Tuyên bố của Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius

Tuyên bố của Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius

FB Đại sứ Ted Osius

Thông cáo báo chí

Ngày 29 tháng 12 năm 2015

Tôi quan ngại sâu sắc do những báo cáo gần đây về các vụ sách nhiễu và giam giữ các nhà hoạt động nhân quyền ôn hòa, trong đó có vụ bắt giữ ông Nguyễn Văn Đài ngày 16 tháng 12, cũng như thông tin về việc ông Hoàng Đức Bình, bà Đỗ Thị Minh Hạnh và các nhà hoạt động vì quyền lao động ôn hòa khác bị cảnh sát hành hung ở thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 25 tháng 12.

Xu hướng đáng lo này, tại thời điểm này, đe dọa làm lu mờ sự tiến bộ của Việt Nam về nhân quyền trong những năm gần đây. Tôi thúc giục chính phủ Việt Nam điều tra các báo cáo về các cuộc hành hung ngay lập tức và buộc bất kỳ quan chức có trách nhiệm phải giải trình.

Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam đảm bảo rằng luật pháp và hành động của nước mình nhất quán với các nghĩa vụ và cam kết quốc tế của mình. Chúng tôi cũng thúc giục chính phủ thả vô điều kiện tất cả tù nhân lương tâm và cho phép mọi cá nhân ở Việt Nam bày tỏ quan điểm chính trị của họ mà không sợ bị trả thù.

MEDIA RELEASE:

Statement by U.S. Ambassador to Vietnam Ted Osius

December 29, 2015

I am deeply concerned by recent reports of harassment and detentions of peaceful human rights advocates, to include the December 16 arrest of Nguyen Van Dai, and information that Hoang Duc Binh, Do Thi Minh Hanh, and other peaceful labor rights activists reportedly were assaulted by police in Ho Chi Minh City on December 25.

This disturbing trend, at this time, threatens to overshadow Vietnam’s progress on human rights in recent years. I urge the Vietnamese government to investigate reports of these assaults immediately and to hold accountable any officials responsible.

The United States calls on Vietnam to ensure its laws and actions are consistent with its international obligations and commitments. We also urge the government to release unconditionally all prisoners of conscience and allow all individuals in Vietnam to express their political views without fear of retribution.

Việt Nam sẽ có thay đổi lớn về chính sách ngoại tệ

Việt Nam sẽ có thay đổi lớn về chính sách ngoại tệ

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-12-29

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

RFA

<

Mới đây ông Nguyễn Văn Bình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết sẽ có thay đổi lớn về chính sách ngoại tệ đặc biệt là đồng đô la Mỹ. Cụ thể trong tương lai người gửi ngoại tệ vào ngân hàng có thể phải rút ra bằng tiền đồng Việt Nam và khi doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi ngoại tệ vào ngân hàng chẳng những không có lời mà còn phải trả lệ phí tiền gửi. Mặc Lâm phỏng vấn GSTS Vũ Văn Hóa, Trưởng khoa Kinh tế tài chánh ĐH Quản Lý Kinh Doanh để có thêm chi tiết về vấn đề này.

Mặc Lâm: Thưa Giáo sư, trước tuyên bố của Thống đốc Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Văn Bình về việc siết chặt ngoại tệ khi người dân gửi đồng đô la vào thì khi rút ra không được lấy đô la mà phải lấy bằng tiền đồng Việt Nam. Kế đó, chằng những không có lãi mà còn phải trả phí tiền gửi. Xin ông cho biết mặt tích cực cũng như tiêu cực của chính sách này.

GSTS Vũ Văn Hóa: Chúng tôi cũng hơi bất ngờ. Trước hết là việc gởi ngoại tệ vào ngân hàng của cả doanh ngiệp và cá nhân với lãi suất bằng không. Thật ra thì cũng dễ giải thích thôi nhưng còn việc gửi vào mà rút ra có lệ phí thì việc này còn phải xem lại bởi vì sẽ làm cho người gởi tiền rất là thất vọng. Người sử dụng ngoại tệ có những mục đích khác nhau. Người ta có thể dự trữ ngoại tệ để dùng vào một việc nào đó mà bây giờ bắt người ta phải trả phí thì tôi cho là không hợp lý. Thứ hai, người ta gửi ngoại tệ mà bắt phải rút ra bằng tiền Việt thì quá vô lý bởi vì việc này vi phạm  sở hữu  về tiền tệ đối với các thể nhân và pháp nhân. Chúng tôi cũng còn nghiên cứu thêm về việc này nên chưa muốn giải thích chi tiết. Nói chung nhiều người cũng không đồng tình về vấn đề này.

“ Người ta có thể dự trữ ngoại tệ để dùng vào một việc nào đó mà bây giờ bắt người ta phải trả phí thì tôi cho là không hợp lý. Thứ hai, người ta gửi ngoại tệ mà bắt phải rút ra bằng tiền Việt thì quá vô lý bởi vì việc này vi phạm sở hữu về tiền tệ đối với các thể nhân và pháp nhân

GSTS Vũ Văn Hóa”

Mặc Lâm: Nhiều người cho rằng quyết định này sẽ ảnh hưởng trầm trọng đến doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu vì ngoại tệ gửi vào để thanh toán hay rút ra để trang trải đều phải rút bằng tiền Việt Nam. Điều này sẽ gây trở ngại và nhất là doanh nghiệp nước ngòai sẽ gặp rắc rối dẫn đến những tiêu cực phát sinh trong ngành ngân hàng. GS có thêm ý kiến gì không?

GSTS Vũ Văn Hóa: Vâng, tôi cũng đồng tình với ý kiến của anh. Tôi nghĩ là những đơn vị đã gởi ngoại tệ vào, như đã nói ở trên, thì người ta đã có mục đích sử dụng riêng. Ví dụ là thể nhân thì người ta cũng có thể đi nước ngoài hoặc là gởi cho con cái người ta đi du học. Đó là một mục đích. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì việc sử dụng ngoại tệ là việc rất là thường xuyên. Do vậy, bây giờ anh gởi vào mà lại bắt rút ra bằng tiền Việt thì tôi cho là không hợp lý bởi vì như vậy thì tỉ giá anh tính tỉ giá như thế nào và cũng có lúc lên lúc xuống. Nhìn chung, lợi ích đối với các doanh nghiệp thì tôi là nó bị tác động. Do đó, việc này rất không hợp lý trong điều kiện Việt Nam và anh có thể dùng cái từ gọi là “ cưỡng chế” và như vậy có thể nói là mất cái quyền dân chủ đối với những người có tài sản ở trên đất nước Việt Nam.

Khách hàng đổi tiền ở ngân hàng (minh họa)

Khách hàng đổi tiền ở ngân hàng (minh họa)

Mặc Lâm:Theo lập luận của ông Bình thì tỉ giá sẽ thay đổi hàng ngày nhằm chống lại đầu cơ đồng tiền đô la vì khi ấy không ai dám găm lại để kiếm lời. Theo GS thì đây co phải là một biện pháp cần thiết trong lúc này hay không?

GSTS Vũ Văn Hóa: Không phải là vì đầu cơ. Bây giờ người ta đã gởi vào ngân hàng thì còn đầu cơ cái gì. Người ta dùng để kinh doanh mà. Anh có thể sử dụng tiền đó của người ta bởi vì tiền trên tài khoản thì ngân hàng có quyền sử dụng như một phương tiện tín dụng để anh có thể dùng vào việc nào đó. Khi nào các chủ sở hữu của những đồng tiền đó người ta có nhu cầu thì lúc ấy ngân hàng trả về cho người ta theo số dư ban đầu. Tôi nghĩ việc đó là toàn quyền của ngân hàng. Tuy nhiên, chúng ta không thể nào sử dụng tiền của người ta mà chúng ta ép buộc theo cách tỉ giá áp đặt. Tôi nghĩ là không nên.

“ Tôi cho là đồng tiền của tất cả các nước chậm phát triển trong đó có VN đều không ổn định bền vững bởi vì nó tùy thuộc vào tình trạng kinh tế của đất nước ấy. Thứ nhất là về tâm lý, người ta cũng chưa tin tưởng lắm. Thứ hai, rõ ràng là tình trạng kinh tế của anh cũng không ổn định…Hai lý do đó khiến người ta chưa tin tưởng lắm bằng việc người ta tự giữ ngoại tệ

GSTS Vũ Văn Hóa”

Mặc Lâm: Ông Bình cũng cho rằng biện pháp này sẽ làm cho người có đô la sẽ bất an vì cảm thấy giữ đô la không chắc chắn mà nên đổi ra tiền đồng để ký gửi. Sự thật dòng tiền ngoài xã hội có nhu cầu đúng như lập luận của ông Thống đốc này không?

GSTS Vũ Văn Hóa: Bây giờ đối với đô la hay Euro hay đồng bảng Anh thì tôi cho đấy là đồng tiền của quốc gia nhưng mà nó có vai trò quốc tế của nó và nó được đảm bảo rất là tốt. Mình cũng không thể lấy nội tệ của mình để áp đảo và bắt người ta phải tuân theo. Như vậy là mất quyền tự chủ nên phải xem lại. Nếu mà dân chúng không đồng tình với việc đó thì chính sách đó là chính sách không hợp lòng dân.

Mặc Lâm: Sự thật cho thấy là đồng tiền Việt Nam vẫn chưa mạnh như vài nước trong khu vực để có thể tự tin giao dịch ngoài thị trường. Chính sách này có làm cho thị trường tài chánh Việt Nam trở nên bất ổn hay không?

GSTS Vũ Văn Hóa: Tôi cho là đồng tiền của tất cả các nước chậm phát triển trong đó có Việt Nam đều không ổn định bền vững bởi vì nó tùy thuộc vào tình trạng kinh tế của đất nước ấy. Thứ nhất là về tâm lý, người ta cũng chưa tin tưởng lắm. Thứ hai, rõ ràng là tình trạng kinh tế của anh cũng không ổn định một cách vững chắc. Hai lý do đó khiến người ta chưa tin tưởng lắm bằng việc người ta tự giữ ngoại tệ. Nếu như chính sách này còn tồn tại thì tôi cho rằng lượng ngoại tệ gởi vào ngân hàng sẽ ít đi chứ không phải như hiện nay.

Mặc Lâm: Là một chuyên gia tài chánh ông có ý kiến gì cho người dân cũng như cho chính phủ về chính sách này?

GSTS Vũ Văn Hóa: Bây giờ chính sách đã như vậy thì có thể giải thích nhưng mà có thể chính phủ chưa nghe và ngân hàng chưa thực hiện. Việc này phải chờ dư luận của công luận. Chính sách này phải liên quan đến việc ngoại tệ gởi vào ngân hàng; Nó sẽ giảm đi một cách nhanh chóng thì các ông ấy mới tỉnh ra và sẽ có một chính sách khác.

Mặc Lâm: Xin cám ơn GSTS Vũ Văn Hóa

Ðại sứ Mỹ đòi CSVN thả hết tù nhân lương tâm

Ðại sứ Mỹ đòi CSVN thả hết tù nhân lương tâm
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) Ðại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam kêu gọi nhà cầm quyền CSVN thực hiện đúng các cam kết nhân quyền quốc tế và trả tự do cho hết tất cả các tù nhân lương tâm đang bị giam cầm.

Hôm Thứ Ba, 29 tháng 12, ông Ted Osius, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam phổ biến một bản tuyên bố nói rằng ông “quan ngại sâu sắc do những báo cáo gần đây về các vụ sách nhiễu và giam giữ các nhà hoạt động nhân quyền ôn hòa, trong đó có vụ bắt giữ ông Nguyễn Văn Ðài ngày 16 tháng 12, cũng như thông tin về việc ông Hoàng Ðức Bình, bà Ðỗ Thị Minh Hạnh và các nhà hoạt động vì quyền lao động ôn hòa khác bị cảnh sát hành hung ở thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 25 tháng 12.”


Hàng ngàn giáo dân và những người đấu tranh dân chủ tham dự thánh lễ cầu nguyện cho công lý và hòa bình tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế tại Sài Gòn ngày 27 tháng 12, 2015. (Hình: GNsP)

Các vụ bắt giữ và hành hung những người vận động nhân quyền, dân chủ tại Việt Nam vẫn diễn ra dù nhà cầm quyền đã ký vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị từ nhiều chục năm trước và mới năm 2013, ký vào bản Công Ước Quốc Tế Chống Tra Tấn.

Nhưng trên thực tế, CSVN vẫn kết án tù các người vận động nhân quyền, dân chủ hóa đất nước. Những ai không nằm trong nhà tù thì bị công an theo dõi, hành hung dã man ngay trên đường phố, đời sống kinh tế bị siết chặt. Công an vẫn tra tấn chết hàng chục người mỗi năm rồi đổ cho người ta chết bệnh hoặc tự tử dù thi thể của họ đầy dấu tích nhục hình.

“Xu hướng đáng lo này, tại thời điểm này, đe dọa làm lu mờ sự tiến bộ của Việt Nam về nhân quyền trong những năm gần đây. Tôi thúc giục chính phủ Việt Nam điều tra các báo cáo về các cuộc hành hung ngay lập tức và buộc bất kỳ quan chức có trách nhiệm phải giải trình,” ông Ted Asius viết trong bản tuyên bố.

“Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam đảm bảo rằng luật pháp và hành động của nước mình nhất quán với các nghĩa vụ và cam kết quốc tế của mình. Chúng tôi cũng thúc giục chính phủ thả vô điều kiện tất cả tù nhân lương tâm và cho phép mọi cá nhân ở Việt Nam bày tỏ quan điểm chính trị của họ mà không sợ bị trả thù” bản tuyên bố nói trên thúc giục.

Ðây không phải lần đầu người ta thấy tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội hay các tòa đại sứ phương Tây khác, nhân danh chính phủ của họ kêu gọi CSVN tôn trọng nhân quyền đúng như các cam kết quốc tế mà họ đã ký tên trên đó. Họ đã kêu gọi rất nhiều lần suốt mấy chục năm qua nhưng không có bao nhiêu tác dụng.

Vì bị đả kích quá nhiều, CSVN thả bớt một ít người thì lại bắt ngay một số người khác giống như họ luôn có một số con tin sử dụng làm con bài mặc cả trong các lần cò kè đàm phán các hiệp định.

Ngày 22 tháng 12, 2015, chị Vũ Minh Khánh, vợ Luật Sư Nguyễn Văn Ðài đã tiếp xúc với đại sứ Ted Osius. Dịp này ông đại sứ Mỹ đưa ra nhận xét rằng nhà cầm quyền CSVN “đang chơi một trò rất nguy hiểm. Họ đang liều cả với TPP, cả với tương lai kinh tế trước mắt.”

Ngày 17 tháng 12, 2015, Dân Biểu Alan Lowenthal, đơn vị Quận Cam California, và 3 dân biểu khác thuộc cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa, đã phổ biến bản tuyên bố lên án CSVN bắt giam và khởi tố Luật Sư Nguyễn Văn Ðài.

“Tôi cùng với cộng đồng người Mỹ gốc Việt, và rất nhiều người trong cộng đồng quốc tế, xúc động và tức giận về việc ông Nguyễn Văn Ðài đã bị bắt dù ông chẳng làm điều gì hơn là tranh đấu cho tự do và nhân quyền ở nước của ông.” Dân Biểu Lowenthal viết trong bản tuyên bố. “Ðáng buồn thay, đây là thí dụ mới nhất về hồ sơ nhân quyền tồi tệ của nhà cầm quyền Hà Nội và nêu một điểm nhấn lộ liễu về các trường hợp vi phạm và đàn áp nhân quyền do nhà nước bảo trợ tại Việt Nam”.

DB Lowenthal kêu gọi trả tự do cho LS Nguyễn Văn Ðài ngay lập tức, bãi bỏ tất cả mọi cáo buộc đối với ông và chấm dứt mọi cuộc tấn công nhắm vào những người vận động nhân quyền. Ông cảnh cáo chế độ Hà Nội rằng các hành động đàn áp nhân quyền chỉ làm cho mối bang giao giữa hai nước không thể lên cao hơn khi họ tiếp tục tấn công chính người dân của họ dù người ta chỉ thực thi các quyền tự do căn bản của công dân.

Cuối tuần vừa qua, hàng ngàn giáo dân và những người ủng hộ dân chủ, nhân quyền đã đến các nhà thờ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế ở Sài Gòn và Hà Nội cầu nguyện cho công lý và hòa bình cũng như cầu nguyện cho Luật Sư Nguyễn Văn Ðài, chị Lê Thu Hà.

Cả hai bị bắt ngày 16 tháng 12, 2015 nhưng chỉ thấy công an nói bắt giam LS Nguyễn Văn Ðài và khởi tố tội “Tuyên truyền chống nhà nước…” theo điều 88 của Luật Hình Sự. Cho tới nay, người ta vẫn không biết chị Lê Thu Hà bị quy chụp tội danh gì.

Nhiều năm trước, một viên chức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mô tả các buổi đối thoại nhân quyền với chế độ Hà Nội như “cuộc đối thoại giữa hai người điếc.” (TN)

Lọt, lộ bí mật nội bộ CSVN xảy ra rất nghiêm trọng

Lọt, lộ bí mật nội bộ CSVN xảy ra rất nghiêm trọng
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV)Bộ Trưởng Công An CSVN Trần Ðại Quang “cảnh báo tình hình lộ lọt bí mật nhà nước xảy ra rất nghiêm trọng” tại “hội nghị trực tuyến của chính phủ với 63 tỉnh thành” ngày Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015.

Một số cơ quan truyền thông chính thống của chế độ Hà Nội thuật lời ông Trần Ðại Quang như thế và nói ông “đề nghị các địa phương, bộ, ngành cần quan tâm, bảo vệ công tác chính trị nội bộ, nâng cao nhận thức, trình độ của cán bộ về công nghệ thông tin nói chung và an toàn an ninh mạng nói riêng. Trong đó đặc biệt chú ý đến công tác bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng.”


Một trong những bài viết tố cáo các đảng viên chóp bu của đảng CSVN có tài sản khổng lồ nhờ tham nhũng. Bài này tố cáo cha con Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quanh Thanh, Phùng Quang Hải. (Hình: Chân Dung Quyền Lực)

Không thấy ông này đưa ra thí dụ nào về những cái gì của chế độ bị “lọt, lộ bí mật” và những ai đã bị bắt, truy tố ngay ở trong nội bộ guồng máy đảng và nhà nước hoặc các cá nhân nào ở bên ngoài.

Chỉ thấy ông ta kêu gọi các cơ quan ban ngành khác của chế độ “phối hợp với lực lượng công an kịp thời, cảnh báo những bất thường liên quan đến công tác bảo mật, rà soát và phát hiện, phòng ngừa sự cố, khắc phục lỗ hổng bảo mật.”

Dịp này bộ trưởng công an CSVN khuyến cáo chú trọng kiểm soát chặt chẽ việc truy cập khai thác thông tin qua mạng Internet nhằm hạn chế thấp nhất tác động xấu vào nội bộ và lộ bí mật nhà nước, bí mật nội bộ của chế độ.

“Ta truy cập vào Internet để lấy thông tin thì đồng thời đối phương cũng lấy được tất cả những thứ trong mạng nội bộ của chúng ta, kể cả USB. Hơn nữa, thông tin trên mạng rất phong phú, đa dạng, có cả tốt cả xấu, nhưng hết sức chú ý tránh những luận điệu sai trái, thù địch, thông tin độc hại, đả kích, chia rẽ, bôi nhọ, xuyên tạc nội bộ,” Tướng Công an Trần Ðại Quang được dẫn lời trên báo điện tử VietNamNet.

Ông này nói thêm rằng, “Có thể thấy có rất nhiều loại thông tin như thế, gây tác động rất xấu trong nội bộ, cần lên án và ngăn chặn, giảm thiểu sự độc hại tác động vào nội bộ.”

Giữa năm 2014 sang đầu năm 2015, người ta thấy xuất hiện trang mạng “Chân Dung Quyền Lực.” Tất cả các bài viết trên trang này phơi bày tài sản không lồ của đám quan chức, đảng viên chóp bu CSVN nhờ tham nhũng, ăn hối lộ mà có. Người ta mới chỉ thấy một số bài kèm theo tài liệu và hình ảnh chứng minh tài sản khổng lồ của Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh và con trai Trần Quang Hải, tài sản của Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, của “viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao” Nguyễn Hòa Bình. Một vài bài đả kích Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng và Chủ Tịch Nhà Nước Trương Tấn Sang.

Chỉ sau ít tháng, xuất hiện trang mạng “Chân Dung Quyền Lực” không còn thấy cập nhật thêm bài viết nào khác. Một số người cho rằng kẻ hay những kẻ bí mật đằng sau trang mạng này đã “làm xong sứ mạng lịch sử” nên ngừng tại đó. Những tài liệu và hình ảnh được phơi bày tố cáo tham nhũng trên “Chân Dung Quyền Lực” không phải ai cũng có thể tiếp cận được nếu không là từ các cơ quan an ninh, tình báo của chế độ.

Trước cuộc họp trực tuyến mà ông bộ trưởng Công An hô hào “khắc phục lỗ hổng bảo mật,” ngày 25 tháng 12, 2015, ông Phó Thủ Tướng Vũ Ðức Ðam, trong “hội nghị triển khai nhiệm vụ 2015 của Bộ Thông Tin và Truyền Thông” kêu gọi cán bộ tuyên truyền của chế độ “cần chú trọng đấu tranh chống lại những thông tin không đúng sự thật, bất lợi, gây chia rẽ, nhụt chí.”

Càng gần tới ngày đại hội đảng, CSVN càng đưa ra các biện pháp tăng cường an ninh mọi mặt mà ông bộ trưởng Công An kêu gọi “chủ động phát hiện các bức xúc nảy sinh, không để phần tử xấu kích động gây phức tạp, không để tình trạng tụ tập đông người… nhất là dịp đại hội đảng toàn quốc và bầu cử quốc hội khóa tới.” (TN)

Con Thứ trưởng VN ‘du học không về’

Con Thứ trưởng VN ‘du học không về’

 

Hoang Dinh Nam AFP

Một thứ trưởng Việt Nam cho biết ông có hai người con đi du học nhưng không về nước, và đặt ra vấn đề sử dụng nhân tài, trong phiên giải trình của chính phủ trước Quốc hội hôm 29/12.

Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Duy Thăng nói: “Tôi nghĩ con em nhiều người ngồi ở đây cũng không về. Cá nhân gia đình tôi cũng vậy, 2 đứa không về. Ví dụ như thế thì thấy khó thật.

“Bây giờ tạo việc làm thế nào, thu hút ra làm sao, chúng tôi sẽ có báo cáo Chính phủ để xem lại chính sách,” báo Tiền Phong dẫn lời ông Thăng trong cuộc họp trả lời chất vấn của các đại biểu quốc hội liên quan tới luật về thanh niên.

Vị thứ trưởng cũng cho rằng đa số các trường hợp đi du học từ cấp phổ thông và đại học không về.

“Quan điểm của cá nhân tôi là cần phải có tư duy thoáng ra. Không phải không về nước là không đóng góp cho đất nước. Không phải không về nước là không yêu nước. Đây là sự cống hiến chung cho nhân loại. Có những trường hợp đưa hình ảnh Việt Nam lên rất cao, ví dụ như giáo sư Ngô Bảo Châu,” trang Vietnamnet dẫn lời.

Theo Nhóm công tác Giáo dục và Đào tạo thuộc Diễn đàn doanh nghiệp thường niên (VBF) 2015, Việt Nam hiện có hơn 110.000 học sinh du học với mức học phí từ 30.000 đến 40.000 USD mỗi năm. Như vậy, người Việt mỗi năm chi gần 3 tỷ USD cho việc du học.

Số lượng sinh viên Việt Nam theo học tại Mỹ cũng lên tới 16.500 người, đứng đầu các nước Đông Nam Á và thứ 8 trên thế giới.

‘Giấc mơ Mỹ

Theo phân tích năm 2013 của tổ chức ICEF Monitor – chuyên theo dõi ngành công nghiệp giáo dục quốc tế, “phụ huynh Việt Nam tiêu một khoản tiền khổng lồ cho con đi học nước ngoài, so với tỉ lệ thu nhập bình quân đầu người. Tóm gọn trong một câu, giáo dục là quan trọng và cha mẹ đang đặt tiền của họ vào nơi mà họ ưu tiên và cho là có giá trị.”

Trang ICEF Monitor cũng phân tích, tuy vào năm 2012, Úc là nơi có đông du học sinh người Việt nhất, nhưng học sinh, sinh viên Việt Nam vẫn mang theo ‘giấc mơ Mỹ’.

“Sinh viên Việt Nam đánh giá học cao học ở Hoa Kỳ là “tốt nhất thế giới” và “là ưu tiên đáng được đầu tư tài chính lớn”.

ICEF Monitor giải thích lý do học sinh Việt Nam chọn ra nước ngoài dù tốn kém, có đoạn viết về tỷ lệ thấp đối với số lượng đăng ký học cao học ở Việt Nam:

“…Cũng giống như nhiều phương diện khác của xã hội Việt Nam, đang diễn ra cuộc chạy đua điên cuồng nhằm bù lại thời gian đã mất, tranh thủ rất nhiều cơ hội mới, và đáp lại nhu cầu ngày càng lớn đối về giáo dục và đào tạo – mà không có được cơ sở hạ tầng cần thiết hay kiểm soát chất lượng.

“Không mấy ngạc nhiên, kết quả cuối cùng là “thiếu sót trong cơ sở hạ tầng và giảng dạy”, là một trong những lý do khiến lượng đăng ký dừng lại.”

Chế độ Hà Nội sợ các trang mạng ‘độc hại’

Chế độ Hà Nội sợ các trang mạng ‘độc hại’
Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV) – Dù nỗ lực ngăn chặn, số trang mạng “lề trái,” mà chế độ Hà Nội gọi là “độc hại,” xuất hiện nhiều gấp hàng chục lần cái bị dẹp, làm điên đầu chế độ Hà Nội nhằm giữ quyền lực thông tin tuyên truyền một chiều.

Một số báo chính thống của đảng và nhà nước CSVN. (Hình: Internet)

“Cứ chặn một trang thì 10-20 trang khác lây lan, với giọng điệu ngày càng phản động. Đó là sự câu kết giữa trong và ngoài, giữa những người bất mãn, bất đồng chính kiến với những kẻ muốn xóa bỏ CNXH, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho tình hình đã phức tạp lại càng phức tạp,” ông thứ trưởng Bộ Thông Tin Truyền Thông của CSVN là Trương Minh Tuấn “thẳng thắn chỉ ra” tại “hội nghị tổng kết công tác 2015, triển khai kế hoạch 2016 của Bộ TT&TT” hôm Thứ Hai 28 tháng 12, 2015.

Cuộc họp này quy tụ những kẻ cầm đầu guồng máy kiểm soát thông tin tuyên truyền chính thống của chế độ Hà Nội nằm trong “khối thông tin” gồm Cục Báo Chí, Phát Thanh – Truyền Hình và Thông Tin Điện Tử, Thông Tin Đối Ngoại và vụ Thông Tin Cơ Sở của bộ nói trên, mà ông Tuấn kêu rằng “có nhiều thách thức đối với công tác quản lý báo chí, quản lý thông tin.”

Trong cuộc họp, ông Trương Minh Tuấn kêu rằng, “Chưa có năm nào mà hoạt động chống phá được tăng cường như năm 2015. Tác động từ bên ngoài đến nước ta cũng rất nhiều, có mặt lợi, có hạn chế và cả những nguy cơ tiềm ẩn.”

Ông này kêu rằng, “Nếu năm 2014-2015, ta chỉ phải chặn một số trang mạng xấu, độc hại, như chân dung quyền lực, dân làm báo, quan làm báo…, thì giờ đã có thêm hàng trăm trang như vậy. Cứ chặn một trang thì 10-20 trang khác lây lan, với giọng điệu ngày càng phản động…”

Khi chưa có hệ thống Internet toàn cầu, nhà cầm quyền CSVN độc quyền thông tin trên báo giấy, qua các đài truyền thanh và truyền hình. Người dân không thể kiểm chứng những thông tin đó đúng hay sai, thật hay giả được bao nhiêu phần. Kẻ cung cấp thông tin tha hồ vo tròn bóp béo. Nhưng càng ngày, sự phát triển của Internet và sự tiếp cận thông tin đa chiều của người dân tại Việt Nam càng ngày càng phổ biến, chế độ Hà Nội không còn giữ được thế độc quyền thông tin nữa.

Ông Hoàng Hữu Lượng, cục trưởng Cục (kiểm soát) báo chí của nhà cầm quyền CSVN dịp này cũng nhìn nhận rằng, “Cuộc cạnh tranh thông tin giữa báo chí với mạng xã hội cũng ngày càng trở lên quyết liệt. Báo chí (chính thống của nhà nước) không còn độc quyền về thông tin, người đọc có thể tiếp nhận thông tin từ rất nhiều nguồn mà không quan tâm nhiều đến tính chính thống, bài bản…”

Người dân tìm đến các trang mạng xã hội, thông tin trên Facebook, hơn là đọc tin từ các cơ quan truyền thông của nhà nước cung cấp dẫn đến hệ quả, “Người đọc giảm dẫn đến quảng cáo, phát hành của các cơ quan báo chí giảm. Các báo nhận ngân sách cũng đang khó khăn,” ông Lượng cho biết.

Theo lời ông Hoàng Hữu Lượng, vì độc giả tẩy chay báo chí chính thống của chế độ chỉ cung cấp thông tin một chiều, che đậy sự thật nên “các cơ quan báo chí, trong đó có cả báo in, báo trực tuyến và phát thanh truyền hình (chính thống) đó là tình trạng nợ lương, nợ nhuận bút, nợ nhà in đang xảy ra ở nhiều cơ quan báo chí.”

Để câu thêm độc giả, rất nhiều báo chính thống của chế độ đã khai thác các thứ tin tức, hình ảnh “cướp, giết, hiếp” rất tận tình, đặc biệt là các câu chuyện, hình ảnh kích thích tình dục.

Theo nhận xét của một độc giả ở Sài Gòn gửi cho đài BBC hồi năm ngoái, chỉ riêng về ngôn ngữ báo chí thì “Ngôn ngữ của báo mạng dần giống như truyện kiếm hiệp Kim Dung với “đuổi giết” thành “truy sát,” “cô gái,” “người đàn bà” nay thành “thiếu nữ,” “thiếu phụ,” “góa phụ,” con nhà giàu có giờ trở thành “thiếu gia,” “tiểu thư,” thậm chí nhiều báo còn dùng “nữ tiểu thư” (chắc để phân biệt với “nam tiểu thư”?) Ngoài “cưỡng dâm,” giờ đây người ta còn viết “cưỡng hôn,” ý nói hôn người khác mà không được cho phép.”

Theo Bộ Thông Tin-Truyền Thông Việt Nam, tính đến ngày 26 tháng 12, 2013, trên cả nước có 838 cơ quan báo in với 1,111 ấn phẩm, 70 báo điện tử, 19 tạp chí điện tử và 265 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí. Trong số hơn 800 tờ báo, số báo sống được nhờ lượng phát hành chỉ trên dưới 10 tờ, theo một số nhà báo trong nước.

Thỉnh thoảng, người ta thấy một vài tờ báo bị phạt tiền vì thông tin sai, một vài ký giả bị thu hồi thẻ nhà báo vì “đăng tin, bài có nội dung không phù hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam và đăng tải tin, bài có nội dung mê tín, dị đoan” hay “tin, bài sử dụng câu từ phản cảm.” Nhưng những tin tuyên truyền vu khống những người tham gia đòi hỏi dân chủ, nhân quyền khi bị khiếu nại thì không bao giờ đăng tải và cũng không bao giờ bị phạt.

Ông Kim Quốc Hoa, tổng biên tập tờ Người Cao Tuổi, đã bị khởi tố hồi tháng 5, 2015, tờ báo bị đình bản chỉ vì tờ báo đăng tải rất nhiều bài viết vạch lưng tham nhũng trong guồng máy công quyền và đảng. Ông đã bị khởi tố theo điều 258 Bộ Luật Hình Sự “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà Nước…”

Hiện nay, luật báo chí sửa đổi đang được chế độ Hà Nội chuẩn bị cho thông qua vào kỳ họp cuối cùng của khóa họp Quốc Hội năm tới nhưng vẫn giữ độc quyền báo chí và không cho tư nhân làm báo. Làm sao chế độ Hà Nội có thể “lấy thúng úp voi” vẫn là dấu hỏi. (TN)

“Càn khôn bĩ rồi lại thái / Nhật nguyệt hối rồi lại minh” (Mênh mông thế sự 24)

“Càn khôn bĩ rồi lại thái / Nhật nguyệt hối rồi lại minh” (Mênh mông thế sự 24)

Tương Lai

Đó là quy luật vận động của thế giới, thế giới tự nhiên, thế giới con người mà Nguyễn Trãi đã vận dụng nhằm khẳng định bản lĩnh dân tộc trước những thách đố nghiệt ngã với niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của con người Việt Nam.

Càn Khôn là hai quẻ trong Kinh Dịch. cũng vậy, chỉ sự bế tắc, còn Thái là quẻ thứ 11, chỉ sự hanh thông. Từ điển Nho Phật Đạo do NXB Văn học ấn hành năm 2001 thì giải thích thêm: “quốc gia tốt đẹp hanh thông là nhờ vào sự hài hoà của vua tôi trăm họ” (tr.1317) sau khi đưa ra kiến giải “do Càn Khôn đại biểu cho hai lực lượng, tính chất, tác dụng và sự vật đối lập trong vũ trụ, vì vậy ý nghĩa tượng trưng của chúng là rất phong phú, vừa tượng trưng cho trời đất, vừa tượng trưng cho sự vật đối lập và thống nhất… cho nên nó thường được để gọi thay cho “thế giới”” (tr.141).

Nguyễn Trãi dẫn ra quy luật này để kết thúc cho áng “kim cổ hùng vănBình Ngô đại cáo viết năm 1428 sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh để “Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay”. Nhắc lại quy luật chung muôn đời, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi không quên trang trọng nói đến truyền thống dân tộc được hun đúc từ khí thiêng sông núi mà ông cha ta bao đời gìn giữ: “Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu. Muôn thuở nền thái bình vững chắc. Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”.

Mời gọi đến anh linh Nguyễn Trãi vào lúc này chính là viện dẫn đến những trang hào hùng và bi thương của lịch sử dân tộc mà ông là một chứng nhân sống động nhất để một lần nữa xác lập điểm quy chiếu trong đoán định chính tà, đạo đức và tài năng, những giá trị cốt lõi trong hệ thống giá trị đang bị xáo trộn và băng hoại. Điểm quy chiếu ấy không thể là gì khác lòng yêu nước, tinh thần quật khởi chống ngoại xâm, một hằng số của lịch sử Việt Nam. Đó là nhân tố tiên quyết và cũng là chỗ đến cuối cùng để nhìn nhận, đánh giá con người.

Điểm quy chiếu đó là gì nếu không phải là ý chí và cách ứng xử trước kẻ thù xâm lược để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng được gọi là tổ quốc do ông cha bao đời gây dựng và bảo vệ. Điểm ứng xử đó là đặt tổ quốc lên trên hết và trước hết. Đức tài, chính tà, trung thành hay phản bội đều phải lấy đó làm điểm quy chiếu. Muốn vậy, phải đập vỡ bức tường của sự dối trá và lừa mị mà chúng ta đã tự nguyện xây nên để rồi tự giam cầm chính chúng ta trong sự lừa mị và dối trá đó. Đây là chuyện không hề đơn giản, nhưng nếu không có một bước chuyển động mang tính đột phá thì sẽ không có được bước thứ hai. Càng khó khăn bội phần khi đất nước ta ở vào cái vị thế địa-chính trị oái oăm, nằm sát nước láng giềng khổng lồ mà tất thảy mọi triều đại cai trị của nước khổng lồ này luôn nuôi mộng bành trướng, đồng hoá để biến các nước nhỏ láng giềng trở thành chư hầu. Tiến trình thực hiện tham vọng bành trướng này được biến hoá theo tình hình và tương quan lực lượng, song tính nhất quán của mưu đồ xâm lược và bành trướng thì không bao giờ thay đổi và ngày càng hung hăng hơn khi thế lực bành trướng được phình to ra. Càng nguy hiểm hơn khi chúng lại biết cách dùng thủ đoạn lừa mị, đưa ra cái chiêu bài “cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” để mua chuộc một nhúm những kẻ dám đặt Đảng lên trên Tổ quốc, đặt Hiến pháp dưới Cương lĩnh của Đảng. Chưa bao giờ mà nguy cơ trở thành chư hầu lại lửng lơ treo trên đầu dân tộc ta rõ như lúc này. Chính vì thế, phải tìm về với lịch sử, với truyền thống ông cha để khẳng định một cách thế sống, một lối ứng xử minh bạch và sòng phẳng với lương tâm, lương tri để không hổ thẹn với ông cha, hổ thẹn với thế giới.

Không phải là ngẫu nhiên mà khí phách của Trần Bình Trọng lại được cả dân tộc sùng kính và noi gương. “Ta thà làm ma nước Nam, không thèm làm vương đất Bắc” chính là sản phẩm của ý chí quật cường của dân tộc nhỏ bé ở phuơng Nam mà các triều đại Trung Hoa xách mé gọi là “Nam Man”. Chúng tự cho là nước “đứng giữa thiên hạ”, bốn chung quanh đều là (Đông) Di, (Tây) Địch, (Bắc) Nhung, (Nam) Man. Theo nhà nghiên cứu Dương Danh Dy thì trong bốn chữ Hán: Di, Địch, Nhung, Man nói trên, có tới 3 chữ có bộ thú, chỉ thú vật ở bên cạnh. Láo xược đến thế là cùng! Ấy vậy mà chính cái nước “nằm giữa thiên hạ” này đã từng bị thống trị bởi những chư hầu mà chúng đè đầu cưỡi cổ. Triều đại nhà Thanh, triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc, là một trong những ví dụ về nỗi nhục khó rửa của bành trướng Đại Hán.

Cũng cần phải nói thêm rằng, mối quan hệ giao hảo giữa các triều đại phong kiến Việt Nam với “thiên triều” luôn nằm trong thế bị chèn ép, ức hiếp từ nước lớn, chỉ tương đối dễ thở hơn tí chút là vào thời nhà Lý sau chiến thắng của Lý Thường Kiệt thế kỷ XI. Ấy là lúc Lý Thường Kiệt chủ trương “ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc” đập tan hậu cứ an toàn của chúng ở châu Ung, châu Khâm, châu Liêm sau 42 ngày vây hãm thành Ung Châu rồi rút quân về. Phạt Tống lộ bố văn được niêm yết khắp nơi, đẩy kẻ thù vào thế bị động, tạo ra thế chủ động phòng ngự của quân dân ta để rồi phản công tiêu diệt 50 vạn quân xâm lược nhà Tống.

Nói điều này là để hiểu thêm bản chất xâm lược của chủ nghĩa bành trướng Trung Hoa và bản lĩnh của ông cha chúng ta trong trường kỳ lịch sử lúc nhu lúc cương trong việc xử lý mối quan hệ với nước láng giềng luôn toan tính âm mưu bành trướng. Nhưng nhu hay cương đều phải thực hiện trên cái nền vững chắc của truyền thống bất khuất quật cường, dám vì tổ quốc mà hy sinh, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Cái chết bi hùng của Trần Bình Trọng là biểu tượng sống động của tâm thế Việt Nam trong vị thế địa-chính trị oái oăm là vì ý nghĩa ấy. Không khẳng định cái tâm thế đó, không sao có đủ dũng khí và trí tuệ để tính đến chiến lược chiến thuật nhu hay cương, đánh hay đàm hoặc vừa đánh vừa đàm nhằm vận dụng nhuần nhuyễn phương châm “dùng yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” xuyên suốt lịch sử Việt Nam, trở thành một điểm sáng trong học thuyết quân sự của ông cha truyền lại.

Cần nhớ rằng vào thời của Trần Bình Trọng ở thế kỷ XIII, dân số nước ta chưa đến 7 triệu người, (có sách nói là khoảng 3 hoặc 4 triệu), phải chống lại một kẻ thù xâm lược mà vó ngựa của chúng đã xéo nát bao thành trì từ Á sang Âu cho đến tận Hắc Hải. Nhà thơ đương thời người Armenia (1210-1290) V. Frik từng viết: “Không còn một dòng suối, một con sông nào không tràn đầy nước mắt chúng ta. Không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào không bị quân Tartar giày xéo” (dẫn theo Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông thế kỷ XIII, nxb Khoa hộc Xã hội, Hà Nội, 1972, tr. 38). Đế quốc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII-XIV chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử thế giới từ Đông Á sang đến Hắc Hải. Bóng đen Mông Cổ là nỗi ám ảnh khủng khiếp với châu Âu lúc bấy giờ. Vậy mà chúng dốc toàn lực quyết chinh phục cái nước nhỏ bé ở phương Nam này để mở đường xuống Đông Nam Á. Tổng cộng ba đợt xuất quân, đế quốc Nguyên-Mông huy động từ 60 vạn tới một triệu lượt quân, trong khi dân số Đại Việt khi ấy thì như vừa nói.

Thử hỏi nếu lúc ấy, thay vì khí phách Trần Bình Trọng, mà lại lởn vởn trong đầu những người nắm giữ vận mệnh quốc gia cái khẩu khí Nguyễn Phú Trọng ở thế kỷ XXI này: “Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không” thì liệu có ai khắc hai chữ “Sát Thát” trên cánh tay, tạo nên cái hào khí “Đông A” của thời Trần, nhân tố quyết định chiến thắng kẻ thù, mở ra trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc ta?

Khẩu khí của Trọng bộc lộ khá rõ cái tầm tư duy cũng như trí tuệ, bản lĩnh của ông ta, điều này không gây ngạc nhiên mà chỉ là sự chán ngán quen thuộc ngày càng đậm đặc. Với một thái độ khiếp nhược được nuôi dưỡng trong cái tâm thế chư hầu hèn mọn sợ “xảy ra đụng độ”, thì không những chỉ “bất ổn thế nào”, chẳng những không còn chỗ để “ngồi đây bàn việc tổ chức đại hội Đảng”, mà cái đầu của cả lũ đã mọc đuôi sam để chỉ còn lựa cách ứng xử như Thượng vị Văn Chiêu hầu Trần Lộng, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, hoặc thái uý Trần Nhật Hiệu, em ruột vua! Toàn các đại thần đầy ắp ơn vua lộc nước thời buổi ấy chắc không kém “tiêu chuẩn” của các vị cao cấp mấy đâu. Vậy mà nếu so sánh với bây giờ thì e rằng Nguyễn Phú Trọng còn được điểm cao hơn Thái uý Trần Nhật Hiệu em ruột nhà vua thế kỷ XIII cũng nên: Thì đó, khiếp sợ sức mạnh kẻ thù, nhằm tránh “đụng độ” với quân Nguyên, Hiệu đã hèn nhát đưa ra diệu kế “nhập Tống”! Thật nhục nhã cho cái khẩu khí “đụng độ” này!

Có lẽ phải nhắc lại đây một câu của thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược của Bộ Công an tại cuộc toạ đàm ngày 24/11/2012 được ghi lại trong cuốn sách của Nguyễn Mạnh Can – nguyên Phó Ban Tổ chức Trung ương Đảng và nay là Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Văn hoá mới – vừa gửi rộng rãi cho lãnh đạo và những người quan tâm đến thời cuộc: “Ngày xưa hầu hết thất bại của Việt Nam trước xâm lược phía Bắc đều xảy ra trong thời bình, do lãnh đạo yếu hèn và cấp cao có nội gián”. Cũng trong cuốn sách ấy đã ghi lại lời của ông Nguyễn Văn An: “Các ý kiến tâm huyết ở đây, tôi đã trao đổi đầy đủ. Ngoài ra, tôi đã phản ánh với đồng chí lãnh đạo nhiều người dân nói: Trong các đồng chí, có người “PHÁ NƯỚC” có người “BÁN NƯỚC””.

Vấn đề đặt ra tuy hết sức nghiêm trọng song cũng không phải là cái gì quá khó hiểu, mà vốn là “Kê chư vãng cổ, Quyết hữu minh trưng” (Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi) như Nguyễn Trãi đã chỉ ra trong Bình Ngô đại cáo. Lịch sử không quá hiếm những “nội gián”, những người “phá nước” và những kẻ “bán nước”. Viện dẫn đến Nguyễn Trãi trong bối cảnh hiện nay là muốn gợi lên những nét tương đồng giữa xưa và nay đang hoà quyện vào đời sống đương đại. Một quá khứ gần đang hối hả giục giã những suy nghiệm và một quá khứ xa đang đánh thức những bài học lịch sử.

Trần Quốc Vượng – nhà sử học đáng kính – đã có một nhận định sâu sắc mang ý nghĩa gợi mở cho những gì đang diễn ra hôm nay: “Nguyễn Trãi tắm mình trong một bầu khí văn hoá, ở đó đang diễn tiến cuộc đấu tranh gay gắt giữa TRUYỀN THỐNG và ĐỔI MỚI, cuộc đấu tranh giữa xu hướng Trung Quốc hoá với xu hướng giải Trung Quốc hoá trong nội bộ các thế lực cầm quyền và giới trí thức văn hoá Đại Việt. Hai mươi năm Minh thuộc, với chủ trương và âm mưu tái Trung Quốc hoá nền văn hoá Việt của bọn giặc Minh, càng làm gay gắt thêm, phức tạp thêm cuộc đấu tranh nhằm xây dựng một nền văn hoá Việt Nam, một lối sống Việt Nam. Nguyễn Trãi đã dấn thân hết mình vào các cuộc đấu tranh chính trị, văn hoá, xã hội này; và tiếc thay, ông đã ra khỏi cuộc đời này một cách bi thảm” (Văn hoá Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, nxb Văn Học, 2001, tr. 728).

Gần 600 năm đã trôi qua, cuộc đấu tranh không khoan nhượng của Nguyễn Trãi, cũng là cuộc đấu tranh giữa những trí thức tiên phong – tinh hoa của trí tuệ và bản lĩnh dân tộc – với một bộ phận các thế lực cầm quyền xa rời dân, nhất là trong buổi mạt kỳ, chưa bao giờ ngưng nghỉ vì âm mưu đồng hoá của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán chưa bao giờ buông tha. Nguyễn Trãi là danh nhân văn hoá của thế giới vì ông là tượng trưng cao cả nhất, đẹp đẽ nhất cho lòng yêu nước, cho trí tuệ và bản lĩnh dân tộc. Với ông, “coi công việc của quốc gia làm công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ” là nỗi niềm đau đáu (Chiếu cấm các đại thần tổng quản cùng các quan ở Viện, Sảnh, Cục tham lam lười biếng). Tâm niệm của ông là:

Bui có một niềm trung hiếu cũ,

Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh

(Bảo kính cảnh giới, số 158)

Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược

Có nhân, có trí, có anh hùng

(Bảo kính cảnh giới, số 132)

Trong bối cảnh phức tạp của cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang trực tiếp uy hiếp lẽ tồn vong của đất nước gắn liền với cuộc đấu tranh chống thế lực phản dân chủ cố tình quay lưng lại với tiến trình dân chủ hoá – khát vọng mãnh liệt của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là của trí thức và thế hệ trẻ – thì điểm quy chiếu ấy lại càng phải rạch ròi, minh bạch. Yêu nước, chống Trung Quốc xâm lược gắn làm một với ý chí đấu tranh thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình dân chủ hoá vì độc tài toàn trị phản dân chủ được kẻ xâm lược nuôi dưỡng để làm chỗ dựa cho toan tính của chúng. Có thể nói trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, chưa bao giờ cái xu hướng giải Trung Quốc hoá lại vấp phải một chướng ngại vật lớn và phức tạp như hôm nay! Mà “lớn” và “phức tạp” là vì nó được chính thống hoá bằng Cương lĩnh, đặt lên trên cả Hiến pháp, được áp đặt bởi một bộ máy tuyên truyền khổng lồ cộng với sự hậu thuẫn của một bộ máy bạo lực cũng khổng lồ không kém.

Chướng ngại vật đó là cái “ý thức hệ xã hội chủ nghĩa”. Nguy hiểm và phức tạp hơn còn là vì cái “ý thức hệ” đã bị phá sản ấy lại được hà hơi tiếp sức bởi “người đồng chí láng giềng cùng chung ý thức hệ”. Kẻ xâm lược khoác bộ cánh “cùng chung ý thức hệ” ấy vừa thông qua những thủ đoạn lừa mị, mê hoặc những người kém hiểu biết và thiếu thông tin, vừa tác động trực tiếp vào thế lực đang giữ trọng trách trong bộ máy quyền lực, lung lạc nhúm người này bằng uy hiếp và mua chuộc. Thì ra, món võ Tàu cổ truyền xưa kia ừng uy hiếp, lung lạc những thân vương quý tộc đời Trần như những Thượng vị Văn Chiêu hầu, Chiêu Quốc vương, Thái uý em ruột vua …như vừa dẫn ra ở trên, thì nay đang tìm về những đối tượng hiện đại hơn trong danh xưng của “những đồng chí kiên định lập trường xã hội chủ nghĩa cùng chung ý thức hệ Mác-Lênin” đang chễm chệ trên những cái ghế quyền lực cao ngất ngưởng.

Xưa kia, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã mắng “thằng nhãi con Tuyên Đức” (tức là vua nhà Minh): “Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ. Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác. Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Liệu hôm nay, những lời mắng mỏ ấy Nguyễn Trãi nên dành cho ai đây? Câu trả lời xin nhường cho công chúng. Họ đang là chứng nhân của những rối ren, xáo trộn trong thế cuộc rối bời phơi bày trước mắt.

Dành cho ai, là ai thì sự sòng phẳng của lịch sử sẽ điểm mặt chỉ tên. Mà trước khi chờ sự phán xét của lịch sử thì công luận cũng đã đưa ra những thẩm bình căn cứ vào điểm quy chiếu vừa đơn giản vừa rạch ròi: nhận thức và hành động trước kẻ xâm lược “Ngẫm thù lớn há đội trời chung . Căm giặc nước thề không cùng sống” như Nguyễn Trãi đã khẳng định trong Bình Ngô đại cáo. Những ai là “nội gián”, những kẻ nào là “phá nước”, những tên nào là “bán nước” mà cuốn sách do Nguyễn Mạnh Can chủ biên đã thẳng thắn chỉ ra cũng phải được thẩm định bằng điểm quy chiếu ấy. Đây không là điều gì phức tạp và khó hiểu. Đây là sự đúc kết nghiêm cẩn của lịch sử trong việc nhìn nhận, đánh giá nhân vật lịch sử.

Không có một nhân vật lịch sử nào là toàn bích, thậm chí còn rất nhiều khiếm khuyết. Trần Thủ Độ là một ví dụ. Ông là một nhân vật bị các sử thần thời phong kiến chê trách nhiều. Dưới ngòi bút của họ, Trần Thủ Độ hiện ra như một quyền thần vô học, có tài mà không có đức, có công với nhà Trần, lại có tội với nhà Lý. Thế nhưng bằng những thử thách của thời gian lớp mây mù phủ lên tên tuổi và sự nghiệp của vị khai quốc công thần ấy đã tan dần. Cái gọi là “có tội với nhà Lý” thì sự sáng suốt của lịch sử đã ghi công cho người đã biết khôn khéo thực hiện cuộc chuyển giao quyền lực một cách êm thấm từ một vương triều đã suy vong đang một chướng ngại cho sự tiến hoá của đất nuớc sang một triều đại mới đủ sức đương đầu với những thách đố ghê gớm ở bên trong cũng như từ bên ngoài mà không lâm vào cảnh đầu rơi máu chảy của muôn dân. Không có một bản lĩnh phi thường, một quyết đoạn sáng suốt, không thể thực thi một sứ mệnh lịch sử khó khăn như thế. Vì vậy, trong cái nhìn công minh và soòng phẳng của lịch sử, Trần Thủ Độ xứng đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc. Câu nói của ông “đầu thần chưa rơi xin bệ hạ đừng lo” mãi ngời sáng trong tâm thế Việt Nam. Chính vì vậy, nhân dân tôn thờ ông. Trong đền thờ ông trên đồi Lim (Tiên Sơn, Hà Bắc) có treo hai câu đối nói lên sự thẩm định công minh và song phẳng ấy:

Công đáo vu kim, bất đán Trần gia nhị bách tải.

Luận định thiên cổ, kỳ tại Nam thiên đệ nhất lưu.

(Công đức của ông để mãi đến ngày nay, không chỉ bó hẹp trong hai trăm năm đời nhà Trần. Sau nghìn đời, công luận đã định, ông đáng liệt vào bậc thứ nhất dưới trời Nam)

Thêm một ví dụ nữa, Lê Lợi. Sử gia Trần Quốc Vượng dẫn Đại Việt sử ký toàn thưĐại Việt thông sử viết về ông để đưa ra lời bình: “Con người Lê Lợi thật là mâu thuẫn, lượn lờ, phức tạp, đa dạng. Ông giết người ngay mà vẫn biết là họ oan. Ông theo lời bọn gian mà vẫn biết là chúng xảo. Người anh hùng khi đã già yếu thì lẫn cẫn, hay nghi rồi làm sai… đến chết người, nhưng vẫn còn giữ lại trong lòng cái Thiên Lương, cái Lương tri con người”! Phải nói thêm rằng, việc giết hại công thần thì Vương triều Lê mở đầu với Lê Thái Tổ có khi phải xếp vào đầu bảng mà Nguyễn Trãi cũng là ví dụ đau đớn nhất trong suốt chiều dài lịch sử. Thế nhưng, đánh giá một nhân vật lịch sử là phải căn cứ vào đóng góp của nhân vật ấy vào sự thúc đẩy lịch sử đi tới. Những sai lầm và khiếm khuyết của họ cần được xem là những hạn chế của điều kiện trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Chính vì vậy, nhân dân sùng kính tôn thờ Lê Lợi, đặt ông đứng cạnh Nguyễn Trãi vì ông đã cùng Nguyễn Trãi lãnh đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Minh giành thắng lợi trọn vẹn. Không có một Lê Lợi chắc cũng khó có một Nguyễn Trãi, họ cùng đảm đương một sứ mệnh bằng ý chí, trí tuệ và bản lĩnh quyết đoán thực thi sứ mệnh ấy một cách trọn vẹn:

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối

Phải chăng đây chính là điểm quy chiếu quan trọng nhất, nếu chưa phải là duy nhất, để nhìn nhận, thẩm định: ai là nhân vật đang thúc đẩy lịch sử đi tới được nhân dân ủng hộ, ai là kẻ kìm hãm bước tiến của đất nước, đi ngược lại quy luật vận động của cuộc sống, bỏ lỡ thời cơ đưa dân tộc bứt lên thoát khỏi lạc hậu và lạc điệu với thế giới, trở thành tội đồ của lịch sử, bị nhân dân phỉ nhổ.

Trong đám mây mù của sự nhiễu loạn thông tin về cuộc đấu quyền lực trước thềm Đại hội XII, hệ luỵ của một thể chế toàn trị bưng bít, che giấu sự thật, bóp nghẹt tự do tư tưởng nếu biết dựa vững vào điểm quy chiếu ấy thì “mọi trao qua đổi lại, mọi xem xét đánh giá đều vẫn rõ ràng như bày ra trước mắt, rành rọt như trỏ bàn tay vậy” (Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục).

Một khi mà sự thật đã “rõ ràng như bày ra trước mắt, rành rọt như trỏ bàn tay” thì hành động hướng đến đổi mới mạnh mẽ, đẩy nhanh tiến trình dân chủ hoá đất nước là cái thuận với quy luật, đáp ứng được đòi hỏi của dân. Ai làm được điều đó thì nhân dân đứng về họ, cổ vũ cho họ. Xu thế đó đang được đẩy tới, một xu thế không sao đảo ngược được.

Đó chính là lý do để tin chắc vào sự khẳng định của Nguyễn Trãi “Càn khôn bĩ rồi lại thái, Nhật nguyệt hối rồi lại minh.*

T. L.

Sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ

Sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ

Ảnh minh hoạ: Cảnh sát Việt Nam dùng loa kêu gọi dân chúng và các nhà báo rời khỏi khu vực gần Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 18/5/2014.

Ảnh minh hoạ: Cảnh sát Việt Nam dùng loa kêu gọi dân chúng và các nhà báo rời khỏi khu vực gần Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 18/5/2014.

Nguyễn Hưng Quốc

Cách đây mấy ngày, tình cờ tôi gặp lại một người quen, trước, sống ở Úc, sau, về Việt Nam làm việc từ cả hơn 20 chục năm nay. Thỉnh thoảng, vài ba năm một lần, anh về lại Úc để thăm gia đình. Tôi hỏi cảm tưởng của anh mỗi lần quay lại Úc.  Ngẫm nghĩ một lát, anh cho biết: Mỗi lần về Úc, anh cảm thấy thoải mái hơn, tự tin hơn, và nhất là, được tôn trọng hơn, do đó, thấy mình… “người” hơn.

Điều anh nói, tôi cũng đã từng nghe nhiều người khác nói, những người vừa sống ở Úc vừa sống ở Việt Nam.  Tất cả đều nói giống nhau: Ở Việt Nam, người ta cảm thấy cái phần “người” của họ bị đè bẹp, chỉ còn rất nhỏ, còm cõi, yếu ớt, thảm hại. Chủ yếu là vì lúc nào cũng sợ sệt người khác. Ở nhà thì sợ người khác cạy cửa ăn trộm, có khi, giết chết. Ra đường thì, một mặt, sợ tai nạn giao thông; mặt khác, sợ cảnh sát giao thông quấy nhiễu, tìm cớ để ăn hối lộ. Vào các công sở thì lúc nào cũng thấy bị uy hiếp. Sợ nhất là gặp công an. Làm ăn lương thiện, không có tội gì cả, nhưng cứ hễ thấy bóng công an là thấy bất an, hồi hộp, lo lắng. Nói chung, ở Việt Nam, lúc nào người ta cũng căng thẳng vì sợ hãi. Ở Úc thì khác. Gặp ai cũng được chào hỏi một cách thân mật. Rất hiếm thấy cảnh sát. Mà có thấy cũng không lo sợ vì biết chắc sẽ không ai làm khó dễ gì mình. Khi cần làm giấy tờ, bước vào cửa các cơ quan công quyền, người ta hoàn toàn tự tin là mình sẽ được phục vụ theo đúng quy định chứ không bị sách nhiễu như ở Việt Nam.

Tôi cho những kinh nghiệm như thế tiết lộ cho chúng ta sự khác biệt sâu sắc giữa một chế độ độc tài và một chế độ dân chủ.

Nói đến sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ, lâu nay, người ta chủ yếu chỉ nhìn vấn đề từ góc độ chính trị; ở chính trị, người ta chủ yếu tập trung vào yếu tố cơ chế; và trong cơ chế ấy, người ta quan tâm nhiều nhất đến các quan hệ quyền lực. Thật ra, dưới chế độ nào, giới lãnh đạo cũng đều có rất nhiều quyền lực. Chỉ khác ở một số điểm: Một, quyền lực, dưới chế độ độc tài, có tính tuyệt đối, nằm hẳn trong tay của một người hoặc một nhóm người; dưới chế độ dân chủ, có tính chất tương đối và được phân tán, ít nhất trong ba lãnh vực khác nhau, thường được gọi là tam quyền phân lập (hành pháp, lập pháp và tư pháp). Hai, quyền lực, dưới chế độ độc tài, chủ yếu là do cưỡng đoạt hoặc lạm dụng; dưới chế độc dân chủ, chủ yếu là được dân chúng uỷ thác trong các cuộc bầu cử tự do, bình đẳng và minh bạch. Ba, quyền lực, dưới chế độ độc tài, nằm trên cả luật pháp, ở đó, luật pháp được sử dụng như một công cụ để đàn áp dân chúng (rule by law); dưới chế độ dân chủ, bị kiểm soát bởi luật pháp (rule of law). Và bốn, quyền lực, dưới chế độ độc tài, có thể kéo dài cho đến lúc bị sụp đổ; dưới chế độ dân chủ, có tính chất nhiệm kỳ.

Sự khác biệt giữa độc tài và dân chủ cũng có thể được nhìn từ một góc độ khác: nhân quyền. Nói một cách tóm tắt, độc tài chà đạp lên quyền làm người căn bản của con người trong khi dưới các chế độ dân chủ, các quyền ấy được tôn trọng. Trong các quyền ấy, có ba loại quyền quan trọng hơn hết: Thứ nhất là quyền được tự do suy nghĩ và tự do phát biểu dưới mọi hình thức. Thứ hai là quyền được chọn lựa giới lãnh đạo qua các cuộc bầu cử. Và thứ ba là quyền kiểm soát, phản biện, phê phán, thậm chí, phản đối các chính sách của chính phủ một cách công khai qua các phương tiện truyền thông cũng như các cuộc biểu tình bất bạo động.

Ở Việt Nam hiện nay, không có quyền nào trong ba thứ quyền nêu trên được tôn trọng đúng nghĩa. Người dân được quyền tự do suy nghĩ nhưng lại có rất ít quyền tự do phát biểu. Phát biểu ở chỗ riêng tư, với bạn bè hoặc người thân thì được, nhưng phát biểu công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng – vốn hầu hết đều nằm trong tay nhà nước – thì bị hạn chế và không ít trường hợp, bị trù dập. Hơn nữa, những cái được gọi là tự do tư tưởng đều chỉ có ý nghĩa tương đối. Đã đành là ở Việt Nam hiện nay, khác với trước đây, không có cảnh “đem bục công an đặt giữa trái tim người” như lời Lê Đạt thời Nhân Văn Giai Phẩm. Nhưng khi người dân không có quyền tìm kiếm và lưu giữ thông tin, khi người dân chỉ được tiêu thụ những thông tin do chính quyền sàng lọc và cung cấp, họ cũng không thực sự có quyền tự do tư tưởng.

Người dân cũng được đi bầu Quốc hội, nhưng thứ nhất, người ta chỉ được bầu những người đã được lựa chọn sẵn; và thứ hai, bản thân Quốc hội cũng chả có quyền lực gì đáng kể trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Những lá phiếu của dân chúng chỉ là những chi phiếu giả, không có tiền thế chấp, do đó, không có giá trị gì cả. Nó chỉ tạo ra ảo tưởng tự do nhưng lại không phải là tự do thật.

Riêng các quyền phản biện và chống đối thì bị bóp nghẹt hoàn toàn. Cho đến nay, chính phủ và Quốc hội hứa hẹn sẽ soạn luật về biểu tình nhưng cả hai đều cứ lần khân khất hẹn mãi.  Những cuộc biểu tình, dù một cách chính đáng, ví dụ chống các hành động gây hấn ngang ngược của Trung Quốc, đều bị cấm đoán; một số người tổ chức hoặc tham gia bị bắt bớ, có người bị cầm tù dưới nhiều tội danh khác nhau.

Việc tôn trọng các quyền làm người cũng là việc tôn trọng con người. Không ai thực sự là người nếu các quyền căn bản của họ không được tôn trọng. Bởi vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi sống ở dưới các chế độ dân chủ, người ta không những được tự do mà còn thấy tự tại phơi phới, thấy mình đích thực là mình.

Việt Nam vẫn còn chia cách: vết thương chậm hồi phục, ít có triển vọng cho con cái của đồng minh Mỹ

Việt Nam vẫn còn chia cách: vết thương chậm hồi phục, ít có triển vọng cho con cái của đồng minh Mỹ

Bloomberg

Tác giả: John Boudreau K Oanh Ha

Người dịch: Trần Văn Minh

23-12-2015

Những gia đình từng là đồng minh Mỹ, bị ngăn cản, không được gia nhập Đảng Cộng sản

H1Vũ Tiến, một sinh viên đại học tại thành phố Hồ Chí Minh, giữ hình ảnh của cha, người đã phục vụ trong quân đội VNCH đã từng cầm quyền miền nam từ năm 1954 đến 1975. Nguồn: Bloomberg

Là một sinh viên tốt nghiệp từ một trong những trường có uy tín nhất ở Việt Nam, Cao, 22 tuổi, dường như có một tương lai tươi sáng phía trước – nếu gạt bỏ vấn đề lý lịch sang một bên. Anh tìm thấy triển vọng về sự nghiệp của mình bị vây hãm bởi những di sản còn sót lại của một cuộc chiến đã kết thúc gần hai thập niên trước khi anh được sinh ra.

Hai người bác của anh đã phục vụ trong quân đội bị thua trận của miền Nam Việt Nam, là đồng minh của Hoa Kỳ trong suốt những gì được biết ở Việt Nam là “cuộc chiến chống Mỹ”. Sau khi đất nước thống nhất dưới sự cai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, mẹ của anh đã bị từ chối, không được vào học đại học vì sự liên hệ của người anh với chính quyền miền Nam. Ngay cả khi Việt Nam nới lỏng các quy định cũ trừng phạt những người có liên quan tới Việt Nam Cộng Hòa trước đây, nhiều người ở miền Nam tin rằng hệ thống vẫn ưu đãi những người có mối quan hệ với cộng sản.

H2Cha của Vũ Tiến, bên phải, đứng cùng với các đồng đội trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Nguồn: Vũ Tiến

Cao thậm chí không màng xin việc tại các công ty do nhà nước kiểm soát ở Việt Nam, là các công ty cung cấp việc làm bền vững, các khoản tiền thưởng và gia tăng cơ hội việc làm cho các thành viên gia đình. “Để có thể kiếm được việc làm trong hệ thống nhà nước, một người phải có bố mẹ hoặc người thân làm việc ở đó, vì vậy những người dân bình thường như chúng tôi không thể tới gần những công ty đó được“. Cao, một sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Ngoại thương Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết.

Thảo luận về mối quan hệ của một người với chính quyền Sài Gòn cũ là một chủ đề nhạy cảm và Cao yêu cầu chỉ sử dụng tên họ của mình. Cuối cùng, anh tìm được việc làm tại một công ty bất động sản tư nhân. “Nếu công ty nhà nước quan tâm đến lý lịch gia đình của tôi, chắc chắn tôi sẽ thất bại”, anh nói.

H3Quân đội Cộng sản tấn công dinh tổng thống ở Sài Gòn, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh vào ngày 30-4-1975. Ảnh: Jean-Claude Labbe/Gamma-Rapho via Getty Images

Cuộc chiến bên trong

Kinh nghiệm của anh phản ánh một thực tế kinh tế đối với người dân miền Nam 40 năm sau khi quân đội cộng sản thống nhất đất nước – một sự mỉa mai vô cùng tận. Ngay cả khi mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã cải thiện đáng kể từ khi quan hệ ngoại giao đầy đủ được khôi phục vào năm 1995, các vết thương xã hội bên trong chưa hoàn toàn bình phục từ cuộc chiến huynh đệ tương tàn, đã giết chết khoảng 3 triệu người Việt.

Việt Nam vẫn là một quốc gia phân biệt giai cấp, trong đó truyền thống phân biệt đối xử đối với các cựu đồng minh của Mỹ đang kềm hãm nền kinh tế, bằng cách loại trừ một số người giỏi và thông minh nhất nước, ra khỏi những vị trí hàng đầu tại các công ty nhà nước và chức vụ chính quyền. Mối căng thẳng chiến tranh chưa giải tỏa tại quốc nội cũng xua đuổi đầu tư tiềm năng và chuyên môn cần thiết của nhiều người Việt Nam ở nước ngoài.

Cộng đồng người Mỹ gốc Việt, với con số đông 1,8 triệu người, là nhóm cộng đồng hải ngoại lớn nhất bên ngoài quê hương, bị chia rẽ trong mối liên hệ với chế độ cộng sản. Nhiều người không muốn đầu tư tiền và khả năng chuyên môn về quê hương vì chính quyền vẫn nhìn họ dưới con mắt ngờ vực, ông Nguyễn Thịnh cho biết, là người đã bỏ sự nghiệp ở Silicon Valley để thành lập một công ty phần mềm tại thành phố Hồ Chí Minh.

Ông nói: “Trừ khi các cộng đồng ở nước ngoài thấy một vài nỗ lực hòa giải, Việt Nam sẽ không hấp dẫn được những thành phần tinh túy nhất nước ngoài. Rất nhiều lần, người Việt nước ngoài không được đối xử công bằng, chứ đừng nói đến được hoan nghênh ở đây“.

Một trở ngại lớn cho phát triển kinh tế của Việt Nam là sự thiếu hụt kỹ năng bởi vì hệ thống đại học của Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu của một nền kinh tế hiện đại, Trinh Nguyễn, nhà kinh tế kỳ cựu về Á Châu đang trỗi dậy, làm cho Công ty Natixis SA có trụ sở ở Hồng Kông, nói: “Một trong những cách dễ nhất để Việt Nam lấp đầy khoảng cách nàyban hành những chính sách thu hút và giữ chân những người Việt ở nước ngoài có kỹ năng cao“.

Lập trường của Hà Nội rằng cuộc xung đột không phải là một cuộc nội chiến, mà là cuộc cách mạng chống lại Mỹ và chính quyền bù nhìn Sài Gòn, là “trở ngại lớn nhất đối với hòa giải”. Huy Đức, một cư dân đến từ Hà Nội và là tác giả sách “Bên Thắng Cuộc”, một quyển sách về Việt Nam sau khi thống nhất đất nước, nói.

Ông Đức nói: “Chế độ hiện tại này chưa từng suy nghĩ một cách nghiêm túc về vấn đề hòa giải thực sự. Họ luôn luôn khẳng định mình là kẻ thắng cuộc chiến và là bậc thầy của dân tộc“.

H4Quốc kỳ và biểu ngữ chào mừng Đảng Cộng sản được trang trí trên đường phố Hà Nội, Việt Nam. Nguồn: Justin Mott/Bloomberg

Sau chiến tranh, các đảng viên được tin cậy của Đảng Cộng sản và gia đình của họ được tưởng thưởng với những chức vụ hàng đầu, trong khi những người Việt Nam là đồng minh của Mỹ thì bị trừng phạt và con cái của họ bị từ chối các cơ hội. Nhiều người miền Bắc đã được gửi đến miền Nam bị chinh phục. Ngày nay, chính sách đó đã góp phần vào hệ thống vững chắc, vẫn mang vẻ nghiêng về phía người Bắc và Đảng viên Cộng sản:

  • 22 trong số 25 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất của Việt Nam có trụ sở tại Hà Nội, thủ đô của đất nước.
  • ĐảngCộng sản không chấp nhận là đảng viênnếu cha mẹ của một người (hoặc cha mẹ của người phối ngẫu) từng làm việctrong chính quyền [cũ] hoặc”quân đội của kẻ thù”.
  • Haiphần ba trong khoảng 3triệu đảngviên Cộng sảncủaViệt Namcư ngụ ở các tỉnhphía Bắccủa đất nước,từ QuảngTrịtrở ra,tính đến năm 2010, theoCarlyleThayer, giáo sư danh dựvàchuyên giavề Việt NamtạiHọc việnQuốc phòngÚcởCanberra. Miền Bắcchiếm 46%, trong số 87triệu dâncủa đất nước.
  • Khoảng 70% nội cácchính phủ hiện nay là người miền Bắc, so với 30% từ các tỉnh miền Namvà miền Trung.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an đã không trả lời các câu hỏi về hòa giải trước khi bài viết này được đăng tải.

Trong một bài diễn văn nhân ngày 30 tháng 4 tại thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu kỷ niệm 40 năm thống nhất đất nước, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kêu gọi người Việt tại quê hương và hải ngoại “nêu cao chủ nghĩa dân tộc, lòng yêu nước, truyền thống nhân đạo, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, để thật tâm hòa giải dân tộc”.

Trả thù sau chiến tranh

Sau khi bị cộng sản tiến chiếm, Sài Gòn được đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh và hơn 1 triệu người, gồm những người đã chiến đấu bên cạnh quân đội Mỹ hoặc phục vụ trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũ, đã bị đưa đến các trại cải tạo, theo báo cáo của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc.

Toàn bộ các gia đình, thường kéo dài đến ba thế hệ, được coi là có “lý lịch gia đình xấu” bởi vì mối liên quan của họ với chính phủ đã bị sụp đổ. Hệ thống kiểm tra lý lịch đó, vẫn còn tồn tại đến ngày nay, đã ngăn cản nhiều người không xin được việc làm hay bước vào các trường đại học. Sự đối xử khắc nghiệt góp phần vào luồng di cư của hơn 1 triệu người Việt Nam tỵ nạn.

H5

Đó sự phân biệt đối xử khi quy định ngăn cấm gia nhập đảng đối với những người cha mẹ hoặc cha mẹ bên vợ, bên chồng làm việc cho chế độ cũ“, ông Vũ Tiến, người học đại học tại thành phố Hồ Chí Minh và yêu cầu không sử dụng tên đầy đủ của mình, cho biết. Cha anh phục vụ trong quân đội miền Nam, Việt Nam, và ông quyết định di cư đến một nước phương Tây vì anh thấy triển vọng kinh tế tốt hơn cho bản thân ở nước ngoài. “Đó một chính sách bất công và vô nghĩa, từ khi chiến tranh kết thúc 40 năm trước đây“.

Bằng nhiều cách, hận thù đã dịu lại qua nhiều thập niên giữa những kẻ thù cay nghiệt một thời, và thái độ của khu vực cũng góp phần vào sự mất cân bằng chính trị và kinh tế. Con gái của ông Dũng, một người miền Nam, từng bị thương khi là một y tá Việt Cộng trong cuộc chiến, đã kết hôn với Henry Nguyễn, người Mỹ gốc Việt, người có cha từng làm việc cho chính phủ miền Nam Việt Nam. Người Việt có quan hệ với chế độ cũ hiện nay, có thể đạt được một số vị trí trong chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù họ không thể giữ các chức vụ hàng đầu, ông Đức và các nhà nghiên cứu khác cho biết.

Sự phân chia giữa đảng viên miền Bắc và miền Nam gắn liền với di sản của cuộc chiến – đa số các nhà cách mạng cộng sản đến từ miền Bắc – và sự thờ ơ của người miền Nam đối với đảng, ông Thayer nói. “Điều này là khá rõ rệt. Gia nhập đảng không cần thiết đối với nghề nghiệp của họ. ‘Tôi không thể làm một công an, thì sao nào?’ Miền Bắc thắng được cuộc chiến và miền Nam thắng được kinh tế“. Ông Thayer cho biết.

H6

Nhiều sinh viên tốt nghiệp trẻ, đặc biệt là những người ở miền Nam, thích làm việc cho các công ty nước ngoài như Intel Corp và Samsung Electronics Co. Nền kinh tế phồn thịnh của Việt Nam – mà chính quyền dự báo sẽ phát triển 6,7% trong năm tới, tốc độ nhanh nhất trong 9 năm – cung cấp nhiều cơ hội nghề nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Nhiều chuyên gia trẻ ở miền Nam cũng cho biết, họ không có ý muốn gia nhập Đảng Cộng sản.

Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm tài chính của Việt Nam và quê hương của những người Việt có quan hệ với chính quyền miền Nam cũ, đã làm nên gần ¼ tổng sản lượng quốc nội (GDP) của đất nước. Hà Nội, ngược lại, đóng góp 10% cho GDP.

Dù sao những thuận lợi cho kẻ chiến thắng tiếp tục làm thay đổi hình thái kinh tế, từ việc tuyển dụng các chức vụ quan chức chính phủ quan trọng, giúp định hình chính sách tài khóa, cho tới sự ưu đãi đối với các công ty nhà nước có trụ sở ở miền Bắc, là các công ty có được sự tiếp cận ưu tiên nguồn vốn từ các ngân hàng do Chính phủ bảo trợ. Các công ty nhà nước sử dụng khoảng 50% đầu tư công của Việt Nam và hút 60% các khoản vay ngân hàng của đất nước, trong khi chỉ đóng góp 1/3 cho GDP, theo số liệu của chính quyền.

H7Những con gà chạy nhảy ngang qua một nghĩa trang đổ nát của hàng ngàn binh lính miền Nam, Việt Nam gần thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Nguồn ảnh: John Boudreau/Bloomberg

“Chế độ hiện tại này chưa bao giờ suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề hòa giải thực sự”.

H8Quân đội cộng sản vui cười, ngồi trên nóc xe tải và xe bọc thép ở Sài Gòn khi chiến tranh kết thúc vào tháng 4-1975. Nguồn: AFP/Getty Images

Vấn đề trung thành

Thuật ngữ sau chiến tranh dùng để ngăn cản sự tiếp cận vẫn là một phần của tâm lý và tiếng địa phương của Việt Nam ngày nay: các mẫu đơn chính thức về lịch sử gia đình được yêu cầu đối với các trường học và công việc, đòi hỏi người nộp đơn phải liệt kê những gì các thành viên gia đình đã làm “trước và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975”. Cho đến hôm nay, thuật ngữ “ngụy” dùng cho “chế độ bù nhìn” vẫn còn được sử dụng thường xuyên.

Người Việt viết cho các hãng tin trực tuyến và luật sư trên mạng để hỏi xem họ có thể gia nhập Đảng Cộng sản nếu họ có người trong gia đình phục vụ chế độ “ngy“. Một công ty luật trả lời một câu hỏi trực tuyến vào tháng 10, liệu kết hôn với một viên công an sẽ được phép, khi người phối ngẫu có quan hệ với chế độ cũ. (Luật sư trả lời rằng sẽ không được Bộ Công an cho phép). Một người yêu cầu hỗ trợ pháp lý sau khi ông bị các quan chức tỉnh từ chối việc làm, với lý do bố vợ của ông là một nhân viên kế toán trong chính quyền Sài Gòn.

“Hệ thống chính trị Việt Nam đánh giá cao sự trung thành”, ông Nguyễn Xuân Thành, một thành viên thâm niên của Đại học Hành chánh Kennedy của Harvard tại Việt Nam, có trụ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết. “Hiện vẫn còn mối quan tâm thực sự về những gì họ gọi là diễn biến hòa bình – giới cao cấp trong hệ thống chính quyền từ từ trở nên chống đảng và mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội”.

Trong khi đó, các cựu chiến binh và những người “có công với cách mạng” khác – một sự chỉ định tính anh hùng vẫn được sử dụng ngày nay – và gia đình của họ nhận được trợ cấp theo luật hàng tháng, bảo hiểm y tế và sự đối xử ưu đãi trong việc gia nhập trường học và công ăn việc làm. Cựu chiến binh cộng sản được ưu tiên khi xếp hàng lên máy bay.

Các lợi ích kinh tế

Tình cảm phổ biến về phía những kẻ chiến bại được minh họa bằng một nghĩa trang đổ nát của hàng ngàn binh lính Nam Việt Nam, gần thành phố Hồ Chí Minh. Một số ngôi mộ không còn gì hơn một đống đất và những mộ khác thiếu bia đá. Nhân viên bảo vệ sử dụng nghĩa trang để nuôi gà. Bên kia đường cao tốc gần đó, những ngôi mộ của các cựu chiến binh chiến đấu bên phía những người Cộng sản thì được chăm sóc cẩn thận và được bao quanh với những luống hoa trong “nghĩa trang liệt sĩ”.

Việc hoà giải những vết thương cũ sẽ mang lại cho nền kinh tế sức mạnh hơn nữa, ông Tương Lai nói. Ông là một giáo sư xã hội học và là đảng viên Đảng Cộng sản, là người đã từng cố vấn cho cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Cựu Thủ tướng trông coi việc cải cách kinh tế vào thập niên 1990, nối lại quan hệ ngoại giao với Mỹ và kêu gọi hòa giải dân tộc trong một cuộc phỏng vấn của báo chí năm 2005.

Ông Tương Lai nói: “Để hội nhập với thế giới, chính quyền Việt Nam đầu tiên cần phải hòa giảilàm bạn với những người dân mà họ coi là kẻ thù. Nếu chúng ta không có một sự hòa giải thực sự trong nước, làm sao chúng ta có thể làm điều đó với thế giới?

Học sinh Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội) phản đối lấy đất trường học xây chợ

Học sinh Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội) phản đối lấy đất trường học xây chợ

Nguyễn Tường Thụy
Học sinh bãi khóa, tiểu thương bãi thị ở Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội) để phản đối dự án lấy đất trường học làm trung tâm thương mại đã diễn ra 2 năm nay.

Từ đầu năm 2014, tiểu thương ở chợ Ninh Hiệp đã đồng loạt dừng bán hàng, kéo nhau tới trụ sở UBND xã Ninh Hiệp để phản đối Dự án lấy trường học và bãi giữ xe của chợ Ninh Hiệp để xây dựng trung tâm thương mại, Chính quyền huyện Gia Lâm thừa nhận, dự án xây dựng trung tâm thương mại và giải trí ở xã Ninh Hiệp nằm trong quy hoạch sử dụng đất và đề án nông thôn mới của thành phố.

Người dân ở đây cho rằng, việc xây thêm chợ là không cần thiết vì cả xã có 4 chợ và trung tâm thương mại nhưng có tới 3 chợ chưa kín chỗ. Xây thêm chợ vừa lãng phí vừa không thiết thực.

Các tiểu thương ở chợ Ninh Hiệp đồng loạt cho con em bãi khóa nhiều lần để phản đối việc phá trường cấp 2 để lấy đất làm trung tâm thương mại. Có thời điểm có tới 168 em nghỉ học, hơn 1000 kiốt đóng cửa

Theo fb Bùi TYiến Hưng, hôm nay, 21/12/2015 học sinh tiểu học Ninh Hiệp đồng loạt nghỉ học, kéo lên trụ sở công an Bắc Đuống, yêu cầu chính quyền dừng ngay việc chiếm đoạt bãi giữ xe để phân lô bán đất bỏ vào túi nhóm lợi ích. Đây là khu đất vàng nằm ở trung tâm xã Ninh Hiệp. Facebooker này cho biết người dân Ninh Hiệp sẵn sàng ngã xuống giữ đất. Rất nhiều mồi để châm lửa, có cả quan tài chờ sẵn bọn cướp đất.

Fecebooker Bùi Tiến Hưng bình luận: Chỉ vì những âm mưu bẩn thỉu đen tối của chính quyền muốn chiếm đoạt bãi giữ xe của xã, các cháu học sinh lẽ ra được cắp sách đến trường nhưng các cháu phải nghỉ học đến trụ sở công an phản đối.

Clip dưới đây cho thấy chủ yếu học sinh mang cờ đỏ sao vàng và cả cờ búa liềm đến trước cổng trụ sở công an Bắc Đuống, đối diện với lực lượng công an để phản đối nhưng cổng đồn vẫn đóng. Có cả tiếng la: “Công an đánh trẻ con”

Đây là cuộc biểu tình hy hữu vì lực lượng nòng cốt là em học sinh phản đối việc lấy đất tùy tiện, bất chấp quyền lợi của nhân dân nói chung, của tiểu thương và của các em học sinh nói riêng.

 Xe cứu hỏa

Quan tài chờ sẵn

YouTube player
YouTube player

Người Trung Quốc ‘bao vây’ sân bay quân sự Đà Nẵng?

Người Trung Quốc ‘bao vây’ sân bay quân sự Đà Nẵng?

Một khu đất được cho là thuộc sở hữu của người Trung Quốc ở trung tâm Đà Nẵng.

Một khu đất được cho là thuộc sở hữu của người Trung Quốc ở trung tâm Đà Nẵng.

VOA Tiếng Việt

27.12.2015

Báo chí trong nước mới cảnh báo về khả năng “bị tê liệt” về phòng thủ và tấn công của sân bay quân sự Nước Mặn ở Đà Nẵng vì nhiều nhà cao tầng bị nghi “thuộc sở hữu của người Trung Quốc” đã được xây dựng quanh đó.

Báo điện tử Zing đã cho đăng tải nhiều hình ảnh mà báo này cho là “những lô đất do các cá nhân Việt Nam đứng tên nhưng phía sau lại là người Trung Quốc” nằm sát sân bay Nước Mặn.

Theo trang thông tin điện tử này, “sau khi hợp thức hóa, chủ các lô đất đã xây dựng khách sạn, nhà nghỉ cao khoảng 18 – 20 tầng”, và “chỉ cần đứng ở tầng 7 các tòa nhà này, có thể thấy hết mọi hoạt động trong sân bay”.

Thiếu tướng Trần Minh Hùng, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5, được Zing trích lời nói: “Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, vì sân bay này vẫn là nơi tác chiến phòng thủ của các đơn vị quân đội”.

Báo điện tử thuộc Hội Xuất bản Việt Nam còn đưa tin rằng “biển hiệu của các nhà hàng, khách sạn ở đây đều có chữ Trung Quốc và các ký tự bằng số rất lạ”.

Trong khi đó, trong một bài viết có tựa đề “Nhà cao tầng nghi của người Trung Quốc áp sát, nhòm ngó sân bay Nước Mặn?”, báo điện tử VietNamNet đưa tin rằng trong khi chính quyền Đà Nẵng đang khá lúng túng tìm biện pháp xử lý thì việc chuyển dịch nhà, đất ven biển cho người Trung Quốc vẫn diễn ra, và nhiều nhà cao tầng nghi do người Trung Quốc giấu mặt làm chủ sở hữu đang tiếp túc áp sát sân bay Nước Mặn.

Quan chức Đà Nẵng mới đây thừa nhận đã phát hiện 71 cá nhân là người Việt đứng tên mua 137 lô đất trên địa bàn thành phố cho người Trung Quốc.

Khu vực mà người Trung Quốc mua chủ yếu nằm trên đường Võ Nguyên Giáp – Trường Sa, gần một căn cứ quân sự của quân khu 5.

Chị Thu Diễm, một người dân Đà Nẵng, mới đây nói với VOA Việt Ngữ rằng tình trạng này đang khiến nhiều người lo ngại.

Chị nói thêm: “Người Trung Quốc bây giờ họ mua đất ven biển rất là nhiều. Họ mua đất ở trong này nhiều nhưng đa số là mua theo tên của người Việt Nam, chứ không mua theo tên của người Trung Quốc. Người ta đã “chui” thì làm sao mà nắm rõ được. Người Trung Quốc họ mua đất chắc là muốn chiếm dụng đất của Việt Nam thôi. Người ta mua đất của mình, thông qua chính người dân của mình, và người ta sử dụng, chiếm dụng các vị trí đất đấy để làm những việc không có lợi cho mình thì tất nhiên mình phải bức xúc chứ?”

Quan chức địa phương được dẫn lời nói rằng những khu đất hiện do người Trung Quốc nắm giữ là “những vị trí nhạy cảm liên quan đến an ninh, chính trị, quốc phòng”.

Một số nhận xét từ cách mạng 1989

Một số nhận xét từ cách mạng 1989

 Nguyễn Đình Cống

Bài dưới đây là của GS Nguyễn Đình Cống – một cộng tác viên quen biết – trình bày những suy nghĩ về những biến động lịch sử liên quan đến sự chuyển đổi thể chế xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, từ đó liên hệ đến tình hình đất nước. Muốn hay không, thì bài học của sự tan rã hệ thống xã hội chủ nghĩa vẫn cần được phân tích thấu đáo, từ đó định hướng chiến lược cho sự phát triển của Việt Nam. Trên suy nghĩ đó, Bauxite Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết và mời gọi bạn đọc cùng suy nghĩ với tác giả. Quan điểm và phong cách trong bài là thuộc người viết.

Bauxite Việt Nam

I- GIỚI THIỆU QUA

Tên gọi “Cách mạng 1989” dùng để chỉ sự thay đổi chế độ chính trị đồng loạt ở sáu nước Đông Âu, từ chỗ toàn trị độc đảng cộng sản thành nhà nước dân chủ đa đảng.

Hồi năm 1989 tôi đang làm chuyên gia giáo dục ở Châu Phi. Vào kỳ nghỉ hè chúng tôi sang các nước Đông Âu chơi và biết một ít tình hình thông qua chuyện trò với các bạn người Việt sinh sống tại đó. Tuy vậy hiểu biết về Cách mạng 1989 có được là do đọc tài liệu nước ngoài và đặc biệt là quyển Revolution 1989 – The Fall of the Soviet Empire của Victor Sebestyen, xuất bản tại New York, năm 2009 (bản dịch tiếng Việt của Phan Trinh).

Một số nước Đông Âu, trong gần nửa thế kỷ xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa dưới sự toàn trị của cộng sản và sự khống chế của Liên Xô, bỗng cùng nhau cải cách triệt để trong vài tháng vào năm 1989. Quá trình diễn biến và nguyên nhân gần ở mỗi nước có khác nhau, song nguyên nhân gốc có một số điểm chung:

1- Mâu thuẫn gay gắt giữa chính quyền cộng sản và nhân dân. Đảng Cộng sản dùng lối toàn trị, áp đặt xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, vô sản chuyên chính, mất dân chủ, dùng công an đàn áp người bất đồng chính kiến, tuyên truyền dối trá. Dân mất lòng tin vào Đảng, chán ghét chế độ, đoàn kết lại đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền.

2- Đảng tạo thành một giai cấp mới đặc quyền đặc lợi, các lãnh đạo cấp cao của Đảng trở thành vua chúa kiểu mới, thành bọn Trung ương sản đỏ, nhóm lợi ích, trong lúc nhiều bộ phận nhân dân sống thiếu thốn, cực khổ, bị áp bức bóc lột.

3- Nền kinh tế phát triển chậm chạp, thua kém các nước phương Tây, năng suất lao động thấp, chính phủ vay nợ nước ngoài rất nhiều. Vay nợ để kiến thiết đất nước thì ít mà chủ yếu để tham nhũng. Muốn tham nhũng lại tự tạo ra lãng phí. Vay nợ mới để trả nợ cũ và như vậy nợ càng chồng chất. Sự cai trị tàn bạo và ngu dân của Cộng sản làm suy đồi đạo đức xã hội.

4- Do phát triển của truyền thông, của Internet mà chính quyền không thể bưng bít thông tin để tiếp tục lừa dối nhân dân.

5- Do Liên Xô bị suy yếu nhiều, không còn đủ sức và không muốn can thiệp, để cho các nước tự lo liệu lấy (trong đó có vai trò của Gorbachev, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô đã thấy rõ sự dối trá của chủ nghĩa cộng sản, đề ra phong trào cải cách).

II- TÓM TẮT VÀI DIỄN BIẾN

Phong trào bắt đầu từ Ba Lan. Sau đây tóm tắt vài sự kiện chính tại mỗi nước.

1- Ba Lan. Cộng sản lấy tên Đảng Công nhân Thống nhất. Tổng Bí thư: Jaruzelski (1923-2014).

Năm 1970 công nhân tại Gdansk biểu tình phản đối nhà nước tăng giá nhu yếu phẩm, bị đàn áp, 44 người bị bắn chết. Năm 1978 nữ công nhân, anh hùng lao động Anna vận động thành lập công đoàn độc lập, bị vu cho tội ăn cắp và bị sa thải. Khắp nơi dấy lên phong trào ủng hộ Anna. 1980 Walesa vận động thành lập Công đoàn Đoàn kết, tổ chức đình công, hàng ngàn người bị bắt, bị đánh đập, tra tấn. Walesa bị bắt nhiều lần. Năm 1983 Giáo hoàng thăm Ba Lan, có tác dụng thức tỉnh và đoàn kết nhân dân quan tâm đến dân chủ. Trí thức và giáo hội ủng hộ Công đoàn Đoàn kết. Trong vòng 5 năm có trên 50% đảng viên bỏ đảng. Tháng 11/ 1987 Jaruzelski cho trưng cầu dân ý về đường lối xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, cộng sản chỉ nhận được sự ủng hộ của khoảng 40% cử tri. Ngày 1/5/1988 đình công toàn quốc. Chính quyền đàm phán với Công đoàn Đoàn kết, chấp nhận bầu cử tự do vào ngày 4 tháng 6/ 1989. Kết quả bầu cử cộng sản chỉ được dưới 5%, Công đoàn Đoàn kết thắng lớn, lập chính phủ. Ngày 27 tháng 10 / 1990 Đảng Công nhân Thống nhất họp, tuyên bố giải thể. Một số đảng viên đứng ra thành lập đảng mới, lấy tên Đảng Xã hội Dân chủ.

2- Hungari. Cộng sản lấy tên Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa. Tổng Bí thư: Janos Kadar (1912- 1989).

Năm 1956 Nagy làm thủ Trung ươngớng. Nhân dân nổi dậy chống sự chiếm đóng của Liên Xô. Quân đội LX kéo vào đàn áp, trên 2500 người bị giết, Nagy bị treo cổ, trên 20 vạn bỏ chạy ra nước ngoài. Trong hơn 30 năm tình hình xã hội và kinh tế trở nên tồi tệ. Năm 1986 Kadar định nhận tiền của Áo để xây đập trên sông Danube, cung cấp điện cho Áo. Đập sẽ phá hoại môi trường của Hung. Trí thức và công nhân liên kết chống lại. Năm 1988 Kadar (76 tuổi) đã bị mất uy tín, được thuyết phục từ chức nhưng không chịu. Ngày 20/5/1988 Trung ương Đảng họp, ép Kadar từ chức và đưa Grosz lên thay. Ngày 28/6/1988 cuộc biểu tình lớn ở thủ đô chào mừng sự kiện lật đổ Kadar. Ngày 15/3/1989 biểu tình khổng lồ kỷ niệm Cách mạng 1848 chống đế quốc Áo. Tháng 6/ 1989 có trên 30 vạn người dự lễ cải táng Nagy. Trong buổi lễ, Viktor Orban, một thanh niên 26 tuổi đọc diễn văn đả kích chế độ cộng sản độc tài. Ngày 6/7/89 Kadar chết. Ngày 10/9/89, do áp lực của dân tị nạn, phá bỏ hàng rào ngăn giữa Hung và Áo (bức màn sắt), đi lại tự do từ Hung sang Áo để đến Tây Đức. Bị áp lực của nhân dân ngày 23/10/89 Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa họp tuyên bố giải tán, lập đảng mới lấy tên Đảng Xã hội, đổi tên nước.

3- Đông Đức. Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa (CSED). Tổng Bí thư: Honecker (1912-1994).

Từ 1949 đến 1961 có trên 3 triệu người trốn sang Tây Đức. Năm 1961 xây bức tường Berlin, sau này có hàng trăm người bị bắn chết khi trèo qua tường. Đông Đức là nước có hệ thống mật vụ theo dõi dân chúng rất sát sao, do trùm công an Mielke chỉ huy. Ngày 5/7/ 1989 bầu cử Hội đồng nhân dân, bị phát hiện gian lận, các tổ chức dân sự yêu cầu điều tra. Sau khi Hungari phá bức màn sắt đã có hàng ngàn người Đông Đức qua Hung, Áo đến Tây Đức. Ngày 11/9/89 hội “Tân diễn đàn” thành lập, chỉ vài ngày đã có trên 150 ngàn người ký tên đòi đối thoại với chế độ. Ngày 18/9/89 có trên 15 ngàn người biểu tình, bị đàn áp, bị bắt trên 100. Mielke đề nghị trấn áp mạnh biểu tình bằng vũ lực nhưng bị một số lãnh đạo đảng không tán thành. Ngày 7/10/89 mít tinh kỷ niệm Quốc khánh, Gorbachev (được dân Đông Đức gọi thân mật là Gorby) đứng trên lễ đài. Khi đoàn diễu hành của thanh niên đi qua, mọi người bỗng hô vang: “Gorby, cứu chúng tôi, Gorby hãy cứu chúng tôi”. Chỉ một giờ sau, biểu tình nổ ra hàng loạt tại các thành phố lớn, công an bắt đi hàng ngàn người. Ngày 15/10 nhân dân thành phố Leipzig chuẩn bị biểu tình. Quân đội được lệnh trấn áp. Binh sĩ ôm nhau khóc vì phải bắn vào dân. Chủ tịch Hội Nhà văn Herman Kant gửi thư kêu gọi lãnh đạo Đảng kiểm điểm và đối thoại với dân. Lãnh đạo Đảng chia rẽ. Ngày 17/10 Trung ương Đảng họp, phế truất Honecker, đưa Krenz lên thay. Ngày 4/11 biểu tình 70 vạn người tại Berlin. Ngày 9/11 chính phủ ban bố cho dân tự do đi Tây Đức. Chỉ trong một đêm hàng vạn dân ùa đến bức tường Berlin đòi mở cửa, lính canh ban đầu không mở nhưng sau phải mở. Bức tường bị phá bỏ. Ngày 18/3/1990 bầu cử tự do, Đảng CSED bị mất tín nhiệm. Sau khi thống nhất những người trước đây làm việc tại Đông Đức vẫn được trọng dụng và được trả lương hưu.

4- Bungari. Đảng Cộng sản. Tổng bí thư: Todor Zhivkov (1911- 1998).

Tại Bungari có nhiều người gốc Thổ Nhĩ Kỳ như là một dân tộc thiểu số, họ bị đối xử bất bình đẳng. Tháng 5/ 1989 có trên 15 ngàn người Thổ biểu tình, bị đàn áp, 60 người chết, hàng trăm người bị thương, hàng ngàn bị bắt. Ngày 20/5 chính phủ trục xuất 300 ngàn người Thổ. Có 250 nhân vật nổi tiếng ký kiến nghị phản đối. Zhivkov chỉ thị cho cấp dưới xin lỗi và đổ tội cho an ninh làm quá. Uy tín của Đảng và Zhivkov xuống quá thấp. Để cứu vãn, một nhóm bốn người (Thủ tướng và ba Bộ trưởng) chủ trương lật đổ Zhivkov. Ngày 24/10 Bộ trưởng Ngoại giao từ chức, gửi thư công khai tố cáo Zhivkov độc quyền, tham nhũng. Zhivkov gặp bạn thân là Bộ trưởng Quốc phòng Dzhurov bàn cách đối phó, nhưng Dzhurov lại khuyên Zhivkov nên từ chức. Zhivkov âm mưu đưa con trai (Vladimir, 40 tuổi) lên thay thế. Đêm 8/11 Zhivkov tập hợp lực lượng ủng hộ nhưng vô vọng. Ngày 9/11 lãnh đạo Đảng họp, Zhivkov buộc phải từ chức, Mladenov lên thay nhưng vẫn cố giữ sự toàn trị của Đảng. Nhân dân tiếp tục biểu tình rầm rộ, thành lập Liên minh các lực lượng dân chủ. Mladenov phải đàm phán và chấp nhận tổ chức bầu cử tự do vào đầu năm 1990. Đảng Cộng sản họp, đổi tên thành Đảng Xã hội, chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa.

5- Tiệp Khắc. Đảng Cộng sản. Tổng Bí thư: ban đầu là Husak, sau là Jakes.

Năm 1967 và đầu 1968 một số người định làm cải cách dân chủ (Mùa xuân 68). Ngày 20/8/1968 quân đội Liên Xô dùng xe tăng đàn áp, trên năm ngàn bị chết và bị thương, trên 70 ngàn đảng viên bị khai trừ. Ngày 16/1/1969 sinh viên Jan Palach tự thiêu phản đối Liên Xô. Ngày 15/6/1976 buổi chơi nhạc của nhóm “Người nhựa vũ trụ” bị đàn áp (vì không xin phép). Tháng 1/ 1977 Havel, một trí thức lớn, thành lập “Hiến chương 77” đấu tranh bảo vệ nhân quyền. Havel bị bỏ tù bốn năm rưỡi. Ngày 8/12/1987 biểu tình lớn, Orta, đại diện nhóm Hiến chương 77 phát biểu về nhân quyền, bị bắt cùng với vài chục người. Ngày 17/12/87 ban lãnh đạo Đảng họp, cho Husak thôi Tổng Bí thư, lên làm Chủ tịch nước, đưa Jakes lên. Thay người nhưng vẫn giữ đường lối cũ. Ngày 15 đến 21 tháng 1/ 1989 sinh viên liên tục mít tinh kỷ niệm việc Palach tự thiêu, bị đàn áp. Ngày 15 có 90 người bị bắt. Ngày 16 biểu tình rầm rộ, 5000 người bị bắt, trong đó có Havel. 4000 người ký tên đòi thả Havel. Ngày 17/11 thanh niên diễu hành tưởng niệm 50 chiến sĩ Tiệp bị phát xít bắn chết trong một cuộc mít tinh năm 1939. Hơn 50 ngàn người biểu tình, hô khẩu hiệu: “Hãy nhớ sự kiện 68, đả đảo cộng sản”, bị đàn áp, 560 người bị thương, 120 bị bắt. Ngày 20/11 có trên 300 ngàn người biểu tình tại thủ đô. Nội bộ lãnh đạo Đảng chia rẽ, một số trong đó có Tổng Bí thư Jakes đòi dùng lực lượng vũ trang đán áp thẳng tay, một số khác đòi thương lượng. Ngày 22/11 Bộ trưởng Quốc phòng tuyên bố quân đội không chống lại nhân dân. Ngày 27/11 biểu tình 50 vạn người, tổng đình công. Ngày 28/11 do áp lực của nhân dân và quân đội toàn bộ lãnh đạo Đảng Cộng sản từ chức. Ngày 7/12 lập chính quyền mới, Havel được cử dứng đầu chính phủ. Năm 1993 Đảng Cộng sản bị coi là tội phạm trong lịch sử.

  1. Rumani. Đảng Cộng sản. Tổng Bí thư: Ceausescu (1918- 1989).

Ceasescu tự xưng là lãnh tụ anh minh và vĩ đại, thực sự là độc tài và gia đình trị nổi tiếng, sống như đế vương. Rumani có mạng lưới công an và mật vụ dày đặc, gieo rắc sợ hãi trong dân cư. Không hề có tự do báo chí và ngôn luận. Năm 1977 thợ mỏ đòi tăng lương, lãnh đạo hứa giải quyết nhưng sau đó trở mặt, bắt và thủ tiêu những người cầm đầu. Ceausescu thực hiện “tổ chức lại nền văn minh nông nghiệp” bằng cách định san bằng 8000 trong số 13000 làng xã để thành lập các trung tâm công nông nghiệp khỏng lồ, lại bắt san bằng khu phố cổ để xây cung điện nguy nga quá tốn kém. Dân chúng kéo nhau đi tị nạn. Ngày 2/3/1989 họa sĩ Babes tự thiêu để phản đối Ceausescu. Có sáu cán bộ cao cấp, lão thành gửi thư cho Đảng phê phán Ceausescu. Tháng 11/ 1989 Ceausescu được đại hội Đảng bầu lại làm Tổng Bí thư, trong lễ nhậm chức ông đã đọc diễn văn ba tiếng, được vỗ tay hoan hô 34 lần, lần nào cũng kéo dài. Tại thành phố Timisoara, một đêm cuối tháng 11 công an, mật vụ xông vào nhà đánh đập mục sư Tokes, một nhà hoạt động dân chủ. Giáo dân được tin kéo đến cứu Tokes và biến thành biểu tình. Ngày 17/12 công an đàn áp, bắt người. Biểu tình phát triển mạnh hơn, kiểm soát trung tâm thành phố Timisoara, Ceausescu ra lệnh lực lượng quân đội dùng xe tăng đàn áp, các lực lượng vũ trang phải bắn vào biểu tình không thương tiếc. Trong nước đưa tin 60 người bị giết, hàng trăm bị thương, đài Châu Âu tự do đưa tin trên 4000 người chết. Ngày 20/12 Ceausescu đi thăm Iran về, cho tổ chức mit tin chào mừng. Ban đầu quần chúng vỗ tay hoan hô nhưng sau đó có tiếng hô: TI-MI-SOA-RA, ban đầu nhỏ rồi to dần, vang rền. Rồi quần chúng hô to: “Đả đảo quân giết người. Ceausescu, dân là chủ”. Ngay sau đó biểu tình tỏa ra nhiều hướng. Vào 6 giờ tối công an xả súng vào biểu tình. Ngày 22/12 Ceausescu cách chức Bộ trưởng Quốc phòng Milea vì ngăn không cho binh lính bắn vào dân và ra lệnh giết ông. Trung ương lệnh các binh chủng đứng về phía biểu tình, đem quân bao vây trụ sở Đảng. Ceausescu cùng vợ lên trực thăng bỏ trốn, bị quân đội bắt lại. Một tòa án quân sự được thành lập, xét xử tội trạng, kết án tử hình. Ceausescu bị bắn ngay sau đó.

Ghi chú: Viết đoạn này tôi có tham khảo bài “Suy nghĩ về sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu” của Hà Tuấn Trung.

III. MỘT SỐ NHẬN XÉT

1- Các cuộc cách mạng đều bắt đầu bằng biểu tình hòa bình, tuy vậy không tránh khỏi đổ máu. Sự đàn áp của cộng sản là khó tránh và chỉ chứng tỏ thế yếu, tuy vậy khi dân đã giác ngộ, thấy rõ bản chất độc ác và hèn yếu của cộng sản thì sự đàn áp không làm số đông run sợ mà biểu tình càng đông hơn, dân càng quyết tâm hơn. Trong lực lượng biểu tình thì vai trò của thanh niên, của sinh viên và công nhân ở các thành phố là rất quan trọng.

2- Cộng sản dựa vào lực lượng vũ trang, ban đầu có một số vì bị mua chuộc, bị lừa bịp hoặc sợ hãi mà tuân lệnh để đàn áp dân, nhưng rồi họ nhận ra sự thối nát của cộng sản, sự chính nghĩa của nhân dân nên quân đội ủng hộ dân, công an quăng súng bỏ chạy.

3- Khi nhân dân nổi lên thì trong lãnh đạo cộng sản sẽ có phân hóa, bên cạnh một số cố níu giữ quyền lực đến phút cuối và sẵn sàng đàn áp thì cũng có nhiều người kịp thời thấy được sự chính nghĩa của nhân dân, từ bỏ cộng sản, đứng về phía nhân dân. Sự đấu tranh trong nội bộ của những người đứng đầu chính quyền có tác dụng thúc đẩy quá trình sụp đổ của cộng sản.

4- Chế độ cộng sản vốn tàn bạo và dối trá, ban đầu dân vừa bị lừa vừa sợ nên chịu khuất phục. Đến khi dân đã có giác ngộ, đoàn kết lại thì trở thành lực lượng mạnh, đủ sức loại bỏ chế độ cộng sản. Lãnh đạo cộng sản nếu biết thời đã hết, biết đặt quyền lợi quốc gia, dân tộc lên trên thì còn giữ được một chút gì đó, còn nếu cứ níu giữ sự độc tài đến cuối thì khó tránh khỏi kết thúc bi thảm như Ceausescu.

IV- NGHĨ GÌ VỀ VIỆT NAM

Chủ nghĩa Cộng sản vào được Việt Nam, sống bám và phát triển được là nhờ lòng yêu nước của các chiến sĩ cách mạng. Nhưng rồi lòng yêu nước đã bị lợi dụng. Cộng sản Việt Nam bị lệ thuộc vào Đảng Cộng sản Trung quốc, một tổ chức rất tàn bạo, rất độc ác, rất nham hiểm. Cộng sản Việt Nam nhờ đánh thắng vài cuộc chiến tranh, tự phong là “lương tâm của thời đại”, tự cho là “vô cùng sáng suốt và quang vinh” để lừa bịp nhân dân. Tháng 10/1989, Nguyễn Văn Linh bàn với Gorbachev kế hoạch Cộng sản Việt Nam kết hợp với Liên Xô ngăn cản cuộc cải cách của các nước Đông Âu, nhằm cứu phe xã hội chủ nghĩa. Khi Gorbachev không tán thành thì ông Linh lại tôn Đảng Cộng sản Trung Quốc lên thành lãnh đạo của phe xã hội chủ nghĩa. Năm 1969 Hồ Chí Minh cũng muốn dùng Đảng Cộng sản Việt Nam để hàn gắn bất đồng trong phong trào cộng sản quốc tế (toàn chuyện buồn cười vì ảo tưởng). So với các đảng cộng sản ở Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam nguy hiểm hơn, tàn bạo hơn. Ngoài việc học được các thủ đoạn của cộng sản Đông Đức và Rumani trong tổ chức mật vụ, cộng sản Việt Nam còn học theo cộng sản Trung Quốc nên có nhiều mưu mẹo thâm độc hơn, trắng trợn hơn trong việc đàn áp phong trào dân chủ và tuyên truyền lừa dối nhân dân. Đa số dân Việt Nam đã quen bị nô lệ, quen bị áp bức nên dễ bị cộng sản lừa dối, rất sợ Đảng và chính quyền, rất dũng cảm trong chống ngoại xâm nhưng rất e ngại trong đấu tranh cho tự do, dân chủ.

Tuy Việt Nam và Đông Âu có tình hình khác nhau, nhưng cùng chịu cảnh đọa đày của cộng sản. Chế độ cộng sản là tai họa của nhân loại, thế nào cũng bị loại bỏ hoàn toàn. Các nước Đông Âu và Liên Xô đã đi trước. Chế độ cộng sản chỉ còn lại tại vài nước. Rồi nhân dân các nước đó sẽ vùng lên để chôn vùi nó lần cuối cùng. Riêng tại Việt Nam sự chia rẽ, đấu đá trong nội bộ chóp bu của Đảng để tranh giành quyền lực tại Đại hội 12 sắp tới sẽ làm Đảng suy yếu trầm trọng, sẽ tạo cho nhân dân thấy rõ hơn sự thối nát không thể nào che giấu, tạo cơ hội cho các tổ chức dân chủ liên kết với những người tiến bộ trong Đảng, tạo thành lực lượng hùng hậu của nhân dân đứng lên tiến hành cải cách thể chế, loại bỏ chủ nghĩa cộng sản ra khỏi đời sống của dân tộc, có được như thế mới mong đưa dân tộc thoát khỏi sự nguy hiểm là thời kỳ Bắc thuộc mới.

  1. N.Đ. C.