Đại nạn Trung Hoa thời cổ sử (bài 1)

 Đại nạn Trung Hoa thời cổ sử (bài 1)

Trần Gia Phụng

HINH CO SU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lược đồ Âu Lạc thế kỷ I-III (Nhà Hán chia Âu Lạc thành ba quận là Giao Chỉ,Cửu Chân và Nhật Nam )

Việt Nam nằm về phía nam Trung Hoa, một nước lớn so với Việt Nam. Vị trí địa lý nầy là một đại nạn thường trực cho Việt Nam, vì các nhà lãnh đạo Trung Hoa qua mọi thời đại, luôn luôn ỷ thế nước lớn, kiếm cách xâm lăng các nước nhỏ láng giềng, trong đó có Việt Nam. Bài nầy trình bày đại nạn Trung Hoa thời cổ sử.

  1. Trung Hoa xâm chiếm cổ Việt

Ở phương bắc, lúc mới lập quốc, người Trung Hoa quần tụ sinh sống chung quanh lưu vực Hoàng Hà (Huang He), phía bắc Dương Tử Giang (Yang Zi Jiang), khá xa cổ Việt. Các triều đại Trung Hoa đầu tiên theo chế độ phong kiến, tức phong hầu (phong chức) và kiến địa (cắt đất) để cai trị. Hoàng đế Trung Hoa nắm giữ chính quyền trung ương. Các vương hầu đứng đầu các tiểu quốc chung quanh gọi là chư hầu. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), nhà Châu (Chou) suy yếu. Trong các chư hầu, lúc đó nước Tần mạnh nhất.

Năm 221 trước TCN, vua nước Tần là Tần Chính tiêu diệt các chư hầu, thống nhất Trung Hoa, lên ngôi hoàng đế tức Tần Thủy Hoàng (Ch’in Shih Huang, trị vì 221-210 TCN), lập ra nhà Tần (Ch’in). Tần Thủy Hoàng bỏ chế độ phong kiến, xóa các nước nhỏ, chia Trung Hoa thành 36 quận, đặt quan cai trị, thuộc quyền hoàng đế.

Ổn định xong trung nguyên Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư (Tu Shu) và Sử Lộc (Shi Lu) cầm quân vượt qua sông Dương Tử năm 214 TCN (đinh hợi), mở mang bờ cõi xuống phương nam, chiếm vùng đất mà người Trung Hoa gọi là vùng Bách Việt, lập thành ba quận là Quế Lâm (Kueilin), Nam Hải (Nanhai), và Tượng Quận (Hsiang).

Quế Lâm nay là vùng bắc và đông Quảng Tây. Nam Hải là vùng Quảng Đông. Tượng Quận là đất cổ Việt, tức vùng Bắc Việt ngày nay. Trong ba quận nầy, Tượng Quận ở xa xôi nhất đối với Trung Hoa. Phía bắc Tượng Quận, núi non hiểm trở bao bọc, ngăn cách với Nam Hải, Quế Lâm, và trung nguyên Trung Hoa.

Đồ Thư bị người địa phương kháng cự và giết chết. Nhà Tần cử Nhâm Ngao (hay Nhâm Hiêu) làm hiệu uý quận Nam Hải và Triệu Đà (Chao T’o) làm huyện lệnh Long Xuyên (Lung-Chuan), thủ phủ của quận Nam Hải.

Năm 210 TCN (tân mão), Triệu Đà đem quân sang đánh Tượng Quận hay cổ Việt. Theo truyền thuyết, vua cổ Việt là An Dương Vương, nhờ có nỏ thần nên đã đẩy lui quân Triệu Đà. Triệu Đà liền giảng hòa và cho con trai là Trọng Thủy sang kết hôn với con gái của An Dương Vương là Mỵ Châu. Trọng Thủy lén bẻ gãy nỏ thần, thay bằng một nỏ giả, rồi về nước. Năm 208 TCN (quý tỵ), Triệu Đà tấn công An Dương Vương lần nữa, và chiếm được khu vực cổ Việt.(1)

Lúc đó, Nhâm Ngao bị bệnh qua đời. Trước khi từ trần, Nhâm Ngao khuyên Triệu Đà nên dựa vào địa thế xa xôi hiểm trở của quận Nam Hải, thành lập một nước độc lập. Năm 207 TCN (giáp ngọ), Triệu Đà chiếm Nam Hải và tự xưng vương, tức Triệu Võ Vương, đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (có tài liệu gọi là Phan Ngu hay Phan Ngung). Năm 198 TCN (quý mão), Triệu Võ Vương cử người sang cai trị cổ Việt.(Cương mục, bd. tập 1, sđd. tr. 89.)

Bên Trung Hoa, sau khi nhà Tần bị lật đổ, Hạng Võ (Xiang Yu) cùng Lưu Bang (Liu Bang) tranh hùng. Lưu Bang thành công, lên ngôi hoàng đế, tức Hán Cao Tổ (Han Kao Tsu, trị vì 202-195 TCN), lập ra nhà Hán (202 TCN – 220). Lúc đầu, Hán Cao Tổ vẫn để họ Triệu làm vương đất Nam Việt. Gần 100 năm sau, Hán Võ Đế (Han Wu Ti, trị vì 141-87 TCN) sai Lộ Bác Đức (Lu Bo De) đem quân đánh nhà Triệu năm canh ngọ (111 TCN), giết vua Triệu Dương Vương và thái phó Lữ Gia, chiếm nước Nam Việt.

Cần chú ý là Triệu Đà vốn là tướng của nhà Tần, vâng lệnh nhà Tần làm huyện lệnh Long Xuyên, thủ phủ của quận Nam Hải, nhân cơ hội xáo trộn ở Trung Hoa, đứng lên chiếm quận Nam Hải, lập ra nước Nam Việt. Triệu Đà không phải là người địa phương Bách Việt. Triệu Đà xâm lăng cổ Việt và sáp nhập cổ Việt vào nước mới của ông là Nam Việt.

Theo sử gia Ngô Thời Sỹ (thế kỷ 18), tác giả bộ Việt sử tiêu án, vì Triệu Đà sáp nhập cổ Việt vào nước Nam Việt, nên khi Nam Việt bị Lộ Bác Đức sáp nhập vào nước Trung Hoa năm 111 TCN, vùng cổ Việt cũng bị sáp nhập luôn vào Trung Hoa, chứ trước kia quân đội của triều đình Trung Hoa không xuống tận miền biên viễn xa xôi nầy. Do đó, theo Ngô Thời Sỹ, Triệu Đà chẳng những không có công gì với cổ Việt mà là người đem họa lại cho cổ Việt nữa.(2) Từ đó, cổ Việt bị Trung Hoa đô hộ cho đến năm 938, khi Ngô Quyền chiến thắng trận Bạch Đằng Giang, đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi nước.

2.- Chủ trương thuộc địa thựa dân

Khi gởi quân vượt sông Dương Tử, đánh chiếm Bách Việt, triều đình Trung Hoa thực hiện ngay chính sách thuộc địa thực dân (thực = trồng, tức trồng người). Triều đình Trung Hoa gởi người Trung Hoa, thuộc chủng Mongoloiid (Mông-cổ) đến các vùng đất mới chiếm càng ngày càng đông. Những đợt di dân đầu tiên có thể gồm hai hạng người: thứ nhất là những binh sĩ đi chiếm đất và thứ hai là những người có trọng tội, bị lưu đày đến miền biên viễn. Khi làm lệnh Long Xuyên, Triệu Đà gởi sứ về triều đình nhà Tần, xin triều đình gởi ba vạn con gái hoặc đàn bà góa sang để làm vợ binh sĩ.(3) Như thế, chứng tỏ số người gốc Hoa được gởi đến vùng Nam Hải lên khá đông.

Từ khi Triệu Võ Vương (Triệu Đà) cử người sang cai trị cổ Việt (198 TCN), người Trung Hoa thuộc chủng Mongoloiid di cư đến tận cổ Việt càng ngày càng đông, đến nỗi có sử thuyết cho rằng những người Hoa di cư nầy chính là tổ tiên người Việt. Trong thực tế những di chỉ khảo cổ cho thấy những người đầu tiên sống trên đất cổ Việt nói chung thuộc chủng người được sắp vào nhóm Indonesian hay Mã Lai Đa Đảo (Malayo-Polynesian). Những người Hoa di cư từ thời Triệu Đà đến Cổ Việt sinh sống, đã hợp chủng với người bản địa cổ Việt để trở thành tổ tiên người Việt ngày nay.

Theo sách The Living Races of Men (New York, 1966), các tiến sĩ Carleton S. Coon và Edward E. Hunt Jr. dựa trên những khảo cứu về huyết học, đã sắp người Đông Nam Á, trong đó có người Việt Nam, và người Indonesian nằm chung trong một hệ thống huyết tộc với nhau.(4) Bên cạnh đó, trong những nghiên cứu về nguồn gốc người Việt Nam, bộ bách khoa Encyclopedia Britannica (1999) đã kết luận “… rằng giữa người Việt với người Thái và các tộc hệ Indonesian có liên hệ mạnh mẽ [chặt chẽ] về xã hội và văn hóa.”(5) Các kết quả nầy cho thấy trong cuộc hợp chủng Việt Hoa thời cổ Việt, yếu tố bản địa có tính cách chủ yếu quan trọng cả về chủng tộc, lẫn văn hóa và xã hội.

Yếu tố bản địa còn thấy rõ trong hai sự kiện: 1) Thứ nhất, dầu bị đô hộ hơn một ngàn năm trong thời cổ sử, người Việt vẫn duy trì tiếng Việt, vẫn nói tiếng Việt cho đến ngày nay, trong khi chữ viết có thể thay đổi. 2) Thứ hai, đế quốc Trung Hoa xâm chiếm miền Nam sông Dương Tử, một vùng đất rộng mệnh mông với nhiều sắc dân khác nhau, duy nhất chỉ có người cổ Việt nổi lên giành độc lập, trong khi các sắc dân khác đành chịu sự đô hộ của Trung Hoa. Điều nầy cho thấy sắc dân bản địa là một thành tố quan trọng trong sự sống còn của người Việt.

Điều đặc biệt là những người Mongoloiid di cư đến sinh sống trên đất cổ Việt, từ đời nầy qua đời khác, đã gắn liền với những quyền lợi chính trị, kinh tế người bản địa cổ Việt. Từ đó những người Mongoloiid di cư đến cổ Việt được Việt hóa dần dần, và trở thành một bộ phận của dân Việt, trái ngược với chủ trương đồng hóa người Việt của triều đình Trung Hoa. (Thay vì đồng hóa người Việt theo Trung Hoa, thì người Trung Hoa di cư lại biến thành người Việt.) Có khi chính những người gốc Hoa di cư cũng nổi lên chống lại chế độ đô hộ Trung Hoa.

Tượng trưng cho khuynh hướng nầy là cuộc nổi dậy của Lương Long năm 178 (mậu ngọ), rồi của các binh sĩ triều đình Trung Hoa tại Giao Chỉ năm 184 (giáp tý), và nổi bật hơn cả là Lý Bôn năm 541 (tân dậu). Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết về Lý Bôn như sau: “Tổ tiên là người Bắc [Trung Quốc], cuối thời Tây Hán [202 TCN-25 SCN] khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam…”(6) Câu nầy không khẳng định là được bảy đời mới trở thành người Nam, nhưng ý cho thấy sống lâu năm và nhiều đời ở cổ Việt “thì thành người Nam”.

Như thế, từ thời Tần Thủy Hoàng, Trung Hoa bắt đầu xâm chiếm miền nam sông Dương Tử, tiến xuống cổ Việt. Nhà cầm quyền Trung Hoa di dân để đồng hóa vùng Bách Việt, nhưng khi đến Tượng Quận, tức cổ Việt, mưu đồ nầy bất thành, vì gặp sự chống đối mạnh mẽ của người cổ Việt, trong đó có cả những di dân từ phương bắc đến. Ngưòi cổ Việt luôn luôn kiếm cách nổi dậy chống lại nhà cầm quyền thực dân Trung Hoa, để giành lấy chủ quyền và nền độc lập của mình.

3.- Huyền thoại khai hóa

Đất cổ Việt bị Trung Hoa đô hộ từ năm 208 TCN đến năm 938, là năm Ngô Quyền đánh đưổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi cổ Việt.(7) Nhà cầm quyền Trung Hoa đưa người sang cổ Việt, vừa để biến cổ Việt thành một thuộc địa thực dân của Trung Hoa, làm phiên thuộc nhằm bảo đảm an ninh phía nam của Trung Hoa, vừa để tổ chức khai thác và bóc lột thuộc địa.

Công cuộc khai thác của những nhà đô hộ Trung Hoa chỉ nhằm phục vụ quyền lợi Trung Hoa, nhưng lại luôn luôn tự đề cao là họ đã khai hóa dân Việt mà họ cho là “Nam man”.(8) Theo sách Hậu Hán thư (Hou Han shu, sách về đời Hậu Hán, viết vào thế kỷ thứ 5): “Tục Cửu Chân làm nghề săn bắn chứ không biết dùng bò để cày. Dân thường phải mua lúa Giao Chỉ mỗi lần bị thiếu thốn. [Nhâm] Diên bèn truyền đúc các thứ điền khí dạy cho họ khẩn ruộng, ruộng đất trù mật, mỗi năm một rộng thêm; trăm họ được đầy đủ. Dân Lạc Việt lại không có phép cưới hỏi, mọi người ưa dâm dật, không quen thói sống chung với nhau, nên không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng. Vì vậy Diên gởi thư đi các huyện thuộc quyền ông, truyền cho mọi người đàn ông từ 20 đến 50 tuổi, đàn bà từ 15 đến 40 tuổi, tất cả tùy theo tuổi tác mà cưới hỏi nhau… Trước kia trong thời Bình Đế có Tích Quang, người Hán Trung làm thái thú Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy cho dân Man di ăn ở, tiếng giáo hóa cũng lừng lẫy như ông Diên…Đất Lĩnh Nam giữ phong tục Trung Hoa bắt đầu từ hai vị thái thú đó…”(9)

Đoạn văn nầy kể công hai nhân vật tiêu biểu cho các thái thú Trung Hoa, là Tích Quan (Xi Guang/ Hsi Kuang) và Nhâm Diên (Ren Yan / Jen Yen). Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ (châu thổ sông Hồng), đời vua Hán Bình Đế (1-5 SCN). Nhâm Diên làm thái thú Cửu Chân (châu thổ sông Mã) từ năm 25 đến năm 29 (SCN) thì được gọi về Trung Hoa.

Hai nhân vật nầy, theo Hậu Hán thư, đã có công:. 1) Truyền dạy việc dùng điền khí để cày ruộng. 2) Giáo hóa dân bản địa. Hai “sự nghiệp” nầy được các bộ sử Trung Hoa ca tụng và được một số bộ sử Việt Nam chép theo. Đây là hai vấn đề tiêu biểu cần được xem xét lại:

  1. a) Thứ nhất, “Diên bèn truyền đúc các thứ điền khí dạy cho họ khẩn ruộng”. Dựa vào câu nầy, các sách xưa cho rằng chính Nhâm Diên đã dạy cho dân Việt biết cách dùng lưỡi cày bằng kim khí (điền khí) để cày ruộng. Cần chú ý là người Trung Hoa xưa ở vùng Hoàng Hà, trồng lúa mì và lúa mạch trên ruộng khô, không biết lúa gạo (lúa nước), thì làm sao giỏi kỹ thuật trồng lúa gạo ở ruộng nước mà dạy người Việt?

Trong khi đó, một tài liệu cổ của Trung Hoa xác định rõ ràng lúa trồng tại cổ Việt là loại lúa nước, theo thủy triều lên xuống mà cày cấy. Sách Giao Châu ngoại vực ký [viết khoảng giữa đời Tấn (265-420) Trung Hoa] viết: “…Hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc điền tùy theo thủy triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là Lạc dân, người cai quản dân gọi là Lạc vương, người phó là Lạc tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu…”(10) “Theo thủy triều lên xuống mà cày cấy” chính là lúa trồng trong ruộng nước, hay lúa gạo.

Càng ngày càng có nhiều khảo cứu của các học giả Hoa Kỳ, Nga, Trung Hoa và cả Việt Nam, cho thấy rằng Đông Nam Á là trung tâm đầu tiên trên thế giới của nền văn minh lúa nước, rồi từ đó lan truyền đi khắp nơi trên thế giới. Cũng theo các tác giả trên, tâm điểm của trung tâm văn minh lúa nước ở Đông nam Á chính là khu vực Hòa Bình ở Bắc Việt.(11) Hòa Bình nằm trong khu vực uốn khúc của sông Đà để đổ lên sông Hồng, gần huyện Mê Linh (tức Phú Thọ, Vĩnh Phúc), quận Giao Chỉ thời cổ Việt, nơi phát tích của Hai Bà Trưng.

Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, giáo sư nhân chủng học thuộc Đại học Hawaii, chuyên viên về tiền sử Đông Nam Á, cho biết những di chỉ ông tìm kiếm được năm 1963 mách bảo rằng sắc dân Lạc Việt ở Đông Nam Á đã biết trồng lúa và biết cách đúc đồng sớm hơn các miền Cận đông, Ấn Độ và Trung Hoa. (National Geographic, Vol. 139, No. 3, March 1971.)

Theo một tài liệu khác, tại Mê Linh (Vĩnh Phúc, Phú Thọ ngày nay) quận Giao Chỉ (châu thổ Hồng Hà), người ta tìm thấy những bộ xương trâu đã có mặt tại đây khoảng 2,000 năm trước Công nguyên, và hai lưỡi cày bằng đồng theo mô thức Đông Sơn (thế kỷ thứ 5 TCN đến thế kỷ 1 SCN) dùng cho trâu cày.(12)

Như thế, rõ ràng Nhâm Diên không phải là người khai tâm dân Việt dùng điền khí để cày cấy như Hậu Hán thư đã viết và các bộ sử khác chép theo. Dân Lạc Việt đã biết làm ruộng, trồng lúa nước (lúa gạo) và đã biết sử dụng điền khí trước khi người Trung Hoa đến xâm lăng, chứ không phải người Trung Hoa dạy dân Lạc Việt dùng điền khí để cày cấy. Lúc đó, dân Lạc Việt dùng lưỡi cày bằng đồng vì đồ đồng là nghề luyện kim chính của dân Lạc Việt (vốn nổi tiếng về trống đồng), và nhất là đồ sắt bị hạn chế, do việc bà Lữ hậu nhà Hán đã ra lệnh cấm xuất cảng sắt xuống phía nam Trung Hoa từ năm 183 TCN.(Cương mục, tr. 92.)

Vậy phải chăng Nhâm Diên, thái thú Cửu Chân (vùng châu thổ sông Mã), nơi có trung tâm trống đồng Đông Sơn (Thanh Hóa), chứng kiến cảnh dân chúng địa phương đã cày cấy bằng lưỡi cày bằng đồng theo mô thức Đông Sơn, rồi báo cáo như trên để lập công với triều đình Trung Hoa?

  1. b) Điều thứ hai, Hậu Hán thư còn cho rằng người Việt “không có phép cưới hỏi… không quen thói sống chung với nhau nên không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng”, nên Nhâm Diên dạy dân Việt cưới hỏi theo lễ giáo. Tập tục cưới hỏi, cũng như các lễ nghi, tập quán trong đời sống mỗi sắc dân mỗi khác. Người cổ Việt có phong tục của người cổ Việt. Dân Trung Hoa có tập quán của dân Trung Hoa. Dưới thời Mã Viện cai trị cổ Việt, Hậu Hán thư (quyển 54) chép rằng: “Luật dân Việt và luật nhà Hán khác nhau đến hơn mười điều.”(13)

Những tập tục cưới hỏi của các bộ tộc miền núi ở Việt Nam ngày nay, có thể xem là vết tích tập tục của người cổ Việt còn được lưu truyền. Dầu theo mẫu hệ, những tập tục cưới hỏi nầy khác với tập tục của những người ở miền đồng bằng (người Kinh), nhưng không có gì là đồi phong bại tục, đáng để lên án hay đáng để thay thế. Vì vậy, khi đô hộ cổ Việt, các nhà cai trị Trung Hoa bắt người cổ Việt bỏ những tập tục cưới hỏi của người cổ Việt, và theo những tập tục cưới hỏi Trung Quốc, là một sự áp đặt văn hóa thô bạo, chứ không phải là giáo hóa cho người cổ Việt.

Duy có một điều chắc chắn là cưới hỏi theo lễ giáo Trung Hoa, tức cưới hỏi theo phụ hệ, để “biết tình cha con, đạo vợ chồng”, nghĩa là lập thành từng hộ gia đình nhỏ. Điều nầy đối với những nhà đô hộ Trung Hoa có hai điều lợi cho công việc cai trị. Thứ nhất, qua các hộ gia đình, nhà cầm quyền đô hộ nắm vững tình hình dân số, tình hình an ninh địa phương. Thứ hai, nhà cầm quyền đô hộ sẽ dựa vào số hộ dân để thu thuế theo cách mà Vệ Ưởng (Wei Yang) hay Thương Ưởng (Shang Yang, 390-338 TCN), đã thiết lập tại Trung Hoa từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên.(14) An ninh và thu thuế là hai mục đích hàng đầu của chế độ đô hộ bóc lột.

Ngoài Nhâm Diên, thái thú Tích Quang “lấy lễ nghĩa dạy cho dân Man di ăn ở, tiếng giáo hóa cũng lừng lẫy…”. Lễ nghĩa mà Tích Quang phổ biến cho dân chúng cổ Việt chắc chắn không ngoài lễ nghĩa Nho giáo, với ba giềng mối chính là tam cương (vua tôi, chồng vợ, cha con) và năm đạo chính là ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Ai cũng biết Nho giáo là một triết thuyết chính trị hậu thuẫn cho chế độ quân chủ, trong đó đứng đầu là đạo “trung quân”. Trung quân có nghĩa là trung thành với vua. Lúc đó cổ Việt không có vua; chỉ có vua Trung Hoa. Trung thành với vua Trung Hoa là mặc nhiên chấp nhận nền đô hộ của Trung Hoa. Như thế, lễ giáo của Tích Quang cũng chỉ để ổn định xã hội và phục vụ cho công cuộc thống trị của thực dân Trung Hoa.

Công việc “giáo hóa” của hai thái thú Tích Quang và Nhâm Diên, nhất là việc áp dụng tục lệ cưới hỏi theo lễ nghi Trung Hoa, bị người Việt chống đối. Một tờ trình của Tiết Tống (Hsueh Tsung) vào năm 231, 5 năm sau khi Sĩ Nhiếp chết, gởi cho triều đình Đông Ngô thời Tam quốc (213 – 280), cho rằng cho đến khi Tiết Tống đến Giao Chỉ dưới thời Sĩ Nhiếp (Shi She) làm thái thú (từ 187 đến 226), tức là sau mấy trăm năm đô hộ, ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa không đúng theo như các báo cáo trước đó; người Giao Chỉ và Cửu Chân vẫn còn giữ tục lệ gia đình của họ.(15)

Điều nầy không lạ, vì đến thế kỷ 15, Quốc triều hình luật thời nhà Hậu Lê đã thừa nhận trong điều 40 rằng: “Người “man liêu” là người sắc tộc thiểu số và tuy có văn hóa khác với dân Việt, vẫn thuộc thành phần quốc dân Đại Việt…”(16) Hơn nữa, cho đến ngày nay, tức 20 thế kỷ sau, vùng rừng núi Việt Nam vẫn còn một số bộ tộc theo mẫu hệ, tập quán riêng của họ.

Như thế, chuyện Nhâm Diên dạy cho dân Việt dùng điền khí để cày cấy, hay chuyện Nhâm Diên và Tích Quang giáo hóa dân Việt, đều chỉ là những huyền thoại làm đẹp cho chế độ đô hộ. Trong khi đó người Trung Hoa học cách cày cấy lúa nước của người Việt và du nhập lúa nước vào Trung Quốc, làm phong phú sinh hoạt kinh tế Trung Hoa.

Trong sách Ancient China (1967), tác giả Edward H. Schafer viết rằng: “Thuật trồng lúa gạo và thuần hóa gia súc chắc chắn [Trung Hoa] đã tiếp thu từ các sắc dân tầm thường ở miền nam xa xôi hẻo lánh [nam Man].” (Nguyên văn: “The art of cultivating rice and domesticating cattle were doubtless adopted from the despised races of the remote south.”)(17a)

Cũng nhà nghiên cứu nầy cho rằng Đức Khổng Tử (551-478 TCN), người tỉnh Sơn Đông (Shandong) vùng hạ lưu Hoàng Hà và ở phía bắc sông Dương Tử, “sống chủ yếu bằng loại bánh làm bằng kê”. (nguyên văn: “…Confucius have subsisted chiefly on millet cakes…”), và “Khổng Tử chưa bao giờ thưởng thức trà, và chắc chắn rằng Vương Xung, sáu thế kỷ sau, cũng thế.” (nguyên văn: “…Confucius never tasted tea, and it is doubtful that Wang Ch’ung, six centuries later, did either….”(17b) Trà là loại giải khát cũng phát xuất từ miền nam.

Chủ trương bóc lột của triều đình Trung Hoa khi nặng khi nhẹ, tùy hoàn cảnh và tùy tư cách của các thái thú Trung Hoa, có người tốt kẻ xấu, nhưng thực chất trước sau cũng đều chỉ nhắm mục đích vơ vét cho Trung Hoa. Chính sách bóc lột nầy lên cao điểm khi vua Hán Quang Võ (Han Guang Wu) cử Tô Định (Su Ding) sang làm thái thú Giao Chỉ năm 34 (giáp ngọ). Tô Định rất tham tàn và hà khắc, áp dụng chủ trương khai thác và bóc lột một cách triệt để, đã đưa đến cuộc khởi nghĩa giành độc lập đầu tiên năm 40 (canh tý) của dân cổ Việt do Hai Bà Trưng lãnh đạo.

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bị thất bại năm 43 (quý mão). Sau đó, trong suốt mười thế kỷ, người Việt nhiều lần nổi lên chống quân xâm lược Trung Hoa: Triệu Thị Trinh (248), Lý Nam Đế (541), Lý Phật Tử (603), Lý Tự Tiên (602), Mai Thúc Loan (727), Phùng Hưng (767), Dương Thanh (819), Vương Thắng Triều (828), Khúc Thừa Dụ (905) Dương Diên Nghệ (931). Cuối cùng, Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán năm 938 (mậu tuất), thực hiện được giấc mộng độc lập của dân tộc Việt.

Kết luận

Tóm lại, đối với người Việt, đại nạn Trung Hoa bắt đầu từ thời cổ sử. Ngay khi mới thống nhất Trung Hoa, triều đình nhà Tần đã chủ trương bành trướng và đưa quân vượt sông Dương Tử, chiếm Bách Việt, tiến xuống xâm lăng cổ Việt. Trong suốt hơn 1,000 năm đô hộ cổ Việt, từ năm 208 trước Công nguyên đến năm 938 sau Công nguyên, các thái thú Trung Hoa không ngừng vơ vét tài nguyên cổ Việt để cung ứng cho triều đình Trung Hoa.

Tuy người Việt đã đánh đuổi được quân Trung Hoa ra khỏi nước để giành lấy độc lập tự chủ, nhưng sau hơn một ngàn năm đô hộ nước Việt, người Trung Hoa vẫn mang một số định kiến lạ lùng đối với người Việt.

Thứ nhất, cho đến thế kỷ 20, mà một nhà cách mạng dân chủ như bác sĩ Tôn Văn (1866-1925), đã nói với Khuyển Dưỡng Nghị (chính khách Nhật Bản): “Người Việt Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa họ bị chúng tôi đô hộ, ngày nay họ bị Pháp đô hộ. Dân tộc ấy không có tương lai.”(18) Thật là một câu nói ngạo mạn!

Thứ hai, các nhà cầm quyền Trung Hoa tự cho rằng nước Việt là một phiên thuộc của Trung Hoa, một phần đất của Trung Hoa. Khi Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ Việt Nam, buộc triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước năm 1874, Pháp báo hòa ước nầy cho triều đình nhà Thanh ngày 24-5-1875. Triều đình nhà Thanh trả lời rằng: “Chí Giao Chỉ tức Việt Nam bổn hệ Trung Hoa thuộc quốc.” (tạm dịch nghĩa: “Từ Giao Chỉ đến Việt Nam vốn là thuộc quốc của Trung Hoa.”)(19) Vì vậy nhà Thanh đòi hỏi Pháp phải thương thuyết với Trung Hoa về vấn đề Việt Nam.

Năm 1939, trong một tài liệu của đảng Cộng Sản Trung Hoa, tựa đề là “Cách mạng Trung Quốc và đảng Cộng Sản Trung Quốc”, lãnh tụ đảng CSTH là Mao Trạch Đông đã xác quyết: “Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ, và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Hương Cảng, Pháp chiếm An-Nam.”(20)

Do những định kiến ưu quyền trịch thượng đối với Việt Nam, các nhà cầm quyền Trung Hoa luôn luôn có dã tâm xâm lăng Việt Nam, mà không để cho người Việt yên sống hòa bình.

Chú thích:

  1. 1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, (viết tắt: Cương mục), (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb. Giáo Dục, 1998, tập 1, tt. 80-89.
    2. Ngô Thời Sỹ, Việt sử tiêu án, bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn, San Jose: Văn Sử tái bản, 1991, tr. 34.
    3. Nguyễn Phương, Việt Nam thời khai sinh, Huế: Phòng Nghiên cứu Sử, Viện Đại Học, 1965, tr. 235.
    4. Carleton S. Coon & Edward E. Hunt J., The Living Races of Man, New York: Nxb. Alfred A. Knopf, 1966, đồ bản 12, tr. 286.
    5. Encyclopedia Britannica, 1999, (CD), “Vietnam History…”
    6. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: bản dịch Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, tr. 178. Nếu trung bình một đời (một thế hệ) là 23 đến 25 năm, thì 7 đời là từ 161 đến 175 năm. Nhà Hán (Han, 202 TCN – 220) ở Trung Hoa được chia thành 2 giai đoạn: Tiền Hán hay Tây Hán (Former Han, 202 TCN – 25) và Hậu Hán hay Đông Hán (Later Han, 25-220). Giữa Tiền Hán và Hậu Hán, từ năm 9 đến năm 23 là thời gian do Vương Mãng (Wang Mang) đảo chánh và cầm quyền.
    7. Bên Trung Hoa, nhà Đường (Tang) chấm dứt năm 907 khi Chu Toàn Trung (Chu Ch’uan-chung) đảo chánh, lật đổ Đường Ai Đế (trị vì 904-907), tự mình lên làm vua, tức Lương Thái Tổ (trị vì 907-914), lập ra nhà Hậu Lương (907-923). Từ đó Trung Hoa rơi vào tình trạng hết sức xáo trộn gọi là đời Ngũ đại Thập quốc. Ở miền bắc Trung Hoa có năm triều đại kế tiếp nhau trong thời gian ngắn là Hậu Lương (907- 923), Hậu Đường (923-935), Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (948-950), Hậu Châu (951-959). Ở miền nam Trung Hoa, trước sau mười nước được thành lập, nên gọi là Thập quốc: so với ngày nay nước Ngô ở An Huy, Tiền Thục ở Tứ Xuyên, Ngô Việt ở Chiết Giang, Sở ở Hồ Nam, Mân Việt ở Phúc Kiến, Nam Hán ở Quảng Đông, Nam Bình ở Hồ Bắc, Hậu Thục ở Tứ Xuyên, Nam Đường ở Giang Tô và Bắc Hán ở Sơn Tây. Nước Nam Hán do Lưu Cung thành lập năm 917 ở Quảng Đông, là nước chiếm đóng Giao Châu. Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán năm 938, giành độc lập vĩnh viễn.
    8. Người Trung Hoa luôn luôn tự hào và gọi các sắc dân chung quanh là đông Di, tây Địch, bắc Nhung, nam Man.
    9. Nguyễn Phương trích dịch, sđd. tt. 186-187.
    10. Lê Tắc, An Nam chí lược [chữ Nho],Huế: Uỷ ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam,Viện Đại học Huế, phiên âm và dịch nghĩa, 1961, tr. 39.
    11. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TpHCM, 1997, tt. 75-86.
    12. Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam [Việt Nam khai sinh], University of California Press, 1983, tr. 35.
    13. Nguyễn Phương, sđd. trích dịch, tr. 137.
    14. Bên Trung Hoa, thời Chiến quốc (479-221 TCN), tại nước Tần, dưới đời Tần Hiếu Công (cầm quyền 361-338 TCN), tể tướng Thương Ưởng (390-338 TCN), bày ra cách tổ chức hộ khẩu để thu thuế. Đến đời Đường, từ thế kỷ thứ 7 mới bỏ thuế theo sổ hộ khẩu, đặt ra thuế “dung” đánh vào từng cá nhân (tức thuế đinh).
    15. Keith Weller Taylor, sđd. tr. 75. Về việc nầy, tác giả Taylor căn cứ trên sách Tam quốc chí của Trần Thọ. (Sách nầy khác với Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung là một bộ tiểu thuyết.)
    16. Nguyễn Ngọc Huy, Quốc triều hình luật, phiên âm, dịch nghĩa và chú thích, Viet Publisher Thư Quán, Hoa Kỳ, tr. 188.
    17. Edward H. Schafer, Ancient China, New York: Time-Life Books, 1967, tr. 16 (17a), tt. 37, 38 (17b). Wang Ch’ung tức Vương Xung (27-97), triết gia thời Đông Hán (25-220) là tác giả nhiều sách lý luận về triết học, trong đó quan trọng nhất là bộ Luận hoành (Lun Heng, 30 quyển). Hoành là cái cân, nghĩa rộng là cân nhắc, so sánh.
    18. Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, [nguyên bản bằng Anh văn], bản dịch của Mạc Định, Paris: 1962, tr. 22.
    19. Yoshiharu Tsuboii, Nước Đại Nam đối diện với Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch, TpHCM: Ban Khoa Học Xã Hội, 1990, tr. 142.
    20. Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.                                       Trần Gia Phụng

Đại nạn Trung Hoa thời trung sử (bài 2)

Đại nạn Trung Hoa thời trung sử (bài 2)

Trần Gia Phụng

Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán (Trung Hoa) tại Bạch Đằng Giang năm 938 (mậu tuất) và xưng vương năm 939 (kỷ hợi), đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay). Từ đây, nước Việt vĩnh viễn thoát ra khỏi cảnh đô hộ của Trung Hoa, nhưng các triều đình Trung Hoa vẫn tiếp tục nhiều lần đem quân sang xâm lấn nước Việt.

Lần thứ nhất (981)

Sau cuộc đảo chánh không đổ máu lật đổ nhà Đinh (968-980), Lê Hoàn lên làm vua năm 980 (canh thìn), tiếp tục đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay). Về sau, ông thường được sử sách gọi là Lê Đại Hành.

Biết tình hình Đại Cồ Việt (quốc hiệu từ thời vua Đinh Tiên Hoàng) đang xáo trộn vì chuyện đổi ngôi, vua Trung Hoa là Tống Thái Tông (trị vì 976-997) sai sứ đem thư qua khuyến dụ và đe dọa. Lê Hoàn (trị vì 980-1005) lấy danh nghĩa con của vua Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Toàn, xin nhà Tống (Sung, 960-1279) cho nối ngôi vua cha. Tuy nhiên triều đình nhà Tống nắm rõ tình thế nước Nam, biết Lê Hoàn đã giành ngôi của Đinh Toàn, con của Đinh Tiên Hoàng, nên sai người đem một thư khác qua nói rằng “…Họ Đinh truyền nối được ba đời [ý chỉ Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Đinh Toàn], trẫm muốn cho Đinh Toàn làm thống súy, khanh [chỉ Lê Hoàn] thì làm phó. Nếu Đinh Toàn không đáng tướng tài, hãy còn tính khí trẻ con thì nên cho ngay mẹ con và thân thuộc y sang đây…”

Lê Hoàn biết không thể tiếp tục thương lượng, nên chỉ còn con đường duy nhất là chuẩn bị lực lượng để kháng Tống. Trong khi đó, quân Tống chia làm hai đường thủy bộ tiến vào nước ta năm 981 (tân tỵ). Đường bộ do Hầu Nhân Bảo cùng Tôn Toàn Hưng tiến theo ngả Lạng Sơn, còn đường thủy do Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng từ mặt biển tiến vào bằng đường sông Bạch Đằng.

Trên đường bộ, Hầu Nhân Bảo tiến đến Chi Lăng (Lạng Sơn), trúng phải kế trá hàng, lọt vào vùng phục kích của quân Việt, và bị bắt giết. Quân Việt phản công mạnh mẽ, quân Tống thiệt hại nặng, hai bộ tướng của Hầu Nhân Bảo là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt. Sau trận Chi Lăng, các lực lượng thủy bộ của nhà Tống đều rút lui.

Tuy chiến thắng, Lê Hoàn vẫn phải sai sứ, dưới danh nghĩa của vua Đinh Toàn, sang nhà Tống năm 982 (nhâm ngọ) xin trả lại hai tướng đã bắt được, và xin triều cống. Nhà Tống chỉ phong cho Lê Hoàn làm tiết độ sứ. Mãi đấn hơn 10 năm sau vào năm 993 (quý tỵ), Lê Hoàn mới sai sứ giả trình bày với vua Tống rằng Đinh Toàn quyết định nhường ngôi cho mình. Tống Thái Tông (trị vì 976-997) biết việc Lê Hoàn nắm quyền đã lâu, nhưng không có cách gì khác hơn, nên sai sứ sang phong Lê Hoàn làm Tĩnh Hải Quân tiết độ sứ Giao Chỉ Quận Vương.

Lần thứ hai (1076-1077)

Trong thời gian nầy nhà Tống tiếp tục cai trị Trung Hoa. Vua Tống Thần Công (trị vì 1068-1085) phong cho Vương An Thạch (Wang An Shi) làm tể tướng năm 1069. Vương An Thạch (1021-1086) muốn mưu tìm một chiến công ở ngoài biên cương để hỗ trợ chính sách cải cách ở trong nước của ông ta, chuẩn bị tấn công Đại Việt.

Tại Đại Việt, nhà Lý (1010-1225) đã khá vững vàng. Triều đình vua Lý Nhân Tông (trị vì 1072-1127) biết được tin nầy, liền quyết định ra tay trước. Tháng 11 năm ất mão (1075), triều đình cử Lý Thường Kiệt đánh Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc Quảng Đông ngày nay); và cử Tôn Đản đánh Ung Châu (tức Nam Ninh thuộc Quảng Tây ngày nay) tháng giêng năm bính thìn (1076). Sau khi hạ thành, cả hai ông cho bắt người, lấy của rồi rút lui về Đại Việt.

Tháng chạp năm bính thìn (đầu năm 1077), Tống Thần Tông sai Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ và Triệu Tiết làm Phó chiêu thảo sứ, đem quân sang trả thù. Lý Thường Kiệt chận quân Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu chảy qua xã Như Nguyệt, Bắc Ninh).

Quách Quỳ chuyển quân đến sông Phú Lương (khúc sông Hồng ở Thăng Long). Lý Thường Kiệt tiếp đánh, nhưng thế giặc rất mạnh. Máy bắn đá của địch phá chiến thuyền Việt, và làm cho nhiều binh sĩ nước ta tử trận. Sợ binh sĩ nãn lòng, Lý Thường Kiệt phao tin có thần nhân báo mộng và cho bốn câu thơ (bằng chữ Nho):

Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ”
Có người dịch là:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Quân lính nghe được những câu thơ nầy, đều hăng hái đánh giặc. Lực lượng nhà Tống bị chận đứng. Hai bên cầm cự với nhau bất phân thắng bại. Triều đình nhà Lý đề nghị bãi binh. Nhà Tống thấy khó thắng, đồng thời binh sĩ ở lại lâu, không hạp thủy thổ, đành chấp thuận. Như thế, cuộc xâm lăng của nhà Tống đầu năm 1077 bắt nguồn từ việc Lý Thường Kiệt cầm quân gây hấn nhà Tống một năm trước đó.

Lần thứ ba (1258)

Phía tây bắc Trung Hoa, tại Mông Cổ, đại hãn Mông Kha (Mangu, trị vì 1251-1259) cử em là Hốt Tất Liệt (Qubilai) cầm quân tấn công Trung Hoa năm 1251. Hốt Tất Liệt sai đại tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai), cầm một cánh quân đánh chiếm nước Đại Lý ở Vân Nam năm 1257. Ngột Lương Hợp Thai sai sứ sang yêu cầu Đại Việt thần phục Mông Cổ, nhưng vua Đại Việt lúc đó là Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258) không chịu.

Ngột Lương Hợp Thai liền theo đường sông Thao, tiến quân đánh nước Việt tháng 12 năm đinh tỵ (qua năm 1258). [Sông Thao là tên gọi đoạn sông Hồng từ biên giới Hoa Việt đến ngã ba sông Hồng và sông Đà.] Không chịu nổi sức tấn công vũ bão của quân Mông Cổ, Trần Thái Tông bỏ kinh đô Thăng Long rút về Hưng Yên, cách Thăng Long khoảng 60 km về phía nam. Quân Mông Cổ chiếm Thăng Long, cướp phá giết hại người Việt không kể già trẻ lớn nhỏ.

Trước thế nguy, Trần Thái Tông hỏi ý kiến của Trần Thủ Độ nên hòa hay chiến. Ông cương quyết trả lời: “Đầu thần chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo.” Chẳng bao lâu, quân Mông Cổ không quen thời tiết nước ta, bị bệnh tật mỏi mệt. Trần Thái Tông ra lệnh phản công, đánh đuổi quân Mông Cổ về lại Trung Hoa.

Lần thứ tư (1285)

Năm 1259, Mông Kha từ trần. Hốt Tất Liệt được hội đồng quý tộc Mông Cổ bầu lên làm đại hãn năm 1260. Hốt Tất Liệt tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294), đổi quốc hiệu là Nguyên (Yuan), đem quân xâm chiếm hoàn toàn nước Trung Hoa vào năm 1279.(1)

Trong khi đó, tại nước ta, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con là Trần Hoảng, lên làm thái thượng hoàng năm 1258 (mậu ngọ). Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông (trị vì 1258-1278). Thượng hoàng Thái Tông từ trần năm 1277 (đinh sửu). Thánh Tông lên làm thái thượng hoàng, và nhường ngôi cho thái tử Trần Khâm năm 1278 (mậu dần) tức Trần Nhân Tông (trị vì 1278-1293).

Nguyên Thế Tổ sai sứ là Sài Thung (Chai Chong) sang Đại Việt cuối năm 1278, hỏi vua Trần Nhân Tông tại sao không xin phép nhà Nguyên mà tự tiện lên ngôi? Sài Thung còn buộc nhà vua phải sang chầu hoàng đế nhà Nguyên mới được yên việc. Trần Nhân Tông tiếp sứ tử tế, nhưng cương quyết không chịu sang chầu nhà Nguyên.

Năm 1282 (nhâm ngọ), nhà Nguyên cử sứ sang nói rằng nếu vua nhà Trần không sang Trung Hoa, thì cho người đại diện sang chầu. Trần Nhân Tông cử chú họ là Trần Di Ái cầm đầu phái đoàn sang triều đình nhà Nguyên. Nguyên Thế Tổ lập tòa tuyên phủ ty, đặt quan để sang giám trị các châu huyện nước ta. Nhân Tông không nhận, trả họ về Trung Hoa. Nguyên Thế Tổ liền phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, và sai Sài Thung đem 1,000 quân, hộ tống Trần Di Ái về nước. Sài Thung đi vào bằng đường Lạng Sơn. Quân nhà Trần chận đánh; Sài Thung bị bắn mù một mắt, phải quay về nước, còn Trần Di Ái bị bắt.

Lúc đó, Nguyên Thế Tổ muốn bành trướng xuống Đông Nam Á, nhân cơ hội nầy, phong cho con là Thoát Hoan (Toyan) làm Trấn Nam Vương, lấy cớ mượn đường xuống Chiêm Thành, đem quân tấn công nước Việt tháng 12 năm giáp thân (qua năm 1285). Lần nầy quân Nguyên tấn công bằng hai đường: Thoát Hoan từ phía bắc đánh xuống, Toa Đô (Sogatu) đã qua đánh Chiêm Thành bằng đường biển từ năm 1282, nay quay ngược trở lên đánh Đại Việt.

Thoát Hoan dẫn quân qua ải Chi Lăng (Lạng Sơn), nhắm Thăng Long trực chỉ. Tướng Trần Quốc Tuấn (Hưng Đạo Vương) lui về Vạn Kiếp (Hải Dương, nơi sông Lục Nam và sông Thương gặp nhau). Trần Nhân Tông cho người mời Trần Quốc Tuấn đến bảo: “Thế giặc mạnh như vậy, ta hãy chịu hàng để cứu muôn dân.” Trần Quốc Tuấn trả lời: “Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước hãy hàng.”

Quân Mông Cổ đánh hạ Vạn Kiếp, tiến chiếm Thăng Long. Trần Quốc Tuấn rước vua về phía nam, xuống Thanh Hoa (sau nầy là Thanh Hóa). Toa Đô từ Chiêm Thành đem quân tiến lên, bị Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (em vua Thánh Tông) chận đánh ở cửa Hàm Tử (Đông An, Hưng Yên). Trần Quốc Tuấn liền đề nghị nhân đà thắng lợi nầy, tung quân khôi phục kinh thành. Trần Nhân Tông sai thượng tướng Trần Quang Khải (em vua Thánh Tông, anh của Nhật Duật) cùng với Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, đem quân từ Thanh Hoa đi vòng theo đường biển, ngược sông Hồng tiến đánh quân Mông Cổ tại bến Chương Dương (khu vực Thăng Long), rồi lên bộ bao vây thành Thăng Long. Thoát Hoan thua chạy lên Kinh Bắc. Trong khi đó, Trần Quốc Tuấn đánh Toa Đô tại Tây Kết (vùng Hưng Yên ngày nay). Toa Đô bị giết, Ô Mã Nhi (Omar) bỏ trốn. Trần Quốc Tuấn tiếp tục phản công, sai hai tướng Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão phục binh đánh tan quân Thoát Hoan ở Vạn Kiếp, trước khi Thoát Hoan trốn về nước.

Lần thứ năm (1288)

Tức giận về sự thất bại vừa qua, Nguyên Thế Tổ cử Thoát Hoan một lần nữa cầm quân qua đánh phục thù vào tháng 11 năm đinh hợi (1287). Quân nhà Nguyên tiến vào nước ta bằng ba hướng: ở giữa, Thoát Hoan tiến xuống Lạng Sơn; phía tây, một cánh quân từ Vân Nam theo đường sông Hồng tràn vào, do Ái Lỗ (Aruc) chỉ huy; và phía đông do Ô Mã Nhi đi trước, vượt biển Đông tiến vào sông Bạch Đằng. Theo sau có Trương Văn Hổ tải 17 vạn thạch lương cung cấp cho quân sĩ.

Lực lượng nhà Trần vẫn do Trần Quốc Tuấn tổng chỉ huy. Thoát Hoan chiếm Vạn Kiếp, sai Ô Mã Nhi theo sông Lục Đầu đánh xuống Thăng Long. Thượng hoàng cùng vua Trần Nhân Tông phải vào Thanh Hoa lánh nạn. Quân Mông Cổ đốt phá Thăng Long rồi rút lui về Vạn Kiếp.

Ô Mã Nhi đem chiến thuyền trở ra biển đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ngang qua Vân Đồn (Quảng Yên, nay là Vân Hải, Quảng Ninh), Trần Khánh Dư chận đánh, nhưng quân Việt bị thua. Gặp được thuyền lương, Ô Mã Nhi cùng Trương Văn Hổ quay trở vào đất liền. Rút kinh nghiệm vừa qua, Trần Khánh Dư để cho Ô Mã Nhi mở đường đi trước, đợi đến khi Trương Văn Hổ tải lương theo sau, Trần Khánh Dư mới đổ phục binh, cướp hết lương thực và khí giới. Trương Văn Hổ bỏ trốn về Trung Hoa.

Quân Nguyên càng ngày càng cạn lương thực. Thoát Hoan kiếm cách cầu viện triều đình nhà Nguyên, nhưng Trần Quốc Tuấn đã cho chận các đường giao thông ở Lạng Sơn. Thoát Hoan liền quyết định rút quân. Tháng 3 năm mậu tý (1288) Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi xuôi sông Bạch Đằng, ra biển về trước. Trần Quốc Tuấn theo kế Ngô Quyền trước kia, sai Nguyễn Khoái dùng cọc gỗ đẽo nhọn rồi bịt sắt và cắm giữa dòng sông. Nguyễn Khoái lừa Ô Mã Nhi đến chỗ phục binh có đóng cọc, đổ quân tấn công khi thủy triều xuống. Trần Quốc Tuấn lại tăng viện, đánh tan chiến thuyền Mông Cổ, và bắt sống Ô Mã Nhi.

Được tin nầy, Thoát Hoan liền theo đường bộ rút quân về Trung Hoa. Dọc đường quân Mông Cổ bị chận đánh một vài nơi, nhưng cuối cùng Thoát Hoan cũng thoát được. Trần Quốc Tuấn hội các tướng, dẫn quân rước vua Trần Nhân Tông và thượng hoàng Thánh Tông trở về Thăng Long.

Lần thứ sáu (1407)

Năm 1400 (canh thìn), đại thần Lê Quý Ly tức Hồ Quý Ly lật đổ vua Trần Thiếu Đế (trị vì 1398-1400), chấm dứt nhà Trần. Nhà Trần bắt đầu từ vua Thái Tông (trị vì 1225-1258) đến vua Thiếu Đế, truyền được mười hai đời, trong 175 năm.

Lê Quý Ly lên làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu từ Đại Việt thành Đại Ngu, lấy lại họ Hồ là họ của tổ tiên ông, tức Hồ Quý Ly. Làm vua được một năm, Hồ Quý Ly lên làm thái thượng hoàng, nhường ngôi lại cho con là Hồ Hán Thương (trị vì 1401-1407).

Trong khi đó, bên Trung Hoa, Minh Thái Tổ (trị vì 1368-1398) qua đời năm 1398, cháu nội lên kế vị là Minh Huệ Đế (trị vì 1399-1403). Huệ Đế làm vua chẳng được bao lâu thì bị người chú, con của Minh Thái Tổ, lật đổ và thay thế, tức Minh Thành Tổ (trị vì 1403-1424). Minh Thành Tổ là một người đầy tham vọng, còn tham vọng hơn cả Minh Thái Tổ.

Bang giao Việt Hoa càng ngày càng căng thẳng vì nhà Minh đòi hỏi nhiều điều quá đáng. Năm 1404 (giáp thân), một hoàng thân nhà Trần là Trần Khang, dùng đường bộ trốn sang kinh đô Trung Hoa, đổi tên là Trần Thiêm Bình, tự xưng là con của Trần Nghệ Tông, tố cáo Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần và tố cáo những lời trần tình của Hồ Hán Thương là dối trá.

Minh Thành Tổ sai Lý Kỳ sang nước Việt thăm dò. Lý Kỳ sang nắm tình hình, rồi về nước phúc trình cuộc đảo chánh của nhà Hồ. Hồ Hán Thương gởi biểu qua nhà Minh tạ tội, và xin đón Thiêm Bình về làm vua. Năm 1406 (bính tuất) Minh Thành Tổ sai tướng Hàn Quan, đem năm ngàn quân hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Trần Thiêm Bình vừa về đến biên giới, liền bị Hồ Hán Thương ra lệnh bắt giết. Hồ Hán Thương cử Trần Cung Túc cầm đầu phái bộ sang Trung Hoa biện bạch về sự giả trá của Trần Thiêm Bình. Phái bộ bị nhà Minh giữ lại không cho về.

Tháng 9 năm đó (bính tuất), Minh Thành Tổ cử Chu Năng làm đại tướng, cùng hai phó tướng là Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân sang xâm lăng nước ta. Trước khi qua biên giới, Chu Năng bị bệnh từ trần, Trương Phụ được cử lên thay. Quân Minh tiến xuống thành Đa Bang (Sơn Tây), một đồn lũy được Hồ Hán Thương cho xây năm 1405 (ất dậu), làm tiền đồn bảo vệ Thăng Long. Trương Phụ và Mộc Thạnh chia nhau hai mặt tấn công Đa Bang. Khi quân Việt dùng voi phản công, quân Minh dùng hỏa pháo bắn lại. Voi sợ lửa bỏ chạy. Thành Đa Bang thất thủ, đưa đến việc thất thủ Thăng Long.

Hồ Nguyên Trừng, con trai đầu của Hồ Quý Ly, anh của Hồ Hán Thương, đem quân chận người Minh ở sông Mộc Phàm (Mộc Hoàn, Hà Nam ngày nay), nhưng bị thua phải lui về cửa biển Muộn Hải, Nam Định. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương cùng các quan bỏ chạy vào Thanh Hóa. Quân Minh đuổi theo. Hai bên gặp nhau ở Lỗi Giang, một phân lưu của sông Mã (Thanh Hóa). Quân nhà Hồ thua nữa. Hồ Quý Ly cùng hai con chạy vào Nghệ An. Tháng 5 năm đinh hợi (1407), quân Minh bắt được Hồ Quý Ly ở cửa biển Kỳ La (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), và bắt Hồ Hán Thương ở núi Cao Vọng (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), cùng toàn bộ gia đình họ Hồ. Quân Minh không giết cha con Hồ Quý Ly mà chỉ giải về Trung Hoa.

Cần chú ý là khi xâm lăng nước Việt lần nầy, Minh Thành Tổ đã đưa ra cho các tướng viễn chinh ba chỉ dụ đề ngày 21-8-1406, 16-6-1407 và 24-6-1407 căn dặn và nhắc nhở các tướng Minh thi hành chính sách đồng hóa của nhà Minh và tiêu diệt toàn bộ văn hóa nước Việt. Chẳng những quân Minh vơ vét của cải, vàng ngọc, mà còn tịch thu gần như toàn bộ sách vở văn chương, học thuật, tư tưởng và cả giới trí thức cũng như nghệ nhân người Việt đem về Trung Hoa. Đây là chính sách đồng hóa của nhà Minh trên toàn cõi đế quốc của họ.(Sẽ viết trong bài tiếp.)

Lần thứ bẩy (1788)

Nguyên vào năm 1786 (bính ngọ), Nguyễn Huệ dẫn quân Tây Sơn ra bắc lần thứ nhất, đánh tan quân Trịnh, tỏ ý phù Lê. Trong khi quân Tây Sơn còn ở Bắc hà, vua Lê Hiển Tông (trị vì 1740-1786) từ trần, cháu đích tôn lên thay là Lê Chiêu Thống (trị vì 1787-1788). Khi quân Tây Sơn rút về, họ Trịnh nổi lên trở lại. Lê Chiêu Thống viết thư nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh, một cựu tướng nhà Lê, nay đã đầu quân theo Tây Sơn, đang đóng ở Nghệ An, ra Thăng Long, giúp diệt trừ họ Trịnh.

Chụp lấy thời cơ, Nguyễn Hữu Chỉnh đánh đuổi nhanh chóng quân chúa Trịnh, và trở nên chuyên quyền không khác gì họ Trịnh. Được tin nầy, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai tướng Võ Văn Nhậm cùng với Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh vào cuối năm 1787 (đinh mùi). Hữu Chỉnh bị bắt giết, vua Lê Chiêu Thống bỏ trốn. Võ Văn Nhậm đặt Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận, chú của Chiêu Thống và là anh của bà Ngọc Hân (vợ Nguyễn Huệ), lên làm giám quốc, đứng đầu triều đình nhà Lê.

Vua Chiêu Thống trốn lẩn quẩn ở vùng Lạng Giang. Mẹ của vua Chiêu Thống (hoàng thái hậu) bồng con của nhà vua chạy sang Long Châu (Trung Hoa) cầu cứu nhà Thanh (1644-1911). Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị trình lên vua Thanh Cao Tông tức Càn Long (Ch’ien-lung / Qianlong, trị vì 1736-1795) rằng đây là cơ hội thuận tiện, mượn cớ giúp Lê Chiêu Thống để xâm chiếm “An Nam”. Vua Càn Long, liền ra lệnh cho Sĩ Nghị động binh bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu và Vân Nam tiến đánh Đại Việt tháng 10 năm mậu thân (1788). Tôn Sĩ Nghị chia quân làm ba đạo, vào nước ta bằng các đường Tuyên Quang, Cao Bằng và Lạng Sơn.

Trước sức tiến quân ồ ạt của Tôn Sĩ Nghị, Ngô Văn Sở theo kế hoạch của Ngô Thời Nhậm, một mặt cho người đưa thư đến Tôn Sĩ Nghị xin hoãn binh, vừa để kéo dài thời gian, vừa để nhử địch, một mặt khác bỏ ngỏ Thăng Long, rút quân về Tam Điệp ở Ninh Bình, bảo toàn lực lượng, chờ viện binh của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.

Tôn Sĩ Nghị tiến quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh). Vua Chiêu Thống ra đón tiếp và cùng Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long ngày 20-11-mậu thân (17-12-1788). Hai ngày sau, 22-11 (19-12), Tôn Sĩ Nghị làm lễ tấn phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam quốc vương.

Được tin nầy, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân ngày 25-11-mậu thân (22-12-1788), lấy hiệu là Quang Trung (trị vì 1788-1792), rồi tự mình đem quân tiến ra Bắc, nhanh chóng đánh đuổi tan tác quân viễn chinh nhà Thanh, tạo nên chiến thắng Đống Đa lịch sử (mồng 5 tháng giêng năm kỷ dậu, 1789), giải phóng Thăng Long và giữ vững bờ cõi nước ta.

Kết luận

Như thế, từ năm 939 (Ngô Quyền xưng vương) cho đến năm 1788 (Quang Trung xưng vương), trong vòng 850 năm, các triều đình Trung Hoa đã gởi quân xâm lăng nước Việt chúng ta tất cả bảy lần. Chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:

1) Khi nào nước Việt có sự thay đổi triều đại, hay tranh chấp quyền lực nội bộ, hay nước Việt suy yếu, các vua Trung Hoa liền lợi dụng thời cơ để xâm lăng, nhất là khi con cháu của các triều đại bị truất phế chạy qua Trung Hoa cầu cứu.

2) Dù lúc tấn công nước Việt, lực lượng Trung Hoa rất mạnh, như dưới thời nhà Nguyên (Mông Cổ), nhà Minh, hay nhà Thanh, dù người Việt lúc đầu thất bại và phải rút lui, nhưng tổ tiên chúng ta luôn luôn cương quyết đánh đuổi xâm lăng Trung Hoa, dù phải kháng chiến gian khổ để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ tổ quốc.

3) Trong sáu lần Trung Hoa tấn công nước ta, lần đầu tiên do triều đình Trung Hoa muốn trả đũa việc Lý Thường Kiệt đem quân tấn công Trung Hoa trước. Từ kinh nghiệm nầy, sau đời nhà Lý, các triều đại từ nhà Trần trở đi, tuy cương quyết duy trì chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc, nhưng không khiêu khích, để tránh bị bắc phương trả đũa. Chỉ khi nào bắc phương xâm lăng, thì Đại Việt chống trả. Đặc biệt là sau khi đánh đuổi quân Trung Hoa về nước, Đại Việt vẫn gởi sứ thần sang Trung Hoa ngoại giao, mà ngày xưa gọi là triều cống, để tránh tái diễn chiến tranh.

4) Những kinh nghiệm chống quân xâm lược Trung Quốc đã được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, trước khi từ trần năm 1300, tóm lược với vua Trần Anh Tông: “Đại khái quân giặc cậy vào trường trận, quân ta cậy vào đoản binh, đem đoản binh đánh lại trường trận, là việc thường trong binh pháp. Nhưng cần phải xét: nếu thấy quân giặc tràn sang như gió, như lửa, thì thế giặc có thể dễ chống cự được; nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần, như tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay, thì mình phải dùng tướng giỏi, phải xem xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy theo thời cơ mà chế biến cho đúng, làm thế nào thu hút được binh lính như cha với con một nhà, mới có thể dùng để chiến thắng được. Vả lại bớt dùng sức dân để làm cái kế thâm căn cố đế, đó là thượng sách giữ nước không còn gì hơn.” (2)

Theo Trần Hưng Đạo, Trung Hoa xâm lăng nước ta bằng hai cách: Thứ nhất, quân Trung Hoa “tràn sang như gió, như lửa”. Thứ hai, quân Trung Hoa “chiếm cứ dần, như tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay”.

Trong hai cách nầy, cũng theo Trần Hưng Đạo, cách thứ nhất, tức quân Trung Hoa sang đánh nước ta như vũ bão, thì “có thể dễ chống cự được”. Ngược lại, nếu Trung Hoa tiến quân từ từ vào nước ta, theo kiểu tằm ăn dâu, chúng ta sẽ khó chống đỡ hơn. Trong trường hợp đó, theo Trần Hưng Đạo, muốn chiến thắng địch thủ thì chúng ta phải tạo nội lực quốc gia bằng cách xây dựng tình đoàn kết dân tộc (như cha với con một nhà), và nuôi dưỡng sức dân (bớt dùng sức dân) để làm kế lâu dài mà giữ nước. Tuy nhiên, muốn tạo sự đoàn kết toàn dân và muốn nuôi dưỡng sức dân, thì người dân phải được hưởng tự do, được công bình trước pháp luật, mới cảm thấy có trách nhiệm bảo vệ đất nước, hăng hái bảo vệ độc lập dân tộc.

Tập đoàn lãnh đạo cộng sản Trung Hoa (CSTH) chủ trương bành trướng, còn hơn cả các triều đình quân chủ Trung Hoa ngày xưa: thôn tính Tây Tạng, xâm lăng Tân Cương, đánh chiếm hải đảo… Năm 1979, CSTH mở cuộc tấn công đại quy mô, dạy cho CSVN một bài học, nhưng gặp phản ứng không thuận lợi. Rút kinh nghiệm từ đó, hiện nay CSTH quay qua thực hiện kế hoạch “tằm ăn dâu”. Dần dần CSTH chiếm đất phía bắc Việt Nam (ải Nam Quan), chiếm biển phía đông Việt Nam (Vịnh Bắc Việt), lấn núi phía tây Việt Nam (Trường Sơn), nghĩa là bao vây Việt Nam ba mặt bắc và đông, tây.

Tình trạng nầy thật nguy hiểm cho tương lai Việt Nam. Hy vọng những kinh nghiệm lịch sử của người xưa, nhất là những lời Đức Trần Hưng Đạo đã dặn dò vua Trần Anh Tông năm 1300, có thể còn hữu ích cho người Việt, nhằm tìm cách phòng bị và chống lại mối đe dọa thường trực từ Bắc phương.

Chú thích

  1. 1. Khi Hốt Tất Liệt xâm lăng Trung Hoa, đặt Trung Hoa dưới ách thống trị của Mông Cổ năm 1279 nghĩa là mặc nhiên sáp nhập Mông Cổ vào Trung Hoa. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lật đổ nhà Nguyên (Mông Cổ), lên làm vua, tức Minh Thái Tổ (trị vì 1368-1398), lập ra nhà Minh. Nhà Minh cai trị luôn Mông Cổ. Trường hợp nầy cũng xảy ra với nhà Thanh ở Mãn Châu. Cuối đời Minh, Lý Tự Thành nổi lên ở Thiểm Tây, tự xưng vương năm 1643. Năm sau (1644), Lý Tự Thành kéo quân chiếm Bắc Kinh, vua Minh Hoài Tông (trị vì 1628-1644) tự tử. Tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế thông đồng với người Mãn Thanh (nhà Thanh) ở phía bắc, để dẹp Lý Tự Thành. Lý Tự Thành thua chạy, vua Thanh vào Bắc Kinh làm lễ đăng quang tức Thanh Thế Tổ, niên hiệu Thuận Trị (trị vì 1644-1661). Từ đó, nhà Thanh làm chủ Trung Hoa, Mãn Châu tự động sáp nhập vào Trung Hoa. Khi nhà Thanh sụp đổ sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, đất Mãn Châu cũng bị xem là thuộc Trung Hoa.
  2. 2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb. Giáo Dục, 1998, tập 1, tt. 558-559.
  3. 3. Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.
    Trần Gia Phụng

Đại nạn Trung Hoa thời cận đại ( bài 3)

Đại nạn Trung Hoa thời cận đại ( bài 3)

Trần Gia Phụng

1.- TRUNG HOA GẶP ĐẠI NẠN

Vào thế kỷ 19, trong nền giao thương giữa Trung Hoa và các nước Âu Châu, một cuộc tranh chấp gay gắt đã đưa đến việc người Âu Châu xâu xé Trung Hoa. Nguyên trong những sản phẩm người Anh đem đến Trung Hoa, có một món hàng vừa dễ chuyên chở, lại bán được nhiều và được giá cao, đó là thuốc phiện (nha phiến).

Thuốc phiện mà người Trung Hoa gọi là cù túc, đã được người Ả Rập nhập vào Trung Hoa từ thế kỷ thứ 8, nhưng chỉ được sử dụng trong y học. Đến thế kỷ 16, những nhà giàu có Trung Hoa bắt đầu dùng ống dọc tẩu để hút. Công ty Đông Ấn Anh Quốc (The English East India Company) nhập cảng ồ ạt thuộc phiện vào Trung Hoa để kiếm lợi, làm tăng nhanh giới nghiện thuốc phiện tại nước nầy. Con số người nghiện lên đến khoảng mười triệu người vào năm 1830. Năm 1838, Anh nhập vào Trung Hoa 40,000 thùng thuốc phiện; một thùng khoảng 70 ký-lô, giá có khi lên đến hai ngàn tiền vàng Mễ Tây Cơ. Việc nầy gây ra hai thiệt hại quan trọng cho Trung Hoa: Thứ nhất người nghiện càng ngày càng đông, bệnh tật, đói nghèo và trở nên vô dụng. Thứ hai, người Hoa tốn rất nhiều tiền nhập thuốc phiện qua tay thương giới Anh.

Vua Đạo Quang (Tao-kuang / Dao Guang), tức Thanh Tuyên Tông (Qing Xuan Zong, trị vì 1821-1850), quyết định bài trừ và cấm nhập cảng thuốc phiện năm 1838. Việc nầy đưa đến chiến tranh giữa Anh Quốc và Trung Hoa năm 1840, thường được gọi là “Nha phiến chiến tranh”.

Trung Hoa thất bại, phải ký hiệp ước Nam Kinh (Nanking) năm 1842, gồm 12 khoản, theo đó các khoản quan trọng là: Trung Hoa phải nhượng Hồng Kông (Hương Cảng) cho Anh; mở năm hải cảng Quảng Châu (Kwangchow), Hạ Môn (Xiamen hay Hsiamen), Phúc Châu (Fuzhou hay Fuchow), Ninh Ba (Ningpo hay Ningbo), Thượng Hải (Shanghai) cho người Anh buôn bán và gia đình cư trú, có lãnh sự trông coi việc buôn bán; bồi thường cho Anh 21,000,000 tiền vàng Mễ; hàng hóa Anh nhập cảng chịu thuế một lần, và thương nhân Trung Hoa không đóng thêm thuế khi chuyển hàng tiếp vào nội địa; công văn trao đổi hai bên có tính cách bình đẳng. Vì việc mở năm hải cảng nên hiệp ước nầy được các sách Trung Hoa gọi là Ngũ khẩu thông thương điều ước.

Cả hai bên Anh Quốc và Trung Hoa đều vi phạm hiệp ước Nam Kinh. Cuộc xung đột lớn xảy ra vào năm 1856. Quân Anh tấn công Quảng Châu rồi rút lui. Người Hoa tức giận đốt hết các thương quán, dinh thự của Anh, Pháp, Hoa Kỳ. Cuối năm 1857, liên quân Anh Pháp đánh chiếm Quảng Châu, rồi tiến lên đánh Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin), đe dọa Bắc Kinh.

Nhà Thanh vội vã ký hai hiệp ước Thiên Tân riêng lẽ, một với Anh và một với Pháp năm 1858. Hai hiệp ước nầy có những điểm chung sau đây: 1) Đại diện Anh, Pháp tự do cư trú ở Bắc Kinh. 2) Giáo sĩ Anh, Pháp tự do truyền đạo ở nội địa Trung Hoa, công dân Anh, Pháp có hộ chiếu được tự do du lịch Trung Hoa. 3) Mở thêm nhiều thương cảng. 4) Công dân Anh, Pháp được quyền lãnh sự tài phán, nghĩa là nếu họ phạm tội trên đất Trung Hoa, thì sẽ do lãnh sự của họ xử; nếu họ có tranh tụng với người Hoa thì sẽ do quan lại Trung Hoa cùng lãnh sự xử. 5) Giá biểu quan thuế mới sẽ có sự bàn bạc với đại diện Anh, Pháp.

Năm 1859, khi quân Anh, Pháp đến Bắc Kinh để trao đổi hiệp ước đã được phê chuẩn, quân Thanh bất ngờ tấn công. Liên quân Anh Pháp liền trả đũa, bắn phá dữ dội. Vua Hàm Phong (Xian Feng) tức Thanh Văn Tông (Qing Wen Zong, trị vì 1851-1861) bỏ chạy, giao trách nhiệm cho hoàng thân Cung Thân Vương. Ông nầy thương thuyết và ký hiệp ước Bắc Kinh năm 1860, lập lại những điều trong hiệp ước Thiên Tân, cộng thêm ba điều quan trọng là mở cửa Thiên Tân, bồi thường cho Anh và Pháp mỗi nước 8 triệu lạng bạc (trong khi theo hiệp ước Thiên Tân, Trung Hoa chỉ trả cho Anh 4 triệu và cho Pháp 2 triệu mà thôi), và cắt đất gần Hồng Kông là Cửu Long (Kowloon) và các đảo phụ cận là Stonecutters Inlands cho Anh.

Chẳng những phải bồi thường cho Anh và Pháp, Trung Hoa còn phải đền công cho Nga, là nước đã làm trung gian giúp đưa đến hiệp ước Bắc Kinh năm 1860. Nga được hưởng lợi nhiều hơn cả Anh và Pháp, vì được Trung Hoa nhượng nhiều đất ở phía tây bắc Trung Hoa. Từ đó, các cường quốc Âu Mỹ cùng nhau xâu xé Trung Hoa. Năm 1895, Trung Hoa lại thua Nhật, phải nhượng bộ trong hòa ước Shimonoseki (Hạ Quan) ngày 17-4-1895.

Vào gần cuối thế kỷ 19, bị các nước Tây phương đe dọa, Trung Hoa khốn đốn không kém Việt Nam ở phương nam, nhưng triều đình nhà Thanh vẫn cứ tự nhận Trung Hoa là thượng quốc, có ưu quyền ở Việt Nam.

2.- TRUNG HOA TỰ NHẬN ƯU QUYỀN THƯỢNG QUỐC

Trên đường tìm kiếm thuộc địa sau cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Âu Châu, Pháp viện dẫn lý do triều Nguyễn đàn áp Ky-Tô giáo, Pháp đem quân tấn công Đà Nẵng ngày 1-9-1858, mở đầu cuộc xâm lăng Việt Nam. Pháp chiếm các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long, buộc triều đình Huế phải ký hòa ước Nhâm Tuất ngày 5-6-1862, nhượng ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ) cho Pháp.

Không dừng lại ở đó, Pháp tiếp tục chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An Gia, Hà Tiên năm 1867, và tiến quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873, chiếm Hà Nội, Ninh Bình, Hải Dương, Nam Định. Pháp ép triều đình Huế ký hòa ước ngày Giáp Tuất 15-3-1874, nhường đứt luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cho Pháp, để Pháp trả lại các tỉnh Bắc Kỳ. Hòa ước Giáp Tuất ngày 15-3-1874 gồm 22 điều khoản, trong đó điều khoản số 2 nói rằng “Tổng thống Pháp nhận Đại Nam là một quốc gia độc lập, không phải thần phục nước nào, hứa giúp Hoàng đế Đại Nam nếu cần, bảo vệ an ninh trong và ngoài nước…”, và điều khoản số 3 tiếp theo “Để đáp lại sự bảo hộ ấy, Hoàng đế Đại Nam từ nay chịu theo chính sách ngoại giao hiện thời của nước Pháp…” Nói cách khác, từ nay Việt Nam phải theo chính sách ngoại giao của Pháp, và không được thần phục hay giao thiệp với nước khác mà không có sự đồng ý của Pháp.

Khi hòa ước năm 1874 đã được hai bên Việt Pháp phê chuẩn và trao đổi, đại diện Pháp tại Bắc Kinh là De Rochehouart chuyển bản hòa ước nầy cho chính phủ Trung Hoa ngày 24-5-1875. Triều đình nhà Thanh trả lời rằng: “Chí Giao Chỉ tức Việt Nam bổn hệ Trung Hoa thuộc quốc.” (nghĩa là: “Từ Giao Chỉ đến Việt Nam vốn là thuộc quốc của Trung Hoa.”). Câu nầy được tòa lãnh sự Pháp dịch qua Pháp văn theo nghĩa là: “An Nam cũng là xứ được gọi là Việt nam. Xứ nầy từng là nước thần phục Trung Hoa.”(1) Do cách hành văn khác nhau, Trung Hoa nghĩ rằng họ đã phản đối Pháp, nhưng Pháp lại cho rằng Trung Hoa chẳng phản đối gì.

Trong cuộc tiếp xúc với thủ tướng Pháp là Charles de Freycinet ngày 25-1-1880, đại sứ Trung Hoa tại Pháp là Tăng Kỷ Trạch (Zeng Ji Ze) khẳng định với Pháp rằng Việt Nam là chư hầu của Trung Hoa.(1) Vua Trung Hoa lúc nầy là Quang Tự (Kuang-hsu) hay Thanh Đức Tông (Qing Te-tsung, trị 1875-1908) mới 10 tuổi và bà thái hậu Từ Hy (Tzu-Hsi / Ci Xi, 1835-1908) giữ quyền nhiếp chính.

Tăng Kỷ Trạch còn viết thư ngày 10-11-1880 khi ông đến St Pétersbourg (Nga), yêu cầu ngoại trưởng Pháp cho Trung Hoa biết lập trường của Paris về những biến chuyển ở Bắc Kỳ. Trong thư trả lời ngày 27-12-1880, ngoại trưởng Barthélemy St. Hilaire đáp lại rằng theo điều 2 hòa ước năm 1874, Pháp có bổn phận và trách nhiệm với Việt Nam. Thư nầy được gởi đến cho Tăng Kỷ Trạch và chính phủ Trung Hoa. Tăng Kỷ Trạch cho đại diện Pháp ở St. Pétersbourg biết rằng Pháp có thể chiếm Trung Kỳ, nhưng nếu chiếm Bắc Kỳ thì sẽ gây quan ngại cho Trung Hoa, vì vùng nầy tiếp giáp với biên giới Trung Hoa. Ngoại trưởng Pháp liền ra lệnh cho viên đại diện Pháp báo cho Tăng Kỷ Trạch biết rằng từ năm 1874, ngoài nước Pháp Việt Nam đã hoàn toàn cắt đứt liên hệ với các nước khác.(2)

Về phía Việt Nam, dầu đã ký Hòa ước Giáp Tuất (15-3-1874), chịu nhận nền ngoại giao Pháp, vua Tự Đức vẫn gởi phái bộ ngoại giao sang Trung Hoa năm 1876, để chúc mừng vua Thanh Đức Tông lên thay vua Thanh Mục Tông (Mu-tsung) (trị vì 1862-1874), tức vua Đồng Trị (T’ung-chih) từ trần năm 1874. Tháng 7-1880, vua Tự Đức còn cử sứ thần sang Trung Hoa thêm lần nữa. Chuyến đi nầy, chẳng những có tính cách ngoại giao thông lệ bốn năm một lần cống sứ, mà còn để nhờ Trung Hoa giúp đỡ.

Năm sau (1881), Trung Hoa gởi Đường Đình Canh sang kinh đô Huế bàn chuyện buôn bán, lập chiêu thương cuộc. Những sự kiện nầy không thể qua mặt người Pháp. Khâm sứ Pháp tại Huế là Rheinart đã báo cáo đầy đủ các chuyến đi sứ của Việt Nam sang Trung Hoa cho thượng cấp ngày 2-8-1882.(Yoshiharu Tsuboii, sđd. tt. 298-299.)

Về phía nhà Thanh, tại Bắc Kinh, đại diện Trung Hoa phản đối với đại sứ Pháp, cho rằng Việt Nam là thuộc quốc của Trung Hoa và yêu cầu Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ để duy trì tình hữu nghị Hoa Pháp. Tại Paris, ngày 6-5-1882, đại sứ Tăng Kỷ Trạch cũng lên tiếng phản đối Pháp và yêu cầu Pháp rút quân.

Thủ tướng Freycinet (Pháp) cho rằng lời lẽ của họ Tăng bất nhã, nên yêu cầu đại sứ Pháp tại Bắc Kinh cho chính phủ Trung Hoa biết rằng sẽ không nói chuyện với Trung Hoa và yêu cầu Trung Hoa đừng xen vào chính sách Pháp ở Bắc Kỳ.(3)

Về quân sự, ngày 30-6-1882, tổng đốc Vân Nam (Trung Hoa) loan báo rằng quân đội Trung Hoa sẽ tiến vào lãnh thổ Bắc Kỳ để truy đuổi các thổ phỉ Cờ đen. Trong tháng sau, tướng Tạ Kính Bưu đem ba doanh quân Vân Nam đến đóng tại Quản Ty (Hưng Hóa). [Một doanh khoảng 1,000 quân.] Vào tháng 9, nhà Thanh cử tướng Hoàng Quế Lan đem mười hai doanh quân đóng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Ninh, và tướng Triệu Ốc đem năm doanh quân đóng ở Tuyên Quang. Tài liệu Pháp cho rằng số quân Trung Hoa tại Bắc Kỳ lúc đó lên đến 20,000 người. Dầu vậy, lực lượng Trung Hoa dần dần bị Pháp đẩy lui.

Trong thực tế, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam nhắm mưu lợi, chứ chẳng phải thực tâm giúp đỡ Việt Nam chống Pháp, nên khi thấy không thể chiến thắng được Pháp, Trung Hoa quay qua thương thuyết với Pháp để chia phần ở Việt Nam.

3.- TRUNG HOA ÂM MƯU CHIA HAI BẮC KỲ

Ngày 27-10-1882, Paris thông báo cho đại sứ Pháp ở Trung Hoa là Bourée biết, trong phiên họp ngày 21-10, chính phủ Pháp quyết định bảo hộ Việt Nam, để Bourée nói chuyện với Bắc Kinh. Trước sự cương quyết của Pháp, vào đầu tháng 11-1882, Lý Hồng Chương (Li Hongzhang hay Li-Hung-Tchang), một viên chức cao cấp trong Tổng lý nha môn, cơ quan phụ trách ngoại giao của triều đình Trung Hoa, đề nghị với Bourée rằng Trung Hoa và Pháp chia nhau bảo hộ Bắc Kỳ. Bourée báo cáo sáng kiến của Lý Hồng Chương về Pháp.

Lúc đó, các chính phủ Paris kế tiếp nhau, đều muốn chiếm Bắc Kỳ, nhưng vừa ngại tốn kém vì Quốc hội Pháp không chuẩn chi, vừa ngại đụng chạm với Trung Hoa, nên đường lối của chính phủ Pháp không rõ ràng và hay thay đổi. Ngày 5-12-1882, Bourée cho Paris biết là Bắc Kinh đã ra lệnh quân Thanh rút khỏi Bắc Kỳ về Vân Nam và Quảng Tây. Cũng trong ngày nầy, bộ Hải quân và Thuộc địa ra Pháp lệnh cho soái phủ Sài Gòn tránh đụng chạm với quân Trung Hoa. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tr. 291)

Ngày 20-12-1882, tại Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin), Bourée và Lý Hồng Chương ký tạm ước Thiên Tân về Bắc Kỳ, theo đó Trung Hoa chiếm phía bắc sông Hồng (vùng núi non và hầm mỏ), và Pháp chiếm phía nam sông Hồng (vùng châu thổ, sản xuất nông phẩm). Lào Cai được xem là một thương cảng Trung Hoa, nhưng người Pháp được quyền tự do buôn bán với Vân Nam.(4) tạm ước Thiên Tân thật ra rất mơ hồ, chỉ lấy sông Hồng chia hai địa phận, nhưng chưa vạch ra cụ thể ranh giới giữa hai bên Pháp và Trung Hoa ở Bắc Kỳ.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu, Tạm ước Thiên Tân bị Pháp bãi bỏ. Nguyên tại Paris, chính phủ Charles Duclerc sụp đổ ngày 22-1-1883. Armand Fallières tạm thay một thời gian, thì Jules Ferry trở lại làm thủ tướng lần thứ hai ngày 21-2-1883. Lúc đó, Pháp dứt khoát về vấn đề Ai Cập (Egypt) vì nước nầy đã do nước Anh đô hộ từ 1882. Jules Ferry dồn nỗ lực về phía Việt Nam.

Việc làm đầu tiên về Việt Nam của chính phủ Jules Ferry là bãi bỏ tạm ước Thiên Tân mà Bourée đã ký với Lý Hồng Chương, vì theo chính phủ nầy, tạm ước đã giành cho Trung Hoa quá nhiều quyền lợi ở Bắc Kỳ. Quyết định bãi bỏ được Pháp báo cho Trung Hoa biết ngày 5-3-1883. Hai tháng sau, đại sứ Bourée bị triệu hồi. Chính phủ Pháp đưa Tricou, nguyên đại sứ Pháp tại Nhật, sang Bắc Kinh làm đại sứ từ ngày 1-6-1883.

Ngày 18-8-1883, đại sứ Trung Hoa là Tăng Kỷ Trạch giao cho chính phủ Pháp lập trường sáu điểm của Trung Hoa về Bắc Kỳ, theo đó: (1) Ngoại trừ Nam Kỳ, Pháp không được chiếm bất cứ phần lãnh thổ nào của An Nam; (2) An Nam là chư hầu của Trung Hoa; (3) Pháp phải triệt binh khỏi những nơi đã chiếm của An Nam, mở một số hải cảng để giao thương, và các cường quốc có quyền đặt tòa lãnh sự tại các cảng nầy; (4) Sông Hồng phải được mở rộng để giao thương; (5) Trung Hoa sẽ bảo đảm việc tự do giao thương trên sông Hồng; (6) Những hòa ước giữa Pháp và Việt Nam phải được Trung Hoa chấp thuận.(Vũ Ngự Chiêu, sđd.tt. 328-329.)

Trong khi đó, Pháp đưa quân từ Bắc Kỳ, tiến đánh cửa Thuận An (Huế) ngày 20-8-1883. Thất bại, triều đình Huế đành xin điều đình và ký hòa ước Quý Mùi ngày 25-8-1883, gồm 27 điều khoản, trong đó điều 1 viết rằng “Nước Nam nhận và chịu sự bảo hộ của nước Pháp với những hậu quả của mối tương giao nầy theo luật pháp ngoại giao Âu Châu, nghĩa là nước Pháp chủ trương mọi sự giao thiệp của nước Nam với các nước ngoài, kể cả nước Tàu, và nước Nam có giao thiệp ngoại giao với nước nào thì chỉ do một mình nước Pháp môi giới mà thôi.”

Bảo hộ xong Việt Nam, hai ngày sau, ngoại trưởng Pháp từ chối yêu cầu sáu điểm của Trung Hoa trong thư trả lời ngày 27-8, và cho Trung Hoa biết rằng Pháp sẵn sàng giải quyết vấn đề an ninh biên giới và quyền lợi người Hoa buôn bán trên sông Hồng.

Ngoại trưởng Pháp còn gởi công văn ngày 15-9-1883 cho chính phủ Trung Hoa, một lần nữa xác nhận rằng Pháp không chấp nhận tạm ước Thiên Tân ngày 20-12-1882, giữa đại sứ Bourée và Lý Hồng Chương về Bắc Kỳ. Công văn ngày 15-9 còn đưa ra đề nghị mới của Pháp gồm hai điểm: (1) Lập một khu phi quân sự giữa hai vĩ tuyến 21 và 22, nếu một bên muốn động binh để đánh dẹp thổ phỉ thì phải có sự đồng ý của bên kia. (2) Thị trấn Man Hao trên sông Hồng trong lãnh thổ Trung Hoa sẽ được mở ra cho việc giao thương. Chính sách của chính phủ Jules Ferry được Quốc hội Pháp hậu thuẫn mạnh mẽ trong cuộc đầu phiếu tại Quốc hội ngày 31-10-1883. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tt. 330-332.)

Hai chính phủ Pháp Hoa tranh cãi không dứt về vấn đề Bắc Kỳ. Pháp muốn độc quyền tại miền Bắc Việt Nam, trong khiTrung Hoa muốn chia một phần Bắc Kỳ cho Trung Hoa, và bảo đảm an toàn biên giới Việt Hoa. Trung Hoa tin tưởng rằng Pháp khó có thể chiến thắng lực lượng Trung Hoa ở Bắc Kỳ. Ngoài ra, Trung Hoa còn hy vọng hai nước Anh và Đức sẽ can thiệp, nhưng lúc đó, Anh đang bận rộn ở Ai Cập và Đức muốn Pháp bành trướng ở Bắc Kỳ hơn là tập trung lực lượng để chống Đức ở biên giới giữa hai bên.

Cuối cùng, tại Bắc Kỳ, Pháp đã đánh đuổi quân Trung Hoa và quân Cờ đen chạy lên miền biên giới, làm chủ tình hình Bắc Kỳ. Lúc đó, Trung Hoa thấy không thể kiếm lợi được ở Việt Nam mà còn lo ngại Pháp sẽ tiến chiếm Đài Loan hay Hải Nam để đòi chiến phí, nên Trung Hoa bắt đầu thay đổi chính sách.

4.- HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ NHẤT (11-5-1884)

Đầu tiên, Lý Hồng Chương, nhờ một thân hữu tên là Gustav Detring, người Đức, công chức cao cấp trong ngành thương chánh Trung Hoa và đã phục vụ 20 năm ở Quảng Châu, vận động với chính phủ Pháp. Vào tháng 4-1884, Gustav Detring đem việc nầy thảo luận với một người bạn là trung tá Ernest François Fournier, hạm trưởng tuần dương hạmVolta, đang đóng ở Quảng Đông. Fournier trình bày lại ý định của Lý Hồng Chương với cấp chỉ huy là phó đô đốc Sébastien Lespès, tư lệnh hạm đội Pháp tại Trung Hoa và Nhật Bản. Một mặt, Lespès thuận cho Fournier nói chuyện với Lý Hồng Chương, một mặt Lespès trình về Paris.

Ernest Fournier nhờ Gustav Detring chuyển cho Lý Hồng Chương một văn thư cho biết các điều kiện về phía Pháp để đi đến một cuộc dàn xếp với Trung Hoa: giải nhiệm đại sứ Tăng Kỷ Trạch, từ bỏ ưu quyền đối với Việt Nam, rút lui quân đội Trung Hoa khỏi Bắc Kỳ, và bồi hoàn chiến phí.(5)

Để tỏ thiện chí, triều đình Trung Hoa quyết định chấm dứt nhiệm vụ đại sứ ở Pháp của Tăng Kỷ Trạch, mà vẫn giữ ông ta làm đại sứ ở Anh; và Trung Hoa cử Hứa Cảnh Trừng làm đại sứ tại Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan và Áo.

Cuộc nói chuyện tiếp tục, Fournier đến Thiên Tân, gặp Lý Hồng Chương và nhanh chóng ký hiệp ước ngày 11-5-1884, gồm năm khoản, thường được gọi là hiệp ước Fournier hay hiệp ước Thiên Tân, đại để như sau: 1) Pháp hứa tôn trọng biên giới Việt Hoa. 2) Trung Hoa cam kết rút quân khỏi Bắc Kỳ và tôn trọng những hòa ước ký kết giữa Pháp và Việt Nam. 3) Pháp không đòi bồi thường chiến phí. 4) Hủy bỏ những hiệp ước trước đây giữa Trung Hoa và Việt Nam, và nuớc Pháp cam kết không làm tổn hại thể diện Trung Hoa. 5) Hai bên thỏa thuận sẽ gặp nhau lại trong vòng 90 ngày để ký kết hiệp ước chính thức.

Ernest Fournier tiếp tục thương lượng với Lý Hồng Chương về thời biểu Trung Hoa rút quân. Ngày 17-5, Fournier trao cho Lý Hồng Chương một giác thư (mémorandum) theo đó Pháp sẽ tiếp thu Lạng Sơn, Cao Bằng ngày 5-6-1884, và Lào Cai ngày 1-7-1884.(Alfred Schreiner, sđd. tr. 362.)

Nhận được tin nầy, trung tướng Millot, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ nghĩ rằng Pháp có thể chiếm đóng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng khoảng từ 15 đến 20-6, nên ông cử quân đi tiếp thu Lạng Sơn. Trên đường đi Lạng Sơn, ngang qua thị trấn Bắc Lệ ngày 22-6, đoàn quân Pháp bị quân Trung Hoa tấn công dữ dội và gây thiệt hại nặng nề.

Chính phủ Paris được tin Bắc Lệ, liền ra lệnh cho đại diện Pháp ở Bắc Kinh gởi cho triều đình Mãn Thanh một tối hậu thư ngày 12-7, yêu cầu Trung Hoa phải ra lệnh quân đội mình lập tức rời Bắc Kỳ, hạn chót là 31-7, và triều đình Trung Hoa phải bồi thường 250 triệu quan chiến phí, nếu không Pháp sẽ đánh Trung Hoa.

Phó đề đốc Prosper Courbet, đang chỉ huy hạm đội Pháp ở Bắc Kỳ, được cử kiêm luôn chỉ huy hạm đội Pháp ở Trung Hoa, đem quân đến cửa sông Mân ở Phúc Châu (Fou-Tchéou), thủ phủ tỉnh Phúc Kiến (Fukien) ngày 16-7, trong khi một hạm đội Pháp khác đến đảo Cơ Long (Kélung) ở eo biển Đài Loan. Ngày 5-8-1884, Pháp bắt đầu tấn công, gây thiệt hại nặng cho Trung Hoa.

Trên biển, hạm đội Pháp truy lùng và tấn công các tàu của Trung Hoa, phong tỏa cửa sông Dương Tử (Yang-tse), vùng Thượng Hải, và cho đến cuối tháng 3-1885, Pháp làm chủ hoàn toàn quần đảo Bành Hồ ở eo biển Đài Loan. (Quân sử III, Sài Gòn: 1971, tt. 227-228.)

  1. HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ HAI (9-6-1885)

Trong khi Pháp khó thắng Trung Hoa, thì rõ ràng Trung Hoa thất thế cả ở Trung Hoa lẫn ở Bắc Kỳ. Cả hai bên Pháp Hoa đều muốn tìm kiếm một giải pháp hòa bình vì hoàn cảnh riêng của mỗi bên. Sau những cuộc thảo luận kéo dài, hai bên dự tính đi đến việc ký kết hòa ước vào cuối tháng 3-1885, thì chính phủ Jules Ferry sụp đổ. Chính phủ Brisson lên thay thế. Bộ trưởng ngoại giao vẫn là Charles Freycinet.

Cuộc đàm phán về một hòa ước mới bắt đầu tại thành phố Thiên Tân từ ngày 13-5-1885 giữa hai bên Pháp-Hoa; kết thúc bằng Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và thương mại ký ngày 9-6-1885 giữa Jules Patenôtre (đại diện Pháp) và Si Tchen, Lý Hồng Chương (Li Hongzhang / Li-Hung-Tchang) và Teng Tcheng Sieou (đại diện Trung Hoa).

Hòa ước Thiên Tân lần thứ hai nầy gồm 10 điều khoản, có thể được tóm lược như sau: Trung Hoa đồng ý rút quân về nước (điều 1). Trung Hoa nhìn nhận việc Pháp bảo hộ Việt Nam (điều 2). Hai bên sẽ tiếp tục hòa đàm về vấn đề biên giới Việt Hoa (điều 3). Hai bên sẽ thảo luận về một hiệp ước thương mại (điều 5, 6, 8). Pháp đồng ý rút quân khỏi Đài Loan và Bành Hồ (Pescadores) (điều 9).

Như thế là chiến tranh Pháp Hoa về vấn đề Bắc Kỳ kết thúc. Bắc Kinh gởi một phái đoàn đến Hà Nội để giúp chấm dứt tranh chấp Pháp Hoa, và đưa quân đội nhà Thanh trở về Trung Hoa.

KẾT LUẬN

Dầu Việt Nam, quốc hiệu của nước ta từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, là một nước độc lập, Trung Hoa vẫn mặc nhiên tự xem Trung Hoa là thượng quốc và có ưu quyền đối với Việt Nam. Khi người Pháp xuất hiện, Trung Hoa tự xem có quyền thương lượng với Pháp về Việt Nam, muốn chia phần với Pháp và quyết định số phận Việt Nam. Cho đến khi bị Pháp đánh bại, Trung Hoa đành nhượng bộ, nhưng những nhà cầm quyền Trung Hoa không bao giờ từ bỏ mục tiêu truyền kiếp là đánh chiếm và đô hộ Việt Nam.

Chú thích:

  1. Yoshiharu Tsuboii, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch, TpHCM: Ban Khoa học Xã hội, 1990, tr. 142.
    2. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945, tập 1, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1999, tt. 273-274.
    3. Alfred Schreiner, Abrégé de l’histoire d’Annam, Sài Gòn: 1906, tr. 353.
    4. Khối Quân sử, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), Quân sử III, Sài Gòn: Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, 1971, tr. 164.
    5. Alfred Schreiner, sđd.. tt. 371-372.

TRẦN GIA PHỤNG

Môn sử ở trường phổ thông: đa dạng quan điểm và sự thật lịch sử

Môn sử ở trường phổ thông: đa dạng quan điểm và sự thật lịch sử

Blog RFA

Nguyễn Thị Từ Huy

Nhân cuộc thảo luận đang diễn ra gần như trên phạm vi toàn xã hội về vị trí thê thảm của môn lịch sử trong Dự thảo chương trình giáo dục tổng thể do Bộ Giáo dục ban hành trong khuôn khổ dự án cải cách giáo dục mà BGD đang thực hiện, tôi xin giới thiệu lại ở đây bài phỏng vấn một giáo viên Pháp dạy môn lịch sử ở cấp trung học cơ sở, từng công bố trên tạp chí Tia sáng. Tựa đề do tôi đặt lại.

Khi có thời gian tôi sẽ trở lại với dự thảo về cải cách chương trình môn sử, một cách cụ thể.

Tạm thời xin nêu ra đây mấy câu hỏi :

1/ Nếu coi việc rút bỏ thời lượng của môn sử và đem nó tích hợp với hai môn khác là một sự cải cách, thì cải cách này sẽ mang lại kết quả hay hậu quả nào ? Cải cách này liệu có góp phần giải quyết các vấn đề hiện tại mà môn lịch sử đang gặp phải hay không ? Những người thiết kế chương trình có hình dung tới kết quả hay hậu quả của các đề xuất do mình đưa ra ?

2/ Tên gọi của môn lịch sử, trên thực tế, không tồn tại trong Dự thảo, nó đã được thay thế bằng một tên mới « Công dân và Tổ quốc ». Tên gọi này cho thấy, môn lịch sử thậm chí không có được sự bình đẳng với hai môn mà nó tích hợp : giáo dục công dân và giáo dục quốc phòng. Điều này, cộng với sự giảm thiểu thời lượng đến mức thảm hại của môn sử, đã gây nên nỗi lo âu cho nhiều bộ phận xã hội trước nguy cơ về sự biến mất của môn lịch sử. Nguy cơ này có thật hay không ? Khi hình dung về nguy cơ này, nhiều người nghĩ đến ý kiến của Havel, nguyên tổng thống Tiệp Khắc, về việc trong chế độ toàn trị không có lịch sử, và đồng thời nghĩ đến việc lịch sử đã bị viết lại như thế nào và bị xuyên tạc một cách có hệ thống như thế nào trong các chế độ cộng sản.

3/ Nếu nguy cơ môn lịch sử biến mất là có thật, và nếu BGD và những người soạn dự thảo chương trình cương quyết không thay đổi quan điểm của mình, nếu việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo chương trình giáo dục cũng có cùng bản chất với việc lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo hiến pháp sửa đổi vừa qua : dân đóng góp ý kiến thì cứ đóng góp, phần quyết định thuộc về những người nắm quyền lực, và khi quyết định người nắm quyền không thèm đếm xỉa đến ý kiến của dân, thì trong trường hợp này, xã hội cần phải làm gì để ký ức lịch sử của toàn dân tộc không bị xóa bỏ ?

4/ Những người bảo vệ xu hướng rút bỏ tối đa thời lượng môn sử và tích hợp để biến nó thành một bộ phận của môn « Công dân và Tổ quốc » cho rằng : « không nên quan niệm giáo dục lịch sử trong nhà trường là phải dạy các kiến thức của khoa học Lịch sử một cách hệ thống ».

Trong khi đó quan điểm của giáo viên sử ở Pháp (tôi trích nguyên văn từ bài phỏng vấn dưới đây) : « Các chương trình cũng phản ánh sự tiến triển của khoa học lịch sử. Cuối thời kỳ thống trị bởi cái gọi là Biên niên sử (Annales), từ những năm 1980, khoa học Lịch sử là nơi các thành tố chính trị và văn hóa được đánh giá trong tương quan với kinh tế và xã hội, và các chủ đề nghiên cứu cũng chia cắt với nhau thành những chủ đề nhỏ hơn. »

Vì sao có sự khác nhau trong quan niệm về môn sử ở trường phổ thông, khác nhau đến mức trái ngược như vậy ?

5/ Cuối cùng : trong nhìn nhận của nhiều người, việc « tích hợp » môn sử có lẽ cho thấy giáo dục Việt Nam bị chính trị hóa một cách sâu sắc như thế nào, và những người soạn chương trình bị chính trị chi phối một cách đau đớn đến như thế nào.

Tuy nhiên, nếu quả thật không phải như vậy, nếu quả thật những người thiết kế chương trình lần này có tự do đề xuất ý tưởng của mình và không bị cái vòng kim cô của Ban Tuyên giáo siết chặt, thì mong rằng chúng ta có thể chứng kiến việc những người soạn chương trình có tự do thay đổi ý tưởng, dựa trên việc phân tích thực tế xã hội chính trị của Việt Nam hiện thời, dựa trên việc tiếp thu lòng dân và nỗi niềm của tầng lớp trí thức.

Tự do thay đổi Dự thảo còn là biểu hiện của lương tâm và trách nhiệm của những người làm chương trình đối với thế hệ trẻ và đối với vận mệnh dân tộc.

Paris, 26/11/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Môn sử ở trường phổ thông: đa dạng quan điểm và sự thật lịch sử

Nguyễn Thị Từ Huy (NTTH):

Trước hết, xin cám ơn ông đã cho tôi dự tiết ông dạy về chủ nghiã Quốc-Xã ở lớp 9.  Tôi theo dõi ông làm việc với một nửa lớp, gồm những học sinh chậm tiến. Nhưng tôi không cảm thấy là học trò của ông gặp khó khăn, vì ông đã thúc đẩy các em nói ra các ý kiến của mình, giúp các em hiểu bài, nắm được các khái niệm và những hiện tượng phức tạp khó nắm bắt, như hệ ý thức Quốc-Xã, như chủ nghĩa bài Do Thái, như khái niệm chuyên chế …  Tôi nhận thấy ông không nói nhiều, mà đặt nhiều câu hỏi. Khi học trò không trả lời được ngay, ông đưa ra các gợi ý hoặc ông nêu câu hổi theo cách khác. Tôi thấy ông tỏ ra rất kiên nhẫn để hướng các học trò tới các mục tiêu bài học phải đạt được. Tôi có thể hình dung thấy việc ông chuẩn bị bài giảng chẳng đơn giản chút nào, ông đã đưa ra bốn lược đồ và học sinh phải tự phân tích dưới sự hướng dẫn của ông. Xin ông làm ơn giải thích chi tiết hơn về phương pháp làm việc của ông cũng như về mục đích chính xác của bài dạy này?

Dominique Delmas:

Một trong những mục tiêu có tính thách thức trong chương trình Sử học lớp 9 trung học cơ sở là làm cho học sinh hiểu rõ hai nhà nước toàn trị thế kỷ thứ 20, là nhà nước Đức Quốc-Xã và nhà nước kiểu Stalin, làm sao chỉ ra cho các em thấy hai nhà nước đó có gì giống nhau và có gì khác nhau.

Tôi hoàn toàn tôn trọng phương pháp suy diễn, xuất phát từ các tư liệu lịch sử để đi tới phát hiện hệ ý thức, các mục tiêu và cách thức hoạt động trong thực tiễn của các chế độ toàn trị, nên tôi đã nghĩ đến việc sử dụng các hình ảnh thị phạm trong đó có cả lược đồ và biểu tượng, tôi làm như vậy vì 4 lý do chính sau đây:

–       Bằng cách thêm dần, trong quá trình thày trò cùng làm việc, từng yếu tố một vào lược đồ mang hình ảnh thị phạm, ta xây dựng được khái niệm trong tâm trí học sinh theo cung cách tiệm tiến.

–       Bằng cách diễn đạt thị phạm các khái niệm vừa tổng quát vừa trừu tượng đó, ta sẽ giúp học sinh tiếp nhận các khái niệm một cách dễ dàng thoải mái hơn.

–       Việc dùng các hình ảnh được xây dựng theo cùng một cung cách triển diễn và dùng cả các ký hiệu chung khiến cho việc so sánh hai hệ thống được dễ dàng hơn.

–       Ta có thể giúp học sinh làm việc bằng cách yêu cầu các em chuyển từ ngôn ngữ này [thị phạm – ND thêm] qua ngôn ngữ khác [nói và viết – ND thêm] bằng cách yêu cầu các em tái tạo lại các lược đồ dưới dạng văn bản viết.

Điểm cuối cùng vừa nói lắm khi cũng rắc rối. Có khi các em quên diễn đạt lại một số yếu tố trong lược đồ, khi thì các em không tìm được yếu tố ngôn ngữ cần cho cách biểu đạt khác, và cũng có khi các em không tái tạo lại lược đồ trước theo một lô gich chặt chẽ nhất quán (trật tự từ hệ ý thức sang các mục tiêu sang hành động thực tiễn và các dẫn chứng).

Trong ba hình thức văn bản viết cơ bản mà khoa Sử học yêu cầu: loại chuyện tự sự, bảng biểu diễn một tình huống, và việc mô tả có suy lý một hiện tượng lịch sử hoặc một khái niệm rút ra từ hiện tượng đó, thì dạng văn bản cuối cùng này hay gặp rắc rối hơn cả. Điều đó có nhiều lý do: việc tạo dựng [lại trong tâm lý học sinh – ND thêm] không tuân thủ một lô gích tuyến tính hoặc một lô gích theo chủ đề, nên người học cần làm chủ được những thuật ngữ phức tạp đồng thời cũng cần biết cách đi từ cái chung đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, nghĩa là đi con đường quy nạp, ngược với con đường diễn dịch, (từ những tư liệu cụ thể đến tổng quát hóa) được ứng dụng khi học.

Về cách thức làm việc, chị đã hoàn toàn thấy rõ những gì tôi tìm cách thực hiện. Cách tôi sắp đặt các bảng nhằm tạo thuận lợi cho cả những trao đổi và việc lắng nghe lẫn nhau. Việc phát biểu ý kiến và việc đưa ra các giả thuyết đều được khuyến khích tối đa nhằm củng cố sự tự tin và độ tin cậy lẫn nhau giữa các học trò phần lớn đều thuộc diện gặp khó khăn[1]. Các buổi làm việc chung theo cách thức đối thoại đan xen nhau với các buổi khác để trẻ em được làm việc độc lập hoặc theo từng cặp đôi. Khi đó việc trao đổi với giáo viên mang tính cá thể hơn và thích hợp với từng học trò riêng rẽ. Cũng có cả hình thức hoạt động học khác là cách viết bài mà không ít học sinh cho đến lúc này vẫn gặp khá nhiều khó khăn.

NTTH

Giá mà được ông cho biết về sách giáo khoa Sử học trường phổ thông thì hay vô cùng. Ông là tác giả sách Sử học dùng trong trường này, ông có thể chia sẻ với chúng tôi những gì liên quan đến cấu tạo sách giáo khoa của ông, về nguyên tắc biên soạn, và cả về chương trình Sử học bậc trung học cơ sở của nước Pháp?

Dominique Delmas

Sách giáo khoa được biên soạn bởi những nhóm giáo viên thường là do tổ chức IPR thanh sát (IPR viết tắt của Inspecteurs Pédagogiques Régionnaux là Thanh tra Sư phạm Khu vực phụ trách đánh giá các giáo viên trung học). Tại từng trường, các giáo viên bỏ phiếu chọn một trong số những sách giáo khoa được in ở các nhà xuất bản khác nhau (có chừng tám nhà xuất bản như thế). Ở trường phổ thông cơ sở (collège), sách giáo khoa được phát không, nhưng trường trung học phổ thông (lycée) thì không như vậy.

Các tác giả sách giáo khoa biên soạn dựa trên những chương trình học chính thức quy định các nội dung hoặc các chủ đề, đôi khi các nhóm biên soạn có chọn lựa khác, nhưng đều phải có những thực hành đặc biệt thí dụ như huấn luyện cách học tự sự hoặc nghiên cứu tác phẩm nghệ thuật như là chứng nhân của Lịch sử. Ở Pháp, do thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc cho tới 16 tuổi, học sinh từ lớp 6 tới lớp 9 phải học cho xong những giai đoạn lớn của Lịch sử kể từ thời Cổ đại tới thế giới đương đại. Chương trình học tập trung vào Pháp và châu Âu. Các không gian lịch sử được mở rộng dần, từ vùng Địa Trung Hải tới Đại Tây Dương, rồi tuần tự tới các vùng khác trên thế giới. Cũng có vài chuyên đề riêng nhưng ngắn gọn học ở lớp 6 về triều đại Gupta của Ấn Độ và thời nhà Hán của Trung Hoa, ở lớp 5 có bài về các vương quốc và đế quốc Tây Phi châu thế kỷ thứ X và XV. Các chương trình cũng phản ánh sự tiến triển của khoa học lịch sử. Cuối thời kỳ thống trị bởi cái gọi là Biên niên sử (Annales), từ những năm 1980, khoa học Lịch sử là nơi các thành tố chính trị và văn hóa được đánh giá trong tương quan với kinh tế và xã hội, và các chủ đề nghiên cứu cũng chia cắt với nhau thành những chủ đề nhỏ hơn.

Như chị đã thấy, các chương sách đều có những trò chơi đan xen với các tư liệu khác nhau để các giáo viên lấy từ đó ra để tổ chức cho học sinh hoạt động học. Trong các trò chơi và tư liệu đó nhất thiết phải có một «bài học» dưới một hình thức trình bày sáng sủa và dễ hiểu, mà người học phải tìm ra được phần căn bản của chủ đề được đề cập tới. Sách giáo khoa cũng phải chịu những ràng buộc từ phía nhà xuất bản: maket và cách dàn trang đôi khi rất áp đặt rất hà khắc, yêu cầu về tính hấp đãn (để ve vãn người mua và người dùng …) đôi khi lại dẫn tới sự đơn giản hóa quá mức.

NTTH :

Ông dạy những nội dung nào về Lịch sử Pháp cho học sinh lớp 9? Liệu những sự kiện coi là nhạy cảm (như chiến tranh Algérie) có được đem dạy không?

Dominique Delmas :

Ở lớp 9, học trò học lịch sử Pháp thế kỷ XX.  Chương trình học ưu tiên cho ba thời điểm nổi trội: nước Pháp thời kỳ giữa hai cuộc Đại chiên thế giới, nước Pháp thời Đức Quốc-Xã chiếm đóng, phe Kháng chiến và phe Hợp tác với Đức, sau cùng là Đệ Ngũ Cộng hòa từ năm 1958 cho tới thời điểm hiện nay. Cuộc chiến Algérie được học trong chương về giải trừ chế độ thực dân. Dần dà, với vấn đề này và nhiều vấn đề khác nữa, như vấn đề về Thời bị Đức chiếm đóng, cùng với những thay đổi thế hệ và những tiến bộ trong nghiên cứu, thực tại được bóc trần ở mọi kích tấc, kể cả những thứ khó xử nhất hạng đốí với ký ức quốc gia dân tộc. Trong Thế chiến 2 chẳng hạn, đó là những vấn đề về vài trò của chính phủ Vichy và vai trò của một số người Pháp trong các vụ bắt bớ người Do Thái và đàn áp người kháng chiến, hoặc trong cuộc chiến tranh Algérie thì có những vấn đề về tội ác chiến tranh và tra tấn.

Liên quan đến Lịch sử nước Pháp đương đại được dạy ở bậc Trung học cơ sở, có bốn yếu tố chính yếu trong những năm 1970 đã giúp vào việc nghiên cứu những phương diện đối lập nhau trong những giai đoạn lịch sử nhất định: sự thay đổi các thế hệ, những công trình của các nhà nghiên cứu đôi khi là các nhà nghiên cứu người nước ngoài như nhà viết sử người Mỹ, Paxton, tác phẩm của ông về chính quyền Vichy đã gây sốc tại Pháp[2], sức mạnh phản kháng trước và sau Biến cố tháng Năm 1968, sau nữa là những đòi hỏi của các thế hệ con cháu muốn được nghe tiếng nói và ký ức của những người thiểu số (Người Pháp gốc Algérie vẫn gọi là Pieds-Noirs, người «lính địa phương»  Algérie  vẫn gọi là người Harkis, những chiến binh Mặt trận Giái phóng Dân tộc Algérie -FLN- trên đất Pháp).

Các sách giáo khoa được viết tự do về những tội ác gắn liền với chế độ thực dân hoặc vấn đề về những cuộc nổi loạn năm 1917 trong Thế chiến thứ nhất. Với những giai đoạn lịch sử xa hơn nữa, các quan điểm có khác nhau. Thế nên, ở lớp 8 Trung học cơ sở, triều đại của Louis XIV không chỉ được nghiên cứu dưới lăng kính hành động của nhà vua và giới tinh hoa mà cũng còn được xem xét theo các điều kiện của người dân thời đó. Về nước Pháp thế kỷ 20, có hai vấn đề gai góc nhất, như tôi đã nói, là giai đoạn Chiếm đóng và giai đoạn giải trừ chế độ thực dân, nhất là về cuộc chiến tranh Algérie. Về giai đoạn Chiếm đóng, những vấn đề liên quan đến chính sách Do Thái của chính quyền Vichy và sự tham gia vào chính sách này của người dân Pháp và một bộ phận chính quyền và tổ chức chính trị cũng được xem xét thẳng thắn hơn, đây là một dẫn chứng: trong sách giáo khoa có những tư liệu cho thấy một người Pháp mặc quân phục Đức trên vai có phù hiệu Pháp và cả những tư liệu khác cho thấy cảnh sát Pháp tham gia càn quét người Do Thái rồi chở họ đi trên những xe buýt tịch thu của lực lượng du kích kháng chiến RATP. Cũng có những tài liệu tương tự về thái độ và dư luận công chúng rất đa dạng, có vẻ như hồi ban đầu tỏ ra đi theo phe đa số của thống chế Pétain và cứ thay đổi tiến bộ dần trải qua thời kỳ kéo dài bốn năm chiếm đóng. Sau hết, chuyện chiến tranh Algérie, Sử học dạy ở nhà trường cố gắng cho thấy sự đa dạng trong quan điểm và cố không che dấu sự tàn bạo của các cuộc đụng độ: phe khủng bố và việc đàn áp phe khủng bố. Nhưng các cuộc tranh cãi vẫn còn nóng hổi, một khi vị trí quan trọng vẫn dành cho việc dạy Sử học trong nhà trường Pháp. Mới cách đây vài năm thôi đã có dự luật trình Quốc Hội cho phép nhà trường thừa nhận phương diện tích cực của chế độ thực dân.

                     Phạm Toàn dịch từ tiếng Pháp

1 Thiếu tự tin dường như là một đặc tính của học sinh Pháp. Khi tham dự các test quốc tế của tổ chức Hợp tác và Phát triển châu Âu OCDE, đa số học sinh Pháp chọn cách không-trả lời thay vì chọn cách có thể sai, các em học sinh Pháp chiếm số đông trong đám ngồi im thin thít hơn là rơi vào nguy cơ sai lầm.

2 Tác giả chứng minh rằng đường lối chính trị của chính quyền Vichy không chỉ là hệ quả của những áp lực và mệnh lệnh của quân chiếm đóng.

Bỏ môn lịch sử làm gì?

Bỏ môn lịch sử làm gì?

Người Buôn Gió

Bộ Giáo Dục Việt Nam đã đưa ra một dự kiến bỏ môn Lịch Sử trong giảng dạy, chuyển môn này vào phần Giáo Dục Công Dân. Một cuộc hội thảo chính thức đã diễn ra , theo như lời của sử gia Dương Trung Quốc thì hội thảo này chủ đề là.

“Tích hợp giáo dục lịch sử, giáo dục quốc phòng an ninh và giáo dục công dân hợp thành môn công dân với Tổ quốc trong chương trình giáo dục phổ thông mới” do Bộ GD-ĐT tổ chức ngày 3-11”.

Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã lên tiếng phản đối dữ dội trước dự thảo này của bộ giái dục Việt Nam. Từ giáo sư Phan Huy Lê, sử gia Dương Trung Quốc đến nhiều nhân sĩ, trí thức khác.

Giáo sư Nguyễn Ngọc Cơ nguyên phó chủ nhiệm khoa lịch sử trường đại học sư phạm Hà Nội cho rằng việc làm này là có tội với tổ tiên, đất nước. Còn giáo sư Phan Huy Lê gọi đó là thủ tiêu môn lịch sử, ông sử gia Dương Trung Quốc bày tỏ nhẹ nhàng hơn rằng ông thất vọng việc bỏ môn lịch sử.

Thực tế cho thấy nhiều năm trở lại đây học sinh không thiết tha gì với môn lịch sử. Đỉnh điểm kỳ thi hồi tháng 7 năm 2015 mới đây tại một điểm thi chỉ có môn thí sinh thi môn lịch sử, và cần đến 66 người coi cuộc thi này.

Không ai học như vậy, bỏ cũng là đúng. Nhưng trước tiên phải đi ngược lại vấn đền là tại sao học sinh không muốn học. Nguyên nhân do đâu?

Nguyên nhân môn lịch sử VN không thu hút được học sinh, bởi nó được soạn  theo ý đồ chính trị của Đảng CSVN, của Ban tuyên giáo ĐCSVN…những nơi chỉ có lừa đối, tuyên truyền một chiều ngự trị, miễn sao là có lợi cho vai trò cầm quyền của Đảng. Ở môn học này những phần về lịch sử Việt Nam thời xưa được dạy sơ sài , chẳng hạn đến Hai Bà Trưng đánh giặc nào cũng không được nói rõ.

Như tấm bia lớn để  giữa nghĩa trang liệt sĩ hy sinh trong cuộc chống Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc chỉ được ghi là hy sinh, hay những tâm bia tội ác chống quân Trung Quốc bị đục bỏ. Hai Bà Trưng cũng chỉ được ghi chung chung là đánh quân xâm lược. Ngược lại thì khắp nơi trên đất Việt Nam đầy rẫy tấm bia ghi tội ác đế quốc Mỹ, sách giáo khoa cũng chi tiết vậy. Lịch sử Việt Nam cả ngàn năm chống chọi trước âm mưu thôn tính của Trung Quốc. Bỏ môn lịch sử đi tức là xoá ký ức của dân tộc, làm lãng quên sự cảnh giác trước âm mưu xâm lược của Trung Quốc. Những cuộc kháng chiến chống phương Bắc đầy rẫy những hình ảnh oai hùng, có tác động khơi dậy tính dân tộc quật cường sẽ bị xoá bỏ.  Nếu nhìn thấy việc các đài truyền hình Việt Nam, các nhà xuất bản ở Việt Nam cho ra liên tiếp và trình chiếu những tác phẩm của Trung Quốc, chúng ta có thể thấy đây hẳn là một ý đồ có tính toàn diện thôn tính tư tưởng người Việt, tẩy não cả một dân tộc nhằm mục đích thay thế hình ảnh Trung Quốc đầy dã tâm bằng một Trung Quốc thân thiện với Việt Nam.

Từ thời Hai Bà Trưng đánh giặc nào không biết, đến chiến tranh biên giới chống quân Trung Quốc  hay sự kiện Hoàng Sa, Trường Sa bị Trung Quốc cướp không có trong sách giáo khoa. Thay thế vào đó là quan hệ Việt Trung mười sáu chữ vàng, hữu nghị mà Đảng nhồi vào sách giáo dục công dân.  Chắc hẳn thế hệ sau này sẽ chỉ biết đến một Trung Quốc tốt bụng và người anh em thân thiết với đảng cộng sản Việt Nam.

Cùng với bán tài nguyên, đất đai, biển đảo cho Trung Quốc. ĐCSVN đang rắp tâm bán nốt tư tưởng dân tộc cho Trung Quốc qua việc bỏ môn lịch sử bằng một thủ đoạn thâm hiểm là đầu tiên dạy sơ sài, dối trá cho học sinh chán. Tiếp theo vin vào lý do học sinh không muốn học để bỏ môn này, gom vào môn giáo dục công dân. Một cái tên nghe đã thấy nặng mùi tuyên truyền, nhồi nhét tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam. Học sinh  Việt Nam sẽ không được giáo dục theo truyền thống tổ tiên nữa mà giáo dục thành con người của CNXH, con người của Đảng, của Mác, Lê Ninh, Hồ Chí Minh.

Chính phủ Việt Nam nói rằng hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đời này không đòi được, thì để đời con cháu sau này đòi. Nhưng với sự giáo dục như thế này thì liệu rằng con cháu đời sau lấy tinh thần nào để làm động lực đòi lại hai quần đảo ấy? Cứ cái đà giáo dục, tuyên truyền đang diễn ra thì vài mươi năm nữa có khi thế hệ sau ở Việt Nam xin sát nhập vào Trung Quốc cũng chẳng có gì là ngạc nhiên. Bởi diễn biến tâm lý về mặt tư tưởng ấy đã được sắp thành lộ trình từ hàng chục năm trước giữa Cộng Sản Việt Nam và Cộng Sản Trung Quốc.

Bỏ môn lịch sử, mục đích duy nhất của chế độ CSVN ngày nay là nằm trong kế hoach thôn tính tư tưởng, nô lệ hoá dân tộc vào Trung Quốc sau này.

Đòi hỏi giữ nguyên môn lịch sử chưa đủ, cần phải đòi hỏi cải cách giáo trình môn học này, đưa những bài học chân thực và khách quan trong lịch sử vào giảng dạy. Nhà văn nổi tiếng Gamzatov nói rằng ” nêú anh bắn vào quá khứ bằng súng lục, tương lai sẽ bắn vào anh bằng đạn đại bác ”. CSVN còn vượt quá hơn câu thành ngữ ấy, bằng cách xoá sổ quá khứ của dân tộc. Bằng một cuộc tẩy não mà chỉ có chế độ độc tài, phát xít hay dùng đến.

Hãy nghe lời tâm tình của Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Quốc Sử trả lời báo Một Thế Giới.

”Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Hầu hết những gì diễn ra hôm nay đều có nguồn cội, căn nguyên từ quá khứ, hay nói cách khác đó là sự tiếp nối của quá khứ. Bởi thế, muốn hiểu hiện tại, muốn hành xử cho đúng, không lệch lạc trong tương lai thì phải soi chiếu vào lịch sử.

Còn môn lịch sử, nó sẽ giúp chúng ta tìm hiểu quá khứ một cách có hệ thống. Tuy nhiên, có nhận thức đúng về quá khứ hay không còn phụ thuộc vào quan điểm và phương pháp nhận thức, quan điểm và phương pháp nghiên cứu lịch sử, dạy và học sử của mỗi người.

Đất nước, cộng đồng hay cá nhân nào cũng cần đến vai trò của lịch sử. Với dân tộc Việt Nam, việc tìm hiểu lịch sử còn quan trọng hơn nhiều, bởi lẽ đất nước ta luôn bị đe dọa, xâm lăng, ngay cả lúc này. Vì vậy, việc tìm hiểu, dạy và học lịch sử là một trong những vấn đề sống còn của mỗi người trong cộng đồng dân tộc. Hơn nữa, Việt Nam đang ở trong thời kỳ hội nhập, học sử là để hiểu mình, hiểu người, giúp chúng ta biết mình đang ở tầm vóc nào, hiểu rõ bạn bè và kẻ thù của mình, từ đó sẽ hội nhập tốt hơn.”

Ở cương vị người trong nước, có lẽ phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Quốc Sử chỉ khái quát chung được đến thế, vì ngại vạch rõ  mưu đồ của ĐCSVN. Nhưng dù chỉ khái quát thì cũng dễ thấy quan điểm khoa học đúng đắn của ông trình bày đại diện cho rất nhiều tâm tư của người dân Việt Nam.

CSVN đã bán hết phần xác thịt của đất nước như tài nguyên, chủ quyền cho Trung Quốc. Giờ đang đến lúc CSVN bán phần linh hồn dân tộc cho bọn quỷ dữ ngoại bang phương Bắc. Mọi người dân cần nhìn rõ thủ đoạn nham hiểm này để cất tiếng nói giữ gìn được sinh khí của dân tộc, hồn thiêng của sông núi. Không thể làm ngơ cho Cộng Sản, một thứ quái thai của loài người lộng hành, tác quái , bất chấp cả lương tri, đạo lý  mà tự tung, tự tác như vậy được.

Điểm đến Việt Nam: ‘Đòi tiền chuộc’, ‘chém trước cướp sau’ và 6%

Điểm đến Việt Nam: ‘Đòi tiền chuộc’, ‘chém trước cướp sau’ và 6%

 Nữ sinh Hà Nội mặc áo dài tạo dáng chụp ảnh trên phố mùa lá rụng.

Nữ sinh Hà Nội mặc áo dài tạo dáng chụp ảnh trên phố mùa lá rụng.

Phạm Chí Dũng

Ngày 10/11/2015, lại thêm một chấn động về chủ nghĩa thực dụng đang tung hoành trong nền du lịch “đậm đà bản sắc dân tộc” ở Việt Nam: câu chuyện một phụ nữ Anh bị đòi tiền chuộc chiếc máy ảnh mà chị làm rơi ở Quảng Bình được tường thuật lại trên báo Anh Daily Mail. Ngay lập tức, bài báo này nhận được rất nhiều bình luận từ độc giả trên khắp thế giới. Rất nhiều ý kiến chê trách lòng tham của người Việt.

Nhiều độc giả tỏ ra hoàn toàn không hài lòng về Việt Nam bởi “một đất nước đầy rẫy trộm cắp” và nạn vòi tiền du khách diễn ra phổ biến, và nói sẽ không quay trở lại.

Thật đáng buồn, du khách ở Việt Nam bị coi như những cây ATM di động”, độc giả có nickname “EvilPoppet” của Australia bình luận.

‘Những tên cướp biển Viking’

Transtroemer là một người đàn ông Thụy Điển gần năm chục tuổi, khuôn mặt với bộ râu quai nón nhộn nhạo luôn phảng phất vẻ hóm hỉnh. Vào lần thứ hai cùng gia đình du lịch đến Việt Nam, ông đã không còn được hưởng cái thú đi dạo yên bình như lần trước. Vợ ông, vốn quen phong cách phụ nữ Bắc Âu với cái túi xách trễ nải mà “không khép thật chặt khuỷu tay”, đã bị hai kẻ đi xe gắn máy lao lên lề đường giật mất cái túi. Vào lúc ấy, gia đình họ đang hớn hở tắm mình trong cái nắng nhiệt đới.

Cảnh tượng quá đỗi kỳ quái đó lại diễn ra ngay tại một trong những đường phố đẹp nhất ở trung tâm Sài Gòn.

Cả gia đình Transtroemer đứng như trời trồng, không hiểu chuyện gì xảy ra. Phải sau vài ngày và khi đã trấn tĩnh lại, ông mới buột ra: “Trước khi xin visa du lịch vào Việt Nam năm nay, tôi đã nghe sứ quán cảnh báo về nạn cướp giật. Bạn bè của tôi, những người đã ít nhất một lần đến Việt Nam, cũng cho những lời khuyên. Nhưng không ngờ ở đây lại bị cướp táo bạo đến thế. Không khác gì những tên cướp biển Viking…”.

Đúng là một ví von hóm hỉnh. Nhưng trong lúc ông khách du lịch Thụy Điển cố tỏ ra hài hước để trấn an những người bạn Việt, chính người bản xứ lại càng có lý do để chua xót.

Đã không chỉ một lần họ được nghe những người bạn nước ngoài than thở về câu chuyện tương tự. Cũng không chỉ một lần, bản thân họ hoặc bất cứ ai trong số họ đã chứng kiến người thân của mình bị trộm hoặc bị cướp trắng trợn ngay tại Thủ đô Hà Nội hay ở Sài Gòn.

Natalia Krupskaia, một nữ du khách Nga thường đến Hà Nội kết hợp với công việc kinh doanh cá hồi, còn ngạc nhiên một cách thành thật bởi một thành phố có bề dày “ngàn năm văn hiến”, nhưng lại “hở ra một cái là bị mất đồ ngay”. Với người đàn bà chịu học tiếng Việt này, thật khó hiểu là với tình hình an ninh như thế, hàng năm Việt Nam lại có thể đón tiếp đến trên 8 triệu khách du lịch nước ngoài – như một con số của ngành du lịch nước này công bố mà cô không mấy tin tưởng vào độ xác thực của nó.

Cũng đã từng vài lần đến Sài Gòn, tuy chưa lâm vào hoàn cảnh như gia đình Transtroemer, nhưng Natalia không thể không chú ý đến không khí căng thẳng luôn thường trực tại nhiều khách sạn tại khu trung tâm. Thậm chí qua  báo chí Việt, Natalia còn biết là hàng năm có đến hai trăm rưỡi vụ cướp giật xảy ra tại các khách sạn trung tâm Sài Gòn, nhưng số vụ được cảnh sát phát hiện manh mối và truy bắt được thủ phạm lại hầu như không đáng kể.

Chỉ mới vào tháng 10/2015 ở Sài Gòn, một công dân Đức là Sepastian Gretz khi cùng bạn gái ra khu vực bờ kè kênh Tàu Hủ ngồi hóng mát, đã bất ngờ có một nhóm thanh niên xông đến dùng dao chém anh bị thương, sau đó lục túi cướp tiền và điện thoại di động, rồi tẩu thoát.

Nạn cướp giật du khách nước ngoài đã đẩy lên mức độ “chém trước cướp sau”.

Thế thì làm sao mỗi năm thành phố này có thể thu hút đến ba triệu rưởi khách du lịch nước ngoài – điều được các quan chức và doanh nghiệp du lịch Sài Gòn cho là “cứu cánh” mà có thể mang lại doanh thu đến 49.000 tỷ đồng?

Điều đáng nói là ngày càng có nhiều khách du lịch nước ngoài am hiểu về mặt trái xã hội đương đại ở Việt Nam. Cái được gọi là “văn hóa bún mắng cháo chửi” ở Hà Nội cũng đã được người ta biết đến không chỉ như một câu chuyện bông đùa.

‘Ghét Việt Nam’

Một nữ Việt kiều là chị Phương Thảo, sau nhiều lần trở về quê hương, đã buồn bã và chua chát: Việt Nam có gì để tự hào?

Chỉ cần gõ lên trạng mạng tra cứu dòng chữ “tôi không bao giờ quay trở lại Việt Nam” sẽ thấy rất nhiều bài báo hay các blog được liệt kê. Những bài này do các blogger chuyên về du lịch viết và được đăng trên các trang chuyên mục về du lịch nổi tiếng có nhiều người theo dõi. Một trong những người đó có thể kể đến Nomadic Matt, Derek4real hay thậm chí trên diễn đàn của Tripadvisor- một trang mạng chuyên cho lời khuyên đến du khách – cũng có riêng một mục nói đến những trải nghiệm xấu ở Việt Nam.

Cũng có đây đó các ý kiến phản biện, cho rằng họ có phần hơi phiến diện, nhưng điều đáng buồn là số người đồng ý không hề nhỏ, và họ còn nói rằng họ ghét Việt Nam. Không phải họ ghét người Việt mà chỉ vì ghét những gì đã phải trải qua và chứng kiến. Điều đáng buồn là những nhận xét này không thay đổi theo thời gian (tính từ năm 2003 cho đến 2014).

Điều mà ai cũng nói đến – đó là sự thiếu trung thực, hay nói thẳng ra là nói dối và lừa đảo. Ở đâu cũng có người này người kia, ở đâu cũng có vấn nạn lừa đảo du khách, song mức độ lừa đảo và nói dối ở Việt Nam đã lên hàng đầu. Du khách bị lừa ngay khi từ sân bay hay bến xe bước chân lên taxi. Sự thiếu trung thực còn thể hiện ở việc du khách nước ngoài luôn phải trả giá cao hơn người Việt Nam gấp nhiều lần. Nhiều người cho rằng trả số tiền như vậy vẫn rẻ hơn so với nơi họ đang sống, nhưng cảm giác bị đối xử như vậy làm cho họ cảm thấy không được tôn trọng.

Nhiều người Việt cho rằng Tây phải bị chặt chém là chuyện thường và thậm chí còn cho rằng Tây là những con “lợn béo”. Có thể Tây không hiểu được tiếng Việt, nhưng họ có óc quan sát và họ thừa biết họ phải móc nhiều tiền hầu bao để trả cho cùng một món hàng. Những ví dụ cụ thể được đưa ra với cả số tiền họ phải trả cho dịch vụ không đáng có từ việc vá vỏ xe, hay kéo xe bị thủng lốp đi đến chỗ vá, cho đến việc mua trái cây hay một lon nước ngọt, hay cả việc không có tiền thối lại hoặc thối lại tiền thừa không đúng, hay đến việc bị ép phải cho tiền phí phụ vụ. Câu kết luận được buông ra ở đây là người Việt tham lam và thiếu trung thực.

Trong số 7,874 triệu du khách đến Việt Nam, chỉ có 6% ít ỏi trong số du khách này hàng hài lòng với dịch vụ họ đã sử dụng.

6%!

Cũng chỉ 6% du khách nước ngoài cho biết sẽ quay trở lại Việt Nam lần hai. Tỷ lệ cực thấp này được chứng minh bởi báo cáo của Dự án Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường xã hội do Liên minh Châu Âu tài trợ, khi thực hiện trưng cầu ý kiến của 3.000 du khách nước ngoài ở 5 điểm du lịch chính là Sa Pa, Hạ Long, Huế, Đà Nẵng và Hội An.

Làm giá – chặt chém, giao thông hỗn loạn, ăn xin, ăn cắp vặt và vệ sinh an toàn thực phẩm là những điều đáng sợ với du khách khi đến Việt Nam.

Chỉ đến gần đây, một quan chức cao cấp của Việt Nam là Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chợt than thở: “Nhìn sang Thái Lan, Malaysia, họ có 27 – 30 triệu khách/năm; Singapore cũng có 15 – 16 triệu khách. Thu nhập từ khách du lịch của Thái Lan một năm cũng 50 – 60 tỉ USD. Mình chỉ được khoảng 10 tỉ USD, khách được khoảng 8 triệu. Bây giờ đặt ra những vấn đề gì?”.

TỬ ĐẠO – ĐỨC TIN

TỬ ĐẠO – ĐỨC TIN

Chúa Nhật XXXIII Thường Niên –

Kính Trọng thể Các thánh tử đạo Việt Nam

Mt 10, 17-22

Tác giả:  Lm. Vinh Sơn, scj

“Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”, chết vì Chúa Kitô đạt được niềm hạnh phúc như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; Lc 6,22).

Suốt ba thế kỷ trong nhiều thời kỳ bách đạo khác nhau, Giáo Hội Việt Nam đã sinh ra trên 100.000 ngàn vị anh hùng tử đạo, trong số đó có 117 vị được phong thánh, một Vị Chân phước tử đạo đầu tiên cho Giáo hội Việt Nam là thầy giảng Anrê Phú Yên. Hiện nay cũng có mười vị được tôn kính như là bậc “Đáng kính” và 1.000 vị được đứng vào bậc “tôi tớ Chúa”. Các tín hữu còn sót lại trong các cuộc bách hại cũng bị nhà tan cửa nát, trốn tránh vào những nơi rừng thiêng nước độc để giữ niềm tin, như các giáo dân chạy vào vùng La Vang, Quảng Trị, giống như xưa các Kitô hữu tiên khởi đã phải trốn vào sinh sống các hang toại đạo được đào sâu trong lòng đất ở ngoại ô Rôma.

Các ngài thuộc đủ mọi thành phần Dân Chúa: Giám mục, linh mục, thầy giảng, chủng sinh, giáo lý viên, trùm họ, chánh trương và anh chị em tín hữu. Về xã hội các ngài cũng thuộc mọi thành phần: Quan trong triều đình, chánh tổng, quan án, lý trưởng… quân nhân các cấp bậc, thương gia, nông dân, ngư dân hay nội trợ… Địa vị và chức nghiệp của các ngài không hề là trở ngại hay là lý do phân cách các ngài trong sứ mệnh làm chứng cho Đức Tin vào Đức Kitô, tất cả vì lòng tin và yêu mến Thiên Chúa và Đức Kitô.

Chiêm ngưỡng cha ông tử đạo để thể hiện tình yêu với Chúa Kitô, chúng ta – con cháu Rồng – Tiên biểu lộ tử đạo qua cuộc sống hằng ngày dù rằng chúng ta còn bất toàn và yếu đuối. Các ngài cũng như chúng ta cũng từng có những yếu đuối sa ngã của con người, như Thánh Luca Phạm Trọng Thìn, khi làm Chánh Tổng đã có một thời gian dan díu tình cảm với cô Trung, người làng Trà Lũ; hay như thánh Mátthêu Lê Văn Gẫm, một thương gia giàu có, đã từng yếu lòng đèo bồng thêm một cô vợ bé… Nhưng sau khi vị Linh hướng hay gia đình khuyên bảo nhắc nhở, các ngài ý thức được sự yếu đuối sai sót của mình và hết lòng ăn năn hối cải, quyết tâm đổi mới lại cuộc đời, sống tình bác ái Tin mừng theo gương Chúa Giêsu, trở nên gương sáng cho người khác, hết sức phục vụ Giáo Hội. Là con người bất toàn, dù yếu đuối, nhưng khiêm tốn, phó thác Thiên Chúa đã ban ân sủng, các ngài trở nên mạnh mẽ, trung kiên, can đảm nhận cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.

Dịp mừng kính các vị anh hùng tử đạo cha ông, là thời gian và cơ hội quý báu giúp chúng ta – thế hệ con cháu, dù thuộc bất cứ thành phần nào cũng có thể nhìn vào các ngài soi chiếu để duyệt lại lại đức tin của chúng ta như Giáo Hội mời gọi: Đức tin can đảm, Tin vào Chúa là tất cả, Đức tin sống động được thể hiện qua lời nói việc làm như thánh Giacôbê xác tín “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17). Khi duyệt lại đời sống đức tin chúng ta, gần gũi và sống động nhất theo gương của các vị tiền bối mà tiến bước. Nhìn đức tin dưới ba khía cạnh cần duyệt lại, các anh hùng tử đạo nói chung và các anh hùng tử đạo Việt Nam đã làm chứng đức tin khi đổ máu đào tuyên xưng Đức Kitô:

  • Các chứng nhân Tử đạo mạnh mẽ đồng nhất từ tâm can đến cách hành xử can đảm chấp nhận gian nan và đi vào cái chết vì Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Tử đạo là chết vì Chúa Kitô, trong đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu…
  • Với anh hùng tử đạo, các ngài nhìn nhận Chúa Kitô là tất cả sự chọn lựa. Không có sức mạnh nào ngay cả cái chết có thể tách rời sự kết hợp lòng yêu mến Chúa, các ngài mặc tâm tình như Thánh Phaolô đã khẳng định: “Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”. Trong gian nguy nhưng sẽ chiến thắng như thánh Tông đồ đã xác tín: “Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” Và Ngài kết luận: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta” (Rm 8, 35-39).
  • Các anh hùng tử đạo đã tuyên xưng đức mạnh mẽ bằng cái chết , dù trước sức mạnh của bạo quyền trong các nhục hình: Xử trảm (chặt đầu), bị xử giảo (thắt cổ), bị tra tấn và chết rũ tù, bị thiêu sống, bị lăng trì (phân thây bằng sức mạnh của dã thú), bá đao (hay còn gọi là tùng xẻo, mỗi tiếng trống cắt một miếng thịt làm đủ một trăm nhát), không thể làm các Ngài tách ra khỏi niềm tin, xa cách tình yêu Thiên Chúa mà trái lại các ngài luôn thể hiện niềm xác tín và tình yêu vào Đấng mà các ngài tin thờ.

Khi duyệt lại đời sống đức tin và “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời, “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” (Tự sắc Porta Fidei, số 2 và 9),

Thật thế, chúng ta con cháu noi gương đức tin của cha ông – các anh hùng Tử Đạo sống theo lời dạy của Thánh Phaolô:

“Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7).

Lm. Vinh Sơn, Sài Gòn 14/11/2015

Cú giáng vào nỗ lực TPP của Việt Nam?

Cú giáng vào nỗ lực TPP của Việt Nam?

Bà Đỗ Thị Minh Hạnh bị nhiều người đàn ông đánh vào đầu và mặt khi bà đi bảo vệ quyền lợi cho các công nhân ở Đồng Nai.

Bà Đỗ Thị Minh Hạnh bị nhiều người đàn ông đánh vào đầu và mặt khi bà đi bảo vệ quyền lợi cho các công nhân ở Đồng Nai.

VOA Tiếng Việt

24.11.2015

Một nhà hoạt động trong nước cho biết bà đã bị “bóp cổ” và “đánh vào đầu” khi tới bảo vệ quyền lợi cho các công nhân “thấp cổ bé họng” ở Đồng Nai, giữa bối cảnh nhiều nhà lập pháp Mỹ bày tỏ hoài nghi về TPP, nhất là vấn đề công đoàn độc lập ở Việt Nam.

Bà Đỗ Thị Minh Hạnh cùng ký giả tự do Trương Minh Đức đầu tuần này tới trao đổi với hàng chục công nhân của một công ty nước ngoài hoạt động ở Việt Nam về việc họ bị “chấm dứt hợp đồng và bị sa thải trái pháp luật”, nhưng cuộc gặp đã nhanh chóng bị giải tán.

Bà Hạnh và ông Đức sau đó đã bị áp giải tới một đồn công an và bị câu lưu trong nhiều tiếng đồng hồ, trước khi được các nhà hoạt động khác tới “giải cứu”.

Người phụ nữ từng nhiều lần lên tiếng đòi quyền lợi cho công nhân kể lại sự việc với VOA Việt Ngữ:

“Tôi đã bị giam hơn 13 tiếng đồng hồ ở trong đồn công an ở Đồng Nai, và họ không đưa ra một lý do bắt tôi vào đó. Tuy nhiên, vào một giờ sáng thì họ đưa ra một văn bản vi phạm hành chính và bắt tôi ký vào, nhưng mà tôi dứt khoát không ký vào cái đó. Tôi chỉ là một nạn nhân đang chịu sự bắt bớ trái pháp luật, chịu sự đánh đập trái pháp luật. Khi ở chỗ công nhân, họ đã lôi kéo và cởi áo của tôi ra, nhưng mà may hai cái tay áo còn dính, nên áo của tôi vẫn còn trên cơ thể. Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, khi họ áp tải trên xe, một tay họ bẻ quặt ra sau và một tay họ bóp cổ để giữ tôi trên xe. Và song song chiếc xe của tôi có một người khác, liên tục đánh vào đầu, vào mặt tôi. Trên đoạn đường vắng, họ dừng lại, họ bảo đánh tôi mềm ra rồi mới đưa về đồn, và nơi đây tôi đã bị đánh rất dã man của năm người đàn ông”.

VOA Việt Ngữ không thể liên lạc để phỏng vấn với lãnh đạo công an phường Long Bình, Đồng Nai, nơi bà Hạnh và ông Đức bị tạm giữ.

Tin cho hay, tài sản cá nhân cũng như các tờ rơi của tổ chức độc lập có tên gọi Lao Động Việt, mà hai người này là các thành viên sáng lập, đã bị tịch thu.

Sự việc xảy ra hơn một tháng sau khi 12 nước, trong đó có Việt Nam, hoàn tất việc đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP), và được chuyển cho quốc hội các nước xem xét, thông qua.

“ Trường hợp của Minh Hạnh bị đánh vào ngày hôm trước là một minh chứng cho việc ngăn cản, tổ chức thành lập các nghiệp đoàn độc lập tại Việt Nam. Sự ký kết của Việt Nam trong hiệp định TPP mực còn chưa khô vậy mà họ đã ra tay, thẳng tay đàn áp công nhân như vậy.

Bà Đỗ Thị Minh Hạnh.”

Toàn văn của hiệp định này đã được công bố hồi đầu tháng này, trong đó có kế hoạch của Mỹ và Việt Nam về việc tăng cường quan hệ thương mại và lao động.

Nhiều nhà lập pháp Hoa Kỳ phản đối TPP vì lo ngại công ăn việc làm của người Mỹ sẽ rơi vào tay người dân các nước khác, cũng như quan ngại về vấn đề quyền lợi của người lao động ở nhiều nước tham gia TPP, trong đó có Việt Nam.

Về vấn đề công đoàn độc lập khi Việt Nam gia nhập TPP, nhà hoạt động xã hội Đỗ Thị Minh Hạnh nói:

“Những điều khoản TPP đã mở ra một thế giới mới cho các liên đoàn độc lập tại Việt Nam, những công đoàn độc lập tại Việt Nam, cho các công nhân, những người thấp cổ bé họng, người ta không thể nào đủ lời ăn, tiếng nói để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người ta, trong khi các cơ quan chức năng như Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam hay những công đoàn của công ty thì thường đứng về phía giới chủ. Trường hợp của Minh Hạnh bị đánh vào ngày hôm trước là một minh chứng cho việc ngăn cản, tổ chức thành lập các nghiệp đoàn độc lập tại Việt Nam. Sự ký kết của Việt Nam trong hiệp định TPP mực còn chưa khô vậy mà họ đã ra tay, thẳng tay đàn áp công nhân như vậy. Không phải riêng gì Minh Hạnh bị lôi, bị đánh mà những người công nhân bị giật hết tất cả giấy tờ của họ. Thậm chí có những bản hợp đồng của công nhân cũng bị những người này cướp trên tay của công nhân. Đây là một hành động đáng bị lên án”.

Hôm 18/11, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời chất vất của các đại biểu quốc hội về vấn đề thành lập “công đoàn độc lập” theo cam kết của TPP.

Người đứng đầu chính phủ Việt Nam được báo chí trong nước trích lời nói: “Việt Nam và tất cả các nước tham gia TPP phải tôn trọng và bảo đảm quyền của người lao động trong việc thành lập và gia nhập tổ chức của họ tại cơ sở doanh nghiệp. Các tổ chức này sau khi thành lập có thể lựa chọn gia nhập Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được chính thức hoạt động, và chỉ được hoạt động sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận đăng ký theo một quy trình minh bạch được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật”.

Tuy nhiên, theo bà Hạnh, công cuộc đấu tranh cho quyền lợi của công nhân của các tổ chức công đoàn độc lập ở Việt Nam vẫn còn dài.

“Những điểm tốt đẹp về nghiệp đoàn trong TPP vẫn chưa nói lên được điều gì, và thực tế chưa chứng minh được điều đó”, bà Hạnh nói.

Lãnh đạo Việt Nam phải tuyên thệ ‘trung thành với dân’

Lãnh đạo Việt Nam phải tuyên thệ ‘trung thành với dân’

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.

VOA Tiếng Việt

Thủ tướng, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội và chánh án tòa án nhân dân tối cao Việt Nam phải “tuyên thệ trung thành với tổ quốc, nhân dân và hiến pháp” khi nhậm chức.

Đây là một trong các nội quy kỳ họp quốc hội sửa đổi mới được thông qua sáng 24/11 và sẽ có hiệu lực từ đầu năm 2016.

Theo đó, người tuyên thệ “quyết định nội dung tuyên thệ phù hợp với trách nhiệm được giao và phải đứng trước quốc kỳ tuyên thệ với thời gian không quá 3 phút”.

Ông Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội, nói thêm với VOA Việt Ngữ về nội quy trên.

“Khi mà quốc hội mới bầu ra các chức danh như chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội và chánh án tòa án nhân dân tối cao, thì sẽ có tuyên thệ nhậm chức. Trong hiến pháp thì quy định như thế còn trong cái nội quy kỳ họp của quốc hội thì quy định cụ thể hơn thôi, trình tự, thủ tục phải làm như thế nào. Quy định như thế để thực hiện việc tuyên thệ theo tinh thần của hiến pháp. Các nước họ làm nhiều rồi, như là tổng thống nhậm chức họ làm rồi, còn Việt Nam từ xưa tới nay thì chưa”.

Một số nhà quan sát cho VOA Việt Ngữ biết rằng điều đáng chú ý là “không có đảng trong phần phải tuyên thệ trung thành”.

Hồi tháng Bảy vừa qua, phát biểu tại Đại hội thi đua quyết thắng toàn quân lần thứ IX, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rằng quân đội Việt Nam “phải tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với dân tộc, với hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam..”, khác với các tuyên bố trước đó của các nhà lãnh đạo khác, đặt đảng lên đầu.

Nội quy sửa đổi trên được thông qua trong bối cảnh chỉ còn vài tháng nữa là diễn ra đại hội đảng lần thứ 12, và tại kỳ họp này, các vị trí chủ chốt trong chính quyền Việt Nam sẽ được xác định.

Hồi đầu năm nay, một tờ báo thuộc cơ quan Ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc đăng bài bình luận cho rằng 2015 sẽ là năm căng thẳng chính trị ở Việt Nam trong khi chuẩn bị cho Đại hội thứ 12 với việc bầu ban lãnh đạo chóp bu mới, đồng thời nhận định rằng Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đang nhắm tới chiếc ghế Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tờ Hoàn cầu Thời báo nhận định: “Thủ tướng đương quyền của Việt Nam có lẽ đang nhắm tới vị trí hàng đầu của đảng cầm quyền. Trong nền chính trị chia rẽ ở Việt Nam, ông Dũng, một đại diện của phe thân Mỹ, có lẽ sẽ mạnh mẽ thay đổi chiến lược quốc gia và chính sách ngoại giao của Việt Nam để hợp tác nhiều hơn với Mỹ”.

Tờ báo cũng cho rằng Hoa Kỳ đang âm mưu sử dụng chiến thuật cách mạng màu cổ lỗ tại Việt Nam nhằm biến Hà Nội “thành một con tốt giống như Philippines để kiềm hãm sự trỗi dậy của Trung Quốc”.

VỤ XỬ EM NGUYỄN MAI TRUNG TUẤN: CHUÔNG NGUYỆN HỒN AI

VỤ XỬ EM NGUYỄN MAI TRUNG TUẤN: CHUÔNG NGUYỆN HỒN AI

FB Tèo Ngu Khìn

Em Nguyễn Mai Trung Tuấn. Nguồn: internet

Từ hôm qua đến giờ người cứ bần thần, mãi không viết được. Cảm thấy đau lòng, bức bối xen lẫn phẫn nộ cho cái án 4 năm 6 tháng tù dành cho em trai 15 tuổi Nguyễn Mai Trung Tuấn.

Những điều luật cụ thể trong Bộ Luật Hình Sự Việt Nam 1999 (viết tắt BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009) cùng những thủ tục tố tụng với những qui định gia giảm dành cho người vị thành niên, đặc biệt từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, đề cập trong Bộ luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam 2003 (BLTTHS 2003) cùng với thông tin về giám định tỷ lệ thương tật của những bị hại là công an không đủ thuyết phục tôi rằng cái án kia là công bằng, công tâm, khách quan, mang tính giáo dục, và vì con người.

Tôi chán không muốn nói đến luật lệ, nhất là mảng luật hình sự và tố tụng, của xứ này nữa. Biết bao người đã nói đến tính “phi lý” và “phi nhân” của một số điều trong BLHS 1999, những trình tự thủ tục “làm khó” và “cản trở” cả bị can/bị cáo lẫn luật sư bào chữa trong BLTTHS 2003 và những văn bản dưới luật liên quan.

Tôi chỉ muốn nghĩ đến căn nguyên nguồn cội dẫn đến những hành xử tuyệt vọng của gia đình em Nguyễn Mai Trung Tuấn. Vì sao gia đình em phải đi đến những hành động này? Vì sao cả gia đình, chỉ trừ một em gái của Tuấn mới gần 14 tuổi giờ bơ vơ một mình ngoài đời, còn lại cả gia đình lâm cảnh tù tội? Vì sao thảm cảnh như gia đình em không phải là riêng biệt ở đất nước này? Vì sao rất đông dân oan hàng ngày bám trụ hết cơ quan này đến cơ quan khác để khiếu kiện, kêu oan? Việc gì họ phải vật vạ ngày này qua tháng nọ ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng chịu cái nóng đổ lửa của mùa hè, cái lạnh cắt da xé thịt của mùa đông, mà không nằm nhà cho êm ấm? Hầu hết đều liên quan đến đất đai và những hệ lụy từ đất đai liên quan đến thu hồi, giải phóng mặt bằng, bồi thường khuất tất.

Ai kết tội tôi là thành phần “phản động” tôi sẵn sàng vui vẻ chấp nhận, nhưng tôi vẫn cứ thẳng thừng mà nói: căn nguyên cho mọi điều trên là từ cái vòng kim cô “sở hữu toàn dân” về đất đai nhưng lại do nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Dù có sửa bao nhiêu cái hiến pháp như mới vừa làm với Hiến Pháp 2013 mà không công nhận sở hữu tư nhân về đất đai bên cạnh các loại hình sử hữu khác (phải có sở hữu nhà nước), cùng với luật trưng thu trưng mua minh bạch, thì khiếu kiện đông người liên quan đến đất đai sẽ không bao giờ hết được, dân oan Mai Xuân Thưởng sẽ vẫn là hình ảnh quen thuộc đến buồn nản ở Hà Nội. Cái gốc vấn đề nằm ở hình thức Sở Hữu!

Tôi chỉ muốn nghĩ về khía cạnh giáo dục trong vụ án của em Nguyễn Mai Trung Tuấn. Tự đặt mình vào hoàn cảnh của em khi cha mẹ mình bị thế, chứng kiến những gì đang xảy ra với gia đình mình như thế, tôi cũng sẽ hành động như em dù biết là liều lĩnh, tuyệt vọng, nhưng “chỉ có súc vật mới ngoảnh mặt lại với nỗi đau của đồng loại mà chăm lo cho bộ da của mình”. Chả có đứa con ngoan nào mà chấp nhận ngồi im nhìn người ta đối xử với cha mẹ và người thân ruột thị của mình đau lòng như vậy. Phải đứng về phía cha mẹ, vì như thế mới đúng là con người.

“Mở thêm một trường học là đóng cửa bớt một nhà tù”. Văn hào Victor Hugo đã đúc kết như thế. Nhưng một khi người ta muốn nhà tù mọc lên nhiều hơn trường học, một khi thay vì tận tâm và nhẫn nại với những biện pháp giáo dục nhân văn nhưng cực nhọc, người ta chỉ đơn giản tống bạn vào tù thì người ta sẽ không những không đạt được mục đích cải tạo, giáo dục đi trước trừng trị. Thậm chí người ta cũng sẽ không đạt được mục đích trừng trị và khuất phục, vì dù có hành hạ được bạn về thể xác nhưng người ta đã thất bại khi làm thế tức là cũng giúp hun đúc một tinh thần bất khuất, trui rèn thêm bản lĩnh đối đầu & đấu tranh trong bạn. Người ta sẽ chỉ “gặt” thêm được những dân oan, thành phần chống đối, chuốc thêm hận thù từ bạn.

Đảng cộng sản Việt Nam liệu sẽ chấp nhận sự đa nguyên?

Đảng cộng sản Việt Nam liệu sẽ chấp nhận sự đa nguyên?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-11-26

Sáng 9-11, tại Trụ sở Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam, Ban Thường trực Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam phối hợp Ban Tuyên giáo T.Ư, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Báo Nhân Dân tổ chức Hội thảo khoa học – thực tiễn: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đổi mới đất nước…

Photo Dang Khoa/nhandan.com

Ngày 9/11 báo chí Việt Nam đưa tin là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Ban tuyên giáo Trung ương, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, báo Nhân dân đã tổ chức một cuộc hội thảo trong đó có nói về vai trò của người Việt ở hải ngoại. Trong cuộc hội thảo này đã có ý kiến đề nghị cho người Việt ở hải ngoại được tham dự bầu cử và ứng cử tại Việt nam. Liệu đây có phải là một tín hiệu cho thấy đảng cộng sản Việt Nam sẽ chấp nhận sự đa nguyên chính trị trong tương lai?

Cũng trong khoảng thời gian diễn ra cuộc cuộc hội thảo của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và Ban tuyên giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam, Luật sư Vũ Đức Khanh, hiện sống và làm việc ở Canada cho biết ông nhận được điện thoại từ một lãnh đạo rất cao cấp của đảng cộng sản Việt nam, đề nghị cho biết ý kiến về tiến trình dân chủ tại Miến Điện sau khi đảng đối lập thắng lớn. Luật sư Khanh cho biết thêm là cuối buổi nói chuyện, vị lãnh đạo Việt Nam nói rằng ông hy vọng một ngày không xa luật sư Khanh có thể ra tranh cử tại Việt Nam.

Luật sư Khanh nói với chúng tôi rằng:

“Tôi nghĩ rằng chính phủ Hà nội cũng đã có những kế hoạch để mở rộng cái khung chính trị ở Việt Nam, để mà có thể cho một số người Việt ở nước ngoài tham gia vào chính trường Việt Nam.”

Một nhà hoạt động xã hội dân sự trong nước là Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhận xét về những lời phát biểu được báo chí Việt Nam trích dẫn trong buổi hội thảo của Mặt trận Tổ quốc:

“Nếu mà có một sự việc như thế diễn ra thì chắc chắn nó là một sự cởi mở hơn. Thực tiễn nó diễn ra như thế nào thì phải đến lúc đấy mới đánh giá được. Nhưng mà ý đồ như thế mà được nói ra thì tôi cho rằng cũng là ý cở mở.”

Ngoài ra Tiến sĩ Nguyễn Quang A còn nói rằng chuyện cho những người Việt sống ở nước ngoài nhưng vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam tham gia bầu cử là một việc đương nhiên.

Trong lịch sử cầm quyền của đảng cộng sản Việt Nam, cũng đã có một số người Việt ở nước ngoài hồi hương hoạt động trong nhiều lãnh vực. Một số cũng có mặt trong guồng máy nhà nước do đảng cộng sản lãnh đạo như ông Lương Văn Lý làm trong ngành ngoại giao tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Ngọc Trân là đại biểu Quốc hội trong vài nhiệm kỳ.

“ Việc mà đảng cộng sản VN có cởi mở hay không, đặc biệt là về phương diện chính trị, thì tôi cho rằng điều then chốt là điều 4 Hiến pháp. Ngày nào mà họ còn duy trì điều bốn Hiến pháp, tức là ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo duy nhất của đất nước và xã hội, thì những sự cởi mở, theo tôi chỉ là những vấn đề tạm bợ

Ông Lý Thái Hùng”

Nhưng cả hai người này đều là đảng viên cộng sản.

Trong bài phát biểu tại cuộc hội thảo của Mặt trận Tổ quốc, một người tham gia hội thảo là Tiến sĩ Bùi Đình Phong có nói rằng cần xóa bỏ những phân biệt đối xử về quá khứ, về giai cấp.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhận định:

“Nếu chỉ là của một hội nghị của Mặt trận (Tổ quốc) mà người ta chỉ nêu ý kiến thì tôi nghĩ có thể chỉ là ý kiến của một người nào đấy. Tuy rằng nó có thể phản ánh một xu hướng cởi mở hơn nào đó, nhưng mà nếu chưa có một qui định pháp lý nào thì tôi cho là cũng khó để mà đánh giá.”

Ông Lý Thái Hùng, sống tại Mỹ, hiện là Tổng bí thư đảng Việt Tân, một đảng chính trị lớn của người Việt ở hải ngoại cho rằng

“Việc mà đảng cộng sản Việt Nam có cởi mở hay không, đặc biệt là về phương diện chính trị, thì tôi cho rằng điều then chốt là điều 4 Hiến pháp. Ngày nào mà họ còn duy trì điều bốn Hiến pháp, tức là đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo duy nhất của đất nước và xã hội, thì những sự cởi mở, theo tôi chỉ là những vấn đề tạm bợ để mà giải quyết những nhu cầu khó khăn của chế độ liên quan đến kinh tế, chính trị, xã hội. Kể cả việc mà họ công nhận một số những người từ hải ngoại về, để tham chính hay tranh cử ở một chức vụ nào đó ở Quốc hội hay chính quyền, thì tôi nghĩ nó cũng chỉ là những biểu tượng để dùng nó mà tuyên truyền.”

Từ trái ông Lý Thái Hùng - Ông Nguyễn Quang A - ông Vũ Đức Khanh

Từ trái ông Lý Thái Hùng – Ông Nguyễn Quang A – ông Vũ Đức Khanh

Theo Luật sư Vũ Đức Khanh thì đảng cộng sản Việt Nam đang tìm cách “giải độc” hình ảnh về họ ở hải ngoại, đặc biệt là đối với cộng đồng Việt Nam ở Hoa Kỳ, nơi đổ về Việt nam một lượng kiều hối rất lớn, và Hoa Kỳ cũng là quốc gia mà Việt Nam mong muốn xây dựng những quan hệ tốt đẹp.

Khi nói về quan hệ sắp tới giữa đảng cộng sản và những người Việt Nam khác chính kiến với họ, đặc biệt là ở hải ngoại, Luật sư Khanh nói tiếp:

“Việt Nam phải làm lành với quá khứ. Trong tương lai chúng ta phải chấp nhận sự khác biệt của những người khác, cả những người cộng sản lẫn quốc gia, và những người có những tư tưởng khác nữa. Người quốc gia thường hay lo ngại nói rằng người cộng sản quá mưu mô xảo quyệt, từ năm 1945 cho đến nay, cho nên họ rất ngại khi có tiếp xúc với những người cộng sản. Tôi nghĩ là chúng ta nên nhớ rằng 70 năm đã trôi qua, thời điểm 2015 hoàn toàn khác, Việt Nam cũng như thế giới. Đảng cộng sản Việt nam không còn là ma quỉ giống như thời kỳ trước đây nữa. Cho nên chúng ta cũng cần phải mạnh dạn tiếp xúc với những người từ phía đảng cộng sản Việt nam để mà có thể tháo gỡ những khó khăn của Việt Nam hiện tại.”

“ Việt nam phải làm lành với quá khứ. Trong tương lai chúng ta phải chấp nhận sự khác biệt của những người khác, cả những người cộng sản lẫn quốc gia, và những người có những tư tưởng khác nữa

Luật sư Vũ Đức Khanh”

Ông Lý Thái Hùng thì nghi ngờ hơn, đánh giá về sự thay đổi của đảng cộng sản ông cho rằng:

“Đương nhiên đảng cộng sản Việt Nam họ có những thay đổi về bề mặt, nhưng mà thực tế bên trong họ vẫn cố gắng làm sao để duy trì một lực lượng chính trị duy nhất để thống trị trên toàn đất nước. Cho nên trong bối cảnh (tương lai) mà Việt Nam có tự do dân chủ thì đảng Việt Tân sẽ hoạt động với các lực lượng chính trị khác, trong đó có đảng cộng sản hay không thì nó tùy thuộc rất nhiều vào bối cảnh chính trị lúc đó với lá phiếu chọn lựa của người dân.”

Trở lại với cuộc trao đổi giữa Luật sư Khanh và vị lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản Việt nam, ông Khanh có nhận xét:

Có một sự chân thành, nhưng mà đây là trong lĩnh vực chính trị nên chúng ta cũng không biết lấy cái gì mà đo. Nhưng mà bất cứ sự thay đổi nào về cấu trúc chính trị của Việt Nam, đều phải có sự chân thành của tất cả các bên. Nếu chúng ta không vượt qua được sự nghi kỵ thì không đạt được đến điểm nào cả.”

Ngoài ra ông Khanh, hiện là Phó Tổng thư ký của Đảng dân chủ Việt Nam phụ trách ngoại giao, còn cho biết là mặc dầu không có tuyên bố chính thức nào nhưng khả năng là có những cuộc tiếp xúc giữa đảng cộng sản và các khuynh hướng chính trị khác tại hải ngoại.

Trong biến chuyển chính trị ở Đông Âu 26 năm trước cũng đã có tiền lệ là các đảng cộng sản Đông Âu có duy trì sự tiếp xúc với các thành phần đối lập. Tiến sĩ Nguyễn Quang A người sống và học tập lâu năm ở Hungary xác nhận với chúng tôi là ở quốc gia này đã có những quan hệ như thế, đặc biệt ông cho biết là vào năm 1987 đã có 1 buổi họp quan trọng của các thành phần trí thức đối lập, trong đó có sự tham dự của người lãnh đạo đảng cộng sản lúc đó.

Ông Lý Thái Hùng thì nói là ông chưa biết là có những cuộc tiếp xúc như vậy giữa đảng cộng sản hiện nay với các thành phần đối lập về chính kiến ở hải ngoại hay không, nhưng ông cho rằng đó là điều có thể xảy ra khi đảng cộng sản lâm vào khủng hoảng, phải thay đổi.

Đạo Đức Lãnh Tụ & Tình Dục Nhân Dân

Đạo Đức Lãnh Tụ & Tình Dục Nhân Dân

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Đảng ta là đạo đức, là văn minh.

Hồ Chí Minh

Chừng ba mươi năm trước, tôi may mắn đọc được bài viết rất công phu của nhà văn Trùng Dương – “Phan Khôi: Ngọn Hải Đăng Giữa Vùng Biển Động.” Trước đó, tôi chỉ nghe danh ông là người mở đường cho phong trào thơ mới ở Việt Nam:

Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa.
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
Hai cái đầu xanh kề nhau than thở:

– Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
Mà lấy nhau hẳn là không đặng ….

Hai mươi bốn năm sau. Tình cờ đất khách gặp nhau.
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được.
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
Con mắt còn có đuôi.

Nhờ chị Trùng Dương, tôi mới biết được thêm Phan Khôi từng được mệnh danh là một Ngự Sử Văn Đàn. Ông đã có những đóng góp lớn lao cho làng báo Việt, vào giai đoạn sơ khai. Gần đây, qua biên khảo (Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932) của Linh Mục Thanh Lãng, tôi lại được dịp xem qua quan niệm về nữ quyền vô cùng phóng khoáng (và rất cách mạng) của ông:

“Trong phụ nữ ta có nhiều người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ, vậy mà nói đến truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn răng cũng giữ được trót đời ; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra mang cái xấu lại còn hơn cải giá. Lại thường thấy bà goá nào có máu mặt thì bọn điêu thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà ra ; vậy thì nó chỉ làm hại cho phong hoá thì có chớ có bổ ích gì đâu ? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật ấy đi ; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa.” (Phụ Nữ Tân Văn số 95,13-8-1931).

Nguồn ảnh: vuisongmoingay

“Cái luật cải giá” khắt khe của thời phong kiến tại Việt Nam – tiếc thay – đã không bị “phế trừ” mà còn trở nên khắt khe hơn,  sau khi cuộc cách mạng vô sản thành công ở xứ sở này:

Ả Định mới hai mươi hai tuổi đã có ba đứa con, nhưng trông còn son lắm. Da trắng, má lúc nào cũng ửng hồng, ngực phây phây như cái thúng. Anh mất, ả nghĩ mình là người của Đoàn thể nên rất giữ gìn. Hơn nữa, gia đình ả có công với cách mạng từ lâu. Bác Hoe Chu, bố chồng, tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội từ năm 1927. Chồng của ả vào Đảng từ khi còn bóng tối. Về làm dâu, ả được bố chồng và chồng giác ngộ, cũng trở thành đảng viên… Không may giữa đường đứt gánh tương tư. Giữ nếp nhà, ả mặc áo sổ gấu, đội nón không vành. Nhưng sức lực càng ngày càng căng ra… Tuy thế, ả vẫn tránh tất cả các trường hợp đàn ông cợt nhả khi gặp riêng trên đường làng… Rồi đến một hôm, trong cuộc họp, anh Cu Kình liếc mắt nhìn ả, ả quay mặt đi. Cứ quay mặt mãi cũng không tránh được cái vòng vây tình ái của anh Cu Kình. Đôi má của ả càng ngày càng đỏ au như con gái dậy thì khiến anh mê như điếu đổ. Anh đón gặp ả trên đường làng, gặp ngoài đồng, gặp ban ngày, gặp ban đêm. Rồi hai người hò hẹn nhau. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Và ả có thai sau bảy năm giữ gìn. Đảng uỷ triệu tập ả lên trụ sở…

 Khi nêu vấn đề khai trừ ả Định, có người gợi ý “chiếu cố quá trình tham gia cách mạng của gia đình”. Nhưng đồng chí bí thư diễn giải một cách kiên quyết: “Tội quan hệ tình ái bất chính là tội rất nặng. Hơn lúc nào hết, trong hoàn cảnh hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, Đảng ta phải thật trong sạch. Đảng viên đi trước làng nước theo sau… (Võ Văn Trực. Cọng Rêu Dưới Đáy Ao. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty Văn Hoá & Truyền Thông Võ Thị, 2007. Bản điện tử do talawas chủ nhật thực hiện).

Cách “diễn giải” của “đồng chí bí thư” về “quan hệ tình ái” , xem ra, có vẻ hơi xa (rời) với cuộc sống của “làng nước.” Sau những lũy tre xanh, người dân Việt vẫn cứ sinh hoạt theo nhịp thở, nhịp tim, và tiếng lòng của họ (thay vì theo ý Đảng) bất kể là vào thời bình hay thời chiến:

Những năm 1965- 1975 nhà mình sơ tán ở làng Đông. Nhớ nhiều người nhưng nhớ nhất anh Đa.

Bây giờ kể chuyện anh Đa thôi, vì anh này hay nhất trong kí ức của mình về cái làng này.

Anh Đa lùn, đen, xấu. Anh Diệu nói cái mặt thằng Đa chành bành giống cái l. trâu.

Anh Đa sống với mẹ già, sau mẹ chết anh ở một mình. Nhà nghèo quá, 24, 25 tuổi rồi hỏi cô nào cũng bị chê.

Anh con liệt sĩ, lại con một, khỏi đi bộ đội. Con trai trong làng ai lớn đều đi bộ đội hết, còn lại dăm ba anh tuổi như anh thôi, chỉ có anh là chưa vợ. Mẹ anh khóc lên khóc xuống, anh vẫn chẳng quan tâm đến chuyện vợ con. Cho đến khi mẹ anh chết anh vẫn độc thân. Mình hỏi anh sao anh không lấy vợ. Anh nói tao để vậy để đàn bà nó thèm…

Anh chỉ làm hai việc: đi đập lúa thuê và nơm cá bán lấy tiền. Cứ mùa lúa là anh đi đập lúa cho các gia đình có chồng con đi bộ đội, một đêm đập lúa được trả vài lon gạo. Thế cũng đủ sống, lại được tiếng giúp đỡ gia đình bộ đội…

Một đêm mình đi thăm túm lươn, hôm đó được nhiều, hơn chục con, mừng lắm hí hửng xách oi về thì gặp anh Đa đi từ nhà chị Thơm ra. Mình hỏi anh đi đâu, anh nói không.

Minh thấy anh mặc cái áo bộ đội dài gần đến gối (anh lùn mà). Nghi nghi, mình kéo vạt áo anh lên, chim cò phơi ra cả, hoá ra anh không mặc quần. Mình ngạc nhiên nói sao vào nhà người ta lại không mặc quần, anh cười phì một tiếng rồi bỏ đi.

Nguồn ảnh minh họa:trannhuong

Nhà chị Thơm một mẹ một con, chồng đi bộ đội, thằng cu con chị mới hơn 4 tuổi. Mình nghi lắm. Mình lẻn theo anh Đa.

Anh Đa lại vào nhà chị Hà. Chị Hà có chồng hy sinh, vừa báo tử năm ngoái. Chị vẫn say sưa sinh hoạt đoàn, biến đau thương thành hành động cách mạng, hăng hái phát biểu lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu…v.v. Bà con làng xóm khen lắm, vẫn nói với con gái con dâu: đó, sang nhà con Hà mà coi.

Mình vào sau hồi nhà chị Hà Tối quá không thấy gì, chỉ nghe chị kêu hệt như mèo kêu. Mình chặn anh Đa ở cổng nhà chị Hà nói em biết rồi nha. Anh Đa túm cổ áo mình nói mày nói tao giết.

Về sau, lần nào đi nơm anh vừa nơm suất của anh, vừa nơm suất của mình. Mạ mình toàn khen thằng Lập dạo này nơm cá giỏi. Hi hi.

Làng Đông có chừng 4-5 trăm nóc nhà, hơn 1 trăm nóc là nhà hoặc là vợ bộ đội hoặc là vợ liệt sĩ. Không biết anh Đa chui vào bao nhiêu nhà trong số 100 nóc nhà ấy, chỉ biết suốt cuộc chiến tranh 1965-1975, tối nào cứ đến 3-4 giờ sáng anh Đa lại mặc cái áo bộ đội dài đến đầu gối, không thèm mặc quần, đi hết nhà này đến nhà kia, 5 giờ sáng thì về.

Mình hỏi sao anh không mặc quần. Anh nói mặc mần chi, cởi vô cởi ra mệt. ( “Anh Cu Đa” –  Nguyễn Quang Lập).

Một anh trai làng “lùn, đen, xấu” và “mặt  chành bành giống cái l. trâu” mà còn “bận” đến cỡ đó thì anh Ba Duẩn (“ngọn đèn cháy sáng 200 nến”, soi khắp Bắc/Nam) làm sao mà rảnh rang cho được:

Tháng 7-1986 Duẩn chết, dân đứng hai bên đường đếm mấy bà tổng goá. Chúng khẩu đồng từ bảo nhau cái bà tre trẻ mặc áo dài đen dắt đứa con be bé kia đứt đuôi là vợ tư! Ấy, chưa kể những bà bị gạt xuống nữa chứ. Cho lên cả thì khéo phải một hai xe nữa…

 Ngày ấy nếu blogger nhiều như ba chục năm sau thì trên mạng cử là lũ lụt lời bình về sức mạnh tính dục của Lê Duẩn.

Rõ ràng là có nỗi sự riêng tư thầm kín của thân thích ông, sau cái chết của ông, vị hoàng đế đỏ từng làm run sợ và đau khổ biết bao con người. (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Những vị “hoàng đế đỏ” kế tiếp (Đỗ Mười, Lê Khả , Nông Đức Mạnh) cũng đều là những nhân vật mà sinh hoạt tình dục của họ khiến cư dân mạng phải tốn không ít thời giờ. Điều may mắn là đất nước  bước vào “thời mở cửa” (chả còn phải giấu diếm gì, và muốn dấu cũng không thể được) nên không có tình nhân nào bị biến thành nạn nhân – bị xe tông bể sọ – như bà Nông Thị Xuân ngày trước nữa.

Ảnh: vietnamnet

Cũng từ thời đổi mới, quan niệm về sinh hoạt tình dục của toàn dân rất nới (và rất mới) – theo thông tin của tờ Việt Báo: “Việt Nam Tỷ lệ nạo phá thai cao hàng đầu thế giới.”

Tờ Vietnamnet thì đưa ra một con số khiêm tốn và nhẹ nhàng hơn, chút xíu: “Hiện Việt Nam vẫn là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới.”

Tại sao Việt Nam lại đứng đầu thế giới, hay toàn khu vực về tỷ lệ nạo/phá thai như thế? Tôi trộm nghĩ thế này, đúng sai xin được công luận quan tâm để vấn đề thêm được tỏ tường: chắc tại ở những quốc gia khác không có một vị lãnh tụ đạo đức như Hồ Chí Minh nên dân chúng không phải học tập và làm theo tấm gương của Bác.