Bỏ môn học Lịch sử, một âm mưu “đốt gia phả” của dân tộc?
Bỏ môn học Lịch sử, một âm mưu “đốt gia phả” của dân tộc?
Trước thông tin Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể của Bộ GD&ĐT dự kiến sẽ tích hợp môn Lịch sử với môn giáo dục công dân và an ninh quốc phòng thành môn mới là công dân với Tổ quốc. Điều này đã gây ra những phản ứng gay gắt của dư luận xã hội, đặc biệt là giới trí thức. Vì hầu hết mọi người đều cho rằng, Lịch sử là môn học rất quan trọng và cần phải được dành vị trí xứng đáng trong chương trình giáo dục hiện nay.
Tuy vậy, giải thích với báo chí ông Nguyễn Vinh Hiển, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng, thông tin nêu trên chưa đầy đủ và chưa phản ánh đúng bản chất việc đổi mới giáo dục lịch sử trong chương trình phổ thông. Vì theo ông Nguyễn Vinh Hiển thì, ở bậc tiểu học môn Lịch sử vẫn học giống như hiện nay, nhưng kiến thức lịch sử sẽ nằm trong một số môn học khác trong môn Tìm hiểu xã hội. Còn bậc trung học cơ sở, thì môn Lịch sử được tích hợp với Địa lý thành môn Khoa học xã hội và ở bậc trung học phổ thông, môn Lịch sử tiếp tục tích hợp với Địa lý thành môn Khoa học xã hội. Không chỉ thế, môn Lịch sử sẽ được tích hợp trong hai môn học bắt buộc, đó là môn Giáo dục công dân & Giáo dục quốc phòng và môn Công dân với Tổ quốc. Với mục đích để giáo dục học sinh về truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nghệ thuật quân sự của cha ông.
Phản ứng của dư luận
Nhà sử học Dương Trung Quốc cũng vô cùng ngạc nhiên khi Bộ GD-ĐT không hề tham khảo ý kiến của Hội khoa học Lịch sử Việt Nam khi xây dựng đề án này. Theo ông Dương Trung Quốc trong bối cảnh tình hình đất nước, láng giềng, khu vực và quốc tế diễn biến phức tạp như hiện nay cho thấy vấn đề chủ quyền, hội nhập là rất hệ trọng. Vì thế, hơn bao giờ hết, chúng ta không thể lãng quên lịch sử, đánh mất mình. Do vậy, nếu muốn thay đổi thì cần làm hết sức cẩn trọng, không thể làm đơn giản như cách đặt vấn đề của Bộ GD&ĐT vừa qua.
Theo VTC News cho biết, tại Hội thảo khoa học “Môn Lịch sử trong giáo dục phổ thông” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức ngày 15/11, nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng môn Lịch sử được tích hợp trong môn Khoa học xã hội và Công dân với Tổ quốc ở cấp trung học phổ thông (THPT) là không thỏa đáng và thiếu cơ sở khoa học và sẽ khiến học sinh càng quay lưng với môn Lịch sử.
Được biết trong cuộc hội thảo này, khi nói về tầm quan trọng của bộ môn Lịch sử GS. Phan Huy Lê thấy rằng lịch sử là cội nguồn sức sống của dân tộc Việt Nam và nếu không có sự kế thừa những truyền thống của dân tộc thì làm sao những thế hệ hiện tại có thể viết tiếp những trang sử, xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay và mai sau. Theo ông, cách làm của Bộ GD&ĐTsẽ “khai tử” môn Lịch sử trên thực tế.
Không chỉ thế, Thượng tướng, PGS, TS Võ Tiến Trung, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Quốc phòng khẳng định không thể đưa môn Lịch sử tích hợp với môn Giáo dục Quốc phòng. Vì theo ông Trung tích hợp môn Giáo dục Quốc phòng – An ninh với các môn học khác trong cấp THPT là trái với quy định pháp luật của nước ta. Đồng thời, Giáo dục Quốc phòng – An ninh là môn học đặc thù cả về nội dung, phương pháp và hình thức, hơn 80% bài giảng mang tính trang bị kiến thức, kỹ năng thiết yếu để bảo vệ Tổ quốc, do vậy không thể tích hợp với môn học khác.
Ngày 16/11/2015, tại phiên chất vấn Chính phủ tại Quốc hội Đại biểu Lê Văn Lai (tỉnh Quảng Nam) cho rằng sai lầm về phương pháp sẽ dẫn tới sai lầm về kiến thức, nhất là kiến thức lịch sử trong thế hệ trẻ và sẽ không có chỗ cho sự khắc phục hoặc thiếu kinh nghiệm. Theo ông Lai thì cho rằng những vấn đề tưởng như nhỏ, nhưng thực chất lại không nhỏ, đã làm ảnh hưởng rất lớn đến các chủ thể liên quan. Đại biểu Lê Văn Lai khẳng định: “Theo tôi, bất cứ sự phá vỡ lớn nào cũng có nguyên nhân từ sự phá vỡ hệ thống. Chứng minh cho nhận định này là vấn đề tôi vừa chất vấn thầy Bộ trưởng về cách dạy môn Lịch sử. Vì đơn giản hóa vấn đề, chỉ chú trọng tới giấc mơ tích hợp mà quên mất hệ lụy khác”.
Chủ quyền HS-TS không được đưa vào giáo khoa Lịch sử
Theo báo Người Đô thị, tại Hội thảo môn sử trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức ngày 15.11 tại Hà Nội, GS-TS Nguyễn Quang Ngọc, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, cho biết cách đây hơn chục năm, khi được tham gia viết sách giáo khoa, ông đã tha thiết đề nghị phải đưa lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa vào sách giáo khoa lịch sử phổ thông nhưng không được chấp nhận. Theo GS Ngọc, chỉ duy nhất trong sách giáo khoa lịch sử 10 (nâng cao) có một câu: “Kỹ thuật vẽ bản đồ cũng đạt được những thành tựu mới, trong đó đặc biệt là “Đại Nam nhất thống toàn đồ” được vẽ vào cuối thời Minh Mạng đã thể hiện tương đối chính xác hình ảnh nước Đại Nam thống nhất, bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngoài Biển Đông”. Mà theo ông, đấy dường như cũng là câu duy nhất nói đến chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa trong toàn bộ bộ sách giáo khoa lịch sử phổ thông (cả chương trình chung và chương trình nâng cao) tính cho đến thời điểm này.
Cũng theo GS-TS Nguyễn Quang Ngọc cho biết, Hội Khoa học lịch sử đã nhiều lần đề nghị phải đưa lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa vào trong chương trình sách giáo khoa lịch sử phổ thông nhưng từ năm 2012 cho đến nay sách giáo khoa lịch sử phổ thông vẫn giữ nguyên như cũ, chưa có thêm một dòng một chữ nào về lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa và nội dung giáo dục chủ quyền biển đảo trong sách giáo khoa lịch sử phổ thông cho đến thời điểm hiện tại vẫn đang còn là con số không tròn trĩnh.
Theo GS Ngọc, trong SGK lịch sử có bảy bản lược đồ nói về lịch sử chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng cả bảy bản lược đồ này đều được hoàn thành từ lần xuất bản đầu tiên, không phải là bổ sung mới và không có bất cứ một lược đồ nào trực tiếp trình bày chủ quyền của Việt Nam trên biển Đông hay các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Điều đáng nói là, vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng sa (đã bị Trung quốc cưỡng chiếm toàn bộ) và Trường sa thuộc chủ quyền của Việt nam đã bị chính phía Hà nội làm ngơ, việc không đưa lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa vào trong chương trình sách giáo khoa lịch sử phổ thông là bằng chứng cho thấy điều đó. Đây là hành động gián tiếp không thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của quốc gia, điều đó cho thấy chính quyền hiện nay đã “vô tình” tiếp tay cho giặc.
Cũng cần phải nhắc lại, vừa qua theo báo cáo của Ban Dân nguyện của Quốc hội thì cử tri của 28 tỉnh, thành phố đã kiến nghị và yêu cầu nhà nước tiến hành khởi kiện Trung quốc về chủ quyền của Việt nam đối với hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa.
Có hay không một âm mưu “đốt gia phả” của Dân tộc?
Lịch sử của dân tộc Việt nam với hơn 4.000 năm lịch sử luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước, đó là những trang sử hào hùng của dân tộc với các chiến công đánh bại các cuộc xâm lăng của các thế lực bành trướng Trung Hoa. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi toàn bộ nền kinh tế và kể cả chính trị của Việt nam đã và đang gắn chặt vào Trung quốc và họ bị thao túng. Không chỉ thế, Trung quốc ngày càng tỏ ra lấn lướt và áp đảo Việt nam trong vấn đề chủ quyền trên các hòn đảo hay bãi đá ngầm trên Biển Đông. Thậm chí họ không ngần ngại khi tuyên bố rằng toàn bộ chủ quyền hai Quần đảo Hoàng sa và Trường sa thuộc về Trung quốc từ thời cổ đại. Bên cạnh đó là các hành động cấm cản và đánh đập ngư dân Việt nam trong quá trình đánh bắt cá trên vùng biển truyền thống của mình. Vậy mà chính quyền Việt nam không dám ho he phản đối đích danh Trung quốc, chỉ dám gọi tên “tàu lạ” hay “nước lạ”, dù rằng đén nay có khá hơn đôi chút song vẫn không dám khởi kiện Trung quốc ra Tòa án Quốc tế như Philippine đã làm và thu được kết quả ban đầu.
Thông qua chủ trương tích hợp môn học Lịch sử đã cho thấy, đây là một chủ trương từ âm mưu của lãnh đạo cấp cao nhất của ban lãnh đạo Việt nam, núp dưới danh nghĩa Nghị quyết Số: 29-NQ/TW “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường”. Chứ cái đó có lẽ không phải là ý kiến đơn thuần của lãnh đạo Bộ GD&ĐT. Điều đó chứng tỏ ban lãnh đạo Việt nam đang bị một thế lực vô hình nào đấy ép buộc với mong muốn bức tử và thậm chí muốn xóa sổ lịch sử của dân tộc Việt nam ra khỏi chương trình giáo dục phổ thông hiện nay. Đồng nghĩa với việc họ muốn xóa bỏ truyền thống đánh giặc phương Bắc của ông cha ta trong quá khứ, điều được coi là mối nhục của thế lực bành trướng phương Bắc ngàn đời đã không xóa sạch được.
Điều này được chứng minh qua nhận định của GS.NGND Vũ Dương Ninh (ĐH Quốc gia Hà Nội), khi cho rằng: “Không phải đến thời điểm này mà một vài thập kỷ qua, môn Sử đã bị đối xử thiếu công bằng”. Mà theo GS. Ninh thì đây là những việc làm có tính toán kỹ càng và chủ đích. Theo đó, ban đầu vì lý do giảm tải, nên môn Lịch sử không còn được coi là môn thi chính thức trong chương trình thi tốt nghiệp phổ thông. Sau là tới, việc cho học sinh được phép lựa chọn thi ngoại ngữ hoặc môn Sử. Chưa hết, đến nay môn học Lịch sử lại được dạy tích hợp với các môn khác và kết quả cuối cùng thì môn Lịch sử đã dần biến mất khỏi chương trình giáo dục phổ thông. Dù rằng môn Lịch sử là một ngành khoa học có chức năng riêng biệt và vô cùng quan trọng. Theo ông, đây là điều hết sức đau xót.
Câu hỏi “Có hay không một âm mưu “đốt gia phả”?”, nghĩa là có hay không một âm mưu nhằm xóa bỏ lịch sử của dân tộc Việt nam? Đây là một câu hỏi hoàn toàn nghiêm túc, không mang tính chất cảm tính nhằm khiêu khích để kích động tinh thần chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Mà đây là điều có thật, đã và đang diễn ra một cách ráo riết hầu như để phục vụ cho một kế hoạch nào đó, sẽ diễn ra vào năm 2020 trong quan hệ Việt – Trung, mà lâu nay dư luận đang đồn thổi và nghi ngờ.
Bên lề hành lang Quốc hội, trả lời phỏng vấn báo chí nhà sử học Dương Trung Quốc đã góp ý rằng Bộ GD-ĐT cần hết sức thận trọng, nhưng theo ông dường như những người đưa ra ý tưởng và triển khai sự đổi mới này đang ấp ủ một âm mưu nào đó không rõ ràng. Vị Đại biểu Quốc hội này khẳng định: “Bộ GD-ĐT luôn lập luận không bỏ môn lịch sử nhưng theo tôi, đó chỉ là cách nói và đã khiến chúng tôi rất nghi ngờ”.
Cho dù, Đại biểu Quốc hội – nhà sử học Dương Trung Quốc không nói rõ ông nghi ngờ cái gì, vì ở thế của ông cũng không được phép nói ra một cách huỵch toẹt, nhưng ai cũng hiểu Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc muốn cảnh báo điều gì đối với dư luận xã hội?
Kết:
Nhiều người cho rằng, bỏ xem thường hoặc bỏ môn Lịch sử là tự chúng ta quay lưng với quá khứ, quay lưng với những kết quả mà cha ông ta đã dày công để xây dựng bờ cõi nước Việt Nam từ ngàn xưa đến hôm nay. Bạn nghĩ thế nào khi mà các chiến thắng lẫy lừng như Bạch Đằng giang, Chi lăng, Đồng đa… của cha ông chúng ta trước giặc bành trướng phương Bắc sẽ bị rơi vào quên lãng? Vậy mà có kẻ đang muốn tìm cách vứt bỏ những kỳ tích đó đi, họ muốn xóa bỏ quá khứ, thông qua việc xóa sổ môn học Lịch sử và coi vấn đề lịch sử của dân tộc Việt nam không có giá trị.
Trong một thời gian dài, nhà nước Việt nam luôn phát động và tổ chức các cuộc vận động họ tập theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, song có lẽ họ quên rằng ngay từ năm 1942, lúc cách mạng Việt nam còn trong trứng nước, khi nước nhà chưa được độc lập, cũng là khi ông Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông đang còn hoạt động trong bóng tối. Tuy vậy, vào lúc đó ông Hồ Chí Minh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy và học môn Lịch sử và coi đó là trách nhiệm của mỗi người công dân nước Nam. Ông đã từng viết trên Báo Việt Nam độc lập số 117, ngày 1-2-1942 rằng “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước tiếng để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn.” – (Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia 2002).
Xin được trích lại, với hy vọng những người có trách nhiệm mở to mắt ra mà nhìn cái họa sắp đến của dân tộc Việt nam.
Ngày 18/11/2015
© Kami
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam công bố 3 người đoạt giải 2015
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam công bố 3 người đoạt giải 2015
Nguoi-viet.com
GARDEN GROVE, California (NV) – Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam vừa công bố sẽ trao giải nhân quyền năm 2015 cho ba cá nhân đang sống và hoạt động trong nước, tại một cuộc họp báo ở Thư Viện Việt Nam, Garden Grove, hôm Thứ Bảy, 14 Tháng Mười Một.
Ba nhân vật được chọn trao giải năm nay là Hòa Thượng Thích Không Tánh, bà Hồ Thị Bích Khương, và bà Bùi Thị Minh Hằng.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam công bố 3 người đoạt giải 2015
Ðại diện Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam tại cuộc họp báo, từ trái, ông Ðỗ Như Ðiện, ông Nguyễn Bá Tùng, ông Ðoàn Thanh Liêm, và ông Lê Minh Nguyên. (Hình: Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cung cấp) |
Ban tổ chức cho biết, ba nhân vật này được Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam chọn từ một danh sách có 25 người được đề cử.
Theo Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam, Hòa Thượng Thích Không Tánh, tục danh Phan Ngọc Ấn, trụ trì chùa Liên Trì, quận 2, Sài Gòn, hiện đảm nhiệm chức vụ phó viện trưởng Hội Ðồng Ðiều Hành Tăng Ðoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, kiêm tổng ủy viên Từ Thiện-Xã Hội. Hòa thượng cũng là một trong những thành viên sáng lập Hội Ðồng Liên Tôn Việt Nam.
Là một tu sĩ luôn quan tâm đấu tranh cho nhân quyền, và đặc biệt là quyền tự do tôn giáo, Hòa Thượng Thích Không Tánh đã bị chính quyền CSVN liên tục đàn áp và trả thù.
Năm 1976, hòa thượng bị bắt đi tù cải tạo 10 năm vì đã can đảm gửi thư đến thủ tướng chính quyền Cộng Sản phản đối việc hủy bỏ quyết định miễn nghĩa vụ quân sự cho các tăng sĩ, vốn đã có từ thời chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Tháng Mười, 1992, hòa thượng lại bị kết án 5 năm tù giam và 5 năm quản chế với cáo buộc “lưu hành nhiều tài liệu có nội dung chống lại nhà nước” sau khi công an lục soát phòng của hòa thượng trong chùa Liên Trì và tịch thu bản sao nhiều ghi chép của Hòa Thượng Thích Huyền Quang.
Ðược trả tự do trước thời hạn vào Tháng Mười, 1993, hòa thượng vẫn tiếp tục các hoạt động phục vụ nhân quyền và xã hội.
Tháng Mười Một, 1994, hòa thượng lại bị công an bắt giữ khi đang quyên góp và phân phát vật phẩm cứu trợ cho nạn nhân lũ lụt miền Tây.
Ðến Tháng Tám, 1995, Hòa Thượng Thích Không Tánh và Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ bị tòa án xử phạt mỗi người 5 năm tù với cáo buộc “phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước.”
Trong nhiều năm qua, hòa thượng vẫn tiếp tục tổ chức nhiều hoạt động từ thiện, như tặng quà cho thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, cho bệnh nhi ung thư, cứu trợ các gia đình thuyền nhân bị cưỡng bách hồi hương, v.v… cũng như giúp đỡ cho các tổ chức xã hội dân sự trong nước có nơi sinh hoạt, hội họp, để đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền.
Những nỗ lực nối kết liên tôn của hòa thượng đã tạo nên một nguồn sinh khí mới trong cuộc đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo hiện nay. Vì những hoạt động này mà rất nhiều lần hòa thượng bị công an và chính quyền sách nhiễu, thậm chí hiện nay họ đang âm mưu cưỡng chế để thu hồi mảnh đất nơi ngôi chùa tọa lạc, nhưng hòa thượng vẫn kiên cường tranh đấu, không hề nao núng, hoặc chùn bước.
Bà Hồ Thị Bích Khương là một dân oan hai lần bị chính quyền địa phương cướp đất, phá nhà, và cơ sở làm ăn (năm 1989 và năm 1996), theo Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam.
Bà từng đi khiếu kiện một cách vô vọng nhiều năm. Do hoàn cảnh khó khăn, bà phải xin đi “xuất khẩu lao động” ở Nam Hàn. Tại đây, trước cảnh các bạn công nhân bị áp bức và bóc lột, bà đã vận động đồng nghiệp đứng lên đấu tranh với chủ và bị chủ thù ghét, đối xử tàn tệ. Bà khiếu nại với văn phòng đại diện Việt Nam tại đây, nhưng họ lại thông đồng với chủ và yêu cầu cảnh sát cưỡng bức bà về nước.
Về lại Việt Nam vào năm 1999, bà tích cực tham gia các cuộc biểu tình của dân oan từ các địa phương tập trung về Hà Nội để đòi lại đất, chống tham nhũng, và đòi chính quyền thực thi nhân quyền và dân quyền.
Ngày 11 Tháng Năm, 2005, bà bị công an bắt và giam tại Hỏa Lò và truy tố ra tòa. Tại phiên tòa, bà đã khẳng khái phản bác hội đồng xét xử.
Bà được trả tự do ngày 11 Tháng Mười Một, 2005, và đến năm sau bà lại tham gia Khối 8406.
Là một thành viên tích cực của khối, bà đã viết khoảng 30 bài có nội dung phản kháng chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản. Bà còn in ấn nhiều tài liệu về dân chủ đem phân phát cho đồng bào nhằm nâng cao nhận thức và lôi cuốn họ vào phong trào đấu tranh. Ngoài ra, bà cũng đã giúp nhiều dân oan viết đơn khiếu nại gửi tới nhà cầm quyền hay đưa lên mạng.
Ngày 26 Tháng Năm, 2007, bà bị công an bắt tại thị trấn Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An. Trong thời gian bị giam, bà bị tra tấn rất tàn bạo, nhưng vẫn giữ vững khí tiết và tinh thần can trường hiếm thấy ở một người phụ nữ bình thường. Cuộc tranh đấu kiên cường trong lao tù đó đã được bà ghi lại trong tập hồi ký có tựa đề: “Bước đường đấu tranh cho công lý và dân chủ của tôi.”
Sau khi ra tù lần thứ hai vào ngày 26 Tháng Tư, 2009, bà vẫn tiếp tục tranh đấu. Bà bị công an quận Phú Nhuận, Sài Gòn, bắt và đánh bị thương nặng ngày 15 Tháng Sáu, 2010 khi trên đường đến thăm các bạn đấu tranh ở Sài Gòn. Ðầu năm 2011, bà lại bị bắt cùng với Mục Sư Nguyễn Trung Tôn khi hai người sao chép và phổ biến cuốn phim “Ðại họa mất nước.” Bà bị xử 5 năm tù giam và 3 năm quản chế với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước.”
Hiện nay bà Hồ Thị Bích Khương còn đang ở trong tù và vẫn tiếp tục tranh đấu không ngừng để đòi quyền được đối xử tử tế cho mình cũng như cho bạn tù. Vì thế bà thường xuyên bị cai tù đánh đập và hành hạ.
Bà Hồ Thị Bích Khương là một chiến sĩ đấu tranh cho nhân quyền chịu đựng tới ba lần tù đày và nhiều lần bắt bớ, đánh đập hết sức tàn nhẫn. Tuy thế, bà vẫn luôn giữ ý chí bất khuất cho lý tưởng tự do, dân chủ và nhân quyền. Bà được tổ chức Human Rights Watch trao tặng Giải thưởng Hellman/Hammett năm 2011.
Theo Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam, tuy xuất thân từ một gia đình có chức quyền trong guồng máy chính quyền Cộng Sản, bà Bùi Thị Minh Hằng đã sớm nhận chân được bộ mặt của chế độ khi khám phá ra rằng chính các quan chức địa phương đã phi pháp tiếp tay cho đảng viên cướp đoạt ngôi nhà của thân phụ để lại cho bà.
Từ năm 2011, bà đã hăng hái tham gia các cuộc biểu tình phản đối việc Trung Quốc xâm lấn lãnh hải Việt Nam và phong trào đòi dân chủ nhân quyền.
Ngày 27 Tháng Mười Một 2011, bà bị bắt tại Sài Gòn khi tham gia xuống đường yêu cầu Quốc Hội ra luật biểu tình. Bà bị đưa vào trại cưỡng bức lao động cải tạo trong hai năm tại Thanh Hà, tỉnh Vĩnh Phúc, mà chẳng qua thủ tục xét xử nào.
Do áp lực mạnh mẽ của dư luận, bà được trả tự do sau 5 tháng bị giam giữ. Tuy nhiên công an vẫn ngày đêm theo dõi, sách nhiễu, và trả thù bà một cách hèn hạ. Mặc dù vậy, bà vẫn kiên cường mạnh mẽ đấu tranh không lùi bước. Bà từ chối đóng tiền cho quỹ an ninh quốc phòng, làm đơn khởi kiện đích danh Chủ Tịch UBND Hà Nội Nguyễn Thế Thảo, viết thư cho ngoại trưởng Hoa Kỳ, viết thư cho Quốc Hội, tố cáo những hành động phi pháp đối với bà,…
Bà Bùi Thị Minh Hằng còn có sáng kiến mở “Quán Thông Tin” trước nhà để phổ biến những thư khiếu kiện, những thư ngỏ của bà gửi đến các cơ quan có thẩm quyền.
Nhận ra rằng bà là một cái gai nhức nhối cần phải nhổ, là một dân oan kiên cường đấu tranh cho công lý cần phải triệt hạ, nhà cầm quyền Cộng Sản đã dàn dựng một “vụ gây rối trật tự công cộng” để bắt giam bà và một số người khác tại tỉnh Ðồng Tháp, khi họ đến thăm một người đấu tranh cho nhân quyền bị bách hại.
Ngày 26 Tháng Tám, 2014, bất chấp sự phản đối của dư luận, chính quyền Cộng Sản vẫn kết án bà 3 năm tù giam. Trong tù bà vẫn không ngừng đấu tranh. Bà đã tuyệt thực hơn hai tháng (kể từ ngày 2 Tháng Tư, 2015), và thường xuyên trò chuyện với chị em nữ tù nhân để gây cho họ ý thức sâu sắc về quyền con người. Hiện nay bà vẫn đang chịu cảnh tù ngục.
Bà Bùi Thị Minh Hằng là một con người đấu tranh trên mọi mặt và có mặt khắp mọi nơi. Cần chống xâm lược, bảo vệ tổ quốc thì bà ở tuyến đầu, cả ở Sài Gòn lẫn Hà Nội. Cần chống cưỡng chế tước đoạt thì bà luôn đồng hành cùng với dân oan. Những người đấu tranh bị bắt vào đồn công an, bà liền có mặt đòi thả những người yêu nước. Bà Bùi Thị Minh Hằng là một chiến sĩ đấu tranh kiên cường và bất khuất cho nhân quyền.
Trở lại cuộc họp báo, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cho biết buổi trao giải năm nay sẽ được tổ chức tại Little Saigon, Nam California, vào ngày 11 Tháng Mười Hai, nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc Tế Nhân Quyền lần thứ 67.
Giải Nhân Quyền Việt Nam do Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam thành lập vào năm 2002 và được tổ chức hàng năm nhằm tuyên dương thành tích tranh đấu bất bạo động của những người đã chấp nhận hy sinh, kể cả mạng sống của chính mình, cho lý tưởng nhân quyền và dân quyền của người dân Việt Nam. Ngoài ra, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam còn nhằm bày tỏ sự liên đới, hậu thuẫn và quyết tâm của người Việt khắp nơi trong nỗ lực đấu tranh giành lại quyền làm người cho mọi người dân Việt Nam.
Từ ngày thành lập đến nay, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam đã tuyên dương và trao tặng Giải Nhân Quyền Việt Nam cho hàng chục nhà đấu tranh hàng đầu cho nhân quyền tại Việt Nam. (Ð.D.)
“Nhà nước đang nuôi báo cô nhiều công chức, viên chức”
“Nhà nước đang nuôi báo cô nhiều công chức, viên chức”
Ngọc Quang
(GDVN) – Ông Nguyễn Đình Quyền – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nói thẳng như vậy khi trao đổi với báo chí về năng lực công chức, viên chức.
Theo kế hoạch dự kiến, Nhà nước sẽ tinh giản biên chế trên 296 nghìn cán bộ công chức, viên chức (tức là chiếm khoảng 10%) trong giai đoạn 2015 – 2021.
Tuy nhiên, vấn đề nhiều Đại biểu Quốc hội lo ngại hiện nay là liệu có chuyện “giảm chỗ nọ, phình chỗ kia” hay không? Thậm chí, đã có ý kiến chỉ ra rằng, số lượng cán bộ công chức, viên chức ăn lương nhà nước không những không giảm mà còn tăng lên thời gian qua, và các ngành đều có lý do chính đáng.
Theo ông Nguyễn Đình Quyền – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nói thẳng rằng, không thể cào bằng như hiện nay mà phải tính lại cho đúng với năng lực thực tế của từng vị trí công việc. Nếu không làm được thì động lực phát triển trong bộ máy nhà nước bị triệt tiêu, đến một lúc nào đó người có năng lực sẽ chán và buông xuôi.
“Hiện nay, trong bộ máy nhà nước đang trả lương cho một bộ phận không làm gì, tức là nuôi báo cô. Nhưng đồng thời, chúng ta có tội với những người làm việc bằng 5 người khác đang làm”, ông Quyền nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Đình Quyền – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (Đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội) nói thẳng, Nhà nước đang nuôi báo cô rất nhiều công chức, viên chức. ảnh: Ngọc Quang.
Theo vị Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp, muốn giảm biên chế hiệu quả phải đặt vấn đề trên tổng thể toàn hệ thống chính trị, chứ không chỉ ở bộ máy hành chính của nhà nước.
“Chúng ta đang cải cách bằng cách định biên, tức là làm rõ mỗi vị trí công tác thì công việc như thế nào? Trong một số ngành, tôi thấy đã định biên được, nhưng nhìn chung thì chưa định biên được nên dẫn đến giảm biên chế rất khó khăn.
Hơn thế nữa theo quy trình hiện nay, tinh giảm biên chế không dễ dàng một chút nào cả. Người ta vẫn làm việc, bây giờ, hiệu quả đánh giá năng suất lao động như thế nào, những tiêu chí, người có thẩm quyền, cách thức thực hiện ra sao, trình tự thủ tục vẫn rất mơ hồ”, ông Quyền nhận định.
Cũng theo ông Nguyễn Đình Quyền, việc phình biên chế trong cơ quan nhà nước trong nhiều trường hợp còn do ý chí chủ quan của người đứng đầu đơn vị.
Ông Quyền nêu thí dụ: “Tôi đã từng làm Vụ trưởng, lúc đó, tôi bảo chỉ cần 2 vụ phó thôi, nhưng thủ trưởng tôi bảo, không, anh phải cần 4 vụ phó.
Tôi chưa cần lấy thêm người thì ông thủ trưởng bảo cần lấy thêm người. Tức là người đứng đầu một đơn vị cũng không có thẩm quyền về biên chế, cán bộ.
Tính tự chủ đi đôi với tính tự chịu trách nhiệm, bởi vì người ta không tự chủ nên tính tự chịu trách nhiệm cũng yếu đi. Muốn tinh giản bộ máy Nhà nước hiện nay để lương cải thiện thì có quá nhiều việc phải làm và phải có bàn tay nào đó rất mạnh mẽ”.
Ông Nguyễn Đình Quyền cũng khẳng định, qua kinh nghiệm làm việc ở những cơ quan mà ông từng làm quản lý thì có thểm giảm được tới 40% cán bộ công chức, viên chức.
Ông Quyền dẫn chứng: “Có lần tôi đã từng nói, nếu tôi làm Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, tôi có thể thải được 40% cán bộ, công chức ra khỏi bộ máy. Nếu cho phép tôi toàn quyền.
Thực tế ở các vụ chuyên môn 1 người có thể làm việc bằng ít nhất 3 người, thậm chí có thể làm bằng 5 người. Một anh vụ phó dư sức làm việc của hai anh vụ phó và 3 anh chuyên viên cộng lại, nhưng không có cơ chế gì khuyến khích, thậm chí có khi làm càng nhiều lại càng phải va chạm. Đến lúc bỏ phiếu bình bầu thì có khi mất phiếu.
Do đó, quan trọng nhất hiện nay là phải tính được định biên, và đặc biệt phải giao quyền tự chủ cho người đứng đầu. Người ta đã ở trong bộ máy nhà nước lâu rồi, bây giờ nói sa thải rất khó. Cơ chế thải bằng cách nào là cả một vấn đề, chúng ta phải tính đến hậu quả pháp lý của vấn đề đó”.
Từ câu chuyện sử dụng cán bộ, ông Nguyễn Đình Quyền cũng chỉ ra sự bất cập trong cách tính lương của hệ thống cơ quan nhà nước.
“Thí dụ, tôi nói những doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế như dầu khí, điện lực, tại sao lương lại mấy chục triệu như vậy? Địa tô chênh lệch đó không phải do anh ta tạo nên mà do cán bộ nhà nước và do ngân sách nhà nước đầu tư cho anh tạo nên.
Ở các tập đoàn kinh tế, cán bộ công chức được nhà nước bỏ tiền ra đào tạo, ngân sách nhà nước bỏ tiền ra để làm các thủy điện, nhiệt điện hàng nghìn tỷ… Khi bắt đầu kinh doanh anh đã tạo ra địa tô chênh lệch 1, chênh lệch 2 thì ngành anh hưởng, cái đó là vô cùng bất hợp lý.
Hai người, một người vào bộ máy nhà nước thì hưởng lương như lương thứ trưởng của tôi hiện nay là khoảng 14 triệu đồng, một người tài năng chưa chắc hơn ai vào tập đoàn đó thì được hưởng lương 50 – 70 triệu đồng. Như thế hoạch định lương kiểu gì? Thế mà nó vẫn diễn ra”.
| Có một vấn đề rất thời sự đó các cơ sở giáo dục, y tế đã được nhà nước đầu tư rất lớn nhưng thực tế người dân vẫn phải trả phí rất cao. Câu chuyện xã hội hóa đã được nhiều Đại biểu Quốc hội đề cập là tại sao luôn nói “xã hội hóa” mà không phải “tư nhân hóa”? Nếu tư nhân làm tốt thì nhà nước cũng cần khuyến khích tạo điều kiện, nhưng cơ chế chính sách hoàn toàn khác với “xã hội hóa”.
Nói về vấn đề này, ông Nguyễn Đình Quyền cho rằng, trong dịch vụ lợi ích công của Việt Nam hiện giờ là thiếu minh bạch nhất, mà việc này sẽ tạo ra lợi ích nhóm. “Sẽ có một nhóm hưởng lợi từ cái thiếu minh bạch đó. Cho nên, trong dịch vụ công đó phải tính đúng, tính đủ nhưng phải trên cơ sở tính minh bạch chứ không phải một nhóm người tạo ra định suất rồi áp vào người dân. Ở đây, cơ quan có thẩm quyền phải phê duyệt cho từng định suất đó và phải tính trên mặt bằng trung bình của xã hội chấp nhận được. Như vậy, nếu tính đúng, tính đủ, công khai minh bạch được thì đồng vốn của Nhà nước chi phí vào dịch vụ công đó sẽ minh bạch. Thứ hai là công lao của đơn vị dịch vụ công đó và thứ ba là sự đóng góp của người dân. Ba thứ đó, mới tạo ra được dịch vụ công tránh được thất thoát, lợi ích nhóm”, ông Quyền phân tích. |
N.Q.
Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Nha-nuoc-dang-nuoi-bao-co-nhieu-cong-chuc-vien-chuc-post163396.gd
Nỗi mặc cảm và bạo lực tràn lan
Nỗi mặc cảm và bạo lực tràn lan
VietTuSaiGon
Con người trở nên dữ tợn bởi con người đã quá sợ hãi. Con người trở nên bạo lực và man rợ bởi chưa bao giờ con người trở nên mặc cảm như hiện tại. Chính nỗi mặc cảm và sợ hãi đã làm cho con người không còn nghĩ được gì khác ngoài bạo lực.
Và đáng sợ nhất là chúng ta đang sống trong một đất nước mà nỗi mặc cảm và sự sợ hãi đã chi phối từng tế bào, chi phối từ người dân thấp cổ bé miệng cho đến hệ thống chóp bu chính trị. Và đằng sau sự mặc cảm, nỗi sợ hãi này sẽ là gì?
Để giải quyết câu hỏi trên, thiết nghĩ cũng nên đặt lại câu hỏi: Vì sao người Việt, nhất là giới trẻ trở nên dữ tợn? Vì sao người Việt sống mặc cảm nặng nề? Và vì sao nói rằng hệ thống công quyền Việt Nam là một hệ thống mặc cảm?
Trước tiên, phải nhìn thấy vấn đề tuổi trẻ Việt Nam trở nên dữ tợn là vấn đề có thật. Tuổi trẻ Việt Nam ở đây xin hiểu là đa phần, là xu hướng chung của giới trẻ chứ không phải là toàn bộ tuổi trẻ Việt Nam đều dữ tợn. Nhưng số đông với tính hiếu chiến, sẵn sàng xông vào đánh nhau vì một lý do thậm chí không phải là lý do đang là chuyện khá hot của tuổi trẻ bây giờ.
Và phải nói cho chính xác chuyện này nữa, phần đông, rất đông tuổi trẻ Việt Nam sợ công an. Sợ chứ không phải nể, bởi họ luôn biết rằng đụng phải công an thì nguy cơ chết chóc, nguy hiểm cho tính mạng là thấy trước mắt, chính vì vậy họ sợ phải đụng đến công an.
Và hầu như số đông tuổi trẻ không bao giờ quan tâm đến chính trị, thậm chí không quan tâm cả nghệ thuật, văn chương. Vấn đề quan tâm lớn nhất của họ là làm sao để có tiền, dể mua chiếc điện thoại xịn, mua chiếc xe xịn, khá nữa thì mua miếng đất để dành. Chỉ có tuổi trẻ mới dám bất chấp luân lý, đạo đức để đứng ra cho vay nặng lãi, làm cò, bảo kê quán xá…
Điều này, dù muốn hay không muốn thì nó vẫn lột tả được cái xã hội mà những người trẻ đang sống. Một xã hội mang đậm bản chất mông muội, không có phương hướng bởi xã hội không tôn trọng pháp luật, không có pháp luật để tôn trọng, mạnh ai nấy lấn, mạnh ai nấy thắng, cá lớn nuốt cá bé.
Gần thì ông hàng xóm đông con uy hiếp bà hàng xóm góa bụa bằng cách này hay cách khác, lấn ông hàng xóm yếu thế hơn mình bằng kiểu này kiểu nọ. Xa hơn một chút thì chính cái kẻ mạnh trong xóm đó lại bị một kẻ khác mạnh hơn uy hiếp.
Những tay bảo kê, cho vay nặng lãi, sa tặc, lâm tặc và các loại tặc khác chỉ uy hiếp được những kẻ yếu để kiếm ăn, bù vào, bọn họ lại bị công an uy hiếp để kiếm ăn trên chính sự liều lĩnh của họ.
Trên một chút, các sếp công an lại uy hiếp đám lính lác, hằng năm cấp dưới phải chung chi, quà cáp cho cấp trên… Thế rồi cấp trên lại chunbg chi, quà cáp cho cấp trên nữa, cứ thế mà chung lên, chung mãi đến chóng mặt.
Bởi chung qui không có một điểm chung để nhìn, không có một hệ thống nguyên tắc chung để tuân thủ. Ví dụ như khi con người biết tôn trọng pháp luật bởi trên đất nước của họ có một hệ thống pháp luật chặt chẽ, có những qui chuẩn đạo đức đã được luật hóa và có những nguyên tắc hành xử nhằm giữ những giá định đạo đức thông qua pháp luật…
Co` như vậy thì người ta sẽ không hành xử tùy tiện bởi người ta tin vào đạo đức, pháp luật và căn cứ trên đó để hành xử. Giả sử một người nào đó bị xâm hại bản thân, họ tin rằng pháp luật sẽ mang lại sự công bằng cho họ và họ nhờ đến tòa án, công an, chính quyền, bởi đây là những người mang lại sự công bằng và an ninh cho họ.
Nhưng, ở Việt Nam, nhờ đến chính quyền bất kì việc gì còn khổ hơn nhờ những kẻ ăn vạ. Chuyện bé xé cho to để vòi vĩnh. Chuyện cần gấp nhưng gọi điện thoại báo khẩn từ thứ bảy mà đến thứ hai mới thấy ló mặt đến để phán vài câu không đâu vào đâu. Riêng chủ nhật thì bọn họ đã tính toán để mà ăn phía nào cho dày, đè phía nào cho nặng.
Công an cũng vậy, đụng đến họ thì tốn tiền gấp bội so với thuê giang hồ đến giải quyết, giang hồ giải quyết vừa nhanh, vừa gọn mà lại không mè nheo lâu dài như công an. Ví dụ như có người bị kẻ khác uy hiếp, anh/chị ta chỉ cần nhờ một tay giang hồ đủ máu mặt đến để hoặc là cho kẻ ăn hiếp kia một bài học, hoặc là đe nạt kẻ cậy mạnh hiếp yếu. Gã giang hồ này làm rất nhanh gọn, nói rõ giá tiền trước khi làm hoặc trong trường hợp gấp quá thì gã làm trước tính tiền sau nhưng giá cũng không bao giờ bằng nửa giá phải chung chi cho công an. Đó là sự thật.
Với kiểu sống không có pháp luật, kẻ mạnh hiếp người yếu, quan chức hiếp dân đen đã tồn tại quá lâu trên đất nước này đã đẩy người dân đến chỗ sợ hãi tột cùng và mặc cảm tột cùng. Khi con người rơi vào trạng thái mặc cảm và sợ hãi tột cùng, phản ứng rất tự nhiên sẽ là tự phát huy bản năng cắn xé để tồn tại. Bất kì chuyện gì cũng đều được nói chuyện bằng bạo lực, bởi chỉ có bạo lực mạnh nhất mới tồn tại được trong xã hội đầy rẫy bạo lực.
Và hình ảnh những đứa trẻ bạo lực đường phố, học sinh bạo lực học đường, người lớn bạo lực với bất chấp chung quanh dòm ngó, công an bạo lực với người biểu tình… Mọi thứ đều có nguy cơ biến thành bạo lực và chết chóc… Điều này chỉ cho thấy rằng xã hội Việt Nam đã rơi vào trạng thái mặc cảm đến tận gốc rễ.
Kẻ mặc cảm nặng nề nhất trong xã hội này không phải là người dân thấp cổ bé miệng mà chính là hệ thống chóp bu quyền lực trung ương đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu nhìn bề ngoài họ sang trọng, hùng dũng bao nhiêu thì bên trong của họ lại chứa nỗi sợ hãi và mặc cảm từ nhiều phía. Họ thừa mặc cảm bởi tự thấy khả năng cũng như kiến thức của họ đã quá lạc hậu, không đuổi kịp thế giới tiến bộ, đặc biệt là không đuổi kịp tuổi trẻ.
Họ sợ hãi bởi vì xét về căn để, họ không có gì đủ mạnh để lãnh đạo đất nước ngoài sự cố chấp và khư khư những thứ lý thuyết mù mờ mà bản thân họ cũng không đủ tin cậy, khư khư ôm một cái xác chết để thần thánh hóa, để tự ma mị lẫn nhau mà cùng hưởng lộc, chia chác quyền lực. Nhưng họ cũng quá biết là họ không hề có quyền lực thực sự trong lòng nhân dân, quyền lực là do họ tự dựng lên và tự ép nhân dân vào chỗ phải nghe, phải tin, phải sùng bái họ.
Và trên hết là họ vẫn là những con người nhược tiểu so với đàn anh Cộng sản Trung Quốc, họ vừa phải trí trá với phương Tây để tồn tại, lại vừa phải khúm núm với đàn anh Trung Quốc để giữ độc tài, họ chưa bao giờ là một chủ thể độc lập. Chính vì không bao giờ có được độc lập nên họ chưa bao giờ đối xử một cách độc lập cũng như để cho ai đó có được độc lập. Đó là một thứ hiệu ứng dây chuyền trong tâm lý mặc cảm. Càng mặc cảm, người ta càng đối xử lạnh nhạt, tệ hại và tàn nhẫn với nhau!
Với một đất nước luôn nặng tâm lý nhược tiểu và mặc cảm, từ hệ thống lãnh đạo trung ương xuống địa phương, từ quan chức cho đến thường dân, từ kẻ giang hồ cho đến trí thức đều mang nặng nỗi mặc cảm như vậy thì e rằng khó mà tiến bộ được. Nếu không muốn nói đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ tự hủy hoại lẫn nhau, kẻ ngoại xâm không cần tốn viên đạn nào vẫn có được một lãnh thổ trống trơn, lạnh lùng và chết chóc.
Đây là chuyện chắc chắn phải xảy ra nếu như chế độ Cộng sản độc tài tiếp tục tồn tại và con người tiếp tục quằn quại trong vũng lầy bạo lực, mặc cảm và nhược tiểu như đang thấy!
‘Đa số nhân dân không đồng ý nhận viện trợ từ Trung Quốc’
‘Đa số nhân dân không đồng ý nhận viện trợ từ Trung Quốc’
Người biểu tình cầm hình ảnh và biểu ngữ trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội, ngày 3/11/2015.
17.11.2015
Đó là lời phát biểu của đại biểu quốc hội Việt Nam Trương Trọng Nghĩa, khi đặt câu hỏi chất vấn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hôm 17/11.
Ông Nghĩa nói rằng nền kinh tế trong nước “đang có xu hướng phụ thuộc ngày càng sâu vào Trung Quốc trên hầu hết lĩnh vực, và đe dọa chủ quyền về kinh tế” của Việt Nam.
Ông Nghĩa cũng cho rằng Trung Quốc “nổi tiếng về việc mang đồng tiền đi trước để chi phối về chính trị”. Ông nói thêm:
“Cử tri đề nghị không vay tiền và không nhận viện trợ từ Trung Quốc, ít nhất là trong thời điểm này, bởi Trung Quốc đang tranh chấp, thậm chí là chiếm lãnh thổ của Việt Nam và đe dọa tiếp tục chiếm nhiều hơn.”
Lời phát biểu của vị đại biểu quốc hội từ TP HCM được đưa ra hai tuần sau khi một ngân hàng của Việt Nam ký kết hợp đồng vay Trung Quốc 200 triệu đôla nhân chuyến công du của ông Tập Cận Bình tới Hà Nội hồi đầu tháng này.
Khoản vay có giá trị lớn này được báo chí trong nước cho là sẽ “đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn cho các dự án phát triển kinh tế của Việt Nam”, và “góp phần phát triển quan hệ hợp tác tốt đẹp” giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Tuy nhiên, ông Nghĩa đặt câu hỏi rằng nhận viện trợ hay vay vốn ODA của Trung Quốc cho dù rẻ thì sau này có kiện để đòi lãnh thổ được không?
“Nếu trưng cầu ý dân thì tôi tin đa số nhân dân sẽ không đồng ý nhận viện trợ hay vay tiền từ Trung Quốc vì còn nhiều nguồn khác để vay”.
Cũng liên quan tới vấn đề tranh chấp biển đảo, một đại biểu khác là ông Lê Nam lên tiếng chất vấn Thủ tướng Dũng về “chủ trương và giải pháp” của Việt Nam trước việc Trung Quốc “bồi đắp và xâm lấn nghiêm trọng hơn trên biển Đông”.
Ngoài ra, ông Nam cũng đề nghị ông Dũng “cho biết việc thực hiện nghị quyết Quốc hội đối với ngư dân, cảnh sát biển và kiểm ngư”.
Theo dự kiến, Thủ tướng Việt Nam sẽ trả lời các câu hỏi chất vấn vào ngày mai. Chưa rõ là ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ hồi đáp ra sao trước các vấn đề được coi là “nóng bỏng” hiện nay của các đại biểu quốc hội.
Tuy nhiên, người đứng đầu chính phủ Việt Nam từng tuyên bố rằng sẽ không đánh đổi chủ quyền quốc gia lấy hữu nghị viển vông trong quan hệ với Trung Quốc.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tới thăm Việt Nam và phát biểu trước quốc hội hồi đầu tháng này.
Chỉ một ngày sau khi rời Việt Nam, ông Tập tuyên bố rằng các hòn đảo trên biển Nam Trung Hoa (biển Đông) “là lãnh thổ của Trung Quốc từ thời xa xưa”, và chính phủ Trung Quốc “phải có trách nhiệm để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi lãnh hải chính đáng”.
Cư dân mạng sau đó đã chỉ trích việc đón tiếp trọng thể dành cho nhà lãnh đạo Trung Quốc trong bối cảnh Bắc Kinh không che giấu điều mà nhiều người Việt Nam cho là tham vọng “nuốt trọn” biển Đông.
Chúng tôi thách đố đảng CSVN!
Chúng tôi thách đố đảng CSVN!
Hoàng Thanh Trúc (Danlambao) – Chúng tôi ở đây là ai? Như Trần Quốc Toản khi xưa cầm quả cam trong tay. Họ, những tuổi trẻ Việt Nam ngày nay đang khảng khái cầm trong tay lời thách thức chế độ độc tài cộng sản Việt Nam hãy trả lại quyền làm chủ đất nước của toàn dân tộc đã bị tước đoạt suốt 70 năm qua. “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” (nước nhà hưng thịnh hay suy vong, mọi người dân đều có trách nhiệm) Họ, tuổi trẻ Việt Nam như đang thét lên… Đất nước không của riêng ai, mọi Công dân có quyền tham gia quản lý điều hành nhà nước và xã hội, (Điều 28- Hiến pháp) Không ai sinh ra nghiễm nhiên là lãnh đạo (không thể con quan nếu thích là được làm quan) Nhân tài, lãnh đạo, phải thông qua cạnh tranh chứng minh từ “Tự Do” ứng cử và “Dân Chủ” bầu chọn như quốc gia Myanmar…
Việt Nam là ‘bò sữa’ của nhà thầu Trung Quốc
Việt Nam là ‘bò sữa’ của nhà thầu Trung Quốc
Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV) – Dự án mở rộng nhà máy gang thép Thái Nguyên (TISCO) khởi công từ 2007, ngốn của ngân sách khoảng 4,500 tỷ đồng, nay đang bỏ hoang vì nhà thầu Trung Quốc ra đi và chưa… trở lại.

Đồ họa của tờ Tuổi Trẻ mô tả dự án mở rộng nhà máy gang Thép Thái Nguyên.
TISCO là thành viên của tổng công ty Thép Việt Nam – một doanh nghiệp nhà nước. Theo kế hoạch thì chính quyền Việt Nam rót tiền để TISCO “mở rộng hoạt động.” Việc “mở rộng hoạt động” được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn một đã hoàn tất hồi giữa thập niên 2000. Năm 2007, TISCO bắt đầu thực hiện giai đoạn hai của kế hoạch “mở rộng hoạt động.”
Lần này, chính quyền Việt Nam cho phép TISCO chọn tập đoàn xây lắp luyện kim của Trung Quốc (MCC) làm nhà thầu EPC (cách gói tắt việc bao thầu từ tư vấn, thiết kế, cung cấp thiết bị, đến xây lắp, vận hành nên còn được gọi là phương thức “chìa khóa trao tay”).
Lúc đầu, MCC nhận thực hiện gói thầu này với giá là 3,843 tỷ đồng. Giống như nhiều nhà thầu Trung Quốc khác từng đến Việt Nam để thầu các dự án, sau khi khởi công, MCC đòi nâng giá thầu xây dựng công trình lên thành 5,000 tỷ đồng (chưa tính giá thầu cung cấp thiết bị cũng tăng thêm vài trăm tỷ). Với lý do trượt giá, tỷ giá thay đổi, chủ đầu tư (tổng công ty Thép Việt Nam và TISCO) đồng ý nâng giá trị toàn bộ gói thầu lên 8,100 tỷ đồng.
Phía Việt Nam đã chi 4,500 tỷ đồng nhưng phần nhà xưởng vừa dở dang, vừa bị bỏ hoang từ năm 2012 đến nay, còn thiết bị thì dù TISCO đã giao cho MCC 90% tiền nhưng MCC vẫn đang giữ, chưa giao hệ thống điện và hệ thống điều khiển hoạt động của nhà máy gang thép Thái Nguyên mới.
Đáng nói là khi kiểm tra dự án vừa kể, cơ quan kiểm toán của chính quyền Việt Nam phát giác chủ đầu tư quá dễ dãi. Chẳng hạn, khi thương lượng hợp đồng với MCC, chưa rõ tại sao, tổng công ty Thép Việt Nam và TISCO lại chấp nhận thanh toán cho MCC theo thời giá (giá tăng sẽ nâng mức thanh toán theo yêu cầu).
Theo hồ sơ xin dự thầu, MCC chỉ yêu cầu thanh toán 90% giá trị thiết bị sau khi đã giao thiết bị cho chủ đầu tư, tuy nhiên khi ký hợp đồng giao thầu, chủ đầu tư lại chủ động cam kết trả… 95% giá trị thiết bị khi MCC giao thiết bị.
Trên thực tế, tổng công ty Thép Việt Nam và TISCO đã trả cho MCC 93% giá trị thiết bị trong khi chưa nhận được “lõi” của thiết bị là hệ thống điện và hệ thống điều khiển. Cũng vì vậy khi MCC bỏ ngang, chủ đầu tư không thể gọi nhà thầu khác thực hiện tiếp phần việc mà MCC đang làm dang dở.
Chưa kể, theo cơ quan kiểm toán của chính quyền Việt Nam, chủ đầu tư còn tự động cho phép MCC kéo dài thời gian hoàn thành công trình nên không thể phạt MCC vi phạm hợp đồng. Chủ đầu tư còn tính sai các yếu tố trượt giá, tính thiếu thuế khi đề nghị chính quyền Việt Nam cho nâng chi phí đầu tư, thành ra nếu hoàn thành thì còn rất lâu dự án này mới thu hồi đủ vốn.
Vào lúc này, mỗi tháng, ngân sách Việt Nam phải chi từ 20 đến 30 tỷ đồng lãi cho các khoản đã vay nhằm thực hiện giai đoạn hai của kế hoạch “mở rộng hoạt động” nhà máy gang thép Thái Nguyên. Bởi trót “leo lên lưng cọp,” chính quyền Việt Nam đang tìm tiền nhằm giao thêm cho MCC, để MCC tiếp tục thi công, hoàn tất dự án.

4,500 tỷ đồng đổi lấy hiện trạng như trong ảnh. (Hình: Tuổi Trẻ)
Theo một thống kê công bố hồi năm 2010 thì tính đến cuối năm 2009, các nhà thầu Trung Quốc nắm giữ quyền thi công số dự án có tổng giá trị lên tới 15.4 tỷ Mỹ kim tại Việt Nam. Cũng vì vậy, Việt Nam trở thành thị trường xây dựng lớn nhất của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Gần như toàn bộ các công ty xây dựng tại Việt Nam trở thành người làm thuê cho nhà thầu Trung Quốc ngay trên xứ sở của mình.
Đến năm 2011, Ủy Ban Tài Chính và Ngân Sách của Quốc Hội Việt Nam công bố một thống kê nữa, theo đó, các nhà thầu Trung Quốc nắm giữ tới 90% dự án tổng thầu EPC, vốn có giá trị nhiều tỷ đô la trong các lĩnh vực dầu khí, hóa chất, điện, dệt kim.
Thực trạng này kéo theo nhiều hậu quả tai hại: Gần như toàn bộ các nhà thầu Trung Quốc không thực hiện đúng hợp đồng. Các nhà thầu Trung Quốc sử dụng công nghệ, thiết bị của Trung Quốc nên chất lượng của các công trình do họ thực hiện tại Việt Nam rất tệ.
Các nhà thầu Trung Quốc chỉ sử dụng công nhân Trung Quốc nên người Trung Quốc tràn ngập lãnh thổ Việt Nam, tuy có nhiều công trình được thực hiện ngay tại Việt Nam nhưng doanh nghiệp Việt Nam và công nhân Việt Nam không có việc làm.
Trước nay, người ta vẫn tin việc hào phóng giao các dự án cho nhà thầu Trung Quốc và đối xử dễ dãi với nhà thầu Trung Quốc là vì yếu tố chính trị, tuy nhiên càng ngày càng nhiều dấu hiệu cho thấy, thực trạng đó đơn thuần chỉ vì việc đòi tiền “lại quả” dễ dàng hơn, việc nhận tiền “lại quả” an toàn hơn.
Chắc chắn chính quyền Trung Quốc sẽ không điều tra các công ty Trung Quốc đưa hối lộ cho viên chức Việt Nam như Nhật hoặc chính quyền nhiều quốc gia khác đã làm. (G.Đ)
Hành xử của Công an Hà Nội nói lên điều gì? (Phần 2)
Hành xử của Công an Hà Nội nói lên điều gì? (Phần 2)
J.B Nguyễn Hữu Vinh, viết từ Hà Nội
RFA

Nhóm côn đồ vào đánh những người đến thăm nhà em Đỗ Đăng Dư ngày 16/10/2015.
Vụ án đánh luật sư
Cái chết của em Đỗ Đăng Dư đã làm nóng dư luận bởi sự khuất tất và oan khuất. Nhưng dư luận còn chú ý hơn vì những hành động của các cơ quan công quyền, các đám xã hội đen, côn đồ – mà những năm gần đây, hiện tượng công an đóng giả côn đồ hành động như côn đồ đã trở thành phổ biến – đã tiếp tục gây sự chú ý của dư luận xã hội. Chúng tôi đã từng là nạn nhân thường xuyên của lực lượng công an đóng giả côn đồ này.
Những vụ việc ngăn chặn, sách nhiễu, đánh đập người đến thăm gia đình nạn nhân Đỗ Đăng Dư đã làm dư luận chú ý. Ngay sau đám tang của em một ngày, một số người động lòng thương đến thăm gia đình em và viếng hương hồn oan khuất của em đã bị gây sự và chặn đánh vào ngày 16/10/2015. Đám người mặc thường phục đã vào tận nhà em rình rập, khủng bố những người đến thăm gia đình em mà không có bất cứ lý do nào.
Cũng theo hình thức đó, ngày 3/11, hai vị luật sư đến gia đình cũng bị một nhóm côn đồ tổ chức tấn công tạo nên nhiều thương tích, cướp lấy tài sản của họ…
Đặc biệt, những hành động đằng sau đó của hệ thống công an đã không thể không đặt ra những nghi ngờ về một sự khuất tất trong vụ việc này.
Trước hết, theo các luật sư cho biết, thì ngay sau khi các luật sư bị đánh, công an huyện Chương Mỹ đã không đến hiện trường, khi luật sư khai báo và làm biên bản, họ đã ghi không trung thực vào lời khai và biên bản như báo cáo của các nạn nhân, kết quả là các luật sư đã không ký vào biên bản. Riêng điều này, người ta có quyền đặt câu hỏi: Nguyên nhân nào mà các nạn nhân đã không được bảo vệ bởi lực lượng Công an và những động thái của Công an có ý nghĩa gì?
Ngay sau khi vụ việc xảy ra, LS Trần Đình Triển Phó chủ nhiệm, Trưởng ban Bảo vệ luật sư đến tận Công an Chương Mỹ, thì được bảo vệ cho biết các công an Huyện đã xuống hiện trường. Thế nhưng khi đến hiện trường, thì người dân cho biết không có bất cứ công an nào đến đó chiều hôm ấy. Trở lại CA Huyện Chương Mỹ, thì LS Triển được thông báo các cán bộ bận và không thể tiếp luật sư (!)
Tình trạng làm việc và cách làm của Công an Chương Mỹ là vậy trước một vụ án. Mặc dù tướng Nguyễn Đức Chung “đã cho hay sau khi vụ việc xảy ra đã chỉ đạo Công an huyện Chương Mỹ điều tra nghiêm túc”.
Trả lời báo chí, thiếu tướng Giám đốc Công an Hà Nội cho rằng: “Vấn đề ở đây là tình hình ở Chương Mỹ rất phức tạp, khi mọi người đến thì cũng nên thông báo để cho cơ quan công an có phương án bảo vệ. Đây là trách nhiệm của công an phải bảo đảm an ninh trật tự chứ đừng chủ động vào”. Điều này có nghĩa là ở đất nước Việt Nam ổn định và an ninh này, ngay tại Thủ đô vì hòa bình, mà người dân đến đây phải nhờ công an bảo vệ, nếu không thì bị đòn… đừng kêu?
Ngày 10/11/2011 Công an Hà Nội tổ chức một cuộc họp báo, nhưng các nạn nhân và đoàn LS Hà Nội không được mời. Thậm chí khi đến, họ còn không được cho vào (?). Nguyên nhân vụ việc được CAHN cho biết là vì “xe chạy gây bụi” nên các luật sư bị côn đồ đánh và chưa khởi tố vụ án hình sự. Điều này trái hẳn với điều ông Nguyễn Đức Chung, thiếu tướng, Giám đốc Công an Hà Nội đã trả lời báo chí rằng “Nhưng thông tin ban đầu thì 2 luật sư bị hành hung khi ra đường sau khi có va chạm giao thông”.
Từ chỗ nguyên nhân là va chạm giao thông đã bị các luật sư nạn nhân phản đối kịch liệt, nội dung đã được chuyển sang do “bụi”.
Nội dung cuộc họp báo đã bị các luật sư phản ứng dữ dội. Mạng xã hội được dịp nóng lên vì phát ngôn này của Công an Hà Nội, tạo những trận cười chảy nước mắt.
Tiếp đó, các nạn nhân luật sư đã nhận dạng được một gương mặt hung thủ là công an xã tên Cửu, nhưng sau đó, bằng một cuộc họp báo, Công an Hà Nội đã khẳng định viên công an này đi qua đó nhưng không tham gia đánh đập các nạn nhân. Người ta có quyền đặt câu hỏi: Tại sao là khách xa lạ từ nơi khác đến, các LS lại nhận ra một người trong hệ thống công an xã mà họ chưa từng gặp, chưa từng thù oán lại đến đánh họ? Chẳng lẽ các luật sư này đã chiêm bao thấy tên Cửu này?
Khi côn đồ được dùng như một giải pháp

Tại Việt Nam, một thời khi công nghệ thông tin chưa phát triển, người dân thấy công an như thấy cọp, thì công an muốn làm gì đều được, muốn bắt bớ, đánh đập hoặc làm gì thì cũng không ai dám hé răng nửa lời. Họ có thấy cũng coi như giả điếc, có chứng kiến cũng như không.
Thế nhưng, thời nay đã khác. Khi Internet phổ cập khắp mọi nơi, một chiếc điện thoại rẻ tiền từ một hang cùng ngõ hẻm nào đó cũng có thể cho cả thế giới thấy được sự thật đang diễn ra bằng hình ảnh, âm thanh sống động, thì mọi hành động bạo lực, vô đạo đức và nhân tâm sẽ khó khăn che giấu hơn. Nhiều hành động, việc làm càn rỡ bất chấp luật pháp và nhân tính đã được tung lên mạng, nhiều vụ việc đã được phơi bày trước công chúng và công luận, thì việc công an mang sắc phục làm những việc bất chấp luật pháp rất dễ bị phơi bày và khó chối.
Nhiều sự việc đã được đưa lên mạng, lực lượng công an chối quanh một cách ngây ngô, khiên cưỡng đã chỉ càng làm cho người dân nhận thấy bản chất của sự việc và cách nhìn của người dân đã thay đổi. Vụ viên công an đạp vào mặt người biểu tình yêu nước, Công an Hà Nội, tướng Nguyễn Đức Nhanh đã nhanh nhẩu cho rằng video đó được làm giả từ nước ngoài đã là một ví dụ điển hình cho sự chày cối và lý sự cùn bất chấp sự thật. Nhiều vụ việc khác đã buộc cơ quan công quyền phải vào cuộc chữa cháy cũng chỉ từ những chiếc điện thoại, máy quay phim nhỏ nhắn, rẻ tiền.
Giả danh côn đồ
Do vậy, lực lượng công an đã buộc phải dùng biện pháp khác: Giả danh côn đồ.

Những năm trước đây, khi muốn khủng bố nhà thờ, tu viện Thái Hà, Tòa TGM Hà Nội, từng đoàn người được huy động kêu gào cả đêm đòi giết người. Hình ảnh đó đã bị công luận trong nước và quốc tế lên án mãnh liệt. Nhà cầm quyền đã chối quanh: Đó là do “Quần chúng tự phát” – Lời Lê Dũng, phát ngôn viên Bộ ngoại giao. Tuy nhiên, người ta đã không khó để vạch trần con bài này và vạch rõ đây là cách để dẫn đất nước vào trình trạng vô chính phủ và không luật pháp. Và từ đó việc dùng cách này coi chừng không hiệu quả.
Những vụ bắt bớ người biểu tình yêu nước, khủng bố cá nhân những nhân sỹ, trí thức, người bất đồng chính kiến… nhưng không thể căn cứ trên bất cứ một cơ sở pháp luật nào, họ dùng côn đồ, những người không sắc phục xông đến bắt giữ, đánh đập không thương tiếc các nạn nhân. Điều này nhằm che đi sự vô luân và vô luật trước công luận và công chúng
Khi những hình ảnh, video được đưa lên, nhà cầm quyền ráo hoảnh: Đây là những nhóm nào, chúng tôi không biết. Thậm chí còn “sẽ điều tra’. Thế nhưng, cái gọi là điều tra, làm rõ của họ, thì dần dần người ta nghe như một bản nhạc cũ rích và nhàm chán. Chỉ có tác dụng bào mòn thêm chút còn lại nào đó gọi là niềm tin mà thôi. Bởi không ai lạ gì những “côn đồ” đó là ai.
Trong nhiều trường hợp, công an đóng vai côn đồ đánh đập, bắt giữ người dân, vào đồn hiện nguyên hình Công an với đầy đủ sắc phục. Việc đánh đập chúng tôi khi đến thăm nhà Trần Anh Kim ở Thái Bình là một minh chứng cụ thể.
Còn trong nhiều trường hợp khác, công an sắc phục đầy đủ trong đồn, ra ngoài thay áo đóng vai côn đồ để đánh đập công dân ngang nhiên. Vụ đánh đập Nguyễn Văn Phương, người biểu tình yêu nước trước trại Lộc Hà là một ví dụ điển hình.
Thực ra không ai lạ, bởi cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, huống chi là cả một hệ thống.
Được thể của nhà cầm quyền dung túng và tổ chức, gần đây một số người tự xưng là “Dư luận viên” đã xông đến nhà công dân tổ chức gây gổ, hò hét náo loạn và đánh người vì một cái cớ hoàn toàn bất chấp pháp luật. Chúng hành động và tuyên bố “Việc gì nhà nước không làm được, thì chúng ta làm” – Nghĩa là việc gì dưới danh nghĩa chính thức nhà nước không làm được vì sợ dư luận, thì họ, những người được tổ chức và trả tiền không chính thức sẽ làm, dù đó là những việc bất chấp luật pháp và nhân tính.
Khi một lực lượng, một nhà nước mà sử dụng các biện pháp, cách làm không chính danh, tự nó đã thể hiện sự yếu, sự kém, sự hèn và sự bất chính của mình.
Công an Hà Nội đã tự bộc lộ mình?
Lẽ ra, một vụ án đơn giản như cái chết của Đỗ Đăng Dư, cơ quan Công an Hà Nội chỉ cần xác định rõ, chứng minh rõ ràng và kịp thời về cái chết của em do đâu mà có, bằng những chứng cứ và cơ sở hẳn hoi để gia đình và xã hội biết. Thế nhưng, họ đã lúng túng và hành xử khuất tất để gia đình và xã hội đặt nhiều câu hỏi nghi vấn.
Những lúng túng, bất nhất của Công an Hà Nội như đã nói ở trên và cách hành xử đối với các nạn nhân là hai luật sư bảo vệ quyền lợi cho gia đình nạn nhân Đỗ Đăng Dư đã là cơ hội cho việc những nghi ngờ ngày càng lớn lên. Nói theo ngôn ngữ dân gian, thì câu ngạn ngữ “đường đi hay tối, nói dối hay cùng” đã có cơ hội chứng minh sự đúng đắn của nó.
Trước hết, các luật sư bảo vệ miễn phí cho gia đình Đỗ Đăng Dư đã phải khiếu nại khi không được cấp giấy bào chữa cho nạn nhân dù đã quá hạn. Luật sư Trần Thu Nam, nạn nhân trong vụ bị đánh đập, là người đã vào tận phòng mổ tử thi Đỗ Đăng Dư với Công an và Pháp Y quân đội. Lẽ nào vị LS này rỗi việc đi chơi và đến đó chứ không được gia đình đồng ý? LS Hà Huy Sơn, có giấy yêu cầu của mẹ Đỗ Đăng Dư vẫn không được chấp nhận là LS bào chữa (?).
Sau đó là hàng loạt sự khuất tất trong vụ đánh hai luật sư bị dư luận phản ứng. Tất cả đã nói lên điều gì qua vụ án này?
Ở đây, điều vướng mắc lớn nhất, là việc chết của cháu Đỗ Đăng Dư lại xảy ra trong đồn Công an Chương Mỹ, Hà Nội.
Mà xưa nay, hễ đã dính vào Công an, thì mọi việc đòi hỏi công lý sẽ trở nên khó khăn, thậm chí là vô vọng, mọi cái chết đều nhẹ nhàng dù chết trong đồn hay chết bởi một tên công an khát máu đánh người ngoài đường rồi để chờ cho đến chết, đều là chuyện nhỏ.
Người ta có quyền so sánh những vụ việc như sau:
– Cô người mẫu Trang Trần bị tòa tuyên án 9 tháng tù treo chỉ vì chửi công an.
– Năm công an đánh người ngã gục rồi bắt quỳ xem nhậu, đến khi phải đi viện chỉ bị cảnh cáo.
– Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 5-3-2013 vừa qua, TAND huyện Thanh Trì đã tuyên phạt bị cáo Huyền 12 tháng tù giam vì đã hắt xô nước mắm vào Công an.
– Nhưng viên Trung tá Công an đánh ông Trịnh Xuân Tùng gãy cổ, xong xiềng lại cho đến khi đi bệnh viện thì chết chỉ bị tuyên phạt 4 năm tù.
– Thiếu nữ tát cảnh sát giao thông bị phạt 9 tháng tù.
– Trung tá Công an đánh dã man, bầm dập một nữ công nhân vì nghi oan trộm điện thoại, chỉ bị giáng cấp.
Dường như, đã là công an, thì được xếp vào một thứ hạng cao hơn tất cả những thành phần dân chúng còn lại, họ có thể ngang nhiên vi phạm luật pháp, coi thường đạo đức, nhân cách… Nhưng họ sẽ chỉ bị xử lý kiểu gãi ghẻ mà thôi?
Ở xã hội Việt Nam, hễ những tội ác, những quan hệ với công an và dân thường trong xã hội xảy ra, thì nó rất ứng nghiệm và chứng minh rõ ràng một câu trong tác phẩm “Trại súc vật” của tiểu thuyết gia George Orwell (1903-1950). Ở trong xã hội đó, hiến pháp, mọi luật lệ đều chung quy lại như sau: “Bảy điều răn được giảm xuống còn một câu duy nhất: “Tất cả các loài vật đều bình đằng, nhưng một số loài vật bình đẳng hơn những loài vật khác.”
Và những hành xử của Công an Hà Nội qua vụ cái chết của em Đỗ Đăng Dư, đã tự nó nói lên bản chất vụ án là gì.
Hà Nội, ngày 12/11/2015
J.B Nguyễn Hữu Vinh
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA
Ai xỏ mũi ai ?
Ai xỏ mũi ai ?
14-11-2015
Câu chuyện về chủ quyền biển đảo Việt Nam là đề tài nóng trong suốt một thập kỷ gần đây. Bắt đầu từ việc quốc vụ viện Trung Quốc tuyên bố thành lập thành phố hành chính với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam dưới cái tên Trung Quốc đặt là Tam Sa, Tây Sa.
Hành động này của Trung Quốc lập tức gây phẫn nộ trong nhân dân Việt Nam, ở hai đầu đất nước Việt Nam là Hà Nội và Sài Gòn lần đầu tiên đã nổ ra biểu tình nội dung phản đối hành vi ngang ngược trên của Trung Quốc. Đó là những ngày đầu tháng 12 năm 2007.
Từ đó đến nay, câu chuyện về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sau bao năm không được nhắc tới, bỗng cháy bỏng trong lòng người Việt Nam ở bất cứ đâu trên trái đất này. Không phân biệt mầu cờ, sắc áo. Ở trong nước liên tiếp nổ ra biểu tình phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc, như năm 2011 có đến 11 cuộc biểu tình diễn ra trong suốt cả mùa hè. Ở nước ngoài cộng đồng người Việt cũng tổ chức nhiều cuộc biểu tình như vậy. Người ta chứng kiến người Việt mang cờ vàng ba vạch đỏ và người Việt xuất khẩu lao động mang cờ đỏ sao vàng, tuy tổ chức các nơi khác nhau nhưng đều chung mục đích phản đối hành vi xâm lược của Trung Quốc đối với hai quần đảo Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam, nhà nước Việt Nam đều lên tiếng đề nghị Trung Quốc chấm dứt hành vi xây dựng trái phép trên hai quần đảo của Việt Nam, đề nghị Trung Quốc không gia tăng hành động gây sứt mẻ quan hệ hai nước.
Dường như hành động của nhà nước Cộng Sản Việt Nam có điều gì không ổn ở đây. Những lời đề nghị của họ đối với Trung Quốc như một cách đồng loã để làm giảm đi tính chất thật sự của hành động xâm lược. Có lẽ để không làm mất lòng Trung Quốc và trước sự phẫn nộ của dân chúng Việt Nam. Nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã chọn một lối đi rất an toàn cho họ. Đó là lên án Trung Quốc vừa phải như đề nghị, mong muốn, và giảm nhẹ hình ảnh việc xâm lược thành xây dựng, chiếm giữ trái phép.
Mặt khác nhà nước Cộng Sản Việt Nam bắt bỏ tù những người biểu tình hăng hái nhất để làm giảm nhiệt các cuộc biểu tình. Một cách nham hiểm hơn, nhà nước CSVN tuyên truyền định hướng cho nhân dân nên bảo vệ chủ quyền bằng cách tìm bằng chứng xác nhận chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo bị Trung Quốc chiếm đóng trên.
Không hiểu Cộng Sản Trung Quốc xỏ mũi Cộng Sản Việt Nam đi vào mê lộ tìm bằng chứng chủ quyền hay là Cộng Sản Việt Nam xỏ mũi người dân Việt Nam bằng cách khuyến khích họ đấu tranh giữ chủ quyền bằng cách đi tìm bằng chứng?
Hàng loạt phong trào tìm hiểu lịch sử biển đảo được phát động, nhiều nhà khảo cổ, nghiên cứu cũng đam mê đi tìm bản đồ, bằng chứng này nọ để khẳng định chủ quyền Việt Nam với hai quần đảo trên. Dẫn đến việc Trung Quốc đưa ra bằng chứng của họ bằng bản đồ cổ xưa, Việt Nam cũng đưa ra bản đồ cổ xưa. Cứ lằng nhằng như thế kéo dài từ năm này qua năm khác, trong khi đó Trung Quốc gia tăng xây dựng thành phố trên đảo, trường học, bệnh viện, căn cứ quân sự , đường băng cho máy bay quân sự và hải đăng ….và Trung Quốc còn tiến bước nữa là đổ cát xây đảo ngầm thành đảo cạn.
Sau khi cả dân chúng đi vào mê lộ của việc tìm bằng chứng chủ quyền từ thời tám hoánh. Để rồi Nhà nước Việt Nam ngậm ngùi than vãn không thể đưa vấn đề này ra toà án quốc tế, vì ra chưa chắc chúng ta đã thắng!!! Lý do không thắng là do bằng chứng chủ quyền cổ xưa chúng ta có, Trung Quốc cũng có.
Chẳng hiểu sao nhiều người không nhận ra ý đồ thâm độc của CSVN hay CSTQ khi chọn cách giải quyết chủ quyền bằng tìm bằng chứng lịch sử cách đây vài trăm năm như vậy. Nếu như thế thì người Lã Mã có thể khoanh vùng chủ quyền của họ khắp vùng ven biển Địa Trung Hải, hoặc nếu Trung Quốc gọi biển Nam Trung Hoa là của họ thì người Ấn Độ sẽ có chủ quyền tất cả những hòn đảo và vùng nước trên Ấn Độ Dương.
CSVN hay CSTQ đang dẫn người dân Việt Nam đi vào lối tranh đấu mơ hồ, để họ có thể dễ dàng thoả hiệp với nhau.
Nhưng chẳng mấy ai nhận ra rằng, Việt Nam có một bằng chứng cực kỳ quan trọng, xác nhận chủ quyền của Việt Nam, khẳng định được tính chất xâm lược của Trung Quốc, những bằng chứng rất có giá trị trước toà án quốc tế. Đó là sinh mạng của những chiến sĩ Việt Nam đã ngã xuống trước họng súng của quân xâm lược Trung Quốc tại hai quần đảo này cách đây không lâu. Những bằng chứng gần nhất và sinh động nhất, rõ nét nhất và đầy đủ sự thuyết phục nhất.
Thật vô lý là làm sao cứ phải trưng bản đồ cổ này nọ. Trong khi chỉ cần lấy tư liệu về hành động xâm lược vũ lực , khát máu của Trung Quốc mới đây trình cho toà án quốc tế, đập vào mặt Trung Quốc là xong phần bằng chứng. TQ nói của họ từ xưa, thế Việt Nam có dùng vũ lực để chiếm không, có bắn giết dân quân họ đang sống trên đảo để chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền như họ làm không.? Chỉ biết rằng chúng tôi đang sở hữu hoà bình, chúng tôi khai thác, sử dụng hàng trăm năm mà không đánh giết ai. Vậy bỗng nhiên chúng tôi bị Trung Quốc mang tàu, súng đến thảm sát dân quân chúng tôi rồi xây căn cứ quân sự và bảo là của họ.
Trưng ra những bằng chứng mới nhất bằng máu, nước mắt do Trung Quốc gây ra với quân dân Việt Nam. Những tội ác tàn bạo mang tính xâm lược, thôn tính, chiếm đoạt..là những bằng chứng rõ ràng và hùng hồn, đanh thép nhất để khẳng định chủ quyền. Thế nhưng CSVN đã làm ngơ bằng chứng giá trị này, xúi dục dân chúng đi vào việc hão huyền sẽ làm đau đầu, tốn công của toà án quốc tế, dư luận quốc tế qua việc, lấy những bằng chứng từ thời ông bà, ông vải ra.
Dường như CSTQ đã đặt cho CSVN chọn lựa đường lối giành lấy chủ quyền trong khuôn khổ cái gọi là ” vừa hợp tác vừa đấu tranh ” và trong khái niệm này thì CSTQ cho CSVN đấu tranh bằng cách đi tìm bằng chứng chủ quyền qua những giấy tờ, bản đồ xưa cũ từ 100 năm đổ về trước. Còn chuyện mới đây không được nhắc đến. Thêm nữa là CSVN chỉ được lên tiếng phản đối trong khuôn khổ những từ ngữ như đề nghị, chiếm giữ trái phép…không được gọi là xâm lược vũ trang. Về hành động Trung Quốc chỉ cho phép Việt Nam dùng ngư dân ra biển để khẳng định chủ quyền.
Và tranh chấp thế nào có thế nào đi nữa, CSVN cũng phải tuân theo đường lối 3 không đã cam kết với Trung Quốc. Không được liên minh quân sự với nước khác, không được cho nước khác đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không được dựa vào viện trợ của nước khác để chống Trung Quốc.
CSTQ có thể xỏ mũi được CSVN. Nhưng người dân Việt Nam đừng để CSVN tiếp tay cho CSTQ xỏ mũi mình. Xin thôi ngay việc tìm bằng chứng trong lịch sử xa xưa, nhưng hội thảo bàn về chủ quyền từ thời vài trăm năm trước, đó là việc làm chả đi đến đâu trong khi chính môn lịch sử ở Việt Nam còn đang khốn nạn. Hãy tập trung tìm những bằng chứng thời bây giờ ở các vụ xâm lược vũ trang, giết người cướp đất của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1974 đến nay. Hiện nay CSVN đang cố tình làm ngơ và không nhắc nhở gì đến những bằng chứng quý giá, thiết thực đó. Củng cố những tư liệu đó trước khi chúng bị CSVN xoá sạch phi tang hộ CSTQ. Trong các hội thảo quốc tế, các cuộc nói chuyện về chủ quyền biển Đông với quốc tế, chỉ cần trưng nhưng bằng chứng đẫm máu đó ra giá trị gấp ngàn lần những tấm bản đồ, chiếu nhà vua, sắc lệnh cổ xưa nào đó.
Làm thế, để quân xâm lược CSTQ nhận được thông điệp , dù chúng xỏ mũi được chế độ CSVN ngày nay. Nhưng không bao giờ chúng xỏ mũi được người dân Việt Nam đi theo hướng ” đấu tranh” mà chúng vạch ra như người ta xỏ mũi con trâu dắt đi theo hướng nào cũng được.
Giới luật sư vào cuộc
Giới luật sư vào cuộc
RFA
Trong thời gian hai tuần trở lại đây, xã hội Việt Nam đã được chứng kiến hai sự kiện chưa từng xảy ra liên quan tới hành xử của nhà cầm quyền Việt Nam với giới luật sư. Sự việc đầu tiên, hai luật sư trần Thu Nam và Lê Văn Luân khi đi tới nhà thân chủ ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội đã bị hành hung. Sự kiện thứ hai, luật sư Trần Vũ Hải, người sẽ bảo vệ cho hai đồng nghiệp luật sư vừa bị hành hung, đã bị nhà cầm quyền Việt Nam bắt giữ trái pháp luật, gây ra một cuộc biểu tình đòi người lớn nhất từ trước tới nay tại Hà Nội. Sự việc sau là hệ quả của sự việc trước, cộng với việc giới luật sư đã đồng lòng ký một kiến nghị thư đòi hủy bỏ quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa trong tố tụng hình sự và dân sự. Nhưng sự việc có lẽ có nguyên nhân từ việc luật sư Trần Thu Nam và luật sư Trần Vũ Hải ra thông báo trên trang face book cá nhân về một cuộc tuần hành của giới luật sư tới địa điểm gửi kiến nghị. Ngoại trừ vấn đề dự kiến tuần hành, tất cả các việc làm của các luật sư đều được giới luật sư và các luật sư đoàn các cấp ủng hộ. Như vậy có thể nói, giới luật sư đã vào cuộc, trong một công cuộc đòi hỏi công lý cho các cá nhân, nhưng lại là đại diện tiêu biểu của người dân đang bị nhà cầm quyền Việt Nam vi phạm nghiêm trọng các quyền con người.
Trước hết, chúng ta cần nhận định rõ, việc giới luật sư vào cuộc là việc bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền con người theo các quy định pháp luật hiện hành, bằng chính các thủ tục tố tụng và các quy định luật pháp. Giới luật sư, sẽ bảo vệ công lý thông qua các vụ việc bảo vệ thân chủ, là người dân bình thường, hoặc chính các luật sư bị vi phạm, bị xâm phạm các quyền con người. Sự việc này trở thành sự kiện quan trọng chỉ bởi vì đối tượng vi phạm, xâm phạm các quyền con người lại là bộ máy hành pháp của nhà cầm quyền Việt Nam, đặc biệt hơn, lại là lực lượng công an, quyền lực bao trùm lên tất cả và đang trở thành lực lượng kiêu binh trong xã hội. Nhận thức này cũng sẽ loại trừ ngay từ đầu những luận điệu xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ và bóp méo mục đích, mục tiêu mà những luật sư có lương tri đã và đang dấn thân. Họ không hề có ý định, hoặc thực hiện việc gây rối, hay âm mưu lật đổ chế độ, mà chỉ thực hiện quyền công dân, quyền hành nghề luật sư để bảo vệ thân chủ hoặc tự bảo vệ nhau. Sự vào cuộc của giới luật sư, và công cuộc đấu tranh sắp tới của họ sẽ rất quyết liệt và gian truân bởi nhà cầm quyền hoàn toàn ý thức được từ trước tới nay chưa có lực lượng nào phản kháng lại có tổ chức và nắm vững pháp luật như họ.
Trong công cuộc bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền con người theo hiến pháp và pháp luật hiện hành ở Việt nam hiện nay, giới luật sư có rất nhiều sự ủng hộ cũng như các điều kiện thuận lợi.
Thứ nhất, quá trình đấu tranh của giới luật sư chính là quá trình tác nghiệp của họ, được luật pháp bảo vệ, được dư luận xã hội tôn trọng và ủng hộ. Cùng họp bàn nhau để đòi lại đồ đạc bị thu giữ bất hợp pháp, hoặc viết đơn kiện vi phạm quyền con người nếu là những người đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ thực hiện sẽ bị theo dõi, quấy phá và ngăn chặn. Nhưng nếu là các luật sư thực hiện các việc đó, sẽ rất khó hoặc không thể ngặn chặn, quấy phá bởi lý do giản dị là họ đang tác nghiệp.
Thứ hai, giới luật sư nắm rõ luật pháp, quy trình, thủ tục tố tụng, các quy phạm pháp luật nên nhà cầm quyền không thể hành xử trái pháp luật, sai quy trình, quy định. Nếu cố tình thực hiện (như hai vụ vừa qua) thì xã hội sẽ lên án quyết liệt.
Thứ ba, công cuộc đấu tranh của các luật sư được toàn xã hội ủng hộ, cổ vũ. Sự ủng hộ nhiệt thành và tức thời là sức mạnh tinh thần động viên, nâng đỡ giới luật sư. Mạng Internet và mạng xã hội facebook đã và đang thực hiện tốt chức năng kết nối thông tin cũng như ủng hộ cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của giới luật sư. Hơn thế nữa, phong trào dân chủ Việt Nam luôn sát cánh bên các luật sư bất kể đêm ngày hay mưa nắng. Cuộc biểu tình đòi người của người dân hôm 12/11 vừa qua đã chứng tỏ giới luật sư không hề đơn độc trong công cuộc đấu tranh hết sức ý nghĩa này.
Một xã hội mà giới luật sư bảo vệ thân chủ theo đúng pháp luật hiện hành đã gặp muôn vàn khó khăn, thách thức chỉ chứng tỏ xã hội đó không hề tôn trọng pháp luật. Tuy vậy, thói quen chà đạp lên pháp luật, vi phạm nghiêm trọng quyền con người của nhà cầm quyền Việt Nam đang gặp thách thức thật sự khi giới luật sư vào cuộc. Cuộc tranh đấu mới chỉ bắt đầu, nhưng giới luật sư sẽ có sự ủng hộ của toàn xã hội, của chính nghĩa chắc chắn sẽ cùng nhân dân giành được thắng lợi cuối cùng./.
Hà Nội, ngày 13/11/2015
N.V.B
Khởi tố nhưng cần làm rõ động cơ đánh luật sư
Khởi tố nhưng cần làm rõ động cơ đánh luật sư
Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-11-13

Luật sư Trần Thu Nam hôm bị côn đồ tấn công.
Courtesy photo
Your browser does not support the audio element.
Bước chuyển mới
Khủng hoảng pháp luật, qua vụ hai luật sư bị hành hung gây thương tích trong khi thi hành nhiệm vụ ở Hà Nội, đã có bước chuyển mới. Hôm thứ sáu 13/11/2015 Công an Hà Nội công bố quyết định khởi tố vụ án cố ý gây thương tích liên quan tới hai luật sư Trần Thu Nam Và Lê Văn Luân.
Trả lời phỏng vấn của Nam Nguyên, Luật sư Trần Thu Nam cho biết ông và Luật sư Lê Văn Luân hôm 13/11 đã có buổi làm việc với Cơ quan điều tra của Công an TP. Hà Nội và được thông báo đã có quyết định khởi tố vụ án. Ông nói:
“Ngày 12 họ có quyết định khởi vụ án, tuy nhiên chưa có quyết định khởi tố bị can. Chúng tôi cho rằng, thứ nhất khởi tố vụ án rất là chậm chạp, cuộc họp báo thì chưa được chính xác như chúng tôi đã nói. Tuy nhiên họ đã bắt buộc phải làm việc này, chúng tôi hy vọng họ sẽ làm việc một cách nghiêm túc hơn.”
“ Ngày 12 họ có quyết định khởi vụ án, tuy nhiên chưa có quyết định khởi tố bị can. Chúng tôi cho rằng, thứ nhất khởi tố vụ án rất là chậm chạp, cuộc họp báo thì chưa được chính xác như chúng tôi đã nói. Tuy nhiên họ đã bắt buộc phải làm việc này, chúng tôi hy vọng họ sẽ làm việc một cách nghiêm túc hơn.
-LS Trần Thu Nam”
Ngay sau khi quyết định khởi tố vụ án liên quan tới các luật sư bị đánh, VnExpress trích lời LS Phan Trung Hoài, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng việc khởi tố thể hiện cơ quan điều tra đã lắng nghe, tiếp thu ý kiến của Liên đoàn và giới luật sư. Tuy nhiên Phó Chủ tịch Phan Trung Hoài nhấn mạnh, Liên đoàn Luật sư Việt Nam mong muốn cơ quan điều tra làm rõ sự thật khách quan, động cơ gây án để xử lý đúng pháp luật.
Cùng về vấn đề liên quan Luật sư Trần Thu Nam nhận định:
“Động cơ có nghĩa là mục đích đánh chúng tôi thì chỉ có những người bày ra mục đích đó, những người tạo ra kế hoạch đó, hoặc những người thực hiện thì mới biết động cơ nhằm mục đích gì, thì chỉ có họ biết chứ chúng tôi không biết. Chúng tôi chỉ biết rằng có công an xã đã tham gia tổ chức đánh chúng tôi, chỉ đạo những người khác đánh chúng tôi. Chúng tôi chỉ khẳng định được đến mức đó, còn những việc khác chúng tôi chưa xác minh được… động cơ mục đích thì chắc phải qua quá trình điều tra thì mới xác minh được.”
Một vụ cố ý gây thương tích, hoặc cướp giật có thể là những thường án xảy ra hàng ngày. Tuy nhiên vụ hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân bị tấn công lại được kết nối từ một chuỗi các sự kiện liên quan đến ngành công an. Trước hết là chuyện thiếu niên Đỗ Đăng Dư bị đánh chết trong trại tạm giam của Công an, gia đình nạn nhân đòi công lý. Hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân là các luật sư tình nguyện giúp đỡ pháp lý cho họ. Hai ông bị tấn công hôm 3/11/2015 tại Xã Đông Phương Yên, Huyện Chương Mỹ TP. Hà Nội, sau khi đến gặp gia đình nạn nhân Đỗ Đăng Dư.
Theo dòng thời sự Giám đốc Công an Hà Nội kiêm đại biểu quốc hội Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung đã mau chóng thay đổi quan điểm, khi chỉ đạo quyết định khởi tố vụ án mà dư luận quen gọi là vụ luật sư bị đánh. Theo Người Lao Động Online, ngày 11/11 Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa cũng là Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam có gặp gỡ tướng Nguyễn Đức Chung ngay tại Quốc hội và đề nghị cần khởi tố vụ án. Tuy nhiên tướng Chung trả lời là vụ này hai luật sư bị thương tích dưới 11% nên chưa thể khởi tố.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa đã phản biện rằng, theo điều 104 Bộ Luật hình sự thì phải khởi tố, vì vụ hành hung hai luật sư có hành vi côn đồ nguy hiểm. Trước đó vào ngày 10/11 Công an Hà Nội đã họp báo công bố kết luận điều tra, theo đó hai Luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân bị 8 người tấn công gây thương tích hôm 3/11 ở Xã Đông Phương Yên, Huyện Chương Mỹ Hà Nội là vì hai ông lái ô tô làm tung bụi bẩn. Điều này hai vị luật sư đã phản đối kịch liệt vì không đúng sự thật.
Kết luận điều tra của Công an Hà Nội không được sự đồng tình của giới chuyên môn. Riêng Đại biểu Trương Trọng Nghĩa đã có nhận định được báo chí đưa tin rộng rãi theo đó, vì phóng xe gây bắn bụi mà hành hung luật sư thì xã hội sẽ loạn.
Áp lực dư luận đè nặng ngành công an
“ Có thể nói luật sư và ngành công tố là hai trụ cột chính của một nền công lý quốc gia. Thiếu một trong hai thì công lý không thể có, đặc biệt là trụ cột luật sư. Lý do vì sao?
-Luật gia Lê Công Định”
Trong vụ này Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư Hà Nội đã có những phản ứng mạnh mẽ. Ngoài ra khối báo chí chính thống qua thông tin thời sự cũng góp phần tạo áp lực về việc giải quyết vụ việc tới nơi tới chốn. Báo chí đã tải lên mạng ảnh hai luật sư mặt bầm dập vì thương tích, gây tác động dư luận rất lớn.
Có thể nói áp lực dư luận đè nặng ngành công an, đặc biệt là công an Hà Nội. Theo các chuyên gia, áp lực lớn nhất là qua sự kiện luật sư bị đánh, hơn 200 luật sư đã ký vào kiến nghị gởi Quốc hội về việc sửa đổi Bộ Luật hình sự tố tụng, đặc biệt bãi bỏ những giấy phép và thủ tục rườm rà đối với luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi thân chủ.
Trả lời Gia Minh đài ACTD, Luật gia Lê Công Định hiện cư ngụ ở Sài Gòn nhận định:
“Có thể nói luật sư và ngành công tố là hai trụ cột chính của một nền công lý quốc gia. Thiếu một trong hai thì công lý không thể có, đặc biệt là trụ cột luật sư. Lý do vì sao? Vì công tố – bên buộc tội, luôn dựa vào sức mạnh công quyền có sẵn để truy tố những ai xét về mặt luật pháp vi phạm trật tự công cộng, gây nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên thường những cá nhân liên quan đến tố tụng hình sự họ luôn ở vào thế yếu và do đó họ luôn cần có bênh vực về phương diện pháp lý, do vậy vai trò luật sư rất quan trọng. Suốt chiều dài lịch sử nhân loại thì quyền bào chữa, quyền biện hộ các bị cáo trong những vụ án hình sự rất quan trọng, cho nên vai trò luật sư cũng được xem xét là quan trọng như một định chế để bảo vệ quyền con người.”
Vụ hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân bị tấn công trong khi thực hiện nhiệm vụ sẽ còn mất nhiều thời gian để được làm sáng tỏ, nhưng rõ ràng đã có một bước ngoặt trong cách xử lý của ngành công an. Việt Nam đang hội nhập nhanh chóng với thế giới, việc cải tổ pháp luật là nhu cầu cấp bách.






























