Bộ GDVN muốn giải tán Bộ môn Lịch sử, đâu là nguyên nhân?

Bộ GDVN muốn giải tán Bộ môn Lịch sử, đâu là nguyên nhân?

Nguyễn Tiến Dân

18-12-2015

1-Lịch sử, là một bộ môn khoa học. Nó nghiên cứu, về quá khứ. Đặc biệt, là những sự kiện, liên quan đến con người. Thời gian, là 1 dòng chảy kéo dài và, bất tận. Lịch sử, cũng vậy. Nó phản ánh, sự thực khách quan. Nó không phụ thuộc, vào ý chí của 1 người, hay của 1 nhóm người nào đó. Và, chưa bao giờ, người ta viết Lịch sử, theo kiểu cóc nhảy. Đó, là sự khác nhau cơ bản, giữa Lịch sử và Truyền thuyết.

2-Chuyện xưa, kể rằng:

Tề Trang công, là kẻ hôn Quân – vô Đạo. Cung tần – mĩ nữ, ông ta thiếu gì. Nhưng, hễ nhìn thấy gái đẹp, là ông mờ mắt. Ông gác sang một bên, cái danh giá của mình, để cắm đầu vào. Ông tư thông, với cả nàng Đường Khương, vợ tướng quốc Thôi Trữ, thuộc hạ thân tín nhất của mình. Can ngăn mãi, không được. Thôi Trữ, bèn lập mưu, để giết đi.

Từ xưa đến nay: Khi cành bị sâu, người ta chặt cành, để cứu gốc – Khi gốc bị sâu, người ta nhổ cây, để cứu vườn – Khi cả vườn bị sâu, người ta hủy vườn, để cứu mùa màng.

Nguyên thủ của Quốc gia, dâm loạn và hủ bại, nhất thiết phải bị phế trừ. Để, giữ thể diện, cho Quốc gia và giữ kỉ cương, cho bá tánh. Có thể phế trừ, bằng thanh gươm – Có thể phế trừ, bằng lá phiếu của cử tri.

Ở vào thời của mình, Thôi Trữ, không thể lựa chọn, theo cách thứ 2. Còn, nếu sống ở thế kỉ thứ  21, Thôi Trữ, sẽ trở thành Anh hùng. Ngặt nỗi, trong chế độ Phong kiến, “thần giết Vua”, là chuyện tày Trời. Vì thế, Thôi Trữ, vẫn có ý thẹn. Ông sai thái sử Bá, ghi vào sách Sử rằng: “Tề Trang công, chết vì bệnh sốt rét”.  Thái sử Bá, không nghe. Ông, chép vào thẻ rằng: 夏五月乙亥,崔杼弑其君光. Hạ ngũ nguyệt Ất hợi, Thôi Trữ thí kì Quân Quang. (Mùa Hạ, tháng 5, ngày Ất hợi, Thôi Trữ giết Vua Quang của mình). Thôi Trữ, nổi giận lôi đình. Ông giết ngay, thái sử Bá.

Bá có 3 người em: Trọng , Thúc , Quí. Tất thảy, đều làm nghề chép Sử. Khi được gọi vào cung, Trọng chép vào sách, chẳng khác anh mình. Thôi Trữ, giết Trọng. Gọi đến Thúc, ông cũng không chịu, bẻ cong ngòi bút của mình. Thúc, cũng phải ra đi. Đến lượt Quí, ông vẫn viết như vậy. Trữ dụ rằng: “Ba anh của ngươi, vì khác ý ta, đều đã chết. Ngươi, há chẳng tiếc tính mạng sao? Sao bằng, hãy viết khác đi, để được ta tha chết”. Quí khẳng khái: “Đặt sự thực, vào trong sách Sử. Đó, là chức phận của người chép Sử. Đánh mất chức phận của mình, thà chết đi còn hơn”. Thôi Trữ thở dài: “Ta chỉ sợ, Xã tắc nghiêng đổ. Bất đắc dĩ, mới phải làm việc này. Dẫu anh em nhà ngươi, có viết thẳng như thế, người trong Thiên hạ, chắc cũng lượng thứ cho ta”. Nói đoạn, trả lại thẻ sách cho Quí. Và, không giết ông nữa.

Tích xưa, là thế. Chuyện nay, hay hơn nhiều.

Một quan chép Sử của CS, là ông Trần Huy Liệu. Chẳng biết, ông đã đưa được bao nhiêu sự thực, vào Sử xanh. Chỉ biết, ông đã trắng trợn, bịa đặt ra, người anh hùng Lê Văn Tám. Và, ghi nó vào sách Sử của Cộng sản. Sách ấy, đã được đem dạy, cho bọn trẻ con của nước Việt. Tác hại của cái việc: “xúi trẻ con ăn cứt gà”, có lẽ, khỏi phải bàn. May mà, Lương tâm của ông, chưa đến nỗi, bị chó tha – gà mổ. Bởi vậy, đến cuối đời, ông ân hận và dặn đồ đệ: Tìm lúc thích hợp, cải chính dùm ông. Ông ơi,hãy ăn cho no – hãy nằm cho yên. Đồ đệ của ông, đã công khai việc đó rồi. Nhưng, sửa nó, đâu phải công việc của một sớm – một chiều. Hết thế kỉ này, nào chắc đã xong.

Một sử gia Cộng sản khác, là ông Dương Trung Quốc. Ông này, lại ước ao, giữ được cái đầu của mình thật lâu. Để, chép Sử đảng, cho Trung – cho Thực.

Phan Huy Lê, cũng là một Giáo sư sử học, lẫy lừng. Ông giỏi đến mức, chẳng biết viết, ngay cả cái tên của ông cố nội nhà mình. Đợi đến khi, ngài Ban Ki-moon chỉ cho, rồi mới hay.

Những cây đa – cây đề, trong làng Sử Cộng sản, còn như thế. Loại tép riu, chuyên ăn theo – nói leo, kể làm chi, cho thêm sầu – thêm tủi.

3-Ôn cố – tri tân. Soi mình vào Lịch sử, Thánh nhân, có thể học được ở đó, những bài học hay. Họ, dựng công – lập nghiệp – lưu danh thơm muôn thuở, mà chẳng tốn mấy công sức. Lũ tiểu nhân đắc chí, thường không biết Trời – Đất là gì. Học – Hành, không đến nơi, đến chốn. Nhưng, lại luôn ảo tưởng, mình là “đỉnh cao trí tuệ”  của Nhân loại. Chúng quay lưng, với Lịch sử. Chúng đóng cửa, dạy nhau những thứ đê tiện – ngu dốt – giáo điều và dối trá. Kết cục, chúng phải trả giá đắt, cho những sai lầm, mà các thế hệ đi trước, đã mắc phải.

Saddam Hussein, Gaddafi và lãnh đạo của các nước CS Đông Âu, là những ví dụ. Họ, cùng có 1 đặc điểm giống nhau: Độc tài và Tàn bạo. Họ, cùng có 1 kết cục giống nhau: Đều bị quần chúng, lật đổ. Saddam Hussein, bị treo cổ. Gaddafi, bị đánh hội đồng, cho đến chết. Các nhà lãnh đạo CS ở Nga xô và các nước CS Đông Âu, may mắn hơn nhiều. Ở đó, công cuộc “đấu tranh giai cấp”, không quyết liệt và tàn bạo, như ở Việt nam. Đồng thời, dân trí ở đấy, cũng không đến nỗi thấp, như ở Việt nam. Kết quả, khi chế độ độc tài CS bị sụp đổ, người ta thấy: Trừ vợ chồng Ceauşescu, còn các nhà lãnh đạo CS khác, vẫn được sống lành lặn. Chẳng có ai, bị treo lủng lẳng, trên các cây cột điện, ở ven đường.

Tổng thống Thein Sein của Myanma, thông minh hơn nhiều. Ông biết, cái kết cục của những chế độ độc tài. Ông biết, cái giá  phải trả, cho việc đàn áp tàn bạo dân lành. Do đó, ông không làm như các vị kia. Ông và Đảng Đoàn kết Phát triển Liên bang, đã dũng cảm, đặt quyền lợi của Tổ quốc – đặt quyền lợi của Nhân dân, lên trên hết. Các ông, đã cùng Nhân dân Myanma, làm 1 cuộc Diễn biến Hòa bình, vô cùng ngoạn mục: Chuyển từ chế độ độc tài, sang chế độ Dân chủ, một cách êm thấm. Chính quyền, không bị xáo trộn, một cách đột ngột – Đất nước, không bị chìm đắm, trong hận thù – Máu của Nhân dân, không phải, thêm 1 lần nữa, đổ ra vô ích. Nhân dân Myanma, yêu mến và kính trọng ông. Quốc tế, ngưỡng mộ ông. Ông là tấm gương sáng, cho các chế độ độc tài.

4-Suy cho cùng, Diễn biến Hòa bình, đâu phải là, 1 cái gì đó, rất xa lạ với chúng ta. Ngược lại, chúng ta có thể tự hào, mà nói rằng: Việt nam, là một trong những nơi khởi nguồn của Diễn biến Hòa bình. Không những thế, lần diễn biến nào, cũng hết sức Nhân văn. Không có tiếng gươm khua – ngựa hí. Thay vào đó, rộn rã tiếng cười và ròn vang pháo nổ. Tất cả, các cuộc Cách mạng nhung mới đây, đều không đủ tầm, để có thể, so sánh được.

Năm 980, Đinh Toàn lên ngôi Vua. Khi ấy, ông vừa tròn … 6 tuổi. Triều chính, hủ bại. Ở ngoài bờ cõi, giặc Tống đang tập trung quân, để xâm lược nước ta. Trước tình cảnh nước sôi – lửa bỏng ấy, Thái hậu Dương Vân Nga, đã đặt quyền lợi của Nhân dân – quyền lợi của Đất nước, lên trên Quyền – Lợi của dòng tộc. Bà tự tay, trao ngôi báu của con trai mình, cho Lê Hoàn. Nhà Đinh ốm yếu, đã chuyển giao Chính quyền, cho nhà tiền Lê cường tráng, một cách vô cùng êm thấm. Trong cái chuyện này, không hẳn, Dương Vân Nga đã vô tư. Bà, trở thành Hoàng hậu của Lê Hoàn. Nhưng, chỉ riêng chuyện: Tránh được cảnh “nồi da – xáo thịt”, đã khiến cho, lực lượng của chúng ta, đươc bảo toàn. Nhờ đó, Quân dân Đại Việt, đã chiến thắng vẻ vang giặc Tống.

Bài học ở đây là: Khi Triều chính, rơi vào tay trẻ con. Hoặc, rơi vào tay lũ người lớn, nhưng tầm suy nghĩ, chỉ như bọn nhi đồng: Tệ hại, chẳng kém gì nhau. Vua, mải ăn – mải chơi. Quan, không lo việc Dân – việc Nước. Họ kết băng đảng, đấu đá nhau quyết liệt. Để, tranh giành Quyền và Lợi. Nhân tâm, ly tán – Đất nước, tiêu điều. Đó là cơ hội tốt, cho lũ giặc ngoại xâm.

Muốn bảo vệ Đất nước: Trước tiên, phải hạ bệ cho bằng được, những loại Vua trẻ con này.

Kế tiếp, phải kể đến, Huệ Tông của nhà Lý. Ông lên ngôi, vào lúc, nhà Lý đã suy tàn. Uy quyền của triều đình, không còn. Địa phương nào, cũng tự gây dựng thế lực, để cát cứ. Vua, chẳng quyết đoán. Cuối đời, Huệ Tông nhường ngôi cho con gái. Đã thế, người con ấy, chỉ mới vừa… 8 tuổi.  Loạn lạc, triền miên – Nhân dân, thống khổ. Tình trạng ấy, phải nhanh chóng chấm dứt. Và 1 cuộc Diễn biến Hòa bình nữa, lại được tiến hành, thông qua Hỷ sự. Lần này, là đám cưới của vợ – chồng Vua Lý Chiêu Hoàng. Chẳng bao lâu, Lý Chiêu Hoàng, “nhường ngôi” cho Trần Cảnh – chồng của mình. Chính quyền, được chuyển giao vào tay những thế lực ưu tú. Đất nước, khởi sắc. Đại Việt, tích lũy được đầy đủ, cả về Thế và Lực. Ba lần, quân Nguyên Mông xâm lược nước ta – Cả ba lần, chúng đều chuốc lấy đại bại.

Giành được Chính quyền, từ tay nhà Lý, thông qua Hỷ sự. Cho nên, Trần Thủ Độ, rất sợ mất Chính quyền, bởi cách này. Ông đặt ra, những qui định hết sức khắt khe về hôn sự: Chỉ được kết hôn, trong dòng họ. “Hôn nhân cận huyết”, cộng với việc, chỉ trao quyền bính, cho những người trong họ: Giúp cho nhà Trần, trước mắt duy trì được Chính quyền. Nhưng, nó cũng dẫn đến, sự suy thoái nhanh chóng của các thế hệ tiếp theo. Triều chính nhà Trần, ngày càng dặt dẹo. Cho đến khi, Trần Nghệ Tông trọng dụng Hồ Quý Ly. Lập tức, nhà Trần gặp “họa ngoại thích” và để mất Chính quyền.

5-Bốn mươi năm đã trôi qua, kể từ khi Thống nhất Đất nước. Chừng ấy năm, đảng CS, độc chiếm quyền hành. Họ từng bước, dẫm vào đúng vết xe đổ của nhà Trần. Họ, công khai và trơ trẽn ngụy biện: Chỉ có “Con lãnh đạo, lại làm lãnh đạo” (phiên bản mới, của hôn nhân cận huyết), mới cỏ thể, “đem lại Hạnh phúc cho Dân tộc”. Đồng thời, nó đảm bảo cho Việt nam, đạt được những thành tích, trên cả mức tuyệt vời. Việt nam, bước vào thời kì, mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, xưng xưng tự đánh giá là: “rực rỡ nhất trong Lịch sử của Dân tộc” (Nguyễn Phú Trọng, chẳng hổ danh, là kẻ có trình độ cao nhất, trong các đời Tổng Bí thư của Việt nam).

Rực rỡ đến mức, chính ông Trương Tấn Sang, phải thốt lên: “Xấu hổ lắm, vì tệ nạn tham nhũng chỉ đứng vào hàng thứ… trên 100”. Kinh tế Việt nam, rực rỡ đến mức: Đã tiêu đến, những đồng tiền cuối cùng. Ngân khốđã cạn kiệt.

Trước cái sự thực ấy, Nhân dân Việt nam, đã biết đến tận chân tơ – kẽ tóc, cái gọi là “Tài và Đức” của những người CS. Còn đảng CS thừa biết, Nhân dân Việt nam, tin tưởng mình đến đâu. Cho nên, họ không chấp nhận, “phổ thông đầu phiếu – bầu và ứng cử tự do”, trong sự giám sát của Quốc tế và, không chấp nhận “bãi bỏ Điều 4 của Hiến Pháp”. Đối với loại tài hèn – trí cùn: Làm như thế, Nhân dân sẽ tống cổ hết, cả lò – cả ổ nhà chúng, về vườn. Ngang bằng với việc, tự đút đầu vào thòng lọng, để tự sát.

Mất đi sự tín nhiệm của Nhân dân, nhưng đảng CS, vẫn chưa bị sụp đổ. Bởi, họ còn có 3 trụ cột: Quân đội – Công an và Tàu cộng. Trong 3 trụ cột ấy, chỉ có mỗi một thế lực, luôn ủng hộ toàn diện và tuyệt đối cho đảng CS Việt nam: Đó, là Tàu cộng. “Ăn cây nào – rào cây ấy”. Do đó, họ phải hết lòng bảo vệ, cho cái thằng bảo trợ mình.

Xưa, chính những người CS, ấn súng vào tay thanh niên Việt nam. Bắt họ, phải đi đánh nhau với Trung cộng. Nay, bia Chiến thắng, trong cái cuộc chiến ấy, lại bị chính những người CS, đục bỏ đi. Người dân, tưởng niệm cuộc chiến ấy, họ thẳng tay đàn áp. Bằng cách đó, họ hy vọng: Nhân dân, sẽ lãng quên, cuộc chiến này. Nhưng, Lịch sử, đã ghi lại rành rành. Đâu dễ gì, che giấu được.

Trăm năm, bia đá thì mòn.

Nghìn năm, bia miệng vẫn còn trơ trơ.

6-Khi cái chiêu “dùng thúng – úp voi” ấy, tỏ ra không hiệu quả. Những người CS, táo tợn, dùng cách cuối cùng: Giết voi. Nghĩa là, loại bỏ môn Lịch sử, ra khỏi hệ thống Giáo dục phổ thông. Bắn ra mũi tên: “Tích hợpLịch sử, vào các bộ môn khác”, đảng CS hy vọng: Sẽ thu được, nhiều con chim.

Tích hợp” Lịch sử, chỉ có mỗi một cách hiểu: Cắt vụn Lịch sử ra. Sau đó, những kẻ chuyên làm điêu – nói thiếu, sẽ lăn xả vào và ra tay nhào trộn. Công thức: 3 phần thực, trộn với 7 phần hư, cộng thêm chút dấm ớt. Đem ngoáy đều nó lên, sẽ thành ra, những  mẩu chuyện Lịch sử. Rồi, ấn nó vào các bộ môn khác. Những mẩu chuyện nào thích, họ đưa vào – Những mẩu chuyện nào, có thể động chạm đến họ, lập tức bị loại ra (Việc không thể xảy ra, nếu nghiên cứu Lịch sử, theo trình tự Thời gian).

Lịch sử, sẽ trở thành truyền thuyết. Còn con em của chúng ta, sẽ dần trở thành, lũ mất gốc.

Theo đó, những sự kiện trọng đại, trong Lịch sử nước nhà: Cuộc kháng chiến, chống quân Trung quốc xâm lược, ở Biên giới phía Bắc, năm 1979. Cuộc chiến oai hùng của Quân lực Việt nam Cộng hòa, tại Hoàng sa năm 1974. Trung quốc, xúi giục – tổ chức và tài trợ cho chế độ Khơ me đỏ. Để chúng, gây ra những tội ác, Trời không dung – Đất không tha, đối với Nhân dân Campuchia. Cũng như, đối với Nhân dân Việt nam… Sẽ dần phải bị lu mờ, trong tâm trí của bọn trẻ con nước Việt.

Ngoài cách, “tích hợp” môn Lịch sử, còn có cách nào, tốt hơn?

Trước kia, họ tố cáo: “Triều đình nhà Nguyễn ươn hèn”. Bởi nhà Nguyễn, đã từng, lần lượt cắt đất của lục tỉnh Nam kì, dâng cho Pháp. Để mong, đổi lấy cái thứ Hòa bình viển vông. Để mong, người Pháp thương hại và để nguyên cho họ cai trị, trên phần đất còn lại của Việt nam. Nhượng bộ, đến mức đó. Nhưng, con hổ đói Phú lãng sa, đâu có chịu nằm yên. Chung cuộc, nó vẫn nuốt trọn Việt nam.

Nay, nếu vẫn giữ nguyên, lời tố cáo đó. Họ sẽ giải thích ra sao, về ải Nam quan – về thác Bản giốc – về bãi Tục lâm – về những hòn đảo của Tổ quốc, đã bị Trung cộng cưỡng bức, trên Biển đông? Vì ươn hèn hay vì, đem những thứ đó, để đổi lấy cái thứ, mà họ gọi là: “môi trường hòa bình và ổn định”. Cho cái đảng CS, mặc dù đang bị rệu rã, vẫn được ung dung, mà ngồi bàn chuyện, “tổ chức Đại hội đảng lần thứ 12”? Và, sau khi, có được những thứ ấy: Con quái vật Tàu cộng, liệu có dừng dã tâm của nó, ở mức đó hay không?

Hãy “lẩn như trạch”, ra khỏi đề tài này. Muốn vậy: Hãy “tích hợp” môn Lịch sử

Trước kia, họ dạy “Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc” của cụ Đồ Chiểu, cho bọn trẻ con nước Việt. Thông qua đó, họ chê bai quan quân nhà Nguyễn: Được trang bị tốt – Được nuôi dưỡng, theo nhu cầu – Được luyện tập đầy đủ và tinh thông. Nhưng, khi giặc đến: Tất cả lũ hèn nhát ấy, không đứa nào, dám ra chống cự. Nhân dân, chỉ vì nghĩa khí, đứng lên chống giặc. Không khuyến khích người ta, đã đành. Đằng này, còn bắt tội người ta. Giam cầm, cả đến lòng yêu nước.

Nay, nếu vẫn dạy bài Văn tế đó. Họ sẽ giải thích ra sao, về việc: Quân đội và Công an, được trang bị đầy đủ và tốt như thế. Nhưng, khi giặc đến: Tất cả, đều nín khe – Tất cả, đều kiên trì bám bờ. Họ nhẫn tâm, đẩy ngư dân, ra biển. Để, làm những “cột mốc chủ quyền” ở trên đó. Họ hứa, còn chắc hơn cả đinh đóng cột rằng: Bà con, hãy yên tâm mà làm ăn. Đã có Quân đội và Cảnh sát biển, luôn đứng đằng sau, để hỗ trợ. Nhưng sự thực, lại quá phũ phàng. Khi ngư dân ra biển và, bị lũ giặc sát hại: Không có 1 phương tiện nào – Không có 1 thằng nào – Không có 1 con nào ra ứng cứu.

Trương Văn Bảy, bị giết trên biển. Tàu cá QNg 95861 TS, đơn côi và ì ạch chở anh về bờ. Chứng kiến cảnh đó, bao nhiêu người, đã khóc, vì tủi nhục. Trừ, những người CS. Trái tim của họ, đã hóa thành gỗ – thành đá, từ lâu rồi.

Nếu, còn có lòng tự trọng và còn biết xấu hổ, liệu Tư Sang, có dám mở mồm, lặp lại những câu sáo rỗng tương tự, trước Nhân dân Việt nam? Đồng thời, những người CS, sẽ giải thích ra sao, về viêc: Bắt bớ và đánh đập vô tội vạ, con dân Đất Việt. Khi, họ biểu thị quyết tâm, sẵn sàng hy sinh, để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Đất nước Việt nam?

Muốn “né hạ”, tốt nhất, hãy tránh chuyện đó. Biện pháp đơn giản nhất: “tích hợp” môn Lịch sử

Những người CS, liệu có dám, dạy cho học sinh, những tấm gương hy sinh lẫm liệt của Hoàng Diệu – của Nguyễn Tri Phương. Khi giặc đến, các Cụ chỉ huy quân đội, đánh đến cùng. Mặc dù, thế và lực rất chênh lệch. Không giữ được Thành – không bảo vệ được Dân, các Cụ, đều tuẫn tiết. Để tỏ rõ, lòng Trung với Dân – với Nước. Dạy như thế, họ sẽ giải thích ra sao, về viêc: Biển đảo của Tổ quốc, bị giặc chiếm đoạt – Ngư dân, không được bảo vệ. Nhưng, chẳng ai thấy, bất cứ một viên tướng nào của CS, dẫn quân ra chống cự. Và, chẳng có ai, trong số đó, tự tử. Vì, không hoàn thành nhiệm vụ của mình, trước Dân – trước Nước. Không những thế, họ còn công khai thú nhận, cái năng lực hết sức tồi của mình, trước bàn dân Thiên hạ. Tuy vậy, vẫn nhất định, không chịu từ chức. Để người khác, lên làm thay. Họ, ngồi ỳ thì lỳ ra đó. Chỉ nhằm, đối phó với Nhân dân và chờ… lĩnh sổ hưu. Thượng tướng Huỳnh Ngọc Sơn, là 1 tấm gương, tiêu biểu.

Muốn tránh chuyện bị chất vấn, hãy “tích hợp” môn Lịch sử. Để, khỏi phải nói, về sự kiện đó.

7-Nhiều người cho rằng: Phạm Vũ Luận, là tác giả của cái đề xuất: “bức tử” bộ môn Lịch sử. Họ, chửi ông, không tiếc lời. Họ, thật không công bằng.

Phạm Vũ Luận, chẳng tài giỏi gì. Đó, là sự thật. Dưới sự lèo lái của ông, con thuyền Giáo dục Việt nam: hết lao vào thác ghềnh, rồi lại đâm đầu vào đá tảng. Ông, thuộc tuýp người: Chuột không hay – Hay ỉa bếp. Nói về Giáo dục: ông ấp úng, cứ như đang ngậm hột thị. Nhưng, hãy thử hỏi ông, về những thứ Trời ơi – Đất hỡi. Ông sẽ khua môi – múa mép, như 1 nhà hùng biện thứ thiệt. Ông coi Giáo dục, là thứ giáo, để đâm – là thứgiáo, để chém. Bởi vậy, ông coi nó, là 1 trận đánh lớn. Ông, là Tư lệnh – Giáo viên, là chiến sĩ – Sách vở, là vũ khí – Phụ huynh và học sinh, nếu không phải là địch, thì cũng chẳng phải, thuộc quân mình. Và, khuyên quân ta, phải sẵn sàng trả giá – phải sẵn sàng hy sinh (!) Quan trọng nhất, phải che giấu khuyết điểm, như mèo dấu cứt. Nếu không, quân ta sẽ tự đánh… quân mình. Chính vì, có năng lực tồi, cho nên, đã có lần, ông hân hạnh, được đội sổ về mức độ “tín nhiệm”.

Tuy vậy, xuất thân từ 1 giáo viên, ông không thể ngu đến mức: Đề xuất, viêc bức tử môn Lịch sử. Chắc chắn, có 1 thằng đồng đội nào đó, đang “nằm trong đống rơm”, đã chỉ đạo ông làm. “Thằng ăn ốc – Đứa đi đổ vỏ”. Bị chửi nhiều quá, ông ấm ức – ông hóa khùng. Ra trước Tòa, à quên, ra trước Quốc hội, ông đã gián tiếp, khai tuột ra nó. Ông giả nai, mà nói rằng: “sẽ có báo cáo làm việc với Ban Tuyên giáo TƯ, Hội đồng lý luận TƯ…”. Trên cơ sở ấy, “mới có kết luận cuối cùng”.

Không chịu, làm Lê Lai, để cứu Chúa. Sự nghiệp của ông, được coi như, chấm dứt từ đây.

Còn các vị đại biểu Quốc hội. Xin các vị, chớ vội lạc quan tếu. Cái Nghị quyết “không bức tử môn Lịch sử của quí vị, đã là cái đinh gỉ gì: Nó chưa được, những cơ quan khét tiếng kia, thông qua.

Cứ ngồi đấy, mà chờ. Hồi sau, sẽ rõ.

Nguyễn Tiến Dân

Tạm trú tại: 544 đường Láng – quận Đống đa – Hà nội.

Điện thoại:  0168-50-56-430

Khởi tố LS Nguyễn Văn Đài: Thách thức gây sốc

Khởi tố LS Nguyễn Văn Đài: Thách thức gây sốc

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2015-12-18

000_Hkg834327-622.jpg

Ảnh chụp qua màn hình TV phiên xử Luật sư Nguyễn Văn Đài và Luật sư Lê Thị Công Nhân tại Tòa án Nhân dân Hà Nội hôm 27/11/2007.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Thất vọng từ nhiều phía

Vụ bắt giữ khởi tố luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài diễn ra trong thời điểm Đối thoại Nhân quyền Việt Nam – EU vòng thứ năm tổ chức ngày 15/12/2015 tại Hà Nội. Báo chí Việt Nam nhanh chóng đưa tin vụ bắt giữ khởi tố, nhưng bỏ qua các phản ứng được mô tả là đầy thất vọng từ nhiều phía.

Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, người được Tổ chức Nhà báo không biên giới vinh danh Công dân mạng Netizen 2013, từ Việt Nam phát biểu:

“Vụ bắt LS Nguyễn Văn Đài là một bất ngờ lớn đối với tôi cũng như nhiều người, vì tình hình Việt Nam từ khi có Hiệp định TPP thì có vẻ như là đang cởi mở hơn và có những bước tiến triển tương đối thuận lợi cho việc phát triển dân chủ và nhân quyền. Nhưng việc bắt LS Nguyễn Văn Đài làm cho mọi người thất vọng…Ngoài ra có dư luận cho rằng vì thời gian trước khi diễn ra Đại hội Đảng thì cũng có những răn đe từ phía nhà cầm quyền. Qua đó thấy rằng nhà cầm quyền không có những tiến triển tốt đẹp trong chuyện cởi mở với người dân.”

” Vụ bắt LS Nguyễn Văn Đài là một bất ngờ lớn đối với tôi cũng như nhiều người, vì tình hình Việt Nam từ khi có Hiệp định TPP thì có vẻ như là đang cởi mở hơn và có những bước tiến triển tương đối thuận lợi cho việc phát triển dân chủ và nhân quyền. Nhưng việc bắt LS Nguyễn Văn Đài làm cho mọi người thất vọng…
-Blogger Huỳnh Ngọc Chênh”

Qua sự kiện LS nhân quyền Nguyễn Văn Đài vừa bị bắt giữ và khởi tố, TS Hà Sĩ Phu, một nhân vật bất đồng chính kiến thuộc nhóm thân hữu Đà Lạt, bày tỏ sự không tin tưởng đối với vấn đề cải cách chính trị ở Việt Nam. Ông nói :

“Nói chung toàn cái Đảng này chưa có ý định dân chủ hóa, chưa có ý đồ tốt một tí gì, cho nên bên cạnh việc mở toang thì sẽ có việc họ thắt lại. Tình hình dân chủ càng ngày càng xấu đi chứ chưa có biểu hiện gì tốt lên. Nhưng tôi thấy hiện nay rất nhiều người đang lạc quan lắm, cả hải ngoại lẫn trong nước nhiều người bắt đầu có cái nhìn lạc quan. Phần tôi chẳng lạc quan gì cả… Cộng sản họ đầy mưu mô. Tóm lại trước Đại hội Đảng đáng lẽ phải tạo ra không khí hồ hởi, nó là cái ‘hội’ thế nhưng họ vẫn bắt bớ đàn áp. Họ cũng đồn rằng, những động tác đó có thể là phe nọ đánh, phá phe kia. Thí dụ không muốn cho quan hệ với Mỹ, không muốn cho TPP được tiến hành. Bởi thế họ làm những động tác phản dân chủ, phản tiến bộ để phá nhau.”

Phổ biến trên trang mạng chính thức của EU ngày 17/12/2015, Thông điệp của Đại sứ Bruno Angelet, Trưởng phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam và các Đại sứ các quốc gia thành viên EU tại Việt Nam nhấn mạnh: “Quyết định bắt giữ và khởi tố ông Nguyễn Văn Đài đặc biệt gây thất vọng bởi vì nó diễn ra đúng ngày Đối thoại Nhân quyền EU – Việt Nam thường niên được tổ chức tại Hà Nội và ngay sau chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Bruxelles và tại đây Việt Nam và EU đã chính thức công bố kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do song phương…”

000_Hkg834336-400.jpg

Ảnh chụp qua màn hình TV phiên xử Luật sư Nguyễn Văn Đài tại Tòa án Nhân dân Hà Nội hôm 27/11/2007. AFP PHOTO.

Bản thông điệp cũng lưu ý phía Việt Nam, quyền cơ bản của tất cả mọi người là được quyền có ý kiến và bày tỏ ý kiến một cách hòa bình theo Tuyên bố Toàn cầu về Nhân quyền và Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt nam là một thành viên. Các Đại sứ nhắc lại những lời kêu gọi trước đây đối với Việt Nam trong việc trả tự do cho những người ủng hộ nhân quyền một cách hòa bình tại Việt Nam.

Nhận định về sự kiện liên quan, Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, người được vinh danh Công dân mạng Netizen 2013 từ Việt Nam phát biểu:

“Đây là một hành động coi thường đối với những cam kết của Việt Nam đối với quốc tế. Việt Nam đã có những cam kết quốc tế về vấn đề nhân quyền, nhưng rồi vẫn tiếp tục bắt người nhất là qua điều 88 là tuyên truyền chống lại Nhà nước, điều này rất là phi lý. Cho nên đã dấy lên dư luận trong người dân phản đối mãnh liệt về chuyện bắt Luật sư Đài và các tổ chức quốc tế cũng lên tiếng phản ứng vấn đề này.”

Bắt bớ tùy tiện

Được biết Việt Nam biểu lộ quyết tâm hội nhập nhanh và sâu với thế giới, trong số 12 Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia, 2 Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP và Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam EVFTA có những điều kiện liên quan tới pháp luật bình đẳng và minh bạch. Việt Nam cũng cam kết cải tổ hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh của mình. Sự kiện Hà Nội bắt giữ và truy tố Luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài được được ông Andrus Ansip, Phó Chủ tịch Ủy ban Châu Âu nêu ra tại phiên họp toàn thể của Nghị viện Châu Âu hôm 16/12/2015.

Nhận xét về thực tế pháp luật ở Việt Nam và những vụ bắt bớ người bất đồng chính kiến một cách tùy tiện, TS Hà Sĩ Phu nêu ý kiến:

” Bản thân anh làm luật chẳng chân chính gì cả. Làm luật dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản nó chừa ra những chỗ để người ta nói thế nào, xử thế nào cũng được. Bản thân người thi hành thì chân lý tối cao của họ là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
-TS Hà Sĩ Phu”

“Tôi còn nhớ trước đây Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao cụ Phạm Văn Bạch có lần nói rằng, luật pháp nước ta xử thế nào cũng được. Bản thân anh làm luật chẳng chân chính gì cả. Làm luật dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản nó chừa ra những chỗ để người ta nói thế nào, xử thế nào cũng được. Bản thân người thi hành thì chân lý tối cao của họ là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, trong khi đó luật pháp là để bảo vệ quyền của người dân. Về cơ bản chủ nghĩa cộng sản mâu thuẫn với luật pháp, luật tức là vô luật. Người ta phân biệt hai thứ rule of law và rule by law…. luật này của một phiá chứ không phải luật của nhân dân, họ nghĩ ra luật để khống chế quyền của dân thôi. Chừng nào chưa phá vỡ được sự độc quyền cộng sản thì luật pháp cũng chẳng có gì đáng tin cậy cả.”

Theo tin các báo điện tử Tuổi Trẻ, Người lao Động, VietnamNet, VnExpress, đây là lần thứ nhì cựu Luật sư Nguyễn Văn Đài bị bắt giam khởi tố về tội ‘Tuyên truyền chống Nhà nước,’ qui định tại Điều 88 Bộ Luật hình sự. Được biết LS Nguyễn Văn Đài đã từng nhận án 4 năm tù giam cùng một tội danh như lần này. Các báo nhắc lại trong các phiên xử năm 2007, Tòa án đã làm rõ là hai cựu Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân đã tang trữ các tài liệu có nội dung xuyên tạc lịch sử dân tộc, bôi nhọ nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa…

Báo chí trong nước khi đưa tin về vụ bắt giữ khởi tố Luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài đều có chung cách nêu tên trỏng, không thích hợp văn hóa Việt Nam. Trong làng báo, hiếm thấy như VnExpress gọi là cựu Luật sư Nguyễn Văn Đài hoặc ông Nguyễn Văn Đài. Điểm đáng chú ý không ngờ, ích lợi của Internet đã thể hiện khi độc giả của Tuổi Trẻ Online có những bình luận sâu sắc một cách đầy hàm ý.

Trong bài liên quan đến vụ bắt giam khởi tố LS Nguyễn Văn Đài, độc giả Trần Ngọc Khánh có bình luận được nhiều người tán thưởng. xin trích nguyên văn: “ Đề nghị nhà nước công khai nội dung xuyên tạc lịch sử dân tộc của Nguyễn Văn Đài. Xem thử như thế nào để nhân dân biết mà né tránh. Bán nước cầu vinh là tội không thể tha, còn tội bóp méo lịch sử, thay trắng đổi đen thì xử phạt gấp mười lần tội trên mới được. Vì nó ảnh hưởng hàng trăm thế hệ con cháu sau này.”

Comment của Trần Ngọc Khánh được rất nhiều người thích, nhiều chia sẻ tiếp theo của độc giả Tuổi Trẻ Online tạo ra một một tác dụng ngược chiều quan điểm của Tuyên giáo Đảng. Thí dụ bạn đọc Bùi Văn Thuận hồi đáp, đúng rồi tội bán nước vinh thân, rước giặc vào nhà, tươi cười hảo hữu với giặc nên xử thật nặng để răn đe con cháu sau này. Nhiều bình luận cũng đề nghị Nhà nước mở phiên tòa công khai cho người dân vào xem.

Ngôn ngữ Việt thật sâu sắc, ai đọc những comments chia sẻ của bạn đọc Tuổi Trẻ Online đều ngay lập tức hiểu những bình luận đó muốn nói gì và nói tới ai.

Chiến dịch đòi trả tự do cho LS Nguyễn Văn Ðài

Chiến dịch đòi trả tự do cho LS Nguyễn Văn Ðài
Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) Rất nhiều bằng hữu, cư dân mạng hợp tác với Hội Anh Em Dân Chủ và Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm, phát động chiến dịch đòi trả tự do cho Luật Sư Nguyễn Văn Ðài vừa bị nhà cầm quyền Việt Nam khởi tố.


Tấm bích chương vận động trả tự do cho Luật Sư Nguyễn Văn Ðài. (Hình: HAEDC)

Dự trù, chiến dịch sẽ kéo dài một tuần lễ gồm viết thư qua trang Facebook của các tòa đại sứ ngoại quốc tại Việt Nam, các tổ chức quốc tế và các chính phủ quan tâm đến tình trạng nhân quyền tồi tệ tại Việt Nam.

Liên nhóm vận động chiến dịch cũng mở một hộp thư điện tử làm nơi giao tiếp liên lạc có tên là “freenguyenvandai2015@gmail.com

Những ai tham gia vận động đòi trả tự do cho Luật Sư Ðài có thể vào địa chỉ này để ký tên. Nội dung chữ ký gồm: 1. Tên (hội, nhóm, tổ chức hay cá nhân). 2. Tỉnh/thành phố, quốc gia.

Dưới đây là các trang facebook của một số đại sứ quán:

https://www.facebook.com/usambassador.vietnam/
https://www.facebook.com/AmbassadeFranceVietnam/
https://www.facebook.com/germanyandvietnam/
https://www.facebook.com/norwayinvietnam/
https://www.facebook.com/dkvietnam
https://www.facebook.com/EmbassyOfSwedenInHanoi/
https://www.facebook.com/italyandvietnam/
https://www.facebook.com/CanadaVietnam/

Mọi người có thể viết bằng Anh ngữ một lời yên cầu ngắn, thí dụ như ý kiến của một số facebooker: “LS Nguyễn Văn Ðài vừa bị công an Việt Nam bắt sáng ngày 16 tháng 12 tại Hà Nội. Rất mong ngài đại sứ quan tâm và can thiệp để nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do cho Luật Sư Ðài. Cám ơn ngài.”

Trong lời kêu gọi các cá nhân và tổ chức tham gia chiến dịch, nhóm phổ biến lời kêu gọi viết rằng “Tất cả mọi hoạt động của LS Nguyễn Văn Ðài đều nằm trong phạm vi các quyền cơ bản của con người, bao gồm quyền tự do lập hội, quyền tự do ngôn luận và quyền tự do đi lại. Trong các quyền cơ bản đó, các nhà hoạt động có quyền sử dụng các nguồn lực, từ cá nhân hay từ nhiều người khác, để cổ xúy và bảo vệ nhân quyền tại VN.”

“Chính quyền Việt Nam phải tôn trọng các cam kết quốc tế về thực thi các tiêu chuẩn nhân quyền, trong đó là cam kết tạo không gian cho truyền thông phi nhà nước, không gian cho XHDS và hoạt động của người bảo vệ nhân quyền. Việc bắt LS Nguyễn Văn Ðài sáng ngày 16 tháng 12, 2015 là một hành động hoàn toàn bất chính và bất xứng trong tư cách chính quyền VN đang là thành viên của Hội Ðồng Nhân Quyền LHQ.” (TN)

Câu chuyện hòa giải

Câu chuyện hòa giải

  Nguyễn Quang Dy

“Nhân lễ Giáng sinh 2015, xin kinh tặng các cựu chiến binh của cả hai phía đã thoát khỏi ngây thơ (innocence) và trưởng thành (mature) từ cuộc Chiến tranh Việt Nam, để trở thành các sứ giả của hòa bình và hòa giải” (Nguyễn Quang Dy)

 Đất nước đã thống nhất nhưng dân tộc vẫn chưa hòa giải. 40 năm sau, vết thương chiến tranh vẫn chưa lành, đất nước vẫn chia rẽ và tụt hậu (trước nguy cơ Bắc thuộc), và con người đối xử với nhau (và với thiên nhiên) ngày càng vô cảm và bạo lực. Muốn hòa giải, phải xóa bỏ cực đoan trong tư duy, từ bỏ hận thù trong lòng và bạo lực trong hành động, để đất nước độc lập, dân chủ và giàu mạnh, để người dân hạnh phúc và ấm no (như mong ước của cụ Hồ).

Hòa giải với Mỹ

20 năm sau chiến tranh, Việt Nam và Mỹ đã chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao (11/7/1995), tuy dư chấn chiến tranh vẫn chưa hết. Đến năm 2000 (thực sự là 2007) hai nước mới chính thức bình thường hóa quan hệ thương mại (PNTR). Thậm chí 40 năm sau, bóng ma chiến tranh vẫn còn ám ảnh cả hai phía, nhiều người vẫn còn là “tù binh của quá khứ”. Hòa giải khó hơn và lâu hơn bình thường hóa. Nó là một quá trình đau khổ.

Kỷ niệm 20 năm bình thường hóa, nhiều người quên rằng năm 1978, Việt nNm đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa với Mỹ (chỉ trong gang tấc) nên đã dẫn đến bi kịch “Chiến tranh Đông dương lần thứ ba” với “brother enemy” (Trung Quốc) và “đồng minh” (Khmer Đỏ) được Mỹ, Phương Tây và ASEAN ngầm ủng hộ. Chậm hòa giải và bình thường hóa với Mỹ đã dẫn đến bi kịch chiến tranh một lần nữa, “vắt kiệt máu” một dân tộc vốn đã kiệt sức.

Còn bây giờ, Viêt Nam không còn lựa chọn, phải thỏa thuận tham gia TPP để cứu vãn nền kinh tế đang khủng hoảng và lệ thuộc quá sâu vào Trung Quốc, và để trở thành đối tác chiến lược của Mỹ nhằm cân bằng và đối trọng với Trung Quốc đang đe dọa chủ quyền. Nhưng bóng ma chiến tranh vẫn còn ám ảnh, làm nhiều người sợ “diễn biến hòa bình” như sợ một “con ngoáo ộp” đối với những người mắc chứng tâm thần phân liệt (“vừa đ…vừa run”). Trong tâm thức, họ vẫn sợ Mỹ lấy mất cái “bảo bối XHCN” đã bị mối xông mục ruỗng.

Người ta nói “Chiến tranh không chấm dứt khi ngừng tiếng súng” (diễn văn của đại sứ Pete Peterson, 2001). Chiến tranh chỉ thực sự chấm dứt khi hai bên hòa giải được với nhau. Nhưng hòa giải không chỉ diễn ra trên bàn đàm phán, giữa hai chính phủ, mà nó còn diễn ra trên chiến trường xưa, giữa những người cựu chiến binh đã từng bắn giết lẫn nhau, và trong lòng những người thân của họ, ở cả hai phía. Nó đòi hỏi vươt qua thù hận.

Chính những cựu chiến binh lại ít thù hận và dễ hòa giải. Nhà văn Wayne Karlin (ở Maryland) và đạo diến Trần Văn Thủy (ở Hà Nội) là một ví dụ. Wayne từng là xạ thủ súng máy trên trực thăng, săn lùng Việt Cộng tại chiến trường Quảng Nam. Thủy là lính quay phim Việt Cộng, từng chạy trốn trực thăng và thoát chết nhiều lần tại chiến trường đó. Lúc đó họ đã có thể giết nhau (như những người khác). Nhưng họ đã sống sót, và sau chiến tranh đã tình cờ gặp nhau và trở thành bạn thân. Họ đã viết truyện, làm phim về chiến tranh, nhưng để kêu gọi hòa bình và hòa giải. Tình bạn của họ là một câu chuyện hòa giải bằng xương bằng thịt.

John Kerry, John McCain, Pete Peterson, Bobby Muller (và nhiều người khác) cũng là những cựu chiến binh, đã từng bị thương, bị tù đày, bị mất đôi chân tại chiến trường Việt Nam. Họ có quyền thù hận phía bên kia, nhưng chính họ đã dẫn đầu quá trình hòa giải. Họ khác với Robert McNamara đã từng tham chiến trong văn phòng máy lạnh, nhưng phải 20 năm sau (1995) ông ấy mới đủ dũng cảm hòa giải với chính mình, để thừa nhận sai lầm.

Thomas Vallely (một cựu chiến binh ở Massachusetts), đã nói tại Đà Nẵng năm 1985 (trong phim tài liệu của Northern Lights), “Chính tại Việt Nam tôi đã hiểu ra rằng… chúng ta không nên đưa thanh niên vào chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của mấy lão già” (It is in Vietnam that I have learned … We should not be in the businees of sending young men to die for old men’s pride”. Nhưng người Mỹ vẫn không học được bài học đó. Họ tiếp tục đưa thanh niên Mỹ vào chỗ chết ở Iraq và Afghanistan và bị sa lầy taị đó (như trước đây tại Việt Nam). Họ đã không tiêu diệt được khủng bố mà còn làm cho ISIS mạnh lên, trở thành hiểm họa toàn cầu.

Hòa giải thực sự phải toàn diện, không chỉ bao gồm ngoại giao, thương mại, đầu tư, mà còn cả quân sự, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục… Sau 20 năm bình thường hóa, đã có 16.500 sinh viên Việt Nam du học tại Mỹ (đông nhất trong số các nước Đông Nam Á). Dự án Đại học Fulbright (mà chương trình FETP là nòng cốt) cuối cùng đã được hai chính phủ chấp thuận, sau bao nhiêu năm không tiến triển được bước nào (có lẽ vì sợ “diễn biến hòa bình”). Cùng với thỏa thận TPP, Đại học Fulbright là một tin mừng. Hòa giải thực sự phải dựa trên hợp tác toàn diện, để xây dưng cả “sức mạnh mềm” lẫn “sức mạnh cứng”.

Hòa giải với Trung Quốc

 Sau một thập niên coi nhau như “kẻ thù nguy hiểm nhât” trong bi kịch “Chiến tranh Đông dương lần thứ ba” (1979-1990), Việt Nam đã bình thường hóa với Trung Quốc, với thỏa thuận Thành Đô (9/1990) đi vào lịch sử, mở ra “một thời kỳ bắc thuộc mới nguy hiểm” (theo cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch). Đó là quá trình bình thường hóa “không bình thường”, dựa trên tư duy cực đoan và ấu trĩ vì ý thức hệ (chứ không phải vì lợi ích quốc gia). Họ đã nhảy từ thái cực này sang thái cực khác, từ anh em khăng khít “như môi với răng” đã trở thành “kẻ thù nguy hiểm nhất”, rồi nay lại trở thành đồng minh chiến lược, “đồng chí bốn tốt” với “16 chữ vàng”.

Quá trình bình thường hóa đó dựa trên một tầm nhìn thiển cận đầy ngộ nhận, giữa lãnh đạo hai nước cộng sản, chứ đâu phải hòa giải giữa hai dân tộc láng giềng, sau một cuộc chiến đẫm máu. Còn nhớ năm 1978-1979, gần một triệu người Hoa đã từng sinh sống tại Việt Nam suốt mấy thế hệ bỗng nhiên trở thành “nạn kiều” trong một cuộc chiến tranh mà chính họ không hiểu, nhưng là nạn nhân vô tội, bị xua đuổi khỏi Việt Nam trong một chiến dịch “bài Hoa” tàn nhẫn. Tuy không thay đổi được quá khứ, nhưng phải hòa giải với nhau để bỏ qua hận thù, mới có thể bắc nhịp cầu mới cho một tương lai tử tế hơn. Bởi vì hận thù giữa hai dân tộc láng giềng là mồi ngon cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền.

Chỉ bình thường hóa chính thức giữa hai nhà nước (dựa trên ý thức hệ để duy trì chế độ), mà thiếu hòa giải thực sự giữa hai dân tộc (dựa trên hợp tác bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau) thì không thể bền vững. Bằng chứng là chỉ sau hai thập niên, quan hệ hai nước lại rạn nứt và khủng hoảng, trước nguy cơ xung đột mới tại Biển Đông và biên giới. Những mâu thuẫn tiềm ẩn bị che đậy mà không được hóa giải, sẽ lại bộc lộ, trở thành nguy hiểm hơn.

Nếu so sánh, người ta dễ thấy có sự bất cập giữa hai quá trình hòa giải với Mỹ và Trung Quốc. Trong khi đối với Mỹ, hòa giải giữa hai chính phủ chậm chạp và khó khăn như bị trầm cảm hay ma ám, thì đối với Trung Quốc, hòa giải giữa hai đảng lại hấp tấp và nông nổi như ngáo đá (uống phải “thuốc lắc”). Phải chăng là vì ý thức hệ? Trong khi đó người dân Việt Nam lại dễ hòa giải và hòa hợp với người Mỹ (tuy xa) hơn là với người Trung Quốc (tuy gần). Phải chăng là do sức mạnh mềm (như thể thao, âm nhạc, phim ảnh, giáo dục, và quyền con người) là những gia vị thiết yếu làm xúc tác cho quá trình hòa giải và hòa hợp giữa các dân tộc?

Trung Quốc có rất nhiều tiền và hàng hóa (là sức mạnh cứng), nhưng lại thiếu những thứ gia vị đó (là sức mạnh mềm) để hấp dẫn người dân (cả Việt Nam lẫn Trung Quốc). Tại sao nhiều người Việt Nam (và Trung Quốc) không muốn sống ở đất nước mình, mà cứ muốn di cư sang Mỹ và các nước phương Tây khác? Không phải chỉ có người dân, mà cả các quan chức trung thành với chế độ cũng đang làm như vậy (sau khi tranh thủ vơ vét làm giàu).

Có thể rút ra mấy nhận xét. Thứ nhất, một xã hội tuy giàu có về vật chất nhưng lại nghèo nàn và bất ổn về tinh thần không phải là một môi trường đáng sống. Thứ hai, không thể thực sự hòa giải với bên ngoài, nếu không thực sự hòa giải với bên trong. Thứ ba, xét cho cùng thì hòa giải với bên ngoài hay với bên trong đều dựa trên cùng một tiền đề là phải xóa bỏ hận thù và định kiến, cực đoan và bạo lực, tham lam và mù quáng (hay “tham, sân, si”).

Hòa giải dân tộc

 Trong khi Việt Nam đã chính thức bình thường hóa và hòa giải (được một phần) với Mỹ và Trung Quốc, thì đáng tiếc là hai cộng đồng người Việt (trong nước và ngoài nước) vẫn chưa hòa giải được với nhau. Thậm chí trong cùng một cộng đồng, các phe nhóm khác nhau vẫn chia rẽ chống đối nhau kịch liệt như kẻ thù. Phải chăng đó là bản chất cực đoan của người Việt (do cội nguồn lịch sử) không chấp nhận trung lập (hay Trung đạo).

HOA GIAI

Xét về bản chất thì những người cộng sản cực đoan và chống cộng cực đoan đều rất giống nhau, vì cùng mắc căn bệnh tâm thần phân liệt và hoang tưởng rất khó điều trị. Câu chuyện “Terror in Little Sài Gòn” là một ví dụ (về phía “bên kia”), đến bây giờ vẫn chưa hòa giải và hóa giải được. Câu chuyện “Chân dung quyền lực” là một ví dụ khác (về phía “bên này”), phản ánh tranh chấp quyền lực liên miên hầu như không có hồi kết. Có lẽ đó là sự khác biệt căn bản giữa người Việt Nam với người Miến Điện, khi cần phải hòa giải vì lơi ích dân tộc. Trong khi họ đặt lợi ích dân tộc lên trên, thì chúng ta đặt lợi ích dân tộc xuống dưới.

Trong khi bỏ qua những vấn đề lớn liên quan đến vận mệnh quốc gia, thì nhiều người vẫn cực đoan và cố chấp về những vấn đề cụ thể, không chịu nhân nhượng (như nguyên tắc cứng nhắc). Có lẽ sự nhầm lẫn giữa mục đích và phương tiện, giữa chiến lược và sách lược là một nguyên nhân, mà suy cho cùng đều do cái gốc cực đoan và cố chấp. Kinh tế thị trường “theo định hướng XHCN” thực chat chỉ là cái vỏ che đậy độc quyền và lợi ích nhóm.

Thật khó lý giải tại sao người Việt sẵn sàng “bỏ qua quá khứ” (dù nói miệng) để hòa giải với người Mỹ, nhưng giữa người Việt với nhau lại không thể bỏ qua quá khứ và hận thù. Đối với tội ác chiến tranh của TQ thì dễ dàng “quên” không nhắc tới (kể cả trong sách giáo khoa), nhưng lại nhớ dai nhấn mạnh tội ác chiến tranh của Mỹ trong phim ảnh và tại các bảo tàng chiến tranh. Và sau 40 năm, vẫn tiếp tục phân biệt đối xử với những người “lính ngụy”, kể cả khi họ đã chết (như đối với “nghĩa trang ngụy” tại Biên Hòa). Điều đó vừa không phù hợp với truyền thống dân tộc trong lịch sử (“lấy trí nhân để thay cường bạo”) vừa không đúng với tinh thần “hòa giải, hòa hợp dân tộc” (trong Hiệp định Paris, 1973).

Để hóa giải hố ngăn cách giữa cộng đồng người Việt trong nước và ngoài nước, không phải chỉ bằng điều chỉnh chủ trương đường lối (như “nghị quyết 36”) mà phải bằng hành động cụ thể có thiện chí thực sự. Tuy không thay đổi được quá khứ đau buồn (như trại cải tạo sau 1975), tuy không cần phải “đốt tráp” (đựng danh sách phản động) như vua Trần ngày xưa, nhưng cần phải hòa giải với những cựu chiến binh của “phía bên kia”, dù họ còn sống hay đã chết (tại Biên Hòa hay tại Hoàng Sa). Tại sao các cựu chiến binh Việt Nam và Mỹ có thể hòa giải được với nhau, mà các cựu chiến binh Việt nam của hai phía lại không làm được?

Nguyên nhân và lối thoát

 Muốn hòa giải dân tộc, trước hết phải hiểu tại sao quá trình này vẫn khó khăn và thất bại, mặc dù đã có “chủ trương” (bằng văn bản). Nếu coi chủ trương đó chỉ là sách lược để lừa nhau nhằm giành lợi thế trong trò chơi quyền lực, thì đã đến lúc cả hai phía phải thực sự thành tâm với nhau. Bởi vì, hòa giải dân tộc không phải là sách lược, mà là điều kiện sống còn để thay đổi vận mệnh quốc gia. Trên thế giới có quá nhiều bài học kinh nghiệm.

Đối với Việt Nam thì việc hòa giải lại càng khó, đòi hỏi một tầm nhìn xa hơn và dân trí cao hơn. Lịch sử Viêt Nam từ thời Hậu Lê trở đi (cho đến gần đây) có nhiều bước ngoặt bất hạnh, dẫn đến chia cắt đất nươc thành hai miền, chiến tranh và xung đột liên miên, vừa với kẻ thù bên ngoài (Trung Quốc) vừa với kẻ thù bên trong (nội chiến). Trong bối cảnh bất an đó, người Việt đã bị xô đẩy theo xu hướng ngày càng cực đoan và bạo lực, luôn nghi kỵ và hận thù, xa dần tư tưởng Trung đạo và nhân đạo mà đỉnh cao là triều đại Lý và Trần. Các triều đại sau này ngày càng suy thoái, không những do bài ngoại, mà còn do chấp nội, thành hủ nho.

Trong bối cảnh lịch sử đó, các cơ hội cải cách và chấn hưng đã bị thui chột và thất bại, nên Việt Nam mới dễ dàng trở thành thuộc địa của Pháp, khác với Nhật Bản đã cải cách thành công dưới thời Minh Trị, trở thành một cường quốc mới ở Đông Á. Xu hướng cách mạng ở Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng cách mạng cực đoan du nhập từ Pháp, Nga, và Trung Quốc, đặc biệt là thời Stalin và Mao Trạch Đông. Đối với trí thức và người giàu thì “đào tận gốc, trốc tận rễ”. Đối với kẻ thù thì “thù muôn đời muôn kiếp không tan”. Những tư tưởng cực đoan đó như thuốc độc ngấm dần vào cơ thể và tâm thức người Việt.

Vì vậy, muốn thay đổi chỉ có cách phải giải độc, giải thoát khỏi tư tưởng cực đoan và cuồng tín, lòng hận thù và nghi kỵ, thói quen bạo lực và tham lam. Cực đoan và cuồng tín là biểu hiện của tầng văn hóa sơ khai và một não trạng bệnh hoạn, là mảnh đât tốt cho hận thù và bạo lực. Vì vậy, một quốc gia văn minh không thể gồm các cộng đồng thừa hận thù nhưng thiếu nhân ái và không tôn trọng nhân cách và nhân quyền. Chừng nào con người chưa bớt cố chấp, chưa thể sống tử tế và nhân ái với nhau thì chưa thể có hòa giải thực sự. Muốn hòa giải được với người khác, thì trước hết mỗi người phải tự hóa giải chính mình.

Sắp đến đạị hôi Đảng XII, vẫn còn nhiều người muốn đóng góp ý kiến. Dù sao, đó là một dấu hiệu đáng mừng, còn hơn là không có ai quan tâm vì người dân vô cảm quay lưng lại với thời cuộc. Vấn đề là có người nói, nhưng phải có người nghe, vì vô cảm không nghe còn nguy hiểm hơn là vô cảm không nói. Quá trình phản biện về chính trị cũng phản ánh thực trạng hòa giải của đất nước. Hy vọng Viêt Nam không thua quá xa Miến Điện.

Sắp đến ngày Thiên chúa Giáng sinh, và cũng sắp hết năm Ất Mùi đầy kịch tính, thời điểm giao mùa của “thay đổi khí hậu” đang trở thành mối lo toàn cầu. Hy vọng mỗi người bớt cực đoan một chút, bớt thù hận một chút, bớt tham lam một chút và bớt chấp đi môt chút, may ra đất nước này mới có thể hòa giải và thoát khỏi kiếp nạn (karma) Bắc thuộc.

NQD. 15/12/2015

Taac giả gửi cho viet-studies ngày 15-12-15

Bình Phước: Mê man bất tỉnh sau khi ‘gặp’ công an

Bình Phước: Mê man bất tỉnh sau khi ‘gặp’ công an
Nguoi-viet.com

PHƯỚC LONG (NV) “Bị công an mời về trụ sở lấy lời khai liên quan đến vụ mất điện thoại, từ một thanh niên khỏe mạnh, Linh mê man bất tỉnh, phải thở bằng máy,” theo báo Phụ Nữ hôm Thứ Tư, 16 tháng 12, 2015.

Tờ Phụ Nữ thuật lời đại diện bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước xác nhận, “Bệnh viện đã tiếp nhận bệnh nhân Ðỗ Hoài Linh (ngụ khu phố 6, phường Long Phước, thị xã Phước Long) trong tình trạng hôn mê sâu. Hiện tại bệnh nhân Ðỗ Hoài Linh đang được theo dõi cấp cứu điều trị tại Khoa Chăm Sóc Ðặc Biệt và Chống Ðộc của bệnh viện.”


Anh Ðỗ Hoài Linh đang được theo dõi điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước trong tình trạng mê man bất tỉnh. (Hình: báo Phụ Nữ)

Ông này có thể đã “chết lâm sàng” và chỉ được kéo dài sự sống thực vật nhờ “thở máy” sau khi bị công an CSVN tỉnh Bình Phước tra tấn ép cung.

Tờ Phụ Nữ dẫn thông tin từ anh Ðỗ Tấn Vũ, em trai bệnh nhân Ðỗ Hoài Linh, cho biết, anh Linh nhập viện sau khi bị công an phường Long Phước, thị xã Phước Long lấy lời khai liên quan đến một vụ mất điện thoại di động.

Nguồn tin thuật lời anh Ðỗ Tấn Vũ cho biết, “Khoảng 22 giờ ngày 1 tháng 12, anh Ðỗ Hoài Linh ngồi nhậu cùng nhóm với anh Thành, anh Minh và anh Tài tại quán cóc ở bãi giữ xe của trung tâm thương mại Phước Bình, thị xã Phước Long.”

“Tàn cuộc nhậu, anh Thành và anh Tài đứng dậy đi trả tiền nhậu, còn anh Linh và anh Minh ngồi tại bàn. Tuy nhiên, sau khi trả xong tiền, anh Tài quay trở lại bàn nhậu thì phát hiện chiếc điện thoại Iphone 5S của anh bỏ ở góc bàn bỗng dưng biến mất. Anh Tài hỏi chuyện, anh Linh nói thấy nó nằm góc bàn bên kia, sợ nước nên anh lấy để qua góc bàn bên này nhưng không hiểu sao giờ không thấy nữa. Bốn người nói chuyện qua lại, bực mình vì cùng nhậu với nhau bỗng dưng bị mất điện thoại, anh Tài lên công an phường trình báo sự việc.”

Nhận được tin báo, theo tờ Phụ Nữ tường thuật, “Công an phường Long Phước đến hiện trường xem xét, ghi nhận sự việc. Tại đây, công an không tìm thấy điện thoại trong người anh Linh, ông Minh cũng như Thành. Sau đó, công an phường Long Phước mời lần lượt Linh, ông Minh và Thành về làm việc. Khuya ngày 5 tháng 12, anh Vũ nhận được tin báo từ một cán bộ công an thị xã Phước Long, rằng anh Linh đang nằm ở bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước trong tình trạng nguy kịch. Vị cán bộ này báo để người nhà thu xếp công việc xuống chăm sóc anh Linh.”

Báo Phụ Nữ nói, “Khi anh Vũ đến bệnh viện thì thấy anh Linh nằm mê man bất tỉnh và phải thở bằng máy. Quan sát kỹ anh thấy toàn thân người anh trai mình có nhiều vết bầm tím, đầu gối có vết xước, đặc biệt đầu sưng to.”

Thấy sự việc bất thường, tờ Phụ Nữ kể tiếp rằng, “Anh Vũ thắc mắc với vị bác sĩ điều trị thì được trả lời thông tin ban đầu khiến anh Linh bị hôn mê sâu là do anh Linh bị men gan cao và suy thận cấp. Tuy nhiên, các bác sĩ tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước cho biết, nếu bệnh nhân bị bệnh suy thận cấp và men gan cao thì không biểu hiện ra ngoài da bằng những vết bầm tím hoặc sưng đầu một cách bất thường như trường hợp bệnh nhân Ðỗ Hoài Linh.”

Còn chiếc điện thoại Iphone 5S của anh Tài thì, “ngay sau khi anh Linh, anh Thành và anh Minh bị công an mời về trụ sở làm việc một lúc, bà Trương Thị Nha (khu phố 3, phường Phước Bình, chủ quán ăn-uống) đi dò tìm thì phát hiện điện thoại nằm ở bãi cỏ cách nơi bàn nhậu của anh Tài khoảng 10m. Tuy nhiên, chiếc điện thoại bị ngấm nước và đã tắt nguồn. Bà Nha đã lập tức trình báo sự việc cho anh Tài và công an phường Long Phước.”

Tra tấn ép cung nghi can vẫn rất phổ biến tại Việt Nam dù Bộ Công An từng ra chỉ thị cấm. Việt Nam cũng đã ký vào công ước quốc tế Chống Tra Tấn của LHQ hồi cuối năm 2013 nhưng không thấy có gì thay đổi từ đó đến nay. (TN)

‘Trận đánh’ nhà hàng Mỹ Cảnh

‘Trận đánh’ nhà hàng Mỹ Cảnh

Tạp ghi Huy Phương

(Để nhớ lại, nhân vụ khủng bố giết 129 người ở Paris)

Nguoi-viet.com

Ngày 14 Tháng Mười Một, sau vụ khủng bố ở Paris làm thiệt mạng 129 người, ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nhà nước CSVN, gửi điện chia buồn và thăm hỏi tới Tổng Thống Pháp Francois Hollande; Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng gửi điện chia buồn và thăm hỏi tới Thủ Tướng Pháp Manuel Valls. Cùng ngày, ông Phạm Bình Minh, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Ngoại Giao, cũng gửi điện chia buồn tới Ngoại Trưởng Pháp Laurent Fabius.

Nhà hàng Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn. (Hình minh họa: pronto.au104.org)

Trong khi đó, phát ngôn viên của chính phủ Việt Nam đã lớn tiếng: “Chúng tôi hết sức bàng hoàng và lên án mạnh mẽ các cuộc tấn công đẫm máu nhằm vào dân thường xảy ra vào ngày 13 Tháng Mười Một, 2015 tại Pháp khiến nhiều người bị thiệt mạng và bị thương. Việt Nam xin chia sẻ những đau thương, mất mát to lớn mà chính phủ, nhân dân Pháp cũng như gia đình những nạn nhân đang phải hứng chịu. Chúng tôi tin tưởng rằng với những nỗ lực mà chính phủ và nhân dân Pháp đang triển khai, những kẻ thủ ác phải bị trừng trị đích đáng!”

Đây là những giọt “nước mắt cá sấu” của tập đoàn CSVN, đồng minh anh em, dùng cùng sách lược với ISIS, nhỏ lệ thương xót Paris.

Chúng ta cũng đã biết bọn khủng bố tấn công vào Paris, ngoài các mục tiêu có đông người như nhà hát Bataclan, sân vận động Stade de France, bọn chúng còn dùng súng bắn xối xả vào các nhà hàng ăn, quán cà phê gồm Bar Le Carillon: một người chết, Le Petit Cambodge: 12 người chết, La Belle Equipe: 18 người chết, La Casa Nostra: năm người chết.

Bắn súng để giết người, thủ phạm có thể bị bắt, còn đặt mìn định hướng để giết người rồi chạy trốn, còn ghê tởm hơn ngàn lần.

“Chiến công” của ISIS đánh vào những mục tiêu phi quân sự ở Paris, có khác gì “chiến công” đánh vào nhà hàng Mỹ Cảnh trên bến Bạch Đằng, Sài Gòn, 50 năm về trước, đêm 25 Tháng Sáu, 1965 khi Việt Cộng đặt chất nổ để giết khách hàng ăn đang có mặt trên nhà hàng nổi, và giết luôn thường dân ngồi hóng mát hay đi dạo mát bên ngoài hoặc đang đứng chờ phà qua sông, tất cả là 42 người chết và khoảng 81 người bị thương.

Ngay sau đó đài phát thanh Hà Nội đã tuyên dương “thành tích vẻ vang của đội biệt động thành Sài Gòn” và cho rằng “…Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh tại bến Sài Gòn là một chỗ thu hút về đêm của những người Mỹ xâm lược… hàng trăm người Mỹ xâm lược và tay sai đã bị giết hoặc bị thương… Thêm nữa, nhiều xác chết của kẻ xâm lược vẫn còn bị đè dưới bàn ghế và mảnh vỡ của nhà hàng… Nhà hàng nổi Mỹ Cảnh bị thiệt hại nặng. Một tầu chiến của Mỹ đậu bên cạnh cũng bị nổ tung…”

Năm tên đặc công khủng bố của Việt Cộng đều được tặng thưởng huân chương chiến công. Tên Huỳnh Phi Long (bí danh Huỳnh Anh Dũng) 45 năm sau mới được ra Hà Nội và người ta phải “thốt lên kinh ngạc và thán phục về tài mưu trí, dũng cảm đã thực hiện thắng lợi trận đánh vang dội nhà hàng Mỹ Cảnh Sài Gòn năm 1965.”

Xin dẫn chứng một vài dòng “sử” khủng bố của Việt Cộng để các bạn đọc xa gần, nhất là những người lớn tuổi ở Sài Gòn có thể nhận ra sự láo khoét, trơ tráo của những cái loa tuyên truyền bịp bợm của Cộng Sản:

– “Chủ nhà hàng là một người tên Phú Lâm, một tay sai đắc lực của tình báo CIA.”

– “Cấp trên nhận định phá hủy được nhà hàng này coi như ta đã triệt được một cái vòi của Mỹ-Ngụy và sẽ khoét sâu được mâu thuẫn giữa Mỹ và Ngụy.”

– “Địch lại thường xuyên bố trí hai cảnh sát mang súng tiểu liên canh gác bên cầu thang.”

– “Trên bờ sông bốn tên cảnh sát đứng dàn hàng ngang súng tiểu liên cầm tay, hai tên công an chìm đi lại ngay bãi trống đối diện nhà hàng.”

– “Dưới sông, an ninh hải quân của địch tuần tra liên tục.”

– “Tại các ngã tư địch tăng cường xe bọc thép và bọn lính dã chiến hình thành thế bảo vệ quanh mục tiêu.”

– “Một tầu chiến của Mỹ đậu bên cạnh nhà hàng Mỹ Cảnh cũng bị nổ tung!”

– “Vài phút sau, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cũng có mặt và chứng kiến cảnh tan nát này đã lắc đầu thất vọng và ủ rũ cúi đầu!”

Một cái nhà hàng ăn tầm thường trong trăm nghìn nhà hàng ở Sài Gòn vào năm 1965, mà được bố trí cẩn mật như thế sao?

Đánh mìn vào một nhà hàng ăn để giết người không khó. Để phịa ra chiến công, truyền thông Việt Cộng đã tô vẽ cho nhà hàng này thành một chiến lũy hay một pháo đài bằng thép. Sử Cộng Sản mô tả Mỹ Cảnh có cảnh sát chìm nổi, có xe thiết giáp và binh sĩ dã chiến bảo vệ, có an ninh hải quân tuần tra liên tục và một tàu chiến của Mỹ đậu bên cạnh!

Xin thưa với bạn đọc, cũng như những người Sài Gòn có sự hiểu biết và có đôi mắt quan sát, ngay cả Phủ Tổng Thống VNCH hay Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn cũng không thể nào được bảo vệ cẩn mật như nhà hàng Mỹ Cảnh được Việt Cộng mô tả trong sử sách như thế! Điều này, khốn nạn thay, có thể lừa được người dân sống trong vùng “giải phóng” bên kia sông Bến Hải và lũ trẻ con mang “khăn quàng thắp đỏ bình minh” (lời nhạc TCS) mà thôi.

Tôi chỉ nêu ra một trong trăm nghìn chiến công của “cách mạng.” Đặt mìn xe đò, tàu lửa, nửa đêm vào nhà cắt cổ người hoặc thả trôi sông, pháo kích vào trường tiểu học, ám sát các viên chức miền Nam Việt Nam như Giáo Sư Nguyễn Văn Bông và Luật Sư Trần Văn Văn, đập đầu chôn sống dân Huế tay không trong Tết Mậu Thân, cho pháo binh bắn vào đoàn thường dân di tản như “đại lộ kinh hoàng” hay tỉnh lộ 7B, không phải là những cuộc ra quân đối đầu quân sự, mà chính là những sự giết chóc khủng bố.

Hy vọng là chính phủ Việt Nam không treo cờ rũ hay gửi điện văn, hoa, nến để chia buồn và tưởng niệm những nạn nhân của các vụ khủng bố ở Paris, ở Ankara, ở Kuwait… Tôi chỉ yêu cầu một điều, xin các “đồng chí” chịu khó cúi xuống nhìn lại hai bàn tay của mình.

Trung Quốc muốn biến Việt Nam thành ‘chư hầu kiểu mới’

Trung Quốc muốn biến Việt Nam thành ‘chư hầu kiểu mới’

Giới chức Việt Nam chuẩn bị quốc kỳ Trung Quốc và Việt Nam trước lễ đón tiếp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hà Nội, ngày 6/11/2015.

Giới chức Việt Nam chuẩn bị quốc kỳ Trung Quốc và Việt Nam trước lễ đón tiếp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Hà Nội, ngày 6/11/2015.

VOA Tiếng Việt

15.12.2015

Nhiều nhân sỹ, trí thức có tiếng mới đây đã nhận định như vậy, và cho rằng Trung Quốc đang dùng “những lời hoa mỹ về hòa bình, và hữu nghị” để bành trướng biển Đông.

Trong bức thư ngỏ gửi cho Bộ Chính trị cũng như toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn 100 người kêu gọi giới lãnh đạo trong nước phải có “đối sách đúng đắn bảo vệ độc lập, chủ quyền chống mưu đồ và hành vi bành trướng của Trung Quốc”.

Bức thư có đoạn: “Thời gian gần đây, trong khi vẫn dùng những lời hoa mỹ về hòa bình, hữu nghị, nhà cầm quyền Trung Quốc đã có những bước leo thang thực hiện mưu đồ bành trướng trên Biển Đông bất chấp luật pháp quốc tế, không chỉ trắng trợn xâm phạm chủ quyền của Việt Nam mà còn gây bất ổn cho hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới”.

Ông Trần Bang, cựu chiến binh cuộc chiến biên giới Việt – Trung, cho VOA Việt Ngữ biết lý do ông ký vào bức thư ngỏ:

“Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lùi, lùi liên tục. Để mà giữ được quyền lãnh đạo thì họ cứ chấp nhận lùi từng bước, lùi từng bước. Họ cứ nói là giữ nguyên hiện trạng, và sử dụng chiêu bài ‘4 tốt, 16 chữ vàng’ mà Trung Quốc mớm cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Đấy là âm mưu rất là thâm độc, biến Việt Nam trở thành lệ thuộc. Sự lệ thuộc này không những chỉ là lệ thuộc về tư tưởng mà còn về cả kinh tế và rất nhiều thứ nữa. Trung Quốc nó cứ lấn dần. Họ vẫn cứ dùng chiêu bài cộng sản, hai đảng anh em, hai nước anh em để mà xâm lăng. Họ tôn tạo các đảo, xây hải đăng, xây thành phố trên các hòn đảo mà họ chiếm của Việt Nam thì rõ ràng họ đang xâm lược Việt Nam. Phải khẳng định họ là kẻ thù, chứ không thể là bạn được”.

Bức thư ngỏ được công bố vào lúc Việt Nam đang chuẩn bị cho Đại hội đảng lần thứ 12, và theo dự kiến, cuộc họp quan trọng này sẽ chọn ra các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam.

Tuy nhiên, theo nội dung bức thư ngỏ, các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương chuẩn bị trình Đại hội lần thứ 12 “mặc dù viết rất dài nhưng nặng về nhận định và chủ trương sáo mòn, chưa nhìn đúng sự thật, chưa nêu rõ thực trạng hiểm nguy mà đất nước và nhân dân ta đang đối mặt, đặc biệt là chưa phân tích thẳng thắn nguyên nhân dẫn tới thực trạng đó”.

“ Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam lùi, lùi liên tục…Trung Quốc nó cứ lấn dần. Họ [Bắc Kinh] vẫn cứ dùng chiêu bài cộng sản, hai đảng anh em, hai nước anh em để mà xâm lăng. Họ tôn tạo các đảo, xây hải đăng, xây thành phố trên các hòn đảo mà họ chiếm của Việt Nam thì rõ ràng họ đang xâm lược Việt Nam. Phải khẳng định họ là kẻ thù, chứ không thể là bạn được”.

Ông Trần Bang, cựu chiến binh cuộc chiến biên giới Việt-Trung, nói.”

Ngoài ra, thư ngỏ cũng cho rằng sự phát triển của đất nước “bị kìm hãm chủ yếu là do Đảng Cộng sản Việt Nam từ nhiều năm nay dẫn dắt cả dân tộc đi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô-viết dựa trên chủ nghĩa Mác – Lênin”.

Bức thư có đoạn viết: “Đường lối sai lầm theo ý thức hệ cùng với bộ máy cầm quyền nhiều khuyết tật cũng không dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc để có đối sách đúng đắn bảo vệ độc lập, chủ quyền chống mưu đồ và hành vi bành trướng của Trung Quốc”.

Về khả năng hồi đáp của chính quyền đối với thư ngỏ, cựu chiến binh Trần Bang nói:

“Tôi cho rằng họ cũng có tham khảo một chút nào đó. Tuy nhiên là họ vẫn cứ theo lý thuyết cộng sản của họ là dùng sức mạnh. Họ còn nắm được chính quyền, họ còn nắm được quân đội, công an, còn nắm được bạo lực thì chính quyền của họ sẽ theo con đường học thuyết Mác – Lê nin, tức là con đường giành chính quyền bằng bạo lực, và giữ chính quyền bằng bạo lực. Hiện nay họ đang ở thế mạnh so với những người như chúng tôi, những người chỉ có tri thức trong đầu, không có sức mạnh cơ bắp, sức mạnh quân sự. Tôi cho rằng họ chưa chắc đã nghe theo thư ngỏ này, nhưng mà chúng tôi vẫn coi họ là người Việt Nam nên chúng tôi hành xử theo hướng là đấu tranh hòa bình”.

Năm ngoái, khi quan hệ Việt Nam – Trung Quốc rơi xuống mức thấp nhất trong nhiều thập kỷ vì giàn khoan dầu gây tranh cãi của Bắc Kinh, hàng chục đảng viên lão thành và các nhân sỹ, trí thức có tiếng ở trong nước viết một bức thư ngỏ gửi Ban chấp hành trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó kêu gọi “nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nhằm phát huy thế mạnh chính nghĩa” của Việt Nam.

Giáo sư Tương Lai, khi ấy, nói với VOA Việt Ngữ rằng đã đến lúc “thức tỉnh” các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam “còn mơ hồ về cái gọi là ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, về những 4 tốt, về những 16 chữ vàng” trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Ngoài việc đưa Trung Quốc ra tòa, các đảng viên lão thành còn gợi ý rằng Việt Nam cần chủ động liên kết với các nước khác.

Hàng chục hộ dân lâm cảnh màn trời chiếu đất

Hàng chục hộ dân lâm cảnh màn trời chiếu đất

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-12-15

12380733_440947832765478_1513067742_o-620

Cảnh cưỡng chế khu chung cư ở Quận Bình Thạnh, TP. HCM hôm 15/12

Ảnh do cư dân cung cấp

Your browser does not support the audio element.

Hôm 15/12, những hộ gia đình đầu tiên trong số 50 hộ dân ở khu chung cư Quận Bình Thạnh, TP. HCM lâm cảnh màn trời chiếu đất do bị cưỡng chế mà không nhận được tiền bồi thường để tái định cư.

Ông Trương Văn Chẳng, 61 tuổi, cư dân ở khu chung cư Phường 22, Quận Bình Thạnh, TP. HCM cho biết:

“Hôm nay họ kéo lực lượng gần 400 người xuống cưỡng chế, đuổi ra khỏi nhà khoảng 7 hộ. Không có đồng bạc. Không có nơi tái định cư. Họ đem lực lượng vô, phá cửa xông vào, đuổi người nhà ra ngoài, đồ đạc bị chở đi mất hết. Bây giờ chỉ còn có bộ đồ dính trên người. Thiệt đau xót quá!”

Đó là lời kêu than vừa rồi là của gia đình ông Chẳng cùng 6 hộ gia đình lân cận bị cưỡng chế nhà từ sáng sớm hôm thứ Ba, ngày 15 tháng 12.

Ông Nguyễn Văn Ân, một chủ hộ cũng là nạn nhân trong vụ cưỡng chế, kể lại những gì xảy ra với Đài ACTD:

“ Họ đem lực lượng vô, phá cửa xông vào, đuổi người nhà ra ngoài, đồ đạc bị chở đi mất hết. Bây giờ chỉ còn có bộ đồ dính trên người. Thiệt đau xót quá!
– Ông Trương Văn Chẳng”

“Đọc lệnh xong rồi thì chúng tôi xin chưa tới ngày 15/1 nên yêu cầu ngưng cưỡng chế rồi sau này bàn thảo tiếp khi gặp chủ đầu tư. Họ nhất quyết làm, mang vòi cứu hỏa tới chuẩn bị xịt. Lấy kềm cộng lực cắt, đập cửa. Họ đem cơ động tới khiêng đồ ra, lấy đồng hồ nước, cắt dây điện, lấy đồng hồ điện rồi đập hết. Vừa xong thì lấy sắt có khe, lấy hàn điện hàn ngang rồi lấy hàng rào B40 bọc kín không cho vô nhà. Bà con quay phim bị lấy, đập máy, không cho ghi hình ảnh gì hết”.

Cuộc sống yên ổn của người dân khu chung cư Quận Bình Thạnh bắt đầu bị xáo trộn khi họ nhận được thông báo phải di dời theo “giai đoạn 2” của dự án có tên “13-14” hồi năm 2003 với thông tin sẽ được nhận tiền bồi thường để hỗ trợ tái định cư. Ông Nguyễn Văn Ân nhắc lại nội dung ghi rõ trong tờ thông báo bản sao mà cư dân nhận được từ Thành Ủy:

“Bản photo của UBND TP. HCM có ghi rõ rằng dự án này từ Thanh niên Xung phong bàn giao qua cho Công ty Nông sản Vinh Phát. Vinh Phát có trách nhiệm bồi thường và có trách nhiệm hỗ trợ tái định cư cho người dân. Nếu có sự khiếu kiện thì Công ty Vinh Phát hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.

Các hộ cư dân đến gặp cơ quan chức năng địa phương và được thông báo giá bồi thường theo khung giá năm 2003 khỏang 15 triệu đồng/m2. Những người nhận tiền phải mua lại căn hộ ở khu chung cư Mỹ An, thuộc Quận Thủ Đức với giá gấp đôi. Một số hộ dân đồng ý nhận tiền bồi thường và bù thêm tiền để chuyển đến ở chung cư được chỉ định. Tuy nhiên, các căn hộ ở đó không đảm bảo chất lượng và họ đang trong quá trình tranh tụng.

50 hộ cư dân còn lại ở khu chung cư Bình Thạnh những năm qua đã nhiều lần yêu cầu cơ qua chức năng cho gặp gỡ với chủ đầu tư dự án là Công ty Nông sản Vinh Phát để thương thuyết về giá cả bồi thường thỏa đáng nhưng nguyện vọng của họ chưa bao giờ được đáp ứng cho đến ngày tiến hành cưỡng chế vào hôm 15 tháng 12 năm 2015.

Người dân lo lắng

12369539_440947819432146_255200309_o-400

Một gia đình ngồi trước căn hộ bị lưới B40 ngăn trong đêm 15 tháng 12. Ảnh do cư dân cung cấp

Cuộc sống bấp bênh không được phép sửa chửa hay kinh doanh, buôn bán vì dự án treo “13-14” này của 50 hộ dân ở khu chung cư Quận Bình Thạnh được mô tả “sống trong tâm trạng bị khủng bố tinh thần” kéo dài từ năm 2003 cho đến nay. Hồi cuối tháng 11, các hộ gia đình nhận được thông báo của Phường 22 rằng sẽ tiến hành cưỡng chế. Các hộ dân đã chạy vạy đến UBND TP. HCM để kêu cứu nhưng họ được yêu cầu trở về Phường 22, Quận Bình Thạnh. Buổi gặp gỡ giữa các hộ dân với Phó Chủ tịch Phường là ông Hồ Phương kết thúc bằng câu nói “Chúng tôi sẽ thực hiện lệnh cưỡng chế như đã thông báo”.

Một bản thông báo cưỡng chế đối với 50 hộ dân từ ngày 12/12/15 cho đến ngày 15/1/16 được dán trên vách tường ngay đầu khu phố. Hàng trăm cư dân sống trong cảnh lo lắng, tuyệt vọng đến khốn cùng. Một bức ảnh Hòa Ái có được cho thấy các cư dân ngồi vật vựa trước hành lang căn hộ của mình đã bị lưới B40 vây kín trong đêm 15 tháng 12. Ông Trương Văn Chẳng than thở với Đài RFA:

“Họ cứ hành xử theo quyền lực của mình gây đau khổ cho người dân. Tôi không hiểu Quận Bình Thạnh và Phường 22, họ coi con người còn thua cọng rác nữa. Xin lỗi người ở tù, đêm người ta còn chổ nằm đàng hoàng mà tại sao gia đình tôi 16, 17 người bị như vầy, chỉ có bộ đồ đi ra khỏi nhà thôi?”

Câu hỏi đặt ra các hộ dân sẽ làm gì trong cảnh màn trời chiếu đất? Cư dân của 7 hộ gia đình bị cưỡng chế đầu tiên trả lời câu hỏi của Hòa Ái rằng họ không không biết làm gì vì không còn niềm tin cũng như không biết bấu víu vào đâu khi trên người chỉ vỏn vẹn 1 bồ độ dính thân. Họ cho biết trước đó đã từng đến Thành Ủy nhờ xem xét nhưng không được giải quyết mà còn bị áp tải lên xe. Ông Nguyễn Văn Khá nhớ lại:

“Hôm lên Ủy ban bị bắt đẩy lên xe. Mấy bà già về bệnh luôn. Còn mấy người trẻ cũng sợ”.

Nỗi sợ hãi không chỉ thế mà sự hoảng sợ sẽ mãi ám ảnh những đứa trẻ thơ lẫn cả những người già gần đất xa trời tại khu chung cư Bình Thạnh khi hàng trăm công an xuất hiện sáng ngày 15 tháng 12 làm thay đổi cuộc đời họ thành những kẻ vô gia cư.

Lời chia sẻ cuối cùng của những cư dân nơi đây mà Hòa Ái ghi nhận được là họ không biết có nên viết đơn gửi Chính phủ xin được cho vào tù vì ít ra họ còn được có chốn ăn ngủ và có nơi che mưa nắng qua ngày.

Về hay ở?

Về hay ở?

Cát Linh, phóng viên RFA
2015-12-14

000_Hkg10120669

Một buổi lễ tốt nghiệp đại học được tổ chức tại Văn Miếu, Hà Nội vào ngày 18 tháng 11 năm 2014.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Du học là một ước mơ lớn của tất cả những học sinh Việt Nam từ xưa đến nay. Có rất nhiều người đã đỗ đạt thành danh và quay trở về. Nhưng hình như, thời gian đã chứng minh đó là những người của “muôn năm cũ’. Còn những học sinh thời nay, khi có cơ hội nhận được nền nền giáo dục nước ngoài, thì đa số họ chọn con đường ở lại. Điều này gần đây trở thành một vấn đề được đưa ra tranh luận rất nhiều, và có nhiều phản ứng khác nhau về việc “về hay ở”.

Tư duy quản lý cũ kỹ

Trong tuần vừa qua, dư luận trong nước và cả cộng đồng mạng có rất nhiều tranh luận liên quan đến việc Tiến sĩ Doãn Minh Đăng, giảng viên trường ĐH Kỹ thuật-Công nghệ Cần Thơ, người mà truyền thông trong nước cho là đang bị gây khó dễ do nói xấu nhà trường trên facebook cá nhân.

Vấn đề đáng chú ý đó là Doãn Minh Đăng cũng chính là cựu thí sinh của cuộc thi nổi tiếng Đường lên đỉnh Olympia, tốt nghiệp một trường đại học danh giá ở Hà Lan bằng ngân sách của thành phố. Sau đó anh đồng ý về VN công tác nghiên cứu khoa học và giảng dạy.

Sau khi sự việc của Doãn Minh Đăng được nói đến trên truyền thông, rất nhiều những người từng là thủ quân, á quân của Đường lên đỉnh Olympia, lên tiếng về sự lựa chọn ở lại quốc gia mà họ đã tiếp nhận nền giáo dục. Quan điểm của họ nhận được nhiều sự ủng hộ của cộng đồng Việt Nam. Ví dụ như Nguyễn Thành Vinh, á quân của mùa Olympia đầu tiên, sang Úc du học sau khi giành được học bổng của chính phủ Úc. Hiện nay, Nguyễn Thành Vinh đang có cuộc sống và công việc ổn định ở thành phố Perth, miền Tây nước Úc. Trong cuộc trả lời phỏng vấn truyền thông trong nước về sự việc của Tiến sĩ Doãn Minh Đăng, anh nói rằng: “Câu chuyện của Doãn Minh Đăng là một trong những lý do để một số du học sinh như chúng tôi cảm thấy mình cần có những lựa chọn khác mà không nhất thiết phải về nước làm việc.”

Trong rất nhiều những lý do Nguyễn Thành Vinh cho là không nên quay về sau khi học xong, thì câu nhận định “về nước là lãng phí cho cả hai bên’ của cựu thí sinh này gây chú ý nhiều nhất cho dư luận.

Một người nữa, đó là Đỗ Thị Hồng Nhung, á quân mùa thứ hai của Đường lên đỉnh Olympia, hiện tại đang hoàn tất khoá học thạc sĩ ở Phần Lan, việc trở về nước cũng đang được cô suy tính.

Rất nhiều lý do được chính người trong cuộc và dư luận đưa ra. Trong đó, lý do lớn nhất mà theo cuộc khảo sát của viện John Von Newmann thuộc trường Đại học quốc gia VN đưa ra đó là môi trường làm việc ở VN không thích hợp cho việc nghiên cứu và làm việc của họ.

Câu chuyện của Doãn Minh Đăng nói riêng và những du học sinh khác nói riêng, được giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, người từng là một trong ba sinh viên xuất sắc của Việt Nam nhận học bổng du học tại vương quốc Bỉ, và sau nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy ở châu Âu, ông quay về nước và làm cố vấn cho trường Đại học Việt Đức, cho biết nhận định của ông.

“Ở Việt Nam hiện nay, tuy có một số trường tương đối là có một chút tiến bộ. Nhưng đại bộ phận các trường Việt Nam thì tư duy quản lý của họ cũng rất là cũ kỹ, và họ vẫn chưa tôn trọng cái tự do học thuật, tự do chọn lựa của nhà khoa học đã thành danh, tiến sĩ của các nước tiên tiến về nước làm việc. Do đó có những mâu thuẫn xảy ra. Các nhà khoa học trẻ khi làm việc thì gặp rất nhiều những khó khăn, đừng nói là những khó khăn về tài chánh, ngay cả môi trường làm việc cũng gặp những khó khăn rất nan giải.”

“Rừng nào cũng như rừng Amazon thì đâu cần người trồng cây nữa”

Bên cạnh những người ủng hộ quan điểm của người ở lại, như Nguyễn Thành Vinh, thì cũng có những người nhìn sự việc về hay ở bằng một cái nhìn khác. anh Nguyễn Quang Thạch, người đã bỏ ra gần 20 năm để xây dựng chương trình Sách hoá nông thôn nhìn sự đóng góp của từng cá nhân ở một góc độ khác. Anh cho biết:

“Theo tôi thì để xã hội Việt Nam để tốt đẹp như những quốc gia mà các bạn đang sống ấy, thì tôi nghĩ hiện tình xã hội Việt Nam là một mảnh đất màu mỡ cho mọi người cống hiến và sáng tạo. tôi nghĩ rằng đang còn sa mạc thì cần người trồng cây, còn rừng nào cũng như rừng Amazon thì đâu cần người trồng cây nữa. Nghĩa là mỗi cá thể hãy đối diện với mình thật rõ ràng để xem mình có năng lực gì để cống hiến cho xã hội cho đất nước, đừng sợ rằng mình không được sử dụng, không được xã hội thừa nhận. Cứ hãy có sản phẩm đi đã. Chừng nào sản phẩm của ông ở mức nào thì xã hội thừa nhận mức đó.

Tôi vẫn luôn luôn cổ vũ cho việc các bạn trẻ Việt Nam khi học đã thành tài, đỗ đạt, qua thời gian tập sự thì tôi luôn cỗ vũ là quay về Việt Nam để giúp cho việc phát triển nền đại học của Việt Nam.
– Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng

Chẳng hạn như khi tôi mới đặt mục tiêu vận động cấp trường làm tủ sách phụ huynh thì cấp trường thừa nhận và áp dụng. Đến khi tốt rồi thì phòng giáo dục áp dụng và thừa nhận. Đến khi cấp sở áp dụng và có văn bản nhân rộng ra khắp tỉnh. Cái nỗ lực của tôi và người khác đã được thừa nhận và áp dụng. Bây giờ cấp Bộ đã mời chúng tôi, đối thoại với chúng tôi để tạo ra những chiến lược chủ trương hoá bằng văn bản.”

Có lẽ dư luận có sự quan tâm đến câu chuyện của Doãn Minh Đăng nhiều hơn vì cũng mới vào đầu tháng 11 vừa qua, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Ngọc Hoà, TP Hồ Chí Minh đã đưa ra câu hỏi về việc vì sao đa số sinh viên VN đi du học và chọn con đường ở lại. Ông dẫn chứng chính trường hợp của 13 học sinh nhận học bổng sang Úc du học của cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia” và 12 người trong số họ không quay về nước sau khi kết thúc chương trình học.

Như đã trình bày ở trên, tuy rằng Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng có đưa ra những nhận định của ông về thực trạng của môi trường giáo dục và điều kiện phát triển chuyên môn ở Việt Nam, nhưng ông vẫn có những thông cảm cho quyết định của người không quay về.

“Tôi vẫn luôn luôn cổ vũ cho việc các bạn trẻ Việt Nam khi học đã thành tài, đỗ đạt, qua thời gian tập sự thì tôi luôn cỗ vũ là quay về Việt Nam để giúp cho việc phát triển nền đại học của Việt Nam. Tôi là người luôn cổ vũ cho việc này. Tuy là tôi thông cảm cho những sự lựa chọn khác. Tôi nghĩ là có nhiều người có những chân đứng, có vị trí mà nó phù hợp để họ phát triển, cống hiến cái tài của họ mà họ ở lại. Và cũng có thể vì những lý do gia đình. Thú thật là tôi cũng thông cảm. Tôi thông cảm vì cái điều kiện ở Việt Nam có nhiều vấn đề đặt ra cho những người giáo viên trẻ này không có cái dũng khí, kiên nhẫn để mà thắng được những thách thức thì sẽ có rất nhiều khó khăn.”

Qua nhiều nhận định khác nhau của nhiều người thì có lẽ câu hỏi của ông đại biểu quốc hội Nguyễn Ngọc Hoà vẫn còn là một câu hỏi lớn chưa có lời đáp.

 

TPP: Tin mừng cho lao động Việt?

TPP: Tin mừng cho lao động Việt?

Công nhân làm việc tại một nhà máy sản xuất chăn mền, gối và đệm ở ngoại ô Hà Nội, ngày 27 tháng 1, 2015.

Công nhân làm việc tại một nhà máy sản xuất chăn mền, gối và đệm ở ngoại ô Hà Nội, ngày 27 tháng 1, 2015.

Trà Mi-VOA

13.12.2015

Để được vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP do Mỹ dẫn đầu, Việt Nam đồng ý một số nhượng bộ bao gồm sửa đổi hoặc ra luật mới chấp nhận cho công nhân lập công đoàn độc lập và đình công.

Việt Nam cũng sẽ cho các công đoàn được phép tìm kiếm sự hỗ trợ từ các công đoàn quốc tế như Liên đoàn lao động và Hiệp hội của các tổ chức công nghiệp Hoa Kỳ.

Theo thỏa thuận, 5 năm sau khi TPP có hiệu lực, nếu Hà Nội không tuân thủ các yêu cầu đã cam kết, Mỹ có thể ngưng các lợi ích giao thương với Việt Nam.

Mỹ cho rằng đây là cơ hội tốt nhất từ nhiều năm nay để khuyến khích cải tổ thể chế ở Việt Nam, thúc đẩy nhân quyền bị nhiều tai tiếng của Hà Nội.

Kỳ vọng này có cơ sở hay không qua đánh giá và trải nghiệm thực tế của giới hoạt động trong nước tranh đấu vì quyền lợi của công nhân? Viễn ảnh và triển vọng của công đoàn độc lập tại Việt Nam hậu TPP thế nào? Tạp chí Thanh Niên hôm nay ghi nhận qua cuộc trao đổi với Đỗ Thị Minh Hạnh và Trương Minh Đức, hai nhà hoạt động bênh vực quyền lợi công nhân vừa bị hành hung và bắt giữ cuối tháng rồi tại Đồng Nai khi đang tư vấn miễn phí cho công nhân công ty Yupoong Vietnam về các quyền lao động và thành lập công đoàn độc lập. Minh Hạnh và Minh Đức thuộc tổ chức Lao Động Việt ngoài nhà nước không được công nhận, chuyên bảo vệ quyền lợi công nhân.

Minh Hạnh: Khi TPP được đưa ra có điều khoản dành cho người lao động thì quả là đã mở ra một thế giới mới cho người lao động Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải đơn giản có thể thực hiện được những điều khoản TPP tại Việt Nam.

“ Công nhân bị chi phối bởi giới chủ và chính quyền. Họ luôn gây khó khăn cho công nhân. Khi công nhân hợp tác với nhau đấu tranh đòi quyền lợi thì luôn bị áp lực từ chính quyền địa phương, bị công an cho là tụ tập gây rối, kích động. Khi công nhân có bức xúc với giới chủ, nhiều khi bị chủ thuê côn đồ đe dọa. Đó là thực tế mà công nhân Việt Nam đang đối mặt.

Nhà hoạt động cho quyền lợi công nhân Trương Minh Đức nói.”

Trà Mi: Là nhà hoạt động công đoàn, Hạnh thấy thực tế của người công nhân Việt Nam hiện nay thế nào?

Minh Hạnh: Công nhân hiện nay thường bị chấm dứt hợp đồng từ phía công ty. Nhiều công ty còn hạ nhục, xúc phạm nhân phẩm công nhân. Đồng lương thấp, người công nhân không đủ khả năng nuôi gia đình. Con của họ nhiều trường hợp không được đến trường. Có những trường hợp hai vợ chồng lên thành thị làm công nhân mà không đủ gửi tiền về quê nuôi con.

Minh Đức: Công nhân bị chi phối bởi giới chủ và chính quyền. Họ luôn gây khó khăn cho công nhân. Khi công nhân hợp tác với nhau đấu tranh đòi quyền lợi thì luôn bị áp lực từ chính quyền địa phương, bị công an cho là tụ tập gây rối, kích động. Khi công nhân có bức xúc với giới chủ, nhiều khi bị chủ thuê côn đồ đe dọa. Đó là thực tế mà công nhân Việt Nam đang đối mặt.

Trà Mi: Tổng Liên đoàn lao động, Liên đoàn lao động, và các tổ chức lao động cơ sở giúp ích như thế nào?

Minh Hạnh: Một công đoàn của một công ty, một là do chính công ty lập ra rồi trả lương, hai là công ty cử người ra để công nhân bầu. Do vậy, công nhân có bầu ai thì cũng nằm trong danh sách chịu sự chi phối của công ty. Công đoàn phí công nhân vẫn phải đóng hằng tháng. Đến cuối năm, công đoàn trích tiền đó ra mua vài ký đường hay vài lít dầu ăn cho công nhân, bảo là công đoàn lo cho công nhân. Thực tế không phải vậy, đó giống như là một sự ‘bỏ ống heo’ của công nhân để mua những thứ đó. Nhưng thật ra công nhân không cần những điều đó, họ cần bảo vệ quyền và lợi ích thực sự của họ. Quyền và lợi ích của công đoàn gắn liền với giới chủ và bị chi phối bởi nhà nước. Công đoàn lệ thuộc vào giới chủ, cho nên, khi xảy ra  tranh chấp công đoàn không đủ khả năng để bảo vệ công nhân.

Trà Mi: Công đoàn độc lập tại Việt Nam cho tới thời điểm này đã sẵn sàng ra đời hay chưa?

Minh Hạnh: Chưa. Họ sẵn sàng ra tay trù dập, đánh đập, sử dụng côn đồ để trấn áp. Như vụ Minh Hạnh và anh Đức bị đánh vừa qua, họ còn trắng trợn hơn khi cho công an bắt Hạnh về đồn đánh đập như vậy. Công nhân Việt Nam chưa biết những quyền lợi của họ trong TPP. Họ phải công khai hóa các điều khoản của TPP cho công nhân hiểu rõ hơn về quyền thành lập công đoàn độc lập. Công nhân khát khao có được một nghiệp đoàn như vậy, nhưng còn nhiều khó khăn. Họ chưa biết phải làm thế nào khi vẫn còn nỗi lo sợ vì sự đàn áp, bắt bớ. Cho nên, lý thuyết là một chuyện, nhưng thực tế không phải đơn giản làm được.

Trà Mi: Vậy nên làm thế nào để Việt Nam có công đoàn độc lập thực chất? Điều kiện tiên quyết hiện nay các bạn nhìn thấy là gì?

Minh Đức: Thứ nhất, nhà nước phải công bố minh bạch về quyền lợi của công nhân khi lập công đoàn độc lập. Thứ hai, công nhân phải mạnh dạn kết nối lại với nhau. Việt Nam nếu có thiện chí như cam kết trong TPP, nên sớm luật hóa việc thành lập công đoàn độc lập và thay đổi những luật lệ về công đoàn.

Minh Hạnh: Trước mắt phải có sự quan tâm của nhiều người. Chẳng hạn như các nước tham gia TPP cần có tiếng nói và hành động cụ thể để công nhân Việt Nam tin tưởng vào đó mà thành lập nghiệp đoàn của riêng mình. Nếu Việt Nam vi phạm quyền của công nhân thì phải có tiếng nói bảo vệ cho công nhân. Hơn nữa, công nhân cần hiểu biết luật pháp, kiến thức về nghiệp đoàn. Chúng ta thấy hiện nay tiếng nói của công nhân Việt Nam chưa ra được bên ngoài. Những sự chèn ép, bóc lột công nhân cần phải được phơi bày ra thế giới bên ngoài để nhận được sự hỗ trợ để tạo niềm tin và hy vọng cho công nhân.

“ Họ sẵn sàng ra tay trù dập, đánh đập, sử dụng côn đồ để trấn áp. Như vụ Minh Hạnh và anh Đức bị đánh vừa qua, họ còn trắng trợn hơn khi cho công an bắt Hạnh về đồn đánh đập như vậy. Công nhân Việt Nam chưa biết những quyền lợi của họ trong TPP. Họ phải công khai hóa các điều khoản của TPP cho công nhân hiểu rõ hơn về quyền thành lập công đoàn độc lập…

Nhà hoạt động Đỗ Thị Minh Hạnh nói.”

Trà Mi: Ngoài sự quan tâm, hỗ trợ từ bên ngoài đối với người lao động Việt Nam. Còn ngay trong xã hội Việt Nam thì sao?

Minh Hạnh: Những người đấu tranh cho nhân quyền và các tổ chức xã hội dân sự đã bắt đầu quan tâm tới công nhân, nhưng chỉ quan tâm giống như một hiện tượng mới do TPP mang lại, chứ chưa thật sự sâu sắc lắm.

Trà Mi: Có cách nào nâng cao ý thức, sự quan tâm của xã hội Việt Nam đối với quyền của người lao động?

Minh Đức: Muốn làm những việc này, nhà nước Việt Nam cần xem các tổ chức xã hội dân sự là các tổ chức giúp đỡ người dân, trong đó có tổ chức Lao động Việt. Nhà nước cần cởi mở hơn, cần coi lại lời nói và hành động của họ.

Minh Hạnh: Nói cam kết thì Việt Nam đã cam kết nhiều rồi chứ không phải tới TPP mới có. Quan trọng là sự trừng phạt thế nào nếu vi phạm. Mới đây thôi, ngay sau khi vừa ký kết TPP, họ đã đánh đập các nhà hoạt động công đoàn như vậy, thử hỏi sắp tới các công đoàn độc lập sẽ được  hình thành thế nào, sẽ phải trải qua những khó khăn gì?

Minh Đức: Tôi mong sự giám sát, chế tài phải được thực hiện rất cụ thể thì mới mong đem lại thành quả tốt.

Minh Hạnh: Các tòa án thường nghiêng về giới chủ nhiều hơn vì họ chịu sự chi phối, ảnh hưởng của đảng và nhà nước. Cần có những cụ thể hóa trong vấn đề kiện tụng tranh chấp công đoàn. Công đoàn độc lập, nếu được thành lập, phải có quyền hạn tương đương với công đoàn nhà nước, được tham gia vào quá trình đề xuất và thay đổi luật lao động.

Trà Mi: Vậy công đoàn độc lập tại Việt Nam còn đề ra vấn đề tòa án độc lập?

Minh Đức: Đúng vậy. Nói về tòa án độc lập tại Việt Nam thì quả là một vấn đề nan giải. Muốn có tòa án độc lập tại Việt Nam đòi hỏi cơ chế của Việt Nam phải thay đổi nhiều hơn nữa. Công đoàn độc lập khi xảy ra tranh tụng mà xét xử không độc lập thì tôi e rằng chưa đi tới cái lợi cho người công nhân theo đúng nghĩa của nó. Việc ‘độc lập’ trong các lĩnh vực là điều rất mâu thuẫn và khó khăn cho xã hội Việt Nam hiện nay.

Trà Mi: Các bạn nhìn thấy viễn ảnh và triển vọng của công đoàn độc lập tại Việt Nam hậu TPP thế nào?

Minh Hạnh: Tuy khó khăn nhưng vẫn có kỳ vọng. Những cái trong TPP đã mở ra một thế giới mới. Dù khó khăn thế nào, chúng ta sẽ vẫn tiếp tục khơi dậy trong lòng những người công nhân ý thức và kiến thức để họ hiểu biết rõ ràng về công đoàn độc lập.

Minh Đức: Tôi mong các tổ chức lao động trên thế giới quan tâm hơn nữa tình hình lao động tại Việt Nam sau khi Việt Nam vào TPP, tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội dân sự trong nước giúp đỡ công nhân, hướng dẫn công nhân thành lập công đoàn độc lập. Dù khó khăn nhưng chúng tôi có nhiều phương cách để bảo vệ và hướng dẫn công nhân trong xu hướng sắp tới với xu hướng truyền thông và phong trào phát triển internet mạnh mẽ hiện nay. Mong các cơ quan truyền thông cũng quan tâm và giúp đỡ chúng tôi hơn nữa. Một khi các nước đã ký kết TPP với Việt Nam có những chế tài, tôi hy vọng rằng người công nhân Việt Nam có thể thay đổi được cuộc sống.

Trà Mi: Dù viễn ảnh công đoàn độc lập tại Việt Nam khó khăn, nhưng không phải vô vọng vì ngoài những áp lực từ quốc tế còn có những tiếng nói can đảm đã đổi bằng máu và sự tự do của riêng mình để bênh vực cho người lao động trong nước như các bạn đây. Mong nguyện vọng của các bạn sớm trở thành hiện thực với sự gia tăng nỗ lực và hợp đoàn với nhau trong những ngày hậu TPP. Xin chân thành cảm ơn các bạn đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này.

‘Ðả đảo công an – Ðả đảo đảng cộng sản’

‘Ðả đảo công an – Ðả đảo đảng cộng sản’
Nguoi-viet.com


Ngô Nhân Dụng

Nhà báo Trần Quang Thành mới đưa lên mạng Danlambao những hình ảnh người Việt Nam kỷ niệm Ngày Quốc Tế Nhân Quyền, ở Canada, ở Ðức. Nhưng đặc biệt nhất là quang cảnh những cuộc biểu tình tuần hành tại Hà Nội trong ba ngày, ngày 3, 4 và 10 tháng 12 năm 2015.

Cuộc biểu tình đầu tiên diễn ra tại công viên dựng tượng đài Lý Thái Tổ nằm bên bờ hồ Hoàn Kiếm đã bị công an đàn áp. Sáng hôm sau ngày 4 tháng 12, đồng bào quay trở lại tụ tập trước cửa “trụ sở tiếp dân” của đảng Cộng Sản ở ngôi nhà số 1 phố Ngô Thì Nhậm, quận Hà Ðông, Hà Nội. Tới ngày 10 tháng 12, đúng Ngày Quốc Tế Nhân Quyền, hàng trăm đồng bào lại mở một cuộc biểu tình bắt đầu từ trụ sở trên để biến thành một cuộc tuần hành qua các đường phố Quang Trung, Nguyễn Trãi dài hàng cây số.

Nhà báo tự do tị nạn Cộng Sản Trần Quang Thành đang sống tại nước Slovakia đã khéo trình bày các bức hình do chính các người đi biểu tình chụp cho thấy cả rừng biểu ngữ chen lẫn với những khuôn mặt các cụ già với cả các thiếu niên, phần lớn là các ông bà lớp tuổi trung niên.

Trong những đoàn hàng trăm người biểu tình, hầu như ai cũng cầm biểu ngữ, hoặc mỗi người một biểu ngữ nhỏ hoặc hai ba người mang một biểu ngữ lớn. Các biểu ngữ nhỏ dùng giấy bìa màu trắng chữ đỏ, biểu ngữ lớn dùng vải màu vàng chữ đỏ hoặc ngược lại vải đỏ chữ vàng, nét chữ viết rõ ràng có thể đọc được trong các bức hình, cho thấy các cuộc biểu tình này đã được chuẩn bị trước “rất kỹ.” Không những thế, mặc dù công an đã cướp mất nhiều biểu ngữ trong ngày 3 tháng 12 tại Bờ Hồ nhưng ngay hôm sau một số biểu ngữ cũ vẫn xuất hiện trở lại trên phố Ngô Thì Nhiệm. Ðiều này chứng tỏ những người tổ chức các cuộc biểu dương này phải được một phe cánh trong đảng cộng sản ngầm hỗ trợ. Nhưng không phải vì thế mà các cuộc tập họp quần chúng này không diễn tả đúng ý chí của người dân Việt Nam hiện nay.

Cả ba cuộc biểu tình được giới thiệu là quy tụ “Dân Oan Ba Miền” đấu tranh đòi nhà cầm quyền Cộng Sản phải trả lại quyền tư hữu đất đai tài sản của người dân. Nhưng đọc trên những biểu ngữ người ta thấy mục tiêu tranh đấu rộng hơn nhiều.

Những người biểu tình đã nhân danh các “Dân Oan” đòi nhà, ruộng, đất đai bị cướp là việc làm chính đáng để được mọi người hiểu và ủng hộ. Cho nên có những biểu ngữ nêu đích danh như “Tố cáo Lê Văn Nghĩa P chủ tịch Tiền Giang…” Một biểu ngữ khác viết “tố cáo chủ tịch Tây Ninh…” Trên nhiều biểu ngữ còn thấy nêu tên các tỉnh khác như trên một biểu ngữ là “Dân Oan Ðồng Nai,” hoặc Long An, Hải Dương, Thanh Hóa. Trên một bức hình thấy được một phần, có nêu tên “…Nguyễn Văn Ðẹn, Nguyễn Tấn Phước,… năm 2008… tỉnh Tiền Giang…”

Biểu ngữ đầy đủ nhất viết trên một tấm vải rộng: “Dân oan ba miền đấu tranh đòi nhà cầm quyền cộng sản phải trả lại quyền tư hữu đất đai tài sản của người dân.” Một tấm vải viết ngắn gọn hơn: “Trả quyền tư hữu đất đai cho dân!” Và một lời kêu cứu khác còn kêu gọi “Ðảng ơi! Cứu chúng tôi dân bị phá nhà cướp tài sản!” (Các dấu than do người tường thuật viết thêm). Với những lời lẽ đó chúng ta có thể nghĩ các người biểu tình vẫn không muốn đụng tới đảng Cộng Sản. Nhưng lại xuất hiện nhiều biểu ngữ khiến người ngoài thấy dân chúng đã dám tấn công thẳng vào đảng Cộng Sản!

Một tấm biểu ngữ viết: “Phản đối cộng sản cường quyền dùng bạo lực đàn áp khủng bố người dân.” Có người diễn tả một cách giản dị hơn: “Tôi không thích ÐCSVN!” Một tấm khác cho thấy đối với dân chúng chế độ Cộng Sản và chế độ công an là một, viết rõ ràng: “Còn đảng Cộng Sản, còn công an trị, dân ta còn mất quyền làm người.” Ðây là một trên các biểu ngữ trong các bức hình nhắc đến quyền làm người, khi các cuộc biểu tình nhằm đúng Ngày Quốc Tế Nhân Quyền. Tiếp theo là những khẩu hiệu đòi, “Trả lại quyền Tự do ngôn luận, Tự do báo chí, Tự do lập hội, Tự do tín ngưỡng cho người dân.”

Biểu ngữ viết “Còn đảng cộng sản, còn công an trị,…” là một câu trả lời cho khẩu hiệu của công an cộng sản viết rằng: “Ðảng còn thì mình còn!” Dân Việt Nam đã vạch rõ cái này còn và cái kia còn đều là tai họa cho người dân! Phần lớn các khẩu hiệu nêu ra đều nhắm thẳng vào chế độ đàn áp, phi nhân của công an mà những người biểu tình chính là các nạn nhân. Nhiều người biểu tình mang biểu ngữ: “Ðả đảo công an tra tấn, đánh đập, bức cung người dân vô tội;” hay “Bắt người vô tội để cướp đất là một tội ác.” Ông Trần Văn Sang, từ xã Dương Nội đã bị công an đánh gẫy chân trong nhà tù, ông bị bắt sau khi biểu tình dân oan đòi đất. Lần này ông ngồi trên xe lăn, với chiếc nạng chống bên cạnh, tham gia đoàn tuần hành mang tấm biểu ngữ viết: “Ðả đảo công an đánh Trần Văn Sang tàn phế.” Trong ngày 10 tháng 12, có người còn hiên ngang hô to khẩu hiệu “Ðả đảo đảng cộng sản.”

Ngoài anh Trần Văn Sang, rất nhiều người đã tham dự biểu tình để lên tiếng về những tai họa cho chính họ và gia đình họ do chế độ Cộng Sản gây ra. Trong cuộc tuần hành hình ảnh một em bé gái nổi bật với tấm áo đỏ viết hàng chữ tự giới thiệu: “Cháu Ðoàn Trương Anh Thư” với câu “Tuổi thơ của con bị bọn tham nhũng cướp mất!” Ðông đảo và bền chí nhất chắc là gia đình bà người bị tuyên án tử hình sau những phiên tòa xử không đúng luật. Họ mang các biểu ngữ đòi “Trả tự do cho tử tù Nguyễn Văn Chưởng, Lê Văn Mạnh, Hồ Duy Hải.” Những vụ “án oan” này đã sôi nổi trong dư luận suốt nhiều năm nhưng chế độ tư pháp của đảng Cộng Sản vẫn chưa nhận tội! Các hình ảnh được đưa ra nhiều lần cho thấy những nét đăm chiêu nhưng cương quyết của gia đình các nạn nhân. Trước các khuôn mặt buồn rầu của những người mẹ già, những bà vợ và các đứa con là các tấm bảng viết “Trả tự do con tôi!” “Trả tự do bố tôi!” “Trả tự do em tôi! Vân vân.

Những hình ảnh cuộc biểu tình và diễn hành do các nhà nhiếp ảnh Trịnh Bá Phương, Nguyễn Huy Tuấn và cô Trương Thanh Quang ở Tiền Giang đưa lên mạng, được nhà báo Trần Quang Thành biên tập thành những bản tin, kèm theo điệu hát bài “Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi.”

Trong cùng thời gian qua, trên mạng còn xuất hiện một đoạn video cho thấy cuộc biểu tình của giới tiểu thương Huế ở chợ Ðầu Mối Bãi Dâu vào ngày 1 tháng 12 năm 2015. Ðó là ngày hết hạn ghi danh để đổi sang khu chợ mới nhưng hàng trăm tiểu thương vẫn phản đối quyết liệt và không chịu dời chợ cũ.

Truyền thông trên mạng là một phương tiện phổ biến nhanh chóng và đầy đủ, có thể khích động các cuộc tranh đấu đòi tự do dân chủ của người dân các nước bị độc tài đàn áp. Ba cuộc biểu tình nhắm những mục tiêu khác nhau diễn ra liên tiếp tại Hà Nội khiến người ta nghi ngờ đằng sau có những cuộc tranh chấp phe phái của giới cầm quyền Cộng Sản, trước khi họ họp đại hội đảng vào năm tới. Trong số các biểu ngữ có nhắc đến một tên tuổi duy nhất, trong lời kêu gọi gửi cho Nguyễn Tấn Dũng. Chúng ta cũng không thể biết Nguyễn Tấn Dũng chủ mưu gây ra những cuộc biểu tình này, hay những phe chống Nguyễn Tấn Dũng mới đứng đằng sau xúi giục để làm hại Dũng!

Dù ai đứng đằng sau thì khi được dịp đi biểu tình phản kháng chế độ Cộng Sản đàn áp cướp tài sản dân lành, đánh, giết người vô tội, là các đồng bào của chúng ta đều sẵn sàng tham gia! Cần phải khuyến khích nhiều cuộc biểu tình như vậy, ở khắp nơi, dù do bất cứ ai trong đảng Cộng Sản muốn dùng thủ đoạn đó trong cuộc tranh giành quyền lợi lẫn nhau!  Nếu các cán bộ cấp tỉnh, cấp huyện dám thi hành thủ đoạn này thì những người “dân oan” cũng sẵn sàng tham dự để dùng gậy ông đập lưng ông! Những biểu ngữ “Ðả đảo công an – Ðả đảo đảng cộng sản” càng được trưng lên ở nhiều nơi, càng nhiều lần, thì ngày dân ta được hưởng dân chủ tự do càng đến gần hơn!

Phỏng vấn Việt Khang ngay khi anh về tới nhà

Phỏng vấn Việt Khang ngay khi anh về tới nhà

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-12-14

Nhạc sĩ Việt Khang (giữa) ngày ra tù.

Courtesy of haedc.org

Your browser does not support the audio element.

Nhạc sĩ Việt Khang sau bốn năm thụ án với tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước được trả tự do vào sáng ngày 14/12/2015.

Từ nhà riêng tại thành phố Mỹ Tho nhạc sĩ Việt khang dành cho đài Á châu tự do cuộc phỏng vấn sau đây, do Kính Hòa thực hiện.

Kính Hòa: Đầu tiên xin chúc mừng anh được trả tự do! Sức khỏe anh hiện thế nào ạ?

Nhạc sĩ Việt Khang: Tôi khỏe nhưng mới ra tù nên sức khỏe chưa ổn định.

Kính Hòa: Anh được trả tự do ngày hôm qua…

Nhạc sĩ Việt Khang: Tôi mới về đây thôi chứ không phải hôm qua, tôi đi xe từ trại giam về đến đây là 3, 4 giờ chiều.

Kính Hòa: Mấy giờ thì họ đưa anh ra cổng trại giam để người nhà đưa về?

Nhạc sĩ Việt Khang: Không, không có người nhà, mà người ta đưa tôi về. Tôi còn cái án quản chế hai hay ba năm gì đó. Người ta không cho người thân đón tôi, mà trong nhà trại có người đưa tôi về. Sáng đi từ trại là 7 giờ, rồi người ta còn ghé ăn uống nữa. Tôi thì ăn uống không được, lý do là tâm trạng biết ở nhà đang chờ, xe cộ lại chậm chạp.

Kính Hòa: Cảm tưởng của anh như thế nào khi được trả tự do mặc dù còn bị quản chế?

Nhạc sĩ Việt Khang: Tôi cảm thất rất hạnh phúc sau những gì xảy ra với tôi. Bốn năm tôi xa nhà, bốn năm đó đổi lại là rất nhiều người đã thuwong mến tôi, luôn muốn tôi có sức khỏe để vượt những khó khăn mà tôi bắt buộc phải trải qua. Tất cả những tấm lòng đó tôi không thể nói được bằng lời vì không thể tả nó bằng lời.

Tôi cảm thấy rất sung sướng và hạnh phúc, đồng bào đã yêu thuwong tôi, đồng bào cảm thông, luôn muốn rằng tôi khỏe mạnh để vượt qua  những khó khăn của cuộc sống của tôi cũng như của con đường tôi đi.

Nhân dịp này tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả những sự quan tâm, động viên, những lời cầu nguyện cho tôi, tất cả những gì mà các ông bà cô bác, các anh chị, các bạn, các em đã dành cho tôi, và tôi ghi nhận cái điều đó. Trong cuộc đời của tôi tôi không thể tưởng tượng ra những gì mà đồng bào cũng như bà con đã thương mến tôi như vậy, tôi cảm ơn rất nhiều.

Kính Hòa: Bây giờ nhìn lại các nhạc phẩm anh sáng tác, mà vì những nhạc phẩm đó anh bị tù đày, anh có cảm thấy một sự hối tiếc hay không?

Nhạc sĩ Việt Khang: Chắc chắn là tôi không hối tiếc. Tất cả những gì tôi làm cũng góp một phần chứ không phải là vô nghĩa đối với tôi. Tôi góp một phần để nói lên tiếng nói của trái tim của người Việt nam.

Tôi là một người nghệ sĩ thì yêu nước theo cái cách của một nghệ sĩ, có gì đâu mà hối tiếc. Tôi được sự cảm thông của rất nhiều người, cảm thông cho nỗi niềm trong bài hát của tôi. Bao nhiêu đó thôi là tôi cũng cảm thấy hạnh phúc.

Kính Hòa: Dự định trước mắt và lâu dài của anh như thế nào? Anh có tiếp tục con đường nghệ thuật hay không?

Nhạc sĩ Việt Khang: Tôi phải sắp xếp lại chuyện gia đình, vì gia đình cũng có những chuyện lớn xảy ra với tôi, tôi phải có thời gian sắp xếp.

Còn công việc thì là kiếp tằm nhả tơ, ai trong giới nghệ sĩ như tôi cũng vậy thôi, khó mà bỏ nghề lắm. Ca hát, chơi nhạc, làm đệp cho đời, cái đó là tất nhiên.

Kính Hòa: Cảm ơn anh Việt Khang đã dành cho chúng tôi những giây phút quí báu khi anh vẫn còn mệt mỏi. Chúc anh có nhiều sức khỏe tiếp tục con đường nghệ thuật mà anh nói với chúng tôi.

Nhạc sĩ Việt Khang: Cám ơn anh và tất cả những người đã quan tâm đến tôi.