển Việt Nam hồi tháng 5 năm ngoái, Bắc Kinh không ngừng thách thức chủ quyền của Hà Nội từ các hoạt động tuần tra, gây hấn, tấn công tàu bè, xây đảo nhân tạo, cho tới đặt các cơ sở quân sự-dân sự kể cả phi đạo và hải đăng tại các khu vực đôi bên đang tranh chấp.

“ Để nắm được cơ hội đó, Việt Nam cần phải dứt khoát. Mỹ đã dọn bàn cổ cho Việt Nam, trong đó có TPP. Việt Nam giờ chỉ cần làm sao chuẩn bị để được hưởng những cái lợi đó. Tôi nghĩ Việt Nam bây giờ đã thấy được giữa cái tương lai và sự nguy hiểm cho đất nước như thế nào.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long.”

Các hành động khiêu khích và bất chấp luật lệ của Trung Quốc bị quốc tế lên án là đe dọa hòa bình khu vực cũng như an ninh của các nước lân cận, trong đó có Việt Nam, khiến dân Việt ngày càng mất lòng tin vào người láng giềng ‘4 tốt’.

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam kêu gọi ‘Trong quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, Việt Nam cần hữu nghị với cả hai. Có như vậy, chúng ta mới giữ được thế cân bằng, chủ động, và độc lập’.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng Hà Nội không thể có được mối quan hệ tốt ‘song hành’ như mong muốn giữa các tham vọng và hiểm họa gia tăng từ Trung Quốc.

Theo giới phân tích, để tương lai nước Việt không bị định đoạt bởi Trung Quốc, Hà Nội cần nhận rõ đâu là bạn tốt, đâu là kẻ trục lợi mà căng thẳng Biển Đông chính là cơ hội giúp Việt Nam thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc.

Giáo sư Ngô Vĩnh Long từ đại học Maine (Hoa Kỳ) chuyên nghiên cứu lịch sử Đông Nam Á, Đông Á, quan hệ Mỹ – Á nhận định:

“Để nắm được cơ hội đó, Việt Nam cần phải dứt khoát. Mỹ đã dọn bàn cổ cho Việt Nam, trong đó có TPP. Việt Nam giờ chỉ cần làm sao chuẩn bị để được hưởng những cái lợi đó. Tôi nghĩ Việt Nam bây giờ đã thấy được giữa cái tương lai và sự nguy hiểm cho đất nước như thế nào”.

Luật sư Lưu Tường Quang, một người am hiểu tình hình Biển Đông nguyên là một nhà ngoại giao của Việt Nam Cộng Hòa, bày tỏ kỳ vọng:

“Nếu họ chuyển trục, nếu Hiệp định TPP được Quốc hội Mỹ chuẩn y và có hiệu lực, thì cơ hội  Việt Nam chịu uống thuốc đắng để dã tật, để phần nào bớt lệ thuộc vào Trung Quốc có thể xảy ra. Không những xảy ra về phương diện kinh tế mà cả luôn về mặt chính trị. Tôi hy vọng với sự đe dọa rất lớn từ Trung Quốc, đại hội đảng lần thứ 12 năm 2016 sẽ đi tới một quyết định tương tự như đại hội 6 năm 1986. Nếu những điều này trở thành sự thật, đại hội 12 sẽ có tầm vóc chuyển đổi Việt Nam từ chế độ cộng sản độc tài lệ thuộc Trung Quốc thành một nước Việt Nam độc tài nhưng thân Mỹ. Điều đó có lợi cho đất nước chúng ta, theo nghĩa là chúng ta bớt lệ thuộc vào Trung Quốc”.

“ Tôi hy vọng với sự đe dọa rất lớn từ TQ, đại hội đảng lần thứ 12 năm 2016 sẽ đi tới một quyết định tương tự như đại hội 6 năm 1986. Nếu những điều này trở thành sự thật, đại hội 12 sẽ có tầm vóc chuyển đổi VN từ chế độ cộng sản độc tài lệ thuộc TQ thành một nước VN độc tài nhưng thân Mỹ. Điều đó có lợi cho đất nước chúng ta, theo nghĩa là chúng ta bớt lệ thuộc vào TQ.

Luật sư Lưu Tường Quang.”

Trong số các lý do khiến Hà Nội và Washington chưa thể thật sự xích lại gần nhau có vấn đề nhân quyền Việt Nam và bài học lịch sử từ chiến tranh khi Mỹ bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng Hòa để bắt tay với Trung Quốc.

Các chuyên gia cho rằng để quan hệ Việt – Mỹ ngày nay được thật sự khắng khít, ngoài việc Việt Nam phải cải thiện nhân quyền, Washington cũng cần tạo lòng tin cho Hà Nội.

Luật sư Quang chia sẻ quan điểm:

“Để Việt Nam tin tưởng hơn vào Hoa Kỳ, Mỹ nên tháo gỡ hoàn toàn lệnh cấm vận võ khí sát thương để giúp Việt Nam có được phương tiện quân sự chống trả Trung Quốc trong trường hợp bị Trung Quốc tấn công bằng đường bộ”.

Nhiều người nói trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam hiện chưa thống nhất được chính sách thân Tây hay thân Tàu. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng không có phe thân Tây hay thân Tàu trong ban lãnh đạo đảng, mà chỉ có một phe quyết giữ cho được độc tài của đảng Cộng sản vì lợi ích nhóm.

MẤT CẮP

MẤT CẮP

 Phạm Đình Trọng

Nhà thơ bị mất cắp một bài thơ thì cả thế giới mạng người Việt xôn xao như cả thế giới người Việt bị mất cắp thơ, dồn dập lên tiếng. Cả hệ thống báo chí lề Dân, lề Đảng vào cuộc vụ mất cắp thơ nhỏ nhặt. Những nhà nọ, nhà kia, học giả, học thật xúm vào vụ mất cắp thơ cỏn con.

Nhân dân bị mất cắp trắng tay thì chỉ có số ít người đau đớn, xót xa lên tiếng trong lẻ loi, đơn độc, giữa trùng trùng bạo lực hung hãn đàn áp.

Nhân dân bị đánh cắp mất quyền làm chủ đất nước, quyền làm chủ giang sơn gấm vóc, quyền làm chủ nhà nước. Quyền lực Nhân dân cũng như Hiến pháp đất nước là những giá trị tối cao của một quốc gia bảo đảm sự lành mạnh, ổn định và bền vững của đất nước thì cả quyền lực Nhân dân và Hiến pháp đất nước đều bị đánh cắp.

Hiến pháp là văn bản pháp luật nền tảng của luật pháp đất nước. Hiến pháp bảo đảm quyền lực của Nhân dân được thực thi trong cuộc sống, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân với đất nước và xã hội thì Hiến pháp đã trở thành Đảng pháp (Đảng quy). Chỉ một Điều 4 trong các bản Hiến pháp của nhà nước Cộng sản Việt Nam đã chuyển giao toàn bộ quyền lực của Nhân dân cho đảng Cộng sản. Hiến Pháp bị đánh tráo. Quyền lực của Nhân dân bị đánh cắp.

Nhân dân mất Hiến pháp, mất quyền lực là mất tất cả. Mất trắng mắt, trắng tay. Mất từ cái riêng đến cái chung. Mất quyền sở hữu mảnh đất hương hỏa của cha ông. Mất những giá trị làm Người. Mất quyền Công dân. Người Dân vẫn cầm lá phiếu đi bầu cử nhưng chỉ là rô bốt, bầu theo ý quyền lực đã định trước. Đến mất cả quyền làm chủ giang sơn, làm chủ vận mệnh đất nước. Người Dân sống trên mảnh đất của cha ông mình để lại, sống trên mảnh đất mồ hôi xương máu của chính mình gây dựng lên mà như sống tạm, sống nhờ, được ngày nào biết ngày đó. Người Dân sống trên quê hương đất nước máu thịt của mình có lịch sử oai hùng do cha ông mình và chính năm tháng cuộc đời mình viết lên mà như kẻ lưu vong nơi đất khách quê người.

Gần ngàn tờ báo các loại. Báo giấy. Báo tiếng. Báo hình. Trong đó có hàng trăm tờ báo sống nhởn nhơ bằng tiền thuế của Dân. Nhân dân bị mất đau như vậy, các tờ báo đều làm ngơ.

Hàng trăm ngàn trí thức được học hành trong nước, ngoài nước nhờ tiền thuế của Dân, nhận lương lậu bổng lộc hậu hĩ từ tiền thuế của Dân. Dân bị mất đau như vậy, trí thức ngậm miệng ăn tiền.

Báo chí làm ngơ, trí thức ngậm miệng trước nỗi đau của Nhân dân, của dân tộc bởi vì chính họ cũng bị mất cắp cái lớn lao, quí giá là quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận. Cái lớn, cái quí của chính mình cũng bị mất cắp mà không kêu được thôi đành la lối những cái mất cắp vặt vãnh mà quên đi cái mất cắp không dám kêu!

P.Đ.T.

Hiểm họa ở đồng bằng sông Cửu Long

Hiểm họa ở đồng bằng sông Cửu Long

Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Trong cuốn sách Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng (nhà xuất bản Giấy Vụn, 2014), nhà nghiên cứu Ngô Thế Vinh đã báo động hai mối họa nước Việt Nam phải đối đầu. Chuyện Biển Ðông dậy sóng ai cũng biết nhờ tin tức thời sự mỗi ngày. Ít người Việt theo dõi mối họa thứ hai là “Cửu Long Cạn Dòng.”

Ký giả Navin Singh Khadka, chuyên trách các vấn đề môi trường sống của BBC mới viết một bài mới, báo động tình trạng đồng bằng sông Cửu Long nước ta đang gặp nạn; tai họa không những gây ra do các đập nước của Trung Quốc ở đầu nguồn sông Mekong mà còn vì hành động của chính người Việt Nam, trong lúc chính quyền hoặc làm ngơ không chú ý, hoặc bất lực không làm gì được.

Khi Cộng Sản Trung Quốc cho xây các đập thủy điện ngăn nước từ đầu nguồn sông Mekong, rồi các nước Lào, Thái Lan, Campuchia cũng đua theo, số lượng nước chảy xuống sông Cửu Long ở nước ta đã giảm bớt. Vì sức nước sông chảy yếu đi, nước biển đã dâng lên, tràn vào trong đất liền.

Hiện nay mỗi năm đồng bằng sông Cửu Long đã bị nước biển liếm mất 500 mẫu tây (năm cây số vuông). Theo Viện Khoa Học Thủy Lợi Miền Nam thì trong năm ngoái số ruộng lúa bị nước biển tràn và thấm vào còn rộng hơn nữa, mất 60 cây số vuông không thể trồng trọt. Theo các nghiên cứu khoa học của Ủy Ban Sông Cửu Long, một tổ chức của bốn nước Việt Nam, Thái Lan, Lào và Campuchia, với tốc độ nước biển xâm nhập hiện nay, tới cuối thế kỷ này vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất gần một nửa (40%) đất có thể trồng trọt, vì mực nước biển sẽ lên cao thêm cả thước.

Nhưng không cần phải đợi tới cuối thế kỷ đồng bào ta mới phải chịu tai họa. Ông Lê Anh Tuấn, thuộc Viện Nghiên Cứu Biến Ðổi Khí Hậu tại Ðại Học Cần Thơ, vì nước biển dâng lên, gần một nửa số dân sống trong vùng sông Cửu Long đang thiếu nước ngọt để sử dụng. Nước biển xâm lấn khiến những con đê ngăn nước mặn cũng hư không còn hiệu lực nữa. Tại vùng ven biển, nước mặn đã vào sâu thêm 60 cây số trong đất liền. Một số nhà vườn trồng xoài đã ngưng hoạt động, vì cây xoài chỉ sống được nếu nước mặn mỗi năm lên cao dưới 1.6 mili mét; mà hiện nay mức dâng cao đã gấp ba lần (5 mili mét). Nhiều nhà nông trồng lúa đã phải bỏ, quay sang nghề nuôi tôm. Theo nghiên cứu của Ủy Ban Sông Mekong, hiện nay số đất phù sa bồi đắp lên vùng châu thổ sông Mekong đã giảm bớt 85 triệu tấn so với năm 1992.

Ðầu mối tai họa này là chính sách khai thác điện lực và dẫn thủy nhập điền của chính quyền Cộng Sản Trung Quốc. Sông Mekong, tại Trung Quốc mang tên là Lan Thương (Lancang, 澜沧) chảy qua Tây Tạng và các tỉnh Thanh Hải, Vân Nam, trước khi đổ xuống phía Nam. Theo tạp chí World Rivers Review của cơ quan Sông Quốc Tế (International Rivers, IR), thì vào năm 2014, Trung Cộng đã xây dựng bảy đập thủy điện lớn ở đầu nguồn sông Mekong thuộc nước Tàu, con sông phát nguyên từ Tây Tạng chảy xuống Biển Ðông nước ta. Họ sẽ xây thêm 21 đập ngăn nước lớn khác trong 10 năm tới. Các nước hạ nguồn cũng bắt chước xây các đập nước khác; với dự án xây 11 con đập nữa.

Việc xây đập ảnh hưởng trên đời sống của các dân tộc phía dưới nguồn sông. Vào mùa không mưa, dân chúng hai bên bờ sông ở Lào, Thái Lan, phải dùng nước sông để tưới ruộng vườn, nay số lượng nước bị giảm. Khí hậu hai bên bờ sông cũng thay đổi vì khối lượng nước trong con sông có tác dụng giúp nhiệt độ ôn hòa, ít lên xuống hơn. Vì nhiệt độ thay đổi, đời sống các giống cá trong lòng sông cũng bị ảnh hưởng. Nhưng tai họa lớn nhất là nước biển lấn dần vào đất liền thì chỉ dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long gánh chịu. Ðập Don Sahong đang xây ở Hạ Lào, nhằm cung cấp điện cho Lào và Thái Lan sẽ ảnh hưởng lớn trên đời sống dân Campuchia và miền Nam Việt Nam.

Trong cuốn sách biên khảo viết dưới hình thức vừa tiểu thuyết vừa ký sự, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Ðông Dậy Sóng, Bác Sĩ Ngô Thế Vinh đã mô tả hành động của chính quyền Trung Quốc: “Vào Tháng Tư năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Cửu Long nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Ðiện, Thái và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Tư Mao xuống Chiang Khong Chiang Sean Bắc Thái xuống thẳng tới Vạn Tượng. Trong khi Việt Nam và Campuchia là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài.”

Sau các tai nạn do các đập nước gây ra, mối họa thứ hai là các công trường khai thác cát. Mỗi năm hàng triệu mét khối cát được đào đem đi trong vùng hạ nguyên sông Cửu Long; nhiều nhất là ở Campuchia và Việt Nam. Quỹ Thế Giới Bảo Vệ Thiên Nhiên (World Wide Fund for Nature, WWF) cho biết riêng tại đồng bằng sông Cửu Long nước ta có 150 công trường đào lấy cát, trải ra trong 13 tỉnh, tổng cộng rộng 80 cây số vuông. Các công trường cát này đã được nhà nước cấp giấy phép. Trong năm năm nữa, các công trình xây cất sẽ cần đến một tỷ mét khối cát; làm giảm bớt số ruộng đất trồng trọt.

Các tổ chức bảo vệ môi trường đã báo động và cảnh cáo chính quyền Việt Nam về tai hại của việc cho phép các công trường đào cát hoạt động mà không nghiên cứu các ảnh hưởng sâu xa. Chính quyền biết các mối tai hại đó những không làm gì cả. Khi được lệnh từ cấp trên, các địa phương từ chối thi hành vì lý do không thể bồi thường thiệt hại cho các công ty đã cấp giấy phép. Trong vấn đề này chưa có luật lệ nào bảo vệ môi trường sống của mấy chục triệu người dân. Mà khi luật lệ không đầy đủ, không rõ ràng thì người ta càng có thêm cơ hội tham nhũng!

Ngoài nạn lấy cát không có kế hoạch toàn bộ, chính quyền còn đang thực hiện những công trình “vét bùn” nới rộng lòng sông ở các khúc chi lưu nhỏ, thay đổi đời sống dân hai bên bờ. Nhiều con sông phụ sâu dưới 5 mét không cho phép các tàu thủy lớn qua lại. Việc vét bùn sẽ mở rộng đường giao thông nhưng không có kế hoạch củng cố bờ sông cho vững chắc hơn; một hậu quả là sóng lớn xô vào làm bờ sông bị lở và đất ruộng bị thu hẹp.

Hiểm họa của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long còn tiếp diễn, vì một mặt, chính quyền Việt Nam không dám phản đối Trung Cộng trong việc xây dựng các đập thủy điện bất chấp ảnh hưởng tới các nước phía dưới, mặt khác vì chính quyền tham lam ăn hối lộ không quan tâm nghiên cứu và kiểm soát việc khai thác cát trong vùng sông chảy qua.

Chỉ khi nào Việt Nam có một chính quyền không lệ thuộc Cộng Sản Trung Quốc, nước ta mới có tiếng nói mạnh mẽ để cùng các nước trong vùng sông Mekong ngăn chặn việc Trung Cộng xây đập nước mà không tham khảo ý kiến các nước lân cận.

Chỉ khi nào Việt Nam có một guồng máy nhà nước do người dân bỏ phiếu bầu, biết lo cho dân thay vì chỉ lo tranh giành chức vụ để mưu lợi cho bản thân và gia đình thì đồng bào sống trong vùng đồng bằng sông Cửu Long mới thoát khỏi mối hiểm họa đang đe dọa.

Đảng, Nhà Nước & Nhà Ngoại Cảm

Đảng, Nhà Nước & Nhà Ngoại Cảm

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc

Nguyễn Khoa Điềm

Tuy không biết làm thơ nhưng tôi cũng có tật xấu (“Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt. Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành”) y như cái ông thi sĩ vậy. Đất nước, chả may, lại chỉ toàn tin buồn và tin dữ. Tuổi Trẻ Online, số ra ngày 16 tháng 10 năm 2015, cho hay:

“TAND tỉnh Quảng Trị tiếp tục thẩm vấn các bị cáo trong đường dây lừa đảo tìm hài cốt liệt sĩ do Nguyễn Văn Thúy (tức ‘cậu Thủy’) cầm đầu.

Sau khi nghị án, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã công bố … ‘cậu Thủy’ Nguyễn Văn Thúy phải chấp hành hình phạt chung là tù chung thân cho hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và xâm phạm mồ mả hài cốt.

Mẫn Thị Duyên (vợ Thúy) 25 năm tù, Mẫn Đức Phương (em vợ Thúy) 18 năm tù, Nguyễn Anh Chiều 5 năm tù, Nguyễn Trường Sơn 15 năm tù cùng về hai tội lừa đảo và xâm phạm mồ mả hài cốt. Nguyễn Văn Hoành 23 năm tù về 3 tội lừa đảo, xâm phạm mồ mả hài cốt và trộm cắp tài sản.”

Ở Việt Nam việc “xâm phạm mồ mả hài cốt” vẫn xẩy ra thường xuyên (ở khắp mọi nơi) nhưng chưa bao giờ bị coi là phạm pháp cả – theo như lời của một nhà văn:

“Sáng hôm ấy, con gái và con trai, cuốc và xẻng, thuổng và bàn vét, ngổn ngang ồ ạt xông ra đồng. Hai cánh đồng Ruộng Quan và Cồn Rộng nhiều mồ nhất, phải mở hai mũi quân mạnh nhất xung phong vào hai cứ điểm này.

Không biết từ bao giờ ông cha mình chọn nơi đây làm nghĩa địa cho người nghèo. Hầu hết những nhà giàu có, người ta táng vào thửa ruộng riêng, ngôi mộ to hơn và thế đất thịnh vượng hơn. Chỉ có nhà nghèo, hiếm ruộng hoặc không có ruộng, mới táng nhờ vào mảnh đất công này…

Vốn lúc đầu đám thanh niên cũng còn giữ được lễ nghĩa: mỗi bộ hài cốt để riêng một nơi. Nhưng mộ nhiều quá, nếu cứ cẩn thận như vậy, tiến trình chiến dịch sẽ kéo dài, họ xô bồ đào xới và xô bồ bốc tất cả hài cốt vào một tấm ni lông. Hàng chục cái sọ dừa, hàng chục cái xương tay xương chân, hàng chục bộ răng đổ ào vào một đống.

Mọi người thở dài, bó tay, đành chịu vậy. Thời buổi thế thì phải chịu thế, chứ biết làm sao.”  (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. California: Tạp Chí Văn Học, 2006).

Đây không phải là “chuyện làng ngày ấy” của riêng địa phương nào mà là chính sách xuyên suốt, từ gần ¾ thế kỷ qua, của chính quyền cách mạng. Ông Nguyễn Văn Thúy và đồng sự (dám) là những người đầu tiên bị xử án tù, vì tội “xâm phạm hài cốt”, trong chế độ hiện hành.

Trước khi tiếp chuyện “đường dây lừa đảo tìm hài cốt liệt sĩ,” tưởng cũng nên nói qua – đôi điều – về cách lường gạt (hay cưỡng ép) khiến hàng triệu lương dân “phải” trở thành liệt sĩ, ở miền Bắc Việt Nam. Họ bị tuyên truyền, nhồi nhét về những kẻ thù “mang đầu ác thú,” và một “cuộc chiến tranh xâm lược” nên không ít người đã hăng hái lên đường tòng quân (giải phóng quê hương) rồi trở thành … liệt sĩ.  Phần còn lại thì không có cách lựa chọn nào khác – theo như lời của một nhân vật trong cuộc, nhà báo Bùi Tín:

“Tôi từng tham dự nhiều buổi tiễn đưa một số đơn vị vào Nam, khi qua binh trạm cuối ‘làng HO’ thuộc đất Vĩnh Linh là anh em vĩnh biệt miền Bắc trong cảnh tượng xé lòng mà vẫn phải làm ra vẻ bình thản. Ai nấy đều giống nhau, hiểu nhau, cùng nhau đóng kịch.

Lúc ấy không còn đường rút lui. Cứ như qua cầu bắc ngang sông là cầu bị cắt. Đã có một số anh em mất tinh thần, liều mạng, muốn quay lui, vào tù cũng được, nhưng không sao lọt.

Vì trách nhiệm của các chính ủy đoàn, các chính trị viên, của các chi bộ là ngăn chặn hiện tượng ‘B tụt’, ‘B tạt’, ‘B quay’, nghĩa là tìm cách lẩn vào rừng, tụt lại sau, tạt ra các bản người dân tộc, rồi tìm cách quay về nhà. Rất ít ai thoát được.”

Ông Nguyễn Văn Thúy và những người đồng vụ sẽ không có cơ hội lường gạt bất cứ ai, nếu nhà nước V.N có quan tâm đôi chút đến những người đã bỏ mạng (nhưng không tìm được xác) trong cuộc chiến vừa qua. Tuy không phải là nhà ngoại cảm nhưng nhạc sĩ  Trịnh Công Sơn đã tiên cảm (gần đúng) về sự vô tâm này: “Khi đất nuớc tôi không còn chiến tranh, mẹ già lên núi tìm xuơng con mình…’’

Sở dĩ nói là “gần đúng” thôi vì cuộc chiến kéo dài quá lâu nên đến khi tàn thì cũng không còn được bao nhiêu bà mẹ (sống sót) để “lên núi tìm xuơng con mình’’ nữa. Việc đào bới hài cốt (tuy thế) vẫn được tiếp tục bởi anh chị em, hay bạn đồng đội của những người đã khuất –  như tuờng thuật của nhà báo Rajiv Chandrasekaran trên The Washington Post: “Vietnamese Families Seek Their MIAs; Few Resources Available In Search for Thousands.”

Bài báo mở đầu bằng một câu chuyện thương tâm. Ông Nguyễn Dinh Duy tử trận ngày 29 tháng 3 năm 1975. Suốt mấy muơi năm qua, chị của ông ta (bà Thắm) vẫn không ngừng đi tìm kiếm xác em trong… vô vọng. Ông Duy chỉ là một trong 300.000 lính Bắc Việt chết trận mất xác – và kể như là mất luôn (Duy is one of about 300,000 North Vietnamese soldiers killed in the war whose remains have not been located – and likely never will be).

Tiếp theo là một câu chuyện cảm động về tình đồng đội: “Mỗi tuần một lần, ông Ban thức dậy lúc 5 giờ sáng, leo lên chiếc xe gắn máy màu xanh lá cây đã cũ, đi đến những nơi mà ông còn nhớ khi còn là một y tá trong quân đội. Trí nhớ của ông quả tốt; mười năm qua, ông tuyên bố, đã đào được 2.000 xác chết và đã nhận diện được một nửa trong số này…’’ Vẫn theo lời ông Ban: “Là kẻ sống sót, tôi tự thấy mình phải có bổn phận với những nguời đã chết (Being still alive, I feel responsible for the dead people).

Quan niệm tử tế của ông Ban, tiếc thay, không được chia sẻ bởi những người hiện đang nắm quyền bính ở Việt Nam – dù họ đều là những kẻ sống sót, và được hưởng mọi thứ quyền lợi, sau cuộc chiến. Khi bị chất vấn về thái độ vô trách nhiệm này, một giới chức có thẩm quyền của Hà Nội, ông tướng Dang (nào đó) đã giải thích như sau: “…tìm kiếm những binh sĩ quá tốn kém mà tiền thì phải dùng vào việc chăm lo cho cho những kẻ còn sống sót.’’ (Dang said the cost of searching for missing soldiers must be weighed against the need to care for the survivors of the war).

Thực sự thì những kẻ sống sót chả được “chăm lo” gì ráo. Có chăng thì cũng chỉ là những loạt pháo hoa hào phóng (“rực sáng bầu trời”) vào những dịp kỷ niệm chiến thắng mà thôi.

Sự vô tâm (hay vô ơn) của Nhà Nước VN đã tạo điều kiện để phát sinh ra … những nhà ngoại cảm, và thái độ “đồng cảm” của mọi giới quan chức của đất nước – cùng những cơ quan truyền thông – đã biến xứ sở này trở thành một nơi lý tưởng để …lên đồng:

  • Ngày 7 tháng 11 năm 2011, bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ Trưởng Bộ Thương Binh & Xã Hội, đã ký quyết định tặng bằng khen cho 38 nhà ngoại cảm “có nhiều đóng góp trong công tác tìm kiếm qui tập hài cốt liệt sỹ.”
  • Ngày 30 tháng 9 năm 2013, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết Định (1237) phê duyệt “Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo…”
  • Ngày 4 tháng 11 năm 2013, tại Trụ sở Bộ Quốc phòng đã diễn ra Hội nghị Ban Chỉ đạo Quốc gia về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Tới dự và chỉ đạo Hội nghị có đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN, Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Chỉ đạo Quốc gia tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.
  • Ảnh:btv
  • Ngày 6 tháng 11 năm 2013, Liên Hội Các Hội Khoa Học & Kỹ Thuật Việt Nam đã tổ chức Hội Thảo Khoa Học Việc Tìm Kiếm Hài Cốt Liệt Sỹ Bằng Khả Năng Đặc Biệt …
  • Sách vở liên quan đến những  “phương cách tìm mộ liệt sĩ bằng khả năng đặc biệt” của các nhà ngoại cảm được Viện Khoa Học Hình Sự – Bộ Công An, Liên Hiệp Khoa Học Công Nghệ UIA – VUSTA, Trung Tâm Bảo Trợ Văn Hoá Kỹ Thuật Truyền Thống liên kết bảo trợ và xuất bản…
  • Cả nước đều “nhập đồng” hết ráo nhưng đến khi “đồng off” thì chỉ còn trơ trọi vài mạng bị kết án tù thôi. Ông Nguyễn Văn Thúy (và những bạn đồng sự) bị kết án quá nặng chỉ vì họ là nạn nhân của một thời đại nhiễu nhương nên phải gánh tội thay cho mọi người, kể luôn cái ông Thủ Tướng.

Không có cái gì người ta không ăn cắp!

Không có cái gì người ta không ăn cắp!

Song Chi.

VOA

Lâu nay các nhà báo, nhà văn, nhà giáo, nhà xã hội học và cả chính người dân đã lên tiếng cảnh báo khá nhiều về “căn bệnh” vô cảm trong xã hội VN và những hệ quả của nó. Nhưng có những “căn bệnh” trầm kha khác nữa mà sau mấy chục năm sống trong một thể chế chính trị độc tài, lạc hậu và một nền văn hóa, giáo dục ngu dân, chỉ biết chạy theo thành tích như ở VN đã tạo nên; ví dụ như “bệnh” coi trọng hình thức, coi trọng những giá trị ảo, sự độc ác, không tử tế ngày càng lấn lướt, lan tràn trong lúc tính thiện, sự tử tế ngày cảng hiếm hoi…Và nhất là sự thiếu vắng lòng trung thực, thiếu vắng lòng tự trọng.
Nếu như “căn bệnh” vô cảm đã trở nên quá đỗi bình thường, phổ biến trong xã hội từ quan chức, chính khách cho tới người dân thường thì sự sự thiếu vắng lòng trung thực, lòng tự trọng cũng không khá gì hơn.
Một trong những biểu hiện của “căn bệnh” này là thói ăn cắp. Thói quen ăn cắp diễn ra hầu như ở khắp mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực, mọi tầng lớp trong xã hội.
Ăn cắp nhiều có thể lên tới hàng trăm ngàn, hàng triệu USD như các quan to quan nhỏ, mỗi khi đặt bút ký tên dưới một dự án, một hợp đồng nào đó là kê khống, nâng giá thành các hạng mục lên, làm ảo thuật các con số để ăn bớt, “rút ruột” dự án. Gần như đã thành lệ ở VN, không có công trình, dự án, hợp đồng nào mà lại không có phần trăm “hoa hồng”, “lại quả” cho những nhân vật mà nếu không có chữ ký hay ý kiến của họ thì công trình, dự án, hợp đồng đó không thể thông qua được. Trong ngành xây dựng, khai thác, trong mọi cuộc đấu thầu, mua bán, ký kết xuất nhập khẩu, thành lập, khai trương một công ty, cửa hàng, cấp giấy phép ra đời một tòa soạn, một ấn phẩm, một đài truyền hình hay một chương trình phát sóng…Gọi đó là tham nhũng hay ăn cắp cũng không khác gì nhau.
Ăn cắp nhỏ như trộm cướp, trộm cắp vặt…trong xã hội mà cứ mở tờ báo ra, mở TV lên hoặc bước chân ra đường là lại có thể đọc, xem, chứng kiến tận mắt…Nhưng sự đời chua chát là nhiều khi người cùng đinh đi trộm vài con gà con vịt có thể bị kết án như vụ “Lâm Đồng: Vì hai con vịt, ba nông dân bị 13 năm tù!” năm 2008 (báo Pháp luật TP.HCM), có những trường hợp kẻ đi trộm chó bị dân làng phát hiện đánh chết, hay chỉ ăn cắp chưa tới 2.000.000 VNĐ tức chưa tới 100 USD có thể phải bỏ mạng trong đồn công an như cậu bé 17 tuổi Đỗ Đăng Dư ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội, ngày 10.10 khiến dư luận bức xúc, phẫn nộ…
Trong khi đó có những kẻ ăn cắp hàng triệu USD thì vẫn nhởn nhơ!
Sự thiếu vắng lòng trung thực, thiếu vắng lòng tự trọng ấy, như đã nói, dường như chẳng còn bất cứ ngoại lệ nào. Ngay những người làm những công việc mà tiền lương không thấp, và có thể làm ảnh hưởng đến hình ảnh VN với bên ngoài như phi công,tiếp viên hàng không trên những chuyến bay quốc tế. Ví dụ như vụ 5 phi công, nữ tiếp viên Vietnam Airlines mang hàng xách tay có nguồn gốc trộm cắp bị cảnh sát Nhật bắt tháng 3.2014, tháng 7.2015 một phi công Việt của hãng hàng không VNA lại bị cảnh sát Nhật bắt vì tội mua đồ trong cửa hàng rồi quên trả tiền (tức là ăn cắp)…; chưa kể những vụ buôn lậu, vận chuyển hàng hóa, tiền, vàng, đồ công nghệ… trái phép, thậm chí có liên quan đến đường dây rửa tiền và ma túy lớn của các phi công, tiếp viên VNA bị bắt giữ tại các nước như Nhật, Hàn, Úc…từ năm 2008 đến nay. Còn ngay tại sân bay là nơi đầu tiên du khách nước ngoài đặt chân đến VN, người ta cũng không sợ khách sẽ có ấn tượng xấu về đất nước này, dân tộc này, thậm chí ngán ngẩm và không muốn du lịch đến VN nữa khi mà hiện tượng khách hàng bị mất cắp hành lý tại sân bay lớn nhất là Nội Bài và vài sân bay khác trong thời gian qua không còn là chuyện lẻ tẻ nữa. Bài báo “Bộ trưởng Thăng: Mất cắp hành lý ở sân bay là có tổ chức!” (Người Lao Động) viết:
“Trước thực trạng từ năm 2013 đến nay có gần 700 vụ mất cắp hành lý chính thức bị hành khách khiếu nại và ngày càng có xu hướng tăng trong khi không có một camera nào ghi nhận được, chưa một vụ việc nào được đưa ra khởi tố, Bộ trưởng Thăng cho rằng việc mất cắp hàng hóa ở sân bay là có tổ chức, có nghiên cứu, tính toán chứ không phải tình cờ.”
Còn trong lĩnh vực sản phẩm trí tuệ, tinh thần, càng xấu hổ hơn khi hiện tượng ăn cắp cũng đầy dẫy. Trong ngành giáo dục, cứ lâu lâu chúng ta lại nghe thấy một vụ tố “đạo” văn, khi thì “đạo” một bài báo, một bài tiểu luận nghiên cứu, bài luận văn tốt nghiệp Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ, lúc thì “đạo” một đoạn, một phần…trong một cuốn sách nào đó, có khi trò “copy” của thầy, thầy “copy” của trò, đồng nghiệp “đạo” của nhau…Đến mức nhà văn, facebooker Nguyễn Đình Bổn phải viết trong một status:
“Nếu chúng ta đồng thanh lên tiếng!
Vụ “đạo thơ” khi rất nhiều facebooker và sau đó là báo chí cùng lên tiếng, nó có kết quả ngay lập tức.
Nhưng nói thật, thơ đúng là “chuyện nhỏ” trong xã hội VN hiện nay. Ví dụ như VN có trên 24.000 tiến sĩ, nhưng họ đã làm được gì?
Họ có đạo luận văn không? Chắc chắc có!
Vậy tại sao chúng ta không đòi hỏi sự minh bạch ở đây? Ví dụ như tất cả các luận văn của các thạc sĩ, tiến sĩ phải được Bộ giáo dục công bố công khai trên mạng và nếu cần phải so sánh!
Chỉ có công khai thì mới bớt nạn giả mạo!
Đề nghị các ông bà đương chức làm gương, ông bà nào càng nắm chức to thì công bố ngay đi!
Còn nếu đã có công bố bắt buộc thì facebooker nào rảnh lôi ra săm soi cho vui.”…

Trong lĩnh vực sáng tác, không biết bao nhiêu lần chúng ta nghe vụ một nhạc sĩ, nhà thơ, nhà văn, tác giả kịch bản, đạo diễn sân khấu, điện ảnh, truyền hình “tố” bị người khác ăn cắp ý tưởng, hoặc “xào nấu”, thêm thắt, sửa chữa, biến cái của mình thành cái của họ. Còn đối với những người viết kịch bản thì cái chuyện đem đề cương kịch bản, kể cả kịch bản đã hoàn tất đi “chào hàng” một sân khấu, hãng phim, đài truyền hình nào đó, bị họ từ chối không mua nhưng sau đó một thời gian lại thấy một vở kịch, bộ phim nào đó có ý tưởng, cốt truyện na ná giống mình là chuyện không phải ít, thường thì khó mà đòi được cộng bằng lắm, nhất là nếu người đó chưa có tên tuổi.
Có những trường hợp rõ ràng là hai tác phẩm giống nhau như chị em sinh đôi nhưng kẻ cắp vẫn thoát được, hoặc do chức vụ, tên tuổi, quan hệ rộng rãi trong ngành khiến những người khác cũng ngại không muốn đẩy đến cùng, hoặc do phía bên kia không đủ chứng cứ, hoặc nếu lấy của một tác giả nước ngoài thì dễ thoát hơn.
Ngay cả ông Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh cũng đôi lần dính nghi án “đạo” thơ, bài thơ “Hỏi” của ông Hữu Thỉnh được cho là giống như phỏng dịch bài “Thượng đế đã làm ra mặt trời” (Gott schuf die sonne) của nữ thi sĩ Đức Christa Reinig được công bố năm 1964, nhưng cuối cùng ông Hữu Thỉnh vẫn thoát được.
Mới đây nhất là hai vụ lùm xùm về “đạo” thơ, vụ tranh chấp còn chưa ngã ngũ quanh bài thơ “Tổ Quốc gọi tên mình” giữa nhà thơ nữ Nguyễn Phan Quế Mai và một cựu quân nhân tên Ngô Xuân Phúc, và vụ tập thơ “Sẹo độc lập” của nhà thơ nữ Phan Huyền Thư vửa đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội 2015 đã bị dư luận tố “đạo” ý một câu thơ của Du Tử Lê và “đạo” trắng trợn bài thơ của nhà thơ nữ Phan Ngọc Thường Đoan, cuối cùng Ban chấp hành Hội Nhà văn Hà Nội đã quyết định thu hồi giải thưởng của Phan Huyền Thư.
Có hai câu hỏi được đặt ra là tại sao hiện tượng ăn cắp hay “đạo” văn, “đạo” thơ, nhạc… bây giờ lại nhiều thế, và một số những người đó, họ rõ ràng có tên tuổi, chức vụ, thậm chí cũng có tài năng, tại sao họ phải làm như vậy, mà đôi khi lại rất lộ liễu nữa, họ không sợ mất mặt, mất uy tín hay sao.
Rõ ràng trong những xã hội dân chủ phát triển, luật pháp chặt chẽ nghiêm minh, hiện tượng ăn cắp trong mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề không phải không có nhưng ít hơn rất nhiều, trước hết vì người ta biết sợ luật pháp, sợ cái giá phải trả, sự mất mát về tên tuổi, uy tín…Con người lại được giáo dục đàng hoàng, nhìn chung quanh cũng không thấy mấy ai làm như vậy nên không dám liều. Ngay miền Nam trước 1975 dưới chế độ VNCH, hình như chả thấy có vụ “đạo” văn, “đạo” thơ nào.
Còn trong xã hội như xã hội VN bây giờ, chuyện ăn cắp xảy ra ở khắp mọi nơi, mọi tầng lớp, nhà dột từ nóc, thấy người khác địa vị to hơn mình còn ăn cắp kiểu này kiểu khác, rồi được tiền được danh lợi từ đó, đâm ra cũng làm theo với ý nghĩ “Ai cũng vậy riêng gì mình”. Với những sản phâm trí tuệ, tinh thần, thì thường là hậu quả của sự háo danh, ví dụ không có tài nhưng muốn nổi tiếng nên xảo nấu, ăn cắp ý thơ, văn, nhạc của người khác làm của mình; hoặc đã có tiếng, cũng có tài nhưng vẫn ăn cắp vì thói kiêu hãnh, ngạo mạn, coi thường thiên hạ, nghĩ không ai phát hiện ra…Có muôn vàn lý do, nhưng tựu trung vẫn lả hệ quả của một môi trường xã hội mà cái xấu, sự không tử tế quá phổ biến đến đâm nhờn, hệ quả của một nền giáo dục không dạy học sinh làm người nhưng lại dạy cho con người ta quen với sự giả dối từ bé.
Khi mà ngay chính vị lãnh tụ cao nhất của đảng cộng sản vốn được tuyên truyền như thánh còn dính nghi án ăn cắp tập thơ “Nhật ký trong tù” thì còn có cái gì thiêng liêng nữa? Và khi toàn bộ lịch sử đất nước này từ khi có đảng là một lịch sử dối trá và hiện tại đảng, nhà nước vẫn tiếp tục dối trá đủ mọi chuyện thì đỏi hỏi người dân phải trung thực thế nào được?
Mai này đất nước thay đổi, để dạy lại cho con người biết tự trọng, biết trung thực từ đầu có lẽ sẽ phải mất rất nhiều năm, so với vực dậy một nền kinh tế hay xây dựng lại hạ tầng cơ sở xã hội.

Sài Gòn: ‘Ðinh tặc’ lộng hành như chốn rừng xanh

Sài Gòn: ‘Ðinh tặc’ lộng hành như chốn rừng xanh

Nguoi-viet.com

Văn Lang/Người Việt

SÀI GÒN (NV)Ðô thị lớn nhất của Việt Nam đang có ba vấn nạn lớn ai cũng thấy, mà nhiều năm qua vẫn chưa có phương cách hữu hiệu để thay đổi đó là kẹt xe, ngập đường và nạn đinh tặc. Trong 3 vấn nạn này thì nạn rải đinh, gài bẫy người đi đường để kiếm ăn của những tên gian tặc luôn ám ảnh mọi người khi lái xe ra đường.


Một điểm bơm, vá xe ven đường ở Sài Gòn. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Còn nhớ, gần 30 năm trước, báo chí ở Sài Gòn từng rộ lên vụ, một đôi thanh niên nam nữ bị hại vì đinh tặc, trên xa lộ Hà Nội, xưa là xa lộ Biên Hòa.

Buổi chiều muộn, trên xa lộ, xe Honda Dream của đôi trai gái cán phải đinh của bọn đinh tặc rải trên đường. Lúc đó, xa lộ còn vắng vẻ chưa đông như bây giờ. Và xe Honda Dream lúc đó là một loại xe thời thượng nhất, là cả một gia tài, là cả một… giấc mơ, với những em gái ham “xế nổ.”

Khi đôi trai gái tìm được một tiệm sửa xe trên đường để vá, chưa kịp nổ máy chạy thì một toán cướp có súng ập tới. Vì tiếc của, chàng trai chống cự, bị bắn chết tại chỗ. Cô gái bị thương nặng, toán cướp lấy xe tẩu thoát.

Báo chí nhân vụ giết người này đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về tệ nạn đinh tặc đang hoành hành trên các cung đường cửa ngõ vô Sài Gòn.Thậm chí cả trong nội đô Sài Gòn chúng cũng không từ…

30 năm sau, câu chuyện đinh tặc có lẽ đã trở nên khủng khiếp hơn. Lần này trên xa lộ, bọn chúng ngang nhiên rải những loại đinh tự chế hình chữ V, chữ S cỡ lớn. Với mục tiêu nhắm tới không chỉ là xe Honda hai bánh, mà là xe hơi, xe tải lẫn xe container.

Thử tưởng tượng, những chiếc xe tải, xe container chở nặng, chạy nhanh cán phải “bẫy đinh” cỡ bự của bọn đinh tặc, bể bánh, lạc tay lái giữa dòng xe cộ đông đúc trên xa lộ. Hậu quả sẽ như thế nào?

Ngang nhiên lộng hành

Hơn 30 năm dân kêu, báo chí kêu, nhưng tệ nạn đinh tặc lộng hành chỉ có tăng mà không có giảm.

Báo chí từng nêu câu hỏi: “Nếu đinh tặc là những kẻ rải truyền đơn chống chế độ. Thì bao nhiêu năm qua, chính quyền có im lặng, có bất lực như vậy không?”

Ðến nước đó, thì chính chính quyền cũng lên tiếng… kêu.

Theo lời của một trưởng công an phường, thuộc quận 12, kể với báo chí, do người dân thường xuyên khiếu kiện, vì đoạn đường quốc lộ 1A, từ chân cầu vượt ngã tư Ga, qua Thủ Ðức đinh tặc lộng hành. Cá biệt, có người dân kể khổ, một tháng đi trên đường thì hết 15 lần phải thay ruột xe vì cán đinh, 6 lần phải thay cả vỏ lẫn ruột…

Nóng ruột, quận chỉ thị cho công an phường, bằng mọi giá phải bắt cho được bọn đinh tặc đem về “quy án.”

Hơn một năm trời, cả ngày lẫn đêm phường tung lực lượng tuần tra, hóa trang-mật phục, tất cả những ngón đòn nghiệp vụ của công an được tung ra. Cuối cùng cũng chả bắt được con ma đinh tặc nào.

Lại theo lời kể của một toán công an viên thuộc quận 9. Vì khó lòng bắt được đinh tặc, nên phường thường xuyên cho công an đi kiểm tra những điểm sửa xe trên đường. Nếu là dân địa phương thì bắt làm cam kết không rải đinh hại người. Nếu là dân ở nơi khác tới, không rõ lai lịch thì dẹp luôn.

Vì các tiệm vá xe ven đường sống nhờ sự bắt chẹt khách bị cán đinh với giá cắt cổ. Khả năng người hành nghề vá xe và đinh tặc là một, lên tới 99%, nhưng không bắt được quả tang thì không làm gì được họ…

Khi toán công an viên kể trên, đi kiểm tra các điểm vá xe. Họ bị một toán người lạ mặt, hung dữ ở đâu ập tới ngăn cản quyết liệt, không cho kiểm tra…Toán công an viên phải rút về phường.


Nhiều người dân Sài Gòn sợ sửa xe ở ngoài đường bị “chặt,” “chém,” chôm phụ tùng nên đem xe tới đại lý ủy quyền của hãng Honda sửa cho chắc ăn. (Hình: Văn Lang/Người Việt)

Nghe báo chí tường thuật, dân chúng cho rằng đinh tặc đâu phải là thứ “vô ảnh,vô hình” mà đến nỗi không bắt được.

Ngang với ‘khủng bố’

Ngày nay, phương tiện đi lại của người dân Sài Gòn chủ yếu là xe gắn máy 2 bánh. Dù là đi làm ăn hay du hí đây đó, đổi gió vào những ngày cuối tuần, nhưng nói tới đinh tặc thì ai cũng ngao ngán, cực chẳng đã chẳng muốn đi đâu. Vì những ai ở Sài Gòn, ít ra cũng một đôi lần nếm mùi đinh tặc.

Trên những con đường nắng chói chang, xe cộ đông đúc đầy khói bụi. Người bị cán đinh hì hục đẩy xe, ướt đẫm mồ hôi, dáo dác tìm điểm vá xe. Rồi những hôm trời mưa tầm tã, lại những đêm khuya, trời vắng. Ðàn ông còn sợ, huống hồ thân gái dặm trường… Rồi những đường xa mịt mù, lúc phải đi đêm về hôm. Lòng người lúc nào cũng nơm nớp chuyện cán đinh. Có thể nói đinh tặc là một nỗi ám ảnh thường trực với người dân.

Bọn đinh tặc chỉ việc ngồi rung đùi tại những tiệm vá xe trên đường, chờ những con mồi tới nạp mạng. Xe nào đã cán đinh thì đừng mong được vá, lúc mở ruột xe, chỉ một động tác nhà nghề, ruột nào cũng tét, đành phải thay. Nhẹ thì thay ruột đểu, xài vài ngày đã banh, nhưng với giá cắt cổ từ 80 ngàn, tới 90 ngàn đồng. Nặng thì phải thay cả vỏ, với giá từ trên 300 ngàn tới 400 ngàn đồng. Biết là bị làm tiền, nhưng khổ chủ chỉ còn biết ấm ức mở hầu bao, nếu không muốn đẩy bộ xe… mút mùa lệ thủy. Chưa kể tệ nạn trộm, cướp, thậm chí nạn “cướp tình” với những cô gái một thân, đường vắng…

Có những nhóm thanh niên lập ra đội vá xe giúp người bị hại. Hay hơn, họ chế tạo ra xe hút đinh, chạy rà trên đường mỗi ngày. Mất chỗ làm ăn, bọn đinh tặc ngang nhiên chặn đường hoặc gọi điện thoại hăm dọa sẽ “xử đẹp” nếu không dừng việc làm “đổ bể” nồi cơm của bọn chúng.

Kỳ lạ, giữa một thành phố đông người, mà bọn đinh tặc lộng hành chẳng khác nào những toán thổ phỉ trong chốn rừng xanh. Chỉ thương cho những cái chết tức tưởi trên đường.

Như một vụ kia, người chồng dùng xe Honda chở cô vợ trẻ đi sanh. Trên đường đi xe cán phải đinh của bọn đinh tặc, hai vợ chồng té văng xuống đường. Người chồng bị gãy chân, người vợ bị băng huyết, được đưa vô bệnh viện cấp cứu thì thai nhi đã chết…

Luật pháp bó tay

Cuối cùng, sau bao nhiêu ấm ức dồn nén, người dân đi đường trên quốc lộ 1A cũng phát hiện ra một tên đinh tặc với thủ đoạn rất tinh vi. Tên này chở vợ, chạy tà tà trên đường đông, nhưng dấu đinh tự chế dưới dép, lâu lâu lại nhẹ nhàng gạt đinh xuống mặt đường… Người dân lập tức tri hô và cùng nhau đuổi bắt gã đinh tặc giao cho công an.

Bên công an cho báo chí biết,hiện không biết xử tên đinh tặc bị dân bắt quả tang theo điều luật nào. Chỉ có thể quy hắn vào tội “hủy hoại tài sản” của người khác. Nhưng phải chứng minh được tài sản bị hủy hoại giá trị lên tới trên 2 triệu đồng thì mới có thể truy tố, nếu không thì chỉ phạt hành chánh rồi cho về. Dân chúng nghe tin mà cứ tức anh ách.

Gần đây, nhà cầm quyền Sài Gòn có trình lên Quốc Hội một dự luật về đinh tặc. Theo đó, nếu phạm tội lần đầu, tối đa bị phạt 30 triệu đồng và 3 năm tù. Nếu tái phạm (lần 2), thì bị phạt từ 100 triệu tới 500 triệu đồng và 12 năm tù.

Qua câu chuyện chống đinh tặc cho thấy luật Việt Nam vừa thiếu,vừa hở (dĩ nhiên trừ chuyện chống dân chủ). Hơn 30 năm chống đinh tặc lộng hành hại dân mà chỉ ra được có mỗi cái… dự luật.

Tệ hơn nữa, đạo đức suy đồi cùng cực, có những kẻ ác nhơn thất đức tới nỗi coi tính mạng đồng bào như là miếng mồi ngon. Ðể ngang nhiên đặt bẫy trên đường đông người qua kẻ lại, chứ chẳng thèm phải đi vào nơi rừng sâu núi thẳm.

Phim tài liệu Vietnamerica trong mắt khán giả trẻ

Phim tài liệu Vietnamerica trong mắt khán giả trẻ

Vietnamerica là bộ phim tư liệu 90 phút không chỉ dành riêng cho cộng đồng người Việt tị nạn, mà cho tất cả những ai yêu chuộng và khát khao tự do.

Vietnamerica là bộ phim tư liệu 90 phút không chỉ dành riêng cho cộng đồng người Việt tị nạn, mà cho tất cả những ai yêu chuộng và khát khao tự do.

Một bộ phim tài liệu nói về những thuyền nhân Việt Nam vực dậy sau đau thương từ những chuyến vượt biển tìm tự do đầy nghiệt ngã tới những thành tựu rực rỡ đóng góp cho quê hương thứ hai sau 4 thập niên tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ được ra mắt ở thủ đô Washington DC ngày 17/10/15 đánh dấu 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam.

Vietnamerica là bộ phim tư liệu 90 phút không chỉ dành riêng cho cộng đồng người Việt tị nạn, mà cho tất cả những ai yêu chuộng và khát khao tự do.

Một phân đoạn trong phim dài 18 phút được trích ra dự thi các liên hoan phim quốc tế đã dành được một số giải thưởng và được chọn trình chiếu tại 15 buổi liên hoan phim trên thế giới.

Đạo diễn Scott Edwards (phải) và Nhà sản xuất Nancy Bùi tức Triều Giang (phía sau bên phải).
Đạo diễn Scott Edwards (phải) và Nhà sản xuất Nancy Bùi tức Triều Giang (phía sau bên phải).

Bộ phim gợi nhớ biến cố 30/4/75 khiến hơn 2 triệu dân Việt bỏ nước ra đi, tạo nên một trong những làn sóng thuyền nhân lớn nhất và đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại với hàng trăm ngàn người đã bỏ mình trên biển vì bão, vì đói, hay vì hải tặc.

Trong chương trình Tạp chí Thanh Niên VOA hôm nay, 3 khán giả trẻ trong cộng đồng tị nạn chính trị lớn nhất tại Mỹ đã xem qua Vietnamerica khi phim được ra mắt tại thành phố họ sinh sống sẽ chia sẻ với chúng ta những ấn tượng về bộ phim và ý nghĩa của nó đối với lịch sử thuyền nhân Việt Nam cũng như đối với các thế hệ người Việt tị nạn. Trà Mi xin giới thiệu khách mời của chương trình: Thị trưởng Tạ Đức Trí của thành phố Westminister bang California, nơi có đông người Việt sinh sống nhất nhì nước Mỹ; anh John Hùng Vũ hoạt động trong ngành bảo hiểm tại Denver bang Colorado; và chị Christine Quỳnh Nguyễn kinh doanh địa ốc ở Houston bang Texas.

 Chrisine Quỳnh: Ba của Christine là đại úy an ninh quân đội. Khi mất nước, ba bị ở tù 11 năm. Tuổi thơ của Christine không hy vọng, không tương lai. Christine trải qua thời niên thiếu rất khổ cực. Vì thế, khi xem phim Vietnamerica, Christine rất xúc động khi thấy nhiều người phải trải qua giữa cái sống và cái chết vì hai chữ tự do. Cuốn phim này khích lệ tinh thần chúng ta khi nhìn lại tại sao chúng ta có mặt ở đây, chúng ta phải cố gắng thế nào để không hổ thẹn với những người đã đi trước.

Trà Mi: Anh Hùng là một thuyền nhân, anh có nhìn thấy chính mình và người thân của mình qua những phút phim tài liệu này không?

Hùng Vũ: Xem cuốn phim gợi lại quá khứ mình đã đi qua, không biết làm sao diễn tả được vì nó làm sống lại những phút giây đối đầu với tử thần khi mình trên con thuyền nhỏ rời Việt Nam đi tìm tự do.

Trà Mi: So với các phim tài liệu khác về lịch sử cuộc chiến Việt Nam, Vietnamerica có điểm nào đặc biệt nổi bật?

Tạ Đức Trí: Bộ phim này đã lột tả hết tất cả sự hy sinh và cái giá mà các thuyền nhân Việt Nam đã trải qua trên hành trình tìm tự do. Ưu điểm của bộ phim là các nhân vật trong phim không cần phải đóng. Họ đều là những chứng nhân minh chứng cho những kinh nghiệm kinh hoàng. Đây là một bộ phim có thể đánh động được lương tâm của thế giới.

Ông Trần Tú Thanh, một nhân vật trong phim Vietnamerica nói: "Chúng tôi đã mất tất cả. Chúng tôi đã mất nước. Mất tài sản. Mất các thành viên trong gia đình. Và tuổi trẻ của tôi. Tất cả tuổi trẻ của tôi sau 15 năm tù cộng sản."
Ông Trần Tú Thanh, một nhân vật trong phim Vietnamerica nói: “Chúng tôi đã mất tất cả. Chúng tôi đã mất nước. Mất tài sản. Mất các thành viên trong gia đình. Và tuổi trẻ của tôi. Tất cả tuổi trẻ của tôi sau 15 năm tù cộng sản.”

Trà Mi: Người Việt đã trải qua quá nhiều thương đau và nước mắt và một số phụ huynh lưỡng lự không muốn cho thế hệ trẻ thấy những điều tàn khốc ấy qua các bộ phim tài liệu. Là thế hệ trẻ, các anh chị chia sẻ thế nào về điều này?

Tạ Đức Trí: Tôi cũng hiểu suy nghĩ của các phụ huynh. Tuy nhiên, theo thiển ý của tôi, các em nên xem những bộ phim về chính nguồn gốc của mình để hiểu lý do cộng đồng người Việt có mặt và phát triển tại Mỹ cũng như hiểu giá trị của sự tự do mà thế hệ đi trước đã phải trải qua.

Trà Mi: Có ý kiến cho rằng chiến tranh đã chấm dứt 4 thập niên, Việt-Mỹ cũng bình thường hóa quan hệ 20 năm nay thì nhắc nhớ những nỗi đau đó để hận thù dai dẳng có ích lợi gì đâu, hãy để thế hệ trẻ hướng tới chân trời sáng lạng phía trước. Với quan điểm đó, các anh chị có suy nghĩ thế nào?

Tạ Đức Trí: Tuy nhiên, Việt Nam sau 40 năm vẫn chưa có nhân quyền-tự do, các nhà tranh đấu dân chủ trong nước vẫn đang bị đàn áp, bắt bớ. Với chính sách độc tài của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, tập thể người Việt tị nạn tại hải ngoại không thể nào làm ngơ, không quan tâm. Vì vậy, sự ra đời của bộ phim càng làm cho chúng ta quan tâm nhiều hơn về thực trạng tại Việt Nam, cố gắng nhiều hơn nữa để tranh đấu với hy vọng Việt Nam sẽ sớm có tự do-dân chủ trong tương lai.

Trà Mi: Khát vọng nào cũng có cái giá của nó, khát vọng tự do cũng vậy, vì sao phải nêu bật cái giá của tự do. Nếu có một người trẻ nêu câu hỏi này, chị Christine sẽ trả lời thế nào?

Christine Quỳnh: Chúng ta phải đề cao tinh thần bất khuất của người Việt để cho thế hệ mai sau hiểu nguồn gốc sự có mặt của chúng ta ở đây và những giá trị chúng ta có được hôm nay không phải tự nhiên mà có. Chúng ta phải nên trân quý.

Trà Mi: 90 phút phim dĩ nhiên không thể khắc họa lại tất cả những nghiệt ngã, những mất mát đau thương để đánh đổi lấy tự do. Qua lăng kính Vietnamerica, các anh chị thấy những khía cạnh nào đã được soi rọi đầy đủ và những khía cạnh nào cần lột tả thêm để thế hệ sau được nhìn rõ một bức tranh toàn cảnh, trực diện về lịch sử thuyền nhân tị nạn Việt Nam?

Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh chia sẻ câu chuyện trong phim VietnAmerica.
Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh chia sẻ câu chuyện trong phim VietnAmerica.

Hùng Vũ: Bộ phim đã nói lên được khát vọng của con người cần được tự do. Là một thuyền nhân, mình nghĩ nếu cuốn phim có thể nói thêm về hành trình tìm tự do gian khổ, khó khăn như thế nào thì sẽ xác thực hơn ý nghĩa của việc đi tìm tự do.

Trà Mi: Bộ phim ra mắt giữa bối cảnh các mốc kỷ niệm lịch sử và giữa cuộc khủng hoảng người tị nạn trên thế giới. Là một người tị nạn Việt Nam, từ bộ phim này, các anh chị muốn chia sẻ thông điệp gì tới những người tị nạn trên thế giới”?

Tạ Đức Trí: Tất cả người tị nạn đều có khát vọng tìm tự do, mưu cầu hạnh phúc tương lai. Với khát vọng đó, chúng tôi rất hy vọng rằng các quốc gia sẽ chào đón, giúp đỡ người tị nạn. Hai chữ tự do sau thế kỷ 21 này vẫn là một thứ trân quý nhất cho nhân loại. Cũng vì hai chữ tự do mà cộng đồng người Việt tại hải ngoại đã vươn lên hình thành và phát triển.

Trà Mi: Khát vọng tự do cho bản thân và gia đình giờ đã đạt thành, với những người còn đang hướng tới nó, các anh chị có thể làm gì để có thể truyền tiếp khát vọng của họ?

Christine Quỳnh: Ước mong rằng khi thành công ở Mỹ, chúng ta nên truyền bá lại cho con cháu mình có được tinh thần giống thế hệ của chúng ta, lúc nào cũng phấn đấu.

Nhà văn Dương Thu Hương kể lại cuộc sống dưới chế độ cộng sản trong VietnAmerica.
Nhà văn Dương Thu Hương kể lại cuộc sống dưới chế độ cộng sản trong VietnAmerica.

Tạ Đức Trí: Tập thể người Việt hải ngoại chúng ta luôn sẵn sàng hỗ trợ các nhà đấu tranh dân chủ trong nước. Chúng ta hãy tiếp tục chia sẻ những thông tin cần thiết về một chính thể tự do thật sự. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, chúng ta có thể chia sẻ cho đồng bào trong nước về một bộ máy chính trị tự do, dân chủ bầu cử để người dân trong nước hiểu được thế nào là tự do-dân chủ thật sự, giá trị của một nền chính trị dân chủ quan trọng như thế nào để giúp cho quốc gia đó phát triển một cách toàn diện.  Chúng ta thấy nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam sau 40 năm vẫn áp dụng chính sách độc tài , đàn áp tôn giáo, bắt bớ trí thức trẻ. Người trí thức trong nước chưa thể nói lên sự quan tâm của mình về hiện trạng đất nước thì thử hỏi làm sao Việt Nam có thể phát triển một cách toàn diện? Cho nên, chúng tôi rất hy vọng các bạn trẻ trong cộng đồng tại hải ngoại hãy quan  tâm nhiều hơn nữa về tình hình Việt Nam. Sự dấn thân của các bạn là một động lực hỗ trợ thêm cho giới trẻ trong nước. Chúng tôi biết nhiều bạn trẻ trong nước hiện nay cũng rất quan tâm về sự tự do-dân chủ trong nước chưa có và các bạn cũng có khát vọng để thay đổi. Chúng tôi xin đồng hành với các bạn trẻ tại Việt Nam để tranh đấu cho hai chữ tự do.

Trà Mi: Thông điệp về khát vọng tự do đó cũng chính là điểm nhấn của bộ phim tài liệu Vietnamerica mà 3 khán giả trẻ tham gia chương trình hôm nay đã cảm nghiệm và chia sẻ với thính giả đài VOA. Cảm ơn các anh chị rất nhiều.

Là người Việt Nam!

Là người Việt Nam!
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Cách đây khoảng 10 năm, sau một chuyến đi xa, trên đường trở lại California, vợ chồng chúng tôi và hai người bạn đang ngồi chờ đổi máy bay tại phi trường Atlanta, thì bất chợt một ông Việt Nam trung niên, áo vest, thắt cà vạt, tiến về phía ghế ngồi của chúng tôi. Một cách mừng rỡ và vội vã, không kể người trước mặt mình là đàn ông hay đàn bà, quen hay lạ, y thọc tay về phía chúng tôi: – “Các bác là người Việt Nam!” Không đợi câu trả lời, quơ được bàn tay của chúng tôi đưa ra một cách phản xạ, y lắc đấy lắc để.

Phải nói là chúng tôi phản ứng quá chậm hay gần như không có phản ứng gì.

Cho đến lúc người đàn ông lạ mặt này thấy không mấy phấn khởi với cuộc làm quen này, quay lưng đi, chúng tôi vẫn ngồi yên tại chỗ, lặng lẽ và ngao ngán không nói một câu gì. Phải, chúng tôi là người Việt Nam, nhưng cuộc gặp gỡ với một người Việt Nam kỳ này không đem lại điều gì hứng thú cho chúng tôi, qua ngôn ngữ và cách xử thế, chúng tôi thấy có một khoảng cách khá lớn, và cũng là người Việt Nam, nhưng tôi cảm thấy y không giống tôi, ngoài một thứ ngôn ngữ đã khá dị ứng, con người này như đến từ một xứ sở nào khác.

Như thế, ít ra tôi cũng đã hiểu vì sao một người Tàu ở Hồng Kông trước năm 1999 chỉ nhận họ là người Hồng Kông, hay sau 1949, những người Tàu ở Đài Loan, cho rằng mình là người Đài Loan (“Trung Hoa Dân Quốc” hay “Trung Hoa Đài Bắc”) để khỏi nhầm với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Hoa lục địa hay Cộng Sản Trung Hoa). Hẳn không một người Nam Hàn nào thích hiểu lầm họ là người Bắc Hàn (được Việt Nam gọi là Triều Tiên) và trước đây giữa người Đông và người Tây Đức mặc dầu nguồn gốc của họ là người Đức. Người ta không thể phủ nhận nguồn gốc của mình nhưng có thể phủ nhận chính thể đương thời và lựa chọn quốc tịch cho mình.

Chỉ có hai tiếng Bắc Kỳ thôi, và chỉ trong vòng 30 năm, người Việt Nam cũng đã chọn chỗ đứng rõ ràng khi phân biệt ai là Bắc Kỳ cũ, Bắc Kỳ mới, ai là Bắc Kỳ “chín nút” (54), ai là Bắc Kỳ 75! Nếu trong câu chuyện nói, còn có chút gì kỳ thị, thì chúng ta cũng không nên trách, đây không phải là chuyện đoàn kết dân tộc, mà là chuyện văn hóa và chính kiến, nó phát xuất từ những khổ đau và bất hạnh mà con người ta phải gánh chịu, qua những thăng trầm của lịch sử.

Tôi là người Việt Nam, và những ngày còn nhỏ, tôi vẫn thường hãnh diện mình là người Việt Nam, với “bốn nghìn năm văn hiến,” “con Rồng cháu Tiên,” lớn lên trong thời loạn lạc, người chẳng ra người, ta lại được hãnh diện thêm vì quê hương mình “rừng vàng biển bạc,” thủ đô “là đỉnh cao trí tuệ của loài người,” “đánh thắng ba đế quốc sừng sỏ!” “mỗi buổi sáng thức dậy ước mơ mình trở thành một người Việt Nam,” “Việt Nam dân chủ gấp vạn lần các nước Tây phương,” “vị thế Việt Nam tiếp tục được nâng cao trên trường quốc tế!” thì không còn gì để có thể hãnh diện hơn được nữa!

Gom tất cả tinh hoa của người Việt trên thế giới để làm những tác phẩm vĩ đại để ca tụng con người Việt Nam là điều không khó, vì những khuôn mặt thành đạt vẻ vang này ở nước ngoài, sau ngày phải bỏ nước ra đi, chúng ta không chỉ có hàng chục nhân vật đủ làm một tác phẩm mà con số này có thể lên đến hàng trăm, hàng nghìn người. Nhưng nếu tập họp họ lại, xếp hàng ngay ngắn như trong một cuộc “diễu hành,” có một mỹ nhân mặc quốc phục dẫn đầu cầm một tấm bảng lớn mang dòng chữ “Tôi là người Việt Nam” thì điều này quả còn quá nhiều gượng ép.

Đồng ý nguồn gốc họ đều là những người Việt Nam, có người bỏ nước ra đi từ ngày chủ thuyết Cộng Sản đến Việt Nam, nhưng cũng có người sinh ra ở nước ngoài, mỗi người có một cuộc đời, hoàn cảnh, tình cảm và chính kiến khác nhau. Nếu có ai hỏi họ: – “Ông bà là người Việt Nam?” thì câu trả lời sẽ là: – “Phải, tôi là người Việt Nam! Nhưng đó là câu chuyện cách đây 40 năm. Đó là một câu chuyện dài!”

Trong chúng ta, ai cũng có một câu chuyện dài phải được kể lại, hay bây giờ mới được kể lại!

Những nhà tuyên truyền thường nhắc đến tình tự dân tộc, biểu tượng từ một tiếng đàn bầu, một tiếng hò trên sóng nước để gợi cho con người nhớ đến quê hương. Người ta lập lại mãi câu nói “quê hương chỉ một” hay anh em đi xa là “khúc ruột ngàn dặm” và không ngừng kêu gọi một sự trở về tha thiết, – “Nếu đi hết biển thì đến đâu hở mẹ!”- “Đi hết biển thì sẽ trở về làng cũ!” Vì sao con chim phải bay trở lại cái lồng đã giam hãm nó, có khi là cái thòng lọng hay cái cũi nhốt của một con vật. Đó là con người của tự do, có ý thức, không phải chiếc xe lửa chạy lui tới trên đường ray.

Có người đem chuyện người Việt lưu lạc của Kiến Bình Vương Lý Long Tường (1136-1175) là con thứ sáu của vua Lý Anh Tông, đã cùng họ hàng vượt biển Bắc vào đầu thế kỷ thứ 13 vì bị phe cánh Trần Thủ Độ hãm hại, sau đó trôi giạt đến Cao Ly, để nói chuyện người Việt trở về tìm lại nguồn cội. Xin quý vị yên tâm đi, không cần phải nói chuyện đạo lý, nhân nghĩa, Cộng Sản thôn tính miền Nam mới nửa thế kỷ, dòng dõi Lý Long Tường bỏ nguồn cội đã bảy tám thế kỷ này. Thời gian hãy còn quá sớm để cho những người Việt lưu lạc tha phương trở về.

Hình ảnh tìm về cội nguồn hẳn là đã được ca ngợi rất nhiều.

Truyền thống dân gian cho rằng loài cá hồi trở về đúng nơi chúng được sinh ra để đẻ trứng, nhưng cuộc nghiên cứu đã cho thấy hành động quay lại nơi ra đời này đã được thể hiện phụ thuộc vào ký ức khứu giác và thói quen, hẳn không hề có ý nghĩa về cội nguồn. Và trong một câu chuyện khác, hàng năm vào mùa Xuân, những đàn én từ phương Nam đã bay trở về nhà nguyện San Juan Capistrano (California) và về phía Nam Mỹ là để trốn mùa Đông giá rét. Đến mùa nắng ấm, chúng lại bỏ gác chuông nhà thờ để ra đi, không hề có có ý niệm trở về hay qui cố hương.

Nếu câu hỏi đặt cho một người và câu trả lời dành cho một người, nó mang một ý nghĩa khác, nhưng khi chúng ta tập trung họ lại, cố tình hướng dẫn họ thành một đám đông và mở đường, sắp xếp cho họ có chung một câu trả lời theo dụng ý của những nhà đạo diễn, tôi cho đây là điều thiếu đạo lý.

Vả lại, điều dễ thấy rõ, hàng chục người vừa tuyên bố mình là người Việt Nam ở đây đều nằm trong 3 triệu người, bỏ nước ra đi, bằng lý do này hay lý do khác; họ không có nổi một tờ giấy tùy thân hay một “sổ đăng ký hộ khẩu thường trú” của chế độ đương thời, vậy thì họ là ai, người Việt nhưng người Việt nào? Câu trả lời gần như được xếp chung một loại “thấy sang bắt quàng làm họ!” Quơ vào những cái quả thực không phải của mình. Mục đích của người làm phim đã quá rõ ràng. Chẳng qua là khán giả của loại chương trình này quá dễ dãi, họ dễ chấp nhận một cái vui nhỏ, một cái cười cợt dính ngoài môi, để quên đi những điều cốt lõi mà họ đang được mời tham dự, mà nội dung đã được tính toán, có dụng ý chính trị, của ông chủ chi tiền.

Phải chăng trong không khí rộn ràng của màu sắc, âm nhạc, da thịt, phấn son, ít ra trong một thời gian ngắn người ta quên được những khuôn mặt Việt Nam cần phải được cởi áo che tại Nhật, hàng nghìn khuôn mặt phụ nữ khổ đau xấu hổ không dám nhìn ai trên quê hương nhầy nhụa hôm nay.

Rõ ràng là chế độ tham lam, ham muốn chạy theo những thành công nhất thời của mỗi con người không phải trong xã hội của mình để áp đặt hai chữ Việt Nam, mà không chịu xây dựng được một con người tử tế ngay trong xã hội của mình.

Chúng ta hãy nghe phát biểu của ông Lê Kiên Thành, con trai ông Lê Duẫn, cố bí thư thứ nhất đảng CSVN, trên vietnam.net trong vài ngày gần đây: “…tôi cứ băn khoăn mãi. Hôm trước mở báo ra tôi cứ bị ám ảnh hình ảnh hai ông già đi ăn trộm gà bị bắt, bị đánh hộc máu mồm ra, rồi bắt ngậm con gà chết. Tôi cứ bàng hoàng, tự hỏi: ‘Chẳng lẽ đây là người Việt Nam chúng ta?’”

Vai trò phụ nữ Việt Nam trong tiến trình dân chủ hóa đất nước

Vai trò phụ nữ Việt Nam trong tiến trình dân chủ hóa đất nước

Luật Sư Đào Tăng Dực

RFA

timthumb1-305

Các vận động viên và thành viên của nhóm “Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam”.

Courtesy vnwhr.net
 

Sự hiện diện đông đảo các nữ anh hùng

Khi so sánh cùng giới đấu tranh Trung Quốc với những nhân vật đối kháng đại đa số thuộc nam giới, thì điểm nổi bật của phong trào tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền của dân tộc Việt Nam là sự hiện diện đông đảo của những anh thư hào kiệt như Phạm Thanh Nghiên, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Phương Uyên, Tạ Phong Tần, Đỗ Thị Minh Hạnh, cụ Bà Lê Hiền Đức…

Trong khi đó, từ thuở khai sinh nhân loại, người phụ nữ luôn lại là một giai cấp bị đối xử thiếu công bằng. Nếu chúng ta nhìn xuyên lịch sử từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á đến Phi Châu, người phụ nữ thông thường chỉ là công dân hạng nhì, trong xã hội do đàn ông ngự trị, thuộc xã hội truyền thống.

Theo quan điểm của cá nhân tôi, một chính quyền Việt Nam hậu cộng sản, sau khi đã xây dựng một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên cho đất nước, nếu không giải quyết được vấn nạn bạo hành trong gia đình (family and domestic violence), trong đó đa số các nạn nhân là phụ nữ, thì chính quyền đó vẫn chưa xứng đáng là một chính quyền của dân, do dân và vì dân (government of the people, by the people and for the people).

Nếu chúng ta phân tích thêm về nguyên nhân của bất công này, sẽ có hai nguyên nhân chính nổi bật xuyên suốt lịch sử: đó là chiến tranh và tôn giáo. Dĩ nhiên còn nhiều nguyên nhân khác không thể nói hết.

Chiến tranh, nhất là chiến tranh cổ điển, luôn luôn đem lợi thế về cho nam giới. Khi xã hội loài người còn đơn sơ chưa phát triển, chiến tranh căn cứ trên sức mạnh của bắp thịt. Chính vì thế giới nữ thường chịu lép vế, nương tựa vào sự bảo vệ của giới nam và chấp nhận những việc làm phụ thuộc tại hậu cần. Khi kỹ thuật chiến tranh tiến bộ hơn, với những phát triển khoa học về vũ khí có hỏa lực và tầm sát thương cao, vai trò của nam giới vẫn nổi bật, mặc dầu có sự tham gia nhiều hơn của các nữ quân nhân (Do thái là một ví dụ điển hình nhất cho vao trò của các nữ quân nhân). Tuy nhiên vẫn thua xa nam giới. Lý do là vì nhiều người tin rằng, trong DNA của nam giới, bản năng sát thương và sát địch mạnh hơn nữ giới. Chính vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng, chiến tranh là một trong nhiều nguyên nhân củng cố cho vai trò vượt trội của nam giới, trong tương tranh quyền lực giữa hai phái tính.

Thuở xưa, phụ nữ thường trở thành những vật hy sinh, vật tế thần hoặc trở thành chiến lợi phẩm của kẻ chiến thắng.

Thời bình cũng bất công

Trong thời chiến, bất công cho nữ giới là như thế. Câu hỏi là, trong thời thái bình thịnh trị, thì nữ giới có được đối xử công bằng hơn hay không?

Theo tôi nghĩ câu trả lời không những là không, mà còn tệ hại hơn nữa.

Đáng ngạc nhiên hơn hết là lý do người nữ bị đối xử bất công nằm nơi các định chế tôn giáo. Nơi đây, tôi xin nhấn mạnh sự khác biệt giữa tôn giáo (religions) và các định chế tôn giáo (religious institutions).

timthumb-250
Các vận động viên và thành viên của nhóm “Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam”. Courtesy vnwhr.net

Tôn giáo là nội dung lời dạy của các đấng giáo chủ khai giáo như (theo thứ tự thời gian): Bà La Môn (Ấn Độ Giáo), Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Phật Giáo), Đức Lão Tử (Đạo Giáo), Đức Khổng Phu Tử (Nho Giáo), Đức Chúa Giê Su (Thiên Chúa Giáo), Đức Mahomet (Hồi Giáo), Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ (Phật Giáo Hòa Hảo) , Đức Ngô Văn Chiêu (Cao Đài Giáo) …thông thường là những lời dạy cao cả và công bằng.

Các định chế tôn giáo trái lại, là các cấu trúc quyền lực, do những người bình thường tạo ra hầu đoàn ngũ hóa và hệ thống hóa các tôn giáo. Các định chế này đôi khi có rất nhiều khuyết điểm. Tùy theo bản chất từng tôn giáo, và hoàn cảnh xã hội sở tại, các định chế tôn giáo có sức mạnh và ảnh hưởng khác nhau. Khi duyệt xét lịch sử, chúng ta nhận thấy các định chế tôn giáo sau đây nhiều quyền lực nhất: Giai Cấp Giáo Sỹ Bà La Môn, Tòa Thánh Công Giáo La Mã tại Âu Châu, Giáo hội Chính Thống Giáo tại Nga, Giai cấp Tống Nho tại Trung Hoa và các nước Đông Á, Giai cấp Giáo Sỹ Hồi Giáo tại Iran và một số quốc gia Hồi Giáo.

Một trong những bất công mà nữ giới phải chịu là: không những các vị giáo chủ đều là nam giới, mà quan trọng hơn hết là các định chế quyền lực, còn tồn tại lâu đời sau khi các giáo chủ đã ra đi, đều do nam giới thống lĩnh.

Hậu quả là các định chế ấy không những trực tiếp có những chính sách tôn giáo trói buộc người phụ nữ, mà còn ảnh hưởng đến xã hội dân sự và chính quyền. Hậu quả là toàn bộ các chính sách quốc gia và toàn bộ nền văn hóa của quốc gia sở tại, thiên vị cho nam giới.

Những câu châm ngôn sau đây của Nho Giáo, lưu truyền hàng ngàn năm trong nền văn hóa Đông Á, tiêu biểu cho sự bất công đó:

“Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.

Đại ý nói rằng, người phụ nữ trước khi lấy chồng thì phải nghe lời cha (không phải mẹ). Khi lấy chồng phải nghe lời chồng (không được cãi) và tệ hơn hết là khi chồng chết phải nghe lời con trai (không phải ngược lại hoặc nghe lời con gái).

Hoặc:

“Lấy chồng theo chồng; lấy gà theo gà, lấy chó theo chó”, không có quyền phê phán hành vi của chồng hoặc ly dị ly thân nếu người chồng không xứng đáng.

Tất cả những giáo điều trên, đều là những giáo điều có tính ý thức hệ, cùng một bản chất hạn hẹp và phi lý, như ý thức hệ giáo đều Mác-Lê mà CSVN đang tôn sùng.

Chính vì thế, giới nữ, vốn chịu nhiều bất công, có nhu cầu làm cách mạng cao hơn nam giới.

Khi nữ giới tham gia cuộc đấu tranh giải trừ cộng sản, vai trò của họ không dừng tại nơi đây. Vai trò của nữ giới không những là lật đổ bạo quyền, mà còn xây dựng một trật tự xã hội mới hoàn toàn khai phóng trên phương diện tư tưởng. Châm ngôn của những phụ nữ tranh đấu ngày hôm nay phải là câu tuyên ngôn bất hủ của tư tưởng gia người Pháp Raymond Aron:

“Ý thức hệ giáo điều cần phải triệt tiêu, hầu cho tư tưởng được tái sinh”

Thật vậy, ý thức hệ giáo điều Tống Nho đã tiêu diệt tư tưởng tự do của con người Đông Á, giam hãm sự sáng tạo (creativity) và nữ giới (womenfolk) trong sự cùm kẹp của giáo điều ngu muội, làm chậm bước tiến của nhiều dân tộc Đông Á, cho đến khi rơi vào vòng nô lệ và sự chinh phục của các đế quốc tây phương.

Chiều cao của một dân tộc lệ thuộc vào phẩm chất của những tư tưởng luân lưu trong nền văn hóa dân tộc đó. Một nền văn hóa lệ thuộc vào những ý thức hệ giáo điều kém cỏi như Tống Nho, và sau đó, lệ thuộc vào những ý thức hệ giáo điều càng kém cỏi hơn nữa như Mác-Lê, là một nền văn hóa với những tư tưởng tồi tệ nhất của nhân loại. Dân tộc Việt kém cỏi và chịu nhiều nỗi nhục nhằn ngày hôm nay, là vì Ý thức hệ giáo điều Mác- Lê đã thổi vào nền văn hóa chúng ta những tư tưởng thấp hèn nhất của nhân loại.

Trách nhiệm của người phụ nữ Việt Nam là đứng lên, đạp đổ bạo quyền CSVN. Và cùng một lược với tác động cách mạng này, dùng chút oai thừa, xóa tan những tàn tích của giáo điều Tống Nho oan khiên, đã giam hãm tâm thức và sự sáng tạo của nữ giới trong nhiều thế kỷ.

Ý thức được như thế, người phụ nữ Việt Nam mới nhận ra vị trí chiến lược của mình, trong tiến trình dân chủ hóa đất nước. Lý tưởng của người phụ nữ Việt Nam không những chỉ là xây dựng một chế độ chính trị dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên, mà phải đi xa hơn nữa, đó là gạn lọc những cặn bã của nền văn hóa truyền thống, khai sáng một kỷ nguyên văn hóa hoàn toàn khai phóng, phi ý thức hệ giáo điều trong đó, tư tưởng được tuyệt đối thăng hoa.

Cuộc cách mạng kỹ nghệ đã giúp người phụ nữ Tây Phương đạt nhiều thành quả trong công cuộc tranh đấu cho phụ nữ quyền. Tiến trình dân chủ hóa đất nước chắc chắn sẽ đưa đến một cuộc cách mạng kỹ nghệ, kinh tế và xã hội tại Việt Nam, hầu bắt kịp các quốc khác trong cộng đồng nhân loại.

Có nhiều dấu hiệu cho thấy, phụ nữ Việt Nam đã nhập cuộc đông đảo. Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Phương Uyên, Cụ Bà Lê Hiền Đức, Huỳnh Thục Vy, các chị em trong Hội Phụ Nữ Âu Cơ ..là những nữ lưu hào kiệt, đội trời đạp đất. Chắc chắn các chị đang và sẽ là những lãnh đạo xứng đáng, trong thời điểm lịch sử này của dân tộc và trong số họ sẽ có những lãnh đạo tương lai của một nước Việt Nam dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên hậu cộng sản.

Bài Nguyên thủy viết cho Đặc San Hội Phụ Nữ Âu Cơ.