Nhà báo Phạm Chí Dũng: “Tôi thách bất kỳ ai chứng minh chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thúc đẩy dân chủ”

Nhà báo Phạm Chí Dũng: “Tôi thách bất kỳ ai chứng minh chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thúc đẩy dân chủ”

Nhà báo Phạm Chí Dũng hội luận với nhà báo Trần Quang Thành

7-3-2016

Lời giới thiệu : Mặc dù cai quản đất nước bằng một chế độ độc tài toàn trị, nhưng suốt 70 năm qua các bản hiến pháp được nhà nước cộng sản Việt Nam đưa ra thực thi đều phải ghi nhận một số quyền của người dân như quyền biểu tình.

Để hội nhập quốc tế cũng như trước sức ép đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng cũng đã phải hứa sớm đưa ra Luật Biểu tình trong nhiệm kỳ cuối của mình. Nhưng lời hứa đó cũng như nhiều lời hứa khác của ông đã không thành sự thật. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại thất hứa. Luật Biểu tình đã không được thông qua trong kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XIII sẽ diễn ra vào tháng 3 này. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã phải lên tiếng nhận xét, đây là một việc làm thiếu nghiêm túc của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Trong khi đó Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, môt tổ chức xã hội dân sự đã sớm đươc ra dự Luật Biểu tình và lấy ý kiến rộng rãi trên mạng xã hội. Dự luật Biểu tình đó cũng đã được gửi đến các cơ quan có thầm quyền như Quốc hội, Chính phủ, đã lâu nhưng không một lời hồi âm.

Nhân sự kiện chính phủ Nguyễn Tấn Dũng không hoàn tất soạn thảo dự Luật Biểu tình trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, nhà báo Phạm Chí Dũng, Chủ tich Hội Nhà báo độc lập Việt Nam có cuộc hội luận với nhà báo Trần Quang Thành. Trong cuộc hội luận nhà báo Phạm Chí Dũng nói: Tôi thách bất kỳ ai chứng minh chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thúc đẩy dân ch”

Nội dung cuộc hội luân như sau – Mời quí vị cùng nghe:

YouTube player

Trần Quang Thành : Xin chào nhà báo Phạm Chí Dũng.

Phạm Chí Dũng :  Vâng. Xin chào anh Trần Quang Thành và quí thính giả.

TQT Nhà báo Phạm Chí Dũng và Hội Nhà báo độc lập Việt Nam đã  từng soạn thảo Luật Biểu tình và đã từng công khai đưa lên lấy ý kiến dư luận. Ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã từng ủng hộ phải có Luật Biểu tình và ông là người hăng hái nhất lúc đầu. Nhưng hiện nay vào cuối nhiệm kỳ khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội không cho lùi thêm nữa thì chính ông Nguyễn Tấn Dũng lại là người nói chưa soạn thảo xong, chưa chuẩn bị xong nên ông dứt khoát không đưa trình Quốc hội trong kỳ họp cuối cùng của khóa XIII. Tại sao lại như vậy nhà báo Phạm Chí Dũng?

“Bài học xương tủy cho những người còn mơ màng về ông Nguyễn Tấn Dũng”

PCD: Tôi nghĩ có lẽ đây là một bài học đắt giá, một bài học xương tủy cho những người còn mơ màng về ông Nguyễn Tấn Dũng; cho một số trí thức ở trong nước và kể cả một số ít trí thức ở hải ngoại, những người còn mơ hồ ông Nguyễn Tấn Dũng là người ủng hộ dân chủ, là người “nắm chắc ngọn cờ dân chủ” như Thông điệp năm 2014 của ông đã nêu, và về việc ông là người “thoát Trung mạnh mẽ”.

Có một điều là chưa bao giờ ông Nguyễn Tấn Dũng thể hiện một cách triệt để và có hiệu quả đối với việc ủng hộ Luật Biểu tình, mặc dù tháng 11/2011 ông Nguyễn Tấn Dũng là người lãnh đạo cao cấp đầu tiên ra trước Quốc hội đề nghị cần có Luật Biểu tình. Chỉ có vài từ như vậy thôi mà báo chí ồn ào và lúc đó uy tín của ông Nguyễn Tấn Dũng tăng vọt. Lúc đó người ta hy vọng ông Nguyễn Tấn Dũng là  một người đổi mới (lúc đó chưa có cụm từ “cải cách thể chế” như hiện nay). Đơn thuần chỉ có từ “đổi mới”.

Từ sau năm 2011, năm nào ông Nguyễn Tấn Dũng cũng nhắc đến Luật Biểu tình, nhưng có một điều là ông ta đã không làm gì để thúc đẩy tiến trình soạn thảo Luật Biểu tình. Mặc dù năm 2011 Chính phủ đã chính thức giao cho Bộ Công an là cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Biểu tình kết hợp với một số bộ, ngành khác như Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Mặt trận Tổ quốc… Nhưng suốt gần 5 năm qua, dự thảo Luật Biểu tình vẫn giậm chân tại chỗ và năm nào cũng bị trì hoãn. Riêng năm 2015 đã bị trì hoãn 2 lần vào tháng 3 và tháng 12 đều do tác nhân là Bộ Công an trì hoãn đưa ra nhiều lý do trì hoãn, trong đó  có lý do như là chưa thống nhất giữa các bộ, ngành hay là “còn phức tạp lắm”. Đến tháng 2/2016  xuất thêm một tác nhân nữa trì hoãn Luật Biểu tình đó là Bộ Tư pháp cũng với lý do là chưa có sự thống nhất giữa các bộ, các ngành.

Cũng lúc đó xuất hiện thêm một tác nhân nữa là Bộ Quốc phòng. Nếu không có sự tiết lộ của một cán bộ cấp cao của Quốc hội thì có lẽ người ta không bao giờ biết được Bộ Quốc phòng có một quan điểm trì hoãn Luật Biểu tình và do đó là phản ứng lại hoạt động biểu tình chống Trung Quốc.

Bộ Quốc phòng, trong văn bản trả lời Quốc hội đề nghị lùi Luật Biểu tình, đã trả lời rằng Luật Biểu tình là một khái niệm có liên quan đến đổi mới chính trị. Tôi để ý rất sâu đậm vào cụm từ đổi mới chính trị. Bởi vì từ trước đến giờ đổi mới chính trị vẫn được coi là một vấn đề rất nhạy cảm, bằng cách nào đó vẫn có thể bị suy diễn là đi chệch phương hướng chỉ đạo đường lối của Đảng và Nhà nước. Cho nên nói  “đổi mới chính trị” thì rất dễ bị quy chụp là người hữu khuynh, là người rất dễ có quan điểm gần gũi với các “thế lực thù địch”. Khi Bộ Quốc phòng đưa ra lý do đổi mới chính trị như vậy, đồng thời đưa ra  lý do chỉ có thể bảo đảm an ninh, quốc phòng sau đó mới có Luật Biểu tình, có nghĩa là Bộ Quốc phòng cố ý muốn trì hoãn Luật Biểu tình, trong đó có động thái biểu tình chống Trung Quốc của người dân Việt Nam.

Như vậy có thể nhìn ra một chuỗi mắt xích, dây rợ liên quan giữa các bộ ngành như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp kéo lên đến chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng để có quan điểm thống nhất chưa thể ban hành Luật Biểu tình. Hay  nói cách khác, như một số quan chức đã từng tuyên bố rằng  Luật Biểu tình ở Việt Nam chỉ có thể ban hành sau năm 2020 chứ không phải là hiện nay!

Như chúng ta đã biết, đây là một quyền dân đã bị kéo dài nhiều năm lắm rồi. Trong Hiến pháp năm 1946 đã nói về Luật Biểu tình. Trong suốt hơn 70 năm cầm quyền của đảng Cộng sản đã luôn luôn nói về Luật Biểu tình nhưng không bao giờ ban bố cái quyền dân cấp thiết đến như vậy. Nếu tính từ Hiến pháp năm 1992 trở lại đây, có thể nói Luật Biểu tình đã bị trễ hẹn đến 1/4 thế kỷ.

Trong khi đó biểu tình thể hiện yêu cầu chính đáng của người dân Việt Nam, một yêu cầu bức thiết của người dân Việt Nam bởi vì liên quan đến nhiều thành phần. Nếu như cách đây vài chục năm số thành phần đó còn ít, đến nay đã có đến hàng triệu dân oan, hàng trăm ngàn nạn nhân môi trường, và gần đây nhất chúng ta thấy tiểu thương như ở chợ Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội. Đó là những yêu cầu biểu hiện chính đáng của người dân. Dù chưa có Luật Biểu tình thì suốt từ năm 2005 đến nay, đã hơn 10 năm qua biểu tình và đình công của công nhân, của tiểu thương, của các nạn nhân môi trường, dân oan đất đai vẫn rầm rộ trên khắp  các miền đất nước Việt Nam. Chính điều đó làm cho nhà nước biết rằng rằng nhà nước phải giải quyết nhu cầu biểu tình. Vậy tại sao chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng lại không đáp ứng được điều đó?

Tôi cho rằng đây là một bước thụt lùi nghiêm trọng đối với dân chủ nói chung và thụt lùi nói riêng đối với ông Nguyễn Tấn Dũng đối với cái gọi là “uy tín cá nhân” của ông trong những ngày cuối cùng ông cầm quyền ở Việt Nam. Đáng lẽ ra một người như Nguyễn Tấn Dũng đã phát ra một thông điệp trong đó có cụm từ “nắm chắc ngọn cờ dân chủ”  (Thông điệp 2014) thì ông phải biết vận dụng điều đó, và nếu cho là mị dân đi nữa thì ông cũng phải làm ít điều gì đó dân chủ, cho dân chủ trong đó có Luật Biểu tình. Nhưng rất tiếc là ông đã không tận dụng hoặc không lợi dụng được điều đó. Đó là một trong những nguyên do làm cho ông thất bại và phải rời khỏi Bộ Chính trị  Đại hội XII của đảng cầm quyền tháng 1/2016. Cũng rất tiếc trong những ngày còn lại đó, có người nói thay vì ông Nguyễn Tấn Dũng để lại một chút gì dân chủ cho người dân thì ông lại đảo ngược xu thế đó. Và ông đã làm điều phi dân chủ. Như vậy ông đã không để lại được cái gì trong lòng dân chúng nếu không muốn nói là ngược lại.

“Khát nước giữa sa mạc”: Hãy nhìn vào việc làm của ông Nguyễn Tấn Dũng

TQT: Ông Nguyễn Tấn Dũng là người luôn nêu nhiều vấn đề mang lại sự quan tâm của rất nhiều người, trong dư luận cũng như trong người dân. Ông từng nêu lên phải kiện Trung Quốc; ông từng nêu lên phải cải cách thể chế ; ông từng nêu lên phải tự do internet, tự do thông tin cho dân; ông từng nêu lên vấn đề Luật Biểu tình. Nhưng tại sao những lời nói của ông lại không được thể hiện bằng hành động cụ thể, thưa nhà báo Phạm  Chí Dũng?

PCD: Chúng ta, người dân Việt Nam hãy nhìn vào hành động của ông Nguyễn Tấn Dũng chứ không chỉ nghe lời nói của ông Nguyễn Tấn Dũng. Nói một cách khác là hãy nhìn vào ông Nguyễn Tấn Dũng làm như thế nào, chứ không chỉ nghe ông Nguyễn Tấn Dũng nói ba hoa.

Khi ông Nguyễn Tấn Dũng nói về vấn đề dân chủ, khi nói về Luật Biểu tình, khi nói về cải cách thể chế, về tự do internet hay là “chúng ta không thể ngăn cấm facebook đâu, không thể ngăn cấm các mạng xã hội đâu các đồng chí ạ?!”, hãy nhìn vào bộ sậu của ông, các cơ quan của ông – họ đã làm cái gì để thúc đẩy những điều đó? Không, họ không làm gì cả. Tôi thách bất kỳ ai ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại có thể chứng minh được một hành động dù chỉ nhỏ nhoi của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã làm để thúc đẩy dân chủ, nhân quyền trong suốt những năm vừa qua.

TQT:  Thế tại sao có những người ca ngợi ông ấy là con người cải cách, con người  cấp tiến?

PCD: Có hai thành phần:

– Một thành phần là những dư luận truyền thông mà chúng tôi hiểu đó là những người ủng hộ của ông Nguyễn Tấn Dũng. Họ đã tập hợp lại thành một nhóm và nhóm này lại biết sử dụng truyền thông một cách triệt để và hiệu quả hơn hẳn nhóm của ông Nguyễn Phú Trọng và thậm chí hơn cả nhóm của ông Trương Tấn Sang.

– Thành phần thứ hai, tôi nghĩ ở Việt Nam luôn luôn có. Đó là những người nào đó, nói một cách mô phỏng là tâm lý “khát nước giữa sa mạc”. Họ đa số là những người lớn tuổi. Tôi đã gặp những người lớn tuổi đó và họ nói thành thật với tôi rằng họ già rồi, họ không còn bao nhiêu thời gian nữa và họ quá sốt ruột trước hiện tình quá ngổn ngang của đất nước. Họ chỉ mong có một bàn tay có bản lĩnh cầm trịch để có thể xoay chuyển được tình hình đất nước. Họ quá mong đợi vào một Gooc-ba-chốp, thậm chí quá mong đợi vào một Putin của Việt Nam. Vì thế họ quan niệm là trong những cái dở phải chọn cái nào ít dở hơn, và họ nghĩ là Nguyễn Tấn Dũng là người ít dở hơn. Họ nghĩ rằng Nguyễn Tấn Dũng là người tham nhũng nhưng ông ta vẫn là người có thể đổi mới, có thể giải tán được đảng Cộng sản. Họ nói thẳng với tôi rằng họ quá lớn tuổi, họ không còn bao nhiêu thời gian, thành thử họ buộc phải lựa chọn. Và từ thái độ buộc phải  lựa chọn ấy, nếu không là ủng hộ thì cũng là nghiêng về một ai đó trong Nguyễn Phú Trọng hoặc Nguyễn Tấn Dũng.

Có người nói với tôi đó là “tâm lý khát nước giữa sa mạc”. Họ như những người đi lang thang giữa sa mạc khô hạn, nóng gắt không có một giọt nước, để khi họ thấy một cái giếng thì họ rất mừng, mặc dù không biết ở dưới giếng đó có nước hay không. Tôi cho rằng có thể thông cảm được với tâm lý đó, nhưng chỉ thông cảm trong một chừng mực nào đó thôi. Vì nếu cảm thông hoàn toàn với tâm lý đó thì có khi lại dẫn tới một sự sai lầm. Đó không chỉ là một sự sai lầm theo nghĩa lựa chọn cá nhân mà nó là cả một sự sai lầm trong vấn đề lựa chọn một thể chế, và là sai lầm cho cả một thế hệ, có thể dẫn dân tộc Việt Nam đến một sai lầm khủng khiếp.

Lúc này, sau khi ông Nguyễn Tấn Dũng không còn là Ủy viên Bộ Chính trị và nhất là sau khi được biết ông là người chỉ đạo ngưng lùi Luật Biểu tình thì đã có một số người trước đây ủng hộ ông đã nhìn nhận ông khác và thậm chí khác hẳn. Họ không thấy Nguyễn Tấn Dũng như một cơ may cho dân chủ. Không còn rơi rớt một cơ may nào dân chủ nữa. Họ đang phản ứng với ông và thậm chí phản ứng rất mạnh mẽ.

Ông Nguyễn Sinh Hùng đang có một sự thay đổi thầm kín tự thân?

TQT : Luật Biểu tình là một yêu cầu chính đáng của người dân; biểu tình là một yêu cầu chính đáng của người dân. Trong suốt 70 năm qua hiến pháp nào của nhà nước cộng sản cũng nêu lên điều đó. Nhưng tại sao họ lại sợ Luật Biểu tình đến thế? Như ông Nguyễn Tấn Dũng một người được gọi là cấp tiến, là dân chủ cũng lùi lại yêu cầu chính đáng đó của người dân, thưa nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng?

PCD : Đó là tâm lý cai trị độc trị ở Việt Nam. Cai trị một cách độc đoán được gọi là độc trị hay toàn trị. Quản không được thì cấm. Quản không được thì rất sợ. Họ chỉ có thể áp đặt một cách thành công thì họ mới bớt sợ. Nhưng khi biểu tình của người dân đã dâng cao, đặc biệt dân oan đất đai, thì họ rất sợ. Họ sợ Luật Biểu tình vô hình trung sẽ hợp thức hóa làn sóng biểu tình của bà con dân oan đất đai. Cho nên họ cố kéo dài, cố gắng trì hoãn, thậm chí vùi dập Luật Biểu tình không cho ra.  Tôi cho đó cũng là một lý do hoàn toàn dễ hiểu: họ yếu nên họ mới sợ.

TQT : Có một điều rõ ràng mà người dân thấy và ai cũng thấy. Người ta nói là  có 3 cơ quan : Lập pháp – Hành pháp – Tư pháp. Nhưng mà là một cơ quan lập pháp Quốc hội, đại biểu Quốc hội hình như chưa thảo ra một luật nào mà hoàn toàn ỷ lại vào chính phủ soạn thảo luật rồi lại hướng dẫn thi hành luật.  Tại sao lại có tình trạng như vậy thưa nhà báo Phạm Chí Dũng?

PCD : “Cương lĩnh Đảng quan trọng hơn Hiến pháp” – như ông Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo. Tình trạng từ trước đến nay gần như là đảng cầm tay chỉ việc Quốc hội. Quốc hội chỉ là một cơ quan bù nhìn mà thôi, mặc dù về bản chất Quốc hội là một cơ quan độc lập có quyền hạn giám sát, kể cả giám sát Đảng.

Tôi thấy có rất nhiều bằng chứng cho thấy Quốc hội đã không làm tròn trách nhiệm của mình. Có nhiều lý do, nhưng nguyên nhân sâu xa là Quốc hội chưa thể hiện nổi vai trò của một cơ quan độc lập. Cho nên thời gian sắp tới Quốc hội muốn tỏ ra vì dân hơn, gần dân hơn thì tất nhiên cơ quan này phải có những động thái thay đổi.

Có một điều tôi hơi ngạc nhiên là  ông Nguyễn Sinh Hùng, trong một phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tháng Hai vừa qua, lần đầu tiên ông đã lên tiếng chỉ trích thái độ thiếu nghiêm túc của chính phủ khi trì hoãn Luật Biểu tình. Trước đây chưa thấy biểu thị thái độ của ông Nguyễn Sinh Hùng nghiêm túc và gay gắt đến như thế. Tôi cho rằng cũng có tâm lý khi những người gần hết chức, hết quyền họ có thể nói ra thôi. Nhưng đó chỉ là một lý do.

Tôi cho rằng có một khả năng ông Nguyễn Sinh Hùng đã có một sự thay đổi tự thân – sự thay đổi rất thầm kín. Ông ta muốn để lại một dấu ấn nào đó về giai đoạn cuối đời làm việc của ông ta đối với người dân Việt Nam. Tất nhiên ông ta cũng muốn hậu sự của ông ta được mãn nguyện mà không bị bôi xấu. Thành thử là gần như ông Nguyễn Sinh Hùng đã có một sự thay đổi trong vòng một năm rưỡi vừa qua. Có thể nói, ông là một trong những quan chức cao cấp có những lời ăn tiếng nói tương đối mạnh mẽ nhất. Tôi cho đó dù sao cũng là một dấu hiệu thay đổi  có hướng tích cực, mặc dù động cơ của ông Nguyễn Sinh Hùng có thể chỉ là mị dân. Ở Việt Nam không có cái gì thay đổi nhanh chóng.

Còn ông Nguyễn Tấn Dũng, từ một con người được coi là dân chủ trong mắt một số người dân và trí thức, lại trở thành một người bảo thủ già cỗi, tôi cho đó là một sự bế tắc. Không chỉ bế tắc về chính trị, về dân chủ mà cả bế tắc về dân sinh và cuối cùng có lẽ là bế tắc toàn cục đối với ông Nguyễn Tấn Dũng.

Quốc hội phải chứng tỏ được rằng họ tự đi bằng đôi chân của mình

TQT : Trở lại Luật Biểu tình. Hội nhà báo độc lập Việt Nam nhẽ ra phải đưa ra khuyến nghị một cái luật về tự do báo chí hay là Luật Báo chí mới, nhưng đã tạm gác lại quyền lợi thiết thân nhất của tổ chức mình, của các nhà báo để làm một việc vì dân, vì nước – đó là đưa ra Luật Biểu tình.  Và Luật Biểu tình do Hội Nhà báo độc lập đưa ra đã được sự đồng tình và ủng hộ của dư luận xã hội nhất là dư luận trên các mạng xã hội. Ông đánh giá sao về Luật Biểu tình mà Hội Nhà báo độc lập đưa ra và hiện nay thái độ của cơ quan có thẩm quyền của nhà nước đối với luật này như thế nào?

PCD : Cuối năm 2014, sau 5 tháng thành lập Hội Nhà báo độc lập, chúng tôi có ngồi lại bàn với nhau. Một trong những cải cách thể chế ở Việt Nam là cải cách làm luật. Một trong những liên quan đến cải cách làm luật là xã hội dân sự, vấn đề nhân quyền, dân chủ ở Việt Nam và Luật Biểu tình. Tất nhiên có thể bàn đến luật tương đối sát sườn, phù hợp với chuyên  môn của Hội nhà báo độc lập là Luật Tự do báo chí. Thế nhưng biểu tình là quyền gần gũi, sát sườn nhất ở Việt Nam, còn hơn cả Luật Lập hội nữa.. Có một số luật chúng tôi đã bàn: Thứ nhất Luật Biểu tình ; thứ hai Luật Lập hội ; thứ ba Luật Tự do báo chí ; thứ tư là Luật Tiếp cận thông tin ; thứ năm là Luật Xã hội dân sự. Cuối cùng chúng tôi chọn Luật Biểu tình là luật bức xúc nhất, sát sườn nhất  và có thể nói là nó tác động ngay đến đời sống của dân. Chúng tôi đã tiến hành soạn thảo dự thảo 4 lần Luật Biểu tình đưa lên mạng xã hội góp ý kiến và sau đó hoàn chỉnh Luật Biểu tình theo quan điểm của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam và đã gửi cho một số cơ quan liên quan như Quốc hội, Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Tư pháp. Nhưng rất tiếc từ đầu năm 2015 đến nay không có bất kỳ sự hồi âm nào. Nhưng Hội Nhà báo độc lập Việt Nam không lấy đó làm ngạc nhiên vì đó là thói quen thường trực của các cơ quan nhà nước này.

Chúng tôi chỉ muốn nói là xã hội dân sự quan tâm đến vấn đề này. Chúng tôi muốn đóng góp như một ý kiến tham khảo khi Quốc hội soạn thảo Luật Biểu tình. Chúng tôi nhấn mạnh là Quốc hội soạn thảo Luật Biểu tình chứ không phải là Bộ Công an soạn thảo Luật Biểu tình thì có thể tham khảo ý kiến của Hội Nhà báo độc lập như là một tổ chức xã hội dân sự. Tất nhiên sự tham khảo ý kiến đó là với quan điểm của người dân chứ không phải là áp đặt người dân.

Chúng tôi hy vọng với xu thế không thể thoái thác trách nhiệm và xu thế của ngày càng dâng cao áp lực của đời sống, áp lực của nhân dân, có lẽ năm 2016 vào một thời điểm mà Quốc hội sẽ cần phải chứng tỏ được rằng họ tự đi bằng đôi chân của mình. Họ không phải là một mái đầu ngoan ngoãn nói gì nghe đó, nói gì làm đó và họ cũng phải đáp ứng được một số tối thiểu quyền dân. Đó là  luật để cho người dân biểu thị thái độ của mình trên đường phố. Lúc đó có thể bản văn dự thảo Luật Biểu tình của Hội Nhà báo độc lập sẽ được Quốc hội “để mắt” tới. Chúng tôi cho rằng đó là một điều đương nhiên. Đó là một việc Quốc hội phải lắng nghe.

TQT : Hy vọng mong muốn của Hội Nhà báo độc lập, của Chủ tịch Hội Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng sẽ trở thành hiện thực khi Quốc hội khóa XIV bước vào nhiệm kỳ của mình.

Mong Hội Nhà báo độc lập tiếp tục tiếng nói của mình góp phần cho Luật Biểu tình sớm ra đời, làm cơ sở cho mọi người thực thi quyền của mình như qui định trong Hiến pháp. Xin cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng.

PCD : Tôi cũng mong như vậy. Xin cảm ơn anh Trần Quang Thành.

Hội nghị Biển Đông: ‘Cần nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc’

Hội nghị Biển Đông: ‘Cần nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc’
Nguoi-viet.com

Châu Văn Thi
(Gởi cho Người Việt từ Manila)

MANILA (NV) – “Tất cả hành động quân sự hóa của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian vừa qua nhằm khẳng định chủ quyền của họ, tạo ra sự đã rồi, để mà họ tìm một thế thượng phong nếu như họ không còn đường thối lui mà bắt buộc phải ra tòa.” Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc bình luận về những hành động quân sự mới đây của Trung Quốc ở Biển Đông.

Cựu Nghị Sĩ Roilo Golez trình bày bản tham luận về những sự mở mang, cải tạo đảo của các quốc gia ở Biển Đông, đặc biệt là Trung Quốc. (Hình: Châu Văn Thi/Người Việt)

Sáng 4 Tháng Ba 2016, các tổ chức Xã Hội Dân Sự (XHDS) Việt Nam và Philippines tổ chức hội nghị Biển Đông lần thứ 2 tại Manila, Philippines.

Đến tham dự có tổ chức VOICE, nhóm họp mặt dân chủ của Việt Nam cùng với 2 liên minh MARCHA, USPGG của Philippines.

Đặc biệt có sự tham dự của ông Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu độc lập về Biển Đông đến từ Việt Nam. Ông Phúc cho rằng tổ chức ASEAN hiện giờ là một tổ chức yếu, các thiết chế còn lỏng lẻo và nếu không giải quyết những bất đồng nội bộ liên quan đến quần đảo Hoàng Sa thì khó mà chống Trung Quốc được.

Ông cũng đề nghị, “Về mặt chiến lược quân sự thì nên chăng giữa Việt Nam và Philippines đàm phán vấn đề 2 đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây, biến nó thành hòn đảo nhân tạo và một căn cứ quân sự nhằm phá vỡ được trận địa trên 7 đảo nhân tạo của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa.”

“Có một số người nói rằng, việc mà Trung Quốc triển khai radar, tên lửa là để cô lập và đối đầu với Mỹ, tôi thì không nghĩ như vậy!”

Nhà nghiên cứu bình luận: “Tất cả hành động quân sự hóa của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian vừa qua nhằm khẳng định chủ quyền của họ, tạo ra sự đã rồi, để mà họ tìm một thế thượng phong nếu như họ không còn đường thối lui mà bắt buộc phải ra tòa.”

Hội nghị có trên 20 người tham dự, đến từ 4 tổ chức XHDS Việt-Phi. (Hình: Châu Văn Thi/Người Việt)

Tại hội thảo, ông Roilo Golez, cựu Thượng Nghị Sĩ Philippines trình bày bài phân tích về sự mở mang mới nhất của Trung Quốc ở vùng biển South China Sea (Philippines gọi là Tây Philippines, Việt Nam gọi là Biển Đông).

Ông Roilo Golez cho rằng cần có thêm nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc và nhiều những cuộc hội thảo như thế này nhằm giáo dục người dân về mối nguy cơ của Trung Quốc ở Biển Đông.

Tuyên bố chung Việt-Phi

Kết thúc hội nghị, 4 nhóm Xã Hội Dân Sự của Việt Nam và Philippines cùng đồng ý ký tên vào tuyên bố chung Việt-Phi trong đó nêu rõ: “Các tổ chức Xã Hội Dân Sự cần phải có một tiếng nói độc lập.

“Chúng ta không muốn nói những gì chính quyền nói, chúng ta sẽ có tiếng nói riêng của mình.

“VOICE đồng ý để tiếp tục tổ chức những hội nghị như thế này.

“Các tổ chức Xã Hội Dân Sự như USPGG và MARCHA có thể tổ chức các cuộc biểu tình chống Trung Quốc,” tuyên bố chung ký bởi 4 tổ chức cho biết những việc cần làm.

Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc đề nghị Việt-Phi hợp tác quân sự hóa 2 đảo Song Tử Đông, Song Tử Tây để đối chọi với Trung Quốc. (Hình: Châu Văn Thi/Người Việt)

Luật Sư Trịnh Hội, giám đốc điều hành của tổ chức VOICE cho biết hội nghị đã đồng ý 2 điều chính đó là: “Những người tham gia đồng ý sẽ tiếp tục vận động những tổ chức XHDS ở Philippines và Việt Nam cùng hợp tác để tiếp tục ủng hộ Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Cùng đồng ý sẽ phải thúc đẩy chính phủ Việt Nam thực hiện điều tương tự là kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.”


Tưởng nhớ Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, một diễn giả của hội nghị Biển Đông lần 2 mất vào ngày 3 Tháng Ba khi đang trên máy bay từ Mỹ đến Philippines.

Hội nghị Biển Đông lần 2 dành 1 ghế trống để tưởng nhớ Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, diễn giả của hội nghị qua đời khi trên đường đến tham dự. (Hình: Châu Văn Thi/Người Việt)

Trước khi bắt đầu hội nghị, mọi người cùng dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ về ông, đồng thời hội nghị để trống 1 ghế đề tên ông như có sự hiện diện của ông trong cuộc hội thảo lần này.

Theo dự định, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích sẽ có bài tham luận bàn về quan hệ Việt-Trung và ông cho rằng mối quan hệ 2 nước đang ở “một khúc quanh phức tạp.”

Thi hài của Giáo Sư Bích sẽ được đưa về Hoa Kỳ vào tối 6 Tháng Ba, 2016.

Lương và cuộc sống của công nhân

Lương và cuộc sống của công nhân

Hoàng Dung, thông tín viên RFA
2016-03-06

Các công nhân nữ trong một xưởng may.

AFP PHOTO

Your browser does not support the audio element.

Việt Nam được coi là một nước đang phát triển, với một lực lượng lao động trẻ, dồi dào và có nhiều tiềm năng, tuy nhiên lương của công nhân Việt Nam đang ở mức thấp và cuộc sống của công nhân gặp nhiều khó khăn.

Thu nhập của công nhân

Theo nghị định 122/2015/NĐ-CP ban hành ngày 14 tháng 11 năm 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2016 quy định mức lương tính theo vùng, với mức lương tối thiểu, cụ thể: Đối với vùng 1 mức lương là 3.500.000đ/tháng, vùng 2 mức lương 3.100.000đ/tháng, vùng 3 – 2.700.000đ/tháng, vùng 4 – 2.400.000đ/tháng. Đây là mức lương tối thiểu mà khi doanh nghiệp phải thỏa thuận để trả cho các công nhân không bao gồm các khoản trợ cấp cũng như phụ cấp thêm hay là thời gian làm thêm giờ của công nhân.

So với các nước cùng khu vực thì mức lương tối thiểu của công nhân Việt Nam là thấp nhất.

Đó là quy định của chính phủ với mức lương tối thiểu cho công nhân, tuy nhiên thực tế thì không như vậy, có nhiều doanh nghiệp không trả lương cho công nhân theo quy định đó, có công ty lại bớt chỗ này để bù vào chỗ kia.

Một ngày em có thể làm được 15, 16 tiếng, có khi em làm thêm, phụ thêm để đủ ăn mà thôi.
– anh Trần Văn Điển

Anh Trần Văn Điển một công nhân làm ở công ty sản xuất giấy An Hòa, tỉnh Tuyên Quang cho biết, lương cơ bản của anh là 2.500.000đ/tháng, cộng tất cả các khoản trợ cấp và phụ cấp thì anh được 3.700.00đ/tháng, ngoài ra anh không được hỗ trợ nào thêm, dù làm việc trong môi trường rất ô nhiễm về chất hóa học.

Nhưng theo nghị định của chính phủ về việc tính lương theo vùng thì 1 tháng anh phải được 3.100.000đ/tháng không bao gồm các khoản phụ cấp và trợ cấp.

Anh Điển tiếp lời:

Lương làm của em là 2.500.000 ngàn đồng, cộng thêm các vào là 3.700.000, không có hỗ trợ gì nữa, tiền lương 3.700.000 là quá ít so với mặt bằng chung ở các tỉnh thành.

Chị Nguyễn Thị Yến, một công nhân quê ở Nghệ An làm tại khu công nghiệp Nam Cấm ở Nghệ An cũng cho biết.

“Lương cơ bản của em là 2.850.000, nếu tăng ca đều đều 1 tháng 48h thì 1 tháng được khoảng 4.500.000.”

Trong khi những tỉnh thành khác thì lương cơ bản khá thấp thì các khu công nghiệp trên địa bàn Tp Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai… cao hơn nhiều.

Chị Huệ làm trong công ty Sprinta ở Bình Dương cho biết:

“Lương cơ bản được 4.100.000, kể cả làm thêm giờ 1 tháng em được 6.000.000.”

Làm thêm giờ

Làm việc trong công ty sản xuất giấy An Hòa, anh Điển cho biết đây là công ty sản xuất theo dây chuyền nên không có tăng ca, thêm giờ, nên 1 tháng tất cả các công nhân chỉ nhận được 3.700.000đ, nhưng theo anh với mức tiền này công nhân họ chỉ đủ sống qua ngày, nhất là đối với những người không phải dân bản xứ phải đến thuê ở trọ, chứ chưa tính đến việc ốm đau hay là trợ giúp thêm cho gia đình. Còn anh Điển là dân bản xứ mọi sinh hoạt cùng với gia đình, ngoài ra mỗi khi làm ở công ty về anh còn kiếm việc để làm thêm nên thu nhập có khả hơn.

000_Hkg4153197.jpg

Một lao động Việt Nam của nhà máy phát điện tuabin đứng kế các thành phần tuabin gió bên trong một dây chuyền lắp ráp tại thành phố ven biển phía Bắc của Hải Phòng.

Anh Điển tiếp lời:

“Một ngày em có thể làm được 15, 16 tiếng, có khi em làm thêm, phụ thêm để đủ ăn mà thôi. Chứ còn như những người nào mà đến đây ở trọ mà để làm ăn thì với mức lương 3.700.000 thì chỉ gọi là ăn cho qua ngày thôi vì nó quá thấp. Còn chưa nói đến chuyện ốm đau hay là bệnh tật, hay là gia đình còn có ai ốm đau nữa thì chắc là không đủ sinh sống.”

Trong khi anh Điển ngoài thời gian làm việc ở công ty thì anh phải tìm thêm cho mình một công việc khác để tăng thu nhập cho cho mình thì phần lớn các công nhân làm việc trong các khu công nghiệp thì họ phải làm tăng ca để có thêm thu nhập cho cuộc sống, vì theo nhiều công nhân cho biết, lương cơ bản của họ thì chỉ để giúp họ chi trả cho cuộc sống trong tháng đó, nếu tháng đó không có ốm đau, không có đám cưới… thì như thể họ mới đủ. Còn tiền làm tăng ca thì đó mới là tiền để họ trợ giúp cho gia đình, vì khi ra đi làm thì gánh nặng gia đình, nuôi các em ăn học… đè nặng trên vai họ.

Theo quy định của công ty thì lương cơ bản của công nhân là một ngày làm việc 8 tiếng, nhưng vì gánh nặng gia đình nên nhiều công nhân làm việc mỗi ngày 10 tiếng, 12 tiếng, có những công nhân thậm chí làm đến 14 tiếng, 16 tiếng 1 ngày.

Chị Huệ làm công nhân ở công ty Sprinta (Bình Dương) cho biết, mỗi ngày chị phải làm tăng ca đến 14 tiếng, như vậy mỗi tháng chị mới đủ dư 2.000.000 để phụ giúp cho gia đình, đó là đối với những người tiết kiệm.

“Trước thì có 9 – 10 tiếng, nhưng giờ chỉ có 8 tiếng thôi, tùy theo từng người, nhưng mỗi tháng em có dư 2.000.000.”

Có nhiều công ty ngoài các khoản trợ cấp và phụ cấp, họ còn hỗ trợ cho các công nhân thêm nhiều khoản khác nữa như hỗ trợ thêm tiền xăng xe cho các công nhân người địa phương mà không thể ở trọ, hỗ trợ tiền sinh đẻ cho các công nhân nữ…

Chị Yến ở Nghệ An chia sẻ:

“Xăng xe khu vực là 400.000, tăng ca 1 tiếng được 15.000, phụ nữ sinh vẫn có bảo hiểm, nhưng khi sinh sau đi làm 6 tháng họ mới nhận được bảo hiểm.”

Thông tin từ Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) cho biết, trong 2 tháng đầu năm 2016, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là 15.605 lao động, chưa kể đến số lao động đi làm ở các nước mà không qua dịch vụ.

Việt Nam được là một nước có nguồn lao động trẻ, theo một báo cáo mỗi năm có khoảng 1,1 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động, tuy nhiên vì ở trong nước không tìm được việc làm cũng như tiền lương ít ỏi nên nhiều công nhân Việt Nam phải tìm cách đi xuất khẩu lao động. Trong thời gian gần đây thị trường mà nhiều lao động Việt Nam tìm tới là Lào, Camphuchia và đặc biệt là Thái Lan.

“Thủ tục hành chính của mình cay độc lắm, độc ác lắm”

(VienDongDaily.Com – 04/03/2016)

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

 Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nói trước QH, “Thủ tục hành chính của mình cay độc lắm, độc ác lắm!”


Doanh nghiệp Việt đang phải vật lộn để tồn tại (ảnh minh họa).
 
  
Thưa bạn đọc, trên đây không phải là câu nói của tôi, câu nói này của vị Chủ tịch Quốc Hội VN mà báo chí VN gọi là phát ngôn “rất ấn tượng.” Tất cả báo chí VN “lề trong” hay “lề ngoài” đều loan tin này với những lời bình luận khá gay gắt đối với thủ tục hành chính ở VN. Tôi dẫn chứng nguồn gốc tin tức đó:

Sáng 23 tháng 2-2016 vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho ý kiến vào dự án Luật dược (sửa đổi). Đặt vấn đề quy định cấp chứng chỉ hành nghề dược, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nói trước các Đại biểu Quốc Hội VN: “Tại sao lại không cấp 1 lần mà 5 năm lại cấp lại? Thủ tục hành chính của mình cay độc lắm, độc ác lắm, quá nhiều thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân.”

Tiếp theo, ông Chủ tịch đặt vấn đề: “Tại sao phải đặt nhiều thủ tục để làm gì? Để có tiền thì mới xong chứ sao nữa. Tự do kinh doanh mà sao nghề chữa bệnh cứu người lại gây cản trở? Chỉ cấp một lần thôi, về sau kiểm tra thấy đủ điều kiện thì hoạt động tiếp, còn không đủ thì thôi chứ sao lại một vài năm lại cấp lại.”

Câu nói trúng tim đen của người dân. Ông Chủ tịch Quốc Hội (CTQH) nói trúng phóc. Đó là sự thành thật hay khôn ngoan? Nhưng dù thế nào thì biểu hiện của sự hiểu được lòng dân cũng làm mấy anh dân đen như tôi khoái tỉ.
             

     Năm 2015, số doanh nghiệp chấm dứt hoạt động trong năm là 9,467 doanh nghiệp.

Thế nhưng hiểu được lòng dân rồi tiếp theo thì sao? Giải quyết cái vấn nạn to tướng hàng ngày treo lơ lửng trên đầu người dân thế nào, biện pháp ra sao, có làm được không lại là vấn đề khác. Cũng như bao nhiêu chuyện quan trọng khác, đưa ra rồi lại đưa vô (có nghĩa hổng làm được), nói hết năm này sang năm khác rồi nó vẫn cứ thế, năm sau, năm sau lại nói nữa, nói dài, nói dai, nói hoài không hết. Thanh kiếm “độc ác” vẫn cứ treo toòng teng đó, dân vẫn run. Lần này là lần chót chưa? Nếu được thế thì may quá.

Có tiền thì mới xong

Câu hỏi của ông CTQH: “Tại sao phải đặt nhiều thủ tục để làm gì?” Và ông tự trả lời: “Để có tiền thì mới xong chứ sao nữa.”

Ô hô, ai tai! Không một người dân VN nào không biết chuyện này. Cái sự cay độc nằm ở đó. Vác thân đến bất kỳ cơ quan nào người dân cũng phải chuẩn bị sẵn tư tưởng mang theo cái phong bì, phong bì dầy hay mỏng, tùy theo chuyện lớn chuyện nhỏ, tùy theo gặp quan nào mặt sắt đen sì quắc mắt đòi hỏi hay mềm mỏng mà “bề ngoài thơn thớt nói cười, bề trong nham hiểm giết người không dao.”

Chồng nói phải 5 triệu, vợ xót xa bớt lại 3 triệu thôi. Chồng lắc đầu: “Thằng này ăn bạo lắm, ba triệu nó chửi cho, bắt làm đơn lại còn mất thì giờ hơn, có khi lại phải tốn thêm cho thằng khác.” Thế là “ngã giá” giữa hai vợ chồng lấy mức “bình quân” là 4 triệu nhét kỹ vào phong bì không thiếu một đồng, thiếu là chết đấy.

Ngay cả đến bệnh viện công hay tư cũng thế, bệnh viện tư thì đỡ hơn chút xíu, chứ đến bệnh viện công thì mấy người nhà bệnh nhân cũng phải chuẩn bị sẵn phong bì. Lại cũng tùy theo ca bệnh nặng hay nhẹ. Bệnh xoàng xoàng cũng phải nhét vào túi bác sĩ vài trăm ngàn, 500 là tối thiểu. Còn ca mổ nặng thì vài ba triệu lót tay ông bà BS chịu trách nhiệm mổ là chuyện đương nhiên, chưa kể còn cô y tá chích cho bệnh nhân, có tí lót tay thì chích nhẹ nhàng, không tiền chích cho đau phát khóc. Thường là các vị BS lương y như từ mẫu không đòi hỏi đâu, cứ ô-tô- ma- tích nhét vào túi áo BS thôi, BS cũng ô- tô- ma- tích lặng lẽ cứu người, coi như không có chuyện gì xảy ra. Tôi chứng minh một trong những sự thật gần gũi nhất:

 

Dù đã có nhiều thành tích trong công tác xóa đói giảm nghèo nhưng Quảng Nam đã tăng từ 78 xã lên 104 xã nghèo.

Chỉ mong thoát được cái cổng bệnh viện

– Chị Hiền ở Nghệ An chia sẻ, cả đời người chị chỉ ước mong cho chị và gia đình thoát được cổng Bệnh Viện, vì chị cho rằng chưa nói đến viện phí tăng là một chuyện, nhưng tiền đút lót cho các y, bác sỹ thì lại nhiều gấp mấy lần, chị cũng cho biết 1 năm trước chị có con nhỏ 2 tuổi bị bệnh phải đi bệnh viện, trước khi tiêm cho con mà chị đút tiền cho y tá thì y tá sẽ tiêm nhẹ hơn, còn bữa nào mà không có tiền thì y tá lại tiêm cho con chị đau làm cháu phải khóc thét lên. Có nhiều trường hợp bị tai nạn phải đi cấp cứu mà không có tiền đút trước thì nhiều y bác sỹ cũng bỏ mặc hay làm việc chậm trễ mà không ra sức cứu giúp, cấp cứu cho bệnh nhân trước.”

Đến chuyện tăng tiền ở các bệnh viện

Bộ Y Tế VN vừa cho biết, từ ngày 1tháng 3, 2016 này khi đi khám chữa bệnh sẽ tính thêm chi phí phẫu thuật, thủ thuật, giá viện phí sẽ tăng bình quân khoảng 30% so với hiện nay, từ ngày 1 tháng 7, 2016, khi tính thêm tiền lương, giá sẽ tăng khoảng 50% so với hiện nay.
Công nhân Nguyễn Thị Mai làm việc trong công ty Kỹ Thuật Thành Nghĩa ở Bình Dương bày tỏ: Bộ Y Tế tăng tiền viện phí đó là một tin cực sốc đối với các công nhân, chúng tôi đấu tranh mãi nay nhà nước mới tăng được lương cho công nhân thêm 400,000/tháng. Chị than thở: “Lương thì tăng nhỏ giọt mà mọi thứ sinh hoạt đều tăng, nay Bộ Y Tế lại tăng viện phí, không biết có gì tăng nữa không biết, như thế thì công nhân chúng tôi sống sao được.”
Cái sự “có tiền thì mới xong” tuy cùng một kịch bản nhưng có trăm ngàn vẻ, linh động, tế nhị, trắng trợn, hạch sách hay cười xã giao cũng đi tới một kết luận y chang, nay ở VN đã trở thành “tiền lệ,” nói rõ là cái luật bất thành văn. Nó khốn nạn, cay độc ở đó. Đừng đổ cho “dân trí thấp.” Anh có học cao, hiểu biết rộng tới đâu mà khi cần cũng phải thi hành cái luật bất thành văn đó. Nếu không thì đừng bao giờ anh hy vọng xây được cái nhà, đừng mong người thân của anh được chữa chạy đàng hoàng.

                   

 

Phác thảo dự án tháp truyền hình cao 636 m, cao nhất thế giới của VTV, cao hơn cả Nhật Bản.

Một lá thư từ Virginia

Viết đến đây tôi nhận được cái e mail của ông Hoàng Hải Thủy, vài tuần gần đây ông phải đưa bà Alice (phu nhân của ông) bị té khá nặng đến bệnh viện ở Virginia (Mỹ). Tôi hỏi thăm, ông “meo” trả lời và kể chuyện về vụ khám chữa bệnh ở đó. Tôi ghi lại để bạn đọc so sánh, có lẽ chẳng cần bình luận dài dòng.
Trích thư ông Hoàng Hải Thủy gửi ngày 01-3-2016:

“HO sang Mỹ được hưởng nhiều ưu đãi: Được cấp Medicaid, Medicare, đau bệnh chữa không phải chi một đô. Bệnh Viện chữa tối đa, bao nhiêu tiền Nhà Nước trả, không phải hỏi có chi cho dịch vụ này không như trường hơp những người có Insurarnce – Bảo Hiểm -. Uyên Thao, Huy Sơn giải phẫu mấy lần, tiền bệnh phí cả mấy trăm ngàn đô, Nhà Nước trả hết.
Nhưng, tao nghe nói, tiêu chuẩn ưu đãi HO ở Mỹ không bằng ở Úc và Canada. Ở Úc sĩ quan VN được coi như sĩ quan Úc, bệnh điều trị ở Quân Y Viện. Tiêu chuẩn y tế cho người nghèo, người già ở Canada – tao nghe nói – cũng cao hơn ở Mỹ. Alice đau, gọi 911, một xe Ambulance, có xe Cứu Hỏa đi kèm, đến ngay trong 5 phút. Ba, bốn nurse – y tá, nam nữ – đến tận giường người bệnh, đưa lên cái giường có bánh xe, đẩy vào Ambulane. Vào khu gọi AISiYou – ICU Intense Care Unit: Khu Cấp Cứu Tối Đa – tìm bệnh, rồi lên phòng riêng nằm, nước biển dzô ngày đêm, bác sĩ đến thăm sáng tối, cần gì – tiểu, đại – nhấn chuông là có nurse vào phòng. Bệnh nhân vào, chữa trước đã, không cần biết bệnh phí trả làm sao. Hết bệnh, bác sĩ vào phòng gặp, nói về bệnh của mình. Lao công không nhận tiền tip. Những đêm tao thao thức bên giường Alice trong bệnh viện, tao mới thấy tính cách cao đẹp, hy sinh, thương người của những cô nurse – nữ y tá Mỹ. 90/100 nữ y tá Mỹ luôn tươi cười với người bệnh.Tao tin những người này sẽ được hưởng ân phúc.

Virginia có Fairfax Hospital lớn nhất, có đủ các khoa. Virginia Hospital Center nhỏ hơn, gần nhà tao chỉ chữa bệnh, không có chuyên khoa Mắt, Tim, Phổi. Virginia Hospital cao 8 tầng. Lần vào Viện mới đây, Alice nằm phòng 816, tầng 8. Trong phòng để sẵn tờ Menu. Sáng nhà bếp phone hỏi ” Muốn ăn sáng món gì?” Trưa, tối lại hỏi ăn gì, chọn trong menu, order họ làm, lao công bưng khay thức ăn vào phòng. Alice ăn chút chút. Tao ăn những món này. Alice nằm thiêm thiếp, tao ra đứng cửa phòng, nhìn vẩn vơ ra hành lang. Nurse, lao công đi ngang, thường ghé hỏi “Do you need anything?” Alice muốn đi tiểu, đi tiêu, nhấn nút chuông – nút bấm chuông để trong giường, ít nhất có hai nurse vào ngay lo cho. Tầng 8 có 20 phòng, hành lang có 10 ô để 10 computer. Người đến nuôi người thân bị bệnh chẳng ai dùng những computer này. Khi người bệnh ra về, bác sĩ vào dặn dò về nhà phải làm sao, đưa một hồ sơ ghi rõ bệnh của người bệnh, các thứ thuốc phải uống ở nhà. Có xe Ambulance đưa về nhà, nurse đưa người bệnh vào tận giường. Như Alice đi không được, có chuyên viên đến nhà một tuần hai lần, luyện cho đi. Việc người đau vào nước biển ở nhà là không được, phải đến phòng mạch bác sĩ của mình.
Sáng nay thứ Hai, Alice vui, dễ chịu, ăn được, tao mới có tinh thần để viết những chuyện này. HHT”

 

Những người lao động vô diện. Trong hình chụp ngày 2 tháng Ba, 2016 tại huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, các      nông dân đang bỏ thóc vào bao để bán. Tại Việt Nam, giới lao động hầu như không có bảo hiểm sức khỏe theo       đúng nghĩa, và nếu bị bệnh, họ mong không cần phải vào bệnh viện vì sẽ không chịu nỗi các chi phí y tế mà                ngay cả giới nhà giàu cũng phải hối lộ để được chăm sóc khá hơn. (Hình: Stringer/ Getty Images)

Cảm ơn ông bạn thân của tôi đã cho biết những tin tức này, xin ơn trên ban phước lành cho bà Alice sớm bình phục. Đến đây trở lại chuyện ở VN trong tuần này dư luận cũng đang xôn xao gay gắt.

Xây tháp truyền hình cao nhất thế giới để làm cỗ cho thiên hạ xơi

Theo công văn do Phó tổng giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam (VTV) Nguyễn Thành Lương trình Thủ tướng Chính phủ, hiện VTV cùng hai đối tác là Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) và Tập đoàn BRG đã thành lập Công ty CP Tháp truyền hình Việt Nam để xây dựng tòa tháp 636 m – cao nhất thế giới – tại khu đô thị Tây Hồ Tây (Hà Nội).

VTV dẫn lời phát biểu của Tổng giám đốc Trần Bình Minh cho hay độ cao của tháp sẽ là 636 m, hơn tháp cao nhất châu Á hiện nay là Sky Tree ở Tokyo – Nhật Bản (634 m) và tháp truyền hình Quảng Châu – Trung Quốc (600 m).

Hầu hết các nhà phê bình cho rằng kinh phí đầu tư của dự án rất khổng lồ, từ $1.3 đến $1.5 tỷ USD nhưng không mang lại kết quả thực tế nào, trái lại còn đi ngược xu hướng thế giới. Tôi chỉ nêu hai ý kiến của các nhà trí thức VN:

– GS-TS Phạm Ngọc Đăng đánh giá: “Hiện nay cũng không có nước nào mặn mòi với tháp truyền hình cao nữa. Nhật Bản xây tháp truyền hình để phục vụ truyền hình chứ không có mục đích kinh doanh dịch vụ hay kinh doanh bất động sản như VTV. Nhất là từ khi công nghệ truyền hình chuyển sang số hóa thì tháp truyền hình cao nghễu nghện đã lùi vào dĩ vãng. Việc xây tháp còn đi ngược lại với xu thế của thế giới vì hiện nay các nước đều chuyển sang làm truyền hình cáp, tín hiệu vệ tinh.”

– TS Phạm Sỹ Liêm – Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng cho rằng đó chì là cách “Bày cỗ ra ăn.” Ông nói thẳng: “Đầu tư thì phải có lợi nhưng cái lợi cần được xem xét, tính toán dựa trên mối quan hệ tổng thể. “Đầu tư nhưng tiền chỉ chui vào túi nhà đầu tư mà không có tác động lan tỏa tới kinh tế – xã hội thì mục đích đầu tư thật sự là gì? Khi xin chủ trương thì hay ho, tốt đẹp, nhìn vào dự án tưởng như cả cộng đồng, cả xã hội sẽ có lợi nhưng cuối cùng người đắc lợi chỉ là giới đầu tư, kinh doanh bất động sản. Nghĩa là chúng ta bày cỗ cho thiên hạ hưởng, nhà nước và người dân không được gì.”

Còn nhớ Giáo sư Ngô Bảo Châu, một nhà khoa học của Việt Nam sau khi UBND thành phố Sơn La dự tính kinh phí 1,400 tỷ để xây dựng tượng đài trong thành phố. GS Ngô Bảo Châu viết trên Facebook của ông: “Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1,400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh.”

Vậy xin mạn phép hỏi giáo sư Ngô Bảo Châu, ngài có lập lại câu phê bình này không?

Văn Quang

(4 tháng 3, 2016)

Người dân Sầm Sơn Thanh Hóa tiếp tục biểu tình

Người dân Sầm Sơn Thanh Hóa tiếp tục biểu tình

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2016-03-05

Người dân tụ tập trước cổng UBND tỉnh Thanh Hóa đòi hỏi chính quyền địa phương dành lại cho dân 500 m mặt biển để tiếp tục nghề chài lưới.

Photo courtesy of tuoitre.vn

Your browser does not support the audio element.

Sáng hôm nay người dân xã Quảng Cư, phường Trung Sơn, phường Trường Sơn và phường Bắc Sơn thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tiếp tục tập trung trước UBND tỉnh để đòi hỏi chính quyền thực hiện quyền lợi chính đáng của họ, đó là chừa lại một khoảng trống trên bãi biển Sầm Sơn từ 6 tới 7 trăm mét để ngư dân xã Quảng Cư có thể làm ăn sinh sống sau khi chính quyền cho phép tập đoàn FLC trưng thu đất dọc bãi biền để lập khu vui chơi du lịch cao cấp.

Người dân bức xúc

Một người dân cho chúng tôi biết sự việc đang diễn ra sáng hôm nay:

“Nhân dân bây giờ tập trung ngày nào cũng lên tỉnh để đòi quyền lợi. 100% các hộ ở đây đều lên trên tỉnh đòi mặt bể lại cho dân, khi nào đòi được mới thôi chứ không bỏ. Nhân dân quyết tâm đi đòi hết ngày này tới ngày khác, đòi kỳ được thì thôi. Khi nào nhà nước trả bãi bể cho bà con nhân dân đi làm thì mới thôi.

Người dân Quảng Cư từ bao đời nay sống bằng nghề đánh bắt cá nhỏ lẻ ngoài khơi, riêng con cái gia đình ngư dân cào ngao, sò trên bãi biển. Nếu chính quyền cho phép giải phóng mặt bằng thì nơi neo đậu tàu thuyền của họ sẽ bị bị thu hồi giao cho Tập đoàn FLC.
-Một người dân

Người dân Quảng Cư từ bao đời nay sống bằng nghề đánh bắt cá nhỏ lẻ ngoài khơi, riêng con cái gia đình ngư dân cào ngao, sò trên bãi biển. Nếu chính quyền cho phép giải phóng mặt bằng thì nơi neo đậu tàu thuyền của họ sẽ bị bị thu hồi giao cho Tập đoàn FLC.”

Kể từ ngày 29 tháng 2 hàng trăm người đã tập trung tại trụ sở Ủy ban Nhân dân tỉnh và ở khu vực xung quanh với số lượng có ngày lên tới vài trăm. Vào ngày 2 tháng 3 vừa qua UBND tỉnh có cuộc họp khẩn cấp nhưng vấn đề chừa lại 1.000 mét hay tối thiểu 700 mét cho người dân chưa đạt được thỏa thuận với FLC nên người dân tiếp tục tập trung trước UBND tỉnh vào sáng hôm nay.

Một người dân bức xúc cho biết:

“Từ hàng nghìn năm nay ông bà ông vãi đã giữ gìn biển mà giờ UBND tỉnh Thanh Hóa không cho dân đánh bắt cá ngoài biển nữa thì dân nó bức xúc không đi làm ăn gì hết. Dân yêu cầu để lại cho người ta một cây số hay 700 mét cũng được mà UB Tỉnh không giải quyết, người dân họ bức xúc, con cái học hành không có tiền đóng, nghề nghiệp đất cát ruộng rẫy lại không có, tái định cư cũng không còn chút biển người ta kiếm 50-100 về mua gạo ăn, bây giờ cắt biển luôn thì chết dở.”

“Gây rối trật tự công cộng”

Trong khi đó công an tỉnh Thanh Hóa cho báo chí biết là cơ quan điều tra đã vào cuộc khởi tố vụ án hình sự “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điều 245 bộ luật Hình sự để điều tra.

Người dân phản ứng lại khi nghe tin này và cho biết họ là nạn nhân trực tiếp nên tự bảo vệ quyền lợi của mình mà không có bất cứ ai đứng sau lưng xúi giục hay sách động:

“Đây là toàn thể nhân dân đồng tình đi chứ không ai cầm đầu và cũng không ai tổ chức gì hết. Toàn thể nhân dân dẫn nhau đi đòi công lý cho nhân dân chứ không ai cầm đầu cả.”

Công an rải khắp mọi nơi để theo dõi nhân dân tuyên truyền như thế nào nhưng tất cả nhân dân đều đồng tình đi làm cho dân chứ không có ai đầu sỏ hết. Chúng tôi đi đến đâu thì bị chặn đến đấy. Xe buýt thì không còn chuyến từ Sầm Sơn lên thành phố nữa, taxi đi thì cũng bị ách lại, các ngõ đường đều bị công an bao vây kiểm tra giấy tờ. Bây giờ chỗ nào cũng có công an cả.

Và cho tới trưa hôm nay theo xác định của người dân Sầm Sơn thì chưa có ai bị bắt:

“Chưa, chưa bắt ai hết ạ. Đó là thông tin ảo chưa bắt ai hết, cả bốn phường này chưa ai bị bắt hết.”

Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi những diễn biến mới nhất để tường trình cùng với quý vị.

Cộng sản Bắc Việt xâm lăng Miền Nam lần nữa

Cộng sản Bắc Việt xâm lăng Miền Nam lần nữa

Giáo Già (Danlambao) – Ngay sau khi hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, Cộng Sản Bắc Việt đã cho toàn bộ người Miền Bắc vào Nam cai trị vùng đất bị chúng cho là “phồn vinh giả tạo”, từ viên chức ở cấp cao nhứt trong Ban Quân Quản ở các thành phố cho đến viên chức cấp thấp nhứt ở khóm phường, ấp xã…; nhưng sự “phồn vinh” đó đã khiến toàn bộ cán bộ Miền Bắc, từ cấp lãnh đạo hàng đầu ở Bắc Bộ Phủ cho đến từng tên lính từ núi rừng về thành say mê cướp bóc khiến toàn Miền Nam bị tan nát trên khắp mọi lãnh vực, từ kinh tế đến xã hội, văn hóa, giáo dục…, qua từng chiến dịch:

– Đổi tiền, $500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa lấy $1 đồng tiền Việt Cộng, mỗi gia đình chỉ được “sở hữu” tối đa $200 đồng; rồi sau đó tiến hành đổi tiền thêm mấy lần nữa; để cướp sạch sự trù phú của người dân Miền Nam, để mọi người Miền Nam đều “nghèo như nhau”…, “nghèo” đến độ mỗi gia đình dễ dàng sở hữu trong tay bạc triệu tiền “Hồ”, do việc trao đổi mua bán được tính theo đơn vị bằng số “ngàn đồng”, khiến họ trở thành những người “nghèo” nhưng là những “triệu phú đỏ”…

– Cướp bóc “sạch sành sanh” tài sản của người dân Miền Nam dưới đủ mọi hình thức, từ xin xỏ cho đến lường gạt, giành giựt… từ nhà cửa cho đến ruộng vườn, từ 16 tấn vàng trong ngân hàng quốc gia cho đến chiếc đồng hồ đeo tay, chiếc radio, xe đạp…

– Bắt các viên chức chánh quyền, quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tập trung trong các trại tù cải tạo, giam nhốt dài ngày, hành hạ dưới đủ mọi hình thức, từ đói khát cho đến bịnh tật không thuốc men chữa trị, tàn sát không nương tay… để vừa trả thù vừa ngăn ngừa mọi hình thức nổi loạn có thể xảy ra…

– Xua đuổi từng đoàn dân Miền Nam đi các vùng “kinh tế mới” hoang dã, như một thứ “tù khổ sai” không bản án… để vừa cướp của người bị gán cho tội “dân ngụy”vừa trừng phạt người có của…

– Vét sạch tài sản của dân mà chúng chưa vét hết, nên tiếp tục vét tiếp, qua hình thức cho người còn có của có tiền “vượt biển bán chánh thức”, bằng cách hiến nhà đất, nộp vàng “đổi chỗ vượt biển” trên đủ loại tàu, thuyền… trong đó có những chiếc thuyền nhỏ đi sông chưa từng ra biển…, khiến nhiều nạn nhơn chết thảm, chết chìm…

Người Miền Nam bị vùi dập vào mộ huyệt của tử thần nhưng họ không bao giờ chết, cho dầu có bị lừa mị nhốt giam vào nhà tù vĩ đại, là nơi họ đang sinh sống, bằng đủ mọi thủ đoạn gian manh khủng khiếp. Họ vẫn tồn tại cho dầu có bị đói nghèo thê thảm, bị trầm luân trong khổ đau cùng cực…; bị đẩy khỏi cuộc sống êm đềm hạnh phúc, phồn vinh, trù phú; khiến có người bị tù giam không có ngày về, người không bị tù thì phải lao động khổ sai, ai ai đêm đêm đều sợ từng tiếng chó sủa bâng quơ, sợ từng tên công an, từ công an khu vực, đến công an bảo vệ chánh trị thành phố…; khiến có người đã mỉa mai, xót xa định nghĩa “hạnh phúc là thấy xe công an đậu trước nhà, nhưng tên công an xuống xe lại đi vào nhà hàng xóm…”

Khi xâm chiếm được Miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt hối hả cào bằng sự phồn vinh trù phú của Miền Nam, sao cho Miền Nam nghèo ngang với Miền Bắc, lấy tài sản của Miền Nam chở ra Bắc, mong cho Miền Bắc được giàu lên. Chúng đã lưu manh đến độ dồn tiền viện trợ của quốc tế cho Miền Bắc, nuôi dân nghèo Miền Bắc, phát triển Miền Bắc; ngay cả tiền “vay” của ngoại quốc cũng lươn lẹo dành ưu tiên cho Miền Bắc “rút ruột”, làm thành đủ loại “quý tộc đỏ”, “đại gia đỏ”, “dân oan đỏ“, “lưu manh đỏ”… mà “nợ” thì “chia đều” cho người Miền Nam cùng trả…

Nhưng, sau 40 năm không “cào bằng” được Miền Nam, mà Miền Nam đã và đang từng lúc phục hồi… Cán bộ Miền Bắc vào Nam chẳng những không “giải phóng” được người Miền Nam; mà trái lại chúng rất “sung sướng” được người Miền Nam “giải phóng”, từ miếng ăn cho đến cách sống, say mê phong cách “thanh lịch” của người Miền Nam mà trước đó chúng cho là “đồi trụy”; hãnh diện thưởng thức văn nghệ “cao sang” từng bị chúng cho là “đồi trụy”, từ cuốn sách triết cho đến cuốn tiểu thuyết lãng mạn… say mê thưởng thức những bản nhạc “mùi”, nhạc “sến”… từng bị chúng lên án là “đồi trụy”.

Bây giờ, để ngăn Miền Nam “nổi dậy”, có cơ nguy làm sụp đổ “thiên đường xã hội chủ nghĩa”, ngay sau đại hội đảng lần thứ XII, chúng hấp tấp cho tiến hành lần nữa cuộc “xâm lăng miền Nam”, do Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng phát động, thể hiện qua câu nói tại một cuộc họp bàn nhân sự, trước khi khai diễn đại hội, rằng:Tổng bí thư phải là người có lý luận và phải là Người Miền Bắc”.

Từ đó, tên đầu đảng Nguyễn Phú Trọng này đã vận dụng mọi thủ đoạn để được tái cử thêm lần nữa chức Tổng Bí Thư, để chức vụ này đừng lọt vào tay một người Miền Nam là Nguyễn Tấn Dũng; để người Miền Nam tiếp tục bị cai trị bởi người Miền Bắc…

Xin xem lại bảng liệt kê các Tổng Bí Thư Cộng Sản Việt Nam từ năm 1956 cho đến nay, 2016:

Tên  – Nơi sinh – Nhiệm kỳ

  1. Hồ Chí Minh – Nghệ An (miền Trung) – 10/1956 – 09/1960
  1. Lê Duẩn – Quảng Trị (miền Trung) – 09/1960 – 07/1986
  1. Trường Chinh – Nam Định (miền Bắc) – 07/1986 – 12/1986
  1. Nguyễn Văn Linh – Hưng Yên (miền Bắc) – 12/1986 – 06/1991
  1. Đỗ Mười – Hà Nội (miền Bắc) – 06/1991 – 12/1997
  1. Lê Khả Phiêu – Thanh Hóa (miền Trung) – 12/1997 – 04/2001
  1. Nông Đức Mạnh – Bắc Kạn (miền Bắc) – 04/2001 – 01/2011
  1. Nguyễn Phú Trọng – Hà Nội (miền Bắc) – 01/2011 – hiện nay

Ngoài ra, việc phân bố 19 tân ủy viên Bộ Chính trị coi như được bầu tại Đại hội XII cũng cho thấy rõ:

– 13 người miền bắc;

– 2 người miền trung;

– 4 người miền nam.

Đến khi Quốc Hội chưa bầu, đảng cũng đã chọn xong 3 viên chức hàng đầu điều khiển việc nước là:

– Chủ tịch Quốc Hội là Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, người Miền Nam;

– Chủ tịch Nhà Nước là Đại tướng Công an Trần Đại Quang, người Miền Bắc;

– Thủ tướng Chánh phủ là Ông Nguyễn Xuân Phúc, người Miền Trung.

Điều trớ truê là theo Hiến Pháp, Bà Ngân phải ghi danh ứng cử làm Đại biểu Quốc Hội; nếu Bà đắc cử, sau ngày Chủ nhật 22/5/2016, Quốc hội khóa 14 mới họp bàn; chừng đó nếu Bà được đa số đại biểu chọn Bà mới đủ tư cách làm Chủ tịch Quốc Hội.

Cũng theo HIến Pháp, điều 87 quy định: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội.” Do vậy Đại tướng Công an Trần Đại Quang phải ứng cử vào Quốc Hội, nếu Quang đắc cử, sau đó, phải được Quốc Hội bầu chọn, Quang mới đủ tư cách làm Chủ tịch Nhà Nước.

Cũng theo Hiến Pháp, điều 98 quy định: “Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội.” Do vậy Nguyễn Xuân Phúc phải ứng cử vào Quốc Hội, nếu Phúc đắc cử, sau đó, phải được Quốc Hội bầu chọn, Phúc mới đủ tư cách làm Thủ tướng.

Như vậy 3 chức danh hàng đầu điều khiển guồng máy cai trị đất nước được đảng tự chọn rồi ngang nhiên công bố đã vi phạm Hiến Pháp, nên vị thế của 3 viên chức được chỉ định này giá trị.

Mặt khác, cứ coi như sự áp đặt của đảng thành tựu, thì sự áp đặt đó đã thể hiện sự cứng rắn của đảng dành ưu thế cho cuộc xâm lăng Miền Nam lần nữa của Cộng sản Bắc Việt. Ngoài ra, Bà Ngân, người Miền Nam, trong tư cách Chủ tịch Quốc hội, chẳng có quyền hành gì. Bà được đặt ngồi đó để trang hoàng Quốc Hội, cho nó có vẻ đẹp của một phụ nữ chịu chưng diện, thường xuất hiện với chiếc áo dài hợp thời trang, như một “người mẫu” [xem hình], dể thu hút tầm nhìn của người ngoài; để người ngoài, nhứt là quốc tế, vốn kính trọng phụ nữ sẽ “nhẹ tay” khi có điều “công kích” những oan sai đo đảng và nhà nước gây hại người dân, những lúc vi phạm nhân quyền, tướt đoạt mọi tự do căn bản của người dân, được quy định trong Hiến pháp như tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…

Hơn nữa, theo Nguyễn Văn Tuấn, trong bài viết được đưa lên các diễn đàn, ngày 9-2-2016, thì, xin trích nguyên văn:

“Thật ra, không chỉ trong chính trị, mà trong khoa học và giáo dục cũng xảy ra tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng giữa ba miền. Tôi thử đếm con số giáo sư được phong năm 2014 và 2015 thì thấy đa số ứng viên được phong là người từ miền Bắc. Chẳng hạn như năm 2015, có 52 người được phong hàm giáo sư; trong số này, 41 (hay 79%) là người từ các trường viện miền Bắc. Năm 2014, con số này là 73%. Phân bố cụ thể số giáo sư được phong như sau:

Năm 2015:

– Bắc: 41 người

– Trung: 3

– Nam: 8

Năm 2014:

– Bắc: 43 người

– Trung: 6

– Nam: 10

Trong khoa học cũng vậy. Tôi đếm thử số đề tài được Quĩ Nafosted tài trợ trong năm 2009 thì thấy trong số 321 đề tài được phê chuẩn, các trung tâm phía Bắc chiếm 285 đề tài (89%), còn các trường viện từ phía Nam chỉ có 21 đề tài (6%), và miền Trung còn thấp hơn nữa 15 đề tài”…

Trở lại chuyện 3 viên chức hàng đầu cai trị đất nước bất hợp Hiến đó, người có quyền hành cao hơn hết là Chủ tịch Nước Đại tá Công an Trần Đại Quang. Ông này sẽ không “bù nhìn” như 2 Chủ tịch tiền nhiệm là Trương Tấn Sang và Nguyễn Minh Triết, vì ông từng là kẻ chỉ huy hàng đầu Bộ Công an, một Bộ trưởng Công an độc ác, tàn bạo, từng khét tiếng trong việc gian xảo đàn áp các dân tộc vùng Cao nguyên Trung phần, trấn áp dân oan, đàn áp tín đồ các tôn giáo, cũng như đồng bào yêu nước biểu tình chống Trung Cộng xâm lược. Đồng thời chỉ định một phó thủ tướng kiêm phó trưởng ban phòng chống tham nhũng làm Thủ tướng lại là tên trùm tham nhũng khét tiếng Nguyễn Xuân Phúc.

Còn nhớ, ngay sau khi Đại hội XII kết thúc một ngày, Tập Cận Bình đã cử ngay Đặc phái viên Tống Đào, Trưởng ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, để ông này có mặt ở Hà Nội ngày 29/1/2016. Dịp này, Tống Đào đã chuyển bức điện của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình, chúc mừng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được tái cử. Tống Đào [xem hình] cũng nói “Trung Quốc coi trọng cao độ quan hệ hữu nghị truyền thống và quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”.

Sau lời cảm ơn, Nguyễn Phú Trọng lên tiếng nói “Việt Nam luôn coi trọng việc duy trì quan hệ láng giềng hữu nghị và đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc”.

Cùng ngày, Tống Đào cũng đã gặp Vương Đình Huệ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, để nghe Huệ nói: “Hai nước cần “thúc đẩy tăng trưởng thương mại bền vững, lành mạnh, từng bước cân bằng cán cân thương mại”; nhưng thực tế không có cân bằng, vì “Tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc đạt gần 20 tỷ USD; còn trị giá hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc đạt 45 tỷ USD”. Ông Huệ cũng nói thêm Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư có thực lực của Trung Quốc đầu tư vào các lĩnh vực mà Việt Nam đang ưu tiên.

Mặc dầu đạp qua Hiến Pháp để cử Nguyễn Xuân Phúc làm Thủ tướng, nhưng nhiệm kỳ Thủ tướng của Nguyễn Tấn Dũng chưa kết thúc, nên trước con mắt quốc tế, đặc biệt là Tổng thống Mỹ Obama, Nguyễn Phú Trọng không hành xử được quyền Tổng Bí thư để ngăn không cho Dũng đi dự Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-ASEAN ở California ngày 15/2. Trọng đã lúng túng để Dũng lên đường gặp Tổng thống Mỹ Obama [xem hình Tổng thống Obama đón Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN ở California ngày 15/2 (Ảnh: AP)].

Nhưng, để trấn an Tập Cận Bình, sau khi Dũng gặp Tổng thống Obama xong, Nguyễn Phú Trọng hối hả cho đặc phái viên Hoàng Bình Quân đi Bắc Kinh, ngày 1/3/2016, báo cáo nội vụ cho Tập Cận Bình rõ “thế kẹt” của thái thú; với danh nghĩa “Chuyển một thông điệp từ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Chủ tịch Tập Cận Bình”.

Tin từ VOA nói rằng: “Trong thông điệp, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam cho biết, hai nước là láng giềng gần gũi chia sẻ hệ thống chính trị giống nhau và có nhiều lợi ích chung”. Dịp này Tập Cận Bình “Kêu gọi xử lý đúng đắn sự khác biệt giữa các đối tác hợp tác chiến lược toàn diện để phát triển một cách bền vững, lành mạnh và ổn định”. Phần mình, Ông Hoàng Bình Quân không quên “Giới thiệu với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình về kết quả tốt đẹp của Đại hội 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh…”

Như vậy, sự thần phục của Nguyễn Phú Trọng với Tập Cận Bình đã rõ. Vấn đề tiếp theo sau Đại hội XII là phải làm ngay những gì cho “thỏa hiệp Thành Đô” được tiến hành “như ý”. Để việc Hán hóa Việt Nam được mau lẹ, Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chánh trị CSVN cho tiến hành ngay 2 việc quan trọng, đó là:

– Bổ nhiệm một thành viên gốc Hoa làm Bí thư Thành ủy Hà Nội là Hoàng Trung Hải, để dễ dàng Hán hóa người dân thủ đô, làm gương Hán hóa toàn cõi Việt Nam;

– Đồng thời cử ngay một người Miền Bắc là Đinh La Thăng vào làm Bí thư Thành ủy thành Hồ, để vừa thực hiện lần nữa cuộc xâm lăng Miền Nam, vừa đồng nhịp Hán hóa toàn dân Việt cả nước.

Khi có dịp Giáo Già sẽ nhận diện Hoàng Trung Hải trong một Thư Cho Con khác. Phần Đinh La Thăng, trong lúc chờ xem hắn ra tay “xâm lược” Miền Nam bằng chuyện cài đặt toàn người Miền Bắc trên các chỗ ngồi “béo bở”, trong các nghiệp vụ “ăn ngon”, như đợt xâm lăng lần trước, ngay sau ngày Quốc Hận 30/4/1975; Giáo Già xin được điểm mặt kẻ nổi tiếng “nổ” ở Miền Bắc, đi đâu cũng mang theo một “thùng đạn”, vung tay “trảm kẻ dưới tay” và “tự sướng” [xin lỗi phải dùng chữ của VC mới đúng “tầm” của Thăng] cho báo chí ca tụng.

Xin kể ra đây một số thành tích nổi bật của Đinh La Thăng:

– Ở Sông Đà Thăng quậy cho thất thoát 10 ngàn tỷ;

– Về PetroVietnam Thăng làm mất 18 ngàn tỷ. Chưa kể việc Thăng dẫn tập đoàn này đầu tư khai thác dầu ở Venezuela làm lỗ thêm một mớ nữa;

– Làm mất hơn 28 ngàn tỷ của dân xong Thăng được lên chức bộ trưởng;

– Qua Bộ Giao Thông Vận Tải, Thăng đứng ra giải trình nhận trách nhiệm thay cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vụ bổ nhiệm Dương Chí Dũng ở Vinalines, giúp Nguyễn Tấn Dũng thoát vụ kỷ luật của Trung Ương Đảng [Xem hình Thăng đứng giữa bên cạnh Dương Chí Dũng bên trái Thăng].

Đinh La Thăng có được danh vọng tột đỉnh tất nhiên phải có kẻ chống lưng, trong khi sai phạm của Thăng nhiều đếm không hết; vì việc giải tỏa xảy ra ở khắp nơi, việc gì Thăng cũng dám làm, mồ mả người chết Thăng cũng thẳng tay, mạng lưới giao thông cầu đường chưa xài đã hỏng, lập một rừng trạm thu phí moi tiền dân không nương tay, cho Trung quốc trúng thầu hơn 90%, tính luôn cơ giới phế thải, hể kéo qua được bên này biên giới là tính tiền như xe mới…, chỉ cần cho đám bồi bút tung hô là Thăng đã “tự sướng” rồi.

Đến khi thấy đa số nhóm “lợi ích” kéo nhau bỏ Dũng theo Trung quốc, thì Thăng cũng “quay mặt” với đàn anh, ôm thùng đạn theo Trọng, liền được bố trí cho vào Bộ Chính trị và sau đó được cho làm “vua thành Hồ”, cầm quân Nam tiến.

Chưa biết cho đến nay Thăng nổ đã dàn quân tới đâu rồi, bao nhiêu cán bộ “ưu tú” đã có chỗ ngồi yên ổn chưa, có kế hoạch từng bước xâm lăng thành phố và toàn Miền Nam như thời quân quản chuyển sang “hành chánh đỏ” chưa, nhưng món quà ra mắt Thăng tặng người dân Sài Gòn quá đặc biệt; với từng đoàn công an, côn đồ thẳng tay phá phách, đàn áp khoảng 50 người thường dân cùng những cựu đảng viên cán bộ nhà nước thuộc Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, tập hợp tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc chiến biên giới năm 1979, chống quân xâm lược Tàu cộng, để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, sáng ngày 17/2/2016, tại tượng đài Trần Hưng Đạo, Sài Gòn.

Họ chỉ đến đó để dâng hoa tưởng niệm; vậy mà bị đám công an và côn đồ của Thăng ồ ạt bao vây, đàn áp. Quang cảnh buổi tưởng niệm được nhiều người quay phim lại, với cảnh được mô tả là người đến tưởng niệm bị “giật phá vòng hoa” và nhiều ô dù xuất hiện để che lấp biểu ngữ [Xem ảnh của CTV Danlambao]. Nhiều người tham gia nhặt lại hoa bị giựt và hô các khẩu hiệu chống Trung Quốc.

Vài giờ trước khi buổi tưởng niệm diễn ra, lực lượng công an và côn đồ của Thăng tung quân đi bao vây canh gác nhà các thành viên CLB Lê Hiếu Đằng như chị Sương Quỳnh, các ông Huỳnh Kim Báu, Tô Lê Sơn, Kha Lương Ngãi,… Chính ông Huỳnh Ngọc Chênh từ Sài Gòn nói trên Facebook: “Các nhân viên an ninh quyết liệt ngăn cản không cho tôi ra khỏi nhà để đi dự lễ tưởng niệm các liệt sĩ.” Ông cho biết từ một ngày trước đã xuất hiện một số an ninh trước cổng nhà ông và họ đã cản chân không cho ông tới dự lễ sáng nay. Ông chia sẻ: “Hầu hết những người trong CLB Lê Hiếu Đằng, những người đứng ra kêu gọi tổ chức lễ tưởng niệm các liệt sĩ trong cuộc chiến biên giới, đều bị chặn hết, có tới vài chục người. Cũng có vài người đến được. Họ không cho những người hay tham gia các sự kiện này ra khỏi nhà. Một mặt, họ cho an ninh quậy phá chỗ làm lễ là Tượng Đài Trần Hưng Đạo. Như sáng nay, họ cho an ninh đi giật vòng hoa, lấy dù che hết những băng-rôn và vòng hoa lại để không chụp ảnh hay quay phim được.”

Từ đó, vấn đề là người dân Sài Gòn có đủ khôn để biết tương lai nằm ở đâu, nên nhiều người đã không ngần ngại nói: “Đã đến lúc chúng ta chứng tỏ chúng ta không vô cảm, không phải là những con cừu để đảng chăn dắt. Sau bốn mươi năm thì người miền Nam đã quá rõ về bản chất của giặc miền Bắc rồi. Hy vọng là người miền Nam sẽ khôn ngoan và không để cho giặc miền Bắc phá hại Sài Gòn một lần nữa. Hãy vùng lên trước khi tất cả đã là quá muộn”.

Thoát Trung: thử hóa giải lời nguyền địa lý

Thoát Trung: thử hóa giải lời nguyền địa lý

FB Trương Nhân Tuấn

Thế nào là “thoát Trung” ? Nếu là để thoát khỏi “ảnh hưởng” của Trung Quốc thì, theo tôi, không hẳn chỉ là các vấn đề thuộc về văn hóa, kinh tế hay “lời nguyền địa lý” như nhiều học giả VN đã và đang bàn luận.

Thử lấy thí dụ Nhật Bản, Đài Loan và Đại Hàn. Văn hóa (nếu không nói là văn minh) của ba nước này, trên nhiều mặt của xã hội hiện nay vẫn thể hiện sâu đậm màu sắc của văn hóa Khổng giáo. Về chữ viết đã đành. Thử xem một vài phim tình cảm xã hội của Đại Hàn, Đài Loan hay Nhật sản xuất. Ta thấy sao mà quen thuộc quá. Nếu bỏ qua những đường nét, khung cảnh hiện đại của những thành phố tiên tiến trong một quốc gia phát triển, thì ta tưởng đó là phim xã hội VN. Khung cảnh trong gia đình của một người Đài Loan, Đại Hàn, thậm chí Nhật, đều giống nhau, như Việt Nam (nhứt là VNCH trước kia). Đó là mô hình của một xã hội ảnh hưởng văn hóa Khổng Mạnh. Dĩ nhiên là văn hóa này đã giảm thiểu nồng độ cực đoan, đến từ việc du nhập văn hóa bao dung và tự do của Tây phương. Ta không còn thấy cảnh thân phận người phụ nữ bị bó rọ trong “tam tòng, tứ đức”, cũng không thấy người đàn ông với những tín điều cứng nhắc “tam cương, ngũ thường”…

Câu hỏi đặt ra, nếp sống gia đình ở Nhật, ở Đài Loan, ở Hàn quốc, có tốt hơn nếp sống gia đình ở VN hay TQ hiện nay, ảnh hưởng chủ thuyết duy vật của Mác Lê Nin hay không ?

Câu hỏi tiếp theo, là các nước Nhật, Hàn quốc, Đài Loan… về phương diện địa lý, cũng có “lời nguyền” về “địa chính trị” không khác lắm với Việt Nam. Vậy sao họ “cách biệt”, nếu không nói là “thoát và vượt Trung” hàng thế hệ về tiến bộ văn hóa, khoa học kỹ thuật ?

Còn về vấn đề kinh tế, liên thuộc kinh tế giữa Trung Quốc với các nước Nhật, Hàn, và Đài Loan hết sức là gắn bó keo son. TQ đã, đang và sẽ mãi là đối tác quan trọng hàng đầu của ba nước này. TQ nhờ tư bản và kỹ thuật các nước này đầu tư nên mà kế hoạch “hiện đại hóa” thành công. Các nước này nhờ TQ mà kinh tế tăng trưởng đều đặng. Vậy họ có cần “thoát” lẫn nhau không ?

Các nước trên, về phương diện chữ viết, cũng như VN trước thời Pháp thuộc, đến hôm nay cũng vẫn giữ nguyên tắc cơ bản chữ Hán. Nhưng VN, có lẽ vì muốn “khác người”, nhứt là phải khác (và vượt trội) VNCH, do đó có khuynh hướng xóa bỏ các từ Việt gốc Hán. Một số kinh nghiệm sau 1975 với các ngôn từ ngây ngô, như từ “xưởng đẻ” để thay thế cho “nhà hộ sinh”. Bệnh viện Từ Dũ ở Sài Gòn có lúc đổi tên là như vậy. Lại còn các từ như “máy bay lên thẳng”, “lính thủy đánh bộ”, “giặc lái”…

Việc sử dụng từ gốc Hán không có gì phải mặc cảm. Người Nhật, người Hàn… xem ra còn lệ thuộc vào chữ Hán còn hơn VN. Bên Châu Âu cũng vậy, chữ viết các xứ này đều bắt nguồn từ Latin, Grec… Những từ khoa học các nước Âu Mỹ hầu hết đều có gốc Latin hay Grec. Các nước này đâu thấy ai lên tiếng than phiền là lệ thuộc, tỏ ý muốn “thoát Trung” hay “thoát Grec (hay Latin)” đâu ?

Lệ thuộc hay không là do mình. Ta thấy một lượng lớn từ ngữ chuyên môn (học thuật hay khoa học) Hán Việt bắt nguồn từ Nhật, do các học giả Nhật phát minh ra. Chỉ số chất lượng về đời sống, về văn hóa, về kinh tế… trên mỗi con người của Nhật, Hàn, Đài Loan hơn xa Trung quốc. Trong khi thành quả các tiến bộ về văn hóa, khoa học, kỹ thuật… Trung Quốc cũng bị các nước Nhật, Hàn… đã bỏ xa hàng vài thập niên. Như thế, ta thấy việc ảnh hưởng văn hóa Hán (chữ viết) không hề ảnh hưởng lên việc phát triển quốc gia.

Về kinh tế cũng vậy, sự liên thuộc về kinh tế giữa hai nước Nhật, Hàn và Đài loan với Trung Quốc không chừng còn quan trọng hơn quan hệ giữa TQ với Hoa Kỳ và UE cộng lại. Trong các quan hệ này, ta dùng từ “liên thuộc” chứ không phải “lệ thuộc”. Nếu chỉ tính từ thập niên 80, TQ luôn nhập siêu từ Hàn quốc và Nhật. TQ cần các mặt hàng có tính khoa học kỹ thuật cao của hai nước này để phát triển đất nước. Trong khi Nhật và Đại Hàn cũng cần đến TQ để phát triển kinh tế. Cho dầu Nhật và TQ có những mâu thuẫn sâu sắc về chủ quyền quần đảo Senkaku (Điếu Ngư), nhưng TQ chưa hề dám đe dọa dùng vũ khí kinh tế đối với Nhật.

Như vậy, dựa trên hai yếu tố văn hóa và kinh tế để “thoát Trung”, (như các học giả VN đã và đang hô hào) rõ ràng Nhật và Đại Hàn đang có khuynh hướng ngược lại : “nhập Trung” thay vì “thoát Trung”.

Nhưng quan hệ kinh tế hai bên Việt-Trung, số kim ngạch trao đổi hai bên cán cân luôn thặng dư về phía TQ. Việc thâm thủng này ngày mỗi tăng. Điều quan trọng là quan hệ kinh tế giữa VN và TQ, trong chừng mực, là quan hệ “thực dân – thuộc địa về kinh tế”. Nếu đọc lại các bản tuyên bố chung của hai bên được công bố gần đây, ta thấy VN đã nhượng cho TQ quá nhiều đặc quyền, đến đỗi các việc này có thể đe dọa nền độc lập của quốc gia. Không nói quá, mọi huyết mạch của kinh tế VN hiện nay đều do TQ kiểm soát.

Điều này đến từ các quyết định chính trị chứ không phải là những lựa chọn bắt buộc. Tức là VN vẫn có thể thoát khỏi tình trạng lệ thuộc kinh tế nếu lãnh đạo có can đảm về chính trị.

Vì vậy, theo tôi, thoát Trung hay không là một vấn đề “chiến lược” chứ không hẵn là kinh tế hay văn hóa.

Một lý do thường thấy nhiều người VN nại ra, ngại khi quay lưng lại với Trung quốc, là vấn đề “địa chiến lược”, nước xa không cứu được lửa gần.

Ta thấy các nước như Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, Phi… (nếu không nói Đài Loan) đều ở kế “vách” với TQ, nhưng họ đâu sợ TQ. Các nước này, phần lớn, là các nước dân chủ, thịnh vượng.

Để xóa bỏ nỗi ám ảnh (chính đáng) “nước xa không cứu được lửa gần” của một số người VN hiện nay, ta cần nhắc lại một số điều cơ bản của các lý thuyết về địa chiến lược (mà lãnh đạo TQ bị ảnh hưởng).

Theo tôi, lý thuyết “Địa Chiến lược – Không gian sinh tồn” của Friedrich Ratzel (xuất bản năm 1902) có ảnh hưởng sâu sắc lên các lớp lãnh đạo (then chốt) của TQ, làm thay đổi bộ mặt của nước này, đó là : Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.

Bảy định luật của thuyết này là :

  1. Không gian (sinh tồn) của một dân tộc được mở rộng đồng thời với văn minh của dân tộc đó. Một dân tộc có nền văn minh tiến bộ sẽ đồng hóa các dân tộc kém văn minh hơn.
  2. Lãnh thổ quốc gia sẽ phát triển theo tỉ lệ thuận với sức mạnh kinh tế và đội ngũ thương buôn của quốc gia cũng như chủ thuyết phát triển quốc gia. Việc bành trướng vì thế chỉ tùy thuộc vào ý chí và phương tiện.
  3. Việc bành trướng của cường quốc được thực hiện qua phương cách “hấp thụ và tiêu hóa” các nước nhỏ.
  4. Đường biên giới quốc gia không xác định (biên giới linh động – frontière vivante). Biên giới xác định chỉ có giá trị tạm thời, chỉ để đánh dấu giữa hai giai đoạn bành trướng.
  5. Trong quá trình bành trướng, lãnh thổ (bây giờ là biển) là mục tiêu chiếm hữu.
  6. Các quốc gia yếu kém ở kế cận là mục tiêu bành trướng. Sự bành trướng của cường quốc không thể tiến triển nếu quốc gia lân bang cũng là cường quốc.
  7. Hiện tượng bành trướng có khuynh hướng lan rộng do việc tranh dành lãnh thổ của các quốc gia.

Bảy định luật của Ratzel đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ lập quốc đến ngày hôm nay.

Định luật 1 : Nền văn minh Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác, kể các các dân tộc dũng mãnh đã chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Lúc đầu lập quốc, dân tộc Hán chỉ có một vùng đất nhỏ, nhưng sau đó bành trướng ra, đồng hóa các dân tộc chung quanh. Văn hóa các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở Trung Quốc.

Định luật 2 : Hiện đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự vượt trội về kinh tế, cho phép nước này hiện đại hóa quân đội. Những hành vi khẳng định chủ quyền của TQ ở biển Đông, hay lên tiếng tranh chấp với Nhật ở quần đảo Senkaku, cho thấy ý chí của nước này.

Định luật 3 : Định luật này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp dụng từ thời mới lập quốc và còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán luôn bành trướng và tiêu diệt (hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay việc đồng hóa đang được thực hiện ráo riết tại Tây Tạng.

Định luật 5 cho thấy vẫn chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu chinh phục Biển Đông (Hoàng Sa và Trường Sa) đồng thời dành lại quần đảo Điếu Ngư (Senkaku). Nhưng định luật này cần cập nhật thêm, vì chủ đích của việc chinh phục là vùng biển, qua hai mặt: chiếm hữu và xây dựng các đảo nhỏ ở HS và TS thành một “bức trường thành” nhằm mục đích phòng vệ lục địa, sau đó là tài nguyên.

Định luật 6 phản ảnh rõ rệt thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm nay : VN và Phi, hai nước yếu, nằm trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao giờ muốn thấy một Việt Nam giàu mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản sức bành trướng của Trung Quốc. TQ đã sử dụng nhuần nhuyễn “quyền lực mềm” để kiểm soát VN, qua các mặt: ý thức hệ chính trị, văn hóa và kinh tế. Ta thấy trên thực tế, đảng CSVN là một bộ phận của đảng CSTQ. Về văn hóa, phim ảnh, sách vở… của TQ thống lĩnh trên các chương trình truyền hình VN. Người VN thuộc sử TQ hơn cả người TQ. Còn về kinh tế, hàng hóa TQ tràn ngập thị trường. Hàng hóa TQ len lõi nhập lậu vào VN, khiến nền công kỹ nghệ tư nhân VN chết đứng. Ngoài ra, các công trình xây dựng ở VN hiện nay hầu hết đều do nhà thầu TQ phụ trách. Nhìn thành quả đường xe điện ở Hà Nội, với đường rầy uống lượn nhấp nhô như “rồng”, ta thấy ngay sự buông thả, vô trách nhiệm của lãnh đạo VN. Đó cũng là cách áp dụng uyển chuyển của lý thuyết “không gian sinh tồn”, biến VN thành một chư hầu kinh tế.

Từ định luật 6, ta thấy cuộc chiến giữa TQ và Nhật chắn chắn sẽ xảy ra. TQ không thể trở thành đại cường nếu có nước Nhật mạnh ở kế bên (và ngược lại).

Định luật 7 cho thấy có nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không còn là mục tiêu tranh chấp mà là việc tranh dành vùng biển, tranh dành thị trường, vùng ảnh hưởng. Ngoài ra là những xung đột giữa các nền văn minh (Thiên chúa – Hồi giáo) như hiện nay (theo thuyết của Samuel P. Huntington).

Theo tôi, quan trọng nhất trong các định luật trên là định luật 6. “Thoát Trung” là thoát lệ thuộc chính trị, thoát u mê ý thức hệ, thoát mù quáng tình đồng chí anh em, thoát cám dỗ “4 tốt 16 chữ vàng”…

Thoát ra được hay không là do lãnh đạo VN có bản lĩnh chính trị, lòng yêu nước, tính can đảm và ý chí dám hy sinh (quyền lợi bản thân và đảng phái) hay không.

Ta thấy định luật 6 chứng nghiệm cho các nước Nam Mỹ. Do gần với nước Mỹ, vì lý do “sinh tồn” của nước Mỹ, các nước này phải là là những nước nghèo (hay chỉ mới phát triển). (Ngoại trừ Canada, vì có cùng văn hóa và lý tưởng với Mỹ).

Trong khi những nước Nhật, Đại Hàn, Đài loan… là những nước kế cận TQ, mà TQ là địch thủ tiềm tàng của Mỹ, do đó bằng mọi cách Mỹ phải giúp các nước này để họ luôn giàu và mạnh hơn TQ (để không ngả về TQ). Điều này cũng đúng cho các nước Tây Âu trong thời chiến tranh lạnh, để các nước này có khả năng chống lại Liên Xô.

Vì thế, ở kế cận TQ không hẳn là điều xấu. Cũng như ở kế cận nước Mỹ chưa chắc là điều tốt. Nếu Nhật, Đại Hàn, Đài Loan… do nhờ ở kế cận TQ mà được Mỹ giúp phát triển đất nước giàu có, hùng mạnh, thì VN cũng có thể trở nên giàu và mạnh như vậy.

Thoát Trung do đó là vấn đề thuộc phạm vi lựa chọn: lựa chọn đồng minh, lựa chọn “ý thức hệ chính trị”. Đó cũng là tầm nhìn “chiến lược” của lãnh đạo, chứ không phải là văn hóa hay kinh tế.

Dân oan và sự sợ hãi của chế độ

Dân oan và sự sợ hãi của chế độ

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2016-03-04

Ngày Quốc Tế đồng hành cùng dân oan Việt Nam được dân oan ở Hà Nội hưởng ứng hôm 27/2.

Citizen photo

Your browser does not support the audio element.

Cần có sự thay đổi về chính sách đất đai

Mặc dù Việt Nam chưa có Luật Biểu tình để người dân có thể phản kháng hợp pháp, nhưng ngày càng xảy ra nhiều vụ biểu tình tự phát với số lượng tham gia từ vài chục, hàng trăm, hàng ngàn tới hàng chục ngàn người.

Những vụ việc hệ trọng nhất phải kể đến cuộc đình công biểu tình của 90.000 công nhân Công ty Pouyuen Khu Công nghiệp Tân Tạo TP.HCM vào cuối tháng 3 năm 2015. Đây là cuộc đình công biểu tình không phải để chống giới chủ, mà chống lại chính sách của Chính phủ qua việc tu chính Luật Bảo hiểm Xã hội gây bất lợi cho người lao động. Gần đây là cuộc đình công biểu tình đòi quyền lợi của 20.000 công nhân Công ty  Pouchen ở Biên hòa Đồng Nai trong ba ngày cuối tháng 2 năm 2016.

Nhưng diễn biến mới nhất là vụ hàng trăm ngư dân biểu tình trước Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa để phản đối chính quyền tước đoạt kế sinh nhai của họ. Vụ việc kéo dài trong 3 ngày đầu tháng 3 năm 2016 và gây sự chú ý với khẩu hiệu đấu tranh đòi chính quyền trả lại biển cho người dân Sầm Sơn.

“ Bởi vì sở hữu luôn luôn phải là một người cụ thể, một pháp nhân rõ ràng thì mới có thể thực hiện được quyền sở hữu đó. Chứ còn bây giờ toàn dân sở hữu thì điều ấy không rõ ràng.
-TS Lê Đăng Doanh”

Biểu tình của dân oan mất đất dưới thời xã hội chủ nghĩa được coi là khởi phát của những hoạt động biểu tình sau này, dù với các nguyên nhân khác nhau. Thí dụ đòi thực thi nhân quyền, chống xử án oan sai, hoặc chống Trung Quốc lấn chiếm biển đảo. Sau này còn có phong trào tiểu thương bãi thị biểu tình vì chợ bị giải tỏa để chính quyền giao cho tư nhân làm dự án. Biểu tình, tập trung khiếu kiện đông người vì oan sai đất đai được xem là hậu quả của chính sách đất đai sở hữu toàn dân, thực chất là sở hữu nhà nước và dành quyền thu hồi đất cho chính quyền.

TS Lê Đăng Doanh, thành viên Ủy ban Chính sách Phát triển của Liên Hiệp Quốc cho rằng cần có sự thay đổi về chính sách đất đai của Việt Nam. Ông nói:

“Đúng là Việt Nam hiện nay cần phải bảo đảm qui định pháp lý rõ ràng hơn nữa về quyền tài sản đối với đất đai và người dân. Hiện nay người nông dân chỉ có quyền sử dụng còn quyền sở hữu thì đấy là sở hữu toàn dân. Nhưng mà sở hữu toàn dân là ai thì đấy là một trong những điều chưa được rõ ràng. Bởi vì sở hữu luôn luôn phải là một người cụ thể, một pháp nhân rõ ràng thì mới có thể thực hiện được quyền sở hữu đó. Chứ còn bây giờ toàn dân sở hữu thì điều ấy không rõ ràng.”

Trong vụ biểu tình đáng chú ý mới xảy ra, Báo điện tử VnExpress đưa lên mạng nhiều tin về sự kiện từ ngày 1 đến ngày 3/3/2016 hàng trăm người dân liên tục biểu tình ở Thành phố Thanh Hóa làm tắc nghẽn đường Trần Phú đại lộ lớn nhất ở thành phố này.

Đỉnh điểm của vụ biểu tình chưa từng có ở Thanh Hóa xảy ra vào chiều 3/3/2016, VnExpress mô tả lúc 15g30 chiều 3/3, hàng trăm người dân nằm, ngồi la liệt dưới lòng đại lộ Lê Lợi, đoạn trước UBND tỉnh Thanh Hóa. Họ mang theo nhiều tấm bìa ghi những dòng chữ như ‘Trả lại biển cho người dân Sầm Sơn’ hoặc ‘Biển là của dân’.

Sự phẫn nộ của người dân Sầm Sơn được báo chí giải thích là vì Chính quyền Thanh Hóa giải tỏa bờ biển để thực hiện dự án du lịch ven biển. Điều hệ trọng là dọc bờ biển dài 3,5 km hiện có 705 bè, mảng và mủng, là những phương tiện đánh bắt truyền thống của ngư dân địa phương. VnExpress trích lời ông Ngô Văn Tuấn, Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa xác nhận tỉnh có kế hoạch di chuyển số thuyền bè này đi nơi khác hoặc hỗ trợ ngư dân chuyển đổi nghề phục vụ du lịch.

223542-bieu-tinh-400.jpg

Người dân Sầm Sơn ngồi trước cổng ủy ban tỉnh Thanh Hóa hôm 1/3 để biểu tình phản đối việc lấy đất bến thuyền. Courtesy NLĐ.

Theo lời giới chức Thanh Hóa, tỉnh sẽ hỗ trợ ngư dân tháo dỡ, phá bỏ các loại tàu, bè nhỏ có công suất dưới 20CV với mức 70 triệu đồng. Riêng về thuyền thúng là 50 triệu đồng mỗi chiếc. Tuy nhiên tàu bè khi phá bỏ ngư dân phải cam kết không đóng mới, không mua mới.  Ngoài ra chính quyền cũng sẽ hỗ trợ khẩu phần gạo trong vòng 6 tháng cho ngư dân có tàu thuyền bị phá dỡ. Khi ngư dân tìm nghề mới, chính quyền sẽ hỗ trợ mỗi hộ ngư dân từ 8 triệu đồng tới 12 triệu đồng, tùy theo hộ có bè hoặc mủng.

VnExpress trích lời ông Trịnh Tú Trọng ở phường Trung Sơn, một nạn nhân trực tiếp của dự án du lịch ven biển Thanh Hóa. Theo lời ông Trọng, vài năm trước chính quyền đã lấy đất nông nghiệp, đất rừng, giờ lại cấm không cho ngư dân khai thác hải sản. Người dân ở đây đã mưu sinh chài lưới qua nhiều thế hệ. Nay tỉnh thu sạch toàn bộ bến thuyền ở đây và dự định chuyển ngư dân đến tận xã Quảng Hùng, cách xa cả chục cây số, mang vác ngư cụ rất khó khăn. Nguyện vọng của người dân là xin chính quyền để lại một khoảng đất ven biển để họ neo đậu tàu thuyền, giữ nghề truyền thống. Ông Trịnh Tú Trọng nói với nhà báo là các dự án du lịch nghỉ dưỡng ở bãi biển đã khiến cuộc sống bà con đảo lộn.

Được biết sự lo ngại lớn nhất của ngư dân Sầm Sơn là mất kế sinh nhai lâu dài, con cháu rơi vào cảnh thất nghiệp, do vậy không ai muốn nhận tiền hỗ trợ. Các nạn nhân trực tiếp của Dự án du lịch ven biển còn cho rằng, mấy chục triệu đồng hỗ trợ chẳng thấm vào đâu, tiêu hết rồi biết làm gì. Như vậy ngư dân Sầm Sơn cũng chính là dân oan không những mất bến mất thuyền, mất luôn cả biển và cuộc mưu sinh.

Ngày càng có nhiều vụ biểu tình

Những câu chuyện về biểu tình, chặn đường giao thông càng ngày càng trở nên phổ biến. Điển hình như cuộc biểu tình ngày 15/4/2015, hàng ngàn người dân thuộc huyện Tuy Phong Bình Thuận đã chiếm lĩnh Quốc lộ 1 A đoạn qua xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong tỉnh Bình Thuận và cắt đứt giao thông trên tuyến đường huyết mạch, xe cộ ùn tắc kéo dài cả 50 km, thậm chí có cả bạo động đốt phá xe cộ và một khách sạn. Trong cuộc biểu tình này những người tham gia không phải là dân oan mất đất nhưng là dân oan môi trường. Người dân địa phương phản đối một nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã phá hủy môi trường sống của người dân Vĩnh Tân, khí xả thải bụi xỉ than mờ mịt không khí. Dân oan môi trường đã trở thành một từ mới trong tiếng Việt theo sau Dân oan mất đất.

“ Ở Việt Nam có hàng triệu dân oan, hàng trăm ngàn nạn nhân về môi trường. Tất cả những thành phần như vậy họ đều muốn phản ứng đối với nhà nước về những chính sách bất cập và gây hậu quả nghiêm trọng đối với vấn đề sinh kế, mưu sinh và môi trường của họ.
-TS Phạm Chí Dũng”

Trước đó vào ngày 27/10/2013, theo báo mạng Dân Trí, hơn 300 người dân xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa Quang Ngãi đã đi bộ 10km lên tuyến QL 1A thuộc địa phận TP.Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa để biểu tình phản đối chính quyền cho hút cát quá độ làm xói lở bờ biển, hồ tôm và rừng dương làm hơn 945 tàu cá xã Nghĩa An không thể ra vào Cửa Đại. Cuộc biểu tình tuần hành kéo dài đến chiều tối 28/10/2013 làm lưu thông bị gián đoạn một số nơi trên Quốc lộ 1A. Ngoài ra người biểu tình còn bắt trói 3 nhân viên doanh nghiệp hút cát.

Trong sự kiện gần đây nhất chiều ngày 17/2/2016, hàng trăm dân oan môi trường đã sử dụng những khối bê tông chặn Quốc lộ 38 khu vực xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Theo mạng tin Trí Thức, người dân địa phương đã chặn đường cấm xe để phản đối nhà thầu thi công trên tuyến đường này đã không chịu tưới nước, làm cả khu vực bụi mù mịt mỗi khi xe cộ qua lại.

Phải chăng những cuộc biểu tình càng ngày càng nhiều ở Việt Nam khiến cho Chính phủ đắn đo, 19 lần soạn thảo Dự luật Biểu tình mà vẫn chưa xong, cho dù Quốc hội hối thúc.

Nhận định về vấn đề liên quan, TS Phạm Chí Dũng chủ tịch Hội nhà báo độc lập, một tổ chức xã hội dân sự tự phát, từ Sài Gòn phát biểu:

“Ở Việt Nam có hàng triệu dân oan, hàng trăm ngàn nạn nhân về môi trường. Tất cả những thành phần như vậy họ đều muốn phản ứng đối với nhà nước về những chính sách bất cập và gây hậu quả nghiêm trọng đối với vấn đề sinh kế, mưu sinh và môi trường của họ. Thành thử không có gì ngạc nhiên việc nhà nước rất sợ những thành phần dân oan, nạn nhân môi trường hay gần đây là tiểu thương biểu tình. Bất chấp việc chưa có Luật Biểu tình thực ra từ mấy năm qua đã diễn ra làn sóng biểu tình liên tục ở Trung Nam Bắc. Năm 2015 vừa rồi đã chính thức hình thành phong trào cứu lấy dân oan ba miền, những người này thường xuyên kéo tới trụ sở văn phòng tiếp dân ở Ngô Thời Nhiệm Hà Nội…”

Như TS Phạm Chí Dũng cho rằng dân oan ở Việt Nam có thể lên tới hàng triệu người thuộc đủ thành phần và đủ mọi loại oan sai. Danh từ dân oan do chính các nhà báo công dân khai sinh và có thể nói nó là hậu quả của một xã hội bất công do các chế độ cai trị độc đoán gây ra.

Có nhà báo lề dân nói với chúng tôi, thế lực có khả năng làm lung lay chế độ không phải là diễn biến hòa bình, hay điều gọi là tự diễn biến mà chính là lực lượng dân oan hàng triệu người.

Việt Nam ‘khẩn trương sắp xếp’ cho chuyến thăm của TT Obama

 Việt Nam ‘khẩn trương sắp xếp’ cho chuyến thăm của TT Obama

Tổng thống Obama đã nhận lời mời thăm Việt Nam của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bên lề hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Mỹ tại Sunnylands, bang California, Hoa Kỳ, hồi trung tuần tháng 2.

Tổng thống Obama đã nhận lời mời thăm Việt Nam của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bên lề hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Mỹ tại Sunnylands, bang California, Hoa Kỳ, hồi trung tuần tháng 2.

04.03.2016

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình trong cuộc họp báo thường kỳ hôm thứ Tư cho biết Việt Nam đang cùng với Mỹ khẩn trương chuẩn bị cho chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Barack Obama vào tháng 5 tới.

Tổng thống Obama đã nhận lời mời thăm Việt Nam của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bên lề hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Mỹ tại Sunnylands, bang California, Hoa Kỳ, hồi trung tuần tháng 2.

Thông tin từ Tòa Bạch Ốc cho biết ông Obama sẽ ghé thăm Việt Nam trong chuyến đi dự hội nghị thượng đỉnh G7 thường niên diễn ra tại Nhật Bản vào cuối tháng 5/2016.

Mục đích chuyến thăm được cho biết là để ‘góp phần thúc đẩy hợp tác vì hòa bình và phát triển trong quan hệ đối tác, hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới, đóng góp vào việc duy trì hòa bình ổn định ở khu vực’.

Ngoài những vấn đề quan trọng về hợp tác thương mại như TPP, giáo dục, an ninh, quốc phòng, môi trường…, Vietnamnet hôm 1/3 trích lời Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius đề cập đến vấn đề nhân quyền, mà nhiều nhà hoạt động kêu gọi Tổng thống Obama đưa vào trong nghị trình chuyến thăm sắp tới của ông. Ông Osius nói:

“Là một người bạn của Việt Nam, tôi kêu gọi các nhà lãnh đạo Việt Nam nhận ra những khả năng được-mất trong tình hình hiện nay. Tuy TPP chủ yếu là một hiệp định thương mại, một số thành viên Quốc hội Hoa Kỳ cho biết họ sẽ cân nhắc những thông tin ghi nhận về tình hình nhân quyền của Việt Nam khi họ bỏ phiếu, và kết quả bỏ phiếu có thể là sít sao.Những tiến bộ có ý nghĩa về nhân quyền ở Việt Nam sẽ giúp tạo điều kiện để TPP được phê chuẩn nhanh chóng hơn”.

Tổng thống Obama ban đầu dự định đến Việt Nam vào năm ngoái nhân dịp kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, theo lời mời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nhưng dự định này đã bị hủy vào giờ chót.

Ông Obama là tổng thống Mỹ thứ 3 đến thăm Việt Nam, sau ông Bill Clinton vào năm 2000 và ông George W. Bush và năm 2006.

Theo The Diplomat, Vietnamnet, Dân Trí.

ĐCS vẫn muốn duy trì chủ nghĩa Mác Lê Nin

ĐCS vẫn muốn duy trì chủ nghĩa Mác Lê Nin

Việt Hà, phóng viên RFA
2016-03-03

Một công an và một dân phòng đứng bảo vệ trước bức tượng Lenin tại công viên bên cạnh đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội vào ngày 18 tháng 5 năm 2014.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Đại hội đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 12 đã kết thúc với sự ở lại của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và ra đi của những vị trí chủ chốt khác. Trong năm nay, Việt Nam sẽ có một dàn lãnh đạo mới bao gồm chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng và các bộ trưởng trong chính phủ. Hiện đã có những thông tin đồn đoán về những người sẽ nắm giữ các chức vụ quan trọng này. Vậy ai là những người có nhiều khả năng nhất nắm giữ các chức vụ quan trọng sắp tới, và liệu những thay đổi này có ý nghĩa thế nào đối với đường lối đối nội, đối ngoại trong 5 năm tới của Việt Nam?

Việt Hà phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về quan hệ quốc tế thuộc trường đại học George Mason, Hoa Kỳ.

Việt Hà: Thưa ông, đại hội đảng cộng sản VN 12 đã kết thúc, nhìn vào danh sách những ủy viên trung ương đảng và bộ chính trị, ông có thấy điểm gì khác biệt so với đại hội lần trước? liệu điều này có mang đến thay đổi nào đáng kể trong chính sách đối nội và đối ngoại của VN?

Nguyễn Mạnh Hùng: Trong bộ chính trị và nhất là trong Ban Chấp hành TƯ mới số người ủng hộ ông Dũng không nhiều như trước. Tại Đại hội này giải quyết tranh chấp cá nhân và loại ông Dũng quan trọng hơn sự thảo luận về chính sách. Thành phần của bộ chính trị lần này gồm một số người có khuynh hướng giáo điều (TBT Nguyễn Phú Trọng, Thường Trực ban Bí thư  kiêm Chủ tịch Hội đồng lý luận TƯ Đinh Thế Huynh, Trưởng ban Tổ chức TƯ Phạm Minh Chính, Trưởng ban Tuyên giáo TƯ Võ Văn Thưởng.). Tương đối nhiều người có gốc công an nắm các chức vụ trọng yếu (Đại tướng Trần Đại Quang, Trung tướng Tô Lâm, ông Phạm Minh Chính), và khá nhiều người có kiến thức hoặc kinh nghiệm quản lý kinh tế (bà Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Nguyễn Xuân Phúc, Chủ nhiệm ban kinh tế trung ương Vương Đình Huệ, Thống đốc Ngân hang nhà nước Nguyễn Đức Bình, Bộ trưởng Giao Thông Vận Tải Đinh La Thăng, Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải.).

Người phụ trách tuyên giáo, ông Võ Văn Thưởng sinh năm 1970 là người trẻ nhất và, nếu cần, có thể trụ trong Bộ chính tri nhiều nhiệm kỳ. Với việc đặt ông Đinh thế Huynh, nguyên trưởng ban tuyên giáo TƯ vào chức vụ Thường trực ban Bí thư với triển vọng kế nghiệp ông Trọng khi ông rút lui trước nhiệm kỳ và đặt một người trẻ tuổi nhất kế nhiệm ông Huynh ở chức vụ trưởng ban tuyên giáo, ông Trọng hay đảng của ông ấy sắp xếp nhân sự để kiên trì chủ nghĩa cộng sản, kiên định con đường Mác Lê nin, duy trì sự độc tôn của đảng, không đi chệch hướng, không bị tự diễn biến.

Việt Hà: Có thông tin cho rằng ông Trọng sẽ chỉ ở khoảng nửa nhiệm kỳ để đảng tìm người thay thế, theo ông, ai là những gương mặt sáng giá cho vị trí này, vì sao?

Nguyễn Mạnh Hùng: Trước đại hội 12 ông Trọng muốn ông Nghị làm tổng Bí thư nhưng ông Nghị không làm được thì người ta thấy là ông Trọng nghiêng về phía ông Đinh Thế Huynh. Ông này mới được đôn lên làm Thường Trực ban Bí Thư, nhân vật thứ hai sau TBT Trọng. Tuy nhiên, nếu muốn gộp hai chức vụ Chủ Tịch nước và TBT đảng thành một để có thể chỉ huy thống nhất và làm dễ dàng thủ tục ngoại giao đồng thời tăng uy thế cho TBT khi tiếp xúc với các nguyên thủ khác, đảng có thể bầu luôn ông Trần Đại Quang vào chức vụ TBT đảng.

Việt Hà: Đại hội đảng đã kết thúc nhưng danh sách của những người đứng đầu chính phủ, nhà nước về mặt chính thức vẫn phải chờ đến khi quốc hội 14 nhóm họp vào giữa năm nay để quyết định. Tuy nhiên đã có những thông tin đồn đoán về những người sẽ nắm các vị trí quan trọng là thủ tướng, phó thủ tướng, chủ tịch nước,… ông có những thông tin gì có thể chia sẻ về những lãnh đạo mới của VN sắp tới?

Nguyễn Mạnh Hùng: Tại hội nghị toàn quốc lần thứ 12 của ĐCSVN, đảng đã quyết định giới thiệu ông Trần Đại Quang làm Chủ tịch nước, bà Nguyễn Thi Kim Ngân làm Chủ tích Quốc Hội, và ông Nguyễn Xuân Phúc làm Thủ tướng chính phủ. QH chỉ làm công việc chính thức hóa quyết định của đảng mà thôi, vấn đề là làm lúc nào. Trên nguyên tắc thì tháng 5 bầu cử quốc hội, tháng 7 quốc hội mới họp thì lúc bấy giờ mới có mấy ông mới. Nhưng ông Obama sang thăm tháng 5, không có gì cấm quốc hội hiện tại họp tín nhiệm mấy ông này. Như vậy khi ông Obama sang thì có dàn lãnh đạo mới để tiếp. Đó là một giải pháp, nếu không thì đến tháng 7 mới làm. Còn đến tháng 7 thì mấy nhân vật này gần như là chắc chắn.

000_Hkg9081458-400

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. AFP photo

Việt Hà: Theo ông di sản mà ông Nguyễn Tấn Dũng để lại cho người kế nhiệm là gì, đâu là những thuận lợi và khó khăn cho thủ tướng VN tiếp theo?

Nguyễn Mạnh Hùng: Ông Nguyễn Tấn Dũng là một người quyết đoán và dám làm, nhưng với kỷ luật “cá nhân lãnh đạo, tập thể chỉ huy” ông không có toàn quyền làm những điều ông muốn. Dưới chính quyền của ông Dũng, người ta thấy có mấy điểm đặc biệt sau đây: Về ngoại giao thì khuynh hướng thân Mỹ tăng khuynh hương thân Tàu giảm.

Về kinh tế thì VN đẩy mạnh chính sách hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế với một số các thương ước quan trọng, nhưng đồng thời nền kinh tế củng có một số khó khăn: tăng trưởng thấp, lệ thuộc nhập cảng vào TQ tăng nợ công lớn, ngân sách thiếu hụt, các công ty nhà nước không được cải tổ đến nơi đến chốn và hoạt động thiếu hiệu quả.

Về xã hội thì nạn tham nhũng lan tràn làm xói mòn tính chính thống và lòng tin vào chế độ đồng thời là một sức cản cho cải tổ kinh tế. Về chính trị thì người ta thấy sự hình thành và lớn mạnh của các nhóm lợi ích song song với hình thức vận động chính trị qua internet và sự lấp ló của các tổ chức dân sư. Đó là những vấn đề mà chính quyền kế nhiệm sẽ phải đối phó.

Việt Hà: Một số chuyên gia nước ngoài cho rằng một số ủy viên trung ương đảng là những nhà kỹ trị, trong đó có thủ tướng mới, ông có đồng ý với ý kiến này không? Nếu có theo ông điều này mang lại thuận lợi và bất lợi gì cho VN sắp tới?

Nguyễn Mạnh Hùng: Ứng cử viên thủ tướng duy nhất đảng đưa ra là ông Nguyễn Xuân Phúc. Ông này có thể coi là một nhà kỹ trị. Trong Bộ Chính Trị mới người ta thấy một số người hoặc có kiến thức chuyên môn về kinh tế hoặc đã từng có kinh nghiệm thi hành chính sách kinh tế, như bà Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Nguyễn Xuân Phúc, Chủ nhiệm ban kinh tế trung ương Vương Đình Huệ, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Nguyễn Đức Bình, Bộ trưởng Giao Thông Vận Tải Đinh La Thăng, Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải.

Sự hiện diện của các nhà kỹ trị rất cần thiết vì VN đã ký một số thương ước quan trọng với những cam kết cải tổ cụ thể; họ sẽ phải thực hiện các cải tổ kinh tế cần thiết để nền kinh tế VN có khả năng cạnh tranh và lợi dụng được cơ hội do các hiệp ước mở rộng thị trường này mang lại.

Việt Hà: Vai trò của chủ tịch nước từ trước đến nay vẫn rất mờ nhạt, có chuyên gia nước ngoài cho rằng trong cương vị chủ tịch nước, ông Trương Tấn Sang không làm được gì nhiều nhưng ông cũng cho thấy vai trò nhất định của mình trong việc ủng hộ đổi mới doanh nghiệp nhà nước, xích lại gần hơn với Mỹ qua TPP. Theo ông vị chủ tịch nước mới có thể làm được gì để khẳng định vai trò của mình?

Nguyễn Mạnh Hùng: Hiến Pháp VN cho Chủ tịch nước nhiều quyền hành, nhưng ông Sang chọn không thi hành hết các quyền ấy.

Hiến Pháp 2013 giao cho Chủ tịch nước tư cách “đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại,” và quyền đề cử để Quốc Hội bầu và mãn nhiệm các vị trí quan trọng của nhà nước, kể cả Phó chủ tịch nước và Thủ tương.

Chủ tịch nước “thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân,” giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh; quyết định thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng; Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; Trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.

Với tư cách nguyên Bộ trưởng CA, ông Trần Đại Quang có căn cứ quyền lực lớn hơn ông Sang và, nếu ông ấy có bản lĩnh, ông có triển vọng đóng vai trò quan trọng hơn so với ông Sang trong chính quyền mới trong khi đó người ta không nghĩ rằng ông Phúc sẽ là một Thủ tướng có nhiều quyền uy như ông Dũng.

Việt Hà: Xin cảm ơn ông.