Ông Dũng có thể đã chết, nhưng ông Trọng ơi, rồi ai sẽ thay ông?

Ông Dũng có thể đã chết, nhưng ông Trọng ơi, rồi ai sẽ thay ông?

Đôi lời: Bài này, tác giả đã giúp gỡ những chiếc đinh trên nắp quan tài anh Ba Dũng. Bài phân tích dựa trên thuyết âm mưu và có phần cảm tính của tác giả. Xin giới thiệu để độc giả biết thêm một góc nhìn khác.

____

Bùi Quang Vơm

31-15-2015

Gửi ông Trọng và 200 uỷ viên TW.

Chỉ còn vài tuần lễ để kết thúc việc chuẩn bị cho Đại hội XII, từ ngày 20 đến 28/1/2016. Thời gian còn quá ít. Khác với mọi kỳ Đại hội trước, lần này, tuyệt không một tin tức nào từ nội bộ bị rò rỉ.

Đã có một quy định đặc biệt được đưa ra từ hội nghị 12: “mọi nội dung về nhân sự là tuyệt mật, là sống còn của đảng, tiết lộ sẽ bị qui vào tội phản đảng, ngang với tội phản quốc, khai trừ và cách chức tuốt tuột ngay lập tức. Trong suốt thời gian hội nghị, mọi ủy viên tham dự sẽ ăn ngủ tại chỗ, không về nhà, không giao tiếp với bất kỳ ai và chịu sự giám sát 24/24”.

Chuyện “bí mật” thì xưa nay vẫn vậy. Việc của đảng chưa bao giờ là việc của dân. Nhưng bây giờ, nhìn vào đâu, đảng cũng thấy có kẻ thù, ở chỗ nào, cũng có âm mưu lật đổ. Đảng đang hoạt động trong lòng địch. Dân đã thành địch rồi. Lộ ra cho dân biết là chết. Phải áp dụng quy tắc thời chiến, như hoạt động bí mật, nghĩa là ngoài vòng pháp luật, nghĩa là hoạt động phi pháp.

Nhưng cái chuyện bí mật lần này thực đã không giống bất cứ lúc nào, bởi vì nó đã quá khó ngửi, nghĩa là chuyện nội bộ đã quá thối. Cái bẩn đã vung vãi lung tung mà đóng kín, thì.. có bao nhiêu, đảng ngửi hết.

Mặc dù vậy, khi bế mạc hội nghị 13, nghe ông Trọng tuyên bố “Hội nghị của chúng ta đã thành công tốt đẹp” và “nhìn chung đạt kế hoạch đề ra, mặc dù còn không ít khó khăn”, thì có thể đoán rằng cuộc chiến có thể đã ngã ngũ. Cũng có nghĩa là có thể ông “Dũng đang thoi thóp, thậm chí đã chết”. Bởi vì rõ ràng, “kế hoạch được đề ra” là loại bỏ bằng được ông Dũng, để “bảo vệ bằng được chế độ”.

Xưa nay, thiên hạ cứ đồn đoán hai phe, thậm chí ba phe, nhưng nhìn kỹ một chút, sẽ thấy chẳng có phe phái nào cả. Chỉ có chuyện Đảng và ông Dũng. Đảng về danh nghĩa có quyền tuyệt đối, nhưng lại chẳng có công cụ kiếm tiền, trong khi với hai nhiệm kỳ Thủ tướng, ở trung tâm thực quyền, ông Dũng lại kiếm được quá nhiều. Nếu có thể nói là ông Trọng, ông Sang hay nhiều ông chuyên trách đảng, không thuộc chính phủ, là trong sạch, là liêm khiết thì sợ “bé cái nhầm”, bất đắc dĩ phải “sạch” đấy thôi. Cứ nhìn ông Nông Đức Mạnh thì biết, hai nhiệm kỳ hò hét trong sạch, mà kiếm đủ tiền để dát vàng như cung vua, rồi để cưới một bà vợ ngang tuổi con mình. Cũng là mơ ước, thèm khát âm thầm của biết bao lãnh tụ. Ở Hội ngḥi 6, không biết ông Trọng thực khóc cho dân cho nước, hay khóc vì cay cú và uất ức? Và những kẻ “sạch” bất đắc dĩ này là đồng minh tự nhiên của ông. Chẳng phải vì ông có thừa tâm đức để quy tụ họ, mà chỉ vì họ cùng ghét ông Dũng.

Còn ông Dũng thì chưa bao giờ đủ tài đức để có thể tạo dựng được phe cánh. Nhưng mà có đồng minh, đồng minh cuả ông là lòng tham. Mà lòng tham thì ở đâu trong Đảng lại không có? Lực lượng của ông có lúc là 75% Trung ương kia mà! Nhưng tham thì tráo trở, lật lọng. Những kẻ bỏ phiếu tín nhíệm ông không phải vì ông đáng được, mà vì chính họ, bởi vì sau ông, sẽ tới họ. Nhưng khi ông “bốc mùi” thì những đồng minh này sẽ là những kẻ bỏ chạy đầu tiên.

Ông Đại Biểu Lê Nam nói trong phiên họp Quốc Hội: “nhiệm kỳ này chúng ta đã chứng kiến nước mắt của đồng chí Tổng bí thư rơi vào lịch sử”. Đúng vậy. Chưa bao giờ trong lịch sử Đảng CS Việt Nam, một TBT lại uất hận Thủ Tướng đến phải khóc. Chính vì thế, ngay từ sau Hội nghị 6, một kế hoạch “Đánh Chuột” hình thành.

Theo lẽ thường, thanh trừng bắt đầu bằng việc chặt tay chân đối thủ, nghĩa là cắt bỏ vây cánh. Chương trình “Luân chuyển cán bộ” – một kế hoạch cài người thân tín một cách công khai dưới danh nghĩa bồi dưỡng cán bộ quy hoạch ra đời ngày 21/03/2014. Đó là chước “Dụ rắn ra khỏi hang”.

Trong danh sách 25 cán bộ được giao trách nhiệm phó bí thư đảng bộ địa phương, có hai người bị loại ở Đại hội cơ sở là Nguyễn Văn Thanh, phó Tổng thanh tra Chính Phủ, được ông Dũng cài làm phó bí thư Lạng Sơn, nếu trúng bí thư, thì Chính Phủ sẽ là người kiểm soát cửa vào Trung Quốc, căn cứ hậu cần chiến lược của Đảng, và để tiện đi đêm, khi cần. Nguyễn Khắc Định, Phó Chủ Nhiệm Văn phòng Chính Phủ, người chuyên chấp bút diễn văn cho Thủ Tướng, được cài làm phó bí thư Thành Phố Hồ Chí Minh với ý đồ tiếp quản thường vụ thay Nguyễn Văn Đua về hưu, rồi lót chân Lê Thanh Hải, nắm quyền quyết định ở thành phố quan trọng nhất của Việt Nam. Nhưng ngày 15/04/2014, Tô Huy Rứa áp vào trao quyết định phân công Võ Văn Thưởng. Nguyễn Khắc Định không có tên trong Ban chấp hành mới của đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh.

Còn ở Lạng Sơn, Trần Sĩ Thanh, cháu Nguyễn Sinh Hùng, được Bộ Chính Tṛi chỉ định làm Bí thư, không qua bầu cử, Nguyễn Văn Thanh chưng hửng. Lê Thanh Hà, con trai nguyên Chủ tịch Lê Đức Anh, được ông Dũng cài vào Sài Gòn từ 2001, nhưng bị Lê Thanh Hải bắt bài, nên cô lập và vô hiệu hoá. Cả ba vị này ông Dũng phải cay đắng rút về Văn Phòng Chính Phủ.

19 vị khác được đưa xuống địa phương, chủ yếu do giới thiệu của Thủ tướng, cài vào vị trí Phó Chủ Tịch tỉnh – không một vị nào trúng Phó bí thư, nghĩa là không vị nào có được ghế Chủ tịch tỉnh.

Không chỉ tay chân của ông Dũng lộ hết nguyên hình, bị chặt cụt, sự nghiệp chính trị coi như hết, mà đám ăn theo, từng bỏ phiếu cho ông, bây giờ dúm vó, tim đập chân run, mặt cắt không ra máu. Những kẻ này sớm muộn cũng là những xác chết rồi. Vì thế, kỳ viết phiếu lần này ở Hội nghị 13, có khó gì mà không đoán ra được. Ai là kẻ dám to gan đề cử ông Dũng? Ai là Lê Lai cứu chúa. “Đi với ma mặc áo giấy”, những kẻ, nếu có lúc đi cùng đường với ông, chỉ là lòng tham, những kẻ mặc áo giấy, kiếm đâu ra Lê Lai.

Nhưng độc hơn, hiệu nghiệm hơn có lẽ là bài “lịch sử chính trị”. Đây là công cụ mà bậc thầy của các bậc thầy đểu giả là Lê Đức Thọ đã biến nó thành một nghệ thuật man rợ, vô nhân cách nhất của sự Đểu Giả của nền Chính Trị cộng sản. Nếu có vấn đề về lịch sử chính trị thì bắt buộc phải gạt ra ngoài danh sách đề cử và ứng cử, đợi điều tra xác minh. Đây là điều bất khả kháng duy nhất đối với mọi loại bầu bán của đảng. Chưa có kết luận thì còn treo. Nếu vẫn chưa có kết luận thì vẫn còn treo. Và nếu cứ mãi còn đang xác minh thì nghĩa là vận mệnh chính trị của con mồi đã hết. Chính vì vậy mà trước bầu cử , bao giờ cũng bất ngờ xuất hiện những tài liệu từ trên trời rơi xuống. Thật thì đối thủ chết ngay lập tức, mà giả thì phải điều tra, xác minh, nghĩa là không chết cũng ngắc ngoải.

Ông Dũng có quá nhiều điều cần phải xác minh. Con gái ông Dũng là đảng viên nhưng lấy chồng người Mỹ và có quốc tịch Mỹ. Vi phạm điều lệ đảng. Ông Dũng thông gia với quan chức cao cấp ngụy quyền Sài Gòn, đại tá tình báo Mỹ. Ông Dũng có hai tài khoản nước ngoài với hàng trăm triệu đô. Ông Dũng có bất động sản ở gần như tất cả các tỉnh. Ông Dũng tuồn tiền tham ô cho con gái, con gái tuồn tiền cho chồng rửa dưới danh nghĩa đầu tư ở nước ngoài, mua sắm bất động sản ở nước ngoài dưới vỏ bọc đầu tư. Ông Dũng chính là nhân vật bí ẩn đứng sau Phạm Qúy Ngọ trong lời khai cuả Dương Chí Dũng. Phủ thờ từ đường dòng họ của ông Dũng xây bằng tiền hối lộ…

Tất cả đều cần phải được xác minh. Để chính danh việc xác minh cần có người thật tố cáo. Ba vị Giáo sư-Tiến sỹ đầu ngành và cao niên nhất của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã phải hy sinh danh dự và uy tín của mình để tố cáo con gái Thủ tướng có quốc tịch Mỹ mà không đủ bằng chứng. Cần tới 3 Giáo sư-Tiến sỹ đầu ngành và không cần bằng chứng, vì mục đích chính là gây náo động, càng tranh cãi ồn ào càng tốt. Có thiếu căn cứ thì mới có tranh cãi và mới có thanh minh, mà có gì hơn sự nhận tội bằng chính lời thanh minh?

Nhưng để cho tiện, những vấn đề của ông Dũng, mặc dù chưa phải là tất cả, được gom lại trong một lá đơn tố cáo gửi ông Trọng, Bộ Chính trị và BCH Trung ương của người có tên là Trịnh Văn Lâu (Tư Cẩn), nguyên uỷ viên TW khoá VI, VII, nguyên phó Chủ nhiệm Thanh tra TW. Trong bản cáo trạng này, ngoài những tội đã nêu trên mà ai cũng rõ, còn có tội phá hoại quan hệ môi răng Trung Việt và tội âm mưu Tổng thống, âm mưu tách Quân Đội và Công An ra khỏi đảng, âm mưu dùng cựu Thủ tướng Anh Tony Blair làm cố vấn chuẩn bị Cách Mạng Màu…

Cùng với lời giãi bày công khai cuả Nguyễn Thanh Phượng là việc công khai qua mạng xã hội thư của người có tên là Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Chính phủ gửi Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, ba ngày trước Hội nghị TW 13, thanh minh với ông Trọng những điều mà Ban Thanh Tra TW báo cáo Bộ Chính trị liên quan đến ông Dũng.

Đây cũng lại là thủ đoạn“thanh minh là thú tội”. Nếu chính ông Dũng chịu thanh minh, thì trước hết, các tố cáo kia là có thật. Còn việc thanh minh đúng sai thì cần phải điều tra xác minh, tức là đã đạt được mục đích! Đọc cái thư thanh minh này, người ta chỉ thấy những tố cáo thì hóc hiểm, trong khi thanh minh thì hời hợt, yếu ớt, chả có mấy thuyết phục. Ông Dũng “lùn” thật với văn hoá chỉ đủ làm y tá, nhưng chắc chắn không ngu tới mức tự cắt… của mình. Với lại, việc nhận tội và cầu xin ông Trọng là việc chấp nhận đầu hàng, tự buông vũ khí, hy sinh, bỏ rơi vây cánh và tệ hơn là vô tình tâng ông Trọng lên tột đỉnh. Thử hình dung xem điều gì xảy ra khi lá thư này tới tay 200 uỷ viên TW đang bị nhốt kín trong phòng họp Hội nghị 13.

Không biết của ai, nhưng chắc chắn thư này không thể là của ông Dũng.

Vụ án Nguyễn Viết Dũng mặc quần áo ngụy quân là một tuyên chiến với những gì dính líu Chế độ Cộng Hoà, với bất kỳ ai liên quan tới Ngụy quân, Ngụy quyền. Mặc áo còn bị tù, thì thông gia với Ngụy quyền, với gián điệp Mỹ vẫn có thể làm Tổng Bí Thư ?!

Tất cả mọi tố cáo phải được làm rõ trước Đại Hội 12. Đó là lý do để chính danh hoá việc Ban Thanh Tra TW đảng được giao nhiệm vụ cấp bách với quyền hạn tối thượng, nghĩa là có quyền làm bất cứ điều gì, dùng bất cứ công cụ phương tiện nào, thọc vào bất cứ đâu, huy động bất cứ ai, trảm bất cứ trở lực nào, với danh nghiã bảo vệ sự trong sáng cho cán bộ cao cấp cuả đảng, nhằm mục đích bảo vệ Đảng, bảo vệ Chế độ. Nghĩa là mọi bí mật sẽ bị khui ra. Không một cái gì có thể che giấu. Cũng có nghĩa là ông Dũng bị lột “trần truồng”.

Nhưng có thể do khối lượng công việc qúa lớn, nội dung công việc quá phức tạp, trong khi thời hạn lại quá ngắn, sẽ phải tiếp tục điều tra sau Đại hội. Hội nghị 13 được triệu tập chậm hơn hai tháng, để thời gian điều tra không còn nữa, là vì lý do này. Nghĩa là mọi chuyên đã được tính trước. Hồ sơ ông Dũng sẽ phải tạm để lại. Và như vậy là số phận của ông Dũng đã được định đoạt. Không có ông Dũng trong danh sách đề cử. Lại thêm chính ông Dũng cũng đã “TỰ XIN RÚT không ứng cử”. Vì vậy, sẽ không có ông DũngTổng Bí Thư và cũng vì vậy, sẽ chẳng có ông Dũng Tổng Thống.

Và cái mà người ta điều tra ra sẽ là bản án treo trên đầu ông Dũng, có thể dùng bất cứ lúc nào để uy hiếp, trấn áp, mặc cả, thậm chí để cho những kẻ đê tiện, nhiều như ròi trong Đảng, làm tiền cha con ông Dũng.

Mưu ma này là của ai, của chính ông Trọng hay cuả cả bốn ông Trọng Dụ Rứa Huynh? Có Trần Đại Quang ở đây không? Mưu ma chước quỷ loại này cũng thường khiến người ta nghĩ đến Trung Nam Hải. Không có căn cứ nào để biết rõ.

Điều có thể khẳng định được duy nhất là ông Dũng phải thua và chắc là đã thua.

Ông Dũng vốn dĩ có thể thắng, vì ông có tiền, những kẻ ăn theo xúm quanh ông có tiền, rất nhiều tiền. Ai cũng cần tiền và vì tiền, kể cả thánh. Những kẻ ghen ghét ông, qúa một nửa trong số đó là vì tiền, dù chỉ là tiền ông cướp được của dân. Trong khi, “cái gì không mua được bằng tiền thì có thể mua được bằng rất nhiều tiền”. Chỉ tiếc, khi ông tuyên bố “không hy sinh chủ quyền để đổi lấy hữu nghị viển vông”, “đã đến lúc phải thay đổi cơ chế”, ông lại không đi tới cùng như chờ đợi của lòng người. Người ta không tin ông đem lại điều gì khả dĩ tốt đẹp, nhưng người ta sẽ dồn hết sức, thậm chí hy sinh cho ông để thay đổi chế độ. Tiếc là sự ngạo mạn ngu xuẩn và có thể lòng tham đã làm ông mù mắt. Bây giờ thì mọi chuyện đã thành quá muộn. Không ai cứu được ông nữa.

Ông ít học và chỉ quen nghề võ, mà xưa nay, Võ chỉ thắng trong thời loạn mà không thể thắng trong thời bình. Vì vậy ông cần phải làm ra loạn, tạo ra loạn. Sáng 28-12, khi chủ trì hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương ông đã chỉ thị phải “ngăn chặn âm mưu can thiệp của nước ngoài vào vấn đề nội bộ”.

Nguyễn Sinh Hùng đi Bắc Kinh ngày 21/12 vừa để trình duyệt dự thảo nhân sự Đại Hội 12, vừa để nhận chỉ thị cuả Tập. Đây chính là âm mưu can thiệp của nước ngoài ? Vấn đề nội bộ là gì, nội bộ Đảng, hay việc riêng của Dũng và Nhóm lợi ích thân Dũng?

Từ việc này có thể tiết lộ một sự thật: Nguyễn Tấn Dũng chính là mục tiêu tiêu diệt cuả họ Tập. Khi sang Việt Nam hồi tháng 11, cái mà Tập sợ nhất là phát ngôn kiểu “Hữu nghị viển vông” cuả Dũng. Nếu điều này xảy ra, nghĩa là Dũng vu vơ gì đấy giữa Quốc Hội, hay đài báo quốc tế, thì chuyến đi cuả Tập sẽ thất bại hoàn toàn, và “Thiên Tử” sẽ phải ôm nhục. Chính vì vậy mà trước khi sang VN, Tập đã úp mở phao tin sẽ mời riêng Dũng. Đó là chiêu “ảo ảnh sa mạc”, nhằm khoá miệng Dũng bằng ảo ảnh hào quang trên 9 tầng mây. Dũng là người duy nhất ôm hôn Tập 3 lần, Tập ngỏ lời mời và thế là Dũng ngây ngất, ngoan ngoãn im tiếng suốt chuyến đi của Tập.

Nhưng khi gặp Nguyễn Sinh Hùng, Tập lại chỉ chuyển lời hỏi thăm Trọng, Sang, không một lời đếm xỉa tới Dũng. Tập chúc mừng Trọng Sang và cười vào mũi Dũng.

Người ta đã lừa Dũng dễ dàng như lừa một chú chó con.

Vì vậy phải có loạn. Có loạn mới dùng được vũ lực. Kẻ nào không sợ chết? Phạm Quý Ngọ đã chết trước khi có thể nói ra cấp trên trực tiếp. Nguyễn Bá Thanh phải chết khi dám công khai tuyên chiến “hốt liền, không nói nhiều”. Phùng Quang Thanh lẽ ra đã bị bắn… còn những kẻ như họ Cù thì lập tức “biến” chỉ bằng hai bao cao su.

“Trạng chết chúa cũng băng hà, dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn”. Dũng sẽ không chịu. Sẽ có máu đổ. Đầu tiên là Trọng Lú, sau đó là Sang Móm, tiếp đến là Hải Sài Gòn.

Lời kêu gọi ngăn chặn âm mưu can thiệp của nước ngoài vào vấn đề nội bộ có phải được hiểu là lời tuyên chiến?

Nhưng Dũng làm gì có lực lượng. Đỗ Bá Tỵ lên Đại tướng, nhưng bị tước hết quyền lực. Cũng giống trường hợp Hà Văn Thắm, Chủ tịch Oceanbank, đã có quyết định khởi tố vẫn để cho tháp tùng ông Trọng đi Mỹ. Đỗ Bá Tỵ lên Đại tướng chỉ vì cần phong Đại tướng cho Ngô Xuân Lịch, bí thư TW, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, là người của đảng, sẽ vào Bộ Chính Trị trong Đại Hội 12 và sẽ là Bộ trưởng Quốc phòng, chứ không phải Tỵ.

Trần Đại Quang chưa bao giờ là người cuả Dũng. Dù rất nhiều cố gắng, nhiều công sức, nhưng thực ra Dũng chưa bao giờ kiểm soát được cái Bộ khốn nạn chỉ biết “còn Đảng còn mình” này, thậm chí cả khi còn Nguyễn Văn Hưởng. Dũng muốn nó thành Bộ Kiên giang, nhưng Lê Hồng Anh là một con lợn, ai cho ăn cũng khụt khịt, ngoáy đuôi. Bùi Quang Bền chỉ là một chú vịt bầu, lọt thỏm giữa đám vịt cái Nam Định, Ninh Bình. Bây giờ thì Trần Đaị Quang đã biến nó thành Bộ Ninh Bình rồi, và Quang khinh Dũng, chỉ đơn giản là vì chính Quang là người biết rõ nhất Dũng giầu như thế nào và từ đâu mà giầu. Đám lau nhau ăn theo Dũng, đông như kiến, nhưng là đám âm binh, vô hình, chỉ giỏi trò ma cô và sẵn sàng tháo chạy.

Vì vậy mà cùng trong một hội ngḥi trực tuyến với 63 tỉnh ngày 29/12, ngay sau khi Dũng kêu gọi “ngăn chặn âm mưu can thiệp của nước ngoài vào vấn đề nội bộ”, thì Quang cảnh cáo ngay “tình trạng nghiêm trọng tiết lộ bí mật quốc gia trên mạng” và tuyên bố “không để hình thành các tổ chức phản động, đối lập cũng như không để xảy ra các tình trạng bị động bất ngờ trong nội địa”?! Sau đó 1 ngày, 30/12, Đinh Thế Huynh cũng nhắc lại cảnh cáo “cư dân mạng nói (ông Hùng) sang là để TQ can thiệp vào ĐH 12 của Đảng, tác động vào nhân sự của ĐH là sai trái”. Ý ám chỉ là đe ông Dũng đã xúc phạm Thiên triều.

Dũng có thể làm gì được? Thủ tiêu cả Trọng, Sang cũng không giúp ông có được ghế TBT. Mà đụng tới Thiên Triều thì ngay cả mạng sống cũng khó mà giữ .

Không leo lên được thì chỉ còn đường về. Mà về thì ông thực khó mà sống. Ông có quá nhiều ân oán. Liệu người ta có để ông yên với đống tài sản khổng lồ mà ông chiếm được, dù thực ra không hoàn toàn do ông cố ý. Ông không cấm được người ta ăn cắp, trong khi theo luật cuả giới trộm cắp, thì “người để mình ăn cắp là người cùng ăn cắp và được chia phần như nhau”. Bệnh ăn cắp tài sản quốc gia là bệnh cuả chế độ, ông chỉ là người được ăn “của ăn cắp”. Ai ngồi cái chỗ phải ăn ấy cũng sẽ như ông thôi. Ông thừa biết, chỉ có thay đổi cái chế độ ngồi trên pháp luật này mới diệt được bệnh dùng pháp luật để ăn cắp. Nhưng ông đã không kiên định để dân và người Mỹ tin ông.

Tuy nhiên, gạt được Dũng ra khỏi cuộc chơi, mới chỉ đi được một nửa,“từ nay đến hội nghị 14 còn quá nhiều việc phải làm và không ít khó khăn”. Bởi vì còn chuyện của 4 cái ghế “tứ trụ”.

Quốc Hội thì có lẽ vào tay Nguyễn Thị Kim Ngân, vì TòngThị Phóng quá “đụt”, ngồi ghế tập sự tới hai nhiệm kỳ mà vẫn cứ như người ngọng.

Ở cái ghế thứ hai, Nguyễn Xuân Phúc có vẻ dương oai ồn ào nhưng tham không thua gì Dũng, trong khi gian hùng lại vượt xa Dũng và có tiếng là phản thầy, bán chúa. Hoàng Trung Hải có tài, nhưng có máu Tàu trong người, gọi tục là Trọng Thủy, leo lên Tể tướng thì nỏ thần Việt có cơ mất lần nữa. Vũ Đức Đam thì tuy sạch nhưng quá đơn giản, chưa hợp với chiến địa đang ngập đầy máu và thương tích. Chỉ còn Nguyễn Thiện Nhân, tuy có hơi hướng từ đào tạo Mỹ, nhưng cũng không chống Trung Quốc, nhất là thuộc loại trung dung, dễ bảo. Và nếu ông này trúng Thủ Tướng, thì VN còn chút may mắn.

Nguyễn Sinh Hùng, sau chuyến đi Trung Quốc vừa rồi, rộ lên tin đồn được Trung Quốc chấm vào ghế TBT. Nhưng chắc không phải. Có lẽ chỉ là chuyện Tập thưởng công cho việc tiếp đón tại Quốc Hội. Nhân việc cần Khâm sai sang trình nhân sự Đại Hội 12, nên Tập gọi đích danh, nhân thể nhận quà ban thưởng. Đích thân sang cầu nhận phong vương, thì dân Việt người ta đào mả cả ba đời nhà ông chứ tha à?! Vả lại, Hùng đã chịu phân công làm Chủ tịch Hội Đồng Bầu Cử QH năm 2016. Chả lẽ vừa làm TBT vừa làm Chủ tịch HĐ Bầu Cử? Vả lại, cái ông xứ Nghệ này, vốn ăn nói như dùi đục chấm mắm cáy, nếu lên ngôi Tổng, chắc dân Việt phải nhiều lần đỏ mặt với bàn dân quốc tế.

Trương Tấn Sang gần đây kín tiếng, ít ồn ào, không biết bên trong ẩn chứa gì. Vừa rồi, Ông hứa “sẽ tận dụng thời gian còn lại, dành tối đa thời gian để giải quyết những bức xúc, trăn trở của nhân dân, ngày mai nghỉ, chiều nay vẫn phải làm”. Không biết đây là tín hiệu rút lui hay là trò tung hoả mù để tránh đòn thù của Dũng. Ông này tuy thèm muốn chiếc ghế Tổng Bí Thư, nhưng lại không đủ gan đứng mũi chịu sào, muốn diệt Dũng, nhưng lại sợ Dũng, chỉ đánh võ mồm và nấp sau lưng Trọng. Nếu có trúng TBT thì cũng chẳng làm nên trò trống gì.

Đinh Thế Huynh là Chủ tịch Hội Đồng lý luận TW, mỗi năm một lần dẫn đoàn Hội Thảo lý luận với một Uỷ viên Bộ Chính Trị TQ, tất nhiên mỗi năm một lần nhận quà cuả TW đảng CS Trung Quốc, hai năm một lần ăn ngủ tại khách sạn hảo hạng cuả nước Trung Hoa, nếm đủ cuả ngon vật lạ cuả Thiên Triều, chắc chắn sẽ cũng như Tô Huy Rứa, và trước nữa là Nguyễn Phú Trọng, đã dầy công vun đắp cho tình hữu nghị keo sơn Trung Việt và làm giàu thêm kho tàng lý luận Mác-xít và Chủ Nghĩa Xã Hội. Ông này có thể được lòng Thiên Triều, nhưng chưa đủ bề dày để quy phục nhân tâm. Có thể được “quy hoạch” TBT, nhưng cho nhiệm kỳ tới. Kỳ này có thể thay Tô làm Trưởng Ban Tổ Chức, hoặc thay Lê vào chân Thường Vụ. Thậm chí có thể “hạ phóng” làm Bí Thư Hà Nội để tích lũy thực tiễn, rồi rút về, hoặc bầu bổ sung giữa nhiệm kỳ.

Trần Đại Quang nếu chịu rời chức Bộ Trưởng Công An đầy quyền thế, có thể chịu nhận chiếc ghế nào? Chủ tịch nước vốn có tiếng mà không có miếng. Cái ghế ấy chỉ hợp với đàn bà, quanh quẩn với các việc hiếu hỉ lễ nghi, nâng cốc và chúc tụng. Người ta chỉ nhận nó khi đã nguội lạnh mọi khát vọng. Quang chưa phải loại người này, chẳng lẽ vun vén biến Bộ Công An thành Bộ đồng hương Ninh Bình là để cho ai? Nếu cái chủ trương kéo thêm 10 năm cho tướng CA có bằng Giáo Sư Tiến Sĩ là để ghế Bộ Trưởng Công An cho Bùi Văn Nam, thì Quang sẽ đi đâu, Trưởng Ban Tổ Chức hay Trưởng Ban Thanh Tra? Còn nếu ông trúng TBT thì ra chế độ này là chế độ Cảnh Sát, Đảng này thành Đảng phát xít, gần 4 triệu đảng viên thành mật vụ hết à? Có thể làm Tổng thống kiểu Putin, nhưng làm sao thay được Hiến Pháp?

Như thế này thì ra Tổng Trọng âm mưu dọn chỗ cho chính mình? Già và lẩm cẩm như ông mà vẫn còn tham vọng, ảo tưởng thế sao? Hay ông cũng có giấc mơ cuả ông Nông, vợ trẻ, tiền nhiều? Taị sao ông cứ phải liên tục hò hét “bảo vệ cho được chế độ”? “ bảo vệ cho được chủ nghiã Mác Lênin và bảo vệ cho được XHCN”. “Phải kiên quyết chống cho được đa nguyên, đa đảng”. Đúng. Để bảo vệ cho được những thứ đó phải có những người như ông và chỉ những người như ông. Còn phải chọn ai nưã. Nhưng cũng chính vì giữ cho được những thứ từ lâu đã thành rác rưởi này mà ông, những người lú lẫn như ông và tiền bối mông muội của ông đã cướp đi của dân tộc bao nhiêu thế hệ. Lịch sử dân tộc đã bị các ông kéo lùi bao nhiêu năm?

Không còn mấy người như vậy đâu. Hãy nhìn quanh ông xem, đừng ảo tưởng nữa. Người ta gạt ông Dũng ra không phải vì ông sáng suốt mà vì ông Dũng bất tài, đã không đáp ứng được ngưỡng vọng của họ. Người ta bỏ ông Dũng, không phải để bầu cho ông, mà vì ông Dũng đã không lật được ông, không cứu được dân, không bảo vệ được đất nước.

Ông kêu “còn không ít khó khăn”, hãy nhìn kỹ lại xem, liệu có Đại Hội được không? Nếu cứ cố ép, rồi cũng sẽ có danh sách đề cử, nhưng rồi có bầu được không? Và rồi cái bầu ra sẽ có hình thù cuả cái gì? Hãy suy nghĩ lại xem. Tại sao như vậy? Đây là hiện tượng gì? triệu chứng gì? Khủng hoảng này do đâu? Lần Đại Hội này đã khó thế, liệu còn có lần sau không? Các nhân tố ngày tận thế cuả đảng đã xuất hiện từ chính sự chém giết mà ông là tác giả. Bởi vì không ai có thể giết được xu thế. Mọi cái mới xuất hiện, nếu nó tự lớn lên, không một sức mạnh nào cản nổi thì đó là yếu tố quy luật, đó là xu thế. Cái thuận quy luật thì tồn tại, cái cản lại nó không tránh được bị tiêu diệt.

Còn nếu để bảo vệ chế độ cộng sản, ông chủ trương dựa vào Tàu, trông nhờ vào ý thức hệ để bảo vệ độc đảng, thì ông sẽ là kẻ phản bội nhân dân cuả ông, ông sẽ có tên trong những kẻ bán nước, rước voi về dầy mả tổ. Hãy để cho dân cuả ông được sống như những người dân xung quanh vùng và trên thế giới. 200 con người, 200 cái đầu TW uỷ viên không ngu như ông tưởng đâu. Chỉ còn 4 nước CS độc đảng trong một thế giới gần 200 quốc gia. Điều đó đủ để chỉ cho 200 cái đầu TW biết rằng ông là người bị bệnh, bệnh lú lẫn. Và họ sẽ không bầu cho ông.

Ông đã biến chuyến đi Mỹ cuả ông thành một thứ trò chơi. Ông đã xúc phạm danh dự và sự nghiêm túc cuả Tổng thống Mỹ. Ông một lần nữa lại tiêu huỷ cơ hội lịch sử cuả Dân tộc. Ông không thể tránh được sự trừng phạt. Sự lú lẫn trong cái đầu của ông đã không còn là của riêng ông nữa. Nó đang kìm hãm, kéo lùi bước đi của cả một dân tộc. Hãy nhìn kỹ xem, ngoài ông ra, trong đảng cuả ông, có người thứ hai nào cố thủ ngu muội đến như ông không? Nếu không có thì hãy tin rằng mạng sống của ông đang bị đe dọa. Bởi vì sẽ có một suy diễn rằng chỉ cần loại được ông là hoá giải được tất cả. Và bởi vì cái điên cuả ông có thể làm nhiều cái đầu khác phát điên. Sự kiên nhẫn có thể đã tới hạn. Với hơn 90 triệu người thì khó mà lường trước được điều xảy ra.

Sẽ chẳng có ai thay ông cả. Ngay cả khi họ ngồi vào ghế của ông, họ cũng sẽ không lặp lại sự ngu xuẩn của ông. Nghiã là họ có thể ngồi đấy, nhưng họ sẽ không phải là người điên.

Và có thể tin được rằng, lần này sẽ là lần cuối cùng các ông làm Đại Hội.

31/12/2015

Chương trình H.O tái định cư: Tất cả là bước khởi đầu

Chương trình H.O tái định cư: Tất cả là bước khởi đầu

Cát Linh, phóng viên RFA
2015-12-31

Những thương phế binh VNCH trong một buổi nhận tiền từ thiện tại chùa Liên Trì, TPHCM hôm 9/4/2015.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Tiếp tục loạt bài về Tái định cư thương phế binh VNCH, Cát Linh xin gửi đến quí vị những lời chia sẻ của nhạc sĩ Trúc Hồ và Bà Hạnh Nhơn, là hai người sáng lập Hội H.O Cứu trợ thương phế binh, goá phụ VNCH và cũng chính là hai người đã phát động hé mở lại chương trình định cư cho các thương phế binh VNCH.

Trước tiên Bà Hạnh Nhơn cho biết:

“Chúng tôi rất mong mỏi việc đó. Tuy nhiên, việc này, đầu tiên là nhạc sĩ Trúc Hồ của đài SBTN phát động ra, nói với hội chúng tôi cung cấp danh sách thì được 580 người. Chúng tôi đã cùng với SBTN đi gặp bà Lora Funseth, ông McCain, dân biểu Alan Lowenthal, dân biểu Ed Royce. Ai cũng hứa yểm trợ nếu việc này được đưa ra bàn cãi ở Bộ Ngoại giao.”

Năm 1990, chương trình H.O cho các tù nhân chính trị phải chịu cảnh tù đày sau biến cố 30 tháng 4 đã mở ra một chương lịch sử lớn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam với gần 300 ngàn sĩ quan viên chức chế độ cũ cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vẫn là sức người có hạn. Vẫn còn rất nhiều những người lính sau khi kết thúc chiến tranh, dù là sĩ quan nhưng là thương phế binh nên họ không đi “học tập cải tạo”, không ở tù, và như thế, họ không đáp ứng được yêu cầu của dự luật H.O năm đó.

Từ tiếng kêu gọi của một người bạn bên kia bờ đại dương

“ Việc này, đầu tiên là nhạc sĩ Trúc Hồ của đài SBTN phát động ra, nói với hội chúng tôi cung cấp danh sách thì được 580 người. Chúng tôi đã cùng với SBTN đi gặp bà Lora Funseth, ông McCain, dân biểu Alan Lowenthal, dân biểu Ed Royce. Ai cũng hứa yểm trợ nếu việc này được đưa ra bàn cãi ở Bộ Ngoại giao.
-Bà Hạnh Nhơn”

40 năm sau, những phận đời lính oai hùng ngày nào, giờ đang trải qua những tháng ngày nhọc nhằn với một cơ thể không còn lành lặn. Không những khó khăn trong cuộc sống, con, cháu của họ cũng phải đối diện với những đối xử bất công trong xã hội. Họ chia sẻ nỗi niềm với những đồng đội cũ, những người may mắn hơn trong chương trình H.O hơn 20 năm trước. Và điều này đã làm cho nhạc sĩ Trúc Hồ cùng với nhóm những người H.O (Hội thương phế binh, cô nhi quả phụ do nhạc sĩ Trúc Hồ và Bà Hạnh Nhơn sáng lập từ năm 1992 đến nay)  nghĩ về việc vận động cho một chương trình tái định cư:

“Đây là tấm lòng thành thật của người Việt Nam ở hải ngoại từ tiếng kêu gọi của một người bạn ở bên kia bờ đại dương, là một thương phế binh sĩ quan gọi cho một người sĩ quan bên Hoa Kỳ, nói rằng có cách nào giúp cho họ đi không. Họ cũng là sĩ quan, gãy tay, gãy chân. Bây giờ con của họ bị đì, cháu của họ bị đì.”

Theo lời Bà Hạnh Nhơn, sau khi nhận được lời đề nghị từ nhạc sĩ Trúc Hồ, dân biểu Alan Lowenthal đã kêu gọi những dân biểu khác cùng đưa vấn đề này lên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.

Về phía nhạc sĩ Trúc Hồ thì ông cho biết mình đã tìm gặp ông John McCain, một trong hai tác giả của dự luật H.O để vận động mở lại chương trình tái định cư cho thương phế binh VNCH:

“Tôi gặp ông Alan, rồi đến ông Ed Royce, rồi đến ông John McCain. Tất cả những người dân biểu tôi gặp đều chỉ về ông John McCain hết, tác giả của đạo luât H.O. Tôi đã vận động ông McCain hai lần rồi, và sẽ tiếp tục vận động trong mùa bầu cử này.”

Chương trình được vận động từ hơn một năm nay. Cho đến ngày 17 tháng 12 vừa qua, năm vị Dân biểu Hoa Kỳ gồm các Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ Viện Quốc hội Hoa Kỳ, Dân biểu Alan Lowenthal, Dân biểu Christopher Smith, Dân biểu Gerald Connolly và Dân biểu Zoe Lofgren đã kêu gọi Ngoại trưởng John Kerry xem xét về việc có thể dùng các luật lệ hiện hành để tái định cư các Cựu quân nhân thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn sót lại tại Việt Nam.

Cho đến ‘Chương trình H.O nối tiếp’

000_Hkg10174176

Những thương phế binh VNCH trong một buổi nhận tiền từ thiện tại chùa Liên Trì, TPHCM hôm 9/4/2015

Như lời Bà Hạnh Nhơn đã cho biết, Hội H.O Cứu trợ Thương phế binh VNCH đã gửi 580 bộ hồ sơ của cựu sĩ quan thương phế binh để chờ xem xét cho chương trình tái định cư. Nói về lý do vì sao đối tượng của các bộ hồ sơ chỉ là sĩ quan, cả nhạc sĩ Trúc Hồ và Bà Hạnh Nhơn đều cho biết bởi vì chương trình mà họ vận động là một chương trình nối tiếp cho dự luật H.O đã có sẵn vào năm 1990. Thời gian để dự luật H.O được thực thi năm 1990 là phải trải qua 7 ,8 năm thương thảo, thay đổi rất nhiều điều lệ. Chính vì thế, theo Bà Hạnh Nhơn, không ai dám chắc rằng sẽ không phải chờ đến 7 hoặc 8 năm để làm hết tất cả hồ sơ cho các thương phế binh còn lại ở Việt Nam:

“Chúng tôi không phải là phân biệt đối xử mà không lo cho anh em hạ sĩ quan, binh sĩ. Mà tại vì có chương trình H.O có sẵn, và trước đây chính phủ Hoa Kỳ đã cho chương trình H.O để sĩ quan qua đây trước chứ không có chương trình cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Cái đó là do quyết định ở trên, chúng tôi không rõ. Bây giờ chúng tôi chỉ cho sĩ quan với cái số ít như vậy để cho người ta mở chương trình H.O đã có sẵn thì dễ hơn là mở ra 1 chương trình khác. chúng tôi xin hé mở chương trình H.O nối tiếp cho số sĩ quan thương phế binh qua trước cái đã rồi mình sẽ tính về sau.”

Nhạc sĩ Trúc Hồ cũng chia sẽ những ý tưởng của ông trong bước đầu của cuộc vận động này:

“Chúng tôi có nói với thượng nghị sĩ Việt Nam mình là bà Janet Nguyễn giúp một tay. Ý tưởng ban đầu là dựa vào dự luật H.O có sẵn. Mình chỉ muốn mở rộng thêm cái dự luật H.O thôi vì hồ sơ của thương phế binh, mà sĩ quan thì H.O đã có sẵn. Mình làm sao để người ta cộng thêm một số người mà dự luật này bỏ quên là những người sĩ quan mà thương phế binh. Những dân biểu mình gặp thì họ đã lên tiếng. Bà Janet Nguyễn thì lại muốn hết tất cả thương phế binh.”

Chưa có quyết định cụ thể

“ Hiện tại chưa có một quyết định nào hết. Chưa đưa ra bàn cãi gì hết. Chúng tôi rất dè dặt phổ biến, vì nếu đưa ra mà không được chấp thuận thì tội cho anh em ở Việt Nam người ta hy vọng quá. Cho nên chúng tôi vẫn âm thầm.
-Bà Hạnh Nhơn”

Cho đến thời điểm hiện tại thì chương trình này vẫn còn đang trong quá trình xem xét, chưa có một quyết định cụ thể nào từ phía Hoa Kỳ. Và theo như lời Bà Hạnh Nhơn cho biết, mặc dù lá thư của các vị dân biểu đã được gửi ra, nhưng thật sự đây chỉ là một sự khởi đầu:

“Hiện tại chưa có một quyết định nào hết. Chưa đưa ra bàn cãi gì hết. Chúng tôi rất dè dặt phổ biến, vì nếu đưa ra mà không được chấp thuận thì tội cho anh em ở Việt Nam người ta hy vọng quá. Cho nên chúng tôi vẫn âm thầm.”

Chính nhạc sĩ Trúc Hồ cũng nói rằng con đường phía trước còn rất dài, vì tất cả những gì mà ông và hội H.O cũng như chính lá thư của các vị dân biểu đều đang ở thời kỳ vận động cho việc mở lại chương trình tái định cư:

“Đây là những gì đang trong thời gian vận động, chưa có gì thật hết. Những người lính trong nước đừng nghe lời ai mà đưa tiền làm hồ sơ. Hiện giờ còn nằm trong vận động và những người dân biểu lên tiếng ủng hộ thôi.”

Bà Hạnh Nhơn bày tỏ sự lo lắng trước những thông tin không chính xác sẽ làm  cho số người thương phế binh VNCH ở Việt Nam hy vọng trong khi tất cả vẫn còn là bước khởi đầu:

“Hiện tại chưa có quyết định gì hết. mà bên này cứ tin đồn về Việt Nam làm rất tội cho anh em. Họ cứ tưởng là đã quyết định rồi, được rồi. Rồi có những dịch vụ đưa ra để làm giúp hồ với giá rẻ làm cho anh em rất tội nghiệp. Họ đang bình an, đang chấp nhận cuộc sống. Chúng tôi trấn an anh em là khi nào chính phủ Hoa Kỳ quyết định thì sẽ phổ biến rộng rãi, khi đó mới biết được chắc chắn.”

Vạn sự khởi đầu nan. 40 năm là một đoạn đường dài cho một cuộc đời, đối với những người lính thương phế binh VNCH năm xưa sẽ còn vô tận và gian nan hơn nhiều nữa. Cho dù tất cả chỉ là bước khởi đầu, nhưng chúng ta hãy cùng cầu chúc cho niềm hy vọng của những người lính ấy mau chóng thành hiện thực.

FB Lê Công Định

Nhiều bạn hỏi tôi ủng hộ hoặc kỳ vọng ai trong cuộc tranh chấp quyền lực giữa các nhà lãnh đạo hiện thời trước thềm Đại hội ĐCS lần thứ 12. Thú thật, tôi chẳng thể ủng hộ hoặc kỳ vọng vào nhân vật nào, bởi những lẽ sau đây:

1. Đấy không phải là cuộc tranh cử nguyên thủ quốc gia hợp hiến và minh bạch, trong đó toàn dân được sử dụng lá phiếu tự nguyện và công bằng của chính mình. Hiến Pháp Việt Nam 2013 không quy định về đại hội ĐCS, càng không quy định về Tổng Bí thư ĐCS cũng như cách thức lựa chọn 4 chức danh “tứ trụ” theo kiểu đang được phô diễn. Trái lại, đó chỉ là cuộc tranh giành quyền lực và miếng ăn trong nội bộ của một thiểu số người xem thường dân tộc và hiến pháp mà thôi.

2. Sự tồi tệ của đất nước ngày nay bắt nguồn từ kết quả lãnh đạo bất tài và thất bại của ĐCSVN trong một thời gian dài từ năm 1945 đến nay. Bất kể ai trong đảng đó, dù còn sống hay đã chết, đều phải chịu trách nhiệm về sự tồi tệ như vậy trước dân tộc. Do đó, chẳng nhân vật nào, kể cả đảng của họ, xứng đáng tiếp tục cầm quyền.

3. Mọi hành động của giới lãnh đạo hiện nay đều hoàn toàn khác xa với lời họ nói, dù rằng chính lời nói cũng chẳng hay ho và thông tuệ gì. Nguyên nhân là do tất cả họ đều thuộc hạng “văn dốt, võ nát”, đã vậy còn xôi thịt, lại thích dùng sức mạnh của gông cùm và khủng bố, hơn đối thoại và lắng nghe.

4. Người dân hoàn toàn mù tịt thông tin về họ, có chăng chỉ biết được qua đồn đoán, hoặc từ những trang mạng bất chợt được lập ra để bôi nhọ nhau. Cách làm truyền thông như thế không phải là phương thức thông dụng ở một nền dân chủ chính danh và đường hoàng, mà chỉ rặt một phường ném đá giấu tay không hơn không kém!

5. Sự thất bại trên toàn thế giới và tại Việt Nam của chủ nghĩa Marx-Lenin về phương diện kinh tế, lẫn phương diện thể chế chính trị dân chủ và tôn trọng quyền làm người, khiến những ai còn cổ suý cho chủ nghĩa đó hoặc không đoạn tuyệt hẳn với nó đều không đáng được khuyến khích nắm trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia Việt Nam trong hành trình phát triển đầy triển vọng trước mắt.

Trên đây là những lý do vì sao mà tôi hoàn toàn bàng quan trước mọi tranh cãi vô ích về yêu và ghét ai trong đám lãnh đạo đó. Họ chưa chứng minh đã và sẽ làm được gì cho dân tộc chúng ta cả, ngoài việc đang chạy tới chạy lui vì chiếc ghế và hũ gạo của mình và đồng bọn mà thôi. Vô nghĩa!

FB Lê Công Định

Ðối phó với ‘tin xấu độc’: CSVN ‘lấy thúng úp voi’

Ðối phó với ‘tin xấu độc’: CSVN ‘lấy thúng úp voi’
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) Nhà cầm quyền CSVN đang phải chống đỡ một cách khó khăn với các luồng thông tin mà họ gọi là “thông tin xấu độc” xuất hiện trên các trang mạng “bôi xấu lãnh đạo đảng, nhà nước.”

“Trên mạng xã hội xuất hiện rất nhiều thông tin xấu độc, đặc biệt trước các kỳ đại hội đảng và khi chuẩn bị về công tác nhân sự.” Ông Trương Minh Tuấn, thứ trưởng Bộ Thông Tin và Truyền Thông (thường được gọi tắt là Bộ 4T) được dẫn lời nói như vậy trong “hội nghị báo chí toàn quốc” chế độ đưa ra các chỉ thị cho guồng máy tuyên truyền của chế độ đối phó với các thứ tin “ngoài luồng.”



Trang mạng có tên “Phúc Phản Phúc” với những bài viết kèm tài liệu nói về khối tài sản khổng lồ mà ông Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc vơ vét được nhờ tham nhũng nhưng giao cho vợ chồng con gái đứng tên. (Hình: Người Việt)

Ông Tuấn kêu rằng, “Các trang này hầu hết xuyên tạc đường lối chính sách và bôi xấu lãnh đạo đảng và nhà nước” và dự báo “không chỉ đại hội đảng, chúng tôi còn dự báo trong thời gian tới sẽ xuất hiện những thông tin ồ ạt hơn.”

Dịp này, ông ta nói thêm và được báo điện tử VietNamNet tường thuật là “chúng tôi gần đây đã chỉ đạo các cơ quan báo chí phải đấu tranh lại với thông tin xấu độc, xuyên tạc.”

Từ khi có Internet, CSVN không còn thế độc quyền thông tin khi người dân có thể truy cập các nguồn thông tin khác nhau qua mạng lưới điện tử thông tin toàn cầu. Càng ngày Internet càng trở nên đa dạng theo tiến bộ của kỹ thuật điện tử nên khả năng ngăn chặn các luồng “thông tin xấu độc” trở thành lấy thúng úp voi.

Bởi vậy, chỉ thị, nghị định, luật lệ của chế độ theo nhau được sửa đổi rất nhiều lần nhưng vẫn không đuổi kịp các thứ thông tin độc hại ngoài luồng. Chỉ còn cách là bắt bỏ tù một vài người với hy vọng đám đông sợ hãi mà bớt sự chống đối.

Ngày 4 tháng 12, 2015, Tổng Cục Kỹ Thuật của Bộ Quốc Phòng CSVN đã tổ chức buổi tọa đàm “Lực lượng chuyên sâu đấu tranh trên mạng Internet” nhằm “đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu độc trên mạng Internet.”

Theo tin tờ “Quân Ðội Nhân Dân” thì “Ban chỉ đạo của Tổng Cục Kỹ Thuật và cấp ủy đảng các cấp đã triển khai nhiều biện pháp đấu tranh phòng, chống thông qua các hoạt động báo chí, tuyên truyền, xây dựng chính trị nội bộ; phát huy vai trò của hệ thống truyền thanh nội bộ, các thiết chế văn hóa ở đơn vị; lựa chọn, bồi dưỡng lực lượng chuyên sâu đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet…”

Nhà cầm quyền CSVN đã nhiều lần cho báo đài đưa tin “cảnh giác, tẩy chay thông tin bôi nhọ, ngụy tạo” các lãnh tụ của chế độ. Ngày 9 tháng 8, 2015, VietNamNet thuật lời ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng kêu gọi báo chí của chế độ “cần tỉnh táo trước thông tin lợi dụng dân chủ đòi đa đảng.”

Từ giữa năm ngoái tới đầu năm 2015, xuất hiện trên mạng trang thông tin “Chân Dung Quyền Lực” mà trên đó, nhiều lãnh đạo trong Bộ Chính Trị và Trung Ương Ðảng CSVN bị nêu tên. Hình ảnh, tài liệu về tài sản khổng lồ của những ông như Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Hòa Bình, bố con Phùng Quang Thanh, Phùng Quang Hải được vơ vét và đứng tên những ai, không dễ tìm được.

Mới đây, người ta thấy xuất hiện trang mạng “phucvophuc.com” lấy lại tất cả những bài viết tố cáo Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc khi ông này đang nhòm ngó cái chức thủ tướng.

Mấy ngày vừa qua, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng đi thăm Trung Quốc trước ngày đảng CSVN đại hội đảng một tháng đã dẫn đến nhiều lời bàn tán và đả kích trên mạng xã hội, nhất là khi người ta thấy ông ta đến viếng lăng Mao Trạch Ðông.

Ông Nguyễn Sinh Hùng đi báo cáo với Bắc Kinh về danh sách lãnh đạo đảng khóa tới, dựa hơi để hy vọng được đôn lên làm tổng bí thư hay chủ tịch nước, hay chỉ là thăm viếng thường lệ, nó là bí ẩn hậu trường chính trị cộng đảng Việt Nam sẽ dễ hiểu hơn sau khi đại hội đảng đã qua đi.

Trước những lời bàn tán và đả kích Nguyễn Sinh Hùng làm một thứ “Trần Ích Tắc,” ông Ðinh Thế Huynh, trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương và là một ủy viên Bộ Chính Trị của chế độ phải lên tiếng phủ nhận rằng “…cư dân mạng nói sang là để Trung Quốc can thiệp và Ðại hội 12 của đảng, tác động và nhân sự của đại hội. Tôi xin bác bỏ thông tin này.”

Việt Nam 2016: Năm quyết định thời cuộc?

Việt Nam 2016: Năm quyết định thời cuộc?

Hoang Dinh Nam AFP

Người dân Việt Nam mong đợi năm 2016 sẽ đem lại những tin vui

Các nhà quan sát trông đợi và kỳ vọng gì về những chuyển biến chính trị – xã hội Việt Nam trong năm 2016?

Hôm 31/12, BBC Tiếng Việt đã phỏng vấn những người theo dõi sát thời cuộc Việt Nam trong năm qua và hỏi nhận định của họ về năm 2016.

Chính quyền không thể ‘cứ như xưa’

Từ Hà Nội, luật sư Ngô Ngọc Trai, Trưởng văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự cho biết: “Tôi trông đợi trong năm 2016, Việt Nam sẽ tiếp tục các bước cải cách tư pháp còn dở dang trong năm qua để đem lại những bước đột phá cho nền kinh tế đang bị kiềm hãm và giúp cải thiện đời sống người dân cũng như bảo vệ tốt hơn quyền lợi doanh nghiệp tốt hơn. Muốn có điều này, chính quyền cần thay đổi nhận thức về hệ thống tư pháp”.

Luật sư Ngô Ngọc Trai kỳ vọng vào sự thay đổi nhận thức của chính quyền về nền tư pháp

Từ góc độ của người hành nghề luật, ông nhấn mạnh: “Năm 2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản sửa đổi nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm trong năm tới để giảm thiểu những vụ án oan, những rầy rà cho người dân và doanh nghiệp. Tôi mong rằng năm 2016, hai Luật Thanh tra và Luật Tố cáo sẽ được cải thiện nhằm tạo điều kiện cho giới luật sư bảo vệ doanh nghiệp cũng như những người tố cáo nhũng nhiễu”.

Ông Trai nói thêm rằng trong năm 2016, giới luật sư “còn nhiều việc phải làm”. Điều quan trọng là luật sư cần thể hiện vai trò tiên phong trong việc đấu tranh để tạo những chuyển biến trong hệ thống pháp luật và tư pháp.

Về những vụ việc đấu tranh dân chủ như trường hợp của luật sư Nguyễn Văn Đài mới bị bắt giam trở lại gần đây, luật sư Trai nói: “Trong bối cảnh nhận thức của người dân ngày càng tốt hơn và mạng xã hội tác động tích cực đến dân trí, tôi tin rằng chính quyền không thể hành xử theo kiểu ‘cứ như xưa’ được nữa”

 Đỗ Thị Minh Hạnh tin rằng các nhà hoạt động nghiệp đoàn sẽ đoàn kết hơn để tiếp tục đẩy mạnh phong trào

‘Không lạc quan cũng chẳng bi quan’

Từ TP. Hồ Chí Minh, nhà hoạt động Đỗ Thị Minh Hạnh cho hay: “Nói thật là tôi không lạc quan cũng chẳng bi quan về tình hình xã hội cũng như phong trào hoạt động nghiệp đoàn tại Việt Nam trong năm mới”.

Bà lý giải: “Những động thái của chính quyền trong việc câu lưu, bắt giam các nhà hoạt động dân chủ, nghiệp đoàn trước Đại hội Đảng 12 khiến ngay cả những người lạc quan cũng phải e ngại và nhận thấy chính quyền đang có sự mập mờ trong việc hành xử với những tiếng nói đối lập”.

Bà nói thêm: “Thách thức lớn nhất với những nhà hoạt động nghiệp đoàn trong năm 2016 là phải đoàn kết hơn nữa, bất chấp những ngăn trở từ phía chính quyền để đấu tranh cho quyền lập hội nhóm và nghiệp đoàn độc lập”.

Nhà hoạt động “hy vọng những người hoạt động nghiệp đoàn đang bị bắt giam như Đoàn Huy Chương và những trường hợp đấu tranh chống cưỡng chế đất đai như Nguyễn Mai Trung Tuấn sẽ sớm được trả tự do trong năm 2016. Chính quyền cũng phải thừa nhận rằng ngày càng có thêm nhiều người dân ủng hộ các hoạt động dân sự, nghiệp đoàn”.

 Luật sư Vũ Đức Khanh tin rằng ‘chính quyền hiểu người dân đang muốn có sự thay đổi’

‘Năm quyết định’

Từ Ottawa, Canada, Luật sư Vũ Đức Khanh nhận định 2016 là năm mang tính ‘quyết định thời cuộc Việt Nam giống như năm 1986 mở đường cho ‘đổi mới’”.

“Có thể thấy, sự kiện quan trọng nhất năm 2016 của Việt Nam là kỳ Đại hội Đảng 12. Những người lạc quan thì mong đợi kỳ Đại hội này sẽ thiết lập chính phủ mới, quốc hội mới đáp ứng được những kỳ vọng của người dân trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, luật sư nói.

Tuy vậy, ông cũng thừa nhận: “Rủi ro lớn nhất là phe cấp tiến thân phương Tây trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng không giành thắng lợi trong Đại hội do lực cản từ phía Trung Quốc. Điều này dẫn đến hệ lụy là sẽ làm chậm tiến trình TPP, khiến Việt Nam đánh mất nhiều cơ hội cải cách xã hội và đạt mức tăng trưởng kinh tế mới”.

Ông dự báo mọi chuyển biến của Việt Nam chỉ thật sự rõ ràng khi Đại hội Đảng 12 kết thúc và đem lại kết quả ‘khiến người dân cảm thấy an lòng là Đảng Cộng sản và nhà nước quyết định chọn con đường mới để đi thay vì tiếp tục núp bóng Trung Quốc’.

Nhức nhối vacin Việt Nam

Nhức nhối vacin Việt Nam

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-12-30

  • RFA

Một người đàn ông bế con đến cơ sở tiêm vacin ở Hà Nội

RFA

Sự kiện hàng trăm người chen lấn, giẫm đạp lên nhau từ 9h đêm cho đến sáng hôm sau để ghi danh tiêm vacin năm trong một và cuối cùng phải thất vọng ra về ở 182 Lương Thế Vinh, Thanh Xuân, Hà Nội chỉ là giọt nước làm tràn thêm chiếc ly nhức nhối về tiêm phòng cho trẻ em. Có thể nói rằng hiện nay, vấn đề tiêm phòng cho trẻ em là câu chuyện đầy may rủi và trắc ẩn cho trẻ em Việt Nam bởi hàng loạt cái chết đã xảy ra vì loại vacin này cũng như cách làm việc hết sức ầu ơ của ngành y tế Việt Nam.

Tính rủi ro quá cao

Một phụ huynh tên Hà, sống ở quận Thanh Xuân, Hà Nội, chia sẻ: “Cán bợ yt ế phường, xã họ làm việc mình thấy cũng không đáng tin cậy lắm. Nói chung là như trường hợp ở Quảng Trị, họ xạc (hút vào xilanh – nói theo ngôn ngữ nhà nghề) nhầm thuốc gây mê, sau đó chích cho tụi trẻ nên chết là chắc rồi. Họ không có trách nhiệm, cứ nhắm mắt nhắm mũi làm theo qui trình nên đâm ra tính mạng trẻ em nguy hiểm…”

Theo bà Hà, vấn đề tiêm vacin cho trẻ em luôn là nỗi trăn trở lớn của những bậc cha mẹ như bà. Bởi lẽ, hiện trạng xã hội Việt Nam đang là một hiện trạng đánh đu với mạng sống. Giải thích thêm, bà Hà cho rằng hầu hết vacin đều được đưa về các trung tâm y tế phường để chích. Trong khi đó, trình độ của cán bộ y tế phường là hết sức ầu ơ, chính vì trình độ ầu ơ, chuyên môn rất cà chớn của phần lớn cán bộ y tế phường mà mỗi lần đưa con đi tiêm vacin là một lần nhắm mắt đưa chân với hên xui may rủi.

Bà Hà nói rằng theo chỗ tìm hiểu của bà, hầu hết cán bộ y tế cấp phường xã, đều là những đảng viên Cộng sản trong phong trào đoàn vào những năm thập niên 1980, 1990 và họ được đào tạo chuyên một theo diện chín cộng hai. Nghĩa là thời đó, ai học đến lớp chín phổ thông, có gia đình thuộc diện có gốc có rễ trrong chế độ nhưng lại không thi nổi đại học thì được đào tạo thêm hai năm thực hành ở các bệnh viện huyện để thành cán bộ y tế.

Và hầu hết cán bộ y tế cấp xã đều làm việc theo kinh nghiệm và thói quen chứ không hiểu biết gì về tính năng hay tác dụng của những loại thuốc mới. Ví dụ như có vacin mới, loại năm trong một chẳng hạn, thì họ được đưa đi tập huấn vài ngày về kĩ thuật tiêm, tác dụng và dấu hiệu phản ứng xấu sau khi chích. Về phần khám sức khỏe trước khi chích vacin, hầu như làm theo kinh nghiệm là chính.

Có nhiều trường hợp mà theo bà Hà là hết sức buồn cười. Ví dụ như bà có hai đứa con nhỏ cách nhau hai tuổi, khi bà đưa đứa nhỏ đi chích vacin, cán bộ y tế thấy đứa lớn ngồi trên ghế khám là nhắm mắt nhắm mũi khám, khám xong ghi kết quả vào kết quả khám của đứa nhỏ và cho đi chích. Bà thắc mắc thì cán bộ y tế quát: “Tại sao bà cho đứa lớn ngồi vào ghế khám?”. Lúc này bà mới nói cho họ biết là chính cán bộ y tế bảo đứa lớn ngồi vào ghế khám trong khi nó chỉ đi theo em nó chứ không hề chích vacin. Cuối cùng, ông cán bộ y tế phường hỏi bà Hà sức khỏe đứa nhỏ có tốt không, bà nói tốt, ông cho chích vacin luôn chứ không hề khám đứa nhỏ.

Điều đó chứng tỏ cách khám sức khỏe trước khi chích vacin của cán bộ y tế phường chỉ có tính hình thức. Và nói một cách nghiêm túc thì họ cũng không có đủ khả năng để chẩn đoán sức khỏe cho đứa trẻ., Trong khi đó, lịch chích vacin chung cho cả nước là ngày 25 hằng tháng. Có ngày trùng với ngày Rằm âm lịch và việc chích diễn ra từ sáng sớm.

Người Saigon xếp hàng chờ tiêm vacin cho con

Người Saigon xếp hàng chờ tiêm vacin cho con

Bà Hà cho rằng lịch chích vacin như vậy hoàn toàn thiếu khoa học bởi trong những ngày Rằm, đồng hồ sinh học của đứa trẻ sẽ bị tác động mạnh bởi hấp lực mặt trăng, sức khỏe của đứa trẻ sẽ không bình thường, dễ bị phản ứng xấu với các chất lạ khi đưa vào cơ thể. Bên cạnh đó, chích vacin quá sớm như vậy cơ thể đứa trẻ cũng chưa hoàn toàn tỉnh thức bởi trẻ em cần ngủ đủ giấc, ăn uống no nê và có thời gian nghỉ ngơi sau khi ăn mới có thể chịu được việc chích vacin hay tiêm bất kì loại thuốc nào vào cơ thể.

Bà Hà cho rằng những cái chết oan nghiệt của các em bé ở Nghệ An, Quảng Trị, Hà Tĩnh sau khi chích vacin năm trong một có thể là phát xuất từ nguyên nhân sức khỏe của các em bé, chích thuốc lúc các em bé đói bụng, chích không đúng qui trình và vacin cũng không được bảo quản đúng qui trình. Tất cả những cái chết của các bé thơ sau khi chích vacin năm trong một, theo bà Hà là do trình độ chuyên môn của cán bộ y tế quá kém và nạn tham nhũng quá cao, lương tri nghề nghiệp cũng không có.

Trách nhiệm ngành y tế năm ở đâu?

Ông Kha, cựu cán bộ y tế quận, hiện sống ở quận Hà Đông, Hà Nội, chia sẻ: “Thứ nhất là cái qui chế, nó giống như mọi ngành khác nó bị cán bộ hóa. Tiêu cuẩn nghề nghiệp lại dựa trên pháp đồ, không ai dám chịu trách nhiệm. Người ta làm theo qui trình và không hề có suy nghĩ gì bên ngoài cái qui trình do nhà nước ban hành. Một khi cán bộ hóa, qui chuẩn hóa thì yếu tố tư duy sẽ bị kém…!”.

Theo ông Kha, vẫn có những cán bộ y tế phường và quận được học hành, đào tạo căn bản nhưng họ còn quá trẻ và chưa nắm bất kì quyền lực, trách nhiệm nào trong cơ quan. Hầu hết các trưởng trạm y tế cấp phường, xã trên cả nước đều là những cán bộ có trình độ “chín cộng hai” hoặc “mười hai cộng một” và sau này họ tiếp tục học chuyên tu, tại chức để tiến thân. Và chắc chắn là trăm phần trăm, không sót một mảy may nào cán bộ lãnh đạo y tế phải là đảng viên Cộng sản. Họ được mệnh danh “vừa hồng lại vừa chuyên” theo yêu cầu đặt ra của đảng và nhà nước.

Vì họ là đảng viên nên họ luôn trụ ở vị trí lãnh đạo mặc dù trình độ chuyên môn của họ rất thấp, nếu không muốn nói là không có gì trước yêu cầu quá khắt khe của thời đại khoa học công nghệ và y tế đã phát triển đến đỉnh cao. Bởi chính vì thiếu chuyên môn nhưng thừa quyền lực nên hầu hết các tuyến y tế từ xã đến huyện, tỉnh đều có nạn tham nhũng hoành hành, tham ô, móc ngoặt và hối lộ cũng không kém.

Bởi ngay từ đầu vào, muốn xin được việc, một điều dưỡng hay một bác sĩ mới ra trường phải bỏ ra một số tiền không nhỏ để đút lót lãnh đạo, và khi làm nghề, họ phải lấy lại số tiền đó, sau đó tiếp tục lấy lãi và lúc này, hấp lực đồng tiền kéo họ đi đến chỗ không có điểm dừng. Sức khỏe của bệnh nhân trở thành cái cớ để cán bộ y tế đục khoét, nhũng nhiễu.

Đặc biệt, ngân sách cũng như viện trợ hằng năm cho các tuyến y tế phường, xã là rất cao nhằm mua sắm những trang thiết bị hiện đại, xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng hầu hết các công trình hàng chục tỉ đồng, thậm chí hàng trăm tỉ đồng đều là những công trình sớm nở tối tàn, chưa hoàn thiện đã bong tróc, nứt nẻ bởi nạn tham nhũng, rút ruột và toa rập giữa cán bộ lãnh đạo với nhà thầu xây dựng.

Lấy một ví dụ nhỏ, ông Kha so sánh bản chi tiết xây dựng công trình nhà nước và công trình tư nhân. Ví dụ tiền công xây dựng của một công trình tư nhân nhà cấp bốn không có đổ trần bê tông hiện tại là 800 ngàn đồng trên mỗi mét vuông hoàn thiện. Nhưng với công trình nhà nước, bản chi tiết của mỗi mét vuông xây dựng sẽ gồm 800 ngàn đồng xây dựng cộng với tiền đắp tường, tiền chạy chỉ, tiền xử lý chống thấm, tiền làm đẹp trần nhà và đủ các loại tiền khác sẽ lên đến hai triệu đồng mỗi mét vuông, đó là giá chung trong xây dựng công trình nhà nước. Chưa kể đến nâng giá khống vật liệu xây dựng rồi sau đó rút ruột công trình.

Ông Kha chua chát đưa ra nhận xét là hầu hết các cán bộ lãnh đạo nhà nước, đặc biệt là lãnh đạo ngành y tế đều rất giỏi tính toán nâng giá công trình xây dựng nhưng lại kém về chuyên môn y học. Và chuyện này sẽ còn kéo dài rất lâu nếu như ngành y tế vẫn tiếp tục quan tâm đến viện phí, tiền dịch vụ y tế nhưng lại không quan tâm đến đạo đức, lương tâm từ lãnh đạo cao nhất đến cán bộ nhỏ nhất.

Câu chuyện vacin Việt Nam, nếu nói đúng bản chất thì cần phải tiêm cho mỗi cán bộ ngành y tế một mũi vacin chống tham nhũng, chống vô cảm, chống nói khoét, chống cậy quyền, chống hành hạ bệnh nhân – đó là mũi vacin năm trong một của cán bộ y tế trước khi họ được phép chích vacin năm trong một cho trẻ em.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

 

Người Việt có yêu nước không?

Người Việt có yêu nước không?

Song Chi.

RFA

Người Việt có yêu nước không? Nếu bây giờ mà đặt một câu hỏi như vậy thì đúng là rất dễ bị “ném đá”, tẩy chay!
Bao nhiêu năm nay khi đi học trẻ em Việt Nam luôn được dạy rằng người Việt có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, anh hùng bất khuất, chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh v.v…Và nếu nhìn lại lịch sử VN suốt mấy ngàn năm qua thì quả là đúng vậy. Nếu không yêu nước, không quyết tâm bảo vệ đất nước, có lẽ cha ông chúng ta đã không thể giành lại được độc lập cho đất nước sau một ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, 100 năm bị Tây đô hộ. Rõ ràng là “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có” (Bình Ngô Đại cáo, Nguyễn Trãi), hết lớp người này đến lớp người khác, đã đứng lên, ngã xuống, và tiếp tục đứng lên, để bảo vệ đất nước.
Lịch sử của VN là lịch sử viết bằng máu của những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm lẫn nội chiến, thời gian chiến tranh có nhiều khi còn dài hơn cả thời bình. Nếu người Việt không yêu nước, có lẽ bây giờ VN đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới, đã trở thành một quận lỵ, một tỉnh của Tàu từ lâu lắm rồi. Cha ông ta không những đã bảo vệ trọn vẹn non sông mà còn mở rộng lãnh thổ lãnh hải về phía Nam để trao lại cho con cháu đời nay một Tổ Quốc VN dài từ Nam ra Bắc với hình dáng chữ S như bây giờ.
Thế nhưng, kể từ khi đảng cộng sản xuất hiện rồi dần dà trở thành đảng lãnh đạo duy nhất tại VN thì mọi chuyện có khác.
Như tất cả mọi đảng phái chính trị khác, ngay từ khi khởi đầu cho đến tận giờ này, sau 85 năm thành lập, 70 năm độc quyền lãnh đạo ở miền Bắc, 40 năm độc quyền lãnh đạo trên toàn đất nước VN, đảng cộng sản luôn luôn nhân danh lòng yêu nước cũng như lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để cướp chính quyền về tay mình và giữ riệt lấy quyền lực. Thật sự ra đảng cộng sản chưa bao giờ yêu nước thương nòi.
Nếu thật sự yêu nước, họ đã đặt quyền lợi của đất nước dân tộc lên trên quyền lợi của đảng. Nếu thật sự yêu nước, thương dân, họ đã không chọn con đường giành chính quyền bằng bạo lực bất chấp ý nguyện của nhân dân, sau đó tiếp tục đẩy cả dân tộc vào cuộc chiến tranh với Pháp rồi với Mỹ đồng thời là cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn kéo dài suốt 20 năm, bất chấp cái giá phải trả là xương máu của nhân dân, đất nước hoang tàn, lòng người ly tán. Lịch sử VN suốt bốn ngàn năm chưa bao giờ mất đất, thậm chí ông cha ta như vừa nói trên còn mở mang bờ cõi VN, nhưng chỉ dưới triều đại do đảng cộng sản cầm quyền, VN đã mất đất, mất đảo, mất biển vào tay Trung Cộng và sẽ còn tiếp tục mất nữa…
Bây giờ họ lại tiếp tục đặt quyền lợi của đảng lên trên hết, tiếp tục bám víu quyền lực, cố giữ cái chế độ độc tài toàn trị lạc hậu phản động, phản cách mạng này bằng mọi giá, bất chấp con đường đã và đang đi là sai lầm, bất chấp tình trạng tụt hậu thê thảm của đất nước, sự khốn cùng của nhân dân và nguy cơ bị lệ thuộc vĩnh viễn, nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng.
Trong suốt 70 năm qua, lịch sử rất nhiều lần đã cho đảng cộng sản được quyền lựa chọn và đảng cộng sản đã luôn luôn lựa chọn sai lầm, xuất phát từ sự tham quyền cố vị, ích kỷ, đớn hèn. Chưa và sẽ không bao giờ đảng và nhà nước cộng sản thực sự có bất cứ một hành vi nào là yêu nước. Không những thế, đảng cộng sản còn hèn hạ nhịn nhục, nhân nhượng, kể cả bán nước cho ngoại bang, cụ thể là cho Trung Cộng, để được tiếp tục yên thân cai trị đất nước. Đảng cộng sản đã từng dựa vào ngoại bang, Liên Xô và Trung Cộng để giành được chiến thắng, bây giờ họ vẫn tiếp tục lệ thuộc vào ngoại bang, để cho Trung Cộng thò tay thao túng và can thiệp vào mọi chuyện nội bộ của VN.
Đó là nói chung đảng và nhà nước cộng sản. Còn từng cá nhân đảng viên đảng cộng sản họ có yêu nước không? Có thể có những cá nhân ban đầu đi theo đảng xuất phát từ lòng yêu nước, sau đó đau đớn khi thấy niềm tin vảo đảng cộng sản của mình bị đặt sai chỗ, rằng đảng cộng sản đã lừa dối hàng chục triệu người, đẩy nhân dân vào cuộc chiến tàn khốc với niềm mơ ước sẽ xây dựng lại một chế độ tốt đẹp hơn, công bằng, tiến bộ hơn gấp nhiều lần chế độ cũ. Hóa ra chỉ là cái bánh vẽ, chế độ mà đảng cộng sản đang điều hành còn tồi tệ hơn mọi chế độ phong kiến, thuộc địa, hay chế độ VNCH cũ gấp hàng trăm, hàng ngàn lần.
Tất cả những gì đảng cộng sản từng nói, từng đả phá, từng vì nó mà chiến đấu, bây giờ đảng hoàn toàn làm ngược lại, lộ rõ một tập đoàn tham nhũng, mafia, bán nước, “hèn với giặc ác với dân”. Những con người nhận ra sự thật ấy đã cay đắng mà từ bỏ đảng, trở về với nhân dân, thậm chí là những người mạnh mẽ lên tiếng tố cáo chế độ, như ông Hoàng Minh Chính, tướng Trần Độ, đại tá Bùi Tín, nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà văn Dương Thu Hương, nhạc sĩ Tô Hải, nhà thơ Bùi Minh Quốc, hai anh em ông Huỳnh Nhật Tấn (Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết), Huỳnh Nhật Hải (Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên), luật gia Lê Hiếu Đằng, trung tá Trần Anh Kim v.v…
Nhưng đó chỉ là số ít. Số đông vẫn bám lấy đảng vì quyền lợi. Và những người này họ có yêu nước không? Câu trả lời là không. Vì nếu yêu nước, họ hẳn đã nhận ra đảng cộng sản là nguyên nhân gây ra sự lạc hậu đói nghèo, thua kém của VN so với các nước xung quanh và thế giới, chế độ này là một chế độ độc tài lạc hậu, và cần phải thay đổi thể chế chính trị, chuyển sang mô hình tự do dân chủ đa đảng pháp trị thì mới mong đưa đất nước thoát khỏi sự khó khăn, bế tắc và nguy cơ bị mất nước như hiện tại. Nhưng không, dù có nhận ra hay không, họ vẫn tiếp tục bám lấy đảng, bám lấy chế độ để thăng quan tiến chức, làm giàu, vơ vét những gì có thể vơ vét được.
Một mặt, họ tiếp tục lên tiếng bênh vực chế độ, ca ngợi đảng và nhà nước cộng sản, thậm chí cực đoan hơn, chửi bới các nước Hoa Kỳ và phương Tây, căm ghét tất cả những gì dính dáng đến chế độ VNCH cũ hoặc mọi hoạt động đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền, mọi nhân tố tiến bộ trong xã hội; nhưng mặt khác, khi bệnh nặng thì họ lại chạy sang các nước “tư bản giãy chết” để chữa trị chứ không chữa trị trong nước hay sang nước Trung Quốc “anh em”, họ lại cho con cháu đi học ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây, lén lút tẩu tán tài sản sang các nước này, chuẩn bị tất cả để bất cứ khi nào có “biến” thì họ đã có sẵn cơ ngơi, nhà cửa…ở bên ấy và thong dong hạ cánh an toàn hưởng nhàn đến mấy đời sau.
Đất nước đói nghèo tụt hậu-mặc kệ, kinh tế khủng hoảng, nợ công nợ xấu ngập đầu, môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề, giáo dục nát bét, đạo đức xã hội xuống cấp, người dân không hề được hưởng những quyền tự do dân chủ và những giá trị nhân quyền phổ quát trên toàn thế giới đã đành mà còn phải sống trong cảnh bất an, bất ổn từ kinh tế cho tới tinh thần…-mặc kệ, VN có nguy cơ bị Trung Cộng thôn tính vĩnh viễn-mặc kệ. Họ còn mong cho chế độ này tồn tại lâu dài để tuyệt đại đa số nhân dân đói nghèo trong lúc họ và những kẻ như họ ung dung hưởng mọi bổng lộc, ăn trên ngồi trước. Yêu nước? Không. Yêu đảng thì may ra. Vì đảng cộng sản đã cho họ mọi thứ, nhiều người trong số họ “từ không thành có tất cả” là nhờ đảng cộng sản.
Còn với hơn 90 triệu người dân trong và ngoài nước, chúng ta có yêu nước không?
Với người dân trong nước, sau bao nhiêu năm sống dưới chế độ cộng sản đã khiến cái nhìn, quan điểm, mục đích, lý tưởng sống của con người ít nhiều bị méo mó, thực dụng đi. Phải sống trong một chế độ, thể chế không lo được cho người dân bất cứ cái gì, không hề có an sinh phúc lợi xã hội, mọi thứ người dân phải tự lo, nhưng lại phải è cổ đóng đủ thứ thuế cho nhà nước, bị nhà nước bóp nặn đủ kiểu, luật pháp thì chỉ bảo vệ cho kẻ mạnh và cho chính nhà nước. Phải chứng kiến bao nhiêu cảnh bất công trái tai gai mắt, người tử tế, lương thiện thì bị thiệt thòi, kẻ cơ hội xấu xa thì luồn sâu leo cao; người có tài nhưng thân cô thế cô thì không được trọng dụng trong lúc những kẻ bất tài nhưng có tiền có quyền hoặc con ông cháu cha thì cứ thế mà được đặt sẵn những chỗ “thơm” nhất, ngon nhất trong xã hội…
Khi phải sống trong một chế độ, một xã hội như vậy, lâu dần con người trở nên ích kỷ hoặc vô cảm hoặc tệ hơn, cơ hội, thực dụng, vì phải nghĩ tới mình trước, lo cho bản thân mình, gia đình mình trước hết. Và thế là hình thành những lối suy nghĩ, cách sống phổ biến là tìm cách thoát khỏi đói nghèo bằng mọi giá. Nhà nhà lo mưu sinh lo làm giàu, không còn thời gian tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện chính trị, vận mệnh đất nước.
Nếu nhà nghèo, không có đường làm ăn ở trong nước thì tìm cách đi lao động xuất khẩu, cho con gái lấy chồng ngoại, nếu có tiền hơn thì mở cơ sở làm ăn ở nước khác, đi du học hoặc cho con đi du học rồi tìm cách ở lại…Nghĩa là chỉ trừ những người hoàn toàn không có đường để ra đi, còn lại rất nhiều người VN vẫn âm thầm tìm mọi cách chạy thoát khỏi con tàu VN!
Sau biến cố lịch sử 30.4.1975 chỉ một thời gian ngắn, hàng triệu người đã phải bỏ nước ra đi tỵ nạn cộng sản, tạo thành một làn sóng thuyền nhân đánh động lương tâm cả thế giới, để rồi trong suốt 40 năm qua dòng người tìm đường ra đi dù không còn ồ ạt như xưa nhưng vẫn chưa bao giờ dừng lại. Trong lúc những người đã ra đi, chẳng mấy ai nghĩ đến chuyện đem tài năng, tuổi trẻ về cống hiến, phục vụ đất nước. Đừng hỏi tại sao vì chúng ta đã thừa biết câu trả lời. Và có lẽ chỉ khi nào đất nước thực sự chuyển đổi sang mô hình tự do dân chủ, may ra lúc đó mới chấm dứt chuyện người Việt bỏ nước ra đi và may ra mới có chiều ngược lại, trở về xây dựng quê hương.
Còn người Việt sống ở nước ngoài? Nếu chỉ căn cứ vào hành vi đi làm ở nước người rồi gửi tiền về VN là yêu nước, thì người Việt hẳn là một cộng đồng yêu nước rất mạnh, bởi vì VN trong nhiều năm qua luôn là một trong những quốc gia có lượng kiều hối gửi về rất cao, chính số tiền này đã góp phần nuôi sống nhà nước độc tài cộng sản cho đến tận giờ này. Nếu căn cứ vào sự quan tâm của người Việt với tình hình thời sự chính trị xã hội trong nước, người Việt nhìn chung cũng là một cộng đồng rất quan tâm theo dõi tình hình VN, sống ở nước người ta nhưng tâm trí cứ đau đáu nghĩ về VN, gặp nhau là lại nói chuyện về VN…Đó là thế hệ trung niên hoặc lớn tuổi, còn bọn trẻ lớn lên hoặc sinh ra ở nước người thì khác, chúng không còn mấy quan tâm nữa.
Nhưng người Việt cũng là một cộng đồng rất lạ. Người Việt có thể xót xa nghĩ về quê hương, có thể chăm chỉ gửi tiền về nước giúp người thân, nhưng nếu phải đồng lòng làm một việc gì đó, hy sinh quyền lợi của mình cho sự thay đổi của đất nước thì chưa chắc. Ví dụ như nếu bảo tất cả mọi người chỉ cần ngưng gửi tiền về nhà một thời gian để nhà nước này, vốn đang bị khủng hoảng khó khăn về kinh tế, sẽ càng thêm bội phần khó khăn và buộc phải thay đổi chẳng hạn, thì có thể nói chắc rằng chẳng mấy người làm đâu. Người Việt có đến hàng chục hàng trăm đảng phái, tổ chức đang hoạt động chính trị ở ngoài nước, nhưng riêng việc ngồi lại với nhau, cùng nhau tạo thành sức mạnh chung để trợ giúp người trong nước, đẩy mạnh phong trào hoạt động dân sự, dân chủ, thúc đẩy quá trình chuyển đổi chính trị trong nước là chẳng bao giờ làm được. Chưa nói đến chuyện đánh phá lẫn nhau.
Có nghĩa là từ nhà nước cộng sản nói chung, đảng viên cộng sản nói riêng cho tới người dân đang sống trong hay ngoài nước, chúng ta vẫn chỉ nghĩ tới quyền lợi của mình, còn chúng ta vẫn không/chưa thực sự chấp nhận đánh đổi hy sinh, mất mát dù chỉ một chút những gì đang có, cho một tương lai chung tốt đẹp hơn của đất nước. Chúng ta vẫn chưa thực sự thấy nhục thấy đau vì hình ảnh VN trong mắt thế giới nhiều năm qua chỉ thường gắn với những gì tệ hại, lạc hậu… để mà quyết liệt thay đổi.
Như vậy so với những dân tộc biết vì cái chung, hoặc biết vượt qua những sai lầm, thất bại, mất mát…trong quá khứ, đồng lòng xây dựng đất nước thành những quốc gia hùng cường như người Mỹ, người Đức, người Nhật, người Do Thái…và rất nhiều dân tộc khác nữa, người Việt có yêu nước không?

Dồn dập đơn thư về lãnh đạo Việt Nam

Dồn dập đơn thư về lãnh đạo Việt Nam

xinhuanet

Vài tuần trước khi Đại hội Đảng 12 khai mạc tại Hà Nội, mạng xã hội xuất hiện nhiều đơn thư, status ‘liên quan đến lãnh đạo’.

Hôm 30/12, báo Tuổi Trẻ thông báo một lãnh đạo Văn phòng Chính phủ cho mô tả điều họ gọi là đơn thư xuất hiện trên mạng internet tố cáo Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là đơn thư ‘mạo danh’.

Đơn thư theo vị lãnh đạo Văn phòng Chính phủ khẳng định là ‘mạo danh’ đã xuất hiện trên một số trang blog và mạng xã hội gần đây”, Tuổi Trẻ viết.

Theo lá đơn đề ngày 9/12, ông Phúc bị một người tự nhận là ‘cán bộ lão thành nghỉ hưu tại Tam Kỳ, Quảng Nam’ đề nghị thanh tra “khối tài sản khổng lồ của ông”.

“Người ký tên đơn thư tố cáo này là ‘Nguyễn Đức Hạnh, cán bộ Văn phòng Chính phủ’ với nội dung về việc sắp xếp cán bộ của tổ chức này.

Tuổi Trẻ đưa tin lãnh đạo Văn phòng Chính phủ đã giao Vụ Tổ chức cán bộ xác minh thông tin, cho thấy Văn phòng Chính phủ không có cán bộ như nêu trên.

Hôm 28/12, tại hội nghị trực tuyến của Chính phủ với 63 tỉnh thành, Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang nói: “Tình hình lộ, lọt bí mật nhà nước xảy ra rất nghiêm trọng”.

‘Suy đoán không có cơ sở’

Trả lời phỏng vấn của BBC hôm 29/12, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Thường trực Văn phòng Quốc hội Việt Nam, bình luận:

“Bây giờ trên trang mạng đưa nhiều thông tin của người này, người kia, những người lãnh đạo Đảng và nhà nước phát biểu thế này, phát biểu thế kia, theo văn bản này kia.

“Mà tôi nghĩ theo quy định của Việt Nam, những văn bản đó là văn bản tối mật, mà tự nhiên lại bị bung lên trên mạng…

“Đó là những tài liệu thuộc loại gọi là bí mật, mà bây giờ tự nhiên lại đưa ra công khai, thì đó là hoạt động không bình thường, và như vậy thì an ninh, an toàn trong các chủ trương, chính sách, các văn bản này nọ thì không biết thực giả như thế nào…

“Có một phát biểu của ông Bộ trưởng Bộ Công an như thế, thì chắc là ông phải có trách nhiệm điều tra, làm rõ hoặc là có biện pháp ngăn chặn hiệu quả…

“Tôi đã từng trả lời là phải khởi tố vụ án làm lộ bí mật của cơ quan nhà nước, thì lúc đó mới điều tra biết được ai là ai và tại sao và ai đứng đằng sau được, chứ bây giờ suy đoán thì không có cơ sở,” luật sư Thuận nói.

Giới quan sát đánh giá tranh giành quyền lực cho các vị trí lãnh đạo cao nhất thường được gọi là “tứ trụ” là nguyên nhân chính dẫn tới sự trì hoãn và kéo dài thêm các hội nghị trung ương so với các kỳ đại hội trước.

Trong giai đoạn diễn ra Hội nghị Trung ương 13, một bức thư được mô tả của một ủy viên Bộ Chính trị gửi Tổng bí thư Trọng xuất hiện trên mạng xã hội gây xôn xao và được chia sẻ nhiều.

Một trang tin tiếng Anh đã tóm tắt lại nội dung lá thư trong đó người được cho là Thủ tướng Dũng giãi bày một loạt những cáo buộc liên quan đến phát biểu của ông về Trung Quốc và cuộc sống gia đình ông.

Cách đây khoảng một năm trên mạng xuất hiện một trang tin có tên Chân dung Quyền lực cũng từng phát tán các cáo buộc liên quan tới một số chính khách cấp cao, tài sản của gia đình họ và con cái họ tại Việt Nam mặc dù không đăng tải bài nào về cá nhân Thủ tướng Dũng.

Trang này ngưng cập nhật từ cuối tháng Một năm nay và không bị chặn tại Việt Nam.

Báo trong nước xác nhận đơn thư tố cáo Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (trái) là ‘mạo danh’.

Thay Đổi và Cơ Hội

Thay Đổi và Cơ Hội

Lê Minh Nguyên

Thay đổi không có nghĩa là nó sẽ đương nhiên tốt hơn. Vậy tại sao phải thay đổi? Thay đổi để thoát ra được cái cũ, nhất là cái cũ đã 70 năm và có đầy lỗi hệ thống. Ít nhất, nó cho ra một cái gì mới, việc tốt/xấu tuy chưa rõ nhưng việc thích ứng với môi trường đương đại thì rất rõ. Khủng long dù rất to, nhưng không thay đổi theo môi trường sống thì đương nhiên bị diệt chủng. Đó là luật của tạo hoá mà sinh vật không thể cưỡng. Đảng CSVN là một sinh vật nên cũng vậy.

Trong chương trình giáo dục của ngành kinh tế thương mại (MBA) các sinh viên thường học qua về Phân tích SWOT (SWOT Analysis: Strengths/điểm mạnh, Weaknesses/điểm yếu, Opportunities/cơ hội, Threats/rũi ro) để có những động thái thích hợp khi thời thế đã đổi thay. Nó nhằm dạy cho sinh viên biết thay đổi và đạt được sự tốt đẹp sau khi thay đổi. Bởi vì trên thương trường, thay đổi là một hằng số, không thay đổi là thua cuộc, là bị đào thải.

Người Đông phương tin vào Dịch Học (hay Lẽ Biến Động) mà nguyên lý âm-dương không cho tách rời để chọn một bỏ một, cho nên giữ được sự thăng bằng động trong tương quan cả hai mới là tuyệt vời gần với lẽ đạo của Dịch Kinh. Nó có nghĩa là muốn thăng bằng phải thay đổi, trong tĩnh có động và trong động có tĩnh. Các chế độ dân chủ lấy cái động (biểu tình, tranh cử tự do) để duy trì cái tĩnh (ổn định chính trị thực sự). Các chế độ độc tài lấy cái tĩnh (ổn định chính trị giả tạo) để bóp nghẹt cái động (đàn áp các động tính tự nhiên của xã hội).

Người cộng sản biết rõ là môi trường sống chung quanh luôn luôn thay đổi, nếu không thì tại sao lý thuyết của họ đề cao biện chứng pháp (dialectics) mà trong đó luôn có biến động, vì nếu có chính đề (thesis) thì sẽ có phản đề (antithesis) và sự tương tác sẽ cho ra hợp đề (synthesis). Ví dụ dễ hiểu là nếu có một người độc thân (chính đề), thì sẽ có một người độc thân khác phái (phản đề) và sự tương tác như hôn nhân sẽ cho ra đứa con (hợp đề), qua thời gian thì đứa con sẽ là chính đề… và cứ thế mà lẽ biến động mở ra về phía trước.

Trớ trêu thay khi thực hành thì người Đông phương thường bảo thủ chống lại sự thay đổi, nhất là người cộng sản. Họ đề cao luật biện chứng nhưng họ cho luật biện chứng chết ở thế giới đại đồng, vì tới đó là “Ò e Rô-be đánh đu, Tạc-zăng nhảy dù… thằn lằn cụt đuôi” không thể biện chứng được nữa. Đó là chưa nói Darth Vader Lú ở hành tinh xa xôi nào đó trong Stars War 7 cương quyết không thay đổi, cho dù đến hết thế kỷ này không biết có gặp chủ nghĩa xã hội hay chưa.

Người Tây phương, nhất là Hoa Kỳ, không biết nói nhiều về Kinh Dịch, nhưng luôn thực hành nguyên tắc âm-dương trong đời sống. Họ có thuyết Tương Đối (Relativity) mà Albert Einstein làm cho chói lọi, họ áp dụng âm-dương để làm ra máy vi tính (0 và 1 trong hệ đếm hai/binary digit), họ xây dựng quốc gia (nation-state building) trên nền tảng âm-dương mà chính quyền và đối lập luôn thăng bằng. Họ rất lo sợ đối lập bị yếu và luôn tìm cách để bảo vệ đối lập. Hầu hết các điều khoản của Hiến pháp Hoa Kỳ là để bảo vệ thiểu số trong khi đất nước do đa số hướng dẫn. Giao thiệp với thế giới, trong khi cộng tác với đảng cầm quyền của một nước nào, họ luôn luôn tiếp xúc và giúp đỡ đối lập. Nếu chỉ nói bằng hai chữ thì đó là: thăng bằng.

Chuyến đi của ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng từ 23-27/12/2015 qua Bắc Kinh mà ông Hùng cho là vì “lợi ích chung của hai bên to lớn hơn nhiều so với bất đồng” (www.bbc.in/1Vn10tA), nhưng ông không cho biết lợi ích to lớn của dân tộc Việt Nam là lợi ích gì? Mong ông đừng đồng hoá nó với lợi ích của đảng CSVN muốn TQ chống lưng để tiếp tục cầm quyền!

Qua những gì ông nói và làm ở TQ thì hình như là một sự đồng hoá như vậy!

Đảng đã dứt khoát không thay đổi chính trị để VN độc lập với TQ hơn và đoàn kết nội lực dân tộc trong-ngoài hơn. Chuyến đi là một sự khẳng định Đảng (đúng hơn là phe bảo thủ trong Đảng) dựa vào TQ. Điều mà nhạc sĩ Việt Khang trong bài hát “Việt Nam Tôi Đâu” cho biết phải trãi qua quá nửa đời nguời để nghiệm ra.

“Việt Nam ơi!

Thời gian quá nửa đời người

Và ta đã tỏ tường rồi”

Ông Hùng giờ đây qua chuyến đi đã khẳng định, không cần chờ lâu để “tỏ tường” là đảng CSVN tiếp tục chọn con đường dựa vào Trung Quốc cho sự “hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài (?), hướng tới tương lai” như 16 chữ vàng cột chặt con thuyền đất nước VN vào mẫu hạm TQ. Dĩ nhiên, khi cột chặt vào mẫu hạm thì hướng đi tương lai là hướng của mẫu hạm. Nội tình TQ thì ông Tập Cận Bình đang ngồi trên lửa, đảng CSTQ đang hết xăng, vậy việc tiếp tục ôm TQ có phải là một giải pháp khôn ngoan cho đảng CSVN hay không?

Hôm 23/12 ông Hùng gặp ông Tập (bit.ly/1PlS9I5) và ông Tập “gởi lời thăm hỏi, lời chúc tốt đẹp đến TBT Nguyễn Phú Trọng và CTN Trương Tấn Sang”, không nhắc gì đến TT Nguyễn Tấn Dũng. Điều này chỉ có thể rơi vào một trong ba trường hợp: (1) ông Tập đã bỏ rơi ông Dũng do tam trụ Trọng-Sang-Hùng có thể đã nhượng gì với ông Tập có giá trị lớn hơn ông Dũng nhượng!? (2) ông Tập thăm VN hôm 5-6/11/2015 vừa qua, mời duy nhất ông Dũng đi thăm TQ và hai ông Tập-Dũng ôm nhau ba lần hết sức thắm thiết chỉ là đòn giả để hại ông Dũng, để chứng minh ông Dũng cũng cá mè một lứa quỵ luỵ TQ, (3) ông Tập có thể đã gởi lời thăm ông Dũng nhưng tam trụ Trọng-Sang-Hùng đang vây đánh nhất trụ Dũng nên cắt bỏ lời nhắn thăm ông Dũng khi đưa tin ra ngoài công chúng.

Hôm 25/12 ông Chủ tịch Quốc hội TQ Trương Đức Giang nói với ông Hùng là VN cần củng cố niềm tin chính trị vào TQ và nên giữ cho “quan hệ song phương trở lại theo đúng hướng”, có nghĩa là VN tiếp tục ở trong quỹ đạo của TQ, không được chệch hướng về phía Hoa Kỳ (bit.ly/1Vn2vYF).

Ông Trương hướng VN đến tương lai bằng cách thúc ông Hùng là VN cộng tác trong khuôn khổ của sáng kiến TQ về “Vòng Đai và Con Đường (Belt and Road) cũng như phía VN “Hai Hành Lang và Một Vòng Tròn Kinh Tế” (Two Corridors and One Economic Circle). TQ gói bánh nhiều dây từ an ninh, quân sự, chính trị, kinh tế… với VN.

Theo Tân Hoa Xã, ông Hùng nói “Việt Nam sẵn sàng làm việc với Trung Quốc ‘để tăng cường quan hệ hợp tác…hầu có thể duy trì tình hữu nghị vĩnh cửu’” (bit.ly/1ZurXhk). Trong khi quy luật của bang giao quốc tế là “không có bạn muôn đời, cũng không có thù truyền kiếp, chỉ có quyền lợi quốc gia là vĩnh cửu”, nay ông Hùng hy sinh quyền lợi quốc gia ở Biển Đông để xin “duy trì tình hữu nghị vĩnh cửu”. Đau cho VN!

Hôm 25/12 ông Hùng tới quê hương Mao Trạch Đông để thăm và dâng hoa ở thành phố Thiều Sơn, tỉnh Hồ Nam. Nơi đây “Kính cẩn nghiêng mình trước tượng Chủ tịch Mao Trạch Đông, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thành kính tưởng nhớ công lao to lớn của lãnh tụ vĩ đại…” (bit.ly/1Ja9DWz).

Ông Hùng đi TQ ngay thời điểm sau Hội Nghị Trung Ương 13 (ngày 14-21/12) mà các phe tranh nhau bất phân thắng bại, trước trận đánh kế tiếp ở Hội Nghị TU 14 vào khoảng đầu tháng Giêng, và chưa đầy một tháng trước Đại Hội 12, với nội dung vừa cậy dựa TQ vừa có vẻ muốn dồn ông Dũng vào chân tường. Ông muốn chứng tỏ cho dư luận là ông có hùng khí dám đặt vấn đề thẳng mặt với ông Tập về Biển Đông, nhưng nội dung thì co cụm và đùn đẩy cho hậu sinh, như “tích cực hợp tác”, “Vấn đề trên biển là vấn đề hệ trọng… Vì vậy, xử lý vấn đề trên biển cần được đặt trong tầm nhìn chiến lược lâu dài”. Khi ông Tập đến đọc diễn văn ở Quốc hội VN, không thấy Chủ tịch Hùng nêu lên vấn đề, tại sao? Chẳng lẽ chuyện biển đảo chỉ được dùng cho chính trị nội bộ?

Nhà dân chủ TQ, ông Nguỵ Kinh Sinh cho rằng ông Tập chỉ phung phí tiền bạc để tạo tiếng vang ở Biển Đông. Nơi đây, Hoa Kỳ đang đánh đòn giả với TQ (bluffing). HK không cần phải lo lắng mà chỉ cần duy trì áp lực miệng (HK thật sự lo lắng là vấn đề tin tặc). Nếu phải lo lắng là Việt Nam và Phi Luật Tân, và hai nước này nên mời HK vào Cam Ranh, Subic Bay và Clark Air Force Base. Ông Nguỵ cho rằng các đảo đó chẳng hữu ích gì cho TQ. HK sẽ chẳng thoả thuận gì (make a deal) với TQ ở Biển Đông trừ khi các chính khách HK bị bại não.

Ông Nguỵ cho rằng cốt lõi của vấn đề Biển Đông là chế độ CSTQ muốn kiểm soát yết hầu hàng hải ở Đông Á, tức là muốn kiểm soát các tuyến đường thương mại hàng hải của Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ và các nước ASEAN. Liệu ý đồ này có thành công hay không? Hiển nhiên là không. Đây là mưu tính của những người bị tàn tật não. Giả như một ngày nào đó chế độ CSTQ thực sự cắt đứt cái yết hầu hàng hải này, TQ đánh với một mình HK còn không lại thì làm sao đánh lại một liên minh gồm HK, Nhật, Hàn và các nước ASEAN?

Nếu có chiến tranh, nó sẽ đi cùng với sự trừng phạt kinh tế, và chế độ CSTQ sẽ sụp đổ ngay lập tức. Vì vậy, các cư dân mạng ở TQ đặc biệt muốn ông Tập gây chiến, qua đó để họ chứng kiến sự sụp đổ chế độ bằng việc sử dụng sức mạnh bên ngoài. Mưu tính này có thể làm cho ông Tập xem xét lại dàn cố vấn của ông để biết ai muốn TQ hỗn loạn và ai đang đánh lừa ông (bit.ly/1RLPKrF).

Ông Hùng và Đảng muốn dựa vào TQ là một sai lầm chiến lược nghiêm trọng cho VN. HK là siêu cường số một, không có tham vọng lãnh thổ, nhưng cũng không có bổn phận phải bảo vệ chủ quyền VN. VN cần HK chứ không phải HK cần VN.

Vì lợi ích cục bộ, CSVN cần TQ chống lưng hơn là cần nội lực dân tộc, trong khi việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thì chính yếu là dân tộc chứ không phải ngoại bang, cho nên VN không thể vận công để đoàn kết dân tộc trên toàn quốc cũng như quốc nội-hải ngoại, trong khi khối người Mỹ gốc Việt càng ngày càng có nhiều ảnh hưởng hơn lên chính sách của HK đối với VN.

Thay đổi không phải chỉ có rũi ro mà là cơ hội. Những người cộng sản Đông Âu hay Liên Xô có viễn kiến đều thành công sau thay đổi. Một cá nhân cương quyết thay đổi, có thể từ đạp xích lô trở thành nhà khoa học. Một tập thể lãnh đạo mạnh dạn thay đổi, VN sẽ có cơ hội vươn vai Phù Đổng để trở thành một dân tộc mạnh trên trường thế giới.

Trên lãnh vực này, VN nên lãnh đạo TQ chứ không nên để TQ lãnh đạo VN. Đây là sinh lộ cho VN hưng thịnh, vì VN dân chủ dẫn theo một TQ dân chủ mới là sự ổn định thực sự, như HK nằm sandwiched hài hòa giữa Gia Nã Đại và Mễ Tây Cơ, chứ không “đại cục hữu nghị” mà thực chất là ỷ mạnh hiếp yếu như TQ đối với VN hiện nay.

Thay đổi là cơ hội để vượt qua sự bất hạnh cho một dân tộc thông minh, cần cù và dũng cảm.

L.M.N.

28/12/2015

Đại hội Đảng 12 có ‘hai điểm quan trọng’

Đại hội Đảng 12 có ‘hai điểm quan trọng’

AFP Ông Nguyễn Phú Trọng (giữa) sẽ tại vị chức Tổng Bí thư thêm nhiệm kỳ hay phải nhường ghế cho ông Nguyễn Tấn Dũng (phải) sau Đại hội Đảng 12?

Một nhà quan sát nước ngoài nói về điểm “chưa có tiền lệ” ở Đại hội 12 trong lúc con trai Tổng bí thư Lê Duẩn cảnh báo về vai trò nhân dân bị “lu mờ”.

Giáo sư Carl Thayer, nhà quan sát chính trị Việt Nam lâu năm, vừa có bài phân tích về Đại hội Đảng 12 trong đó ông mô tả đại hội này đặc biết quan trọng vì “hai lý do”.

“Thứ nhất, họ sẽ bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới. Những người này sẽ lần lượt bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương Đảng, tổng bí thư và thông qua các ứng viên chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội. Những ứng viên này sẽ được bầu vào tháng 5/2016.

“Các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa nhóm họp Hội nghị 13, bỏ phiếu chọn ứng viên cho bốn vị trí cao nhất của đảng và nhà nước. Việc lựa chọn lãnh đạo gây nhiều tranh cãi năm nay. Trên lý thuyết, điều lệ Đảng buộc những người đã phục vụ hai nhiệm kỳ và/hoặc hơn 65 tuổi phải nghỉ hưu.

“Tuy nhiên, thực tế có thể có ngoại lệ đặc biệt. Ví dụ, Đại hội Đảng 11 bầu ông Nguyễn Phú Trọng làm Tổng Bí thư dù năm đó ông đã hơn 65 tuổi.

“Có tin đồn rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn là Tổng bí thư kế tiếp và ông có thể được miễn trừ quy định tuổi tác. Nhưng trường hợp của ông Dũng chưa có trong tiền lệ.

“Việt Nam chưa từng có nhà lãnh đạo ở chức vụ cao lại tìm kiếm sự miễn trừ [quy định tuổi tác] để khi rời ghế cũ lại chuyển sang ngồi một ghế khác cũng cao trong hàng ngũ chóp bu lãnh đạo. Trường hợp này tạo nên hiệu ứng phản đối ông Dũng dữ dội từ phía các đối thủ của ông là Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng,” ông Thayer viết.

Nhà quan sát này bình luận rằng có một điều không thể phủ nhận là Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đã minh bạch hơn so với trước đây trong việc truyền thông đến người dân về cơ chế lựa chọn lãnh đạo.

Tuy nhiên, đến nay tên của các ứng viên được chọn bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các vị trí cao hơn vẫn được giữ bí mật, ông Thayer nhận xét.

GETTY  Giáo sư Carl Thayer nói trường hợp của ông Nguyễn Tấn Dũng chưa có trong tiền lệ

Lý do thứ hai khiến Đại hội Đảng 12 quan trọng, theo Giáo sư Carl Thayer, là tại sự kiện này sẽ công bố hai văn kiện chính yếu -Báo cáo chính trị và Báo cáo Kinh tế-Xã hội 2016-2020. Dự thảo các văn kiện này đã được đưa ra tháng 9/2015 để thảo luận công khai.

Dự thảo Báo cáo Chính trị ưu tiên các vấn đề giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, chống tham nhũng, tăng cường các quy định pháp luật, đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng “đảng trong sạch vững mạnh”.

Báo cáo Kinh tế-Xã hội nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì kinh tế vĩ mô ổn định, kiểm soát nợ công và đặt mục tiêu phát triển Việt Nam thành quốc gia hiện đại và công nghiệp năm 2020.

Báo cáo cũng đặt mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP 6,5-7% trong 5 năm tiếp theo.

Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người dự kiến đạt 3.670 – 3.750 đôla, đưa Việt Nam tiếp cận danh sách quốc gia thu nhập trung bình.

AP  Ai trong số bốn nhà lãnh đạo này sẽ tiếp bước sau Đại hội Đảng 12 vẫn còn là một ẩn số

Nhà báo Huy Đức vào hôm 30/12/2015 viết trên Facebook cá nhân đánh giá về con người và những chính sách của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

“Sau mười năm trở thành người có quyền lực nhất đất nước, ông Dũng đã có nhiều quyết định làm khánh kiệt nền kinh thế [đặc biệt là chính sách lập các tập đoàn kinh doanh đa ngành].

“Đã hai năm, kể từ ngày ông “gửi thông điệp cải cách” tới dân chúng, Chính phủ chưa hề có một hành động cải cách hữu hiệu nào trong khi các bộ ngành dưới trướng của ông tiếp tục “đẻ” thêm nhiều loại thủ tục nhũng nhiễu người dân và doanh nghiệp.

“Tính từ khi đứng trong top 5 người quyền lực nhất (ủy viên thường vụ Bộ chính trị – 1996), Nguyễn Tấn Dũng đã ở trên đỉnh cao quyền lực gần 20 năm.

“Sau 20 năm nhìn lại, đặc biệt là 10 năm làm thủ tướng, trong số các gia đình VN, có lẽ chỉ gia đình ông là thành công nhất,” nhà báo Huy Đức viết.

‘Bề trên’

Trong một diễn biến khác vào hôm 30/12/2015, một báo của Bộ Công an đăng bài bình luận ‘ Chúng ta thực sự tin nhân dân?‘ của ông Lê Kiên Thành, con trai cựu Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Ông Thành viết: ”Là con trai một người Cộng sản đã hy sinh cả cuộc đời mình cho đất nước, tôi có một khao khát tột cùng là Đảng sẽ thực sự vững mạnh, sẽ thực sự là Đảng của dân tộc, của nhân dân, quên mình vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân…

“Nhưng những đêm vắt trán nằm suy nghĩ về đất nước, tôi hiểu chúng ta còn thiếu và sai nhiều. Một trong những cái sai đó là chúng ta chưa thực sự biết tin dân!”

“Nhưng khi sự nghiệp lớn đã thành công, những người Cộng sản trở thành những người lãnh đạo đất nước, họ dần dần trở thành giai cấp cầm quyền và có lúc ‘nhìn xuống’ nhân dân của mình.”

“Những cụm từ ‘Đảng soi đường’, ‘Đảng chỉ lối’, ‘Đảng dẫn dắt’ mà chúng ta vẫn hay dùng, vô hình trung đã khiến cho tất cả chúng ta đều có cảm giác Đảng đang vượt lên cả dân tộc và làm cho vai trò rất lớn của nhân dân phần nào bị lu mờ đi. Tôi rất lo sợ, qua năm tháng, chính những câu chữ đó cũng đã tạo ra sự ngộ nhận cho chính những người trong Đảng,” ông Thành viết.

Ông Lê Kiên Thành, một doanh nhân khá thành đạt, viết thêm rằng “Đảng sinh ra là từ dân tộc này, tồn tại được cũng nhờ dân tộc này, vinh quang được cũng là nhờ dân tộc này, thành công này cũng là do cả dân tộc cùng đồng lòng trả bằng xương bằng máu. Vượt lên trên dân tộc là điều không bao giờ được phép!

“Trước đây khi chúng ta muốn nói điều gì với dân, chỉ dùng một tờ truyền đơn là người dân tin. Trong khi đó hiện chúng ta có đến khoảng 800 đầu báo mà chúng ta lại lo sợ nhân dân sẽ hiểu sai về Đảng khi đọc những tiếng nói trái chiều trên những trang báo lề trái. Đó là điều phi lý mà tôi không cắt nghĩa được,” ông Thành viết.

Việt Nam có thể tiến hành cải cách chính trị hay không? (I)

Việt Nam có thể tiến hành cải cách chính trị hay không? (I)

nguyenthituhuy

RFA

Như đã có lần từng nói, phân tích chính trị Việt Nam là một việc khó, chính là vì mọi thứ diễn ra theo cách thức công khai một cách bí mật, hoặc bí mật một cách công khai, vì sự thật bị cất giấu ở đâu đó trong những góc khuất tối tăm, và những thông tin chính xác người dân không được biết. Báo chí thì chỉ đưa tin về các sự kiện với một lượng thông tin tối thiểu. Nếu độc giả sống ở một nước như Pháp hay Mỹ hay ở một nước dân chủ nào đó, sẽ thấy rõ sự khác biệt này : mỗi sự kiện khi được đưa ra bao giờ cũng kèm theo rất nhiều thông tin, và rất nhiều phân tích, bình luận, trong khi ở Việt Nam báo chí chỉ đưa tin về sự kiện chính trị, với một hàm lượng thông tin ít ỏi hết cỡ (dĩ nhiên là những tin được phép đưa), không có phân tích hoặc có rất ít phân tích, hoặc chỉ là các phân tích theo một chiều, cái chiều được chỉ đạo hoặc được cho phép, đây là điểm bất thường của báo chí chính thống Việt Nam. Nhưng điểm bất thường này hoàn toàn có thể giải thích được, và nó chính là một trong những đặc điểm căn bản của báo chí trong các thể chế độc tài.

Lấy một ví dụ về bầu cử cấp địa phương vừa diễn ra ở Pháp : ngay trong ngày chủ nhật (dân Pháp chỉ bỏ phiếu trong một ngày chủ nhật), sau khi có kết quả bỏ phiếu, thường là vào 20h tối cùng ngày, lập tức các đài truyền hình, các đài phát thanh tổ chức các cuộc thảo luận trực tuyến, mời các chuyên gia phân tích, bình luận gần như trực tiếp. Dĩ nhiên, sau đó báo chí tiếp tục phân tích. Đồng thời các nghiên cứu xã hội học về sự kiện cũng được triển khai ngay lập tức. Còn ở Việt Nam, nếu đọc tin về bầu cử cấp địa phương, cũng vừa diễn ra trong thời gian gần đây, ta sẽ thấy chỉ có tin và tin : ai được bầu, ở đâu, ai thôi chức vụ. Chỉ có vậy, hầu như không có phân tích, không có bình luận.

Tuy nhiên, dù khó khăn vẫn phải tiến hành các phân tích chính trị, hay nói cách khác, càng khó khăn càng cần học cách phân tích chính trị. Phân tích chứ không phải là chỉ trích hay ca tụng theo cảm tính. Việt Nam cần hình thành một tầng lớp những người có chuyên môn trong nghề phân tích chính trị. Điều này sẽ giúp ích không nhỏ cho chính phủ. Khi những người làm việc trong chính quyền hiểu rằng, dù muốn hay không, mọi hành động, mọi phát ngôn của họ đều được đưa ra phân tích thì có thể họ sẽ phải thận trọng hơn và có trách nhiệm hơn đối với hành động và phát ngôn của mình.

Dĩ nhiên, nếu chúng ta không muốn chính chúng ta bị người khác chỉ trích rằng « dân nào chính phủ ấy », thì cần chứng tỏ cho chính quyền biết dân trí của Việt Nam không thấp như chính quyền cố tình tuyên truyền, và những người dân bình thường trong xã hội có khả năng đòi hỏi chính quyền phải đáp ứng những yêu cầu rất cao của mình. Và nếu những người đứng ở vị trí lãnh đạo không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của người dân thì cần nhường chỗ cho những người có đủ năng lực để làm việc đó.

Trong bài này, tôi thử làm một phân tích để trả lời câu hỏi : liệu Việt Nam có thể có cải cách chính trị hay không, và ai là người có thể thực hiện cải cách chính trị, trong thời điểm này ?

Trước khi đi vào những câu hỏi này, tôi trở lại với trường hợp Gorbatchev, để minh định một điều : những người có khả năng tiến hành cải cách cần có một số phẩm chất nhất định.

Tháng 3 năm 1985 Ban Bí thư trung ương và Bộ chính trị Liên Xô đã chọn Mikhail Gorbatchev làm Tổng bí thư của đảng cộng sản Liên Xô, lúc ông chỉ mới 54 tuổi. Sự lựa chọn này được thúc đẩy bởi ý thức trách nhiệm đối với đất nước của ban lãnh đạo cũ. Gorbatchev sau khi nắm quyền đã tiến hành chương trình cải tổ perestroika. Chương trình không thành công như ông dự định, nhưng nó đã góp phần đưa nước Nga và Liên bang Xô viết thoát khỏi hệ thống toàn trị, mở ra một chương mới cho các sức mạnh Nga được phát triển.

Đã có nhiều sách viết về con người Gorbatchev để lý giải vì sao ông ta trở thành một huyền thoại. Ở đây xin giới thiệu một số nét trong chân dung của Gorbatchev, do Andreï Serafimovitch Gratchev miêu tả trong cuốn «Bí ẩn Gorbatchev : đất và số phận » (Le mystère Gorbatchev: la terre et le destin). Andreï Serafimovitch Gratchev là tiến sĩ lịch sử, có bằng đại học về ngành quan hệ quốc tế, từng là trợ lý và người phát ngôn của Gorbatchev.

Khi giữ chức vụ trong hàng lãnh đạo cao nhất ở địa phương, Gorbatchev đi bộ đến nơi làm việc. Ông không dùng đến xe công vụ. Ông gặp và tiếp chuyện người dân ngay trên đường phố. Vợ ông, bà Raissa, mua hàng trong những cửa hàng bình dân, tránh những nơi dành riêng cho những đảng viên có thế lực. Họ cho con đi học một trường bình thường trong khu phố chứ không chọn những trường mà giới lãnh đạo thường gửi con đến học.

Trong khi thực hiện tận tụy mọi công việc được giao, làm hết trách nhiệm với một thái độ trung thực và lương thiện, Gorbatchev đã gặp phải vô số vấn đề khiến ông cảm thấy khó hiểu và không đồng tình, một trong số những vấn đề đó là « sự kiêu căng và thụ động của những vị lãnh đạo bất tài ». Gorbatchev đã nung nấu suy nghĩ và tìm phương hướng giải quyết khi càng ngày ông càng lên cao trong bậc thang quyền lực.

Về phương diện trí tuệ, từ cuối 1978, khi chuyển lên Moscou, Gorbatchev đã đọc rất nhiều sách lúc bấy giờ bị cấm đối với đại chúng, cả những tác giả mac-xít lẫn những tác giả chống mac-xit, các triết gia mới như Sartre, Heidegger, Marcuse, những triết gia của trường phái Francfort. Gorbatchev cũng luôn tìm cách tận hưởng các hoạt động văn hóa. Và khi đứng ở vị trí lãnh đạo cao nhất, ông đã thường xuyên tiếp xúc với các nhân vật nổi tiếng trong các lĩnh vực khác nhau ở Moscou. Ông hiểu rõ giá trị của văn hóa và khoa học. Điều này được nhấn mạnh trong nhiều diễn văn của ông, trong cả cuốn sách dày do chính ông viết ra để giải thích về khái niệm và chương trình perestroika.

Và những chuyến đi công du nước ngoài, đặc biệt là các nước phương Tây, cho phép ông mở ra sự so sánh cần thiết. Vợ ông là người đã đặt cho ông câu hỏi : « Vì sao họ sống tốt hơn chúng ta? » Và ông sẽ tìm cách trả lời câu hỏi đó khi nhìn thấy tình trạng tù hãm, đình trệ của đất nước ông.

Sau khi được bầu vào vị trí quyền lực cao nhất, ông đã tiến hành những cải cách, như chúng ta biết, không chỉ làm thay đổi nước Nga, mà là cả cục diện thế giới. Điều cần nói ở đây là, những cải cách đó, không chỉ là mong muốn riêng của Gorbatchev, không chỉ là chương trình riêng của Gorbatchev. Những cải cách đó là sự thực hiện mong muốn chung của đa số những người dân Nga, nhất là của giới trẻ, những người, vào thời điểm đó, cảm thấy rằng « chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này nữa », cảm thấy rằng không thể tiếp tục sống trong dối trá, trong sự băng hoại đạo đức và tinh thần. Ý nghĩa sâu xa và căn bản của chương trình Perestroika, như Gorbatchev nhấn mạnh, đó là « xây dựng đời sống tinh thần cho các cá nhân, trong khi tôn trọng đời sống nội tâm của họ và trao cho họ sức mạnh đạo đức. Chúng ta tìm cách khởi động tất cả mọi tiềm năng trí tuệ của xã hội chúng ta, tất cả mọi tiềm năng văn hoá, để tạo ra các cá nhân năng động về mặt xã hội, phong phú về tinh thần, công chính và có lương tâm. ». Nghĩa là cải cách chính trị được tiến hành, đáp ứng nguyện vọng của người dân, nhằm trả lại phẩm giá, đạo đức và các giá trị tinh thần cho các công dân trong xã hội, trả lại cho cuộc sống những giá trị nhân văn. Cuộc sống đúng nghĩa không thể chỉ là sự tồn tại vật lý trong một bầu khí quyển lừa dối và bạo lực. Và luôn biết rằng một chương trình cải cách như vậy sẽ gặp vô vàn khó khăn, nhưng ông đã cương quyết thực hiện.

Giới thiệu về con người Gorbatchev để thấy rằng cải cách thực sự phải gắn liền với những khát vọng nhân bản, nó được thực hiện bởi những người có hoài bão lớn, không vụ lợi cá nhân mà nghĩ tới các giá trị chung và các mục đích chung.

Vấn đề của Việt Nam chúng ta là : trong bộ máy lãnh đạo của chúng ta hiện nay, có những người như vậy hay không ? Liệu có ai trong số các lãnh đạo còn nghĩ đến đạo đức và các giá trị tinh thần ?

Barcelona, 29/12/2015

Nguyễn Thị Từ Huy

Bóng tối của đêm

Bóng tối của đêm

tuankhanh

RFA

Anh bạn có cái quán nước nho nhỏ ở tít vùng ngoại ô Sài Gòn, mới đây kể rằng có khách ghé vào, vừa kéo ghế ngồi vừa kêu nước “cho cái gì uống đi, cái gì cũng được miễn không phải là đồ của Tân Hiệp Phát”.

Ở cái quán bé tẹo ấy, chưa có đến 5 cái bàn, khoảng hai tuần nay đã tiếp nhận loại thông điệp xã hội dân sự ấy không phải một lần rồi thôi. Đi xa hơn nữa, cũng có những người bán hàng đã bị lời nhắc của khách hàng làm thức tỉnh, về một dòng chảy đang lớn dần, trong việc không nên dùng sản phẩm của Tân Hiệp Phát. Thái độ từ chối của nguòi dân ngày càng rộng không phải vì tin tức các loại nước của công ty này bị cặn, bị lỗi, mà rõ là một cách bày tỏ rất quyết liệt: Không muốn chung sống cùng một xã hội với loại thương hiệu với cách ứng xử khuất tất.

Trong lịch sử Việt Nam từ hơn 40 năm nay, người Việt chỉ chứng kiến hai lần phong trào tẩy chay hàng hoá ở mức độ toàn quốc. Đó là cuộc tẩy chay hàng bột ngọt Vedan bởi nhà máy của công ty này làm ô nhiễm sông Thị Vãi, Đồng Nai, vào năm 2010. Lúc đó, sự nổi giận của đám đông vì số phận của một con sông. Còn lần thứ hai này, người ta chứng kiến phong trào kêu gọi tẩy chay toàn dân với một thương hiệu, bùng phát từ cách chà đạp số phận của một con người.

Xét về ý thức công dân và thái độ trách nhiệm xã hội, rõ ràng có một bước tiến lớn trong cái nhìn của đám đông. Sự kiện Vedan bắt nguồn từ các bài báo điều tra và mọi người dễ dàng cùng chung một trận tuyến đối diện với Vedan – mà sai lầm của công ty đã thấy rõ. Còn với sự kiện con ruồi của sản phẩm Tân Hiệp Phát, rõ ràng là người dân ngày càng tinh tế hơn, thấu đáo hơn, bất chấp sự kiện được công ty dàn ra bằng cái vỏ bọc án hình sự và một mặt trận bồi bút tìm mọi cách nói ngược nói xuôi theo chiều của đồng tiền xoay, khiến từng không ít người phân vân.

Chống lại những kẻ to lớn hơn mình và nhiều tiền của, luôn là đề tài muôn thuở của của thế gian – như một sự thách thức sự thật và lẽ phải – mà kết quả không phải lúc nào cũng có hậu. Ngay cả cách thể hiện quyền lực muốn nhấn chìm người mua hàng trong sự kiêu ngạo và tàn nhẫn của Tân Hiệp Phát, vẫn có những luật sư, bồi bút lên giọng bảo vệ kẻ ác trước những người từng phát hiện sản phẩm hư hỏng của công ty này. Có ít nhất 3 khách hàng của Tân Hiệp Phát đã lao đao, chết đứng chết ngồi trước anh Võ Văn Minh (một người ở Đồng Nai và 2 người ở Tp.HCM), với cùng một thủ thuật. Từ năm 2011, công lý đã chìm ngập trong màu nước ngọt có ruồi, cho đến khi tin tức về các nạn nhân lan trên các trang mạng xã hội.

Không may mắn như Vedan, sự kiện Tân Hiệp Phát bẫy người tiêu dùng phát hiện sản phẩm lỗi của mình, được ghi lại khá chi tiết trên Wikipedia, bách khoa toàn thư điện tử với đủ các chi tiết, bao gồm phương thức giải quyết khủng hoảng qua cách đổi tên công ty thành Number One. Lưu danh muôn đời.

“Giờ thì còn tệ hơn, công ty này nói phạt những nơi mua hàng của họ, phát hiện sản phẩm lỗi, lấy lý do là các nơi ấy bảo quản sản phẩm của họ không đúng”, anh bạn có cái quán nhỏ tẹo ấy nói, “thôi giã từ luôn cho khỏi phiền”. Chắc rồi Wikipedia sẽ có thêm tình tiết độc đáo này cho thương hiệu nước giải khát cung đình hoá học ấy, bởi việc tự rửa mặt, bằng cách gây hấn với khách hàng và người phân phối cho mình. Câu chuyện này minh chứng rõ một điều: rõ ràng khi có nhiều tiền, không có nghĩa là kèm thêm trí thông minh.

Nhưng câu hỏi cần đặt ra ở đây, là một công ty có lối giải quyết khủng hoảng vừa quái gở, vừa ngu ngốc như vậy, sao lại được ủng hộ tuyệt đối dù mắc sai lầm từ nhiều năm nay bởi báo chí, thậm chí bởi các quan chức hớn hở ra mặt, cùng nhịp bước đều?

Cây bút điều tra Hoàng Khương của báo Tuổi Trẻ, mới đây có nhắc về một bài báo cũ, liên quan chuyện công ty Tân Hiệp Phát nhập hàng chục tấn “hoá chất cung đình” quá hạn từ năm 2009, nhưng rồi sau đó mọi thứ chìm dần một cách bí hiểm. Thậm chí một cán bộ C15, tức C46 (Cục CSĐT về quản lý kinh tế và chức vụ thuộc Bộ Công An) đang theo sát vụ này đã “được” chuyển công tác về Cục phòng chống ma tuý.

Một cây viết điều tra khác, từng làm cho một tờ báo điện tử lớn, kể rằng anh cũng từng đưa bài nói về khuất tất của Tân Hiệp Phát vào năm 2009, có kèm cả tư liệu của công an C49 (Cục cảnh sát môi trường), thế nhưng những người lãnh đạo bỏ bài viết ấy, sau khi nhận lời mời một chuyến tham quan “hữu nghị” công ty Tân Hiệp Phát. Tất cả những gì cần cảnh báo cho người dân Việt, cuối cùng đã được thay bằng tuyên bố vui vẻ của một lãnh đạo tờ báo sau khi tham quan đi về “nhà máy to lắm, phải đi bằng ô tô mới hết”.

Thấy được sự âm u của đêm là một chuyện, nhưng thấy được cả bóng tối của đêm thì không dễ. Con ruồi và bẫy rập thì không khó nhìn thấy, nhưng trong bóng tối của đêm, làm sao để thấy ai đã giao tặng cho luật sư Tân Hiệp Phát biên bản điều tra của công an với anh Võ Văn Minh, mà điều ấy là bất hợp pháp? Làm sao nhìn xuyên được qua bóng tối của đêm để hiểu được vì sao có những bài báo lên giọng nói tẩy chay không uống nước cung đình hoá học ấy là ngu dại! Bóng tối nào của đêm đủ sức nuôi dưỡng loại luật sư văng tục, tuyên bố trên trang mạnh cá nhân của mình rằng hàng triệu người Việt Nam có thể sẽ ngồi tù vì dám hưởng ứng phong trào tẩy chay Tân Hiệp Phát?

Ngay nơi này, trên đất nước này, sự thật và lẽ phải mỗi ngày đang bị thách thức không ngừng. Không chỉ có đêm tối đang phủ vây công lý và con người Việt Nam, mà chập chúng bóng tối sau đêm cũng đang chực chờ dùng thế và lực của mình để sẳn sàng xoá nhoà mọi ý nghĩa của lương tâm và lẽ phải.

Trên tờ Huffington Post, số tháng 11/2015, có ghi lại một bài nói chuyện của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Khi nhìn thấy rất nhiều người khóc và cầu nguyện sau vụ khủng bố tại Ba Lê, Pháp, ông đã nói rằng “con người không thể chỉ cầu nguyện để thoát khỏi kẻ ác”. Người lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng từng đoạt giải Nobel Hoà Bình năm 1989 nhấn mạnh rằng “khủng bố – cái ác do chính con người tạo ra, vậy thì hãy hành động chứ cầu nguyện thì không đủ. Tự con người phải tìm cách giải quyết nó chứ không thể đòi hỏi Thượng đế can thiệp”.

Tân Hiệp Phát lớn lên trên đất Việt, được nuôi lớn bằng sức mạnh tiêu thụ của người dân Việt. Nếu nơi đó không thể đồng hành cùng đồng bào mình phát triển bình ái, mà âm mưu dựa dẫm vào bóng tối của thế lực và tiền của để chà đạp con người, thì chúng ta – những cá nhân nhỏ bé – sẽ phải cùng đứng lại để đòi hỏi một kết cục khác. Chúng ta không thể mong chờ một ai khác.

Tân Hiệp Phát chỉ là một ví dụ khởi đầu trên con đường đất nước đi đến tương lai. Mai đây có thể sẽ còn có những tập đoàn khác, mang theo những chỉ dấu của chaebol kiểu Hàn Quốc hay mafia kinh tế kiểu Phương Tây, lớn lên trên quê hương này cùng những bóng tối trong đêm. Nhưng hôm nay chúng ta lại có thêm một kinh nghiệm: bất luận thế nào con người Việt Nam không thể bị chà đạp mãi, dù chỉ là một cá nhân rất nhỏ nhoi.

————————

(ảnh minh họa: Fury Wave của họa sĩ Kuang Biao (Trung Quốc)