Hòa giải, những bàn tay gỗ.

Hòa giải, những bàn tay gỗ. (RFA)

canhco

Ba mươi ngày trong tháng Tư của năm 2015 âm thầm theo dõi những bài viết, hình ảnh trong và ngoài nước là dịp may nhận chân gần như toàn bộ quá khứ, một quá khứ rất gần bởi chỉ 40 năm, thời gian chưa đủ hình thành được một chu kỳ mà lịch sử cần, nhưng lại quá đủ để thấy được diện mạo của hai phía trong ngày kỷ niệm 40 năm này.

Bên thắng cuộc, chữ của Huy Đức, định hình đảng cộng sản Việt Nam một cách cay đắng, vẫn cười rất tươi và hát rất vui về cái ngày mà phía ngược lại chưa lau khô hết được nước mắt.

Hình ảnh của VNCH từ cách ăn mặc, cho tới sinh hoạt trong học đường, chợ búa, ngay cả những lần đồng bào đi bỏ phiếu được khoe đầy trên Facebook khiến lứa trẻ sinh sau 30 tháng 4 có thể hình dung ra một thời kỳ mà Sài Gòn hãnh diện là hòn ngọc viễn đông. Những tấm ảnh ấy đa số do phóng viên nước ngoài chụp trước khi miền Nam sụp đổ. Càng về sau năm 75 càng hiếm dần những hình ảnh sống động tiếp tục miêu tả những gì mà người dân Sài Gòn sống cùng.

Gần 5 tháng sau ngày giải phóng, ngày 22/ 9/1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hoà miền nam Việt Nam đã tổ chức cuộc đổi tiền trên toàn miền nam để đưa đồng tiền mới lấy tên là “Tiền Ngân hàng Việt Nam”, còn gọi là tiền giải phóng, với tỷ lệ 1 đồng NHVN ăn 500 đồng tiền của chế độ cũ.

Không một phóng viên nào chụp được vẻ mặt thẫn thờ tuyệt vọng của dân chúng trong ba lần đổi tiền. Gia tài dành dụm bao nhiêu năm không cánh mà bay. Người cha trở về nhà với một nhúm giấy bạc xấu xí mà giá trị chỉ sống được một tháng. Toàn bộ số tiền có thể mua vài căn nhà nay đã ra tro. Không giải thích, không trả lời người dân, các ông bà chủ mới của “Ngân hàng không tiền gửi Việt Nam” lạnh lùng phát cho dân một số tiền như nhau và phấn khởi báo cáo với Chủ tịch nước đã làm tròn bổn phận.

Ba năm sau, ngày 2/5/1978 Nhà nước tiếp tục công bố đổi tiền lần thứ 2 trên phạm vi toàn quốc, với tỷ lệ 1đồng tiền NHNN cũ ở miền Bắc hoặc 0,8 đồng tiền Giải phóng ở miền Nam ăn 1đồng NHNN mới.

7 năm sau đó, vào ngày 14/9/1985 Nhà nước lại công bố đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng tiền NHNN cũ ăn 1 đồng tiền NHNN mới để phục vụ cuộc cách mạng về giá và lương. Lần đổi tiền thứ ba này đã thật sự lột sạch tới những đồng bạc ki cóp cuối cùng trong những gia đình miền Nam, trong khi đó miền Bắc không bị ảnh hưởng bao nhiêu vì đã quen với chế độ tem phiếu và thắt lưng buộc bụng từ những ngày chiến tranh chống Mỹ.

Đổi tiền là cách trưng thu tài sản đồng đều cho mọi người dân miền Nam vì thực tế dân miền Bắc không có bao nhiêu tiền để mà mất. Chính quyền “cách mạng” còn tiến thêm một bước qua việc đánh “tư sản mại bản” một cách khốc liệt trên toàn miền Nam. Hình thức cướp cạn có văn bản, có nghị quyết này đã giết bao nhiêu gia đình lúc ấy và chẳng những thế còn bao nhiêu gia đình phải sống mòn trong suốt 38 năm sau đó?

Năm 1977 chính quyền cách mạng đã phát động cuộc tố cáo và truy nã các thành phần mà họ gọi là tư sản mại bản tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam. Hình ảnh cải cách ruộng đất tại miền Bắc được lập lại, hàng chục ngàn gia đình bị đuổi ra khỏi nhà, tài sản bị tịch thu và số phận của những con người bị chụp cho cái mũ tư sản mại bản ấy không khác gì những con thú hoang không còn nơi ẩn núp.

Theo Huy Đức trong Bên Thắng cuộc thì ngày đánh tư sản mại bản xảy ra các nhân vật gốc Hoa như Lý Sen, Lưu Trung, Trương Dĩ Nhiên, Lý Long Thân, Trần Thành cùng lúc trước sau bị bắt giam để trả lời tại sao họ lại giàu có như vậy. Có tội hay không có tội là chuyện của họ và bên thắng cuộc nhưng hàng chục ngàn gia đình khác bị đám 30 tháng tư chỉ điểm cũng cùng một số phận trắng tay thì ai sẽ là người trách nhiệm đây?

Sau cuộc đánh tư sản mại bản chính quyền cách mạng tiếp tục đánh dân miền Nam bằng một chính sách rất ác độc mang một tên gọi mỹ miều là Xây dựng vùng kinh tế mới.

Kinh tế mới là những khu đất hoang hóa, hay rừng sâu nước độc khó canh tác thành công nếu không có một kế hoạch tổng lực và dồi dào phương tiện. Hàng trăm ngàn người dân đang sống đạm bạc nhưng an lành trong thành phố bị cưỡng ép bằng những ngôn từ đầy hăm dọa lên xe về nơi mà con người khó có khả năng thích hợp. Những chuyến xe chất đầy quang gánh, quần áo tả tơi hướng về Lộc Ninh, Phước Long, Buôn Mê Thuột, Bù Gia Mập cùng hàng trăm địa diêm nổi tiếng khác của miền Nam, ghé vào và vất họ xuống với vài căn nhà mới vội vã dựng lên xiêu vẹo và chắp vá. Họ đi không nỡ ở không xong, cuộc hành trình về vùng kinh tế mới đã khép lại với hàng chục ngàn người bỏ thây vì muỗi mòng rắn rít.

Từ đó ba chữ Kinh tế mới ám ảnh họ như ma quỷ, như ác thú. Bốn mươi năm sau khi nhớ lại đoạn đường này nhiều gia đình vẫn còn ngơ ngác tự hỏi tại sao chính quyền cách mạng lại thúc ép dân vào nơi hang hùm nọc rắn như vậy? Ý đồ đích thực của họ là gì? Tận diệt một thế hệ miền Nam không thích nghi được với chủ nghĩa cộng sản hay tư duy kinh tế kiểu cộng sản đã khiến họ mù quàng chơi những canh bạc mà vốn liếng duy nhất họ có chỉ là mạng sống của người dân?

Bốn mươi năm, các bài viết nói về hòa hợp hòa giải giữa chính quyền hiện tại và hàng triệu người bị bắt, bị cải tạo cũng như hàng triệu đồng bào vượt biển tìm tự do đã bỏ mình hay suốt đời mang hận vì cướp biển Thái Lan rộ lên khắp các trang mạng. Chính quyển, họ, những khuôn mặt bóng nhẫy, láng bóng nói lời hòa giải như đào kép trong một gánh hát đình. Họ thể hiện sự ban ơn một lần nữa như họ đã giải phóng miền Nam là đã ban ơn cho đám lưu dân mất gốc này. Cách nói, cách thể hiện qua các nghị quyết hòa giải dân tộc khẳng định một thái độ: ban phát, xin cho.

Hãy nói về tù nhân cải tạo.

Ừ thì chiến tranh, người thắng kẻ thua. Thắng được phép giam giữ và cho ra khỏi trại giam lúc nào thuộc về kẻ giữ chìa khóa. Quốc tế cũng phải đứng ngoài vì quốc tế đối với cộng sản cũng chỉ là chiếc phao trong lúc túng cùng bị gậy. Bây giờ hòa giải là hòa giải thế nào? Chìa tay ra nói với anh: thôi mình bỏ qua nhé, anh đánh tôi không chết thì tôi nhốt anh cho vui, nếu lỡ tay có người chết thì cũng đâu bằng bom thả chùm chùm lên miền Bắc? thế nhé, ta cùng ngồi nâng chén giải oan hát bài hòa giải có vui hơn không?

Nếu thái độ ấy diễn ra như kịch bản này phác thảo không biết có mấy người đưa tay hòa giải? Huống chi bàn tay mà phe thắng cuộc đưa ra là bàn tay giả, chúng có thể rớt bất cứ lúc nào nếu người được hòa giải xiết nó quá mạnh.

Gia đình tôi không có liên quan tới VNCH nên chúng tôi không cần sự hòa giải của bên thắng cuộc. Nhưng gia đình tôi là nạn nhân của cả ba vụ, từ đổi tiền đến đánh tư sản mại bản và cuối cùng là chết dần chết mòn trên vùng kinh tế mới.

Tôi không cần chính quyền này nói lời hòa giải với tôi.

Điều tôi cần là chính quyền phải kéo nhau tới nhà của từng thành viên trong gia đình tôi, bây giờ còn lại 30 người, cúi đầu thật thấp và xin lỗi với thái độ chân thành. Tài sản bị mất tôi kể như xung vào công quỹ quốc gia mặc dù tôi biết chắc cán bộ thành phố là những kẻ tận thu và tư túi những tài sản ấy.

Phải sòng phẳng với lịch sử và nhận trách nhiệm trước nạn nhân. Hòa giải chỉ là chiêu bài không thể thực hiện từ một phía. Chúng tôi không chấp nhận hòa giải vì mình là nạn nhân trực tiếp cũng như hàng chục triệu người miền Nam khác. Các ông là thủ phạm làm cho bao người sống trong nước mắt thì phải xin lỗi thật tâm nếu lương tâm con người trong các ông cắn rứt. Chỉ có lời xin lỗi mới đúng với các ông, đúng với tinh thần dành cho kẻ phạm tội với nhân dân, với lịch sử.

 

Để xem Tổng Trọng xoay vần đến đâu?

Để xem Tổng Trọng xoay vần đến đâu?

THÁI TUẾ

21-3-2016

Các lãnh đạo đảng và nhà nước. Nguồn: internet

Lấy cảm hứng từ loạt bài nghiên cứu của Nguyễn Thị Từ Huy Việt Nam có thể cải cách chính trị hay không?. Trong loạt bài này, bà Nguyễn Thị Từ Huy tập trung nghiên cứu về Nguyễn Phú Trọng và đi đến kết luận: “Nguyễn Phú Trọng không tham nhũng, không tham nhũng thì còn tự trọng và tự trọng có thể thay đổi”. Cũng như Bùi Quang Vơm, tôi rất kính trọng những nghiên cứu của Nguyễn Thị Từ Huy, nhưng không hoàn toàn đồng ý với bà.

Chính vì vậy tôi xin lặp lại cách mà Nguyễn Thị Từ Huy đã dùng để nghiên cứu Nguyễn Phú Trọng. Đó là bắt đầu sự nghiên cứu bằng việc tìm hiểu về cá nhân Nguyễn Phú Trọng. Cũng như bà, tôi không tin chắc 100% những nghiên cứu này là đúng, vì thiếu thông tin, nên chắc chắn phiến diện. Nhưng dẫu sao vẫn phải nghiên cứu từ số lượng thông tin ít ỏi ấy.

Cách đây vài năm tôi được ông Nguyễn Mạnh Can, nguyên Phó ban Tổ chức Trung ương hồi Lê Đức Thọ cho xem một tấm hình. Đây là một bức ảnh chụp đen trắng từ những năm 80 của thế kỷ 20, khi ông cùng Nguyễn Phú Trọng ngồi ở bàn thư ký của Đại hội 6. Nguyễn Phú Trọng lúc đó đeo kính cận gọng đen dầy cộp, ngồi ở mép ngoài của dãy bàn thư ký, mới khoảng gần 30 tuổi. Kể từ hồi đó ông đã vào sâu trong cơ cấu của đảng Cộng sản. Đến bây giờ đã khoảng trên 40 năm. Như vậy có thể xem là ông đã tham gia rất nhiều đại hội Đảng và là người làm nghề công tác Đảng chuyên nghiệp và có thâm niên, thực tế ông đã có bằng cấp TS về xây dựng Đảng. Vậy với một người làm nghề lâu năm thì như thế nào? Sẽ xảy ra hai trường hợp: a) rất yêu nghề, hoặc b) rất chán ngán nghề, chẳng qua phải làm vì cái nghiệp, vì miếng cơm manh áo. Theo tôi Nguyễn Phú Trọng thuộc trường hợp a, tức ông rất yêu nghề và Đảng đã trở thành máu thịt của ông. Suy luận này đúng, người ta có thể kiểm chứng dễ dàng qua hành động và phát ngôn của ông. Tuy vây, ông để lại dấu ấn mờ nhạt qua rất nhiều cương vị công tác trong Đảng, chỉ từ khi ông làm Tổng Bí thư thì dấu ấn của ông trong công tác Đảng bắt đầu đậm nét. Đó là giọt nước mắt tại Hội nghị T.Ư 6 (khóa 11) năm 2012, đó là câu nói nổi tiếng “Tôi bất ngờ vì được tái bầu làm Tổng Bí thư với kết quả gần 100%”, đó là “dân chủ đến thế là cùng”.

Vấn đề là giọt nước mắt và phát ngôn của ông xảy ra khi nào. Rất dễ thấy, xảy ra sau các cuộc đấu cam go với các thế lực trong Đảng. Tại sao ông phải đấu cam go? Vì ông nhận thức rằng một bộ phận lớn trong Đảng đã suy thoái và quyết chống lại trào lưu đó. Đây là một việc vô cùng khó khăn và vì vậy nó rất cam go. Người ta còn nhớ, tại trận đấu cam go đầu tiên vào năm 2012 ông đã phải rơi nước mắt. Nhưng ông không chịu thua, trận 2016 ông đã nở nụ cười. Vậy ông đã thắng chưa? Ông đã chặn đứng được đà suy thoái biến chất chưa? Chăc chắn là chưa. Vậy lúc này đây ông đang làm gì? Ông làm tiếp cái việc tập hợp đội ngũ những Đảng viên “chưa suy thoái” để chống lại các Đảng viên “đã suy thoái”. Năm trước ông điều Bá Thanh ra Hà nội để chặn suy thoái, chống tham nhũng. Bá Thanh đã ngã ngựa giữa dòng. Năm nay ông cử La Thăng vào Sài Gòn cũng để chặn đà suy thoái, tham nhũng.

Một động thái khác quan trọng hơn. Đó là phát biểu của tướng Phan Anh Minh về chỉ thị 15 rằng công an không được trinh sát đảng viên. Ai cho phép vị tướng này tiết lộ chỉ thị tuyệt mật 15? Ai cho phép các cơ quan truyền thông đăng tải rầm rộ phát biểu này? Có phải Nguyễn Phú Trọng không. Chắc chắn rồi, trong cơ chế độc Đảng, lời nói của vị tướng đó nhất định sẽ bị vô hiệu hóa nếu không được phép từ cơ quan cao nhất.

Vậy bạch hóa chỉ thị 15 để làm gì? Để làm điều ngược lại. Để chuẩn bị cho công an được phép trinh sát đảng viên. Vậy rõ ràng là sau thắng lợi tại đại hội 12, khi mà Nguyễn Phú Trọng dùng nghị quyết 244 và 1510 đại biểu dự đại hội Đảng để loại bỏ Nguyễn Tấn Dũng, thì bây giờ là lúc ông dùng công an để loại bỏ các đảng viên suy thoái khác. Có lẽ chúng ta sẽ thấy một trận chiến mới, rộng hơn, mạnh hơn, qui mô lớn hơn và tất nhiên cam go hơn. Theo dự đoán người đầu tiên bị đưa vào tầm ngắm sẽ là vị thủ tướng sắp được bổ nhiệm Nguyễn Xuân Phúc. Nguyễn Xuân Phúc sẽ được đưa lên cao để lật đổ cho dễ.

Nhưng tại sao ông Nguyễn Phú Trọng lại phải chống suy thoái? Cơ sở nhận thức nào cho phép ông tiến hành công tác chống suy thoái (chúng ta hãy tạm quên biệt danh Trọng Lú để tin rằng ông có thể nhận thức các hiện tượng vô cùng phức tạp của chính trị, xã hội)?

Cơ sở thứ nhất là tình yêu của ông đối với Đảng. Hơn 40 làm nghề xây dựng Đảng ông rất yêu Đảng, tin rằng Đảng là đạo đức là văn minh, bất chấp rất nhiều hành vi vô đạo đức và kém văn minh của Đảng. Theo ông, vì Đảng là đạo đức là văn minh thì tất nhiên Đảng phải loại bỏ các phần tử suy thoái.

Cơ sở thứ hai là triết học Mác mà ông thuộc lòng từ trẻ. Triết học Mác dạy ông và rất nhiều người rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo ra sự phát triển. Vì Nguyễn Phú Trọng muốn bảo vệ, xây dựng và phát triển Đảng nên ông đã và đang tiến hành các cuộc đấu cam go chống lại thế lực suy thoái trong Đảng.

Trong hai cơ sở nhận thức trên, cơ sở thứ nhất thuộc về trái tim. Trái tim có thể mù lòa, lạc lối và chúng ta chưa bàn sâu về sự u mê của trái tim vội. Chúng ta hãy bàn về cơ sở nhận thức thứ hai thuộc về phần trí tuệ. Nội hàm thực sự của cái gọi là biện chứng trong triết học Mác về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ là một phần sơ khai của thuyết âm-dương. Nguyễn Phú Trọng đã dựa vào nội hàm đó, lấy nó làm cơ sở triết lý cho cuộc đấu tranh chặn suy thoái trong Đảng. Ông tin rằng đấu tranh chống tham nhũng, loại bỏ suy thoái, sẽ làm trong sạch Đảng và một Đảng trong sạch sẽ hoàn thành nhiệm vụ đưa đất nước đến giàu mạnh, dân chủ, công bằng. Nhưng ông đã quên rằng Đảng chỉ là một bộ phận trong mối quan hệ rộng lớn hơn đối với 90 triệu dân. Thực chất, Đảng là dương và dân là âm hoặc ngược lại. Bộ phận suy thoái trong Đảng là thiếu âm của dương và lực lượng tiến bộ trong nhân dân là thiếu dương của âm.

Khi Đảng đã suy thoái trầm trọng thì Đảng đang là dương trong giai đoạn trước dần biến màu thành âm trong hiện tại và cái thiếu âm (suy thoái) chính là lực lượng mang tính động lực thúc đẩy sự biến tính của Đảng, chuyển hóa Đảng từ dương thành âm. Trong khi đó, nhân dân vốn là âm (giai cấp bị trị) dần biến mầu thành dương và lực lượng tiến bộ trong nhân dân (trí thức, doanh nhân, các nhà dân chủ,…) đang là thiếu dương thì trở thành động lực thúc đẩy sự biến tính của âm (nhân dân) thành một lực lượng thống trị mới. Quan sát sự dịch chuyển đó, nếu Nguyễn Phú Trọng không lú, thì ông phải tiến hành cuộc tự diễn biến, nhập cuộc với lực lượng tiến bộ trong nhân dân để biến Đảng từ chỗ suy thoái thành tích cực. Do đó, nếu Nguyễn Phú Trọng giỏi về thuyết âm dương, giỏi về triết học thì ông không nên đấu tranh chống suy thoái trong Đảng mà phải tích cực ủng hộ tiến bộ trong dân. Cụ thể ông nên tiến hành dân chủ hóa từ làng xã, tổ chức bầu cử tự do, dân chủ thực sự dần dần từ làng xã, để loại bỏ cường hào cấp thấp, dần dần loại bỏ tham nhũng cấp cao và đưa đất nước đến văm minh, dân chủ. Nhưng Nguyễn Phú Trọng đã không làm như vậy, ông đã tiến hành đấu tranh trong Đảng, loại bỏ Nguyễn Tấn Dũng với mong muốn qua đó loại bỏ tham nhũng. Chắc chắn ông đã và sẽ gặp trở lực rất lớn.

Thắng lợi ở đại hội 12 vừa rồi chỉ là thắng lợi tạm thời. Ông, với tư cách là người có thâm niên nghề nghiệp trong xây dựng Đảng, sẽ đẩy Đảng đến chỗ tan rã khi cứ kiên quyết chống tham nhũng. Như vậy có thể kết luận, nếu ông chiến đấu ở thượng tầng, chặn suy thoái, chống tham nhũng, thì ông đang lú và ông sẽ thua, thua trong công tác xây dựng Đảng. ‘Đánh trên đánh xuống’, nhưng trầy trật mãi cũng không đánh được thì ‘dưới lại mạnh thế ngoi lên’. Như thế, coi như Tổng Trọng thất bại, dù đã nhiều trải biến chịu trận ‘cố đấm ăn xôi’, nhưng ‘lực bất tòng tâm’… Ngược lại, nếu ông đi với nhân dân, thì ông không lú và ông sẽ đi vào lịch sử dân tộc như một người có công trong việc loại bỏ chế độ toàn trị. Nhưng thôi, với phép suy chiếu – theo ngữ luận thường dùng của Tiến sĩ Xây dựng đảng là khách quan, biện chứng – thử phân tích vậy và ‘cứ biết vậy cái hẵng’, thử xem Tổng Trọng xoay vần đến đâu ?!

Th.T (Tác giả gửi BVB)

Hiệp thương bầu cử Việt Nam đã lạc hậu?

   Hiệp thương bầu cử Việt Nam đã lạc hậu?

Quốc hội Việt Nam

Getty

Việt Nam sắp tiến hành kỳ bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp vào cuối tháng 5/2016.

Hiệp thương được nhà nước và chính quyền Việt Nam sử dụng như một công cụ thay thế cho tranh cử, tuy nhiên kinh nghiệm của nhiều quốc gia từng trải qua thể chế một đảng cho thấy có lộ trình từ tranh cử hạn chế tới tranh cử đầy đủ, theo một nhà phân tích chính trị nội bộ Việt Nam.

Trao đổi với BBC hôm 20/3/2016, Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Viện Chiến lược Quốc tế và Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore cho rằng hiện nay chiến lược ‘nhất thể hóa’ hệ thống quyền lực và lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính quyền nhà nước đang dẫn đến ‘hạn chế tranh cử ngay trong nội bộ’ đảng và chính quyền.

Người ta dùng hiệp thương để thay cho tranh cử. Đấy là cái hạn chếTS. Hà Hoàng Hợp

Trước câu hỏi, liệu cơ chế hiệp thương được chính quyền sử dụng lâu nay và áp dụng cho kỳ bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp năm 2016 còn phù hợp hay đã lạc hậu, so với tình hình phát triển chính trị – xã hội, dân trí và nhận thức của người dân Việt Nam và chuẩn mực chung của quốc tế, nhà nghiên cứu nói:

“Hiện cho đến thời điểm này, thì quy chế hiệp thương… từ năm 1986 đến giờ không có một thay đổi gì từ quy chế tiến hành và thủ tục hiệp thương.

“Và chúng ta nhìn và thấy chưa có một thay đổi gì về thủ tục hay là quy chế gì về hiệp thương. Mà hiệp thương vẫn dựa trên cơ sở các hoạt động theo quy định, trong khung cảnh của hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

“Tôi thấy rằng vì ý nghĩa của hoạt động thực hành của cái gọi là nhất thể hóa, nó dẫn đến việc hạn chế tranh cử ngay trong nội bộ, bởi vì cái đó ảnh hưởng trực tiếp từ nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, ảnh hưởng đến quá trình hiệp thương.

“Người ta dùng hiệp thương để thay cho tranh cử. Đấy là cái hạn chế.”

Bao giờ có tranh cử?

Bình luận về việc hàng chục ứng cử viên độc lập đã được chấp nhận qua vòng hiệp thương thứ hai ở một số địa phương trong nước, Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp nói:

Một số nước đã từng trải qua thể chế một đảng thì dần dần họ sẽ tiến đến mở rộng từ việc hiệp thương sang tranh cử hạn chế và tranh cử đầy đủ. Thế thì cũng hy vọng…

TS. Hà Hoàng Hợp

“Hiện nay, phải nói rằng danh sách tự ứng cử mà không phải nằm trong sự giới thiệu từ bên Đảng, ví dụ như Hà Nội có khoảng gần năm chục người, Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng gần năm chục người, ở các địa phương thì còn khá là ít, một số địa phương là không có, vì cho đến nay đã vượt qua thời hạn nộp hồ sơ tự ứng cử và kể cả ứng cử theo giới thiệu…

“Hoàn cảnh, tình hình như thế đặt ra một cái là khả năng trong tương lai gần thôi thì cũng sẽ cần có đổi mới.”

Gần đây, một cựu dân biểu Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết nêu quan điểm trên truyền thông nước này cho rằng cần có tranh cử.

Trả lời câu hỏi của BBC liệu có nên có tranh cử vào Quốc hội và các hội đồng nhân dân, đặc biệt là tranh cử vào các vị trí lãnh đạo nhà nước và chính quyền hay không, nhà nghiên cứu Hà Hoàng Hợp nói:

“Trong quá trình đổi mới trước đây ở một số nước đã từng trải qua thể chế một đảng thì dần dần họ sẽ tiến đến mở rộng từ việc hiệp thương sang tranh cử hạn chế và tranh cử đầy đủ.

“Thế thì cũng hy vọng là rồi sẽ tiến đến một hoàn cảnh là sẽ có tranh cử hạn chế, rồi tiến đến tranh cử đầy đủ và cái đấy phụ thuộc rất lớn vào việc Mặt trận Tổ quốc Việt nam đổi mới như thế nào.”

Dự đoán nhóm tự ứng cử

AFP

Quốc hội Việt Nam có tỷ lệ đại đa số đại biểu là đảng viên Đảng Cộng sản đang cầm quyền.

Được đề nghị nêu dự đoán về khả năng và kết quả của các ứng viên độc lập tự đề cử ở Việt Nam trong kỳ bầu cử đang tới, trong đó có một số ứng viên như TSKH Nguyễn Quang A, Nhà báo Trần Đăng Tuấn, TS. Nguyễn Xuân Diện v.v…, ông Hà Hoàng Hợp nói:

“Hiện nay họ đã vượt qua giai đoạn một, tức là họ đã được chấp nhận ở giai đoạn hiệp thương lần thứ nhất.

“Đến lần hiệp thương thứ hai, tùy từng trường hợp cụ thể một thì hiệp thương lần thứ hai sẽ xảy ra.

Những người tự ứng cử hầu hết đã lọt vào, tức là đã được chấp nhận để đưa vào hiệp thương lần thứ hai. Và đấy là một tiến bộ của Hội đồng Bầu cử, của hiệp thương, nó trả lời rằng là những dư luận, từ chỗ nọ, chỗ kia, nó không có nhiều giá trị

TS. Hà Hoàng Hợp

“Và tôi nghĩ nó sẽ có những điểm đặc thù và đặc biệt, có thể nó sẽ có những khó khăn cho các vị ấy.”

Bình luận thêm về các kết quả hiệp thương và đặc biệt về vai trò của Hội đồng Bầu cử Quốc gia Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng làm Chủ tịch, trong đảm bảo công bằng cho các ứng viên thuộc mọi thành phần dù tự ứng cử hay được đảng, chính quyền giới thiệu, TS. Hà Hoàng Hợp nêu quan điểm:

“Tôi thấy kết quả của hiệp thương lần thứ nhất có một điểm tích cực là những người tự ứng cử hầu hết đã lọt vào, tức là đã được chấp nhận để đưa vào hiệp thương lần thứ hai.

“Và đấy là một tiến bộ của Hội đồng Bầu cử, của hiệp thương, nó trả lời rằng là những dư luận, từ chỗ nọ, chỗ kia, nó không có nhiều giá trị,”

nhà phân tích nói với BBC.

Mới đây, trên một số báo chí, truyền thông ở Việt Nam, xuất hiện một số thông tin, trong đó có dẫn lời một số quan chức, cựu quan chức chính quyền, nêu bình luận cho rằng đằng sau một số ứng viên tự ứng cử độc lập kỳ này ở Việt nam có ‘bàn tay’ và ‘hậu thuẫn’ của các tổ chức ‘phản động’ ở nước ngoài, hoặc coi việc ‘có quá nhiều’ ứng viên độc lập là hiện tượng đáng ‘lo ngại’ v.v…

Hạn và nhiễm mặn Đồng bằng sông Cửu Long: Yếu kém của chính thể VN

  Hạn và nhiễm mặn Đồng bằng sông Cửu Long: Yếu kém của chính thể VN

Tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Yến (CHLB Đức)

‪#‎VNTB Bên đảng thì vục mặt vào họp hành triền miên cho vấn đề nhân sự. Bên chính phủ thì chỉ thấy họp hành cho các dự án đắp đê ngăn mặn. Hết năm này đến năm khác đều xài hàng ngàn tỷ đồng cho chương trình đê chống mặn, nhưng rốt cuộc người dân cũng vẫn phải ngửa cổ lên trời mà khóc vì hạn hán và nhiễm mặn.

NHIEM MAN

Về vấn đề hạn và nhiễm mặn của Đồng bằng sông Mekong, nó là một phương trình tổng quát như sau: Hạn + Nhiễm mặn = Nước biển dâng + Thời tiết (hạn hán) + Các đập thủy điện (của China và sắp tới là của Lào, Thái Lan, Campuchia) + Sự yếu kém của Việt Nam (về khoa học trong công tác quản lý và trồng rừng và bảo vệ môi trường của các viện trường, về qui hoạch và phát triển kinh tế của chính quyền Hà nội, và sự phát triển kinh tế tự phát phá nát môi sinh của chính người dân).

Nước biển dâng và thời tiết

Ảnh hưởng của mực nước biển dâng do Biến đổi Khí hậu (BĐKH), là từ từ, tăng dần và yếu tố thời tiết gây hiện tượng hạn và nhiễm mặn nặng (cục bộ về thời gian) như năm nay là 2 yếu tố liên quan đến thiên tai, và đều là những yếu tố bất khả kháng với những chính thể yếu kém (các chính sách chỉ khai thác tài nguyên bất chấp môi trường), nền kinh tế, sau khi các quả đấm thép Vinaline, Vinshine… của ông thủ tướng đương nhiệm chìm nghỉm cuốn theo hàng ngàn tỷ đô la vay mượn quốc tế, “cả nước đành quay ra buôn bán vỉa hè” như Việt Nam hiện nay.

Các đập thủy điện

Yếu tố do các đập thủy điện trên phía thượng nguồn, chắc chắn là có nhưng nó không phải là yếu tố quyết định duy nhất. Từ những năm đầu thập kỷ 2000s các đập China đi vào hoạt động, năm nào thì họ cũng tích nước và xả, tất nhiên năm hạn hán, họ sẽ tích nhiều hơn xả.

Việc hạn hán nặng như năm nay phần nhiều là do thời tiết, mùa mưa năm trước rất ngăn, lượng mưa hầu như khắp nơi trong lưu vực đều rất thấp, ảnh hưởng của các đập thủy điện China chỉ đóng vai trò cộng dồn/ lũy kế (accumulation) làm cho hiện tượng hạn, và nhiễm mặn trở nên nặng nề hơn.

Cứ nhìn lại năm 1998, năm mà các đập của China chưa hoạt động thì hạn hán và nhiễm mặn cũng rất nặng nề. Việc phản ứng của các nhà khoa học về vấn đề các đập thủy điện của China là chính đáng, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó và cứ bo bo cho rằng đó là nguyên nhân chính thì cũng chẳng khác việc làm màu của ông thủ tướng thất thế Nguyễn Tấn Dũng phút cuối “mở nửa miệng” “đề nghị” China xả nước.

“Đề nghị” đấy nhưng China chấp nhận đề nghị đó hay không là thái độ của họ. Ở cấp độ quốc gia về vấn đề chủ quyền biển đảo, đến quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa kia, mất trắng thế mà chính quyền Hà Nội cũng chỉ có các cái loa rè ở Bộ ngoại giao như Nguyễn Phương Nga, Lê Hải Bình phát trong xó nhà, hàng loạt các dự án khai thác tài nguyên giao cho China, thì Mekong đã là cái gì để cái chính thể này họ thực tâm làm?

Việc các nhà khoa học đổ hết gánh nặng lên kênh đối thoại của Mekong Vietnam thông qua Ủy hội Sông Mekong (MRC), mà không cung cấp cho họ những số liệu khoa học (scientific indcations) là việc thoái thác trách nhiệm và đá bóng hèn mạt của giới khoa học.

Việc các nhà khoa học đăng đàn thành làn sóng phản biện Báo cáo Nghiên cứu tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mêkông (MDS*) nào là dùng mô hình giống như trò chơi thực tập, nào là số liệu cũ, nào là chỉ mới tính toán số liệu các loại cá trắng mà ko thấy tính số liệu cá đen…

Nhưng thật sự xấu hổ khi chỉ cần nhẹ nhàng đặt lại vài câu hỏi: Thế vậy thế giới có cần phát triển ứng dụng các mô hình mô phỏng? Thế nào là số liệu cũ? Tại sao chỉ tính toán sản lượng cá trắng?

Nhưng thử hỏi những cái số liệu của các Viện nghiên cứu – Trường Đại học ở Việt Nam ngốn hàng tỷ đồng tiền thuế đấy, cũng dưới trướng của những nhà phản biện này đấy có sử dụng được không?

Đơn giản, 8 Viện-Trường ở phía Nam tham gia chương trình quan trắc chất lượng nước đấy, thế mà chỉ có 1 thông số độ mặn, nhóm chuyên gia MDS cũng chỉ nhặt được có 2 năm 2008 và 2010.

Không thể nói MDS là hoàn hảo, nhưng đến thời điểm này, nó là tài liệu quan trọng cung cấp những số liệu khoa học có giá trị bổ trợ (support) cho việc tham vấn thông qua kênh MRC cũng như cơ sở khoa học củng cố tính pháp lý để khởi kiện các công trình đập thượng nguồn.

Việc các nhà khoa học không nhìn nhận những giá trị của MDS cho thấy khả năng đọc và hiểu báo cáo khoa học, việc họ dùng hiện tượng hạn hán năm nay để cho rắng kết quả mô hình là không tin cậy, cố tình lật úp các giá trị của MDS không những thể hiện khả năng tiếp cận và phân tích một vấn đề, mà nó còn làm “vỡ trận” trong cộng đồng trí thức về lĩnh vực này, và bước cản đối với việc dùng MDS để hỗ trợ tính pháp lý cho quyền lợi của Việt Nam.

Rào cản chính trong tiến trình phát triển KHCN của VIỆT NAM chính là những nhóm người chuyên quyền và độc quyền này. Nó đè bẹp giới trí thức trẻ dưới quyền và làm nản lòng những nhà khoa học khác.

Việc nhóm Vietecology ở Hoa Kỳ kêu gọi một cuộc vận động nhằm vào vấn đề này là đáng khuyến khích, nhưng theo tôi, chúng ta không thể giậm chân tại chỗ và rập khuôn hay làm màu kiểu như tôi vừa đề cập.

Yếu kém của chính thể Việt Nam

Theo tôi là yếu tố chính.

Nếu nhìn trên Google Earth chúng ta cũng sẽ rất tâm đắc với những bài phát biểu, báo cáo của bất cứ ông bà nào của cái chính thể này: về việc trồng rừng và phủ xanh đồi trọc, chương trình trồng rừng thành công rực rỡ này nọ.

Nhưng xắn quần lội bùn đến quá đầu gối sẽ thấy ở dọc bờ biển của Mekong Delta: các cánh rừng đước được trồng dày đặc, thân cây chỉ bằng bắp tay, cây chen chúc mọc thẳng, và không còn không gian để phát triển tán, những trận gió lốc thường cuốn băng lớp tán lá lều khều yếu ớt đó.

Còn khu rừng trồng cây bần và cây mắm, thì cũng vẫn nguyên tắc “lâm nghiệp kinh điển: khoảng cách 2 x 2”, với cánh rừng đơn loài (monospecies) này, mặc dù các rễ bần mọc ngược lên trên không khí, cũng không thể có tác dụng lưu trữ trầm tích như rừng đa dạng sinh học và nhiều tầng. Thành phần hạt của cát tại hai nơi rừng trồng mono-species và rừng tự nhiên nhiều loài là rất khác biệt.

Hiện GIZ (German Society for International Cooperation / Cơ quan Hợp tác Quốc tế Đức) cũng đang thúc đẩy một nghiên cứu bằng cách trồng cấy các loại cây con của các loài khác nhau vào gần và dưới tán lá của các cây cao, theo cơ chế giả/ bắt chước (mimic) sinh thái học, để giúp các viện lâm nghiệp của VIỆT NAM thay đổi và áp dụng việc trồng rừng cho mục đích bảo vệ bờ biển hiệu quả.

Vấn đề là, tính kế thừa của nghiên cứu này có hiện hữu hay không, hay quan chức các Viện cũng còn đang mải mê trên những cung đường “tìm kiếm ghế” và bảo toàn quyền và tiền kia?

Việc quan trắc chất lượng nước

Đặc biệt độ mặn phải thật sự chuẩn hóa, để số liệu và kết quả thuyết phục. Số liệu quan trắc chất lượng nước (water quality) của MRC vùng châu thổ (Delta) thuộc VIỆT NAM, giá trị của thông số DO thì rất thấp, BOD thì rất cao. MRC đã thiết kế chung 1 phương pháp cho cả hệ thống Mekông, vùng thượng nguồn nước ngọt sẽ không bị vấn đề gì cả, nhưng vùng Delta của Việt Nam thì rất khác, hai thông số này bị ảnh hưởng rất nhiều bởi độ mặn.

Nhưng thay vì phải nâng cấp phương pháp và hiệu chỉnh trọng số cho vùng nhiễm mặn so với vùng nước ngọt, thì chính các Viện-Trường thực hiện của Việt Nam luôn cho rằng DO và BOD như thế là do ô nhiễm do lối sống (living style, ăn ở trên thuyền, và thải trực tiếp xuống sông) và mật độ dân số cao (high population density)…

Cảm giác như Việt Nam tự đầu hàng và chấp nhận. Do trình độ hay do tắc trách?

Hồi còn làm cho MRC, khi số liệu quan trắc của Việt Nam gửi sang, tôi thấy nhiều giá trị của các thông số được ghi là 0 (zero), tôi có nói bạn cấp dưới của tôi là liên lạc với Viện đó để xác nhận giá trị 0 này.

Vòng vo một hồi vẫn nhận được câu trả lời là giá trị đúng như thế. Cuối cùng tôi nói bạn ấy là về Việt Nam đến Phòng Lab tìm hiểu, mới té ngửa là cứ những giá trị nào mà máy đo cho con số thập phân, hoặc âm là nhân viên ở Viện ghi là 0.

Trong khi đó, những giá trị này là thể hiện thông số của máy đo, và bắt buộc phải ghi chính xác con số hiện trên máy. Nhưng đáng tiếc là khi tôi đưa những vấn đề này ra, đã bị một loạt nhân viên của Viện này, cho là đồ nhãi ranh, và thậm chí nhảy vào email cá nhân của tôi chửi rủa.

Cái văn hóa bạc nhược này được phôi thai từ chính thượng tầng chính phủ mà chúng ta thấy rõ nhất là cái đại hội “đoảng” 12 vừa rồi.

Sự yếu kém của Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế và dân sinh

Ở các chế độ đặc thù cộng sản, luôn có một cái rất là kêu, đó là kế hoạch phát triển KTXH định kỳ 5 năm “đẹp như mơ”. Thật là xấu hổ khi hàng loạt quan chức cũng như các nhà khoa học làm quan hùng hổ trình bày kiểu, năm 2015 sản xuất được xxx tấn lúa, thu ngoại tệ xuất khẩu lúa gạo là yyy tỷ đồng Việt Nam, vậy thì kế hoạch 5 năm, đến năm 2020 sẽ phải đạt xxx + aaa, hoặc xuất khẩu là yyy + bbb, trong khi đó quỹ đất nông nghiệp thì chỉ có giảm, năng suất lúa thì đã kịch trần.

Hãy nhìn vào con số thống kê nhẩy bập bùng lên xuống theo sự kiện họp hành ở Ba Đình, sẽ thấy được bản chất của những cái kế hoạch kia.

BĐKH là thế, Việt Nam nằm vào nhóm đầu những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất, nhưng thử hỏi, chính phủ và bộ NN&PTNT đã đưa ra được một kế hoạch, hay chiến lược nào về phát triển kinh tế, dân sinh thay thế chưa?

Bên đảng thì vục mặt vào họp hành triền miên cho vấn đề nhân sự. Bên chính phủ thì chỉ thấy họp hành cho các dự án đắp đê ngăn mặn. Hết năm này đến năm khác đều xài hàng ngàn tỷ đồng cho chương trình đê chống mặn, nhưng rốt cuộc người dân cũng vẫn phải ngửa cổ lên trời mà khóc vì hạn hán và nhiễm mặn, và cuộc sống của họ cũng vẫn nổi trôi theo sự hà khắc của thời tiết. Đó chính là quan điểm của GS Võ Tòng Xuân.

Về sự phát triển tự phát, phá nát môi sinh của chính người dân và các chính quyền địa phương

Việc chính quyền địa phương giao đất cho hàng loạt các cá nhân, hàng chục ngàn héc-ta đất ven biển để đầu tư nuôi tôm những năm của thập kỷ 1990s và 2000s; việc chủ đầu tư thoải mái phá những vành đai rừng ngập mạn tự nhiên, xẻ đất đào kênh mương dẫn nước biển sâu vào trong nội địa để nuôi tôm, là một trong những nguyên nhân đẩy nhanh tiến trình và phủ rộng vùng nhiễm mặn và làm chìm dần vùng đới bờ của châu thổ Mekong do mực nước biển dâng.

Một số cá nhân cho rằng quan điểm của GS. Võ Tòng Xuân là không logic, vì nếu cho phát triển nuôi trồng thủy sản thay thế trồng lúa, thì càng đẩy nhanh tiến trình nhiễm mặn.

Thực tế, với một chế độ cộng sản độc tài chuyên chế hiện nay, chính thể này, với một nền kinh tế nợ công đầm đìa này, liệu Việt Nam có thể chiến thắng các nước thượng nguồn về tranh chấp tài nguyên nước? Có đủ nội lực kinh tế cho các dự án chống mặn như kiểu Hà Lan? Câu trả lời là hầu như Zero.

Tuy nhiên, chuyển đổi sinh kế cho người dân không có nghĩa là cho phát triển ồ ạt, mà bắt buộc phải dựa trên hàng loạt các chỉ số đánh giá tiềm năng, hậu quả với một bản quy hoạch thực sự.

Tôi hy vọng nhóm Vietecology ở Mỹ sẽ kết nối các chuyên gia có tâm và tầm trong và ngoài nước tạo thành một diễn đàn mà ở đó các phản biện và đóng góp sẽ được cọ xát và đối trọng với những phản biện kiểu hỏa mù, giải cứu “vỡ trận” ngay từ chính nhóm người Việt đã; có thế mới có thể “nhảy” ra ngoài được. Và cũng sẽ tạo ra một hành lang lành mạnh trong phản biện, có thế mới thu hút được các ý kiến phản biện cũng như sự đóng góp thiết thực.
(*) Báo cáo MDS là dự án cấp quốc gia trị giá 4,3 triệu đô la Mỹ do Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban Sông Mêkông Việt Nam chủ trì, thuê hai đơn vị tư vấn DHI (Đan Mạch) và HDR (Mỹ) thực hiện.

[http://www.ijavn.org/…/vntb-han-va-nhiem-man-ong-bang-song-…]

http://www.ijavn.org/2016/03/vntb-han-va-nhiem-man-ong-bang-song-cuu.html

Nhức nhối chuyện giáo dục ở Việt Nam

Nhức nhối chuyện giáo dục ở Việt Nam

VietTuSaiGon

RFA

Việt Nam là nước nghèo, dù đứng trên góc độ nào vẫn không thể chối bỏ thực trạng nghèo khổ và lạc hậu. Nhưng đáng sợ hơn cả là đất nước hình chữ S này lại gánh chịu trên đôi vai vốn gầy gò của mình cái gánh y tế và giáo dục quá tồi, hỏng hóc và vô luận. Chỉ có thể nói vậy!

Chuyện mất đạo đức của ngành y tế có thể xem như hết thuốc chữa, chỉ mong vào những thế hệ sau. Nhưng để có những thế hệ sau tốt hơn thì ngay từ bây giờ phải có một nền giáo dục tốt, một nền giáo dục đào tạo ra những con người đúng nghĩa chứ không phải những cái máy, những con vẹt hay những cá thể mang thần kinh khốn nạn (nói theo cách của giáo sư Ngô Bảo Châu).

Rất tiếc là hiện tại, nền giáo dục Việt Nam không những dự báo sẽ cho ra đời những cái máy, những con vẹt, những kẻ mang thần kinh khốn nạn mà rất có thể tương lai Việt Nam sẽ là những thế hệ khốn nạn, những đám đông khốn nạn và một đất nước khốn nạn.

Bởi lẽ, dù đứng trên góc độ nào thì nói về giáo dục, cái chuẩn đầu tiên và mục tiêu lớn nhất vẫn là con người chứ không phải cơ sở hạ tầng hay những cái chuẩn về cơ sở hạ tầng, những cái “chuẩn quốc gia” đậm tính hình thức và dung chứa đầy rẫy tham nhũng, hối lộ, đút lót và đánh mất lòng tự trọng.

Từ những năm 2010 cho đến nhay, có nhiều vụ nổi cộm về nạn bằng giả trong giới quan chức, đút lót để mua chức, đút lót để được dạy học, mua chỗ hành nghề trong giáo dục để hợp thức hóa việc dạy ngoài giờ, chạy sô trong giảng dạy… Những chuyện này, hầu như không có chuyện nào là không phản giáo dục, nếu không muốn nói là nó phát sinh nguy cơ làm cho nền giáo dục trở thành chợ búa và hổ lốn.

Nhưng đó vẫn chưa phải là chuyện cộm cán khi mà đạo đức của người dạy học trở nên băng hoại, đội ngũ quản lý giáo dục trở thành những kẻ cò mồi, tú ông, tú bà để đưa học sinh vào con đường trụy lạc với giới quan chức. Sự tổn thương về phẩm hạnh của học sinh trở thành thứ hàng xa xỉ để giới quan chức giáo dục bôi trơn con đường hoạn lộ thông qua việc môi giới cho những cuộc mua vui của giới quan chức hành chính cấp cao hơn.

Câu chuyện hiệu trưởng Sầm Đức Xương ở Hà Giang đã môi giới nhiều nữ sinh bán dâm cho giới quan chức cấp tỉnh và khi các em nữ sinh này tố cáo thì Sầm Đức Xương không bị gì mà chính các em nữ sinh, các nạn nhân bị truy tố trước cơ quan pháp luật địa phương. Điều này cho thấy giới quan chức, đặc biệt là quan chức ngành giáo dục đã không những đánh mất nhân cách, tư cách mà còn hiện rõ bản chất lưu manh, tú ông mà về nguyên tắc giáo dục họ tuyệt đối không được bén mảng đến gần môi trường phấn trắng bản đen.

Nhưng trong nền giáo dục Cộng sản xã hội chủ nghĩa, những kẻ lưu manh không những bị loại bỏ mà còn được nâng cấp, thăng tiến trở thành lãnh đạo ngành, kẻ làm sai quấy càng nhiều thì càng mau thăng quan tiến chức, kẻ càng nghiêm túc, càng có trách nhiệm với công việc bao nhiêu thì càng bị đày bấy nhiêu, bởi họ trở thành cái gai trong mắt của đám lãnh đạo.

Và những tưởng đây sẽ là bài học để giới quản lý giáo dục biết nhìn vào đó mà tổ chức quản lý tốt hơn cũng như giới cầm phấn đứng bục giảng sẽ lấy làm bài học mà tu thân, mà giữ đạo đức làm thầy. Nhưng không, hoàn toàn không dừng ở đó mà câu chuyện đáng xấu hổ này vẫn tiếp tục nảy nở.

Câu chuyện về thầy giáo Cao Văn Dũng (mà đa phần báo chí trong nước chỉ đăng tên C.V.D hoặc thầy D.) ở trường tiểu học Hưng Bình tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã xúc phạm thân thể, sờ mó vùng kín của các nữ học sinh lớp ba (tức hành vi dâm ô với học sinh tiểu học) và khi bị cha mẹ các em tố cáo, thầy giáo này vẫn chưa chịu bất kỳ hình thức kỉ luật nào tương thích. Giả sử giới quản lý giáo dục cố tình bao biện cho con yêu râu xanh này rằng y là một giáo viên giỏi, trường đang thiếu giáo viên thì điều này chỉ cho thấy hai vấn đề: Chạy theo thành tích và nói láo.

Bởi một nền giáo dục quen chạy theo thành tích từ chuẩn tỉnh cho đến chuẩn quốc gia dựa vào cơ sở hạ tầng và thành tích chạy thi giải này giải nọ nhưng yếu tố nhân cách, phẩm cách không bao giờ được đề cập thì chẳng những không tạo ra thế hệ con người tốt mà có nguy cơ lưu manh hóa xã hội.

Hơn nữa, giả sử lý do để không loại bỏ con yêu râu xanh này là vì trường thiếu giáo viên thì càng không hợp lý! Bởi hiện tại, có hàng ngàn sinh viên loại giỏi, loại khá đã tốt nghiệp nhưng không có chỗ để dạy, phải đi bưng bê thức ăn cho quán, đi phụ hồ, đi bưng cà phê, chạy xe ôm… để tồn tại. Như vậy giáo viên không bao giờ thiếu mà chỉ thiếu sự công bằng và thiếu sự minh bạch trong tuyển chọn, đào tạo cũng như bố trí công việc.

Trở lại chuyện giáo viên dâm ô với những học sinh tiểu học, những cháu bé này đang tuổi thiếu nhi, sự sờ mó của con yêu râu xanh này sẽ làm các cháu tổn thương tâm lý và khó có thể nói rằng tương lai của các cháu không bị khủng hoảng bởi một sự mặc cảm sâu xa nào đó. Lẽ ra thì tội dâm ô với trẻ em phải bị truy tố trách nhiệm hình sự. Nhưng ở đây, bà Ngô Thị Nguyệt, Phó trưởng phòng Giáo dục thành phố Vinh cho rằng mức độ sai phạm chưa có gì trầm trọng vì chưa để lại hậu quả nghiêm trọng và “do hoàn cảnh thầy Dũng nghèo khổ nên trường tạo điều kiện cho thầy vượt qua khó khăn…”(?!).

Chỉ riêng góc độ xã hội thuần túy thì tên Cao Văn Dũng đã phải lãnh án tù giam từ năm đến bảy năm với bản án hình sự. Đằng này hắn ta là một giáo viên, mà kẻ làm quản lý giáo dục lại cho rằng mức độ phạm tội chưa trầm trọng thì không còn gì để bàn!

Trong khi đó, chúng ta đang sống trong một đất nước mà ăn trộm một con gà có thể chịu ba năm tù, vậy mà dâm ô, sàm sỡ trẻ nít chỉ bị nhắc khéo.

Lẽ ra, động thái đầu tiên mà ngành giáo dục bắt buộc phải làm là loại bỏ tên giáo viên râu xanh này ra khỏi ngành nhằm giữ cho ngành giáo dục được trong sạch, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ phạm tội cũng như đơn thư tố cáo về những tội y gây ra sang cho ngành công an và Viện kiểm sát để họ tiếp tục điều tra làm rõ vấn đề.

Đằng này một Phó trưởng phòng giáo dục ở một thành phố là quê hương của ông Tổ Cộng sản Việt Nam, thành phố luôn “học tập và làm việc theo gương Bác” lại cho rằng tội sàm sỡ, dâm ô trẻ em vị thành niên là “không có gì trầm trọng”. Câu nói này chẳng khác nào đang đổ nước thối vào gương mặt của ngành và chứng minh rằng ngành giáo dục là thối nát, là chẳng có gì gọi là đạo đức.

Thế nhưng bà Nguyệt đã nói như vậy và kẻ sàm sỡ, dâm ô vẫn chưa bị bắt, vẫn còn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Điều này không những gây bức xúc cho giới phụ huynh học sinh mà còn cho thấy rằng nền giáo dục đang đứng ngay hố trũng của thối nát, băng hoại, vô liêm sỉ!

Và câu chuyện của Sầm Đức Xương cũng như câu chuyện của tên giáo viên mà báo chí nhà nước đăng với tên “thầy D.” chỉ cho thấy rằng tương lai đất nước này sẽ bệ rạc khinh khủng hơn hiện tại rất nhiều. Bởi các thế hệ trẻ của đất nước đang bị đầu độc bởi những tên lưu manh đội lốt nhà giáo và chúng được dung dưỡng, được bao che bởi giới quan chức lãnh đạo ngành dốt nát và cũng không kém phần khốn nạn.

Một tương lai của đám đông khốn nạn, tập thể khốn nạn, quốc gia khốn nạn đang chờ đợi chúng ta nếu như ngành giáo dục Việt Nam tiếp tục bị thao túng bởi những kẻ mang thần kinh khốn nạn như đang thấy!

Lãnh đạo ngân hàng dễ bị hình sự hóa’

Lãnh đạo ngân hàng dễ bị hình sự hóa’

BBC

Chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu nói các lãnh đạo ngân hàng ‘cần thay đổi tư duy quản trị’

Chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu bình luận với BBC về chuyện ‘lãnh đạo ngân hàng dễ bị hình sự hóa’ nhân vụ cựu Tổng giám đốc GPBank bị bắt.

Báo Nhân Dân và một loạt các báo khác cùng đưa tin hôm 18/3, Phòng 10 Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và tham nhũng (C46, Bộ Công an) cho biết, tống đạt quyết định khởi tố bị can, bắt tạm giam ông Phạm Quyết Thắng, cựu Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Dầu khí Toàn cầu (GPBank) cùng ba đồng phạm.

Hành vi của ông Thắng bị cho là ‘cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại cho ngân hàng hàng ngàn tỷ đồng’, các báo tường thuật.

GPBank là ngân hàng yếu kém bị rơi vào diện buộc phải tái cơ cấu từ năm 2012 và bị Ngân hàng Nhà nước ra quyết định mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng hôm 7/7/2015.

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước còn yêu cầu Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) tham gia quản trị, điều hành GPBank.

‘Thông lệ quốc tế’

Hôm 19/3, trả lời BBC, chuyên gia tài chính ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu nói: “Ông Thắng là một trong ba lãnh đạo ngân hàng bị bắt gần đây, cùng với Ngân hàng Xây dựng Việt Nam và Ngân hàng Đại dương. Tuy nhiên, cũng cần làm rõ là ông chưa bị kết tội trước khi tòa đưa ra phán quyết”.

Một số ngân hàng còn được lãnh đạo dùng làm ‘sân trước sân sau’ của đại gia nên họ dễ phạm phải những sai lầm

Chuyên gia ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu

“Có một thực tế là không ít lãnh đạo ngân hàng tại Việt Nam đang xem ngân hàng là công cụ tài chính cá nhân để đem lại lợi ích cho bản thân hoặc một số cổ đông, chứ không vì quyền lợi khách hàng”.

Tuy vậy, ông Hiếu cũng cho biết: “Khi có thiệt hại xảy ra, các lãnh đạo ngân hàng rất dễ bị hình sự hóa. Thực tế là đã có những trường hợp ngân hàng mất vốn, không thu hồn được khoản vay là do khách hàng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kinh tế khó khăn…”

“Do vậy, cơ quan pháp luật cần phân định rõ những trường hợp nào lãnh đạo ngân hàng cần chịu trách nhiệm dân sự hay hình sự”.

Chuyên gia nhấn mạnh: “Từ những vụ bắt lãnh đạo ngân hàng gần đây, đã đến lúc giới lãnh đạo ngân hàng cần thay đổi tư duy quản trị theo hướng phục vụ quyền lợi người dân. Mặt khác, hội đồng quản trị tại các ngân hàng phải tổ chức lại theo thông lệ quốc tế, nghĩa là chỉ xây dựng chiến lược chứ không can thiệp vào việc điều hành, cho vay như lâu nay”.

“Mặt khác, cũng nên làm rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước trong việc thanh tra, giám sát các ngân hàng yếu kém. Nếu Ngân hàng Nhà nước không mạnh tay trong việc xử lý các ngân hàng có dấu hiệu mà để đến khi những ngân hàng này gây hậu quả lớn thì cũng phải làm rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý”, ông Hiếu nói thêm.

Việt Nam: Trung Quốc liên tiếp xâm phạm chủ quyền ở Hoàng Sa

Việt Nam: Trung Quốc liên tiếp xâm phạm chủ quyền ở Hoàng Sa

Ông Lê Hải Bình - người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam.

Ông Lê Hải Bình – người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam.

18.03.2016

Việt Nam một lần nữa ‘lên tiếng’ phản đối các ‘hành động’ liên tiếp của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa.

Trang web Bộ Ngoại giao dẫn lời người phát ngôn Lê Hải Bình tại cuộc họp báo thường kỳ ngày 17/3 tuyên bố ‘Việc Trung Quốc tiếp tục bồi đắp, mở rộng, xây dựng, làm thay đổi nguyên trạng quần đảo Hoàng Sa và tổ chức du lịch ra quần đảo này, bất chấp sự quan ngại của phía Việt Nam và cộng đồng quốc tế là hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa’.

Phản hồi được đưa ra sau hàng loạt các hoạt động liên tiếp của Trung Quốc tại Hoàng Sa trong thời gian gần đây bao gồm đưa 300 du khách ra đảo Ốc Hoa, xây dựng cảng hàng không với đường băng dài 3.500m trên Đảo Cây, và tiếp tục lấn biển tại khu cụm đảo An Vĩnh.

Ông Bình nói những hành động này đi ngược lại nhận thức chung của lãnh đạo hai nước, vi phạm thỏa thuận Việt-Trung về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, và gây ảnh hưởng xấu cho quan hệ song phương.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng tố cáo Trung Quốc làm leo thang căng thẳng Biển Đông, vi phạm luật pháp quốc tế và Tuyên bố về Ứng xử ở Biển Đông mà Bắc Kinh đã ký với ASEAN hồi năm 2012.

Vẫn theo lời ông Bình, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hành động này để phát huy bang giao và duy trì hòa bình, ổn định Biển Đông.

‘Việt Nam một lần nữa khẳng định có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như quần đảo Trường Sa’, phát ngôn nhân Lê Hải Bình nhấn mạnh.

Ngoài những lời tố cáo Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền Việt Nam, ông Bình cũng lên án những hành vi vô nhân đạo của Trung Quốc đối với ngư dân Việt.

Ông Bình nói ‘sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với các ngư dân Việt Nam trong bất kỳ trường hợp nào là không thể chấp nhận được và chúng tôi kiên quyết phản đối’.

Thời gian gần đây, ngư dân đánh bắt ở Hoàng Sa liên tục bị tấn công, cướp bóc tài sản bởi những chiếc tàu mà họ tin là của Trung Quốc.

Bộ Ngoại giao Việt Nam đề nghị Bắc Kinh ‘xử lý nghiêm’ các hành vi phi pháp ‘của các lực lượng chức năng Trung Quốc, bồi thường thiệt hại cho ngư dân Việt Nam, và không để tái diễn các hành vi tương tự’.

Những tuyên bố của Việt Nam trước nay chưa từng được Trung Quốc đáp ứng, ngược lại, còn đáp trả bằng những hành động lấn lướt thêm nữa, khiến nhiều người phẫn nộ về cách phản ứng mà họ cho là ‘nhu nhược’ và ‘bất lực’ của Hà Nội trước ‘giặc ngoại xâm phương Bắc’.

Trước các động thái ‘bất chấp luật lệ’ của Bắc Kinh trong tranh chấp Biển Đông, Hà Nội kiên quyết theo đuổi giải pháp ôn hòa và còn lưỡng lự với biện pháp pháp lý.

Philippines, quốc gia láng giềng nhỏ bé cũng có tuyên bố chủ quyền một phần ở Biển Đông, từ năm 2013 đã làm đơn nhờ Tòa trọng tài thường trực của Liên Hiệp Quốc phân xử việc Trung Quốc đơn phương vẽ đường lưỡi bò chiếm trọn Biển Đông, vụ kiện mà cuối năm 2014 Việt Nam đã tuyên bố ủng hộ.

Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, VNA, Vietnamnet.

Việt Nam sai khi ‘nhờ cậy’ Trung Quốc cứu hạn

Việt Nam sai khi ‘nhờ cậy’ Trung Quốc cứu hạn
Nguoi-viet.com

CẦN THƠ (NV)Ðó là nhận định của ông Lê Anh Tuấn, phó giám đốc Viện Nghiên Cứu Biến Ðổi Khí Hậu thuộc Ðại Học Cần Thơ. Nhận định này được trình bày trên tờ Thơi báo Kinh tế Sài Gòn.

Ðồng bằng sông Cửu Long đang đối diện với một đợt hạn hán chưa từng có. Do trời nóng nhiều ngày, ít mưa, lưu lượng nước giảm từ 30% đến 60% và do Trung Quốc trữ nước để vận hành các công trình thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong, tại đồng bằng sông Cửu Long đang có hàng trăm ngàn hecta lúa và các loại cây khác chết khô, hàng triệu người khốn khổ do thiếu nước ăn uống.


Ông Thạch Thanh (42 tuổi) ở vùng bị mặn xâm nhập nặng thuộc huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, bần thần bên ruộng lúc khô cằn, nứt toác. (Hình: VNExpress)

Hôm 15 tháng 3, 2016, Trung Quốc đã bắt đầu xả nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng, tọa lạc tại tỉnh Vân Nam để hỗ trợ Việt Nam chống hạn. Trong khi Việt Nam đề nghị để giúp ngăn mặn, giảm thiệt hại do hạn hán, Trung Quốc nên xả nước nhiều đợt từ nay đến trung tuần tháng 8, mỗi đợt khoảng bảy ngày, lưu lượng xả phải vào khoảng 2.300 khối mỗi giây thì Bộ Ngoại Giao Trung Quốc thông báo, việc xả nước chỉ kéo dài cho đến ngày 10 tháng 4.

Theo các viên chức Việt Nam thì phải mất khoảng nửa tháng, nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng mới về tới đồng bằng sông Cửu Long.

Tuy việc Trung Quốc xả nước không như Việt Nam mong muốn nhưng một số viên chức Việt Nam hy vọng, nhờ vậy, nước mặn sẽ bị chặn lại, không lấn sâu hơn vào đất liền và các địa phương sẽ có nước để tổ chức tích trữ.

Trong bài viết có tựa là “Hạn, mặn ở đồng bằng sông Cửu Long: Có nên trông chờ vào thủy điện Trung Quốc?,” ông Tuấn không xem việc Trung Quốc xả nước, hỗ trợ Việt Nam chống hạn là đáng “phấn khởi.”

Ông nhấn mạnh, Trung Quốc không cho biết sẽ xả bao nhiêu nước và phương thức xả (liên tục hay gián đoạn trong khoảng thời gian từ nay đến 10 tháng 4. Ông Tuấn bảo rằng, điều đó chẳng có gì lạ vì xưa nay, tin tức và số liệu về thủy văn từ phía Trung Quốc lúc nào cũng rời rạc và mơ hồ như vậy.

Ông Tuấn cho biết, mỗi năm, đoạn thượng nguồn sông Mekong chảy trên đất Trung Quốc đóng góp khoảng 21% lượng nước cho khu vực trung lưu và hạ lưu của con sông này. Ðập của nhà máy thủy điện Cảnh Hồng (Jinghon) là nơi gần Lào nhất. Bên trên Cảnh Hồng còn năm đập nước khác trong chuỗi 14 đập nước mà Trung Quốc dự tính xây dựng tại thượng lưu sông Mekong. Dung tích hữu dụng của hồ chứa nước thuộc nhà máy thủy điện Cảnh Hồng là 249 triệu mét khối nước. Nếu Trung Quốc chỉ dùng hồ chứa nước thuộc nhà máy thủy điện Cảnh Hồng để giúp Việt Nam chống hạn theo đề nghị của Việt Nam thì chỉ sau 30 tiếng, hồ chứa nước của nhà máy thủy điện Cảnh Hồng sẽ cạn.


Bản đồ phác họa tình trạng hạn hán và nước mặn xâm nhập đồng bằng sông Cửu Long. (Ðồ họa: zing.vn)

Cũng vì vậy, hy vọng nước từ nhà máy thủy điện Cảnh Hồng sẽ giúp ngăn mặn, tích trữ để chống hạn bị ông Tuấn xem là hão huyền. Ông Tuấn cho rằng, có nhiều lý do khiến đề nghị Trung Quốc xả nước giúp Việt Nam ngăn mạn và giảm thiệt hại bởi hạn hán là thiếu khôn ngoan. Với đặc điểm như đã kể của nhà máy thủy điện Cảnh Hồng, Trung Quốc sẽ chỉ xả cầm chừng, rửa được tiếng nhơ (vô trách nhiệm trong sử dụng tài nguyên, hủy diệt môi trường và nguồn sống của hàng trăm triệu người), mua được tiếng tốt (có trách nhiệm với các quốc gia ở khu vực hạ lưu sông Mekong) mà vẫn duy trì được hoạt động của nhà máy thủy điện Cảnh Hồng.

Ngoài ra do khoảng cách từ nhà máy thủy điện Cảnh Hồng đến đồng bằng sông Cửu Long lên tới 4,000 cây số, địa hình của Lào, Thái Lan, Cambodia lại có nhiều nhánh, vùng trũng nên theo ông Tuấn lượng nước thật sự về tới đồng bằng sông Cửu Long sẽ chẳng còn được bao nhiêu.

Chưa kể khi về tới đồng bằng sông Cửu Long, lượng nước mà nhà máy thủy điện Cảnh Hồng xả ra sẽ không cứu cho hàng trăm ngàn hecta lúa và cây trồng khác đã chết khô sống lại.

Giữa tháng 4, thời điểm nhà máy thủy điện Cảnh Hồng ngưng xả nước là thời điểm toàn khu vực không có mưa, hạn hán sẽ nghiêm trọng hơn. Quyết định của Trung Quốc: Xả nước giúp Việt Nam chống hạn chẳng đem lại lợi ích nào thật sự tích cực cho Việt Nam.

Phó giám đốc Viện Nghiên Cứu Biến Ðổi Khí Hậu thuộc Ðại Học Cần Thơ nhắc lại kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác, đó là khi đối diện với hạn hán nghiêm trọng, người ta chấp nhận thiệt hại, không tìm mọi cách để chuyển nước từ nơi khác đến để cứu hạn vì điều đó vô nghĩa do tốn kém quá mức, hiệu quả kinh tế rất thấp. Bên cạnh đó, các quốc gia này đều tích lũy nguồn lực để hỗ trợ thích đáng những người bị thiệt hại do hạn hán nói riêng và thiên tai nói chung.

Ông Tuấn cho rằng, đợt hạn hán và nước mặn xâm nhập lần này là một cơ hội để xem lại tính hiệu quả của hàng loạt chính sách mà chính quyền Việt Nam đã thực hiện trong quá khứ, bất chấp các khuyến cáo từ giới chuyên gia: Ngọt hóa vùng ven biển. Thoát lũ ra biển Tây. Xây dựng hệ thống đê bao, phá bỏ hai hồ chứa nước tự nhiên lớn nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long là Ðồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên để tăng diện tích trồng lúa.

Theo ông Tuấn, dẫu hậu quả của đợt hạn hán và nước mặn xâm nhập lần này rất nghiêm trọng nhưng nó sẽ trở thành tích cực nếu xem lại toàn bộ định hướng phát triển kinh tế-xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long. (G.Ð)

Sầm Sơn & Đồ Sơn

Sầm Sơn & Đồ Sơn

tuongnangtien

RFA

“Một người đến Sầm Sơn trước và sau khi đọc Trống Mái sẽ … nhìn Sầm Sơn khác đi. Bởi quyến vọng biển, núi, mây, nước trong tác phẩm có khả năng thúc đẩy, chuyển biến, có khả năng thay đổi con người, mời gọi viễn du, invitation au voyage, nói theo Bachelard. Và nói theo ngôn ngữ hàng ngày, Trống Mái có khả năng sáng tạo lại môi sinh, tìm về một thế giới nguyên thủy, ở đó có sự thăng hoa của con người đến bầu trời tự do sáng tạo.”

Tôi chưa bao giờ có cơ hội được đặt chân đến Thanh Hoá, và cũng chưa đọc tác phẩm Trống Mái nên không khỏi cảm thấy xấu hổ (lẫn ngạc nhiên) khi xem đoạn văn thượng dẫn của nhà phê bình văn học Thụy Khuê.

Tôi xấu hổ vì vốn kiến thức cùng vốn sống nghèo nàn/hạn hẹp của mình, và ngạc nhiên về khả năng (“thay đổi con người, mời gọi viễn du, invitation au voyage”) của thiên nhiên, qua ngòi bút Khái Hưng.

Nếu nhà văn của chúng ta đừng bị thủ tiêu vào năm 1947, và vẫn sống cho đến hôm nay – chắc chắn – ông cũng kinh ngạc (không ít) khi biết ra rằng Sầm Sơn còn có khả năng “khêu gợi lòng tham” nữa. Bãi biển này, trong những ngày qua, đã làm xôn xao dư luận.

Bãi biển Sầm Sơn. Ảnh: Tuấn Minh

Xin ghi lại đây là vài nhận định – ở trong cũng như ngoài nước, và của cả hai lề – để rộng đường dư luận.

  • Bùi Thanh Hiếu: “Cướp lớn ở Sầm Sơn… Liên tiếp những ngày đầu tháng 3 năm 2016, các ngư dân thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hoá đã biểu tình để phản đối dự án khu ăn chơi nghỉ dưỡng của tập đoàn FLC triển khai ở bờ biển Sầm Sơn.”
  • Thạch Lựu: “Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được, ngày 03/3/2016 cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hoá đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự ‘gây rối trật tự công cộng’ và đang tiến hành điều tra, củng cố chứng cứ về hành vi phạm tội của một số đối tượng để xử lý nghiêm trước pháp luật.”
  • Văn Thị Hương: “tôi thử hỏi, 100 triệu các đồng chí bồi thường cho mỗi hộ dân, họ làm gì khi nguồn thực phẩm chính của họ bị mất, đất đai ruộng vườn không còn, khu công nghiệp không có, giá đất tăng vọt, lạm phát tăng, tệ tham nhũng chưa hết?”
  • Hoàng Anh – Văn Hùng:  “Điều bức xúc của người dân Sầm Sơn… Sau khi nhường hết đất cho Cty CP Tập đoàn FLC xây dựng các đại dự án sân golf, resort, khách sạn nghỉ dưỡng…, hàng nghìn người dân ở các xã Quảng Cư, phường Trung Sơn, Trường Sơn, Bắc Sơn… thuộc thị xã Sầm Sơn (tỉnh Thanh Hóa) chỉ còn sinh kế cuối cùng là bám biển mưu sinh. Vậy mà cũng chẳng yên…

Theo quan sát của phóng viên, hàng trăm người dân các xã Quảng Cư, phường Trung Sơn, Trường Sơn và Bắc Sơn đã tập trung trước cổng UBND tỉnh Thanh Hóa. Họ mang theo mỳ tôm, bánh mỳ, nước uống và cả chăn chiếu để chờ đợi gặp lãnh đạo tỉnh. Tuyến đường chính trước cổng UBND tỉnh phải lập hàng rào, hàng chục công an, cảnh sát được huy động để giữ trật tự. Người dân kiên trì chờ đợi.

Chúng tôi sẽ sống bằng gì nếu mất bãi biển”?

Ảnh: Tuấn Minh

Nỗi băn khoăn về sinh kế của người dân Sầm Sơn, trong những ngày tháng tới, khiến tôi chợt nhớ đến Đồ Sơn và sự “phồn thịnh” ở nơi đây nhờ vào dịch vụ bán dâm:

“Bãi biển Đồ Sơn nằm trong những bãi biển du lịch nổi tiếng. Nhưng nói không ngoa chút nào, nếu thiếu và yếu cái dịch vụ đi kèm thì Đồ Sơn chẳng thu hút được mấy khách. Từ lâu, những cô gái chân dài tứ xứ đã đổ về đây cư ngụ, mưu sinh bằng cái thứ mà ông trời ban phát. Hễ nói đi Đồ Sơn là nhiều người lại nháy mắt nhìn nhau bí hiểm. Bởi đến đây, ngoài mục đích là tắm biển thì cái thú vui duy nhất được khách du lịch quan tâm tới đó là…chơi gái…

Ở Đồ Sơn người ta gọi cái nghề bán miền xuôi, nuôi miền ngược này là ngành công nghiệp không khói hay còn nói hay ho là nghề làm giàu không khó. Xây một cái nhà nghỉ, nuôi mấy ả cave, chăn thêm mấy đứa bảo kê là ngồi một chỗ đếm tiền. Tiền vào như nước, mỗi ngày vài chục triệu đồng dễ ợt. Trong khi nền kinh tế suy thoái chưa có hồi kết nhưng những tụ điểm mây mưa, thác loạn như thế này thì vẫn ăn nên làm ra.” (Biên Thùy – “Những Cuộc Mua Vui Nhớp Nháp Ở Đồ Sơn”).

Số lần “nhớp nháp” của khách mua vui đều được ghi chép cẩn thận trong nhật ký của người bán. Xin xem qua đôi dòng của ký giả Anh Đào viết về một cuốn Nhật Ký Đồ Sơn:

Nguồn ảnh: báo Lao Động

“Đó là nhật ký ‘làm việc’ của một cô gái mại dâm gần như kín các dấu ‘X’. Sở dĩ phải ghi chép là để cuối tháng, cuối tuần, cuối ngày ‘đọ sổ’ với chủ mà thanh toán tiền, giống hệt với một dạng ‘chấm công’. Đây là một đoạn trong bài viết: ‘Những ký hiệu dấu sao ‘*’ trong vòng tròn, đó là ‘đi qua đêm’ và được tính bằng 3 ‘cuốc’ đi nhanh. ..Dấu ‘X’ có gạch dưới là những lần đi một lần, tính với chủ là 1, nhưng em cho khách làm 2, được bo khá. Còn cái dấu ‘X’ nằm trong ô vuông thì em không nói gì cả, nhất định không chịu nói ra. Như vậy, đây là một dạng ‘văn vật’ có hồn. Có ngày em đánh dấu 16 ‘nhát’, nói chung số ngày có trên 10 ‘nhát’ hơi nhiều. Ngày nhiều nhất là có tới đánh 21 cái dấu X’, lại có 3 gạch chân’. Nhưng 21 lần/ngày vẫn chưa phải là kỷ lục. Cũng chính cô gái này kể lại: Ở Đồ Sơn có đứa dịp 30/4, đã ‘đi khách’ tính với chủ là 50 lần.”

Số “nhát” hay số lần “nhớp nháp” được tính đủ và chia đều, theo như tường thuật của nhà báo Biên Thùy: “Một cô cave ở Đồ Sơn kể rằng, đằng sau những cô gái bán dâm, đằng sau những đêm mua vui dài dằng dặc là cuộc sống sung túc, đủ đầy của tầng tầng, lớp lớp những tú ông, tú bà. 250 nghìn đồng tàu nhanh ấy cũng phải chia năm, xẻ bảy ra thì mới yên thân, chứ đâu phải làm 10 đồng hưởng cả 10 đồng.

Lại nói đến cái tầng tầng, lớp lớp tú ông, tú bà ở thiên đường này cho rõ. Có những tú ông phơi mặt ngay cổng nhà nghỉ, đứng đón khách tận cửa phòng. Nhưng có cái loại tú ông, tú bà cao cấp hơn, chẳng cần đón khách, chẳng cần phơi mặt ra làm gì cũng có tiền. Những ‘tú ông cao cấp’ như thế chỉ đạo bằng những cú điện thoại, bằng một thứ văn bản không có dấu. Và, ngày ngày vẫn nghiễm nhiên hưởng lợi từ thân xác của gái bán dâm. Thế mới tài!”

Loại “tú ông cao cấp” này càng ngày càng xuất hiện nhiều ở Việt Nam, riêng Thanh Hoá – tất nhiên – cũng không ít. Cứ theo cách nói nước đôi của ông Bí Thư Tỉnh Ủy Thanh Hoá (“bà con nào đồng ý di dời thì nhận tiền bồi thường trước ngày 15.4… bà con nào chưa đồng ý thì cứ làm bình thường như lâu nay…”) trong cuộc đối thoại với dân – vào ngày 7 tháng 3 vừa qua – và theo chủ trương, đường lối, chính sách chung của Nhà Nước hiện nay thì sớm muộn gì Sầm Sơn cũng trở thành Đồ Sơn thôi.

Việt Nam tụt hậu, trách nhiệm không nhỏ thuộc về những nhà “khoa học” và “trí thức”

Việt Nam tụt hậu, trách nhiệm không nhỏ thuộc về những nhà “khoa học” và “trí thức”

FB Trương Nhân Tuấn

18-3-2016

Nếu có tầm nhìn thì VN đã không mỗi ngày một tụt hậu như hôm nay. Trách nhiệm là do lãnh đạo, nhưng một phần không nhỏ là do những nhà “khoa học” và “trí thức”.

Một thí dụ đơn giản, Hà Nội, Sài Gòn… cũng như nhiều tỉnh thành khác. Khoảng mười năm trở lại đây, hễ mùa mưa đến là ngập lụt. “Hà Nội mùa này nước cũng như sông”. Sài Gòn cũng vậy, không kém.

Nguyên nhân do trời hay do người? Và đâu là “giải pháp”?

Cả chục năm rồi, mưa xuống là lụt, người dân dài cổ chờ “giải pháp”.

Người ta cần giải pháp chớ không cần nghe “lý thuyết”.

Người nông dân đồng bằng sông Cửu Long hiện nay đang khóc ròng, lớp khóc vì mất mùa, ruộng lúa cháy khô. Lớp khóc vì tiền tỉ nuôi con hàu, con tôm, con cua… tiêu tan thành mây khói. Mà một phần lớn dân nghèo khác khóc đến chảy máu mắt, vì giá nước ngọt trở nên đắt đỏ.

Người dân cần “giải pháp” chớ không cần nghe “khoa học gia” dạy bảo phải trồng cây gì, nuôi con gì.

Ý kiến của những “khoa học gia” VN, trên “lý thuyết” đều rất hay. Vấn đề là “trái mùa”.

Chuyện nhiễm mặn, chuyện trái đất hâm nóng và thay đổi thời tiết, chuyện các nước xây dựng đập ở thượng nguồn sông Cửu Long, cũng như chuyện lụt lội mùa mưa ở Hà Nội, Sài Gòn… người ta đã biết trước hàng chục năm rồi. Người ta cần giải pháp. Người ta mỏi cổ chờ mà giải pháp không thấy.

Hôm qua tôi đã viết, nếu có tâm và có tầm, thì trước tiên người ta đào tạo “vốn con người”. Đài Loan, Đại Hàn là hai nước có điểm tương đồng với VN, sau độc lập, kinh tế đặt nền tảng lên nông nghiệp. Hai nước này “hiện đại hóa, công nghiệp hóa” đất nước thành công, từ thập niên 70, 80. Đóng góp của nông nghiệp cho GDP từ 40%, chiếm 70% dân số, xuống còn khoảng 3% và không tới 10% dân số. Còn Việt Nam, bốn thế hệ đã qua là bốn đời nông dân tiếp bước. Dân số sống về nông nghiệp, đặc biệt ở miền nam (lục tỉnh), vẫn không thay đổi với thời gian, lên trên 80%.

Nếu có “tầm”, lý ra VN đã phải kiểm soát các đập nước ở thượng nguồn. Bởi vì VN không thể ngăn cấm các nước khác xây đập. Vì vậy, để không bị lệ thuộc, VN phải “kiểm soát” được các đập, bằng cách “đầu tư” xây dựng. VN không “nắm” được, vì thế sinh mạng ĐBSCL nằm trong tay các nước thượng nguồn.

Và nếu có tâm và có tầm, hạ tầng cơ sở (hệ thống điện, nước, đường xá, cầu cống, trường ốc…) lý ra cũng phải được xây dựng từ lâu. “Hệ thống nước uống” của nông dân vẫn là những lu nước bên hè (như trăm năm trước). Đường xá nhiều nơi vẫn là chèo xuồng… Nếu hệ thống giếng nước ngọt (miễn phí) dưới thời (chó đẻ) Mỹ, Diệm, Thiệu, Kỳ… được tiếp tục xây dựng thì dân đâu đến đỗi khóc ra máu mắt như hôm nay ?

Hạn hán khắp nơi, bây giờ khoa học gia bày ra chuyện nuôi tôm nuôi cua, thật là trái khoáy.

Những năm trước, khi má tôi còn khỏe, năm nào cận tết cũng cho xe chở về quê (Bạc Liệu) vài chục tấn gạo để “cứu đói”. Mĩa mai, đây là xứ của “công tử Bạc Liêu”, ruộng cò bay thẳng cánh.

Khu vực quê ngoại của tôi, từ khi nước nhiễm mặn, dân người ta cũng bỏ ruộng, đào mương nuôi tôm. Một hai mùa đầu bà con trúng đậm. Nhưng sang các mùa sau, tôm chết như rạ. Thay nước, đổ thuốc… đủ cách, mà cách nào dân cũng chết. (Tôm nhiễm thuốc trụ sinh bán không nước nào mua, cũng chết). Bơm nước rửa ruộng, thì ngay nước ngọt rửa ruộng cũng đã nhiễm mặn. Lúa trồng không được. Rốt cục trồng cây gì, nuôi con gì dân cũng chết. Người dân bỏ xứ đi các nơi ở đợ.

Năm nào cũng vậy, hiếm khi nhìn thấy người dân quê ở đây một nụ cười. Bây giờ nghe nói hạn hán ghê lắm, không có nước ngọt để uống.

Má tôi càng già trí nhớ càng mông lung. Không nhớ tới làng quê không chừng lại khỏe!

Và bây giờ không chỉ riêng quê ngoại của tôi chết vì nhiễm mặn, vì hạn hán. Các vùng khác, trước kia toàn là dân “phú hộ”, nay cũng bắt đầu than trời!

Kế hoạch thì phải tính trước 10 năm, 20 năm. Không cần ai dạy, lũ đến, người dân cũng biết mình phải “trồng cây gì, nuôi con gì”.

Mà bây giờ người dân cần nước ngọt.

HỒI KÝ MỘT BẠN TÙ CỦA CHA GB. NGUYỄN VĂN VÀNG, DCCT

HỒI KÝ MỘT BẠN TÙ CỦA CHA GB. NGUYỄN VĂN VÀNG, DCCT

 VŨ ÁNH,

 Trich EPHATA 685

 Ngày 29.4.1984, tôi được chuyển sang xà lim số 6 trại A-20 ở chung với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, linh hồn của một vụ nổi dậy do ngài và người em chủ trương năm 1976. Tôi hoàn toàn không hiểu lý do của việc chuyển xà lim cá nhân này. Ðây cũng là ngày mà tôi đánh dấu 3

năm bị cùm hai chân và có giai đoạn cả hai tay trong xà lim số 5. Phải nói là tôi bị gông thì đúng hơn. Nếu quý vị được nhìn thấy những tội phạm của thời phong kiến bị gông như thế nào thì chúng tôi bị gông như thế nấy. Chỉ có khác là nhà tù CS không gông cổ mà thôi. ( Ảnh cha Vàng đang hướng dẫn về thuật hùng biện trước biến cố 30 tháng 4 ).

LM NGUYEN V VANG

Linh Mục Vàng, một nhà giảng đạo lỗi lạc của Dòng Chúa Cứu Thế, sau khi bị lên án chung thân khổ sai sau vụ và em ruột ngài là Linh Mục Hiệu bị xử tử, đã bị đưa lưu đầy tại trại A-20 Xuân Phước. Khi tôi đã nằm cùm trong biệt giam trong phòng số 5 được hai năm thì một hôm

Linh Mục Nguyễn Văn Vàng lúc ấy từ trại lao động bị đưa vào xà lim số 6, bên cạnh xà lim tôi bị giam. Khi còn ở ngoài trại lao động, ngài là đối tượng theo dõi của đám an ninh trại giam, nhất cử nhất động đều không qua mắt được một giàn ăng ten dầy đặc vây quanh vị Tu Sĩ Công Giáo này. Bọn an ninh trại nói thẳng ra rằng nếu chúng bắt gặp bất cứ tù nhân nào liên hệ với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, sẽ cùm ngay.

Tôi là một Phật tử, nhưng mối liên hệ với Cha Vàng khá thân thiết và chúng tôi thường đàm đạo

với nhau vào mỗi ngày sau giờ cơm chiều trước khi điểm số để vào buồng giam, không chấp lệnh của trại. Có lẽ đây là lý do bọn an ninh trại đưa tôi đi “nghỉ mát” trước và hai năm sau họ đưa Cha Vàng và một vài anh em nữa vào những chiếc hộp nhỏ ở ngay sau nhà bếp của trại A. Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước thường được chúng tôi gọi là trại trừng giới ( danh từ có từ thời Pháp thuộc để chỉ những trại có quy chế trừng trị tù nhân khắt khe ). Cục Quản Lý Trại Giam của CS thì gọi những loại trại này là Trại Kiên Giam. Tại sao chính quyền CS gọi những trại được đánh mã số bằng chữ A và tiếp theo là một hàng con số ? Thật ra thì rất ít người được biết lý do tại sao lại gọi A-20 là một trại kiên giam nếu không có dịp bị gọi đi thẩm cung nhiều lần trước khi được “gởi” vào những chiếc “hộp” ở Xuân Phước.

Sau biến chuyển đánh dấu bằng việc Trung Quốc tấn công 6 tỉnh sát biên giới Việt Trung năm 1979, Cục Trại Giam được lệnh thực hiện một kế hoạch gọi là “Phương Án 4”, nghĩa là thực hiện một kế hoạch tuyển lựa tất cả những thành phần cứng đầu “không thể cải tạo được nữa” để đưa vào những trại A và trại Z. Kế hoạch này là tác phẩm của một viên Ðại Tá về sau này trở thành một tướng lãnh công an tên là Hoàng Thanh ( có lẽ là bí danh ). Hoàng Thanh đã thẩm cung chúng tôi và rất nhiều tù nhân khác mấy tháng trước khi tôi bị chuyển trại về A-20. Lần sau cùng là vào mùa Thu 1979, khi thẩm cung tôi lần chót, ông ta cười cười nham hiểm nhưng nói huỵch toẹt: “Tôi biết chắc chắn là khi chuyển về trại mới, các anh không còn ngày ra. Cho nên tôi khuyên các anh là tốt nhất nên ngoan ngoãn để hưởng khoan hồng của nhà nước, nói chung là được mang vợ con các anh lên lập nghiệp ở đây cho gần. Khu vực trai giam sau này sẽ trở thành một đập nước và một thị trấn. Chúng tôi muốn thiết lập một trong những tiểu Siberia. Bây giờ, tôi thấy không còn cần phải giấu giiếm gì các anh nữa” rại A-20 lúc đầu ( 1979 ) có tới 4 trại được đánh số A, B, C, D, ở cách nhau trên dưới 5 cây số.

TRAI GIAM CS

Trại A được xây hoàn toàn bằng bê tông cốt sắt tường, bệ nằm, vườn rau ao cá dưới những rặng dừa xanh tốt. Nhưng bên trong những dãy nhà gạch, mái ngói đỏ au đó là những phương thức câu thúc thân thể và tinh thần không khác các trại giam ở Siberia dưới thời Stalin mà phần lớn người đọc sách ở Miền Nam Việt trước 1975 đều biết qua cuốn “Quần Ðảo Gulag” của văn hào Solzhenitsin. Tôi sẽ có dịp nói đến chuyện này trong một bài viết khác. Bây giờ tôi quay lại chủ đề của bài viết này. Những người xây dựng trại Xuân Phước là ai ? Cái oái oăm của lịch sử mà chúng tôi gặp phải chính là ở chỗ: Trại tù này lại do chính bàn tay của những người từng được di tản tới Guam trước ngày 30.4.1975, sau đó lại biểu tình đòi trở về lại Việt Nam bằng tầu Việt Nam Thương Tín, tạo dựng lên. Lúc chúng tôi được chuyển trại về đây thì có một số vẫn chưa được trả tự do. Chạy nạn CS tới Guam, rồi vì những lý do riêng biệt hầu hết là vì gia đình còn kẹt lại, trong cơn hoang mang và đau khổ tột độ, tình cảm che lấp lý trí và bị kích động, họ đòi quay trở về với lý do xây dựng lại quê hương sau chiến tranh. Nhưng người CS thừa hiểu, những người tị nạn này quay trở về chỉ vì có người còn vợ con, có người còn mẹ già không có người săn sóc, có người hoảng loạn bỏ lại vợ mới cưới, người tình đằng sau. ( Cảnh tàu Việt Nam Thương Tín trở về cập bến ). Cho nên, CS mở một cuộc đón tiếp để quay phim chụp hình và sau đó đẩy tất cả đàn ông vào khu rừng Xuân Phước và bị buộc phải xây dựng nhà tù này để chính quyền CS giam giữ chính những đồng đội của mình. Tôi đã có rất nhiều dịp tiếp xúc với họ, nên hiểu được tấm lòng của họ và thấy họ đáng thương quý hơn là đáng trách. Một sĩ quan xưng là quản gia cho tướng Nguyễn Cao Kỳ tâm sự với tôi: “Cậu tính coi, lúc đó vì hoang mang đi gấp không kịp lôi vợ con và bà mẹ già theo. Ðến Guam, cứ nghĩ đến họ, làm sao nuốt nổi miếng cơm chứ. Tôi biết nhiều người không thể thông cảm được lý do tôi trở về, trong đó có thể có cả vợ con tôi nữa, nhưng đành chịu vậy. Cho nên dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn nạn như thế này, tôi vẫn thấy lương tâm yên ổn hơn”. Tôi không có ý định nói chi tiết về vụ này mà muốn trở lại cái đêm Noel trong xà lim số 6. Xà lim là tiếng dịch theo âm Việt Nam của “cellule” ( tiếng Pháp ), xuất hiện trong văn chương và báo chí từ thời Pháp thuộc. Thực ra nếu tra tự điển tiếng Anh Việt hay Pháp Việt, chữ cell hay cellule đều có nghĩa là “tế bào”. Trong các trại tù của những quốc gia theo chủ nghĩa tư bản cũng như chủ nghĩa CS, hoặc các quốc gia dân chủ tự do, những “tế bào” vẫn được hiểu là những phòng biệt giam cá nhân để trừng phạt những tù nhân nguy hiểm. Những phòng biệt giam cá nhân này thường được xây dựng theo một tiêu chuẩn giống nhau: Không gian nhỏ hẹp của chúng phải đáp ứng được nhu cầu trừng phạt cả thể xác lẫn tinh thần người tù. Riêng tại các trại cải tạo do người CS dựng lên, những phòng biệt giam cá nhân được gọi bằng một nhóm từ “nhà kỷ luật”.

TRAI GIAM

Trại A ở A-20 Xuân Phước có một dãy 10 phòng biệt giam cá nhân, mỗi phòng như vậy giống như một cái hộp với bề rộng 3 thước, dài 3 thước, cao 6 thước, xây dựng bằng vật liệu bê tông cốt sắt, kín mít chỉ có một lỗ tò vò nhỏ ở cánh cửa trước để cho vệ binh kiểm soát tù nhân ở bên trong. Ở phía trong mỗi xà lim cá nhân, có hai bệ nằm song song, cách nhau bằng một khoảng hẹp chừng nửa thước. Người tù nằm trên bệ quay mặt ra phía cửa hai chân bị cùm chặt bằng một cùm sắt, có nhiều trường hợp bị cùm cả hai chân hai tay.

Nhưng cùm như thế nào ? Có phải là cùm bằng còng số 8 như ta thấy cảnh sát Mỹ còng tay

phạm nhân để giải giao về sở cảnh sát không ? Thưa không phải như vậy ! Làm gì chúng tôi lại được ưu đãi đó. Loại còng trong những xà lim mà tôi trải qua suốt 5 năm liên tiếp tại A-20 trong rừng Xuân Phước là “cùm Omega”. Tại sao lại gọi loại cùm này bằng cái tên của một hiệu đồng hồ rất nổi tiếng là đồng hồ Omega ? Hai cái vòng sắt để khóa hai chân người có hình thù giống y chang logo của đồng hồ Omega. Khi bị còng trong xà lim, người tù cải tạo bị đẩy ngồi lên bệ nằm, duỗi thẳng hai chân. Viên cán bộ an ninh trại giam sai một trật tự lấy ra một lô vòng sắt hình ký hiệu omega ra và ướm thử vào cổ chân người tù. Nếu đám an ninh trại giam không có ý định trừng phạt nặng tù nhân cải tạo thì họ ra lệnh cho trật tự lấy hai vòng omega vừa vặn với cổ chân người tù cải tạo. Ngược lại nếu họ muốn trừng phạt nặng và muốn làm nhiễm độc thối chân người tù, họ tra vào cổ chân tù cải tạo hai vòng omega nhỏ hơn vòng cổ chân rồi đóng mạnh xuống. Khi cổ chân người tù lọt vào được chiếc vòng omega, nó đã làm trầy trụa một phần hay nhiều phần cổ chân người tù. Sau đó, họ tra vào bên dưới một cây sắt dài qua bốn lỗ tròn ở hai vòng omega, một đầu cây sắt ăn sâu vào mặt tường trong, đầu phía ngoài của thanh sắt được xỏ qua một chốt được gắn thật sâu xuống cạnh bên ngoài của bệ nằm. Một cây sắt khác ngắn hơn, một đầu được uốn tròn, đầu kia của cây sắt này được đánh dẹp và khoan một lỗ nhỏ. Khi hai thanh sắt này được khóa chặt với nhau thì một đầu của cây sắt dọc sẽ xuyên qua một lỗ nhỏ tường phía trước, thò ra ngoài một đoạn. Chỉ việc tra một cái khóa vào đầu phía ngoài ấy của thanh sắt dọc là tất cả hệ thống trên sẽ tạo thành một cái cùm thật chặt khó lòng một người tù nào có thể mở khóa, vì mấu chốt để tháo cùm là ổ khóa bên ngoài. Phải mở được ổ khóa bên ngoài thì mới mở được cùm.

NHA TU

Có bốn mức cùm dành cho một tù cải tạo khi họ bị biệt giam ở trại Xuân Phước: mức độ 1: Cùm một chân phải, mức độ 2: Cùm một chân trái, mức độ 3: Cùm hai chân, mức độ 4: Cùm hai chân hai tay. Tôi đã trải qua mức độ 4 trong 8 tháng liên tiếp, sau đó giảm xuống mức độ 3, rồi lại tăng lên mức độ 4 trước khi giảm xuống mức độ 3, 2 rồi 1. Khi còn bị cùm mức độ 4, ngoài hai bữa ăn và ban đêm, tôi được tháo cùm 2 tay, thời gian còn lại lúc nào tôi cũng phải ngồi cong như con tôm luộc vì kiểu cùm độc ác này. Sở dĩ tôi được giảm xuống mức độ 3 rồi trở lại mức độ 4 chỉ vì một sự kiện: Sự can thiệp của Hội Ân Xá Quốc Tế để thả tôi ra. Khi hai thành viên của Hội này là bà Frederick Fuchs ( người Bỉ ) và ông Pierre Carreaux ( cựu chiến binh người Pháp ) từ Belgique bay qua Bangkok với một danh sách 14 ký giả, phóng viên bị trả thù bởi chế độ mới tại Việt Nam và đòi đến Hà Nội để được gặp mặt những người này. Chỉ có bà Fuchs là được vào Hà Nội, nhưng bà chỉ được nhận hồ sơ can thiệp và được phép thăm bà mẹ tôi tại Sàigòn chứ không được đến trại A-20 gặp mặt tôi. Khi bà Fuchs đòi chiếu khán ở Bangkok để vào Hà Nội trùng vào thời điểm tôi được tháo cùm hai tay và thời gian bà Fuchs rời Hà Nội trùng thời gian tôi bị trở lại mức cùm số 4. Trước khi tôi được tháo cùm hưởng ân huệ ở mức độ 2, thì một phái đoàn do Hoàng Thanh hướng dẫn từ Hà Nội vào “thăm” A-20. Ông ta lôi một lô những người tù cải tạo đang nằm trong biệt giam tại trại A cũng như B ở A-20 ra thẩm cung. Tôi được một trong những thẩm vấn viên cho xem bản sao những lá thư can thiệp đòi thả tôi, và 13 ký giả khác trong đó có kèm theo cả những lá thư của bằng hữu và đồng nghiệp với tôi ở Pháp, trong đó có thư của ông Trần Văn Ngô tức ký giả Từ Nguyên, một cựu phóng viên của Việt Tấn Xã thuộc lớp đàn anh chúng tôi. Sau đó anh ta nói thẳng với tôi: “Bọn mày thấy đấy, mấy thằng Tây này kể cả mấy thằng ký giả Việt gian chạy trốn tổ quốc không thể đánh tháo chúng mày được. Khôn hồn thì chịu cải tạo để không bị chết trong cùm. Suốt đời chúng mày sẽ không ra khỏi cái thung lũng này được đâu. Ân Xá Quốc Tế hả, còn khuya bọn nó mới làm gì được chúng tao”.

Tôi không trách gì việc can thiệp này mà lại còn vui là đằng khác, bởi vì nó củng cố cho tôi một niềm tin và thấy được tấm lòng hào sảng của bạn bè đồng nghiệp ra được nước ngoài. Tôi thành thật tri ân họ.

Những ngày tiếp theo, tôi bị nâng cùm ở mức độ 4 và bị cắt khẩu phần ăn xuống chỉ còn bằng một nửa so với các anh em bên ngoài, nghĩa là chỉ còn mỗi bữa ăn 150 grams. Nếu tính chi ly ra thì 150 grams thực phẩm mỗi ngày gồm khoảng 5 lát khoai mì khô luộc và một muỗng cơm, tất cả chan đẫm nước muối và được phát cho nửa ca nước một ngày. Ăn mặn và uống nước ít, người rất dễ bị phù sẽ ảnh hưởng tới thận. Trong tù mà bị thận thì kể như tàn đời. Cho nên ăn lúc đó trở thành ít quan trọng hơn dù lúc đó chúng tôi đã là lũ ma đói. Cái khát triền miên đã che đi cái đói. Nếu tôi muốn ăn được khẩu phần dành cho người đang bị trừng phạt phải dùng ít nhất nửa phần nước để rửa bớt cái mặn của nước muối được chan vào cơm và khoai mì. Tôi không dám hy sinh những muỗng nước quý như vàng lúc đó để rửa phần khoai. Tôi nghĩ chỉ có cách nhịn, nhưng càng đói lả đi thì mồ hôi ra như tắm, một tình trạng hết sức nguy hiểm. Cha Vàng thấy tôi lả đi, ngài đập cửa báo cáo nhưng đám cán bộ của nhà kỷ luật im lặng, coi như không có chuyện gì xảy ra.

Buổi trưa hôm đó, Cha Vàng nẩy ra một ý kiến. Ngài nói: “Anh không thể tránh ăn mãi như thế.

Nếu Chúa che chở cho mình, phù cũng không chết. Bố tự trách không nghĩ ra việc hy sinh nửa ca nước của bố cho anh. Khoai mì ít ngấm nước muối hơn. Bố sẽ hy sinh nửa phần nước để anh rửa khoai mì cho bớt mặn”. Tôi khước từ: “Bố ( trong tù chúng tôi đều gọi tất cả các Tu Sĩ của các đạo giáo là bố hết ) lớn tuổi sức chịu đựng yếu rồi, nhịn khát như con không được đâu”. Ông cười: “Sao biết không được đã thử đâu mà biết không được”. Tôi chọc ngài cho bớt căng thẳng: “Thế bố đã thử chưa mà khi đi giảng đạo có lúc bố nói về hạnh phúc lứa đôi”. Cả hai chúng tôi đều cười vang. Cha Vàng nói: “Ê này, để bố nói cho anh nghe chuyện này. Bố dù là Linh Mục thì cũng là người, con tim cũng rung động như mọi người khác, nhiều lúc bố cũng muốn thử. Những lúc như thế mình phải tranh đấu với chính bản thân mình ghê lắm để đừng vượt rào đi ăn tình. Ðiều này cũng cần can đảm mới làm được. Tín đồ kính trọng người tu hành là kính trọng sự can đảm ấy, kính trọng sự vượt qua để phụng sự, chứ nếu giống như thường tình thì nói gì nữa”.

Vâng thưa quý vị, giải pháp của Cha Vàng đã khiến cho một tuần, hai tuần, ba tuần qua đi nhanh và vô hiệu hóa được sự trừng phạt. Vào tuần lễ thứ tư của cuộc trừng phạt, như một phép lạ, viên cán bộ phát cơm nhà kỷ luật không phải là tên trực trại như thường lệ mà là một anh chàng lạ hoắc. Tù nhân mang cơm cho nhà kỷ luật cũng không phải là Hùng đen mà là Tuấn “sún” ở đội tù hình sự. Thông thường, khi vào phát khẩu phần cho nhà kỷ luật, viên cán bộ trực trại thường mở xà lim có tù nhân “bị gởi” ( tù nhân bị ăn chế độ trừng phạt ) trước. Nhưng lần này thấy các xà lim được lần lượt mở từ 1 cho đến 9 ( số hên ? ) Xà lim 10 không có “khách”.

Ðến xà lim số 6, Cha Vàng đưa hai chiếc bát nhựa và hai ca đựng nước ra trong khi viên cán bộ đích thân mở khóa tay cho tôi. Viên cán bộ này mặc đồ CA không lon lá gì cả nên không biết cấp bậc anh ta. Phát khoai xong, thấy Tuấn “sún” múc một vá nước muối, viên cán bộ nói ngay: “Ít muối thôi, chan đẫm vào, làm sao người ta ăn được”. Ðến phần nước, khi thấy Tuấn “sún” múc đầy cả hai ca, tôi hiểu rằng hôm đó tên cán bộ trực trại có việc gì đó không mở trại kỷ luật được, nên nhờ bạn thay thế. Vì làm thế nên anh chàng này không còn nhớ hoặc không thèm nhớ là trong trại có tù nhân phải ăn khẩu phần dành cho chế độ trừng phạt.

Phát xà lim số 9 xong, lại thấy có tiếng chìa khóa mở cửa xà lim số 6 của tôi. Tôi đinh ninh rằng họ quay lại để lấy bớt phần nước nên tôi vội vàng cầm ca nước uống hết. Nhưng không, Tuấn “sún” xách thùng nước đứng ở cửa phòng hỏi: “Có gì đựng thêm nước không”. Tôi nói: “Có” và đưa ca nước ra. Tuấn “sún” đổ đầy hai ca nước, rồi lại hỏi: “Còn đồ đựng nước khác không ?” Cả hai chúng tôi lắc đầu. Viên cán bộ xen vào: “Ðổ vào thau cơm cho họ, chiều hay mai lấy ra”.

Hình phạt dành cho tôi chấm dứt vào đầu tháng 11. Tôi đoán hết lý do này đến lý do khác khiến chúng chấm dứt sự trừng phạt đối với tôi. Nhưng Cha Vàng nhận định: “Nếu cần phải giết chúng ta, chúng đã tùng xẻo mình ngay từ lúc đầu. Ðoán làm gì cho mệt…” Cuối tháng 11, cả hai chúng tôi đều được mở cùm cho ra đi tắm, lần đầu tiên sau 3 năm biệt giam. Khi được mở cùm, tôi đứng lên không nổi vì hai chân dường như cứng lại. Cha Vàng cũng nằm trong tình trạng ấy, nhưng ngài mới bị biệt giam hơn một năm nên còn lết được. Chúng tôi bám lấy nhau theo hướng dẫn của trật tự đi ra ngoài giếng được đào bên cạnh một ao cá ngay sau nhà kỷ luật. Thời tiết tháng 11 ở vùng tiền sơn Tuy Hòa đã lạnh lắm rồi.

Tôi còn có được một cái áo lạnh tự may bằng cách phá một chiếc chăn len của một bạn tù cho từ

năm 1980. Khi được cho chiếc chăn len này, tôi nghĩ ngay đến chuyện may thành chiếc áo giống như áo trấn thủ. Trò may vá trong các trại tù cũng là một thú tiêu khiển và giết thời giờ. Chúng tôi dùng những cọng sắt để làm kim và chỉ thì bằng những sợi rút ra từ những chiếc áo hay quần may bằng bao cát . Chính ở những trò may vá này, chúng tôi học được một bài học: Cùng thì tắc biến. Trước những trò đàn áp, những mưu chước thô bạo quản thúc con người trong các nhà tù CS, vẫn có rất nhiều người vượt qua được cơn khốn khó do bản năng sống còn của họ rất mạnh. Cứ thử nghĩ một người nếu ăn bất cứ con vật gì mà họ bắt được kể cả rít núi, cỏ kiểng, ăn sống cả loại khoai mì H-34 có nhiều chất độc trên đất Hoa Kỳ này, thì chỉ có nước vào nhà thương sớm. Nhưng thời gian dưới các nhà tù CS bệnh không có thuốc, ăn bậy bạ mà các tù nhân cải tạo ít bị hề hấn gì. Tôi nghĩ một cách chủ quan rằng chỉ có phép lạ hay bản năng tự tồn của người khi bị đẩy vào cùng quẫn mạnh, mới giúp cho một người tù sống được và có ngày trở về.

Một số bạn tù của tôi sau này hay nói đến chuyện sống vì tinh thần, lúc đầu tôi chỉ coi là chuyện

vui, nhưng ngẫm nghĩ lại thấy cũng có phần chí lý. Khi một người tù chấp nhận phần xấu nhất về mình, sẽ bất chấp những đòn thù. Vì một người biết chấp nhận phần xấu nhất về mình trong hoàn cảnh lưu đầy, sẽ chẳng còn gì phải suy nghĩ về hiện tại lẫn tương lai, ngày về. Lúc đó nếu VC có bắn mình một viên vào ngực, có lẽ điều đó được coi là ân huệ hơn là kéo dài cuộc sống của những người tù theo cách nửa sống, nửa chết như thế. Cho nên, người CS có thể tính được nhiều trò đàn áp, hành hạ con người, nhưng không tính được điều liên quan đến bản năng và tinh thần của con người đã thử đâu mà biết không được”. Tôi chọc ngài cho bớt căng thẳng: “Thế bố đã thử chưa mà khi đi giảng đạo có lúc bố nói về hạnh phúc lứa đôi”. Cả hai chúng tôi đều cười vang. Cha Vàng nói: “Ê này, để bố nói cho anh nghe chuyện này. Bố dù là Linh Mục thì cũng là người, con tim cũng rung động như mọi người khác, nhiều lúc bố cũng muốn thử. Những lúc như thế mình phải tranh đấu với chính bản thân mình ghê lắm để đừng vượt rào đi ăn tình. Ðiều này cũng cần can đảm mới làm được. Tín đồ kính trọng người tu hành là kính trọng sự can đảm ấy, kính trọng sự vượt qua để phụng sự, chứ nếu giống như thường tình thì nói gì nữa”.

Vâng thưa quý vị, giải pháp của Cha Vàng đã khiến cho một tuần, hai tuần, ba tuần qua đi nhanh

và vô hiệu hóa được sự trừng phạt. Vào tuần lễ thứ tư của cuộc trừng phạt, như một phép lạ, viên cán bộ phát cơm nhà kỷ luật không phải là tên trực trại như thường lệ mà là một anh chàng lạ hoắc. Tù nhân mang cơm cho nhà kỷ luật cũng không phải là Hùng đen mà là Tuấn “sún” ở đội tù hình sự. Thông thường, khi vào phát khẩu phần cho nhà kỷ luật, viên cán bộ trực trại thường mở xà lim có tù nhân “bị gởi” ( tù nhân bị ăn chế độ trừng phạt ) trước. Nhưng lần này thấy các xà lim được lần lượt mở từ 1 cho đến 9 ( số hên ? ) Xà lim 10 không có “khách”. Ðến xà lim số 6, Cha Vàng đưa hai chiếc bát nhựa và hai ca đựng nước ra trong khi viên cán bộ đích thân mở khóa tay cho tôi. Viên cán bộ này mặc đồ CA không lon lá gì cả nên không biết cấp bậc anh ta. Phát khoai xong, thấy Tuấn “sún” múc một vá nước muối, viên cán bộ nói ngay: “Ít muối

thôi, chan đẫm vào, làm sao người ta ăn được”. Ðến phần nước, khi thấy Tuấn “sún” múc đầy cả hai ca, tôi hiểu rằng hôm đó tên cán bộ trực trại có việc gì đó không mở trại kỷ luật được, nên nhờ bạn thay thế. Vì làm thế nên anh chàng này không còn nhớ hoặc không thèm nhớ là trong trại có tù nhân phải ăn khẩu phần dành cho chế độ trừng phạt.

Phát xà lim số 9 xong, lại thấy có tiếng chìa khóa mở cửa xà lim số 6 của tôi. Tôi đinh ninh rằng họ quay lại để lấy bớt phần nước nên tôi vội vàng cầm ca nước uống hết. Nhưng không, Tuấn “sún” xách thùng nước đứng ở cửa phòng hỏi: “Có gì đựng thêm nước không”. Tôi nói: “Có” và đưa ca nước ra. Tuấn “sún” đổ đầy hai ca nước, rồi lại hỏi: “Còn đồ đựng nước khác không ?” Cả hai chúng tôi lắc đầu. Viên cán bộ xen vào: “Ðổ vào thau cơm cho họ, chiều hay mai lấy ra”.

Hình phạt dành cho tôi chấm dứt vào đầu tháng 11. Tôi đoán hết lý do này đến lý do khác khiến

chúng chấm dứt sự trừng phạt đối với tôi. Nhưng Cha Vàng nhận định: “Nếu cần phải giết chúng ta, chúng đã tùng xẻo mình ngay từ lúc đầu. Ðoán làm gì cho mệt…” Cuối tháng 11, cả hai chúng tôi đều được mở cùm cho ra đi tắm, lần đầu tiên sau 3 năm biệt giam. Khi được mở cùm, tôi đứng lên không nổi vì hai chân dường như cứng lại. Cha Vàng cũng nằm trong tình trạng ấy, nhưng ngài mới bị biệt giam hơn một năm nên còn lết được. Chúng tôi bám lấy nhau theo hướng dẫn của trật tự đi ra ngoài giếng được đào bên cạnh một ao cá ngay sau nhà kỷ luật. Thời tiết tháng 11 ở vùng tiền sơn Tuy Hòa đã lạnh lắm rồi.

Tôi còn có được một cái áo lạnh tự may bằng cách phá một chiếc chăn len của một bạn tù cho từ

năm 1980. Khi được cho chiếc chăn len này, tôi nghĩ ngay đến chuyện may thành chiếc áo giống như áo trấn thủ. Trò may vá trong các trại tù cũng là một thú tiêu khiển và giết thời giờ. Chúng tôi dùng những cọng sắt để làm kim và chỉ thì bằng những sợi rút ra từ những chiếc áo hay quần may bằng bao cát. Chính ở những trò may vá này, chúng tôi học được một bài học: Cùng thì tắc biến. Trước những trò đàn áp, những mưu chước thô bạo quản thúc con người trong các nhà tù CS, vẫn có rất nhiều người vượt qua được cơn khốn khó do bản năng sống còn của họ rất mạnh. Cứ thử nghĩ một người nếu ăn bất cứ con vật gì mà họ bắt được kể cả rít núi, cỏ kiểng, ăn sống cả loại khoai mì H-34 có nhiều chất độc trên đất Hoa Kỳ này, thì chỉ có nước vào nhà thương sớm. Nhưng thời gian dưới các nhà tù CS bệnh không có thuốc, ăn bậy bạ mà các tù nhân cải tạo ít bị hề hấn gì. Tôi nghĩ một cách chủ quan rằng chỉ có phép lạ hay bản năng tự tồn của người khi bị đẩy vào cùng quẫn mạnh, mới giúp cho một người tù sống được và có ngày trở về.

Một số bạn tù của tôi sau này hay nói đến chuyện sống vì tinh thần, lúc đầu tôi chỉ coi là chuyện

vui, nhưng ngẫm nghĩ lại thấy cũng có phần chí lý. Khi một người tù chấp nhận phần xấu nhất về mình, sẽ bất chấp những đòn thù. Vì một người biết chấp nhận phần xấu nhất về mình trong hoàn cảnh lưu đầy, sẽ chẳng còn gì phải suy nghĩ về hiện tại lẫn tương lai, ngày về. Lúc đó nếu VC có bắn mình một viên vào ngực, có lẽ điều đó được coi là ân huệ hơn là kéo dài cuộc sống của những người tù theo cách nửa sống, nửa chết như thế. Cho nên, người CS có thể tính được nhiều trò đàn áp, hành hạ con người, nhưng không tính được điều liên quan đến bản năng và tinh thần của con người . Khi chúng tôi ra đến bờ giếng là muốn trở lại ngay xà lim. Còn tắm táp gì trong điều kiện thời tiết này. Thấy Cha Vàng run lên bần bật vì gió lạnh. Ngài lại chỉ mặc một chiếc áo len mỏng bên trong bộ đồ tù, nên tôi cởi chiếc áo trấn thủ và nói: “Bố đưa chiếc áo len cho con, bố mặc chiếc áo của con vào ngay. Bố phong phanh thế, cảm lạnh bây giờ. Bố nhớ rằng ở đây không có thuốc, mặc chiếc áo này của con đi, bố đưa áo len cho con”. Ông nhất định không chịu, nhưng cuối cùng tôi vẫn lột chiếc áo len của Cha Vàng ra và mặc chiếc áo trấn thủ mang bằng chăn len hai lớp của tôi cho ngài, còn tôi mặc chiếc áo len của ngài. Dĩ nhiên chúng tôi chẳng tắm táp gì được cả, ngồi núp vào bức tường che giếng nước để tránh gió. Cha Vàng ít run rẩy hơn. Ngài đứng dậy và vung tay cử động. Tôi làm theo ngài. Tôi có cảm tưởng cứ mỗi lần vung tay cử động theo kiểu Dịch Cân Kinh thì chúng tôi choáng váng có thể chúi về trước, nhưng đồng thời cũng cảm thấy bớt lạnh. Viên cán bộ trực trại dặn chúng tôi: “Các anh tắm thì

tắm, không muốn thì thôi. Nếu không thì ngồi đây phơi nắng ( ở Xuân Phước, mùa Ðông thường không thấy mặt trời ). Cấm không được liên hệ với ai”. Nói xong, anh ta bỏ đi.

Nói thì nói vậy, nhưng các anh em trong nhà bếp đều là anh em sĩ quan cải tạo, nên cũng tìm cách tiếp tế cho chúng tôi vài miếng cơm cháy, mấy tán đường. LS., một người Việt gốc hoa, một tỷ phú, vua máy cày trước 30.4.1975, bị đẩy lên trại này sau khi lãnh cái án 20 năm tù sau đợt đánh tư sản mại bản lần thứ nhất, đang được cắt cử coi vườn rau cải. Ông ta từ vườn rau đi khơi khơi, không lén lút gì, đến thẳng chỗ chúng tôi, đưa một gói bánh trong đó có ít bánh biscuit lạt và ít đường tán, và thiết thực hơn là khoảng 10 viên thuốc B1. LS. nói: “Ngộ

biếu, bánh đường ăn hết ở ngoài này đi, đừng mang vào chúng nó sẽ tịch thu. Thuốc B1 cần cho các nị lắm á. Cứ ăn từ từ, đừng có lo, nhà nước… no hết”. Xong ông ta bỏ đi. Nhóm người Việt gốc Hoa sống trong trại rất đầy đủ, nhưng đối với chúng tôi, lúc nào họ cũng cư xử đàng hoàng. Những tin tức từ bên ngoài được đem vào trại của họ khá chính xác. A-20 là trại trừng giới nhưng quà thăm nuôi hàng tháng của họ chất đầy chỗ nằm. Mỗi lần thăm gặp, họ ở với gia đình cả ngày ở ngoài nhà thăm nuôi cũng được, nếu họ muốn. Nhưng ít khi nào họ hành động như vậy. Môi trường ở A-20 là môi trường tế nhị. Những doanh nhân này đầu óc rất thực tế: Có tiền mua tiên cũng được huống chi đám cán bộ trại giam vốn cũng đói rách. Cái giá của việc khơi khơi đến tiếp tế cho chúng tôi ít ra cũng phải trả bằng 6 tháng biệt giam, nếu bị bắt gặp. Nhưng 6 tháng biệt giam chỉ tương đương với 2 cặp lạp xưởng. Ông là người tù duy nhất ở trong trại có thể trả cái giá ấy bằng lạp xưởng hay nửa bao thuốc lá ba số 5 thay vì vào biệt giam. biết chắc rằng buổi tối hôm ấy, tên trật tự ( bị án chung thân vì tội cướp có súng ) sẽ xuống gọi LS. ra cửa sổ buồng giam và xin hai cặp lạp xưởng cho cán bộ nấu xôi. Cho nên, LS. đi đâu một lúc rồi ông ta trở lại với cái điếu cày, diêm và nói: “Thuốc lào này say lắm, cẩn thận. Ðừng mang diêm vào biệt giam”. Hút xong thuốc lào, chờ cơn “phê” nhạt dần, tôi chợt nẩy ra ý kiến: “Bố ơi mình giấu 2 bi ( tiếng long của hai điếu ) để đêm Noel hút”. Tôi quấn nhúm thuốc còn lại cho thật nhỏ vào bao nhựa đựng 10 viên B1 và nhét vào gấu quần. Cái gấu quần là chỗ hôi thối của những người tù 3 năm không được tắm, chắc không có ai muốn sờ đến nên có thể an toàn. Biệt giam là nơi cấm hết mọi thứ kể cả thuốc hút nên chúng tôi phải hành động như vậy. Và quả thật, trước khi mang chúng tôi vào lại xà lim, trật tự Hùng đen chỉ khám sơ sơ. Tôi và Cha Vàng đã thắng. Nhưng vào đến xà lim, sau khi xỏ chân vào cùm, nghĩ lại tôi mới thấy thất vọng: lửa ở đâu mà hút. Thảo luận mãi, Cha Vàng đưa ý kiến, lấy lửa bằng phương pháp của thời kỳ đồ đá. Tôi lại chọc vị Tu Sĩ Công Giáo rất hùng biện này: “Bố con mình đang ở thời kỳ đất sét mà bố nghĩ đến phương pháp của thời kỳ đồ đá”. Cha Vàng cười: “Mày chỉ tầm xàm. Ðứng đắn đấy. Ðêm Noel mình sẽ hút thuốc lào, bố có cách rồi”. Sau đó cha Vàng giảng giải cho tôi cách lấy lửa “thời kỳ đồ đá”. Vị Tu Sĩ nói như giảng đạo: “Này nhé, con có biết rằng nền văn minh ngày nay đến từ việc phát minh ra lửa. Lửa chế ngự đời sống con người khi họ thoát ra thời kỳ ăn lông ở lỗ… Con người thời kỳ đồ đá đã biết dùng đá chọi vào nhau cho đến khi xẹt lửa. Những tia lửa đó rớt xuống đám lá khô dễ bắt lửa và họ thổi cháy thành ngọn lửa”. Cha Vàng nói: “Chỉ cần một thanh vỏ tre và áo mục”. Tôi hỏi Cha Vàng: “Áo mục thì có sẵn, nhưng thanh vỏ tre ?” Cha Vàng cười: “Bố giao nhiệm vụ cho mày nếu bị kêu đi thẩm cung, thế nào trước Noel chúng cũng gọi chúng ta ra tra vấn và khám xà lim, một biện pháp an ninh trước những ngày lễ trọng…”

Do kinh nghiệm, Cha Vàng nói đúng. Năm ngày trước Noel, trời có nắng, những tia nắng hiếm

hoi xuyên qua cửa tò vò vào phòng giam. Ngài vội lấy chiếc áo tù bằng vải thô vá chằng vá đụp, xé hai mảnh nhỏ. Ngài nói: “Ðây là cái áo bố đã giặt rất sạch trước khi vào đây, để làm con cúi lấy lửa khi cần. Xé nó ra phơi cho thật khô. Cuộn lại cho chặt thành một cuộn bằng ngón tay cái. Dùng móng tay đánh tơi một đầu, đánh thật tơi cho đến khi sợi vải ở đầu con cúi xuất hiện một lớp bông. Dùng miếng vỏ tre thật mỏng luồn nó vào cái khe hẹp để gắn quai dép lốp rồi kéo cho đến khi thanh tre nóng bỏng. Hơi nóng của bột tre dính trên mặt bông của con cúi, lửa sẽ ngún và thổi nhè nhẹ vết lửa sẽ loang ra, chỉ cần thổi nhẹ là lửa sẽ bật lên”.

Nghe Cha Vàng nói tôi tưởng là ngài nói chuyện thần thoại. Nhưng do vẫn nghĩ đến phép lạ, nên

tôi nghe theo lời ngài. Tôi nghĩ đây là một trò vui và cũng là dịp tự thử thách mình. Ðúng như dự đoán, trước Noel 1984 ba ngày, lần lượt chúng tôi bị kêu ra ngoài thẩm cung và xà lim bị khám xét rất kỹ. Nhưng họ vẫn không phát giác ra được mấy điếu thuốc lào và thuốc B1 tôi giấu trong lai quần. Có lẽ do người hôi thối quá, nên anh cán bộ nào cũng sợ mó vào quần áo tôi. Chỉ còn thanh tre mỏng. Tôi nghĩ ra một kế nên báo cáo cán bộ cho xin một thanh tre mỏng mang vào xà lim để làm đồ cạo lưỡi. Viên cán bộ hỏi tôi: “Lưỡi anh làm sao ?” Tôi nói: “Ðóng bợn ba năm rồi không được cạo, nên xin cán bộ”. Anh ta không nghi ngờ gì cả nên gật đầu: “Nhưng tre ở đâu ra ?” Tôi nói ngay: “Ở nhà bếp chắc có”. Anh cán bộ gọi trật tự Hùng đen: “Xuống nhà bếp bảo họ cho tôi một vỏ tre cạo lưỡi cho anh này”. Tôi lại gặp may lần nữa. Mấy anh em nhà bếp tưởng làm cây cạo lưỡi cho cán bộ nên họ làm rất kỹ và tôi có một thanh cạo lưỡi bằng vỏ tre khô dài khoảng 2 gang tay. Sau khi trở lại xà lim, tôi bắt đầu thực tập ngay. Tháo một quai dép lốp ra, tôi luồn thanh tre vào và dùng hai tay kéo cưa. Thấy nóng thật, tôi ra sức kéo mạnh. Cha Vàng vội can: “Kéo từ từ, thở ra hít vào đều, ít ra cũng một tiếng đồng hồ”. Tôi lại chọc cha Vàng: “Bố ơi, mình đang ở thời kỳ đồ đất mà kéo như thế này, chắc phải ăn 5 phần khoai mì may ra mới bù

lại được. Ðồ đất dễ vỡ lắm !” Vị Linh Mục cười hiền lành: “Thôi dừng có nói nữa, anh nói nhiều xì hơi còn sức đâu mà kéo”. Trong khi tôi đánh vật với chiếc dép và thanh tre, thì Cha Vàng

móc trong tay nải lấy hai miếng vải đã phơi khô ra và làm thành một con cúi. Ông chà một đầu con cúi xuống sàn rồi lấy móng tay út lúc đó đã dài như móng tay của mấy bà người Tàu bó chân, khẩy khẩy cả tiếng đồng hồ vào những thớ vải lúc đó đã hơi bung ra.

Ðến khi thấy mệt, mồ hôi ra như tắm, tôi nói với Cha Vàng: “Con chịu thua rồi bố ơi, mệt quá”.

Cha Vàng khuyến khích: “Ðừng ngừng, tiếp tục để bố thử coi”. Tôi tiếp tục kéo. Bột tre đã văng ra có thể nhìn thấy trên sàn. Khi cha Vàng lựa thế đưa cúi vào thì tôi gia tăng tốc độ. Cha Vàng reo lên: “Hơi ngún rồi, tại chưa bén than vì anh kéo chưa đủ đô”. Quả thật tôi cũng thấy một chút khói bốc lên. Ngày hôm sau, chúng tôi lại thử, một cuộc chạy đua tiếp sức của hai người. Ðể con cúi vải xuống sàn, tôi và Cha Vàng thay phiên nhau kéo, từ 9 giờ sáng cho đến hơn 11 giờ thì “phép lạ” đã đến. Ðầu con cúi bắt đầu ngún và có khói, có nghĩa là bột tre nóng quá độ đã khiến cho lớp bông nhẹ trên con cúi bén lửa. Một lát sau khi thấy xuất hiện những đốm hồng, cha Vàng thổi nhẹ nhẹ, vết lửa lan ra, trang sử của mấy ngàn năm trước được lật lại. Cha Vàng tiếp tục thổi nhẹ để nuôi dưỡng ngọn lửa. Và khi đã ngủi thấy mùi khét của vải, ngài thổi hơi mạnh. Ngọn than hồng lan rộng ra hơn và cuối cùng chỉ cần một hơi nhẹ, ngọn lửa bùng lên. Vị Tu Sĩ nhìn con cúi vải có than hồng giống như một điếu thuốc lá mới được đốt lên, rồi cười vang: “Mình thắng”. Ngài lục trong tay nải một miếng giấy châm vào cúi vải, ngọn lửa lan sang đóm giấy. Xong, cha nắm chặt tay tôi giơ lên cao như một võ sĩ được trọng tài nắm tay giơ

cao sau khi đấm địch thủ đo ván. Chúng tôi ngồi nghỉ một lát, sau đó cha Vàng nói: “Chúng ta đã học xong bài học lúc bố đã ngoài 50, còn con đã 33 tuổi. Nhưng tự bố, bố thấy chúng ta xứng đáng với bài học ấy. Ðó là kiên trì đạt mục tiêu trong hoàn cảnh khó khăn nhất”. Ðúng vào tối 24.12.1984, trước khi Cha Vàng cử hành Thánh Lễ nửa đêm trong xà lim số 6, chúng tôi đã hút mỗi người một điếu thuốc lào. Hút bằng một miếng giấy cuộn tròn như loa kèn và ngậm nước. Hút như thế, miệng mình chính là cái điếu, và cũng có tiếng kêu, cũng chếnh choáng say như khi hút bằng điếu cày. Chỉ có điều khác với hút thuốc lào bằng điếu cày: Sau khi hút phải

nhổ nước đi. Trong hoàn cảnh tôi và Cha Vàng lúc đó thì hơi tiếc vì chúng tôi thiếu nước uống kinh niên.

Kể từ ngày sống cùng một xà lim với cha Nguyễn Văn Vàng, tôi học được nhiều điều. Trong suốt thời gian này, ngài giảng cho tôi bộ Tân Ước. Dù tôi là một Phật Tử, nhưng nghe một nhà truyền đạo Công Giáo chuyên môn giảng kinh, nên bộ Tân Ước đã củng cố những lập luận sau này của tôi rất nhiều. Quan trọng hơn hết, đó chính là kỷ niệm với một Tu Sĩ mà tôi kính trọng.

Tháng 4 năm 1985, Cha Vàng lâm bệnh vào lúc sức khỏe của ngài đã quá yếu. Có lẽ ngài đã kiệt sức, sốt cao rồi đi vào hôn mê. Tôi đập cửa kêu cấp cứu suốt ngày, nhưng lúc tên trực trại chịu mở cửa để cho một y sĩ vào khám bệnh, thì mọi việc có vẻ quá muộn. Hai viên trụ sinh không đủ khả năng làm Cha Vàng tỉnh lại. Vào đúng lúc cả hai chúng tôi đều cảm nhận được Mùa Giáng Sinh đã trở lại thung lũng Xuân Phước qua tiếng chuông của một Nhà Thờ dường như ở cách chúng tôi xa lắm vọng về trong đêm lạnh giá và u tịch. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng qua đời ngay trong xà lim số 6.

 Trước đó, dù yếu và bệnh, ngài đã bàn với tôi là làm sao có được Bánh Thánh lúc ngài làm Lễ nửa đêm dịp Noel 1985 mà con chiên duy nhất trước ngài lúc đó lại là một Phật Tử như tôi. Nhưng mơ ước của ngài không thành, kể cả việc lớn trước đó là lập lực lượng võ trang để mong lật ngược lại tình thế của một đất nước vừa chìm đắm trong luồng sóng đỏ. Nhưng dù ngài đã mất đi, trong suy nghĩ của tôi cho đến bây giờ, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vẫn là một ngọn lửa, âm thầm cháy như con cúi vải ngày nào bỗng bùng lên soi sáng cái không gian tăm tối

của tất cả những xà lim đang hiện diện trên đất nước Việt Nam.

VŨ ÁNH,

5.12.2010

Giảm án nhưng vẫn còn đó bất công

Giảm án nhưng vẫn còn đó bất công

Mặc Lâm, biện tập viên RFA
2016-03-17

nguyen-thi-tam-622.jpg

Bà Nguyễn Thị Tâm tại phiên xử phúc thẩm ở Bình Phước hôm 16/3/2016.

Courtesy DLB

Your browser does not support the audio element.

Sau khi em Nguyễn Mai Trung Tuấn bị xử y án trong phiên phúc thẩm của tòa án Tỉnh Long An về “tội cố ý gây thương tích” do chống lại công an khi cưỡng chế đất của gia đình, thì một vụ án khác tại tòa phúc thẩm tỉnh Bình Phước xử hai vợ chồng ông bà Ngô Văn Huynh và Nguyễn Thị Tâm cũng với tội danh “cố ý gây thương tích” nhưng có giảm nhẹ cho hai vợ chồng ông này.

Áp lực của dư luận?

Ngày 16 tháng 3 vừa qua phiên tòa phúc thẩm của tòa án tỉnh Bình Phước đã tuyên án trong vụ án cố ý gây thương tích cho hai bị cáo là dân oan Nguyễn Thị Tâm và chồng là ông Ngô Văn Huynh. Bà Tâm được trả tự do tại tòa với bản án 3 năm tù giam so với ngày bà bị giam giữ là 2 năm 6 tháng 17 ngày thì bà ra tù sớm hơn thời hạn. Riêng ông Ngô Văn Huynh được giảm án còn 3 năm tù giam thay vì 5 năm rưỡi như bản án sơ thẩm trước đây.

Bản án của tôi trước đây tòa sơ thẩm nó xử tôi 4 năm tôi mới kháng án lên phúc thẩm thì ngày hôm qua nó xét xử tuyên án tôi là 3 năm còn bà Tâm thì đã ở như vậy là 2 năm 6 tháng 17 ngày và nó trả tự do cho bà Tâm tại tòa.
-Ông Ngô Văn Huynh

Ông Ngô Văn Huynh là chồng bà Nguyễn Thị Tâm cho biết:

“Bản án của tôi trước đây tòa sơ thẩm nó xử tôi 4 năm tôi mới kháng án lên phúc thẩm thì ngày hôm qua nó xét xử tuyên án tôi là 3 năm còn bà Tâm thì đã ở như vậy là 2 năm 6 tháng 17 ngày và nó trả tự do cho bà Tâm tại tòa.”

Theo luật sư Nguyễn Khả Thành, một trong ba luật sư bảo vệ quyền lợi của ông bà Ngô Văn Huynh thì “Tội cố ý gây thương tích” với khung hình phạt lên đến từ 5 tới 15 năm tù nên tòa giảm án cho vợ chồng ông Huynh bà Tâm là một sự lắng nghe và do áp lực của dư luận. LS Thành cho biết:

“Theo tôi thì giữa bản án đầu tiên thì ông Huynh là người chồng cũng 5 năm rưỡi tù bà vợ cũng vậy 5 năm rưỡi tù so với bản án hiện nay bà vợ được thả ngay tại tòa ông chồng thì mức án chỉ còn 3 năm. Theo tôi thấy thì Hội đồng xét xử đã biết lắng nghe dư luận, lắng nghe những gì mà luật sư trình bày tại phiên tòa, đưa ra những điều không hợp lý trong vụ này. Mặc dù trên mặt giấy tờ nhận định người ta vẫn nói là hoàn toàn họ đúng nhưng với mức án giảm như vậy thì tôi nghĩ rằng chắc chắn cũng có tác động phần nào khi mình đưa ra các bất hợp lý trong vụ án. Với khung hình phạt khởi tố như vậy, khung 3 điều 104 Bộ luật hình sự thì nó có mức án từ 5 đến 15 năm tù, nhưng bây giờ ông chồng còn 3 năm thì chúng tôi nghĩ họ cũng có một sự lắng nghe nào đó khi luật sư đưa ra những vấn đề không hợp lý.”

nguyen-thi-tam-400.jpg

Bà Nguyễn Thị Tâm (phải) và Ông Ngô Văn Huynh (giữa) sau phiên xử phúc thẩm ở Bình Phước hôm 16/3/2016. Photo courtesy of DLB.

Tuy nhiên ông Ngô Văn Huynh, hiện được tòa cho tại ngoại để chữa bệnh, lại cảm thấy không công bằng dù cho bản án đã được giảm xuống cho ông. Ông cho rằng mức giám định y khoa của bên bị hại không chính xác và nhất là hồ sơ y khoa của ông do bị bên bị hại tấn công gây ra lại không được tòa nhìn nhận:

“Tôi không biết bây giờ phải kêu oan như thế nào, phải đi tới đâu rồi phải làm thế nào để trắng án vì thương tích tôi gây ra không tới mức như vậy (43%). Tôi yêu cầu giám định pháp y của phân viện pháp y quốc gia để phân tích vết thương do tôi gây ra và vết thương do bị tai nạn gây nên cho bị hại cũng gần với vết thương gây ra mà đổ trút cho tôi hết bây giờ tôi không có cách nào để mà gỡ rối kể cả 3 luật sư của tôi đã đưa ra những bằng chứng cụ thể nhưng hội đồng xét xử đều bác bỏ hết cuối cùng tôi phải lãnh án 3 năm.”

Ép cung?

Theo ông Huynh kể lại thì miếng đất của gia đình ông bị Cục Thi hành án cưỡng chế giao cho ông Nguyễn Bá Tuyên sau đó ông Tuyên đã lấn đất nhà ông Huynh và chuyện ẩu đã xảy ra khi bà Tâm vợ ông Huynh lượm hạt điều trên phần đất của nhà mình nhưng bị ông Tuyên cho là xâm phạm đất của ông ta. Khi xô xát xảy ra thì hai bên đều có thương tích nhưng do ông Tuyên có thế lực nên cả hai vợ chồng ông Huynh đều bị bắt giam và giấy giám định y khoa chứng nhận ông Tuyên bị thương tật 43%. Vấn đề thế lực được dư luận cho biết đó là anh ruột của ông Nguyễn Bá Tuyên là Nguyễn Bá Hưng, đương kim bí thư xã Đường 10 nơi hai gia đình ông Huynh và ông Tuyên sinh sống.

Giấy giám định y khoa trong trường hợp vợ chồng ông Ngô Văn Huynh tương tự như trong phiên tòa của em Nguyễn Mai Trung Tuấn tại Long An. Số phần trăm vượt mức thông thường có thể nhìn thấy bằng mắt đã làm cho vụ án trở nên mất công bằng nhất là giám định thương tật bao gồm luôn cả những vết thương khác không gây ra trong lúc ấu đả. Ông Huynh cho rằng không tính tới thương tích của gia đình ông là bất công, ông nói:

Thương tích của ba cha con tôi thì tòa không công nhận. Thương tích trong giấy chứng y của tôi do bệnh viện đa khoa huyện Bù Đăng tôi đã nạp vào tòa do bị hại gây ra nhưng tòa không công nhận nhưng với bị hại thì tòa lại công nhận giám định pháp y của Bình Phước là 43%.
-Ông Ngô Văn Huynh

“Thương tích của ba cha con tôi thì tòa không công nhận. Thương tích trong giấy chứng y của tôi do bệnh viện đa khoa huyện Bù Đăng tôi đã nạp vào tòa do bị hại gây ra nhưng tòa không công nhận nhưng với bị hại thì tòa lại công nhận giám định pháp y của Bình Phước là 43%.”

Bên cạnh đó sau khi phiên tòa kết thúc bà Nguyễn Thị Tâm tuy được tự do nhưng vẫn lên tiếng tố cáo đại úy Nguyễn Đình Khuyên là cán bộ điều tra thuộc công an huyện Bù Đăng, trong khi điều tra bà ông Khuyên đã dùng súng đánh đập và bức cung bà. Ông Khuyên còn đập vào cạnh tai bà khiến bà bị điếc một bên tai tới nay vẫn chưa hồi phục. Bà Tâm nói với chúng tôi như sau:

“Ngày 12 tháng 11 năm 2013 ông Nguyễn Đình Khuyên kêu tôi lên điều tra tuy chưa điều tra tôi ngày nào hết mà ổng lấy tờ giấy có kết luận điều tra sẵn, hỏi cung sẵn rồi bắt tôi ký cái kết luận điều tra đó thì tôi không chịu. Ông Khuyên mới nói bà không chịu thì đưa cho tôi tờ giấy viết vào đó và ký vào là không đi khiếu nại tố cáo thì tôi mới thả hai vợ chồng ông bà ra.

Tôi không chịu thì nó bắt đầu ép cung nó đánh tôi rồi bắt tôi quỳ xuống nó dùng dùi cui đánh tôi 28 cái dùi cui. Nó bấm huyệt tay tôi nó xốc tôi lên nó quay rồi nó bấm lổ tai tôi giờ tai tôi bị điếc không nghe được. Tôi thở không nổi hai giò tôi nó quýnh vào nhau. Khi bình thường thì thôi khi trở trời mưa gió thì nó nhức nó xuội luôn đi không được. Ông Khuyên hăm tôi là bà ở trong trại bà chết với tôi, bà ở huyện thì có tay chân tôi còn bà lên tỉnh thì có anh em tôi hết, bà đi đâu cũng không thoát. Tôi cho bà chết trong trại không cho bà sống bà không ra khỏi tay tôi đâu.”

Bản án tuy được dư luận cho rằng đã có tiến bộ so với vụ án của em Nguyễn Mai Trung Tuấn nhưng chính người trong cuộc là hai vợ chồng ông bà Ngô Văn Huynh và Nguyễn Thị Tâm cho là không công bằng với họ cũng khiến dư luận quan tâm hơn về sự công chính, khách quan của các phiên tòa liên quan đến người dân oan vì mất đất đã trở nên bạo động.