Người tự ứng cử tiếp tục ‘vượt rào’ ở Việt Nam

Người tự ứng cử tiếp tục ‘vượt rào’ ở Việt Nam

Tiến sĩ Nguyễn Quang A trước tòa thị chính của một thành phố ở Trung Quốc với chiếc áo No-U phản đối đường lưỡi bò của Trung Quốc ở Biển Đông. Ông là một trong những ứng viên đầu tiên tự ứng cử vào Quốc hội Việt Nam khóa tới.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A trước tòa thị chính của một thành phố ở Trung Quốc với chiếc áo No-U phản đối đường lưỡi bò của Trung Quốc ở Biển Đông. Ông là một trong những ứng viên đầu tiên tự ứng cử vào Quốc hội Việt Nam khóa tới.

VOA Tiếng Việt

17.03.2016

Gần 50 người tự ứng cử vào Quốc hội Việt Nam ở Hà Nội vượt qua “trở ngại” là vòng hiệp thương thứ hai, sau khi xuất hiện cáo buộc rằng “có tổ chức phản động” đứng sau một số người.

Truyền thông trong nước đưa tin, Ủy ban Mặt trận tổ quốc thủ đô của Việt Nam hôm 17/3 đã tổ chức hội nghị hiệp thương lần thứ hai để lập danh sách sơ bộ người ứng cử đại biểu quốc hội và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú.

Hàng chục người tự ứng cử trên địa bàn, trong đó có tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, nằm trong danh sách gần 100 người đã được thông qua.

Ông Diện cho VOA Việt Ngữ biết:

“Sáng hôm nay, 17/3, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc của thành phố Hà Nội đã tổ chức hội nghị hiệp thương vòng hai để rà soát danh sách đó, và 100% các đại biểu dự hội nghị hiệp thương vòng 2 hôm nay đã biểu quyết và tán thành cả 87 người ứng cử vào đại biểu quốc hội khóa 14, trong đó có 39 người do các cơ quan đoàn thể giới thiệu, và 48 người, người ta tự ứng cử. Như vậy, có thể nói, đến 13 giờ chiều hôm nay, có thể khẳng định rằng trong 48 người tự ứng cử này thì không có một người nào được các thế lực thù địch, hay các tổ chức phản động, tài trợ cả. Nếu có như vậy thì người ta sẽ bị gạt trong danh sách ngay sáng hôm nay”.

Một ngày trước đó, nhiều tờ báo trong nước dẫn nguồn tin giấu tên trong “tiểu ban an ninh Hội đồng bầu cử Quốc gia cho rằng có tổ chức phản động cung cấp tài chính để vận động bầu cử cho một số người”.

Có thể khẳng định rằng trong 48 người tự ứng cử này thì không có một người nào được các thế lực thù địch, hay các tổ chức phản động, tài trợ cả. Nếu có như vậy thì người ta sẽ bị gạt trong danh sách ngay sáng hôm nay.

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện.

Cáo buộc này, theo tiến sỹ Diện, ngay lập tức đã “gây bức xúc” trong “giới nhân sỹ trí thức, bản thân cá nhân, gia đình, bạn bè” [của những người tự ứng cử], và “họ đã nhanh chóng gửi đơn thư để yêu cầu Hội đồng Bầu cử Quốc gia làm rõ về vấn đề này”.

Trước đó, truyền thông trong nước đưa tin, trong một cuộc tiếp xúc cử tri cũng tại Hà Nội, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói rằng “không để lọt vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng, nhà nước những phần tử thế này thế khác”.

Sau những tuyên bố như vậy, hôm nay, tin cho hay, nhiều ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc đã bày tỏ quan điểm, trong đó có Thiếu tướng Lê Mã Lương. Báo điện tử VnExpress dẫn lời ông Lương nói rằng ông nghĩ “không nên chỉ nói như thế, nếu được hãy cung cấp rõ ràng, cụ thể vì nói như vậy sẽ làm phương hại đến tất cả những người tự ứng cử”.

Tiến sỹ Nguyễn Quang A, một người tự ứng cử khác, nói với VOA Việt Ngữ rằng việc các ứng viên tự đề cử được thông qua là một tín hiệu “tích cực”.

Ông nói thêm:

“Những người tham gia hội nghị hiệp thương lần thứ hai này, mấy hôm trước, họ còn nói loại người này, loại người kia, và họ cũng đưa những tin để lót đường cho việc loại này, nhưng mà sáng hôm nay, các vị tham gia hiệp thương đó đã thông qua mà không loại người nào cả. Trong bối cảnh hiện nay, theo quy định hiện hành, tôi nghĩ đấy là một dấu hiệu tốt”.

Sáng hôm nay, các vị tham gia hiệp thương đó đã thông qua mà không loại người nào cả. Trong bối cảnh hiện nay, theo quy định hiện hành, tôi nghĩ đấy là một dấu hiệu tốt.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A.

Truyền thông Việt Nam đưa tin, hôm nay, 100% đại biểu có mặt tại hội nghị Hiệp thương lần thứ hai bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa 14 đồng ý thông qua danh sách 197 ứng viên đại biểu Quốc hội khối trung ương, trong đó có 19 uỷ viên Bộ Chính trị.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Nguyễn Thiện Nhân cho biết, sau hội nghị lần thứ nhất ngày 23/2, Thường vụ Quốc hội đã phân bổ khoảng 35 đại biểu là người ngoài Đảng ở địa phương, và đây là con số tối thiểu dự kiến.

Ông Nhân cho biết biết thêm rằng sẽ có “những người ngoài Đảng tự ứng cử, và nếu đủ tiêu chuẩn sẽ được bổ sung ở các hội nghị hiệp thương tiếp theo”.

Chính quyền chưa công bố con số ứng viên tự ứng cử, nhưng theo các nguồn tin, có gần 100 người tự ứng cử trên toàn quốc.

Sáng Tạo của “Đỉnh cao trí tuệ loài người”

Sáng Tạo của “Đỉnh cao trí tuệ loài người”

Đường 12 làn của Dubai mất 4 triệu USD/km, dùng 50 năm còn đường Việt Nam mất 20 triệu USD/km, dùng 2 năm

 Tác giả: Theo CafeBiz/TTV

CAU DUBAI

“Một con đường đẹp như mơ của Dubai với 12 làn xe có chi phí xây đường là 4 triệu USD/km, dùng trong 50 năm. Còn ở Việt Nam, chi phí xây đường trung bình là hơn 20 triệu USD/km, dùng trong 2 năm, thử hỏi làm sao phát triển được”.

Nói về cơ hội và thách thức của hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) tới Việt Nam, ông Nguyễn Quang Khai, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Các tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE) đã kể lại một câu chuyện đón đoàn đại biểu Việt Nam trước khi kết thúc nhiệm kỳ Đại sứ vào năm 2011.

Ông Khai đã giới thiệu với đoàn đại biểu do nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc làm trưởng đoàn 2 địa điểm.

Thứ nhất, con đường xuyên Emirates – một đại lộ với 12 làn xe (mỗi bên 6 làn) đẹp như mơ, không hạn chế tốc độ, chi phí xây dựng tiêu tốn 4 triệu USD cho 1 km đường.

Vậy mà ở Việt Nam, chi phí xây đường trung bình gấp 5 lần con số trên, tới 20 triệu USD/km.

“Tuổi thọ đường của Dubai là 50 năm, còn đường Việt Nam chạy xe 2 năm đã hỏng. Như vậy làm sao Việt Nam phát triển được?”, nguyên Đại sứ Khai đặt câu hỏi.

Điểm thứ 2 ông Khai đưa đoàn đến là Bộ Ngoại giao của UAE – một khu vực gồm 6 villas, rất thưa người. Bộ trưởng của họ cởi mở và sẵn sàng tiếp khách.

“Trong khi đó, Bộ của mình to ra sao? Có bao nhiêu người?”, ông Khai tiếp tục đặt dấu hỏi.

“TPP không phải cây gậy thần. Dubai không có TPP, không có FTA… và họ là thành phố số 1 thế giới. Ngoài mức thuế hải quan 5%, doanh nghiệp không phải chịu một loại thuế gì”.

“Doanh nghiệp muốn vào Dubai, visa tự do. Doanh nghiệp muốn vào Việt Nam thì sao? Phải xin visa hết 7 ngày, thì ai vào?”

Dubai là một mẫu hình rất nhiều điều đáng học, TS. Võ Trí Thành – nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhận định.

Ông Thành cho rằng, Việt Nam cần tự thân vận động, phải tự tin, học hỏi và kết nối để tận dụng được cơ hội và vượt qua những thách thức do TPP mang lại.

Văn hóa… nhang khói

Văn hóa… nhang khói
Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Tôi ra tù năm 1982. Bảy năm qua các trại cải tạo, tôi hiểu được những người Cộng Sản nhiều hơn ngày trước. Sau khi ra tù, về lại Sài Gòn, tôi lại hiểu được những người Cộng Sản hơn những ngày còn trong nhà tù. Cán bộ coi tù dù có chức phận đi nữa thì số phận cũng không hơn gì thằng tù, cũng thâm sơn cùng cốc, cũng bữa sắn bữa ngô, thằng tù phải lên rừng xuống rẫy giữa mùa Đông giá rét, hay trời Hè nóng nực, thì thằng cai tù cũng phải vác súng đi theo. Gia tài cai tù thì áo quần mỗi năm cũng chỉ hai bộ, đôi dép râu vừa mang trong chân vừa để chà lưng lúc tắm, cũng có thể để gối đầu lúc ngủ, thêm một cái bàn chải đánh răng, một cái chén ăn cơm với đôi đũa mang theo. Sang hơn thì có cái ca nhôm uống nước, nhưng không thì cơm rồi, rót nước vào chén cũng xong.

(Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Cán bộ cấp cao còn có cái “xắc cốt” đeo kè kè bên mình.

Năm 2002, tỉnh Quảng Trị lắp đặt hệ thống thoát nước tại cổ thành Quảng Trị đã phát hiện ra một chiếc hầm chữ A, trong hầm còn nguyên năm bộ hài cốt của lính miền Bắc trong tư thế đang ngồi, trong đó có bộ hài cốt của một sĩ quan, Thượng Úy Lê Binh Chủng, chỉ huy phó chính trị của một tiểu đoàn. Duy nhất bên bộ hài cốt này có chiếc “xắc cốt” da Liên Xô. Trong “xắc cốt” người ta tìm thấy: Một quyển nhật ký một nửa ghi chép công việc, một nửa viết cho cho gia đình, một quyển điều lệ đảng, một quyển 10 điều chính sách của mặt trận GPMN, một chiếc lược làm bằng nhôm, và một cái bút máy Trường Sơn có khắc dòng chữ tặng. Trong cuốn nhật ký còn kẹp những lá thư của người vợ từ quê nhà miền Bắc gửi cho chồng.

Gia tài của một binh sĩ hay một sĩ quan chỉ có ngần ấy.

Lúc không có gì trong tay, đến cả một đồng bạc lẻ, người ta dễ nói chuyện lý tưởng hay hy sinh. Năm người lính Bắc Việt trong chiếc hầm này không chết vì súng đạn mà vì chết đói và hầm bị gạch đá lấp kín, vì lý tưởng “chết là chết cho Liên Xô-Trung Quốc!”Năm 1982, tức là năm năm sau khi “giải phóng,” cán bộ Cộng Sản vào Nam không còn nghèo nữa, họ có thể vơ vét một ít chiến lợi phẩm là “tàn dư” hay “phồn vinh giả tạo” của miền Nam đem về Bắc đắp đổi, hay được ở lại miền Nam là “chuột sa” vào “hũ nếp” Mỹ Ngụy.

Nhà tôi ở Quận 10, Sài Gòn, gần đường Minh Mạng, là nơi chuyên bán đồ mộc. Tôi không chú ý đến chuyện cán bộ miền Bắc mua sắm, bàn ghế, tủ, giường… vì bây giờ họ có nhà cửa, cơ ngơi, sắm đồ đạc là chuyện thường tình. Điều tôi chú ý là cán bộ (giờ đó hầu hết còn mặc đồ bộ đội) đã chở trên xe gắn máy hay những chiếc xích lô những chiếc tran thờ còn mới mua từ những tiệm mộc đem về nhà.

Đó là những tran thờ Thần Tài, Ông Địa, dấu hiệu của chuyện bảo vệ tư hữu, tức là của cải mình có từ vợ con, nhà cửa, tiền của đến chức vụ, quyền lực.

Khi con người chỉ có một cái chén và một đôi đũa, ăn xong, tự rửa lấy và đeo bên mình thì không hề sợ mất và cũng chẳng nhờ con người hay ông Thần, ông Thánh nào giữ giùm.

Bây giờ cướp được chính quyền rồi thì cán bộ có chức phận, có nhà cửa, có tiền bạc. Thực tế là phải nuôi con chó giữ nhà để đêm hôm canh chừng trộm đạo, chức sắc lớn thì có nhân viên bảo vệ, nhà cửa thời đại này chắc chắn phải gắn máy quay phim. Chưa đủ, phải nhờ thêm đến Thần Linh, tức là Ông Địa, ông Thần Tài để giữ của, giữ chức vụ, tức là giữ ghế cho bền. Bàn thờ Ông Địa, ông Thần Tài thì phải nhang khói suốt năm, khi điếu thuốc lá, khi nải chuối, đối với cấp trên cũng vậy phải nhớ “nhang khói” đừng quên. Cấp trên thì không cần chuối, cũng chẳng cần gà, cũng chẳng cần điếu thuốc 555 như thời bao cấp. Bây giờ cái mặt “bác Hồ” cũng chẳng còn giá trị gì nữa mà phải là chân dung quý vị tổng thống Mỹ.

Thói quen là văn hóa, văn hóa hối lộ đã tràn qua địa hạt tín ngưỡng hay mê tín, dân tình trong đó tất nhiên có cán bộ nhét tiền vào tay Phật, đầu rùa, bỏ tiền vào ngai vua, bỏ lên bài vị, tượng La Hán, Kim Cương bị “ép” cầm tiền lễ ở tay, bị nhét dưới râu, thậm chí nhét tiền vào thạch nhũ khi thăm động. Hối lộ để cầu xin may mắn, tiền của vào nhiều, thăng quan tiến chức, giữ yên ổn cho gia đình và bản thân mình.

Ngày xưa, nghe lời dụ dỗ của đảng, thanh niên miền Bắc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,” trên đầu nón cối, dưới đất dép râu, không biết cầu xin, van vái ai, cuộc đời cũng chẳng biết đến nhang khói là gì. Ngày nay khi đã có chính quyền trong tay, với thế giặc phương Bắc, chỉ biết có một điều cư xử là cúi lạy. Khi người dân cúi lạy xin tha mạng trước bạo lực, thì chính phủ phải lấy đó làm nhục, vì chính phủ là đại diện của dân, chính phủ không che chở được cho dân, thì dân lạy vái cũng như chính phủ lạy vái.

Cả nước ngày này không có gì gọi là dũng khí, ngay cả báo chí Việt Nam cũng đã than thở đất nước đã đến hồi “mạt vận.” Thay vì ngẩng cao đầu, đứng thẳng lưng, thì cả biển người lại sống bằng quỳ lạy dập đầu và đi xin xỏ Thần Thánh ban phát sự giàu có, vinh hiển, công danh sự nghiệp.

Ở miền Bắc Việt Nam rộ lên cái gọi là lễ hội văn hóa, tôn giáo, với cảnh chen chúc giẫm đạp nhau nơi đền chùa, dâng đội mâm cao cỗ đầy, sì sụp lạy lục, lâm râm khấn vái, đốt vàng mã cho thần thánh, để xin xỏ, năn nỉ xuýt xoa, rồi giành giật nhau, đánh nhau u đầu chẩy máu để lấy hay cướp lộc mang về.

Xin một cái ấn đền Trần, là được may mắn thăng quan tiến chức. Chính ông Nguyễn Thiện Nhân, khi còn làm phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đã “đích thân” đóng ấn để phát cho du khách thì còn ra cái sĩ diện quốc gia gì nữa!

Ba triệu thanh niên miền Bắc với “cái chén ăn cơm và đôi đũa giắt lưng” đã nằm xuống cho ba triệu đảng viên Cộng Sản hôm nay chỉ biết lạy lục kẻ thù và nhang khói Thần Thánh.

Trong bức di thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh chết tại cổ thành Quảng Trị, để lại, có viết cho vợ:

-“Thôi nhé em đừng buồn, khi được sống trong hòa bình hãy nhớ tới anh!”

Theo tôi nghĩ, chỉ tiếc thương cho những cái chết trở thành vô nghĩa như của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh. Máu xương của hàng triệu người đó, không phải hy sinh để chúng ta có một đất nước như ngày hôm nay!

Ứng cử viên tự do và vòng vây dư luận

Ứng cử viên tự do và vòng vây dư luận

Cát Linh, phóng viên RFA
2016-03-16

000_875JO

Facebook, một trong những trang mạng xã hội các ứng cử viên dùng để vận động bầu cử.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Truyền thông Nhà Nước và cơ quan chức năng phụ trách bầu cử của chính quyền có nhiều ý kiến bất lợi nhắm vào số người tự ứng cử Quốc hội khoá 14. Phản ứng từ phía những ứng cử viên độc lập đó ra sao, Cát Linh ghi nhận ý kiến của người trong cuộc và người quan sát với vai trò của một cử tri.

Mới hôm 15 tháng 3 vừa qua, một thành viên của ban giám sát, tiểu ban an ninh của Hội đồng bầu cử quốc gia lên tiếng trong buổi làm việc giữa Đoàn giám sát công tác bầu cử do Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu nói với thành phố Hà nội rằng có những tổ chức phản động đứng đằng sau những người tự ra ứng cử đại biểu quốc hội lần này.

Người này nói tiếp là vì lý do đó nên trong số 47 người tự ứng cử lần này phải loại một số người khỏi danh sách ứng cử trong các lần hiệp thương tới đây.

Có thêm ý kiến nói rằng một số đối tượng tự ứng cử đã sử dụng công nghệ để tuyên truyền vận động. Báo này nói thêm là những người này dùng những trang mạng cá nhân để hô hào bỏ phiếu ủng hộ họ.

Theo bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, chủ tịch ủy ban bầu cử thành phố Hà Nội thì trong số 47 người tự ứng cử có nhiều nhân sĩ trí thức quan tâm đến các vấn đề xã hội, tuy nhiên phải loại trừ những một số đối tượng đặc biệt.

Cũng tại buổi làm việc như vừa nêu, ông Nguyễn Xuân Phúc nói là trong kỳ bầu cử lần này có việc ứng cử, đề cử, mở rộng dân chủ nhưng phải đảm bảo chất lượng đại biểu.

Chưa sẵn sàng?

Nghệ sĩ hài Vượng Râu, một trong những ứng cử viên độc lập lần này, cho rằng phản ứng của dư luận và những bài viết trên báo chí vừa qua là do đến từ việc tự ứng cử của các ứng cử viên tự do chưa được sẵn sàng đón nhận. Chính vì thế mà từ một việc hoàn toàn bình thường, có nhiều người đã làm ra thành những việc bất bình thường, thậm chí có phần hoang tưởng.

“Tức là nếu như mọi người cứ để nó bình thường như vốn dĩ nó có thì nó không sao. Nhưng bây giờ chúng ta cứ cố tình để cho nó khác đi, thì đương nhiên hàng trăm con mắt, hàng trăm đôi tai và hàng trăm sự nhìn nhận của người dân vào sự bầu cử nó sẽ khác đi.”

Giải thích rõ thêm, nghệ sĩ Vượng Râu nói rằng một trong những vấn đề chưa sẵn sàng mà hội đồng bầu cử đang gặp phải đó là cách ban bầu cử đón nhận hồ sơ và hướng dẫn thủ tục cho ứng cử viên. Ông đưa ra trường hợp hồ sơ ứng cử của ca sĩ Mai Khôi được cho là không hoàn chỉnh và đòi hỏi phải sửa gấp:

“Cái việc thủ tục hành chính đó là một việc mà tôi khẳng định rằng nó không thể hoàn thành một cách vội vã. Như thế nó sẽ làm giảm đi thời gian và tiến độ của việc chốt hồ sơ. Tất cả những việc đó nếu chúng ta có ý định cho số người tự ứng cử vào thì cần phải thoải mái hơn.”

Nhà văn Nguyễn Quang Thiều trong bài viết cá nhân của mình, ông lên tiếng về sự việc này và cho rằng đây là do một cơ cấu chưa quen với việc tự ứng cử:

“Bởi chúng ta vẫn chưa quen được hành động này. Chúng ta đã mắc một thói quen cố hữu lâu nay khi cho những người tự ứng cử trong những trường hợp tương tự nói trên là những người không hiểu mình là ai, là những người ham danh háo chức…” (Trích bài viết của nhà văn Nguyễn Quang Thiều).

“ Rõ ràng thể chế bầu cử ở Việt Nam bây giờ tồn tại quá nhiều hạn chế mà nó khiến cho việc tạo ra những chính trị gia chuyên nghiệp, những dân biểu chuyên nghiệp vẫn còn quá xa vời.
– Nhà hoạt động Nguyễn Anh Tuấn”

Theo nghệ sĩ Vượng Râu, khi các ứng cử viên tự do thực hiện việc tự ứng cử nghĩa là họ đã không lo ngại việc bị ném đá, đã quyết định việc có trách nhiệm với đất nước. Chính vì vậy ông kêu gọi nên có những thái độ công bằng đối với các ứng cử viên tự do.

“Để có tiến trình của sự dân chủ rõ rệt, và đặc biệt là cho những người dân nhìn thấy sự phát triển của đất nước thì không nên có những thông tin cũng như những bài báo phiếm diện nói về việc tự ứng cử của những người nhằm mục đích để phát triển đất nước tốt hơn.”

Vấn đề uy tín

Thế nhưng, phản ứng lại với những trách nhiệm như nghệ sĩ Vượng Râu đề cập thì theo ông Nguyễn Văn Pha, Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát biểu với truyền thông trong nước rằng “không uy tín thì khó.”

Thầy giáo Đỗ Việt Khoa, người ra ứng cử ĐBQH lần thứ hai cho kỳ này, lên tiếng cho rằng uy tín của ứng cử viên là do cử tri quyết định:

“Uy tín hay không hãy để cho cử tri đánh giá. Có rất nhiều ứng cử viên tự do có uy tín gấp mấy lần những người đã làm ĐBQH. Có vô số ĐBQH hoạt động rất mờ nhạt. Cả một nhiệm kỳ không phát biểu, không tham gia, bỏ nhiều cuộc họp không có mặt. Các vị ấy cho rằng mình được người ta cơ cấu, phát biểu gì cũng sợ đụng chạm. Vừa rồi chúng ta còn nghe nhiều ĐBQH tâm sự là khi đi họp thì lãnh đạo địa phương căn dặn là không được phát biểu về vấn đề tham nhũng.”

‘Mười năm phấn đấu không bằng một năm cơ cấu’

Như chúng ta đã biết, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, blogger Đặng Bích Phượng, nhà báo Trần Đăng Tuấn, luật sư Lê Luân và một số ứng cử viên tự do khác là những người có nhiều hoạt động, đóng góp về chính trị và các chính sách phát triển xã hội dân sự. Chính vì thế, họ nhận được rất nhiều sự ủng hộ từ người dân trong nước, những người mong muốn có một sư thay đổi về đường lối lãnh đạo nhà nước.

Chính vì vậy, khi những người nghệ sĩ như nghệ sĩ Vượng Râu, ca sĩ Mai Khôi, quyết định ra ứng cử, họ nhận được khá nhiều phản ứng khác nhau từ dư luận.

Nguyễn Anh Tuấn, một nhà hoạt động xã hội dân sự trẻ cho biết góc nhìn cá nhân của mình về sự việc này:

“Đứng ở góc độ cử tri thì với những người tự ứng cử mà mình tạm gọi là vẫn còn non kinh nghiệm thì câu chuyện phức tạp hơn thế nhiều. Rõ ràng thể chế bầu cử ở Việt Nam bây giờ tồn tại quá nhiều hạn chế mà nó khiến cho việc tạo ra những chính trị gia chuyên nghiệp, những dân biểu chuyên nghiệp vẫn còn quá xa vời. Chẳng hạn như vòng hiệp thương thứ nhất, họ lựa chọn thành phần đại biểu quốc hội, nghe rất xa lạ với truyền thống dân chủ tây phương. Nghĩa là nó chọn ra sẵn cái cơ cấu, thành phần đến từ tầng lớp nào, giai cấp nào, cơ quan nào, cơ quan nào, nghề nghiệp nào. Nghe rất là lạ. Thành phần đó được ấn định thành một tỷ lệ gọi là cơ cấu.”

Chính vì thế, theo Nguyễn Anh Tuấn, rất là khó để có một đại biểu hay dân biểu chuyên nghiệp.

Tuy nhiên, không vì vậy mà những ứng viên tự do không thuộc “cơ cấu” định sẵn của Hội đồng bầu cử quốc gia như nghệ sĩ Quốc Vượng, ca sĩ Mai Khôi lại không thể thực hiện quyền ứng cử.

“Có thể họ chưa có kinh nghiệm hoạt động xã hội chính trị, tuy nhiên, sự tham gia, quyết định tự ứng cử của họ đóng góp rất quan trọng ở khía cạnh là bình thường hoá quyền tự ứng cử. Ai cũng có thể thực hiện được.”

Và từ những cử tri như Nguyễn Anh Tuấn cho thấy rằng dù việc tự ứng cử là một cuộc chơi từ các ứng cử viên tự do, thì họ vẫn có tâm ý và kế hoạch, xã hội Việt Nam vẫn chấp nhận thay cho những người do cơ cấu sắp đặt nên. Vì những ứng viên tự do ấy sẽ đưa đến một xã hội đa diện trong sinh hoạt dân chủ của đất nước.

Dân bất an với ‘phố Trung Quốc’ ở Trà Vinh

Dân bất an với ‘phố Trung Quốc’ ở Trà Vinh
Nguoi-viet.com

TRÀ VINH (NV)Từ khi nhà máy nhiệt điện Duyên Hải bắt đầu được xây dựng, cũng là lúc xã Dân Thành có thêm “khu phố Tàu” với nhiều loại dịch vụ để phục vụ cho người Trung Quốc.

Công ty China Chengda Engineering đưa hàng ngàn người Trung Quốc tới làm việc tại dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 3, xã Dân Thành, thị xã Duyên Hải, cũng là lúc đời sống người dân ven biển này đã thay đổi bằng việc chuyển từ làm nông nghiệp sang kinh doanh dịch vụ.


Những tấm bảng hiệu có chữ Trung Quốc chiếm tới 90% ở khu nhà máy nhiệt điện Duyên Hải. (Hình: Dân Trí)

Ði dọc các con đường ở gần nhà máy nhiệt điện Duyên Hải, không khó để bắt gặp các tấm bảng hiệu hàng quán đầy chữ Trung Quốc từ quán cà phê võng, tiệm tạp hóa, massage, hớt tóc…

Ông Huỳnh Văn Ðịnh (51 tuổi), nhà ở “khu phố Tàu” cho biết, từ khi khởi công xây dựng nhà máy nhiệt điện này, gia đình ông bắt đầu xây dựng nhà trọ, kinh doanh tạp hóa để phục vụ hàng ngàn công nhân đang làm việc tại đây. “Do khách hàng phần lớn là người Trung Quốc nên những tấm bảng hiệu cũng phải viết bằng tiếng Trung,” ông Ðịnh nói.

Người dân địa phương cho hay, do dân tứ xứ về đây làm công nhân nên tình hình an ninh trật tự rất phức tạp. Mới đây, sau một vụ va quẹt xe gắn máy, một nhóm người Trung Quốc đã đánh nhau với người địa phương. Họ còn định đốt luôn xe máy của người Việt. Rất may công an địa phương can thiệp kịp thời nên không gây hậu quả nghiêm trọng.

Nói với phóng viên Dân Trí, ngày 15 tháng 3, ông Phan Quốc Lễ, trưởng ấp Láng Cháo, lo ngại: “Những dịch vụ nhạy cảm như gội đầu, massage, xông hơi… phục vụ cho khách hàng Trung Quốc ngày càng mọc ra nhiều hơn đã khiến người dân vùng quê hẻo lánh, hiền lành này lo ngại về tệ nạn xã hội, mại dâm sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống hàng ngày, nhất là thế hệ trẻ.” (Tr.N)

Bệnh viện lớn nhất tỉnh Bến Tre chia nhau từng lít nước ngọt

Bệnh viện lớn nhất tỉnh Bến Tre chia nhau từng lít nước ngọt
Nguoi-viet.com

BẾN TRE (NV) Ngày 14 tháng 3, bệnh viện Nguyễn Ðình Chiểu, thành phố Bến Tre, cho biết, bệnh viện vừa có kế hoạch chia từng lít nước vì thiếu nước ngọt trầm trọng.

Theo ông Lê Thanh Nguyễn, trưởng phòng Hành Chính Quản Trị bệnh viện, nước sinh hoạt bị nhiễm mặn gây ảnh hưởng cho quá trình điều trị cho bệnh nhân chạy thận nhân tạo, vận hành các máy xét nghiệm, nước và thực phẩm cho người bệnh và gây rỉ sét các dụng cụ y tế của các khoa trong bệnh viện.


Mỗi ngày, công ty cấp nước Bến Tre chở cho bệnh viện Nguyễn Ðình Chiểu 10 mét khối nước ngọt. (Hình: Tuổi Trẻ)

Do nguồn nước máy bị nhiễm mặn 3g/lít, không thể sử dụng nên mỗi ngày bệnh viện Nguyễn Ðình Chiểu được công ty cấp nước chở tới khoảng 10 mét khối nước mỗi ngày. Số nước này chỉ đủ để phục vụ những nhu cầu thiết yếu của bệnh viện và được chia ra từng lít cho các phòng, khoa.

Trong đó, khoa nội A – thận nhân tạo được cấp nhiều nhất với 10,000 lít nước/ngày, các khoa còn lại như ngoại tổng quát, ung bướu, ngoại thần kinh, chấn thương chỉnh hình và tim mạch chỉ được cấp 30 lít/ngày/khoa.

Nói với phóng viên Tuổi Trẻ, cùng ngày, ông Cao Văn Trọng, chủ tịch tỉnh Bến Tre cho biết, hiện chỉ còn vài nơi ở phía Bắc chưa ảnh hưởng, còn lại 162/164 xã, phường, thị trấn của tỉnh đều bị nước mặn “bủa vây” với độ mặn 1-3g/lít.

Tại các huyện ven biển Bình Ðại, Ba Tri, Thạnh Phú,… nước ngọt đang cực kỳ khan hiếm. Với nước ít nhiễm mặn người dân phải mua 100,000 đồng/khối. (Tr.N)

Trả Lại Sự Thật Cho Lịch Sử Việt Nam

Trả Lại Sự Thật Cho Lịch Sử Việt Nam

Nguyễn Ngọc Bích

12/03/2016

LTS.- Ngày 3-3-2016, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích từ trần trên chuyến bay tới Phi Luật Tân dự Hội Nghị về Biển Đông. Hôm nay, Thứ Bảy 12 tháng Ba, lễ tang được chính thức cử hành tại Virginia. Nhân dịp này, Việt Báo trân trọng giới thiệu một trong những bài viết sau cùng của Giáo sư  Bích, đề cập tới những diễn tiến tại đại học Cornell,  trong nỗ lực làm sáng tỏ sự thật về chiến tranh Việt Nam,  từ việc ông tham dự cuộc hội luận “Voice from the South Vietnam” năm 2012 tới việc tác giả “Giải Khăn Sô cho Huế” nói chuyện tại Cornell năm 2015. Giáo sư  Bích đã viết bài này vào đêm 16 tháng 12 năm 2015, dành riêng Việt Báo Tết Bính Thân. Khi bài tới, báo đã in xong. Nhờ vậy, đây là lần đầu tiên bài viết được phổ biến. Vào ngày tiễn đưa vị học giả một đời tận tụy với văn hóa lịch sử dân tộc, xin mời đọc bài viết nhiều tâm huyết của ông.

Hình ảnh ngày hội luận Cornell 2012 về Đệ Nhị Cộng Hòa VN trước Kehin Center tại Đại Học Cornell. Hàng thứ hai, người thứ nhất từ phải, người đầu bạc áo trắng cúi tựa lan can là Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích. Người đứng dưới GS Nguyễn Ngọc Bích là bình luận gia Trần Bình Nam, tức cựu dân biểu Trần Văn Sơn, vừa từ trần sáng Thứ Sáu 11-3-2016 ở Calif.

***

Hội-thảo “Những Tiếng Nói từ Miền Nam” (“Voices from the South”) ở Cornell University do Giáo sư Keith W. Taylor đứng ra mời và tổ-chức vào tháng 6 năm 2012.

Là một cựu-chiến-binh đã từng tham chiến tại Việt-nam, sau khi về Mỹ, ông Keith W. Taylor đã muốn tìm hiểu thêm về nước ta.  Ông học tiếng Việt, tiếng Hán, chữ nôm và đã viết cuốn sách rất giá trị trong tiếng Anh,The Birth of Vietnam  – “Việt Nam Khai Quốc”, do University of California Press in ra năm 1983- kể lịch-sử nước ta từ thuở lập quốc đến thế-kỷ X.  Gần đây nữa, năm 2013, ông lại có một cuốn sách để đời do Cambridge University Press ở Anh in ra mang tên A History of the Vietnamese (“Một cuốn sử về người Việt”).

Trong nhiều năm dạy ở Cornell, ông Taylor đã bị ảnh-hưởng không ít bởi lối trình bầy lịch-sử truyền-thống của chúng ta: rằng Việt-nam là một dân-tộc thống nhất với một lịch-sử tuyến-tính, kết thúc (làm như lịch-sử có kết thúc) bằng sự thống nhất dưới sự giầy xéo của xe tăng Nga vào Dinh Độc Lập ngày 30 tháng Tư 1975.  Nhưng rồi ông tỉnh ra rằng lịch-sử Việt-nam đã có nhiều giai-đoạn phân ly, chia cách.  Như ở thế-kỷ XVI đã một thời-gian dài nước ta có ba chính-quyền (nhà Mạc, nhà Lê với sự phò trợ của chúa Trịnh, rồi chúa Nguyễn ở miền Nam) hoặc giai-đoạn Trịnh-Nguyễn phân tranh (trên 200 năm), rồi sự tranh hùng giữa hai nhà Nguyễn (Nguyễn Tây-sơn và Nguyễn Gia-miêu, chưa kể là mấy anh em nhà Tây-sơn cũng chia nước ra làm ba) và nhất là Việt-nam sau Genève 1954.  Thành thử không thể thiên-vị phe này để gọi phe kia là “ngụy” được.

Chính vì thế mà cách đây ít năm ông đã viết một bài dài phân-tích, cho rằng lối trình bày cũ không sát thực-tế, là quá một chiều.  Từ đó ông nhìn lại lịch-sử Việt-nam cận-hiện-đại để thấy Miền Nam trong ít nhất 21 năm (1954-1975) đã thực-sự là một quốc gia được quốc-tế công-nhận rộng rãi (hơn rất xa miền Bắc CS trong nhiều lãnh-vực và trong nhiều nghĩa).  Từ đó ông nảy sinh ra ý-tưởng phải nghiên cứu một cách đứng đắn về Miền Nam, về hai nền Việt-nam Cộng-hòa.

Đó là lý-do vì sao ông, tức là Cornell University, là nơi đầu tiên trong các đại-học lớn ở Mỹ tìm cách mời một số diễn-giả mà đã có vai trò đáng kể trong những lãnh-vực như chính-trị, ngoại-giao, an-ninh quốc-phòng, kinh tế tài-chánh, thông tin tuyên-truyền thời Đệ nhị Cộng-hòa đến trình bầy cho khoảng 100 học-giả đến từ khắp nước Mỹ và cả một số nước khác (Pháp, Anh, Canada…) về những kinh-nghiệm xây dựng dân-chủ, qua một hiến-pháp (1967) tôn trọng tam quyền phân lập và những quyền căn-bản của người dân, qua một nền kinh tế tự do nhưng có điều tiết, khuyến khích phát triển nông-nghiệp và công-nghiệp, xuất khẩu, và đang trên đà bứt phá (takeoff).

Đến từ Chicago, Illinois, là Hoàng Đức Nhã, ông trình bầy về những nỗ lực xây dựng một nền dân-chủ ngay trong chiến-tranh.  Như các cuộc tranh cử có cạnh tranh, trong Quốc-hội có đối-lập, có khối này khối nọ.  Và ông Thiệu dám cưỡng lại tổng-thống Mỹ Nixon và ông Kissinger trong những ngày cuối của hòa-đàm Ba-lê khi thấy hiệp-định như Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa-thuận quá bất lợi cho miền Nam.

Ủng-hộ cho lập-luận của ông Hoàng Đức Nhã là ông tòa Phan Quang Tuệ, đến từ San Francisco, và ông Trần Văn Sơn, một cựu-sĩ-quan Hải-quân và một dân-biểu đối-lập, đến từ Phila.  Ông Sơn, một thành-viên trong khối đối-lập của Luật-sư Trần Văn Tuyên (29 dân-biểu, đa-phần thân Phật-giáo), cho biết là khối đối-lập của ông có tiếng nói rõ ràng trong Quốc-hội, được báo chí đưa tin đầy đủ và sự an-toàn cá-nhân của các thành-viên trong khối không bị đe dọa.  Tuy phút chót không đến được nhưng B.S. Mã Xái cũng đã gởi bài nói về sự “đóng góp của Đảng Tân Đại Việt vào việc xây dựng dân-chủ ở miền Nam.”

Sang lãnh-vực xây dựng quốc gia có bài thuyết-trình của cựu-tổng-trưởng Thương mại và Kỹ-nghệ Nguyễn Đức Cường đến từ San Jose.  Gốc kỹ-sư, ông Cường trình bầy bằng những con số thuyết-phục về các chương-trình do chính-quyền đưa ra thời đầu thập-kỷ 1970 để kìm lạm-phát (kinh tế thị-trường), phát triển đầu tư và công-kỹ-nghệ (như khu chế xuất Biên-hòa), tìm ra dầu hỏa v.v.  Riêng cựu-thứ-trưởng Cải cách Điền địa và Phát triển Nông-nghiệp Trần Quang Minh, đến từ Louisville, Kentucky, nói về chương-trình “Người cày có ruộng” (1970), thành công tới mức khi CS vào cũng không thay đổi gì được, cũng như chương-trình về thực-phẩm quốc gia, tất cả trong một khung-cảnh chiến-tranh toàn-diện trên toàn-quốc.

Về mặt an-ninh quốc-phòng thì có hai bài, một của Trung-tướng Lữ Lan đến từ Virginia nói về an-ninh diện-địa và một của Phó-đề-đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh Khu Duyên hải vùng I, tư lệnh trực-tiếp của hải-chiến Hoàng-sa 1974 và cũng là tác-giả cuốn Can trường trong chiến bại.  Ông đến từ Houston, Texas, và đã cho biết trong chi-tiết những diễn-biến của trận hải-chiến để đời này trong lịch-sử nước nhà, với những anh-hùng  như Ngụy Văn Thà và 71 đồng-đội hải-quân hy sinh trong trận chiến đó.

Ngoài ra, ông Phan Công Tâm thuộc Trung-ương Tình-báo mô-tả một số hoạt-động của ông ở Cao-miên cũng như sang tận Phi-châu mang con gái ông Bokassa sang nước Trung-Phi.

Riêng tôi nói về công-tác thông tin quốc-ngoại, không chỉ ở Sứ-quán VNCH tại Hoa-thịnh-đốn (1967-1971) mà còn trong thời-gian tôi làm Trung-tâm-trưởng Trung-tâm Dân-vụ (lo cho các nhà báo ngoại-quốc đến làm tin ở VN) và Cục-trưởng Cục Thông tin Quốc-ngoại, hơn một lần phụ-tá cho Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu để tiếp đón các nhà báo Tây-phương (như Oriana Fallaci, Patrice De Beer, v.v.) và thậm chí trong cả chuyến đi họp Thượng-đỉnh San Clemente với Tổng-thống Mỹ Nixon, sau đó đi diện kiến Đức Giáo-hoàng và trên đường về, ghé thăm Tổng-thống Phác Chánh Hy của Đại-Hàn và Tổng-thống Tưởng Giới-thạch ở Đài-loan (Trung-hoa Dân-quốc).

Cựu-Đại-sứ Bùi Diễm, đến từ Maryland, thì cho một cái nhìn tổng-quan về quan-hệ Việt-Mỹ, những ngộ-nhận đáng tiếc để sau đó dẫn đến những sai lầm trong chính-sách của Hoa-kỳ đối với VNCH.  Chuyến đi Cornell này còn để lại cho tôi một số ký-ức thật đẹp vì Đại-sứ Bùi Diễm, “boss” cũ của tôi ở Tòa Đại-sứ Washington, và chúng tôi đã hẹn gặp nhau ở phi-trường Rochester (với tôi bay thẳng từ Cali về) để sau đó tôi thuê xe lái qua vùng Finger Lakes (Mấy hồ thật đẹp có hình như mấy ngón của một bàn tay) leo núi xuống đồi đôi khi thật ngoạn mục qua vùng mấy vườn nho làm rượu vang trước khi đến trường Cornell.

Tóm lại, chuyến đi như một cuộc du ngoạn song cũng nhân cơ-hội đó mà 12 diễn-giả gốc từ miền Nam đã nói lên được một cách khá đầy đủ và dõng dạc về những thành-tựu rất đáng kể và đáng nể của VNCH, nhất là nền Đệ nhị Cộng-hòa, một quốc gia càng ngày càng chứng minh được nếp sống văn-minh và dân-chủ cao-độ so với miền Bắc u tối cùng thời.

Hội-luận Cornell, “Những Tiếng Nói từ Miền Nam,” đến quá muộn (37 năm sau khi mất miền Nam) nhưng vẫn là một “corrective” cần thiết đối với lịch-sử.  Và qua hội-luận đó, Giáo-sư Keith Taylor đã trả lại được phần nào sự thật cho lịch-sử–gần như “ở ngay trong lòng địch” vì cũng chính ở Cornell, chính khoa Đông-Nam-Á-học ở đây, đã là “lò phản-chiến” của Mỹ trong chiến-tranh VN với ông George McT. Kahin viết cùng với ông John W. Lewis cuốn “Thánh Kinh” của phong trào phản chiến Mỹ (và trên thế-giới), cuốn The United States in Vietnam (A Delta Book, 1967), một cuốn sách méo mó xuyên tạc khá tệ hại.

Sau hội-luận Cornell 2012, các bài tham-luận đã được in thành sách dưới tên VOICES from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975), K.W. Taylor, editor (Cornell Southeast Asia Program Publications, 2014). Năm nay, đánh dấu 40 năm ngày miền Nam bị đẩy vào cảnh sụp đổ,  ông Taylor lại đi thêm một bước nữa trong việc trả lại sự thật cho lịch-sử Việt-nam khi ông mời nhà văn Nhã Ca lên Cornell nói về sự thật Tết Mậu Thân tại Huế. Cuốn Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca đã được  Olga Dror dịch thành Mourning Headband for Hue (Indiana University Press, 2015).

Tiến sĩ Olga Dror là một nhân vật khá lạ.  Là người gốc Do Thái sinh tại Nga, bà nói lưu loát tiếng Việt và đã dịch cuốn sách của Nhã Ca sang tiếng Anh cũng không kém văn chương.  Trong quá-khứ bà đã từng nghiên cứu về folklore Việt-nam và viết được một cuốn sách rất giá trị mang tên Cult, Culture and Authority: Princess Liễu Hạnh in Vietnamese History (“Thờ phụng, Văn-hóa và Quyền-uy: Chúa Liễu Hạnh trong Lịch-sử VN,” University of Hawaii Press, 2007).  Để có thể dịch được cuốn của Nhã Ca, bà đã nghiên cứu và đào sâu về trận Mậu-thân ở Huế cũng như tìm cách xác-định về vụ thảm-sát Tết Mậu-thân ngoài đó.  Do đó mà cuốn sách có một phần dẫn nhập thật dài và chi-tiết (50 trang) trình bầy kiểu nói có sách mách có chứng tất cả những sự tranh cãi về trận Mậu-thân tại Huế, chẳng hạn như vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân, trong thời-gian Cộng-sản chiếm đóng Huế trong 23 ngày.  Chỉ riêng phần dẫn nhập này với đầy đủ cước-chú các nguồn tin cũng đủ đáng để cho ta mua cuốn sách rồi.

Tháng trước sang Cali để dự “Đại-nhạc-hội Việt-nam Cộng-hòa Trở Lại”, hôm ghé thăm Việt Báo gặp anh Trần Dạ Từ, anh bảo tôi: “Ông ơi, ông đã tham dự hội luận “Voices from the South” ở Cornell năm 2012 để lấy lại sự thật cho miền Nam, vậy thì ông phải viết về chuyến đó cho báo Tết năm nay!”

Như mọi khi, tôi hay có tật ừ.  Thế là…

Đồng Xuân, bang Trinh Nữ, Hoa Kỳ Quốc

Viết xong đêm 16 tháng 12, 2015

Nguyễn Ngọc Bích

“CHUYỆN ĐÒI TIỀN CHUỘC” TRONG DU LỊCH VIỆT NAM.

“CHUYỆN ĐÒI TIỀN CHUỘC”  TRONG DU LỊCH VIỆT NAM.

Phạm Chí Dũng 

Ngày 10/11/2015, lại thêm một chấn động về chủ nghĩa thực dụng đang tung hoành trong nền du lịch “đậm đà bản sắc dân tộc” ở Việt Nam: câu chuyện một phụ nữ Anh bị đòi tiền chuộc chiếc máy ảnh mà chị làm rơi ở Quảng Bình được tường thuật lại trên báo Anh Daily Mail. Ngay lập tức, bài báo này nhận được rất nhiều bình luận từ độc giả trên khắp thế giới. Rất nhiều ý kiến chê trách lòng tham của người Việt.

Nhiều độc giả tỏ ra hoàn toàn không hài lòng về Việt Nam bởi “một đất nước đầy rẫy trộm cắp” và nạn vòi tiền du khách diễn ra phổ biến, và nói sẽ không quay trở lại.

“Thật đáng buồn, du khách ở Việt Nam bị coi như những cây ATM di động”, độc giả có nickname “EvilPoppet” của Australia bình luận.

‘Những tên cướp biển Viking’

Transtroemer là một người đàn ông Thụy Điển gần năm chục tuổi, khuôn mặt với bộ râu quai nón nhộn nhạo luôn phảng phất vẻ hóm hỉnh. Vào lần thứ hai cùng gia đình du lịch đến Việt Nam, ông đã không còn được hưởng cái thú đi dạo yên bình như lần trước. Vợ ông, vốn quen phong cách phụ nữ Bắc Âu với cái túi xách trễ nải mà “không khép thật chặt khuỷu tay”, đã bị hai kẻ đi xe gắn máy lao lên lề đường giật mất cái túi. Vào lúc ấy, gia đình họ đang hớn hở tắm mình trong cái nắng nhiệt đới.

Cảnh tượng quá đỗi kỳ quái đó lại diễn ra ngay tại một trong những đường phố đẹp nhất ở trung tâm Sài Gòn.

Cả gia đình Transtroemer đứng như trời trồng, không hiểu chuyện gì xảy ra. Phải sau vài ngày và khi đã trấn tĩnh lại, ông mới buột ra: “Trước khi xin visa du lịch vào Việt Nam năm nay, tôi đã nghe sứ quán cảnh báo về nạn cướp giật. Bạn bè của tôi, những người đã ít nhất một lần đến Việt Nam, cũng cho những lời khuyên. Nhưng không ngờ ở đây lại bị cướp táo bạo đến thế. Không khác gì những tên cướp biển Viking…”.

Đúng là một ví von hóm hỉnh. Nhưng trong lúc ông khách du lịch Thụy Điển cố tỏ ra hài hước để trấn an những người bạn Việt, chính người bản xứ lại càng có lý do để chua xót.

Đã không chỉ một lần họ được nghe những người bạn nước ngoài than thở về câu chuyện tương tự. Cũng không chỉ một lần, bản thân họ hoặc bất cứ ai trong số họ đã chứng kiến người thân của mình bị trộm hoặc bị cướp trắng trợn ngay tại Thủ đô Hà Nội hay ở Sài Gòn.

Natalia Krupskaia, một nữ du khách Nga thường đến Hà Nội kết hợp với công việc kinh doanh cá hồi, còn ngạc nhiên một cách thành thật bởi một thành phố có bề dày “ngàn năm văn hiến”, nhưng lại “hở ra một cái là bị mất đồ ngay”. Với người đàn bà chịu học tiếng Việt này, thật khó hiểu là với tình hình an ninh như thế, hàng năm Việt Nam lại có thể đón tiếp đến trên 8 triệu khách du lịch nước ngoài – như một con số của ngành du lịch nước này công bố mà cô không mấy tin tưởng vào độ xác thực của nó.

Cũng đã từng vài lần đến Sài Gòn, tuy chưa lâm vào hoàn cảnh như gia đình Transtroemer, nhưng Natalia không thể không chú ý đến không khí căng thẳng luôn thường trực tại nhiều khách sạn tại khu trung tâm. Thậm chí qua báo chí Việt, Natalia còn biết là hàng năm có đến hai trăm rưỡi vụ cướp giật xảy ra tại các khách sạn trung tâm Sài Gòn, nhưng số vụ được cảnh sát phát hiện manh mối và truy bắt được thủ phạm lại hầu như không đáng kể.

Chỉ mới vào tháng 10/2015 ở Sài Gòn, một công dân Đức là Sepastian Gretz khi cùng bạn gái ra khu vực bờ kè kênh Tàu Hủ ngồi hóng mát, đã bất ngờ có một nhóm thanh niên xông đến dùng dao chém anh bị thương, sau đó lục túi cướp tiền và điện thoại di động, rồi tẩu thoát.

Nạn cướp giật du khách nước ngoài đã đẩy lên mức độ “chém trước cướp sau”.

Thế thì làm sao mỗi năm thành phố này có thể thu hút đến ba triệu rưởi khách du lịch nước ngoài – điều được các quan chức và doanh nghiệp du lịch Sài Gòn cho là “cứu cánh” mà có thể mang lại doanh thu đến 49.000 tỷ đồng?

Điều đáng nói là ngày càng có nhiều khách du lịch nước ngoài am hiểu về mặt trái xã hội đương đại ở Việt Nam. Cái được gọi là “văn hóa bún mắng cháo chửi” ở Hà Nội cũng đã được người ta biết đến không chỉ như một câu chuyện bông đùa.

‘Ghét Việt Nam’

Một nữ Việt kiều là chị Phương Thảo, sau nhiều lần trở về quê hương, đã buồn bã và chua chát: Việt Nam có gì để tự hào?

Chỉ cần gõ lên trạng mạng tra cứu dòng chữ “tôi không bao giờ quay trở lại Việt Nam” sẽ thấy rất nhiều bài báo hay các blog được liệt kê. Những bài này do các blogger chuyên về du lịch viết và được đăng trên các trang chuyên mục về du lịch nổi tiếng có nhiều người theo dõi. Một trong những người đó có thể kể đến Nomadic Matt, Derek4real hay thậm chí trên diễn đàn của Tripadvisor- một trang mạng chuyên cho lời khuyên đến du khách – cũng có riêng một mục nói đến những trải nghiệm xấu ở Việt Nam.

Cũng có đây đó các ý kiến phản biện, cho rằng họ có phần hơi phiến diện, nhưng điều đáng buồn là số người đồng ý không hề nhỏ, và họ còn nói rằng họ ghét Việt Nam. Không phải họ ghét người Việt mà chỉ vì ghét những gì đã phải trải qua và chứng kiến. Điều đáng buồn là những nhận xét này không thay đổi theo thời gian (tính từ năm 2003 cho đến 2014).

Điều mà ai cũng nói đến – đó là sự thiếu trung thực, hay nói thẳng ra là nói dối và lừa đảo. Ở đâu cũng có người này người kia, ở đâu cũng có vấn nạn lừa đảo du khách, song mức độ lừa đảo và nói dối ở Việt Nam đã lên hàng đầu. Du khách bị lừa ngay khi từ sân bay hay bến xe bước chân lên taxi. Sự thiếu trung thực còn thể hiện ở việc du khách nước ngoài luôn phải trả giá cao hơn người Việt Nam gấp nhiều lần. Nhiều người cho rằng trả số tiền như vậy vẫn rẻ hơn so với nơi họ đang sống, nhưng cảm giác bị đối xử như vậy làm cho họ cảm thấy không được tôn trọng.

Nhiều người Việt cho rằng Tây phải bị chặt chém là chuyện thường và thậm chí còn cho rằng Tây là những con “lợn béo”. Có thể Tây không hiểu được tiếng Việt, nhưng họ có óc quan sát và họ thừa biết họ phải móc nhiều tiền hầu bao để trả cho cùng một món hàng. Những ví dụ cụ thể được đưa ra với cả số tiền họ phải trả cho dịch vụ không đáng có từ việc vá vỏ xe, hay kéo xe bị thủng lốp đi đến chỗ vá, cho đến việc mua trái cây hay một lon nước ngọt, hay cả việc không có tiền thối lại hoặc thối lại tiền thừa không đúng, hay đến việc bị ép phải cho tiền phí phụ vụ. Câu kết luận được buông ra ở đây là người Việt tham lam và thiếu trung thực.

Trong số 7,874 triệu du khách đến Việt Nam, chỉ có 6% ít ỏi trong số du khách này hàng hài lòng với dịch vụ họ đã sử dụng.
6%!

Cũng chỉ 6% du khách nước ngoài cho biết sẽ quay trở lại Việt Nam lần hai. Tỷ lệ cực thấp này được chứng minh bởi báo cáo của Dự án Chương trình phát triển năng lực du lịch có trách nhiệm với môi trường xã hội do Liên minh Châu Âu tài trợ, khi thực hiện trưng cầu ý kiến của 3.000 du khách nước ngoài ở 5 điểm du lịch chính là Sa Pa, Hạ Long, Huế, Đà Nẵng và Hội An.

Làm giá – chặt chém, giao thông hỗn loạn, ăn xin, ăn cắp vặt và vệ sinh an toàn thực phẩm là những điều đáng sợ với du khách khi đến Việt Nam.

Chỉ đến gần đây, một quan chức cao cấp của Việt Nam là Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chợt than thở: “Nhìn sang Thái Lan, Malaysia, họ có 27 – 30 triệu khách/năm; Singapore cũng có 15 – 16 triệu khách. Thu nhập từ khách du lịch của Thái Lan một năm cũng 50 – 60 tỉ USD. Mình chỉ được khoảng 10 tỉ USD, khách được khoảng 8 triệu. Bây giờ đặt ra những vấn đề gì?”.

Giải phóng hay ăn cướp?

Giải phóng hay ăn cướp?

Nguyên Thạch (Danlambao) – Đảng CSVN đã cướp miền Nam dưới mỹ từ giải phóng để từ đó biến miền Nam trở thành nghèo nàn lạc hậu giống với miền Bắc và đưa Việt Nam vào ngang hàng với những nước nghèo đói nhất thế giới. Ông Hồ Chí Minh đã không lường được rằng chính cái từ CUỚP chính quyền mà ông sử dụng, nó đã trở thành những phương thức, những “tư duy” cho đảng cộng sản cùng lớp hậu duệ học hỏi và noi theo để gọi là noi gương đạo đức Hồ Chí Minh. Quả vậy, đảng CSVN cùng những thành viên của nó là một đảng CƯỚP và những tên CƯỚP đúng nghĩa.

*

Tựa bài dưới dạng một câu hỏi nhưng thực chất đó là một câu khẳng định vì người cộng sản thường hay mụ mị che giấu những hành vi ăn cướp của chúng bằng những mỹ từ để khỏa lấp hành động xấu xa đáng khinh tởm.

Tập thể Quân Dân Cán Chính thuộc Việt Nam Cộng Hòa thường gọi cộng sản Bắc Việt là: Quân xâm lược, Quân xâm lăng, tệ hơn chút là Quân cướp nước hoặc Bọn cộng nô. Những cách nói ấy thường bị đối phương phê phán và cho rằng đó là biểu hiện của sự thù hận đầy xuyên tạc và bôi bác.

Để giải thích vấn đề một cách xác thật và khách quan hơn, chúng ta hãy nghe chính con người của bên kia chiến tuyến mà tiêu biểu là một vài nhân vật sau đây:

1- Nữ Nhà văn Dương Thu Hương người đã từng phục vụ cho chế độ cộng sản, “thuộc thế hệ xẻ Trường Sơn đánh Mỹ” đã có lần công khai bày tỏ rằng, tháng Tư năm 1975, khi từ Hà Nội tiến vào thành phố cùng đoàn quân “giải phóng”, bà đã ngồi trên lề đường của Sài Gòn ôm mặt khóc:

“Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Ðó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Ðó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.”

2- Trung tướng Trần Độ: “Thực chất là chế độ thì rất dã man, cho nên phải dùng nhiều thủ đoạn để lừa bịp nhân dân,”

“Chế độ cộng sản như một sự kết hợp giữa cái ngu muội của Tần Thủy Hoàng với cái dã man của chế độ phát-xít Hitler”.

Và từ đó ông cũng đã yêu cầu

“Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng, trừ bỏ “hiệp thương” mà thực chất là gò ép”.

Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch toàn bộ tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều… Nó đang làm hại cả một nòi giống.”

Ăn cướp như thế nào và tại sao cộng sản Bắc Việt phải đi ăn cướp?. Để giải đáp cho những câu hỏi này, chúng ta hãy đi tìm nguyên nhân.

1- Miền Bắc trước 1975. Có quá nhiều tài liệu, sách vở, hình ảnh, thơ văn, chuyện kể về miền Bắc trước 75 qua các nhân vật sống mà phạm vi của một bài viết nhỏ bé không thể nào liệt kê ra hết được. Lớp người lớn tuổi thì đã mục kích qua thực tế cuộc sống, lớp người nhỏ tuổi hơn sinh sau 75 thì nghe lớp người đi trước kể lại hoặc cũng có thể nhìn thấy xã hội miền Bắc vào những đầu thập niên của 1975 – 1985 cái thời kỳ mà cả nước ăn chung một món canh “toàn quốc” (toàn nước) và toàn dân muốn tự tử tập thể. Lớp sinh sau vào những thập niên gần đây thì có thể tìm hiểu qua tiện ích của nền tin học mà nguồn cung cấp thông tin vô cùng phong phú.

Những câu chuyện và những hình ảnh tàn ác mà đảng cộng sản đã áp dụng trên miền Bắc, nổi bậc nhất là phải nói đến cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1953 – 1956 đã giết 172.008 người là con số có thể gần với sự thật nhát. Tuy nhiên, theo Hoàng Văn Chí thì con số đã lên đến 675.000 người đã chết (1). Tà sách này đã là những ảnh hưởng cực kỳ ghê gớm đến đời sống của miền Bắc nói riêng và VN nói chung cho xã hội, phong tục tập quán, đạo lý truyền thống tốt đẹp lâu đời mà dân tộc có được và sự ảnh hưởng ấy vẫn còn kéo dài cho mãi đến tận ngày hôm nay, một xã hội ăn gian nói dối không hề biết ngượng miệng, đạo lý suy đồi cùng cực, cướp giựt hoành hành, con người ta sẵn sàng giẫm lên nhau để tranh giành sự tồn tại. cho dẫu sự tồn tại trong một CƠ CHẾ đầy BẤT CÔNG và NGHỊCH LÝ.

Cải Cách Ruộng Đất 1953-1956

Cải Cách Ruộng Đất và những giọt nước mắt cá sấu

Nói chung xã hội miền Bắc là một xã hội rất nghèo nàn lạc hậu mà nguyên nhân của mọi nguyên nhân là do ông Hồ đã du nhập một chủ thuyết hoang đường vào miền Bắc của Việt Nam thời bấy giờ để áp dụng và tập tành thực hiện những bước tiến của Chủ Nghĩa Xã Hội lấy kinh tế tập trung được chỉ đạo bởi đảng và nhà nước trong mô hình quốc hữu hóa, hợp tác xã và chế độ tem phiếu để cung cấp đến toàn hệ thống xã hội mà chúng ta có thể mường tượng ra hình ảnh của một xã hội qua 2 câu ca dao sau đây:

Một năm 2 thước vải thô

Em mặc không đủ, Bác Hồ lòi ra.

Một xã hội mà người phải thay trâu đi cày, đi chợ phải giấu thức ăn ngon dưới đáy rổ, đám cưới đám hỏi hay tiệc tùng giỗ ông bà muốn thịt con gà phải chờ tới nửa đêm mới dám vặn cổ nó cho thật nhanh, kẻo không nhỡ nó la thì người hàng xóm đi khai khai báo với ông tổ trưởng khu phố thì cũng bỏ mẹ, vặn cổ con gà xong tới khi trụng nhổ lông thì phải lén đi chôn lông, kẻo bị phát hiện được thì cũng chết chắc. Những mẩu truyện về sự bưng bít độc tài của đảng, cáo nghèo, cái khổ của xã hội miền Bắc mà những người đã từng chứng kiến hoặc am hiểu về nó, có thể bổ sung thêm để cho kho tàng dữ liệu càng thêm đầy đủ.

Trong đời thường, chúng ta thường nghe những bày tỏ về cảm xúc về những thứ gì rẻ và thối “rẻ như bèo, thối như cức”, thế nhưng ở miền Bắc lúc bấy giờ bèo cũng không rẻ và cức cũng rất quí. Xin xem bài viết “Nợ cứt” của tác giả Phạm Thế Việt (3)

2- Miền Nam trước 1975. Sau Hiệp định hiệp định genève năm 1954 chia đôi đất nước, miền Bắc theo chế độ XHCN, miền Nam theo chế độ tự do. Sự nổi bật nhất ở giai đoạn này là hình ảnh của số lượng khoảng 600.000 đến một triệu người miền Bắc di cư vào Nam,[5] trong khi đó 14.000–45.000 cư dân và 100.000 binh sĩ Việt Minh tập kết ra miền Bắc. (4). Con số khác biệt quá lớn này đã nói lên ý nguyện của người dân mong muốn được sống ở thể chế nào vào thời đó, còn ở thời điểm 2016 này, nếu có một Hiệp định tương tự như vậy thì có lẽ trên 40 triệu người miền Bắc sẽ di cư vào Nam và chọn thể chế Tự Do để mà sống. Sau một thời gian dài hơn 70 năm, người ta đã quá hiểu cộng sản là như thế nào và họ sẽ có thái độ dứt khoát, nghĩa là không bao giờ chấp nhận cộng sản.

Miền Nam Việt Nam qua 2 nền Đệ nhất và Đệ nhị cộng hòa, người dân đã được sống trong một chế độ đầy Tự Do và Nhân Bản với sự phát triển đầy hài hòa mặc dù vẫn luôn bị miền Bắc tấn công. Xã hội miền Nam mang đầy tính văn minh vì không theo một chủ thuyết cực đoan, sự tư hữu đã làm cho con người luôn cố gắng và năng động… đó là lý do miền Nam đã phát triển về nhiều mặt mà trong đó công nghệ sản xuất cung ứng gần đầy đủ để phục vụ cuộc sống. Chẳng những thế, miền Nam còn có khả năng phát triển về những công nghệ tiên tiến khiến Việt Nam Cộng Hòa đã vượt trội các nước trong khu vực Đông Nam Á Châu và tiến xa hơn cả Trung cộng. Hãy đơn cử một vài ví dụ trong thập niên 1960: Lý Quang Diệu từng mơ ước: Singapor một ngày nào đó sẽ được như Sài Gòn.

La Dalat trên đường phố Sài Gòn

Còn các nước láng giềng như Nam Dương, Thái Lan, Campuchia, Lào, Miến Điện thì không thể nào so sánh. Thế mà sau 40 năm dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng CSVN quang vinh, Việt Nam giờ đây lẹt đẹt chạy theo ngửi khói các quốc gia này!.

Một thể chế mà người dân có cuộc sống ấm êm đầy hạnh phúc, trai không phải đi lao nô, gái không phải đi đánh đĩ xứ người. Một chế độ mà không ai muốn bỏ chạy trốn quê hương đất nước của mình cả.

1975 sau khi cướp được miền Nam, như vô số người đã nhìn thấy người Bắc 75 đã rất tích cực trong phong trào 4 V (Vào vơ vét về), họ vơ vét từng cái đồng hồ, từng chiếc xe đạp, từng chiếc radio cho đến vàng bạc của cải và chiếm hữu bao nhiêu công xưởng, cơ sở sản xuất, tài sản nhà cửa, biệt thự… và dùng tiêu chuẩn lý lịch để cưỡng bức và cai trị.

Đảng CSVN thực chất chỉ là là một lũ ăn hại không hơn không kém, đây là tập hợp của rất nhiều tên bất tài vô tâm luôn mị dân với chiêu bài vì dân vì nước, vì sự công bằng và hạnh phúc nhưng trên thực tế đảng chẳng vì dân vì nước gì cả mà chỉ vì đảng là truớc nhất, điều 4 Hiến Pháp đã khẳng định điều đó. Chúng lại càng chẳng phải vì sự công bằng hay hạnh phúc của toàn dân vì tự CƠ CHẾ của chúng tạo ra vốn dĩ đã là BẤT CÔNG, chúng bỏ công sức để giành lấy hạnh phúc, tiền tài của cải cho bọn chúng là chính, ngoài ra dân chết mặc dân mà trên thực tế của xã hội VN hôm nay đã chứng minh một cách rõ nét nhất.

Đức Dalai Lama

Đảng cộng sản không tạo ra của cải cho xã hội. không phát minh hoặc sản xuất được bất cứ phần cứng phần mềm gì cho công nghệ, không sản xuất được xe hơi, vật dụng để phục vụ cho nhu cầu dân sinh mà ngược lại đảng chỉ là một đám quái đảng tự cho mình cái quyền ăn trên ngồi trốc, nắm đầu bàng dân để mà cai trị, để mà ra nghị quyết, nghị định mang đầy tính phá bỉnh đầy xuẩn ngốc. Chúng bày đủ thứ trò để tiêu xài ngân quỹ quốc gia, tụ tập bầy đàn băng đảng mánh mung, chúng vẽ vời nhiều cách để có dịp bòn tỉa rút ruột để làm giàu trên công lao và xương máu của nhân dân. Tóm lại đảng CSVN chỉ là một lũ vô tích sự, phá nhiều hơn xây cho nên đất nước mới lâm vào cảnh nợ nần, nghèo đói và tụt hậu. Chúng là những bầy chuột hôi tanh nhơ nhớp, tàn phá đất nước một cách kinh khủng bởi vì chúng quá đông.

Rồi đây nhằm mục đích Hán hóa, Thiên triều phương Bắc sẽ cho tiến hành mạnh hơn nữa về thể chế CÔN AN TRỊ và Việt Nam cũng sẽ như là Tân Cương, Nội Mông hay Tây Tạng mà tầng lớp tôi tớ đảng CSVN sẽ được giàu có một cách bất chánh, nhưng những tên tham quan này có biết rằng trong lầu son gác tía kia, từng viên gạch tự nó đã được đúc bằng xương thịt của bao triệu dân nghèo, nước sơn của những lâu đài hoàng tráng đã được pha trộn bởi màu máu và nước mắt của bao dân oan nghiệt ngả, những cổ xe hơi đắt tiền sang trọng có mùi mồ hôi cùng nước mắt của tầng lớp công nông dân vất vả chắt chiu từng hơi tàn sức kiệt, của những cụ già đói rét rau muối, của những em thơ dãi nắng dầm mưa lang thang đi bán vé số trên từng cây số của quê hương. Sự khắc khoải đợi chờ trong dồn nén bực tức của hơn 90 triệu tù nhân trong một nhà tù vĩ đại đã nung lên một bầu không khí ngột ngạt hận thù, sức bộc phá ấy rồi một ngày không xa sẽ như những trận cuồng phong, những đợt sóng nhầm cuồn cuộn trào dâng để cuốn trôi đi những tên bán nước hại dân để gom chúng trở lại đúng chỗ của rác rưởi hôi tanh trùng độc.

Ngẫm cho cùng, trong thời đại tiến bộ hôm nay thuyết quả báo vẫn còn ứng nghiệm. Cho nên những tham quan mà nhất là ngành CÔN AN nên chuẩn bị tinh thần để nhận lãnh sự trừng phạt từ những hành động vô nhân, hung ác mà lưới Trời đã lồng lộng bủa giăng một cách nhiệm mầu.

Tuy nhiên, việc Tàu cộng muốn, những tên tay sai như Nguyễn Phú Trọng, Hoàng Trung Hải, Nguyễn Xuân Phúc, Trần Đại Ngu muốn đó là chuyện của chúng còn được hay không là chuyện của Trời. Cho nên toàn Dân Tộc hãy mau thức tỉnh và vùng dậy là những việc phải làm ngay.

Đảng CSVN đã cướp miền Nam dưới mỹ từ giải phóng để từ đó biến miền Nam trở thành nghèo nàn lạc hậu giống với miền Bắc và đưa Việt Nam vào ngang hàng với những nước nghèo đói nhất thế giới. Ông Hồ Chí Minh đã không lường được rằng chính cái từ CUỚP chính quyền mà ông sử dụng, nó đã trở thành những phương thức, những “tư duy” cho đảng cộng sản cùng lớp hậu duệ học hỏi và noi theo để gọi là noi gương đạo đức Hồ Chí Minh. Quả vậy, đảng CSVN cùng những thành viên của nó là một đảng CƯỚP và những tên CƯỚP đúng nghĩa.

Nguyên Thạch

danlambaovn.blogspot.com

Ghi chú:

Tôi thiết tha đề nghị VN đổi chính sách’

Tôi thiết tha đề nghị VN đổi chính sách’

  • BBC      
  • GS. Nguyễn Khắc Nhẫn
  • Nguyễn Khắc Nhẫn ‘thiết tha’ đề nghị chính phủ Việt Nam thay đổi chiến lược về năng lượng, năng lượng hạt nhân, trước tình hình biến đổi khí hậu.

Trước diễn biến biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp ở Việt Nam, nhân 5 năm đánh dấu thảm họa sóng thần và nhà máy điện hạt nhân Fukushima, một chuyên gia về chiến lược năng lượng từ Pháp ‘thiết tha’ đề nghị chính phủ Việt Nam thay đổi chiến lược năng lượng, đặc biệt là năng lượng hạt nhân.

“Tôi rất buồn vì thảm họa Fukushima không lay chuyển quyết định của Chính phủ Việt Nam: một hai vẫn muốn làm điện hạt nhân. Thật là sai lầm khi cho rằng hạt nhân có thể cứu được trái đất khỏi sự nóng lên của thời tiết,” đó là quan điểm của Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, chuyên gia về chiến lượng năng lượng, cựu cố vấn của hãng Năng lượng Quốc gia Pháp (EDF) và nguyên Giáo sư Đại học Bách khoa Grenoble.

Mời qu‎ý vị theo dõi toàn văn cuộc phỏng vấn của BBC với chuyên gia năng lượng sau đây.

BBC: Tại Hội thảo về chiến lược năng lượng cho Việt Nam tại Đại học Bách khoa Grenoble mới đây, sau Hội nghị Thượng đỉnh Quốc tế về Biến đổi khí hậu COP21, Giáo sư đã có những kiến nghị cụ thể gì?

“ Tôi đề nghị ba kế hoạch căn bản. Đó là khai thác và đầu tư mạnh vào năng lượng tái tạo, triệt để tiết kiệm năng lượng ở mọi lĩnh vực, khuyến khích việc nâng cao hiệu suất năng lượng.

Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn “                   

Nguyễn Khắc Nhẫn: Tôi đề nghị ba kế hoạch căn bản. Đó là khai thác và đầu tư mạnh vào năng lượng tái tạo, triệt để tiết kiệm năng lượng ở mọi lĩnh vực, khuyến khích việc nâng cao hiệu suất năng lượng.

Muốn thành công, Việt Nam cần thành lập Bộ Năng lượng tái tạo (như ở Ấn Độ), tăng cường hỗ trợ năng lượng tái tạo, đơn giản hóa thủ tục hành chính để đẩy nhanh thời gian thực hiện các dự án, giảm tỷ số đàn hồi (coefficient d’élasticité), chống lãng phí, triển khai các dự án thí điểm về cộng đồng dân cư năng lượng sạch, không lãng phí, không rác thải, phát triển giao thông sạch và đào tạo đội ngũ cán bộ.

Làm gì để giảm nhẹ?

BBC: Việt Nam đang trải qua đợt hạn hán ở nhiều tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên, ngập mặn và xâm nhập mặn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước, theo Giáo sư Việt Nam có thể làm gì để giảm nhẹ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu?

Nguyễn Khắc Nhẫn: Việt Nam là một quốc gia đối mặt với nguy cơ cao. Việt Nam xếp hạng thứ 26, nằm trong nhóm các nước có nguy cơ đặc biệt lớn. Những rủi ro cho Việt Nam cũng như các nước châu Á gồm bão ngày càng lớn và thường xuyên hơn, ngập lụt tăng cao do nước biển và sóng, lở đất do tan băng ở Himalaya, xói mòn, tài nguyên nước và dự trữ nước mềm giảm, mực nước biển tăng, ngập úng, mặn hóa, hiệu suất nông nghiệp giảm, đói kém, tử vong tăng, các bệnh tiêu chảy, dịch tả lan tràn do nhiệt độ tăng.

Ta hiểu tại sao phái đoàn Việt Nam, cũng như nhiều nước có nguy cơ lớn bị ảnh hưởng, tại COP21 đã đề nghị giảm ngưỡng từ 2°C xuống 1,5°C. Ngay trước ngày khai mạc Hội nghị ở Paris, Việt Nam đã quyết định ngày 25/11/2015, giảm lượng khí thải CO2, so với mức bình thường theo kế hoạch sau: 5% vào năm 2020, 25% năm 2030 và khoảng 45% năm 2050.

Khả năng thích ứng của Việt Nam thấp, do thiếu quyết tâm chính trị và tài chính. Những công việc đồ sộ cần thực hiện không được chậm trễ như : rà soát lại quy hoạch đô thị và kế hoạch phòng chống, xây dựng lại cầu đường và nhà cửa, bảo vệ các công trình, làm sạch hệ thống dẫn nước, bảo vệ các đê, đập, di chuyển dân cư… Đừng quên rằng nông nghiệp là nguồn sản xuất metan lớn (40 lần nguy hiểm hơn CO2). Các súc vật chăn thả gặm cỏ, đồng lúa, phân, và cây cỏ lên men cũng thải ra khí metan.

Cũng như các nước khác trên thế giới, Việt Nam phải xây dựng gấp rút nền kinh tế ít carbon. Nếu chúng ta càng trì hoãn, càng khó cho việc đối đầu với các đe dọa và thiệt hại sẽ lớn hơn, khó xử lý hơn. Tất nhiên, đó là một thách đố trường kỳ.

Không lay chuyển quyết định

BBC: Năm nay, Nhật Bản đánh dấu tròn 5 năm thảm họa sóng thần và sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima, Việt Nam học được gì từ thảm họa này và theo Giáo sư, chương trình điện hạt nhân của Việt Nam có gì mới trước tình hình và xu hướng tới đây của biến đổi khí hậu?

“ Tôi rất buồn vì thảm họa Fukushima không lay chuyển quyết định của Chính phủ Việt Nam: một hai vẫn muốn làm điện hạt nhân. Thật là sai lầm khi cho rằng hạt nhân có thể cứu được trái đất khỏi sự nóng lên của thời tiết.          Nguyễn Khắc Nhẫn “

Nguyễn Khắc Nhẫn: 5 năm sau thảm họa, nhà máy Fukushima, với 8.000 nhân công (kĩ sư, chuyên gia, kĩ thuật viên) liên tục thay phiên nhau, vẫn còn là một công trường ngổn ngang với phóng xạ mạnh.

Bên ngoài, trên một diện tích rộng hơn 1.000 km2 bị ô nhiễm, hàng ngàn công nhân, kể cả SDF, bất kể nguy hiểm đã làm công việc khử nhiễm, cùng với 1000 công ty. Chi phí cho quá trình này ước tính chừng 25 tỷ euro. Đây chỉ là bước đầu vì chất phóng xạ (césium 134 và 137, strontium 90) đã ảnh hưởng 24 000 km2 trong những ngày đầu tiên của thảm họa.

Sự ô nhiễm lan đến phía nam, vùng Tokyo và đến 250 km về phía bắc. Cựu thủ tướng Naoto Kan, đương chức lúc xảy ra sóng thần, đã cho biết : thảm họa đã suýt khiến phải di tản 30 triệu dân vùng Tokyo, điều này có thể gây suy sụp quốc gia!

Tôi rất buồn vì thảm họa Fukushima không lay chuyển quyết định của Chính phủ Việt Nam: một hai vẫn muốn làm điện hạt nhân. Thật là sai lầm khi cho rằng hạt nhân có thể cứu được trái đất khỏi sự nóng lên của thời tiết. Thực ra, hạt nhân, trên đà suy thoái ngay cả trước thảm họa Fukushima, chỉ còn chiếm 11,7% tổng năng lượng điện thế giới (67,9% từ than, dầu mỏ, khí đốt – 16,3% thủy điện – 4,1% năng lượng mặt trời, gió, sinh khối). So với năng lượng sơ cấp toàn cầu, nó chỉ chiếm khoảng 5%.

Chuyên gia đề nghị Việt Nam hủy bỏ gấp chương trình hạt nhân 5 năm sau sự cố sóng thần và cháy lò phản ứng hạt nhân ở Fukushima, Nhật Bản.

Khác với những lời tuyên truyền không đúng sự thật, lượng khí CO2 thải ra trong toàn bộ các khâu của quá trình hạt nhân không phải thấp! Từ đầu đến cuối: khai thác mỏ, vận chuyển Uranium từ nước ngoài đến tận nhà máy chế biến, tạo ra vật liệu với các thành phần khác nhau, công trường xây dựng của nhà máy (xi măng, thép), chu kì của nhiên liệu, khai thác, tháo gỡ, tái xử lý, quản lý chất thải… Tổng lượng carbon khó mà bỏ qua được!

Vì sự sống còn

Điện hạt nhân quá nguy hiểm và bắt đầu đắt hơn các nguồn điện khác, kể cả năng lượng tái tạo. Trong thời gian COP21, sử gia về khoa học của Hoa Kì, Naomi Oreskes, khẳng định nhiều nghiên cứu uy tín đã chỉ ra rằng có thể thực hiện được một nền kinh tế không carbon và không hạt nhân, bằng cách tập trung vào gió, mặt trời, thủy điện, kết hợp với việc kết nối tất cả các lưới điện, với hiệu quả năng lượng và với quản lý nhu cầu hiệu quả.

“ Vì sự sống còn của đất nước mến yêu, một lần nữa, tôi thiết tha trân trọng yêu cầu chính phủ Việt Nam hủy bỏ gấp chương trình điện hạt nhân .             

Nguyễn Khắc Nhẫn “

Dù sao, năm 2030, phần hạt nhân sẽ chỉ đóng góp tối đa là 10% lượng điện của Việt Nam. Con số này nhỏ hơn nhiều so với số tỷ kWh lãng phí ở Việt Nam. Việc tiết kiệm năng lượng không gây nguy hiểm gì và chi phí nhỏ hơn nhiều so với việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

Hàng chục và sau này sẽ là hàng trăm tỷ đô la đầu tư cho hạt nhân sẽ có hiệu quả kinh tế và xã hội lớn hơn nếu được dùng cho việc thích nghi với biến đổi khí hậu và phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo của Việt Nam.

Không nên quên rằng khoảng thời gian từ khi lò phản ứng dân sự đầu tiên đưa vào hoạt động vào năm 1951 ở Mỹ đến thảm họa Fukushima ngày 11/3/2011 chỉ có 60 năm. Trong khoảng thời gian này, nhân loại chứng kiến 5 lần chảy tâm lò: 1 tại Three Miles Island, 1 tại Tchernobyl, 3 tại Fukushima. Trung bình, cứ 12 năm xảy ra một lần chảy tâm lò.

Vì sự sống còn của đất nước mến yêu, một lần nữa, tôi thiết tha trân trọng yêu cầu chính phủ Việt Nam hủy bỏ gấp chương trình điện hạt nhân.

Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn nguyên là Giám đốc Trường Cao đẳng Điện học và Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ (hiện là Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh), Cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris, Giáo sư Trường Đại học Bách khoa Grenoble và Viện kinh tế và chính sách năng lượng Grenoble.

AI CHỊU TRÁCH NHIỆM TRONG VIỆC IM LẶNG TRƯỚC HẢI CHIẾN HOÀNG SA – CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC – TRẬN CHIẾN GẠC MA?

AI CHỊU TRÁCH NHIỆM TRONG VIỆC IM LẶNG TRƯỚC HẢI CHIẾN HOÀNG SA – CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC – TRẬN CHIẾN GẠC MA?

Khi đó thì ông Phó chủ tịch Hội sưu tầm và nghiên cứu gốm sứ Singapore nói rằng: “Tôi toàn đọc sách, tài liệu, xem phim ảnh do Trung Quốc xuất bản, khẳng định rằng hai quần đảo đó là của Trung Quốc từ nghìn đời nay. Việt Nam nói các quần đảo này là của Việt Nam sao không xuất bản các cuốn sách bằng tiếng Hoa, tiếng Anh… để công bố cho thế giới biết về điều này?”.

____

Trần Đức Anh Sơn

NGƯỜI NƯỚC HUỆ

13-3-2016

Tháng 7/2013, tôi sang Singapore để thực hiện một số cuộc phỏng vấn các học giả chuyên nghiên cứu về tranh chấp trên Biển Đông tại Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (ASEAN Studies Centre) cho bộ phim tài liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) thực hiện. Sau giờ làm việc, tôi được Alex Giang, một người bạn Hà Nội đang làm luận án tiến sĩ ở ĐHQG Singapore mời đi uống trà và nói chuyện về gốm sứ cổ với ông Phó chủ tịch Hội sưu tầm và nghiên cứu gốm sứ Singapore.

Qua trò chuyện, khi biết mục đích chính của tôi đến Singapore là để phỏng vấn các học giả ở Singapore về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, ông Phó chủ tịch Hội sưu tầm và nghiên cứu gốm sứ Singapore nói: “Paracels (Hoàng Sa) và Spratlys (Trường Sa) là những hòn đảo của Trung Quốc, Việt Nam tranh với Trung Quốc làm gì và làm sao mà tranh được!”.

Tôi phải mất gần 15 phút để giải thích, đưa dẫn chứng và tranh luận với ông là Trung Quốc đã xâm lược, và chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và một số thực thể trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Khi đó thì ông Phó chủ tịch Hội sưu tầm và nghiên cứu gốm sứ Singapore nói rằng: “Tôi toàn đọc sách, tài liệu, xem phim ảnh do Trung Quốc xuất bản, khẳng định rằng hai quần đảo đó là của Trung Quốc từ nghìn đời nay. Việt Nam nói các quần đảo này là của Việt Nam sao không xuất bản các cuốn sách bằng tiếng Hoa, tiếng Anh… để công bố cho thế giới biết về điều này?”.

Tôi nói: “Đó là sai lầm của Việt Nam. Vì thế, hiện nay chúng tôi đang khắc phục điều này bằng cách nghiên cứu, xuất bản và công bố ra quốc tế những cuốn sách, bộ phim tư liệu về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bộ phim mà chúng tôi đang thực hiện tại Singapore hôm nay là một nỗ lực để sửa chữa sai lầm đó”.

Tháng 6/2015, bộ phim BIỂN ĐẢO VIỆT NAM – NGUỒN CỘI TỰ BAO ĐỜI (5 tập) do HTV thực hiện từ đầu năm 2013, đã hoàn thành và đã được phát trên sóng của HTV, sau khi vượt qua nhiều gian truân, trắc trở.

Bộ phim cũng đã được nhiều đài truyền hình khác ở Việt Nam phát lại, được đưa lên Youtube và được nhiều webpage khác dẫn lại [như link này (đủ cả 5 tập)].

Tháng 9/2015, phiên bản tiếng Anh của bộ phim này được phát trên Youtube, thu hút hàng ngàn lượt người xem links tại đây:

https://www.youtube.com/watch?v=gTfnz7TSedk (tập 1);

https://www.youtube.com/watch?v=Cu00mR9X_NE (tập 2);

https://www.youtube.com/watch?v=i93hfKUrZP0 (tập 3);

https://www.youtube.com/watch?v=XYFCshLoEDY (tập 4);

https://www.youtube.com/watch?v=B22KfiCfDcU (tập 5)

Và, đến tháng 3/2016, phiên bản tiếng Hoa của bộ phim này tiếp tục được phát trên Youtube [links tại đây:

http://youtu.be/ox_vJn_itYk (tập 1);

http://youtu.be/JDQr_ODgd7o (tập 2);

http://youtu.be/_AyrCih9KIU (tập 3);

http://youtu.be/_SR6yCOEWTk (tập 4);

http://youtu.be/moNKQy1t6gM (tập 5)

Vậy, ai có bạn bè là người Trung Quốc hoặc là người sử dụng tiếng Hoa, thì giới thiệu cho họ xem để họ biết về lịch sử chiếm hữu, xác lập, thực thi và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và những vùng biển đảo khác của Việt Nam; để họ biết rằng những tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hoàn toàn dối trá.

Tuy nhiên, cũng phải đau buồn mà thừa nhận rằng trong khi Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về “chủ quyền dối trá” của họ đối với những vùng biển và quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam, về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2/1979, về trận hải chiến Hoàng Sa tháng 1/1974 và trận chiến Gạc Ma tháng 3/1988…, thì lãnh đạo Việt Nam lại im lặng.

Không thấy vị lãnh đạo cao cấp nào lên tiếng về những sự kiện trên, trong khi báo chí thì bị hạn chế đưa tin; dư luận bị dập tắt, nhân chứng không có cơ hội lên tiếng về các sự kiện này. Mãi cho đến vài năm gần đây thì chính quyền mới “nới lỏng” đôi chút trong những dịp kỷ niệm, nhưng đâu đó vẫn có cấm đoán, ngăn chặn, thậm chí cướp phá vòng hoa và hành hung người tham dự tưởng niệm các sự kiện này.

Những sự kiện này không được đưa vào sách giáo khoa để học sinh được học, được biết, được nhớ, được căm thù quân xâm lược và được nuôi dưỡng lòng yêu nước.

Những công trình nghiên cứu về những sự kiện này thì bị ngăn cấm xuất bản, mà điển hình nhất là vụ cuốn “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử” do tướng Lê Mã Lương, anh hùng LLVTND chủ biên, đã không được Cục Xuất bản cấp giấy phép xuất bản.

Vậy thì, sự ngộ nhận của ông Phó chủ tịch Hội sưu tầm và nghiên cứu gốm sứ Singapore về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hoàn toàn có lý.

Và sai lầm này thì ai phải chịu trách nhiệm? Tất nhiên là không ai khác ngoài giới lãnh đạo Việt Nam.

NGƯỜI NƯỚC HUỆ (Từ New Haven, Connecticut).

Nguyễn Phú Trọng lại chọc cho dân chửi

Nguyễn Phú Trọng lại chọc cho dân chửi
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư Đảng CSVN, đang bị chỉ trích kịch liệt vì tuyên bố: “Không để lọt các phần tử ‘thế này thế khác’ vào Quốc Hội.”

Ông Nguyễn Phú Trọng, tuy có học vị tiến sĩ về “xây dựng Đảng” nhưng thường có những phát biểu giống như chọc cho dân chửi. (Hình: Getty Images)

Mới đây, trong một cuộc trò chuyện với VOA, ông Nguyễn Quang A, một trong những trí thức được nhiều người biết và cũng là người tự ứng cứ vào Quốc Hội Việt Nam trong kỳ bầu cử sẽ diễn ra vào cuối tháng 5 sắp tới, nhận định, tuyên bố vừa kể của ông Trọng là một sự lạm quyền, xem thường các qui định pháp luật hiện hành.

Ứng cử hay bầu cử vốn đã có những tiêu chí rõ ràng thành ra theo ông A, “thế này, thế khác” là một “khái niệm tù mù.” Nó biểu lộ sự coi thường cả luật pháp lẫn thiên hạ. Nếu không xem thường như thế, ông Trọng không phát biểu tùy tiện như vậy.

Đây không phải là lần đầu tiên, ông Trọng, một người có học vị tiến sĩ về chuyên ngành… “xây dựng Đảng,” đưa ra những tuyên bố khiến thiên hạ chưng hửng như vậy.

Chưa bao giờ tại Việt Nam, cuộc bầu cử Quốc Hội sẽ diễn ra vào cuối tháng 5 sắp tới lại có nhiều người tự ứng cử như vậy. Nguyên nhân chính là từ ông Trọng.

Cuối tháng 1 vừa qua, sau khi tái đắc cử vào vị trí tổng bí thư Đảng CSVN, ông Nguyễn Phú Trọng đọc một diễn văn ca ngợi “tự do, dân chủ” ở Việt Nam và khẳng định, Việt Nam “dân chủ đến thế là cùng!”

Chính tuyên bố đó đã khiến ông A soạn một thư ngỏ, đề nghị các công dân Việt Nam hội đủ tiêu chuẩn trở thành đại biểu Quốc Hội Việt Nam hãy tích cực “tự ứng cử.” Ông A khẳng định, phong trào tự ứng cử là một phương pháp thử yếu tố “dân chủ” mà ông Trọng nhấn mạnh “đến thế là cùng.”

Dẫu những người thật sự tự ứng cử luôn luôn bị loại bỏ bằng đủ mọi cách, trong đó chủ yếu là “hiệp thương” để mặt trận tổ quốc các cấp tổ chức thu thập ý kiến “cử tri” – diễn ra y như “đấu tố” – để lựa chọn, tiến cử ứng cử viên chính thức nhưng ông A kêu gọi mọi người đừng ngần ngại.

Chuyện nhiều người tham gia tự ứng cử, những người khác theo sát, ghi âm – ghi hình các buổi “hiệp thương,” công khai nội dung của những buổi “hiệp thương” này sẽ giúp mọi người nhận ra hình dạng “dân chủ đến thế là cùng” tại Việt Nam như thế nào.

Ông A nói thẳng, ông không tin việc tự ứng cử sẽ thành công song thất bại hàng loạt có giá trị riêng của nó. Ít nhất mọi người cũng sẽ nhận ra, “tự ứng cử” là một “quyền hão.” Càng nhiều người nhận ra tính chất “hão” của quyền này thì như cầu đòi thực quyền mới hình thành và phát triển.

Trên thực tế, chính quyền Việt Nam đang khắc họa những đường nét chính của cái mà ông Nguyễn Phú Trọng khẳng định “dân chủ đến thế là cùng.”

Do “dân chủ đến thế là cùng” nên hệ thông truyền thông của chính quyền Việt Nam có quyền bôi nhọ những cá nhân tự ứng cử. Chẳng hạn, tờ Năng Lượng Mới đăng một bài với tựa “Quốc Hội không phải là phường chèo,” chỉ trích nghệ sĩ hài Nguyễn Công Vượng dám “tự ứng cử.” Nghệ sĩ này bị xem là “lộng ngôn,” “đốt đền,” tuy cha mẹ đều là đảng viên nhưng “phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng,” “vu khống Đảng và chính quyền hèn với giặc, ác với dân, dâng biển đảo cho giặc.” Tờ Năng Lượng Mới cho rằng, nghệ sĩ này “bất tài,” không thành công trên sân khấu thật mới nhảy sang “sân khấu chính trị.”

Trong bài “Quốc Hội không phải là phường chèo,” tờ Năng Lượng Mới còn chỉ trích một loạt những cá nhân khác đã tuyên bộ tự ứng cử như: Nguyễn Quang A, Nguyễn Tường Thụy, Đặng Bích Phượng,… vì “đang phá hoại cuộc bầu cử Quốc Hội.” Theo tờ báo này thì những cá nhân tự ứng cử đều hám danh nên mới tham gia các hoạt động đòi phải bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông, đòi phải cương quyết với Trung Quốc, đòi phải tôn trọng nhân quyền! Tờ Năng Lượng Mới xem việc tự ứng cử, trình bày nhận định về thời cuộc, kế hoạch hành động nếu đắc cử là “trò lố!”

Cũng do “dân chủ đến thế là cùng,” nên Ủy Ban Bầu Cử thành phố Hà Nội đòi bà Đặng Bích Phượng phải xin xác nhận lại lý lịch tại một phường nơi bà… không có hộ khẩu thường trú nên tất nhiên là không thể được xác nhận để có hồ sơ ứng cử hợp lệ. Một cá nhân khác, ông Nguyễn Tường Thụy thì bị chính quyền địa phương ghi vào lý lịch gửi cho Ủy Ban Bầu Cử rằng ông có “tiền sự” (hai lần bị cảnh cáo do tham gia biểu tình chống Trung Quốc). Với những “tiền sự” này, ông Thụy không có quyền tự ứng cử.

Trong một xã hội “dân chủ đến thế là cùng” như Việt Nam, công an cũng đã vô cớ ập vào nhà ông Phan Văn Bách để kiểm tra hành chính sau khi ông nộp hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc Hội. Ông Võ An Đôn, một luật sư ở Phú Yên thì được mời đến làm việc với an ninh của tỉnh này sau khi ông tuyên bố sẽ tự ứng cử.

Diễn biến mới nhất liên quan tới “dân chủ đến thế là cùng” là người xuất hiện trong video clip, nhận định ông A “bất xứng, không nên chọn làm đại biểu Quốc Hội,” tuy sắm vai hàng xóm của ông A nhưng cả tổ trưởng tổ dân phố lẫn trưởng Ban Mặt Trận Tổ Quốc phường nơi ông A cư ngụ, thừa nhận không biết anh ta là ai. (G.Đ)