Trung Quốc bác yêu cầu của Việt Nam, không rút giàn khoan 981

 Trung Quốc bác yêu cầu của Việt Nam, không rút giàn khoan 981

Tàu Trung Quốc xịt vòi rồng, không cho vào tàu Việt Nam tiến gần đến khu vực giàn khoan 981 hoạt động ngày 8/5/2014.

Tàu Trung Quốc xịt vòi rồng, không cho vào tàu Việt Nam tiến gần đến khu vực giàn khoan 981 hoạt động ngày 8/5/2014

08.04.2016

Trung Quốc hôm 8/4 bác yêu cầu lần thứ hai của Việt Nam trong năm đòi Bắc Kinh rút giàn khoan và hủy các kế hoạch thăm dò dầu khí tại các vùng biển chưa phân định rõ chủ quyền ở Biển Đông.

Giàn khoan Hải Dương 981 trị giá 1 tỷ đôla của Bắc Kinh từng là tâm điểm căng thẳng ngoại giao Việt-Trung hồi năm 2014 khi Bắc Kinh kéo vào hoạt động trong vùng biển Hà Nội nói thuộc chủ quyền Việt Nam, khơi mào các cuộc biểu tình bạo động bài Trung trên cả nước, khiến nhiều người bị bắt, bị tuyên án và dẫn tới vài trường hợp người Việt trong và ngoài nước tự thiêu phản đối Trung Quốc.

Việt Nam nói từ tối ngày 3/4, giàn khoan này di chuyển vào khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ để tác nghiệp, nơi hai nước Việt-Trung đang đàm phán phân định lãnh hải.

Tại cuộc họp báo hôm qua 7/4, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Hải Bình, tuyên bố ‘Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Trung Quốc hủy bỏ kế hoạch khoan giếng và rút ngay giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi khu vực này, không có thêm các hành động đơn phương làm phức tạp thêm tình hình và có những đóng góp thiết thực cho hòa bình, ổn định ở Biển Đông’.

Ông Bình nói Việt Nam bảo lưu tất cả các quyền và lợi ích pháp lý đối với khu vực này ‘bằng tất cả các biện pháp hòa bình được luật pháp quốc tế cho phép để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp đó’.

Người phát ngôn cũng cho biết thêm rằng chiều ngày 5/4, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội để trao công hàm phản đối.

Đáp phản ứng của Việt Nam, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm nay khẳng định công tác của giàn khoan 981 là hoạt động thăm dò thương mại bình thường nằm trong vùng lãnh hải không có tranh chấp thuộc chủ quyền của Bắc Kinh.

Không nêu đích danh Việt Nam, ông Hồng Lỗi nói ‘Chúng tôi hy vọng bên liên quan có quan điểm khách quan và hợp lý về vấn đề này’.

Hà Nội trong năm nay đã hai lần lên tiếng phản đối hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 ở Biển Đông, lần đầu hồi tháng Giêng, giữa bối cảnh ban lãnh đạo của Việt Nam thay đổi nhân sự mới.

Giới lãnh đạo Việt Nam lâu nay bị chỉ trích là ‘nhu nhược, yếu ớt’ trước những sự lấn lướt ngày càng ‘hung hăng, ngang ngược’ từ Bắc Kinh, yếu tố góp phần làm gia tăng sự bất mãn và mất niềm tin nơi công chúng vào đảng và nhà nước Việt Nam.

Nhiều người trông chờ hành động kế tiếp của Việt Nam sau khi những yêu cầu và phản đối ngoại giao bị Trung Quốc bác bỏ.

Theo Reuters, AP.

Luật báo chí sửa đổi và tự do ngôn luận

Luật báo chí sửa đổi và tự do ngôn luận

Cát Linh, phóng viên RFA
2016-04-08

000_Hkg9064924

Một người dân đang đọc báo đưa thông tin về Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hà Nội vào ngày 05 Tháng 10 năm 2013.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Sáng ngày 5 tháng 4 vừa qua, Quốc hội Việt Nam thông qua luật báo chí sửa đổi với 89% số phiếu tán thành. So với bộ luật cũ, luật báo chí sửa đổi có một số điểm mới như giữ nguyên 13 hành vi bị cấm trong bản dự thảo, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận được quy định cụ thể hơn, và đặc biệt là đề xuất “cấm nhà báo viết trái với quan điểm tờ báo trên mạng xã hội” đã không được đưa vào luật.

Với những thay đổi như thế, liệu luật báo chí sửa đổi có được xem là một tiến bộ về quyền tự do báo chí, ngôn luận ở Việt Nam hay không, và với bộ luật mới này, các cơ quan báo chí, nhà báo có được sự bảo vệ mạnh mẽ hay không?

Điểm lùi của Luật báo chí

Rất nhiều điểm mới trong luật báo chí vừa được thông qua sáng ngày 5 tháng 4 được cho là đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp 2013 về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin. Trong lần trả lời báo chí trong nước vào cuối năm ngoái, Thứ trưởng Bộ TT&TT Trương Minh Tuấn cũng từng nhấn mạnh tinh thần của dự luật rất tiến bộ, đáp ứng nhu cầu phát triển của báo chí và nhu cầu xã hội thông tin.

Tuy nhiên, không đồng tình với ý kiến này, blogger Trương Duy Nhất, người từng bị kết tội theo điều 258 và đã trả thẻ nhà báo cho biết, tinh thần tiếp thu của Luật báo chí sửa đổi so với những nội dung của dự thảo không được nhiều lắm. Đặc biệt, ông nêu ra một ví dụ cụ thể mà theo ông, đó là một điều phi lý.

“Ví dụ trước đây là nó không quy định cụ thể như thế, là cơ quan báo chí tiếp nhận, trách nhiệm phản ảnh lại ý kiến của bạn đọc, nhân dân. Nhưng bây giờ lại thòng thêm 1 câu là báo chí chịu trách nhiệm đăng tải trả lời những ý kiến góp ý phản biện của người dân phù hợp với tôn chỉ mục đích của tờ báo. Nghĩa là để ràng buộc một số tờ báo. Mà thế nào là phù hợp với tôn chỉ mục đích? Thì tuỳ theo từng tình huống người ta hiểu pháp luật thế nào thì người ta ứng xử khác nhau. Đó cũng là cách để hạn chế các báo chí đăng tải những phản hồi, ý kiến của người dân. Tôi cho đó là điểm lùi của luật báo chí sửa đổi chứ không phải là tiến bộ.”

Một điều đặc biệt, liên quan đến tôn chỉ của cơ quan báo chí đã được bà Nguyễn Thanh Hải, Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đề nghị không đưa vào luật cấm trong dự thảo Luật báo chí sửa đổi, đó là nội dung cấm phóng viên, nhà báo không được sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền trái với tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí.

Tư duy của người soạn luật rất lúng túng trong việc làm thế nào để quản được những luồng mới. Người ta đưa vào nhưng có những cái viết lại không được.
– Nhà báo Trương Duy Nhất

Trước đây, khi trả lời phỏng vấn của báo giới trong nước về các giải pháp khắc phục, hạn chế tác hại của các trang mạng xã hội, mà điển hình là các trang blog nêu quan điểm cá nhân, ông Hà Minh Huệ, Phó chủ tịch thường trực hội nhà báo Việt Nam có đưa ra ý kiến là nên tăng cường vai trò, vị thế của cơ quan báo chí. Nhắc lại điều này, ông Trương Duy Nhất cho biết đó là một cách khống chế các nhà báo “theo luật”.

Tuy nhiên, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy đây là quyền tự do ngôn luận của công dân đã được hiến định nên quyết định không thể đưa nội dung này vào Luật báo chí. Với ông Trương Duy Nhất thì ông cho rằng đây là một tín hiệu khả quan.

“Đó cũng là một tín hiệu tốt ít ỏi của luật báo chí sửa đổi.”

Thế nhưng đối với nhà báo Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, cựu phóng viên báo TTXVN thì ông không cho rằng Luật báo chí sẽ có một sự thay đổi tích cực.

“Cái gì thay đổi, chứ ở đất nước này nói chung, tôi tin chưa có gì thay đổi cả. luật báo chí cũng thế thôi. Và luật này luật khác, ra vẻ có thay đổi nhưng thực tế vẫn có những điều ràng buộc.”

Những điều ràng buộc mà nhà báo Đoàn Vương Thanh nói đến đã được bà Nguyễn Thanh Hải đề cập đến, đó là “Trường hợp thấy cần thiết phải quản lý những hoạt động trên, cơ quan báo chí có thể quy định nội dung này tại quy chế hoạt động của cơ quan báo chí đó.”

Lúng túng trong cơ chế

000_Hkg10195126-400

Một quầy bán báo lề đường Hà Nội ngày 16 tháng 7 năm 2015. AFP photo

Trong Luật Báo chí sửa đổi 2016 có đưa ra những qui định được cho là các hành vi bị cấm trong hoạt động báo chí như: xuyên tạc phỉ báng chính quyền nhân dân, gây chia rẽ dân tộc, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm anh hùng dân tộc, tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật đời tư cá nhân…

Điều này có vẻ như mâu thuẫn với việc không đưa vào luật mới đề xuất cấm nhà báo viết trái với quan điểm của tờ báo mình làm việc trên mạng xã hội. Nói về điều này, nhà báo Trương Duy Nhất cho biết đây chính là điểm thể hiện sự lúng túng trong cơ chế soạn luật của nhà nước Việt Nam.

“Thực ra trong soạn thảo luật báo chí sửa đổi có nhiều lúng túng lắm. Lúng túng của cơ quan soạn luật trước tình thế báo chí, trước xu hướng phát triển báo chí nhiều hình thức mới mẻ như thế, thì nó đụng chạm, nó không kịp được xu thế như, người ta muốn xiết lại, người ta muốn quản lại. Tư duy của người soạn luật rất lúng túng trong việc làm thế nào để quản được những luồng mới. Người ta đưa vào nhưng có những cái viết lại không được.”

Cái gì thay đổi, chứ ở đất nước này nói chung, tôi tin chưa có gì thay đổi cả. luật báo chí cũng thế thôi. Và luật này luật khác, ra vẻ có thay đổi nhưng thực tế vẫn có những điều ràng buộc.
– Nhà báo Đoàn Vương Thanh

Chính vì vậy, mà ông nói rằng:

“Cho nên thực tế để đạt được những đồng lòng, tiếp nhận của anh em báo chí, cơ quan báo chí thì tôi nghĩ không đáp ứng được nhiều lắm. Lâu nay cũng thế, cách làm luật của mình hay theo cách viết lại chứ không phải sửa luật để cho cởi mới, cho báo chí dân chủ hơn đâu.”

Nhận định này cũng tương đồng với ý kiến của nhà báo lão thành Kha Lương Ngãi, cựu phóng Tổng biên tập báo SGGP, ông nói rằng:

“Đại hội đó họ thắng lợi của phe giáo điều, bảo thủ, 4 kiên định. Họ thắng lợi bằng bạo lực, gian lận. Họ quyết giành thắng lợi để họ tiếp tục độc quyền. Sau đại hội đến giờ họ thể hiện cái độc quyền ngày càng tệ hại hơn. Cho nên chúng tôi không muốn nói gì nữa. để xem họ làm thế nào, họ dẫn dắt đất nước này đi đâu. Từ trước giờ tôi cũng có ý kiến này ý kiến kia, cũng rất là tâm huyết, rất là tình cảm yêu thương nhưng bây giờ thấy là không ăn nhằm gì hết, họ không nghe gì cả.”

Và cũng không khác với nhận định của nhà báo tự do Phạm Chí Dũng trong lần trả lời giới truyền thông hải ngoại gần đây cho rằng “Nhưng với tinh thần Luật Báo chí như thế này, nhiều nhà báo nhà nước đã thất vọng, và tất nhiên giới báo chí độc lập càng thất vọng hơn vì tinh thần được coi là « tự do ngôn luận » đối với báo chí chỉ là khái niệm rất mù mờ, không rõ nghĩa.”

Luật báo chí mới sẽ bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm tới.

Một tình trạng đến hồi bất an

Một tình trạng đến hồi bất an

Sao thế nhỉ? Một chế độ hội họp liên miên, hết Đại hội 12 lại đến Quốc hội XIII họp phiên cuối cùng. Chỉ cốt lên ngai xuống ghế. Trong khi đó trong đời sống xã hội, sự hỗn loạn ngày càng tăng, nhìn đâu cũng thấy và nhìn mặt nào cũng trăm thứ chuyện, sục sôi như nước sắp vỡ bờ. Cứ y như một nước vô chính phủ, không còn ai cầm đầu, trong đó những lực lượng trang bị và có chức năng như công an lại đầu têu cho sự tự tung tự tác, muốn kéo đoàn lũ đến đâu thì kéo, đập phá gì cứ tha hồ. Người dân không còn cách nào khác là đành phải “chịu trận” vì công an sở tại đã làm ngơ, nghĩa là đồng lõa. Thế thì rồi đây bạo loạn bùng phát dân sẽ còn biết nhờ cậy ai? Hay là đất nước này chỉ cần mấy ông bà Bộ chính trị, vài trăm ủy viên trung ương và gia đình con cái tính mạng an toàn, không sứt mẻ gì là được, còn lại thân ai nấy lo, chết đâu chịu đấy; luật pháp có được thực thi hay không bất thành vấn đề?

Họp hành bầu bán liên miên mà đất nước cứ bất an, bạo hành cứ nghiễm nhiên thành một “phong tục”, kinh tế cứ lao dần xuống đáy, thực phẩm độc hại cứ tràn lan, rừng cấm cứ tự tiện phá để xây lâu đài, đất đai của dân cứ quy hoạch rồi cưỡng chế thoải mái, công viên ở thành phố vốn đã lấp hết sông hồ trở nên chật cứng vẫn cứ nhất quyết chiếm dụng để xây khách sạn, đâu đâu cũng bừa bãi và ô nhiễm, hễ bước chân ra khỏi ngõ là có thể mất mạng vì đủ thứ lý do lãng xẹt, ngồi trong nhà cũng bị đám chức năng kéo đến phá nhà…

Thì họp với hành để mà làm gì chứ?

Bauxite Việt Nam

“Tổ đặc nhiệm” ngân hàng Techcombank phá nhà dân

Phước Long

(PLO) – Mặc dù tòa án đang thụ lý vụ án, nhưng Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) vẫn dẫn theo “tổ đặc nhiệm” đến phá nhà dân. Lực lượng công an có mặt lại không xử lý, bỏ mặc tài sản của người dân bị xâm phạm trắng trợn.

clip_image001

Sự việc nói trên diễn ra tại số nhà 756 Quang Trung (phường Phú La, Hà Đông, Hà Nội). Theo ghi nhận của phóng viên, vào khoảng 10h30 sáng ngày 6/4/2016, một số nhân viên ngân hàng Techcombank đã dẫn theo một nhóm người với trang phục gần giống như lực lượng cảnh sát cơ động, trang bị đầy đủ dùi cui, xịt cay, xà beng đến ngôi nhà số 756 để phá cửa khi không có chủ nhân của ngôi nhà này có mặt.

Điều đáng nói, Công an quận Hà Đông và Công an phường Phú La có mặt ngay tại thời điểm đó nhưng lực lượng này chỉ có mặt một lúc rồi cùng nhau lên xe về. Bỏ mặc hiện trường cho nhân viên ngân hàng Techcombank và “tổ đặc nhiệm” tiếp tục phá nhà dân.

Trao đổi với phóng viên, ông Đặng Thế Minh, chủ nhân của ngôi nhà cho biết, đây không phải lần đầu tiên ngân hàng Techcombank dẫn theo “tổ đặc nhiệm” đến gây sức ép, phá nhà.

Trước đó, ngày 20/11/2015, nhân viên ngân hàng Techcombank cũng tổ chức hơn 30 người lạ mặt đến bao vây, dùng vũ lực để chiếm giữ và niêm phong nhà đất cùng toàn bộ tài sản của gia đình tại số 756 Quang Trung. Sự việc trên khiến người dân khu phố vô cùng hoảng loạn và làm tắc nghẽn giao thông trên đường Quang Trung nhiều giờ đồng hồ.

Cũng theo đơn tố cáo của anh Minh, vào hồi 10h ngày 23/12/2015, khi mọi người trong gia đình anh đang họp mặt trong nhà thờ gia đình (liền kề với số 756 Quang Trung) thì bất ngờ có nhiều người lạ mặt xông vào nhà riêng của anh minh.

clip_image002

“Tổ đặc nhiệm” do ngân hàng Techcombank điều động

Nhận được điện thoại của người nhà, anh Minh vội chạy về thì thấy anh Đỗ Quang Tùng là cán bộ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) cùng nhiều người khác vào nhà mà không đưa ra bất cứ giấy tờ gì.

Theo những hình ảnh của người dân cung cấp, tất cả những người đi theo anh Tùng đều mặc đồng phục dã chiến màu xanh thẫm có chữ S.W.A.T, trang bị dùi cui điện, dùi cui cao su, lá chắn giống như của lực lượng cảnh sát cơ động.

Tiếp đó, anh Tùng và nhiều người khác lớn tiếng đuổi mọi người ra khỏi nhà số 756 Quang Trung (cũng là địa điểm kinh doanh của gia đình anh Minh).

Do nhà đang có giỗ cũng như lo ngại có việc bất ổn xảy đến với người già và trẻ nhỏ trong gia đình nên em trai anh Minh là anh Đặng Đô Thành đã bình tĩnh đề nghị đóng cửa hàng không tiếp khách. Khi anh Thành đang kéo cửa xuống, thì có 4, 5 người đi theo anh Tùng chặn lại, xô đẩy và dùng dùi cui điện, dùi cui cao su hành hung anh.

Bất ngờ bị đánh đau, anh Thành vội lớn tiếng kêu cứu. Thấy vậy, người nhà anh này là anh Đặng Như Cương cùng anh Minh xông vào can ngăn liền bị những người lạ đi cùng anh Tùng hành hung dã man bằng dùi cui. Anh Minh sau đó bị choáng ngất và được đưa vào Bệnh viện Đa khoa quận Hà Đông cấp cứu.

Khi xảy ra sự việc nói trên, tình trạng khu vực này trở nên rất hỗn loạn, có nhiều người tụ tập để xem làm tắc nghẽn giao thông trên đường Quang Trung (quận Hà Đông).

Sau khi hành hung người nhà anh Minh, anh Đỗ Quang Tùng và những người lạ mặt tiếp tục chiếm giữ trong nhà. Đến 10h15, lực lượng Công an phường Phú La nhận được tin báo đã có mặt thì anh Tùng và những người trực tiếp hành hung các anh Thành, anh Cương và Minh đã lên các xe bỏ đi. Ngay sau đó, vụ việc đã được Công an phường Phú La lập biên bản.

clip_image003

Thông báo số 93a/TBTL-TA của TAND quận Hà Đông về việc đang thụ lý vụ án

Theo tìm hiểu của PV, nguyên nhân sự việc là vào ngày 1/12/2010 vợ chồng anh Minh ký kết với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương Việt Nam Hợp đồng tín dụng số 10789/HĐTD/TH-TN/TCB-SGO.

Số tiền vay theo Hợp đồng là 20.000.000.000 đồng (hai mươi tỷ); thời hạn vay 250 tháng kể từ ngày giải ngân vốn vay lần đầu; lãi suất 17,5%/năm áp dụng cho đến ngày 31/3/2011.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên đã xảy ra tranh chấp. Sau đó, phía Techcombank đã khởi kiện anh Minh tại Tòa án nhân dân quận Hà Đông. Khi vụ việc tranh chấp đang được tòa án thụ lý thì xảy ra sự việc trên.

Trao đổi về vụ việc này, luật sư Trịnh Xuân Hải (Đoàn luật sư Thái Bình) cho biết: Khi vụ việc tranh chấp đang được tòa án thụ lý giải quyết, nghĩa vụ thanh toán tiền vay của bên vay chưa được tòa án xác định, thì đương sự không được tự ý hành xử trái pháp luật.

Việc làm của Ngân hàng Techcombank không những vượt quyền của tòa án, mà còn là hành vi vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an ninh xã hội, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp của gia đình anh Minh về tinh thần, sức khỏe, nơi cư trú.

Như vậy, với những diễn biến như trên, việc tự ý đưa người đến nhà khách hàng để siết nợ của ngân hàng Techcombank có vi phạm pháp luật hay không? Báo PLVN sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc này.

P.L.

Nguồn: P.L.

Nguồn: http://baophapluat.vn/ban-doc/to-dac-nhiem-ngan-hang-techcombank-pha-nha-dan-268937.html

Những vong linh tù cải tạo trại Ba Sao

Những vong linh tù cải tạo trại Ba Sao

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2016-04-07

 

Tấm bia thờ 626 tù cải tạo miền Nam chết ở Ba Sao, Hà Nam.

Photo by Pham Thanh Nghiên

Your browser does not support the audio element.

Ba Sao, nhà tù lớn ở Nam Hà, miền Bắc Việt Nam, nơi sau 30 tháng Tư 1975 nhiều sĩ quan và công chức miền Nam, mà chế độ mới gọi là tù cải tạo, đã qua đời trong những ngày tháng kham khổ nhọc nhằn nơi đây.

Một cựu tù chính trị Việt Nam hiện sống tại Pháp, đã nhắn với cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên:

Có một tấm bia thờ những người tù đã chết ở trại Ba Sao, Nam Hà. Nghe nói tấm bia được đặt trong một ngôi chùa ở miền Bắc. Ngoài tấm bia ra còn có một am thờ những người tù này, được dựng ngay khu đất thuộc trại giam. Người làm tấm bia này là một cựu giám thị nhà tù Ba Sao. Em cố gắng đi tìm các anh ấy nhé.

Chính lời nhắn tha thiết “đi tìm các anh ấy nhé” đã thôi thúc cô Phạm Thanh Nghiên lên đường, tìm kiếm, nhìn thấy rồi trở về với cảm xúc thể hiện qua bài Ba Sao Chi Mộ:

Thực ra thì tôi có thông tin này từ mùa hè năm ngoái khi tôi chưa hết án quản chế. Nhưng vì tôi cần tìm hiểu thêm và sau đó hết án tù nhà, đi lại dễ dàng hơn là tôi đi để tìm hiểu sự thực về thông tin mà người anh đồng tù đã cung cấp cho tôi.

Và thực ra bước đường tìm kiếm cũng không quá là vất vả, tôi cũng đi một vài ngày. Đến bây giờ phải cám ơn Chúa cám ơn Phật vì có lẽ tôi là người may mắn để mà tìm đến địa chỉ ngôi chùa không chính xác. Tôi phải xin lỗi là những thông tin cụ thể hơn thì tôi không thể chia sẻ được vì lý do tế nhị cũng như an toàn an ninh cho những người cung cấp tin cho tôi. Điều này tôi cũng đã viết trong phần một của bài Ba Sao Chi Mộ, ngay cả tên của các nhân vật họ cũng yêu cầu tôi phải thay đổi. Họ sợ đến mức độ như thế nhưng trong sự sợ hãi đó thì họ cũng cứ cho mình thông tin, đấy là điều tôi cho rằng rất là đáng quí.

Một điều nữa là ngay như giới tính của viên giám thị cũng như tên chùa và tấm bia thì tôi cũng nói một cách chung chung thôi. Ngay cả điều này cũng để cho thấy mức độ tế nhị, thậm chí là nghiêm trọng, mà một vài người đánh giá rằng đây là chuyện bí mật. Nhưng những thông tin mà tôi đưa ra trong bài Ba Sao Chi Mộ là có thật.

Và cũng thật khó để có thể diễn tả hết tâm trạng, cô Phạm Thanh Nghiên kể tiếp, khi được chỉ cho thấy một tấm bia khiêm nhường tại một góc khuất trong căn  phòng linh của nhà chùa:

Họ sợ đến mức độ như thế nhưng trong sự sợ hãi đó thì họ cũng cứ cho mình thông tin, đấy là điều tôi cho rằng rất là đáng quí.
– Phạm Thanh Nghiên

Khi bước chân vào nhà linh tôi cũng không tránh được cái cảm giác hơi rờn rợn hơi sợ hãi một chút. Ban đầu thì rất khó tìm vì không có hình ảnh. Trong hình dung của tôi chắc tấm bia rất lớn, tôi cứ tìm kiếm tấm bia như trong trí tưởng tượng của mình thôi, nhưng khi vị sư tìm thấy và chỉ cho tôi, khi tôi ngước mắt lên nhìn thì lập tức hai hàng nước mắt của tôi ứa ra. Một tấm bia không có tên, chỉ có giòng chữ 626 người đã tử vong tại Ba Sao giai đoạn 1975-1988. Phải nói một cảm giác như mình vừa tìm thấy một điều gì rất là thiêng liêng. Như tôi nói trong bài viết, đó là những người tôi khẳng định tất cả đều là quân nhân cán chính từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa chứ không dính dáng gì đến những người cộng sản hay những người dân thường cả.

Tôi cảm tưởng như có một mối giao cảm, một mối dây liên hệ nào đó mang tính tâm linh giữa tôi, một con nhóc sinh sau năm ’75, với những người đã bảo vệ một chế độ mình đã từng hiểu lầm rằng đó là một chế độ xấu xa, chế độ gọi là ngụy. Tôi cảm nhận được sự thiêng liêng và sự ấm áp, nói thật tôi chưa bao giờ trải qua cái cảm giác như thế nên diễn tả bằng lời cũng rất là khó.

Lòng tốt vẫn còn…

Bằng những ngón tay run rẩy lập cập vì xúc động, cô Phạm Thanh Nghiên đã chụp được hình ảnh tấm bia rồi cất giữ nó như một bảo vật. Với cô, chuyện càng khó tin hơn nữa khi biết một trùm cai tù, tức quản giáo hoặc giám thị trại giam Ba Sao, Nam Hà, đã dựng tấm bia và một am thờ những người của bên kia chiến tuyến.

400

Những bình tro cốt của 14 tù cải tạo mang từ Ba Sao về một nhà thờ ở Sài Gòn. Hình do VAF cung cấp.

Theo lời vị trụ trì thuật lại với cô Phạm Thanh Nghiên, cách đây vài năm có một Phật tử đưa một cựu giám thị trại tù Ba Sao đến chùa. Người giám thị này trao cho sư một danh sách gồm 626 người tù đã chết trong trại Ba Sao từ 1975 cho đến 1988, ngỏ ý muốn làm một tấm bia đặt trong chùa để 626 vong linh này được hương khói tử tế.

Đây không phải ngôi chùa đầu tiên mà họ đến gõ cửa xin đặt bia. Trước đó, các chùa trước đều tìm cách thoái thác vì sợ. Nỗi sợ của những người tu hành là nếu giữ một danh sách toàn “sĩ quan ngụy” và công khai đặt tấm bia thì e chùa sẽ bị lắm phiền phức.

Được hỏi có cách nào liên lạc với người Phật tử và viên cựu giám thị trại giam Ba Sao, vị sư trả lời là rất khó vì sau khi làm xong tấm bia thì người quản giáo không bao giờ trở lại chùa, ngay cả người đưa viên giám thị đến cũng vắng bóng.

Về cái am thờ 626 người đã chết, vị sư cho cô Phạm Thanh Nghiên biết có nghe nói là nằm trong một khu đất thuộc trại giam Ba Sao nhưng chưa bao giờ đến thăm.

Chỉ người giám thị hoặc người Phật tử mới biết chỗ mà đưa tới, khẳng định của sư khiến cô Phạm Thanh Nghiên hiểu ra sự mịt mù của vấn đề. Cô vẫn gắng xin được xem qua danh sách 626 người tù đã chết nhưng sư nói rằng người trông coi sổ sách đi vắng nên hẹn cô hôm khác trở lại:

Lần khác tôi đến chùa thì sư đi vắng, tôi gọi điện thì thầy nhận ra giọng tôi ngay, thầy thông báo rằng rất tiếc vì chùa đã hóa đã đốt đi trong dịp rằm tháng Bảy lễ Vu Lan vì nghĩ rằng để cũng chẳng làm gì cả.

Vị sư báo tin xong thì vội vàng gác máy, để lại một Thanh Nghiên với cảm giác hụt hẫng cùng cực:

Tôi nghĩ rằng dù như thế nào thì vẫn có phần trăm nào đó của sự hướng thiện trong con người của người cai tù này. Mặc dù cái xã hội cái ác được lên ngôi thì cái thiện vẫn cứ nẩy mầm.
– Phạm Thanh Nghiên

Tôi thấy mọi sự trước mắt mình như tối sầm lại bởi vì tôi đã rất là mong chờ đến ngày hẹn để đến lấy danh sách. Chưa bao giờ tôi có cảm giác thất vọng kinh khủng khi đã không hoàn thành cái mục tiêu, cái nhiệm vụ mà mình đặt ra cho chính mình. Đối với họ thì để chẳng làm gì cả nhưng đối với chúng ta thì nó là vô giá. Tôi tin chắc một điều nó sẽ là một bằng chứng lịch sử sau này về những đau thương mà người dân Việt Nam nói chung cũng như những cựu quân nhân cán chính Việt Nam Cộng Hòa nói riêng bị bách hại. Nói thật là trong phút chốc đó tôi cảm thấy mọi sự trước mắt mình như sụp đổ.

Khi tôi trấn tĩnh lại thì tôi không tin, tôi không tin rằng cái danh sách ấy đã bị đốt đi. Thời gian tới tôi sẽ vẫn cố gắng để có được cái danh sách đó trong khả năng có thể. Nếu như họ cứ khăng khăng thì tôi không làm cách nào được nhưng tôi vẫn cứ hy vọng.

Con số 626 tù cải tạo miền Nam chết vì bệnh tật, đau khổ và đói khát trong trại tập trung Ba Sao ở Nam Hà trên thực tế có thể cao hơn. Cựu quân nhân miền Nam Nguyễn Đạc Thành, năm 1979 từ trại 9 Yên Bái trên biên giới phía Bắc được chuyển xuống trại tù Nam Hà, gọi là Ba Sao:

Trại Ba Sao chia ra nhiều khu, khu A dành cho cấp tướng, cấp bộ trưởng hay tổng trưởng. Khu B dành cho sĩ quan cấp tá, khu C dành cho tù hình sự.

Trại Ba Sao gọi là khó khăn nhất, hắc ám nhất của công an. Nói tới Ba Sao là người miền Bắc đã rất là sợ. Con số 626 có thể còn hơn nữa chứ không ít hơn đâu bởi vì việc quản lý ăn uống rất khó khăn, không được nấu nướng hay là gì cả cho nên anh em kiệt sức rất nhiều, binh hoạn chết chóc đương nhiên xảy ra. Trại này rất lớn, còn có 3 cái nghĩa địa nữa và con số tù chết có lẽ là hơn số 626 đó rất nhiều.

Họ được chôn ở đâu?

Tuy nhiên, vẫn lời ông Nguyễn Đạc Thành, phần đông tù cải tạo không chết trong trại Nam Hà mà chết tại trại Mễ. Trại Mễ nằm trên một khu vực có tên là Cánh Đồng Mễ, chạy từ Nam Định ra Phủ Lý, nơi những tù bị bịnh từ Ba Sao được chuyển ra mà nếu chết thì được chôn tại đây.

400-1

Danh sách 126 người chết tại trại tập trung Ba Sao. Hình do VAF cung cấp

Năm 2007, sau khi đã định cư tại Hoa Kỳ, ông Nguyễn Đạc Thành sáng lập VAF Sáng Hội Việt Mỹ, vận động chính giới Hoa Kỳ cũng như giới chức Việt Nam để xin về bốc mộ đồng đội chết trong những trại tập trung như Làng Đá, Ba Sao và những nơi khác.

Tôi đã đến Cánh Đồng Mễ và đã thấy cảnh hoang tàn ở đó rồi. Người ta cắt một phần của cánh đồng nghĩa địa này bán cho một công ty hóa chất.

Năm 2009, con của ông trung tá Cao Kim Chẩn chết tại Nam Hà, em Cao Kim Minh, đã ra ngoài Nam Hà để bốc mộ cha. Số mộ của ba em là 49, em gởi cho tôi cái danh sách 126 tù cải tạo tại Cánh Đồng Mễ này. Sau đó tôi lập tức ra Nam Hà, đi tìm cái nghĩa địa trên Cánh Đồng Mễ này.

Song song đó thì tôi được quen biết với con của đại tá cảnh sát Tôn Thất Dẫn. Chị Trinh con của đại tá Dẫn đã đi ra ngoài trại Nam Hà để xin bốc mộ cha, trại đã chỉ ra cái nghĩa địa ở Cán Đồng Mễ.

Cô ấy ra ngoài nghĩa địa thì mới thấy chính quyền địa phương đã cắt một phần nghĩa địa để bán cho công ty hóa chất. Tại đây cô hỏi thì ban giám đốc công ty hóa chất cho biết họ đã bốc tất cả những ngôi mộ trong phần đất của họ, mỗi một hài cốt bỏ vào trong một cái hũ sành.

Cần biết vì có cả mộ thường dân trong nghĩa địa của Cánh Đồng Mễ nên những cái tiểu sành đựng hài cốt tù cải tạo được đánh dấu riêng và được chôn trong một ngôi mộ chung.

Từ Sài Gòn, chia sẻ với Thanh Trúc về việc liên quan, con gái cố đại tá cảnh sát Tôn Thất Dẫn cho biết trong hai mươi mấy cái tiểu sành chị tìm thấy trên Cánh Đồng Mễ và đưa qua xét nghiệm thì 14 cái được xác nhận là hài cốt tù cải tạo, trong đó một cái là hài cốt thân phụ của chị.

Chị Trinh đã xin phép đưa tất cả 14 hũ hài cốt này về Nam, an vị trong một nhà thờ ở Sài Gòn.

Đó là những chi tiết về quân dân cán chính miền Nam đã nằm xuống tại trại tù Ba Sao ở miền Bắc sau năm 1975. Không ai rõ con số 126 người xấu số ở Ba Sao mà VAF Sáng Hội Việt Mỹ thu thập được có nằm trong danh sách 626 người tù tử vong Ba sao mà cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên mong muốn tìm ra hay không.

Tại sao một giám thị Ba Sao lại tìm đến một ngôi chùa để lập bia thờ 626 vong hồn tù cải tạo chết trong trại, cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên nói rằng điểm duy nhất cô có thể lý giải là:

Không có lý do gì để người giám thị làm như vậy cả, chưa kể tính chất nhạy cảm và nguy hiểm nữa. Lý giải bằng tâm linh thì tôi cho rằng có thể có một biến cố nào khiến vị cai tù này làm được cái việc như thế. Tôi nghĩ rằng dù như thế nào thì vẫn có phần trăm nào đó của sự hướng thiện trong con người của người cai tù này. Mặc dù cái xã hội cái ác được lên ngôi thì cái thiện vẫn cứ nẩy mầm.

Trả lời câu hỏi tương tự, cựu tù chính trị Nguyễn Đạc Thành, giám đốc VAF Sáng Hội Việt Mỹ, từng về Việt Nam bốc mộ và cải táng hơn 500 bộ hài cốt tù cải tạo miền Nam từ Nam ra Bắc, nêu thí dụ hiếm hoi về một cán bộ mà ông dấu tên, một người có lòng mà ông và bạn đồng tù không thể quên khi còn ở trại 9 Yên Bái:

Tôi cảm nhận được sự thiêng liêng và sự ấm áp, nói thật tôi chưa bao giờ trải qua cái cảm giác như thế nên diễn tả bằng lời cũng rất là khó.
– Phạm Thanh Nghiên

Trong thời gian ở tù thì rất nhiều quản giáo và nhiều vệ binh rất tàn ác nhưng cũng có một vài vị có lương tâm. Tôi nói thí dụ một cán bộ ở trại 9 đã khóc khi thấy chúng tôi bị giam cầm một cách khắc nghiệt như thế này. Ông đã lén cho chúng tôi đào trộm sắn để ăn để có thể hồi sức lại.

Cái thứ hai nữa là khi mà ông chuyển chúng tôi về trại giam Nam Hà thì ông quay mặt vào tường ông khóc. Tôi nói cái này chắc chắn anh em trong trại 9 không ai phản đối hết, ông đã thương và che chở chúng tôi, chúng tôi đã phục hồi lại được ở trại 9 để về Nam Hà ở tù tiếp.

Theo tôi nghĩ người quản giáo đó đã làm một việc rất nguy hiểm, nếu bị phát giác họ sẽ bị mất việc. Đó là tình cảm của riêng họ đối với anh em tù cải tạo mà thôi, tôi nghĩ là có chứ không phải không có.

Đích xác bao nhiêu người tù cải tạo miền Nam đã bỏ mạng trong trại Ba Sao ở Nam Hà nói riêng là bài toán chưa có đáp số. Chỉ biết thầm lặng cảm ơn những tấm lòng nhân ái từ người quản giáo nào đó ở Ba Sao, của vị sư thầy nào đó ở một ngôi chùa nhỏ ngoài Bắc mà có ngày cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên sẽ đưa quí vị cũng như Thanh Trúc đến như đã hứa.

Xin hãy cùng Thanh Trúc cầu xin mọi điều bình an đến cho những người có trái tim nhân hậu.

Bài văn điểm 10 của HS Đà Nẵng về nghịch cảnh trần gian khiến người ta buộc phải suy ngẫm

Bài văn điểm 10 của HS Đà Nẵng về nghịch cảnh trần gian khiến người ta buộc phải suy ngẫm

“Cô sẽ ghi vào nhật ký đời đi dạy của mình về bài viết này với thật nhiều cảm xúc. Cô cảm ơn em”. Đó là lời chia sẻ rất tình cảm của cô giáo dạy văn Nguyễn Thị Châu dành cho Nguyễn Thị Cúc – học sinh lớp 12/11 – trường THPT Nguyễn Trãi (Đà Nẵng).

bai-van-diem-10-ve-nghich-canh-tran-gian

Bài viết được thực hiện bởi đề bài: “Trình bày suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng bạo lực gia đình trong xã hội hiện nay”. Trong phần chấm điểm, cô Châu nhận xét: “Bài viết đáp ứng được yêu cầu của đề bài, giàu sự sáng tạo, có nhiều ý sâu sắc, thể hiện sự trưởng thành trong suy nghĩ và nhận thức xã hội. Còn mắc lỗi diễn đạt, chính tả nhưng không nhiều”. Cô giáo Châu đã chấm điểm bài văn được chấm “9+1=10” bởi lý giải: “Bài viết còn mắc lỗi về chính tả nên tôi cho 9 điểm, nhưng lại cộng thêm 1 điểm về sự sáng tạo, độc đáo, mới lạ”. Được biết, đây cũng là điểm 10 đầu tiên cô Châu chấm trong suốt 15 năm dạy học.

Sau đây bài văn của học sinh Nguyễn Thị Cúc được cô giáo Nguyễn Thị Châu – giáo viên dạy Văn trường THPT Nguyễn Trãi (Đà Nẵng) chia sẻ. Bài viết như một sự cảnh tỉnh, và khiến người đọc buộc phải suy ngẫm về những đau đớn giữa cuộc đời này:

“Sao anh lại đánh em thế này… đừng đánh em nữa anh ơi!”

Mới chiều hôm qua đây thôi, trên đường đi học về tôi gặp một cảnh tượng thật đau lòng, một người đàn ông đánh tới tấp vào mặt, lưng một người phụ nữ. Vừa cố chống chọi với cơn khát bạo hành của chồng, chị vừa khóc lóc van xin: “Sao anh lại đánh em thế này… đừng đánh em nữa anh ơi!”. Tôi hơi sững người, nhưng cũng không lấy làm lạ vì đã từng chứng kiến cảnh như thế này nhiều lần. Ấy thế mà lâu nay tôi lại nghe người ta nói rằng: “Gia đình là nơi để yêu thương”.

Đã trôi qua một khoảng thời gian khá dài tôi đã sống, đã làm, đã ra đi… và tìm tòi những minh chứng cho điều mình nghe thấy. Thế rồi, lại đắng lòng biết mấy, khi tôi chợt nhận ra thời gian càng quay nhanh thì tình người cũng dần tan biến. Cuộc sống vô tâm làm nguội lạnh tình cảm trong trái tim mỗi người. Xã hội đổi thay và lòng người cũng dần thay đổi, mọi tính toán thiệt hơn trong cuộc sống làm mất đi những vẻ đẹp tự nhiên vốn có, hạnh phúc thì ít nhưng đắng cay lại nhiều, bao nhiêu mảnh đời bất hạnh vì cuộc sống gia đình không hòa thuận, thậm chí tan vỡ, và những hiểm nguy luôn rình rập… Tôi cười gượng: “Đấy! Một thảm họa hay nghịch cảnh trần gian?” Quá xót xa, tôi căm ghét và lên án những hành động tàn ác này – bạo lực gia đình.

Ở cõi vô thường này mấy ai còn lạ lẫm với khái niệm “bạo lực gia đình”, nó đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong chính cuộc sống của mỗi người chúng ta. Bạo lực gia đình, một cụm từ ngắn gọn, chỉ cho những hành động độc ác, vô nhân tính, vô đạo đức, không còn nhân phẩm của một số người trong xã hội, hành vi đó xảy ra trong phạm vi gia đình, giữa các thành viên với nhau. Không những ở Việt Nam nói riêng mà nó bao gồm cả toàn thế giới, đặc biệt là các quốc gia thuộc Châu Phi. Hằng năm trên thế giới, số người chết và bị thương vì loại tệ nạn này không ngừng tăng lên. Thật đau đớn biết bao cho những điều chúng ta đã thấy. Và tôi nghĩ, có hay không? Ở đâu? Cho tôi xin hai chữ công bằng.

Gần đây, nổi cộm trên các sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng là các vụ thương tâm về bạo hành trẻ nhỏ khiến người xem không ngừng suy nghĩ. Cách đây vài ngày, dư luận người Việt không khỏi xôn xao và cảm thương cho cháu bé 15 tháng tuổi ở TP.HCM bị chính cha mẹ mình đánh chấn thương sọ não. Một sự thật ngỡ ngàng khiến người xem bất bình khi thủ phạm lại quá thản nhiên cho rằng đó là “chuyện bình thường”. Tôi như nghẹn ứ lồng ngực khi nghe người mẹ trả lời câu hỏi của phóng viên nhà báo: “Nó bị té xe mà!”. Một lời nói lạnh lùng tới tận xương tủy, tôi tê buốt thân mình, đấy cũng gọi là mẹ sao? – người mang nặng chín tháng mười ngày, tôi tự hỏi. Hình như là tôi đang khóc, nhưng nước mắt tôi không rơi… là vì tôi đang lo cho số phận, cho tương lai mịt mù của đứa trẻ này.

Cùng trên tuyến đường chạy dọc vào miền Nam yêu quý, quanh năm ruộng đất tốt tươi, cò bay thẳng cánh, vẫn còn hiện lên trên nét mặt của mỗi người dân Hậu Giang thôn quê nghèo một nỗi bang hoàng như cắn xé tâm can khi được ai đó hỏi về chuyện cậu học sinh cấp 1, N.V.T bị cha và mẹ kế đánh gãy xương sườn, nhốt vào chuồng chó 3 ngày không cho ăn. Nói đến đây tôi không còn kìm lòng mình được nữa, sự chua chát phủ lên trong từng hơi thở của mình. Tôi tự hỏi tại sao lại thế? Những người làm cha mẹ đó liệu họ có cảm thấy đớn đau khi hành hạ con cái mình không? Hay vì do em lỡ mang số kiếp con riêng để “đến đây” làm người?

Chuyện của những thiên thần nhỏ chỉ là một nốt trầm trong bản nhạc bạo lực bay bổng, còn những nốt cao luôn vút lên với biết bao bi kịch. Hạnh phúc gia đình vỡ tan, con cái gặp nhiều bất hạnh… Sinh ra với thân phận phụ nữ ai không mong gặp được người chồng yêu thương mình. Cảnh cuộc sống hạnh phúc viên mãn luôn là niềm ước ao của bao cô gái trẻ. Khi tình yêu thăng hoa, niềm vui ấy sẽ dần lớn theo năm tháng nhưng có ngờ đâu nó lại trở thành địa ngục. Tình yêu trên đời vốn là ích kỉ, nhưng sự độc đoán, cổ hủ lại khiến con người ta trở nên vô cảm, một khi sự ghen tuông nổi dậy thì tình yêu đẹp đó dù được xây dựng trong bao nhiêu năm cũng trôi vào tro bụi. Đấy là tình cảnh chung của bao chị em phụ nữ đang phải gánh chịu.

Chuyện chị H. ở Nghệ Tĩnh là một minh chứng nóng lên cho hành vi này. Vì quá ghen tuông theo kiểu mù quáng, người chồng hiền từ đức độ bao nhiêu năm chung sống đã không có cảm giác run sợ khi dùng dao xẻo thịt vợ. Một hành động man rợ đến kẻ điên cũng phải khiếp sợ. Tôi thường nghe mấy anh thi nhân vẫn hay ví von rằng “phụ nữ như đóa phù dung”. Nói đến phụ nữ ai cũng nghĩ ngay đến sự hiền lành, đức độ, mỏng manh và xinh đẹp, đòi hỏi ai có được cũng phải nâng niu và bảo trọng. Nhưng cuộc đời thì nào như tác phẩm văn học, còn lắm những đắng cay, tủi hờn mà biết bao “đóa phù dung” phải chịu.

Hôm qua tôi đọc báo, lang thang trên các dòng tin mạng, tôi thấy tái tê cõi lòng khi đọc tin một chị tên H. ở Nam Định bị chồng đánh đập, hành hạ dã man, dùng kim tiêm đâm vào vùng kín. Người đàn ông vũ phu ấy còn bắt vợ mình ăn phân lợn… bây giờ khuôn mặt chị đã biến dạng qua nhiều đòn tra tấn dã man của chồng. Trước cơ quan chức năng chị chỉ ngậm ngùi khóc trong đớn đau và tức tưởi: “Là vì con, nếu tôi ra đi con tôi ba đứa nheo nhóc làm sao qua cảnh cơ hàn…”. Lại thêm một mảnh đời bất hạnh. Cuộc sống nào cho chị hạnh phúc đây? Con đường nào sẽ mang lại tình yêu và tiếng cười cho chị và các con, vẫn là một ẩn số thật dài…

Tạm gác lại những câu chuyện bạo hành gia đình của nước mình, mới đây trên trang mạng xã hội Facebook có một người đàn ông nickname là Phi Nhi. Người đàn ông này đã đánh đập đứa con 2 tuổi rồi khoe trên trang cá nhân của mình. Sự hận thù người vợ lố lăng đã khiến ông trở nên tàn độc với mọi thứ, kể cả đứa con nhỏ bé. Ông đánh con mọi lúc, mọi nơi có thể. Nhìn cậu bé qua những bức hình với thân mình bầm tím, máu me đầy người… nhưng lại được chính bố mình đăng tải trên mạng mà lòng se xót.

Giấc mơ định cư ở nước ngoài của người Việt Nam

Giấc mơ định cư ở nước ngoài của người Việt Nam

Hòa Ái, phóng viên RFA
2016-04-07

Chiếc tàu Cap Anamur 2 cập cảng Hamburg năm 1986 với 286 thuyền nhân Việt Nam trên tàu.

Photo courtesy of wdr.de

Your browser does not support the audio element.

Kể từ khi chiến tranh kết thúc vào cuối tháng 4 năm 1975 cho đến nay, đa số người dân trong nước vẫn luôn ôm ấp và thực hiện giấc mơ được định cư ở nước ngoài. Mới đây nhất, Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa đề nghị Chính phủ Việt Nam phải làm cho đất nước thực sự trở thành nơi đáng sống chứ không phải muốn ra đi. Hòa Ái sơ lược các làn sóng di dân của người Việt suốt hơn 4 thập niên qua cũng như tìm hiểu nguyên nhân vì sao giấc mơ này vẫn còn đó dù chính quyền Hà Nội luôn cho rằng Việt Nam độc lập, ổn định và phát triển.

Hiện nay nhiều trí thức giỏi không về nước làm việc, doanh nhân thành đạt muốn ra đi, một bộ phận cán bộ, công chức về hưu hay đương chức cũng tìm cách cho mình hay con cháu mình định cư ở nước ngoài.
– Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa

Theo số liệu thống kê của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 cho đến cuối năm 1995, có khoảng gần một triệu người Việt Nam bỏ nước ra đi và ước chừng phân nửa trong số này bị thiệt mạng trên đường vượt biên. Cuộc vượt thoát trốn chạy chế độ cộng sản của người Việt trong 2 thập niên đầu tiên kể từ khi chiến tranh kết thúc đã gây chấn động dư luận thế giới và Hoa Kỳ cũng như các quốc gia Tây Âu dang tay đón nhận những người Việt may mắn còn sống sót trong hành trình tìm tự do của họ. Từ cuộc di dân mang tính lịch sử này dẫn đến nhiều đợt di dân của vài triệu người Việt khác suốt 4 thập niên qua theo chương trình bảo lãnh đoàn tụ gia đình.

Bên cạnh làn sóng di dân vừa nêu, còn có các làn sóng di dân khác của người Việt được dư luận trong và ngoài nước biết đến; bao gồm Chương trình tái định cư cựu tù cải tạo được phóng thích, gọi tắt là Chương trình H.O do Hoa Kỳ bảo trợ khoảng hơn 200 ngàn cựu nhân viên và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa bị 3 năm tù trở lên cùng thân nhân. Ngoài ra, có khoảng 100 ngàn trẻ lai có cha là công dân Hoa Kỳ và gia đình sang Mỹ định cư theo chương trình nhân đạo có tên “Chương trình con lai Mỹ”.

Một làn sóng di dân khác nữa của người Việt trong 4 thập niên mà ngày càng có chiều hướng gia tăng mạnh đó là cuộc trốn chạy xin tị nạn của du học sinh và công nhân xuất khẩu lao động khi khối Cộng sản Đông Âu sụp đổ. Số liệu không chính thức Đài ACTD thu thập được vào thời điểm đầu thập niên 1990 có khoảng 300 ngàn người sống rải rác ở Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Đông và Tây Đức… Số liệu mới nhất cho thấy nhiều gia đình ở các quốc gia này gồm đủ cả 3 thế hệ, trong đó có gia đình lên đến 80 thành viên.

Sau khi Chính phủ Hà Nội áp dụng chính sách “Đổi mới” vào năm 1986 theo cơ chế “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, xã hội Việt Nam thay đổi thông thoáng hơn trong nhiều lãnh vực, đời sống người dân được thoải mái hơn; thế nhưng vẫn còn có nhiều người Việt muốn định cư ở nước ngoài và họ tìm mọi phương cách ra đi hợp pháp.

Một làn sóng di dân đặc biệt gây chú ý trong dư luận hơn 2 thập niên qua phải kể đến trường hợp hàng trăm ngàn phụ nữ Việt lấy chồng ngoại quốc để ra đi có sự đổi đời, nôm na gọi là “Cô dâu Việt”. Và còn một làn sóng di dân âm thầm mà Nhà nước Việt Nam gọi là “hiện tượng chảy máu chất xám” trong các thập niên vẫn là vấn đề nan giải cấp quốc gia như Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa phát biểu trong buổi họp Quốc hội mới đây, vào sáng hôm mùng 1 tháng 4, rằng:

Những người vượt biển tìm tự do

Những người vượt biển tìm tự do

“Hiện nay nhiều trí thức giỏi không về nước làm việc, doanh nhân thành đạt muốn ra đi, một bộ phận cán bộ, công chức về hưu hay đương chức cũng tìm cách cho mình hay con cháu mình định cư ở nước ngoài.”

Tính đến năm 2012, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cho biết có hơn 100 ngàn du học sinh Việt Nam học tập và làm việc ở 49 quốc gia, trong đó có đến 90% du học tự túc và nhiều người trong số họ đã không về nước. Câu hỏi đặt ra là hơn ai hết, họ sẽ có điều kiện sống tốt tại quê nhà nhưng vì sao không trở về mà lại chọn định cư ở nước ngoài? Để trả lời câu hỏi này, Đài RFA tiếp xúc với một số trí thức trẻ, những người quyết định tìm cơ hội ở lại sinh sống và làm việc nơi quốc gia họ đã từng du học, và được họ cho biết không có sự lo lắng nào về đời sống kinh tế nhưng môi trường làm việc ở Việt Nam sẽ rất khó thích nghi, đặc biệt đối với những người làm việc trong lãnh vực khoa học. Từ Anh Quốc, Tiến sĩ An Hà nêu lên quan điểm của mình vì sao không trở về nước:

“Đối với những người nghiên cứu khoa học thuần túy thì việc về nước đúng là lãng phí. Bởi vì nghiên cứu khoa học cần sáng tạo, cần nghĩ điều người khác không dám nghĩ, làm những điều người khác chưa dám làm. Tuy nhiên ở nước mình thì người nghĩ những điều người khác không dám nghĩ và làm những việc người khác không dám làm thì khó lắm. Nói chung guồng máy không hoan nghênh những người dám nghĩ dám làm như thế. Nghiên cứu khoa học thì ở đâu cũng có cái hay và có cái dở nên nói gọi là khác biệt. Không phát huy được trong công việc và suy nghĩ khác cách suy nghĩ thông thường của Việt Nam nên khó hòa hợp và hội nhập, không còn phù hợp với môi trường đó nữa.”

Là người có cơ hội tiếp xúc nhiều với giới trí thức Việt Nam thuộc thành phần di dân của “hiện tượng chảy máu chất xám”, GS. TS. Nguyễn Văn Tuấn, Giảng viên cao cấp tại Đại học New South Wales, ở Úc, nói với Đài ACTD ông nhận được rất nhiều chia sẻ từ giới trí thức cho đến những gia đình trung lưu tại Việt Nam cho biết họ muốn định cư ở nước ngoài vì tương lai tươi sáng hơn cho bản thân cũng như con cháu được sống trong xã hội dân chủ văn minh và pháp quyền. GS. Nguyễn Văn Tuấn kể lại:

“Tựu trung lại hầu như những người tôi tiếp xúc, ai cũng quan tâm về sự tụt hậu của đất nước mình. Họ so sánh với Thái Lan, Hàn Quốc và Singapore… Họ nói ‘từ năm 75, Việt Nam đâu khác các nước đó gì đâu; thế mà chỉ 40 năm qua mình tụt hậu so với họ quá xa, thậm chí hàng trăm năm.’ Và họ cảm thấy tuyệt vọng, bất lực vì không có cách gì để đóng góp giúp đất nước vươn lên.”

Chính phủ Việt Nam vẫn chưa thể tìm ra giải pháp hiệu quả để thu hút người tài trở về nước hay ngăn chặn, làm giảm thành phần trí thức và những gia đình di dân không phải vì tiền mà vì cảm thấy không vui, không an toàn về pháp lý, các quyền tự do dân chủ không bảo đảm đầy đủ và lo sợ đất nước bị lệ thuộc nên phải ra đi.

Đối với tầng lớp người dân có hoàn cảnh nghèo khó thì được ra nước ngoài dù trong thân phận xuất khẩu lao động, làm ô sin hay cô dâu bất đắc dĩ… vẫn là một giấc mơ đổi đời và họ sẵn sàng chớp lấy một khi có cơ hội dù phải đánh đổi bất chấp thứ gì như những đồng bào của họ từng dám liều chết hơn 40 năm trước đây khi đặt chân lên thuyền hướng ra biển cả.

44 sinh viên kiến nghị lên tòa Hà Nội

 44 sinh viên kiến nghị lên tòa Hà Nội

AFP

Nhiều phiên xử công khai của Tòa án Hà Nội ngăn chặn người dân tham dự

44 sinh viên Đại học Luật Hà Nội ký tên yêu cầu Tòa án Hà Nội “chấm dứt ngăn cản người dân dự các phiên tòa công khai”, đơn của các sinh viên viết.

Trong đơn nhắc lại “Điều 15, Bộ luật Tố tụng Dân sự, điều 17 Luật Tố tụng Hành Chính quy định việc xét xử tòa án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do các Bộ luật này quy định”.

“Chúng tôi không thể hiểu nổi là từ lúc nào Tòa án nhân dân Hà Nội lại ra những quy định trái Hiến pháp, trái pháp luật và bắt sinh viên Luật phải tuân theo” – Những sinh viên ký tên vào đơn viết.

Trước đó, một nhóm luật sư tại Hà Nội cũng có yêu cầu này gửi đến Tòa án Hà Nội với nội dung tương tự “những sinh viên luật, cử nhân luật trẻ cần được tham dự các phiên tòa để có thêm tư liệu, thực tế phục vụ quá trình học tập, nâng cao chuyên môn nghề nghiệp.”

Nói với BBC Tiếng Việt qua điện thoại từ Hà Nội, Trương Thị Hà – một trong 44 sinh viên ký tên vào đơn kiến nghị cho biết “muốn mọi việc được giải quyết sớm” và cô “không muốn bình luận gì thêm”.

Trên Facebook cá nhân, luật sư Trần Vũ Hải, một trong những người thuộc nhóm luật sư viết đơn kiến nghị, bình luận về sự việc các sinh viên luật thực hiện: “Một nữ sinh viên luật 22 tuổi đại diện 44 sinh viên luật tại Hà nội đã gửi thư yêu cầu Chánh án Toà án Hà nội chấm dứt hành vi vi hiến của Toà án này và tiếp các sinh viên với tư cách công dân theo luật tiếp công dân. Liệu ông Chánh án lại lẩn tránh với lý do “bận việc”‘và bận ” ứng cử đại biểu Quốc hội”?”

‘Văn bản pháp lý hay’

Luật sư Lê Văn Luân – một luật sư trẻ đang tự ứng cử tại Hà Nội – nói về sự việc này trên trang cá nhân của ông: “Cách học, cảm thụ luật pháp nhanh nhất là nhìn vào cuộc sống, đánh giá chúng và nếu nó sai trái, hãy lên tiếng, đó là cách vận dụng, thấu hiểu luật pháp một cách tốt nhất mà không trường lớp nào dạy được các bạn.”

Trả lời BBC Tiếng Việt, luật sư Lê Văn Luân nói, ông cho rằng việc các sinh viên viết đơn kiến nghị này “Theo tôi là chưa bao giờ có”.

Ông Luân cho rằng đây là “một văn bản pháp lý rất hay”.

“Và đây cũng là cách để các bạn sinh viên bảo vệ chính các bạn và nghề nghiệp của các bạn, và đây cũng là cách để các bạn học.” – Ông Luân nhận định.

AFP

Tại phiên xử blogger Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm), nhiều người dân và một dân biểu Đức không được tham dự

Trong thời gian vừa qua, tại nhiều vụ xử công khai tại Tòa án Hà Nội, người dân bị ngăn chặn tham dự.

Gần đây nhất, phiên xử công khai như vụ án Anh Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh, nhiều người dân, gồm cả dân biểu Đức đến cũng bị ngăn chặn và phải đứng bên ngoài phiên tòa.

Những sinh viên luật viết đơn kiến nghị cũng “đề nghị ông chánh án Tòa án nhân dân Hà Nội bố trí sớm nhất một buổi tiếp công dân” để họ phản ánh nội dung yêu cầu.

Việt Nam: Trong một tuần có tới 7 người bị kết án

Việt Nam: Trong một tuần có tới 7 người bị kết án

HRW

4-4-2016

Các Nhà hoạt động và các blogger bị xử mức án tù giam nặng nề

(Bangkok, ngày 4 tháng Tư năm 2016) – Hôm nay Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu rằng chính quyền Việt Nam nên phóng thích ngay lập tức các nhà hoạt động và blogger nổi tiếng đang bị tù giam chỉ vì đã thực thi các quyền của mình. Trong tuần cuối cùng của tháng Ba, Việt Nam đã xử và kết án tù giam bảy nhà hoạt động và blogger.

“Trong tuần qua, Việt Nam như đang lên cơn khi kết án một lúc bảy nhà hoạt động vì các phát ngôn đáng lẽ là một phần bình thường trong đời sống chính trị ở hầu hết các quốc gia,” ông Phil Robertson, Phó Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. “Chính quyền Việt Nam đang đưa ra thông điệp rõ ràng rằng ‘tuần trăng mật nhân quyền’ trong quá trình đàm phán Hiệp ước Thương mại TPP đã chấm dứt, tạo nên một thách thức to lớn với Tổng thống Obama và Hoa Kỳ.”

Vào ngày 23 tháng Ba năm 2016, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội kết án ông Nguyễn Hữu Vinh, một blogger, mức án năm năm tù và người cộng sự của ông, Nguyễn Thị Minh Thúy, phải chịu mức án 3 năm vì đã điều hành một trang web có cung cấp đường liên kết tới các bài viết về những vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế, môi trường và văn hóa ở Việt Nam. Hai người bị truy tố về “tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước” theo điều 258 bộ luật hình sự. Phạm Đoan Trang, đồng tác giả của một trong những bài viết được nêu trong bản cáo trạng, cố tìm cách dự phiên tòa với tư cách một nhân chứng hữu quan. Nhưng công an đã câu lưu cô vào buổi sáng khi diễn ra phiên xử, và chỉ thả cô sau khi bản án đã được tuyên.

“Vận hành một trang mạng đem tới những cách nhìn khác nhau cho độc giả Việt Nam không nên bị coi là một tội hình sự,” ông Robertson nói. “Đối với rất nhiều người Việt, với bàn tay kiểm soát gắt gao và hệ thống kiểm duyệt báo chí và truyền thông của Việt Nam, các trang mạng như thế là nơi duy nhất có thể xem các tin tức và quan điểm độc lập.”

Vào ngày 24 tháng Ba, Tòa án Nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã kết luận ông Đinh Tất Thắng, một nhà vận động chống tham nhũng năm nay đã 73 tuổi, có tội, cũng theo nội dung điều 258, và xử ông mức án bảy tháng 11 ngày tù giam. Theo cáo trạng do báo chí nhà nước dẫn lại, ông đã “liên liên tiếp gửi đơn, thư tố cáo vu khống, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín cá nhân một số lãnh đạo Trung ương, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa và tập thể Huyện ủy, UBND huyện và Công an huyện Thọ Xuân.”

Ngày mồng 5 tháng Tám năm 2015, Đinh Tất Thắng viết một lá thư gửi Mặt trận Tổ quốc, một cơ quan do đảng kiểm soát, bao trùm các tổ chức và phong trào quần chúng trung thành với chính quyền Việt Nam, để tố cáo cơ chế làm giả giấy tờ nhằm nhận khống các khoản trợ cấp dành cho thương binh. Trong thư có nêu đích danh người anh trai của giám đốc công an Thanh Hóa mà ông cho là không đủ điều kiện để nhận trợ cấp. Mười một ngày sau đó ông Đinh Tất Thắng bị bắt. Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu ông bị chính quyền giam giữ vì có các hành vi chống tham nhũng. Năm 2008, ông đã bị kết án chín tháng tù giam, cũng vì tội tố cáo các quan chức tham nhũng ở địa phương và cấp quốc gia.

“Việt Nam làm sao chống tham những có hiệu quả được, khi cho phép các quan chức địa phương bỏ tù những người cố gắng tố cáo tham nhũng, như trường hợp ông Đinh Tất Thắng.” ông Robertson nói. “Những người vạch mặt tham nhũng trong chính quyền phải được bảo vệ chứ không phải bị tống giam.”

Buổi sáng ngày 30 tháng Ba, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kết án một blogger nổi tiếng, Nguyễn Đình Ngọc, mức án bốn năm tù giam cộng thêm ba năm quản chế không được đi ra ngoài phạm vi phường đang cư trú.

Buổi chiều, cũng chính tòa án nói trên đã kết án ba nhà hoạt động vì quyền lợi đất đai: Ngô Thị Minh Ước, 57 tuổi, Nguyễn Thị Bé Hai, 58 tuổi và Nguyễn Thị Trí, 58 tuổi với các mức án lần lượt là bốn năm, ba năm và ba năm. Họ cũng phải chịu thêm từ hai đến ba năm quản chế không được tự do đi lại sau khi mãn hạn tù.

Nguyên là nhân viên của Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Đình Ngọc, 50 tuổi, bút danh Nguyễn Ngọc Già, đã viết về các vấn đề chính trị xã hội liên quan tới dân chủ và nhân quyền cho trang tiếng Việt của Đài Á châu Tự do, và các trang web độc lập về chính trị khác như Dân Luận, Dân Làm Báo và Đàn Chim Việt. Ông cũng bày tỏ sự ủng hộ với các nhà hoạt động và blogger khác đang bị giam giữ vì đã thực thi các quyền cơ bản của mình, ví dụ như Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Quốc Quân, Đinh Nguyên KhaBùi Thị Minh Hằng.

Theo cáo trạng được dẫn lại trên báo chí nhà nước, ngày 25 tháng Mười hai năm 2014, công an nhận được công văn từ Công ty Cổ phần Bưu chính Viễn thông Sài Gòn báo rằng thuê bao Nguyễn Đình Ngọc đã sử dụng mạng Internet để “phát tán các bài viết nói xấu Đảng và Nhà nước Việt Nam.” Hai ngày sau thì ông bị bắt và bị truy tố về tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo điều 88 bộ luật hình sự.

Ngô Thị Minh Ước, Nguyễn Thị Bé Hai và Nguyễn Thị Trí cũng bị kết án về tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo điều 88. Họ bị cáo buộc đã phất cờ và biểu ngữ mà chính quyền cho rằng “có nội dung chống phá nhà nước, tuyên truyền thay đổi chính quyền” trong một cuộc biểu tình bên ngoài lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày mồng 7 tháng Bảy năm 2014. Báo chí nhà nước đưa tin rằng hội đồng xét xử cho rằng hành vi của ba nhà hoạt động này “rất nghiêm trọng, xâm phạm đến an ninh quốc gia, xuyên tạc, kích động, gây nghi ngờ, mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.” Cả ba người đều là nhà hoạt động vì quyền lợi đất đai ở vùng đồng bằng sông Cửu Long trong nhiều năm đã đi khiếu kiện về việc bị mất đất đai với các cấp chính quyền địa phương mà không có kết quả.

“Qua việc xiết chặt thêm vành đai kiểm soát đối với các nhà hoạt động nói trên cũng như các blogger và các nhà bình luận xã hội độc lập, Việt Nam đang thách thức phản ứng của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế,” ông Robertson nói. “Những hành động đó phải được đáp trả bằng sự lên án mạnh mẽ để chính quyền Hà Nội thấy rõ rằng nếu muốn nhận được sự tôn trọng của các đối tác thương mại thì bản thân mình phải tôn trọng nhân quyền.”

Mất trắng hàng chục ngàn tỉ vì dùng công nghệ Trung Quốc

Mất trắng hàng chục ngàn tỉ vì dùng công nghệ Trung Quốc
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV)Việt Nam hiện có bảy nhà máy sản xuất ethanol (một loại cồn chiết xuất từ khoai mì để pha vào xăng, tạo thành xăng sinh học) đã ngưng hoạt động vì sử dụng công nghệ của Trung Quốc.

Ðó là nội dung của một báo cáo do Bộ Công Thương của Việt Nam vừa công bố. Báo cáo này khiến dân chúng Việt Nam sốc nặng sau khi mới bị sốc trước các thông tin liên quan đến nhà máy Bio Ethanol Dung Quất.


Một góc nhà máy Bio Ethanolo Dung Quất. (Hình: Dân Trí)

Tuần trước, báo chí Việt Nam cho biết, ngoài 1,900 tỉ đồng đã chi cho dự án xây dựng nhà máy Bio Ethanol Dung Quất và nay coi như mất trắng, mỗi tháng, nhà máy Bio Ethanol Dung Quất đang ngốn thêm hai tỉ nữa dù đã tạm ngưng hoạt động.

Lý do chính khiến nhà máy Bio Ethanol Dung Quất, tọa lạc tại Quảng Ngãi phải ngưng hoạt động vì sản phẩm có giá thành quá cao. Nhà máy này bắt đầu vận hành vào tháng 2 năm 2012 và chưa bao giờ có lời mà còn lỗ nặng vì chi phí quá lớn, giá thành của sản phẩm cao hơn giá bán trung bình của sản phẩm cùng loại trên thị trường tới 2,000 đồng một lít.

Bởi càng sản xuất càng lỗ, kể từ tháng 4 năm ngoái đến nay, nhà máy Bio Ethanol Dung Quất đã ngưng hoạt động. Ðáng nói là trong 12 tháng vừa qua, mỗi tháng, công quỹ Việt Nam mất thêm hai tỉ đồng để trả lãi và chi phí bảo trì.

Nói cách khác, ngoài 1,900 tỉ vốn đầu tư, tổng thiệt hại trong 12 tháng vừa qua là 48 tỉ đồng và mức độ thiệt hại sẽ còn tiếp tục tăng.

Tuy nhiên Việt Nam không chỉ có một nhà máy sản xuất ethanol như nhà máy Bio Ethanol Dung Quất, ngoài nhà máy Bio Ethanol Dung Quất, Việt Nam hiện có sáu nhà máy tương tự. Sáu nhà máy này giống hệt nhà máy Bio Ethanol Dung Quất ở chỗ, sau khi ngốn rất nhiều tiền đều đã ngưng hoạt động vì càng hoạt động thì mức độ thua lỗ càng lớn.

Trong báo cáo mới nhất liên quan đến các nhà máy sản xuất ethanol tại Việt Nam, Bộ Công Thương Việt Nam giải thích, lý do có tới bảy nhà máy sản xuất ethanol tại Việt Nam ngưng hoạt động là vì sử dụng công nghệ Trung Quốc.

Bốn trong số bảy nhà máy sản xuất ethanol đã ngưng hoạt động sử dụng 100% cả công nghệ lẫn thiết bị của Trung Quốc. Ba trong số bảy nhà máy còn lại tuy có sử dụng công nghệ của một số quốc gia khác nhưng thiết bị vẫn là của Trung Quốc. Sau khi khánh thành, thời gian vận hành của cả bảy nhà máy chỉ khoảng một hoặc hai năm rồi đóng cửa.

Tại sao trong khi có rất nhiều quốc gia đã và đang tăng mức độ sử dụng xăng sinh học (xăng pha ethanol) trong sinh hoạt xã hội thì các nhà máy sản xuất cồn ethanol (để pha vào xăng thường, tạo thành xăng sinh học) tại Việt Nam lại lại phải ngưng hoạt động?

Bộ Công Thương của Việt Nam trả lời, đó là do công nghệ hoặc thiết bị mà những nhà máy này sử dụng đều thuộc loại lạc hậu, Trung Quốc không sử dụng nữa mới bán lại cho Việt Nam. Ngoài yếu tố giá thành cao, ethanol do những nhà máy này sản xuất ra không đủ chất lượng để pha vào xăng thường, tạo thành xăng sinh học. (G.Ð)

Chuyện tử tế

Chuyện tử tế

Kính Hòa, phóng viên RFA
2016-04-04

Tân Chủ tịch nước Trần Đại Quang (phải) nhận hoa từ cựu Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sau khi ông được bầu làm Chủ tịch mới tại Quốc hội, Hà Nội ngày 02 tháng 4 năm 2016

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Tạp chí điểm blog tập hợp những bình luận của các blogger trên trang cá nhân, trên các trang mạng xã hội… xung quanh những sự kiện lớn của đất nước.

Tử tế

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chúc cho các chính khách đồng nghiệp của ông và cho chính ông là về hưu sẽ ráng làm người tử tế.

Đã có rất nhiều quan chức Việt Nam khi về hưu hay sắp về hưu có những phát ngôn được cho là thành thật, là mạnh dạn, nay lời nói của Thủ tướng còn hơn thế nữa vì nó chứa đựng cả một lời khuyên đạo đức.

Và câu nói của Thủ tướng được báo chí chính thống của Việt Nam đưa lên hàng đầu trong tuần qua.

Dù sao, từ những suy tư và nỗi lòng, các vị khuyên nhau chân tình vậy cũng đáng khích lệ, đã không tử tế, nay phải sống tử tế (nhé!).
– Nhà văn Bùi Văn Bồng

Blogger Nguyễn Hoa Lư nhận xét:

Gặp điều gì khó khăn lắm người ta mới nhắc nhở nhau mà “ráng lên”. Chuyện “làm người tử tế” là chuyện đương nhiên của một con-người-ra-người, đám thảo dân mắt toét sau lũy tre làng còn biết vậy mà tay VietNamnet nâng lên thành chuyện lớn lao, tâm huyết của ngài (cựu) thủ tướng!

Chỉ với một cái tựa đề ngắn, cá nhân tôi cúi đầu ngả nón trước VietNamnet. Làng báo An Nam, khi mà “nhân tài như lá mùa Thu”, đang trong cảnh “trông người người càng vắng bóng mịt mù” thì cái hùng tâm của VietNamnet thật xứng đáng được kính trọng vậy!

Cái chữ “ráng” mà thủ tướng dùng làm cho nhiều người ngạc nhiên một cách thú vị. Nhà văn Bùi Văn Bồng viết rằng:

Dù sao, từ những suy tư và nỗi lòng, các vị khuyên nhau chân tình vậy cũng đáng khích lệ, đã không tử tế, nay phải sống tử tế (nhé!). “Các đồng chí phải ráng làm người tử tế”, phải ‘ráng’ kia đấy, nhưng khó, già cả rồi, tre già khó uốn, cái tật thường lớn hơn cái tuổi!

Một nhà văn khác là Lưu Trọng Văn nhân chuyện này kể lại một kỷ niệm cá nhân với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi ông còn là người đứng đầu tỉnh Kiên Giang. Khi đó Thủ tướng nói thẳng rằng địa phương của ông phải sống bằng nghề buôn lậu trong một tình hình kinh tế bi đát cách đây mấy mươi năm.

Lưu Trọng Văn cho rằng đó là sự thành thật, ông không biết là sau mấy mươi năm Thủ tướng có còn tính thành thật đó hay không nhưng ông có một niềm tin rằng lời chia tay trước quyền lực “ráng làm người tử tế” của ngài là một lời đầy tâm trạng sâu nặng có cay đắng và quan trọng nhất là rất thật.

Chuyện Tử tế thứ nhất

Muốn có được những chuyện tử tế trong xã hội hiện nay là một điều không đơn giản. Đối với blogger Khải Đơn là chuyện vượt qua nỗi sợ, và trong tuần qua nhiều người dân Sài gòn đã vượt qua nỗi sợ để đòi chính quyền không được chặt đi những cây cổ thụ hàng trăm năm của thành phố này.

Khải Đơn nhớ lại một lần bày tỏ chính kiến chống Trung Quốc xâm lược:

Chúng tôi đã nhìn nhau rất nhiều lần im lặng. Thế hệ của tôi, có lẽ là biểu trưng hùng hồn nhất của sự bất lực trong tâm can. Nỗi sợ và sự khôn ngoan nhiều hơn tất cả. Sự chấp nhận và số lần im lặng cũng nhiều hơn tất cả. Tôi đã học cách tin vào nỗi sợ – những kẻ sợ khôn ngoan và toan tính trong con ốc an toàn.

Và hôm nay Khải Đơn viết cho những người hôm nay xuống đường gìn giữ cây xanh:

Sẽ đến một lúc nào đó, những thế hệ lãnh cảm như chúng tôi chắc phải chết hết đi, để những người ôm cây không biết đến mùi sợ hãi, sạch nước cản, và lớn lên tự do vô cùng trong dòng suy nghĩ của họ.

000_983CS-400

Bà Nguyễn Thị Kim Ngân tuyên thệ nhậm chức Chủ tịch Quốc hội tại Hà Nội ngày 31 tháng 3 năm 2016. AFP photo

Họ sẽ chất vấn khi những giảng viên doạ đuổi học họ.

Họ sẽ tranh biện với ông thầy – khi ông nhân danh cái gì – để giáo dục họ về sự tự do của suy nghĩ.

Họ sẽ hỏi những kẻ gán ghép người khác bằng các danh từ sặc mùi âm mưu – rằng liệu có gì ẩn giấu sau mật ngữ “tôi yêu cây xanh”?

Chẳng có gì cả, khi những tâm hồn tự do lớn lên.

Trong khi ấy, ở Văn khoa Sài Gòn (aka trường Nhân Văn) – nơi đã sản sinh ra một thế hệ hát vì tự do hàng chục năm trước, nơi đã sinh ra những thế hệ giảng viên đấu tranh vì tự do và hoà bình – chúng tôi được dạy hãy câm mồm và lờ đi tất cả.

Cũng nói về nỗi sợ, nhà báo Sương Quỳnh viết trên trang Bauxite Việt Nam rằng:

Dù rằng từ nhận thức đến lên tiếng và rồi hành động là cả một khoảng cách. Nhất là xưa nay những việc này luôn bị các nhà chức trách bưng bít thông tin và ngăn cản, đe dọa và cả bắt bớ làm người Dân trở thành hèn nhát và thụ động dẫn đến vô cảm. Nhưng nếu biết trách nhiệm công dân, vượt qua nỗi sợ và hiểu được QUYỀN CON NGƯỜI thì chỉ cần như một cái vỗ cánh của một con bướm cũng có thể gây ra cơn bão để quét đi những điều làm tai hại cho môi trường, cộng đồng và cả xã hội.

Chuyện tử tế thứ hai

Chuyện tử tế thứ hai hiện nay có lẽ là việc phải tìm ra người chịu trách nhiệm các vấn nạn của xã hội như blogger Tuấn Khanh đề cập đến trong bài mới nhất của ông:

Trách nhiệm cá nhân là một phần quan trọng của đất nước, trong giai đoạn mà mọi thứ đang có vẻ dần vào rối ren bởi quá nhiều hư hỏng, quá nhiều tai ương… hiện ra, cho thấy đó là những quyết định sai lầm, vội vã hay tư lợi của những cá nhân, những nhóm người nhưng hôm nay thì thật khó tìm ra người chịu trách nhiệm. Chỉ còn lại nhân dân là người phải gánh vác những hậu quả, từ nợ công cho đến sự sụp đổ một cây cầu, một con đường hay một hàng cây xanh.

Từ chuyện một đứa trẻ bị bắt cóc, cho đến chuyện của Bộ Y tế, Bộ Giáo dục… rồi đến việc đánh đập nhà báo để bịt miệng công luận… mọi thứ cứ đi dần vào cõi u u mê mê của đời sống, vào tiếng thở dài của những người ngồi trên vỉa hè nhìn về tương lai đất nước với cảm giác rằng mọi thứ đang bị bỏ trôi, không có ai thật sự chịu trách nhiệm trên đất nước này. Trách nhiệm luôn đi cùng danh dự và sự tồn vong của tổ quốc. Chúng ta sẽ mất cả, nếu không ai có đủ danh dự để chịu trách nhiệm trên đất nước mình, khởi đầu từ những điều nhỏ nhất.

Tuấn Khanh cho rằng tất cả những xáo trộn, bất an đó của xã hội đến từ sự mất lòng tin của dân chúng, một sự mất niềm tin mà tác giả cũng thấy ở một quốc gia láng giềng có cùng thể chế chính trị là Trung quốc.

Trong sự mất niềm tin nơi một xã hội vô trách nhiệm, blogger Minh Văn tìm thấy một mẩu số chung nơi các quốc gia cộng sản:

Theo truyền thông của nhà nước Cộng Sản, các đối tượng sau luôn là kẻ có lỗi: Thiên tai (ông trời), người dân, các thế lực phản động và thù địch.

Còn nhà nước thì chẳng liên quan gì cả, hoặc là có lỗi rất ít, không đáng kể.

Chuyện tử tế lớn nhất

Khi thủ tướng lên tiếng về chuyện tử tế khi về hưu cũng là lúc nhà nước Việt Nam tiến hành một việc chưa có tiền lệ, đó là Quốc hội sắp mãn nhiệm lại bầu các chức danh quan trọng cho chính phủ sắp tới. Nhiều người cho rằng việc đó chứng tỏ chính phủ hay đảng cộng sản đang lấn lướt quyền hành của Quốc hội.

000_8Y5WG-620-400

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đến tham dự phiên họp cuối cùng của Quốc hội tại Hà Nội hôm 21 tháng 3 năm 2016.                 AFP photo

Blogger Kami cho rằng không phải như thế, vì trên thực tế bấy lâu nay Quốc hội Việt Nam chẳng có quyền lực gì.

Blogger Dân Nguyễn viết trên trang Ba Sàm một lời khuyên dành cho thủ tướng nếu ông muốn làm một chuyện tử tế có ý nghĩa:

Việc “tử tế” có ý nghĩa nhất, và cũng không quá khó với ngài thủ tướng, (dù biết khi đó ngài đã là thảo dân), không phải là việc quan hệ tốt với ông hàng xóm hay vâng lời vợ đuổi gà trong vườn thay vì đi nhậu nhẹt… mà là phải lên tiếng bênh vực cái đúng, lên án cái sai, cái xấu, cho dù cái xấu đó ở đâu, núp dưới danh gì. Sự “tử tế” đầu tiên khiến ông ghi điểm ngay, đó có thể là việc lên tiếng ủng hộ cho những ứng cử viên độc lập trong kỳ bầu cử Quốc Hội khóa 14 sắp tới đây. Trong thâm tâm ông cũng thừa biết họ là những con người tử tế mà còn có thể thêm chữ “rất” ở đầu…

Một trí thức lão thành là ông Nguyễn Khắc Mai cũng đưa ra lời khuyên là những người cầm quyền Việt Nam nên chấp nhận một xã hội dân sự qua việc cho phép những ứng viên độc lập tranh cử vào Quốc hội, ông viết:

Hãy để cho người dân tự do bầu cử, ứng cử, nhiều nhóm công dân sẽ tham chính, tự họ sẽ kiểm soát được lẫn nhau. Chuyện chạy chức chạy quyền chắc chắn sẽ được kiểm soát. Ai chạy, chỉ toàn đảng viên cộng sản. Chạy ai, cũng chỉ là cán bộ cộng sản. Những dân đen cũng có chạy, nhưng chỉ chạy để làm đầu sai. Chỉ có đám quan chức “không bao giờ mắc sai lầm” thì mới chạy để săn tìm quyền lực, và lợi ích bẩn thỉu.

Blogger Song Chi thì cảnh báo là nếu tình trạng hiện nay không có gì thay đổi thì những người chủ thực sự của đất nước này sẽ đứng lên, lúc đó đảng cộng sản sẽ thất bại.

Để đến một ngày những người chủ ấy sẽ đứng lên buộc đảng và nhà nước cộng sản phải rút lui trong một cuộc bầu cử công khai chính thức để một chính đảng khác xứng đáng hơn, có trách nhiệm hơn lên lãnh đạo, chấm dứt kiểu hành xử nắm quyền mà như đang ở trọ đối với đất nước, dân tộc.

Và theo blogger Viết từ Sài gòn thì sự thất bại đó sẽ chính là niềm mong mỏi lớn nhất của nhân dân:

Theo truyền thông của nhà nước Cộng Sản, các đối tượng sau luôn là kẻ có lỗi: Thiên tai (ông trời), người dân, các thế lực phản động và thù địch.
– Blogger Minh Văn

Cái chết hay sự cáo chung hay nói sang hơn một chút là sự về hưu của đảng Cộng sản mới là niềm mong mỏi của nhân dân. Lời nói chia tay của một thực thể đảng Cộng sản mới gây cảm động. Chứ ông Dũng hay ông Hùng, ông Sang có nói một ngàn lời chia tay chăng nữa thì đó cũng là câu chuyện (có gian lận, có đấu đá, có hạ sát nhau) giữa các ông với nhau. Điều này chẳng gây cảm động gì đối với nhân dân. Bởi, khi nhân dân đã ngán ngẩm, đã mệt mỏi thì ông nào nói lời chia tay cũng vậy mà thôi!

Những lời chia tay ấy, theo lời blogger Hiệu Minh, thì không cần có một lời tâm sự nhắc nhở đầy tính đạo đức như của ngài Thủ tướng, nếu như các quan chức đều tử tế, khi về hưu sẽ được dân chúng nhớ đến.

Một trong những người hy vọng rằng các qaun chức của đảng cộng sản sẽ trở thành người tử tế, rằng đảng cộng sản sẽ cải cách sau đại hội 12 vừa rồi để tìm cách phá sự bế tắc của xã hội Việt Nam, là Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy, nhưng một thời gian sau đại hội đảng lần thứ 12, bà quan sát thấy sự đàn áp những người bất đồng chính kiến chỉ có tăng lên chứ không giảm, bà đang nghĩ rằng mình đã đưa ra một dự báo sai lầm về đảng cộng sản.

Ai sẽ chịu trách nhiệm trên đất nước này?

  Ai sẽ chịu trách nhiệm trên đất nước này?

tuankhanh

RFA

Cuộc tranh cãi gay gắt giữa hai phe phụ huynh vẫn không ngớt về nạn bắt cóc trẻ em, hiện râm ran trong từng gia đình.Người ta kể về những chuyện giành giật lại con cháu mình từ bọn bắt cóc ở ngã tư, có người may mắn, có người thì chỉ còn khóc hận.
Cuộc tranh cãi dữ dội hơn, ngay sau khi có lời tuyên bố của trung tá Nguyễn Quang Thắng, phó phòng tham mưu Công an TPHCM rằng không thể có nạn bắt cóc tràn lan trên đường phố.
Theo ông Quang Thắng thì cơ quan công an điều tra chỉ tiếp nhận duy nhất một vụ như vậy mà thôi.
Thật đáng phân vân, một bên là lời đoan chắc của hệ thống công quyền, còn một bên là an nguy của chính mình.
Báo Phụ nữ Việt Nam thì khẳng định rằng nhiều trường đã ra thông báo cho phụ huynh về tình trạng này, mà nhiều nơi đang xảy ra như ở trường Đặng Thuỳ Trâm (quận 7, TPHCM), trường mầm non Anh Tú (quận Tân Bình), trường Phan Như Thạch (phường 9, Lâm Đồng)…
Thật bất ngờ khi trong những lời cảnh báo về nạn bắt cóc trẻ em, có cả thông báo chính thức của Bộ Giáo dục vào ngày 13/1. Vụ trưởng vụ Công tác học sinh sinh viên Ngũ Duy Anh đã kêu gọi các trường học phải đề cao cảnh giác, tăng cường đảm bảo an ninh cho các em.
Trên truyền hình, các bài học võ thuật cơ bản nhằm chống cướp con trên tay cũng xuất hiện.
Vậy thì ai đúng, ai sai? Trong một xã hội mà mỗi ngày càng có nhiều biến động, người ta không thể răn đe việc tán phát tin đồn trong sự bất an của dân chúng, mà phải có những phương pháp giải quyết khủng hoảng hợp lý và tích cực của chính quyền.
Việc trống đánh xuôi, kèn thổi ngược chỉ làm mọi thứ thêm rối rắm, và cuối cùng chỉ có người dân là nạn nhân.
Xã hội Việt Nam nhận được rất nhiều các phát ngôn của các quan chức và chính quyền địa phương. Nhưng có vẻ như ít khi nào tìm thấy được ai thật sự là người chịu trách nhiệm trước mắt người dân, hoặc chịu trách nhiệm của bản thân mình.
Ngược lại, đôi khi người có trách nhiệm thường thoái thác rằng “bận họp” hoặc cúp máy đột ngột khi trả lời phỏng vấn. Dường như có ai đó phải chịu trách nhiệm, phải hành động trên đất nước này là điều mơ hồ, xa xôi.
Nhà báo Đỗ Doãn Hoàng tại Hà Nội, bị một nhóm người lạ mặt tấn công dã man bằng gậy vào ngày 23/3 ngang nhiên như trong phim xã hội đen.
Vụ tấn công diễn ra giữa ban ngày, như một nỗi nhục của nền báo chí quốc gia mà cho đến khi kết thúc không hề có bóng dáng công an viên nào xuất hiện. Sau khi đi cấp cứu, nhà báo Đỗ Doãn Hoàng phải tự mình ra công an của khu vực đó để trình báo.
Lúc này, có rất nhiều nhà báo, rất nhiều sinh viên truyền thông dõi theo sự kiện này với nỗi phập phồng về tương lai và nghề nghiệp của mình, nhưng có vẻ vụ án như “bế tắc”. Và không ai phải chịu trách nhiệm về việc mất an ninh kỳ quặc như vậy ngay giữa thủ đô Hà Nội.
Trong sự kiện nữ học sinh Lê Thị Hà Vi, 15 tuổi ở Cư Kuin, Dăk Lăk bị bệnh viện địa phương chẩn đoán sai khiến phải cưa chân, ai cũng bất ngờ khi bà Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đến động viên và nói “bác hứa sẽ giúp cho con thi đậu vào ngành y”.
Sự kiện tắc trách của ngành y tế khiến ai cũng đau lòng, khiến một nữ sinh phải tàn tật suốt đời, nhưng để “đền” cho chuyện đó, mà một nữ sinh có nguyện vọng học ngành công an, đột nhiên được động viên chỉ cần học một năm là sẽ được giúp đậu ngành y, khiến ai cũng ngạc nhiên.
Nguyên gốc câu nói đó có thể trở thành vấn đề của pháp luật. Thi cử và học vấn là vấn đề thiết yếu của quốc gia, không thể tuỳ tiện như vậy. Ở vị trí là một người có học và có trách nhiệm, bà Tiến không thể tuỳ tiện. Việc “hứa giúp” của bà Tiến có thể đặt vào thế bị Bộ Giáo dục Việt Nam khởi kiện.
Nhưng tiếc thay, có vẻ như Bộ Giáo dục Việt Nam cũng không có ai thấy mình có trách nhiệm để cần phải lên tiếng.
Trách nhiệm cá nhân là một phần quan trọng của đất nước, trong giai đoạn mà mọi thứ đang có vẻ dần vào rối ren bởi quá nhiều hư hỏng, quá nhiều tai ương… hiện ra, cho thấy đó là những quyết định sai lầm, vội vã hay tư lợi của những cá nhân, những nhóm người nhưng hôm nay thì thật khó tìm ra người chịu trách nhiệm.
Chỉ còn lại nhân dân là người phải gánh vác những hậu quả, từ nợ công cho đến sự sụp đổ một cây cầu, một con đường hay một hàng cây xanh.
Từ chuyện một đứa trẻ bị bắt cóc, cho đến chuyện của Bộ Y tế, Bộ Giáo dục… rồi đến việc đánh đập nhà báo để bịt miệng công luận… mọi thứ cứ đi dần vào cõi u u mê mê của đời sống, vào tiếng thở dài của những người ngồi trên vỉa hè nhìn về tương lai đất nước với cảm giác rằng mọi thứ đang bị bỏ trôi, không có ai thật sự chịu trách nhiệm trên đất nước này.
Trách nhiệm luôn đi cùng danh dự và sự tồn vong của tổ quốc. Chúng ta sẽ mất cả, nếu không ai có đủ danh dự để chịu trách nhiệm trên đất nước mình, khởi đầu từ những điều nhỏ nhất.

Suy nghĩ về tầm nhìn của chúng ta

 Suy nghĩ về tầm nhìn của chúng ta

(A Reflection on Our Vision)

Ghi nhận của Đoàn Thanh Liêm

* * *

Từ xa xưa, cha ông ta vẫn thường nói : “Người sĩ phu quân tử thì phải biết

nhìn xa trông rộng”, tức là phải cố gắng mà tìm hiểu cho rành mạch sâu sắc

hơn về tình hình chung của xã hội, của đất nước đang biến chuyển ra sao – để

rồi từ đó đề ra được một chương trình hành động sao cho thích hợp với nhu

cầu đòi hỏi của tình thế. Mà nói theo lối văn hoa, thì đó là cái “viễn kiến”.

Ngược lại, thì dân gian cũng bày tỏ sự coi thường đối những kẻ gàn dở,

ngang bướng, tự cao tự mãn – ví họ như lọai “ếch ngồi đáy giếng coi trời

bằng vung”, tức là lọai người có cái nhìn chật hẹp không làm sao mà trông

thấy hết được cái bàu trời bao la rộng mở của không gian thể lý vật chất,

cũng như của vũ trụ tâm linh tinh thần.

Là một người có duyên may được tiếp cận học hỏi với nhiều bậc thức giả

chuyên viên ở trong nước cũng như ngòai nước, tôi xin được chia sẻ với quý

bạn đọc một vài ý kiến sơ khởi mộc mạc về cái tầm nhìn của chúng ta trong

thế kỷ XXI hiện nay qua bài viết có nhan đề “ Suy nghĩ về Tầm nhìn của

chúng ta” (A Reflection on Our Vision) như được trình bày trong mấy điểm

sau đây.

 

I – Quá trình nhận thức vấn đề.

 Để bạn đọc tiện bề theo dõi câu chuyện, tôi xin tường thuật vắn tắt theo thứ

tự thời gian một số điều mình đã tai nghe mắt thấy, đại khái như sau.

 

* Trước tiên, vào năm 1960, trong thời gian tập sự tại Thư Viện Quốc Hội

Mỹ ở Washington, tôi có dịp thấy tại nơi đây có một nhóm nghiên cứu riêng

về “Space Law” (Luật Không gian). Là một chuyên viên nghiên cứu về luật

pháp (legal analyst) cho Quốc Hội Việt Nam thời Đệ nhất Cộng Hòa, tôi thật

sửng sốt trước nhóm nghiên cứu này, bởi lý do là trong giới luật gia ở Việt

Nam hồi đó không hề có một ai mà lại có thể đề cập đến vấn đề mới lạ và

rộng lớn như thế. Nhưng đối với một siêu cường như nước Mỹ, thì quả thật là

họ có khả năng và tầm nhìn rộng lớn để khởi sự công trình nghiên cứu về

lãnh vực “Luật Không Gian” như vậy. Sự kiện này đã khơi gợi cho tôi một

tầm nhìn sâu sắc rộng lớn hơn trong lãnh vực nghiên cứu luật pháp ở Việt

Nam

Vào năm 1964 – 65, Tổng thống De Gaulle cũng đã lên tiếng kêu gọi giới

thanh niên sinh viên nước Pháp là : “Chúng ta cần phải có một tầm nhìn vũ

trụ“ (vision cosmique). Vào giữa thế kỷ XX, thì nước Pháp cũng như nước

Anh không còn là một lọai cường quốc hàng đầu trên thế giới nữa. Tuy vậy,

do trình độ phát triển cao về khoa học kỹ thuật cũng như về văn hóa học

thuật, thì nước Pháp vẫn còn có một tầm ảnh hưởng đáng kể trên trường quốc

tê, vì thế mà nhà lãnh đạo De Gaulle mới phát biểu kêu gọi khuyến khích giới

thanh niên nước Pháp phải có một tầm nhìn rộng lớn bao quát như vậy.

* Cũng trong thời gian đó, thì tại nước ta, các nhà giáo dục ở miền Nam lại

đưa ra chủ trương này : “ Nền giáo dục của chúng ta phải được xây dựng theo

cả ba tiêu hướng – đó là Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng”. Chủ trương này

rõ rệt là theo đúng với trào lưu của thế kỷ XX trên thế giới, nhất là sau cuộc

tàn sát từ 2 cuộc thế chiến 1914 – 18 và 1939 – 45, thì nhiều quốc gia đã cố

gắng tìm cách xây dựng một xã hội theo tinh thần tôn trọng phẩm giá và

quyền con người một cách triệt để hơn. Mà điển hình là sự công bố Bản

Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc đưa ra tại Paris vào

năm 1948.

* Nhưng sau năm 1975, khi đổi tên nước ta thành “Cộng hòa Xã Hội Chủ

Nghĩa Việt Nam”, thì giới lãnh đạo cộng sản lại nêu khẩu hiệu kêu gọi tòan

thể dân tộc phải : “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ nghĩa Xã

hội ”. Vào thời gian đó, thì tôi được một anh bạn tên là anh Năm – vốn quen

biết trong giới Phật tử chuyên làm công tác xã hội từ hồi thập niên 1960 – 70

– anh Năm tâm sự với tôi đại khái như sau : “Vấn đề cần thiết cho chúng ta

lúc này, đó chính là cái tầm nhìn phải vừa đủ xa, đủ rộng để có thể từ đó mà

đề ra được một đường hướng tiến bộ thích hợp với những đòi hỏi thực tế mà

cấp bách của thời đại…”

* Vào cuối thập niên 1980, trước khi bị công an cộng sản tại Việt nam bắt

giữ, thì tôi được đọc trên báo chí nước ngòai cái khẩu hiệu được giới trẻ trên

thế giới rất tâm đắc, khẩu hiệu đó viết bằng Anh ngữ chỉ gồm vẻn vẹn có 4

chữ ngắn gọn như thế này : “Think globally – Act locally” ( Suy nghĩ tòan

cuộc – Hành động trong tầm tay).

* Và gần đây, người trong nước còn hay sử dụng từ ngữ “Đó là người vừa

có Tâm, mà lại vừa có Tầm” để đề cao một số nhân vật vừa có cả tâm hồn

nhân hậu và cả trí tuệ sắc bén. Hai tính chất Tâm và Tầm đó cũng tương tự

như nội dung ba phẩm cách “Nhân, Trí, Dũng” mà bất kỳ người Sĩ phu Quân

tử nào cũng phải có được – theo bức thang giá trị truyền thống xưa nay của

dân tộc chúng ta (Our Traditional Values System).

 

II – Những cản trở trong Tầm nhìn của người Việt ở hải ngọai.

Hiện có đến trên 4,5 triệu người Việt sinh sống tại trên 60 quốc gia và lãnh

thổ khắp thế giới. Trong số này, thì riêng tại Bắc Mỹ gồm Canada và Hoa kỳ

đã có đến 2 triệu rồi. Ở Âu châu gồm cả các nước thuộc Tây Âu và Đông Âu,

thì cũng đến con số cả 1 triệu người. Tại Úc châu và các nước thuộc Á châu,

thì cũng đến con số trên 1 triệu người.

Về mặt khách quan, thì phần lớn các nước mà người Việt chúng ta đã chọn

đến định cư sinh sống đều có nền kinh tế phát triển thịnh vượng, có trình độ

khoa học kỹ thuật cao và nhất là có chế độ chính trị dân chủ, tự do thông

thóang. Nhờ vậy, mà các thế hệ thứ hai, thứ ba là lớp con, lớp cháu của các

gia đình người Việt đã có thể dễ dàng hội nhập sâu sắc vào môi trường văn

hóa xã hội địa phương sở tại. Do đó mà trình độ hiểu biết và tầm nhìn của thế

hệ trẻ Việt nam ở hải ngọai cũng không khác biệt là bao nhiêu so với các bạn

cùng trang lứa thuộc dòng chính của quốc gia nơi cha mẹ mình đã chọn để

cho cả gia đình đến định cư lập nghiệp lâu dài.

Con số trên 500,000 sinh viên tốt nghiệp tại các đại học ngọai quốc trong

mấy chục năm gần đây là một dấu chỉ tích cực rất đáng phấn khởi cho tòan

thể dân tộc chúng ta vậy. Đó quả thật là một nguồn tài nguyên trí tuệ đồi dào

phong phú, một thứ “valuable asset” (tích sản quý giá) trong kho tàng sản

nghiệp cuả cha ông chúng ta trên quê hương đất nước Việt Nam này (Our

National Patrimony).

Có thể ví như khối trên 4 triệu người Việt nam hiện đang định cư lập nghiệp

tại khắp nơi trên thế giới thì như là một đàn cá từ nơi sông hồ chật hẹp trong

nội địa mà nay thóat ra ngòai biển cả mênh mông – thì mặc sức mà “vãy vùng

cho thỏa chí tang bồng”, thi đua nhau đem phát triển tối đa cái khả năng vốn

tiềm ẩn sâu kín trong bản thân mình từ bấy lâu – hầu gặt hái được những

thành tích to lớn như lòng mong ước ấp ủ suốt bao năm trường.

 

* Nhưng riêng đối với một số người tương đối lớn tuổi, thì cái việc hội

nhập, thích nghi với môi trường văn hóa xã hội mới lạ như thế không phải là

một việc đơn giản dễ dàng chút nào – so sánh với trường hợp của lớp con

cháu còn trẻ tuổi. Trong ý nghĩ của lớp người lớn tuổi này, hiện vẫn còn tồn

đọng những lấn cấn với những luyến tiếc về cái hào quang khi xưa của thế hệ

mình, vào cái thời mà họ còn đóng vai trò chủ động trên quê hương đất nước

Việt nam vào những thập niên 1960 – 70. Ta có thể ghi ra một số trở ngại

trong việc hội nhập này như sau :

 

1 – Lối suy nghĩ theo cái ước vọng của riêng mình (Wishful Thinking).

Vẫn có một số người không chịu tìm cách suy nghĩ tìm hiểu vấn đề theo lối

khách quan khoa học, mà lại suy nghĩ dựa theo những thành kiến có sẵn hay

theo cái ước vọng chủ quan của mình. Do vậy mà sự hiểu biết về sự việc, về

con người lại thiếu tính chất chính xác. Điển hình như chuyện một số người

vẫn tin là có chuyện vị Đại sứ Pháp ở Saigon hồi năm 1975 – tên là Jean-

Marie Mérillon – viết cuốn Hồi ký có nhan đề là “Saigon et Moi” tường thuật

về những chuyện xảy ra chung quanh ngày 30 tháng 4 năm đó. Thực ra đây là

một bài báo ngụy tạo, hòan tòan bịa đặt ra mấy chuyện vớ vẩn do một người

viết vô trách nhiệm tung ra vào năm 1987. Thế nhưng, một số bà con mình

lại coi chuyện đó là phù hợp với ước vọng của riêng mình, nên đâm ra tin đó

là điều có thật. Mặc dầu chính ông Mérillon – lúc đó là Đại sứ Pháp ở Liên

Xô vào cuối năm 1990 – đã đích thân viết thư trả lời cho Giáo sư nổi tiếng

chuyên về Sư học là Hòang Ngọc Thành rằng : “Bản thân tôi thì không hề

viết một cuốn Hồi ký nào có nhan đề là “Saigon et Moi “ như thế.”

 

2 – Lối nhận định sự việc theo cảm tính (Emotional Reasonning).

Cuộc chiến tranh Quốc Cộng ở Việt nam kéo dài từ cuối thập niên 1940 trong

bối cảnh của Chiến tranh Lạnh giữa hai khối Mỹ và Nga – gây ra bao nhiêu

thảm cảnh cho người dân chúng ta – mà đặc biệt đối với những nạn nhân của

chính sách tàn bạo của đảng cộng sản, thì mối hận thù ân óan vẫn còn rất sâu

đậm, khó mà có thể hàn gắn dẹp bỏ đi được. Vì thế mà mặc dầu qua thế kỷ

XXI, với cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới đã chấm dứt từ trên 20 năm nay,

kể từ khi khối Xô Viết bị giải thể, thì vẫn còn nhiều người Việt ở hải ngọai

giữ nguyên cái não trạng của những năm 1950 – 60.

Do vậy, mà họ không chú trọng nhiều đến những đổi thay lớn lao trong cục

diện thế giới – để rồi từ đó mà có sự điều chỉnh lại cái phương thức hành

động khả dĩ thích hợp với tình hình thực tế hiện nay trong bối cảnh của một

thế giới đã tiến bước mạnh mẽ dứt khóat vào giai đọan tòan cầu hóa. Cái lối

nhận định sự việc theo cảm tính như thế quả thật đã trở thành một hạn chế tai

hại cho hiệu năng trong lề lối sinh họat, cũng như trong họat động của chúng

ta trong hiện tại và cả tương lai nữa vậy.

 

3 – Sự thiếu tiếp cận trao đổi với dòng chính trong xã hội sở tại.

Một phần vì do cách biệt ngôn ngữ, một phần vì lối sống quần tụ riêng giữa

các gia đình người Việt với nhau, nên hầu như nhiều người vẫn còn tự cô lập

mình, không chịu hòa nhập với cộng đồng địa phương. Điều này rõ rệt là

đang đi ngược lại với lời nhắc nhủ của cha ông chúng ta từ xa xưa qua câu

ngạn ngữ quen thuộc : “ Nhập gia tùy tục”. Tình trạng này, người Mỹ gọi là

lối sống khép kín, tự cô lập nơi các “Ghetto” – nó ngăn trở kìm hãm cái quá

trình hội nhập êm thắm giữa thế hệ người mới nhập cư vào với dòng chính

của xã hội Mỹ. Mà tình trạng đó cũng làm xa cách thêm cái khỏang cách

ngay trong nội bộ nơi các thế hệ cha mẹ với con cháu trong cùng một gia

đình (Widening Generation Gap) người Việt chúng ta đang cư ngụ làm ăn

sinh sống ở khắp nơi tại hải ngọai nữa.

 

4 – Không chịu nhìn tòan cảnh bức tranh xã hội hiện đại.

Bạn Đỗ Trọng Linh ở San Jose là một người thành công trong ngành Bảo

hiểm và Địa ốc. Nhiều lúc thảo luận trao đổi với tôi, bạn Linh hay nói thế này

: “ Cái khuyết điểm của nhiều người ở hải ngọai là không chịu nhìn cho thật

rõ ràng được cái “big picture” của xã hội quanh mình. Có thể coi đó là một

cái nhìn hời hợt, thiển cận. Vì thế mà không thể đánh giá cho xác thực được

cái môi trường văn hóa xã hội rất đa dạng phức tạp trong thế giới hiện đại –

để mà từ đó đề xuất ra được những hành động hợp lý, hợp thời với hiệu quả

cao trong công việc của cá nhân hay của tập thể mình theo đuổi được. Hậu

quả của lối nhìn thiển cận này là nhiều bà con cứ loay hoay bận rộn và bực

bội với những “ chuyện ruồi bu, vô bổ “ mà không làm sao giải quyết dứt

khóat được tình trạng bế tắc của mình – cũng như tìm ra được cái hướng đi

có tính chất khai phóng tiến bộ cho cả tập thể cộng đồng của mình… “ Tôi

hòan tòan chia sẻ cái lối phân tích vấn đề một cách thông suốt rốt ráo như thế

của anh bạn trẻ này.

 

III – Để tóm lược lại.

 Bài viết lan man đã dài rồi, tôi xin tóm tắt lại với hai điểm như sau :

* 1 – Từ gần 40 năm qua, người Việt chúng ta đã phải rời bỏ quê hương đất

nước để ra đi lập nghiệp sinh sống ở khắp các châu lục trên thế giới. Sau

những vất vả cực nhọc những năm đầu nhập cư trên xứ sở xa lạ, đa số chúng

ta đã bắt đầu xây dựng được một cuộc sống ổn định – và đặc biệt là thế hệ

thứ 2, thứ 3 là lớp con, lớp cháu trong các gia đình đều đã gặt hái được những

thành công đáng kể về nhiều mặt khoa học kỹ thuật chuyên môn, cũng như

về mặt kinh tế, xã hội văn hóa. Nói chung, thì đó là một điểm thuân lợi lớn

lao – trong cái rủi ro chật vật lúc phải trả giá nặng nề để tìm đường chạy

thóat khỏi ách độc tài cộng sản ở trong nước, chúng ta đã được nhiều quốc

gia mở rộng vòng tay đón tiếp và cưu mang các gia đình người tỵ nạn. Nhờ

sự tiếp cứu đày tình nhân đạo cao quý này, mà đa số bà con chúng ta đang

được thụ hưởng những tiện nghi thuận lợi của nếp sống văn minh trong thế

giới hiện đại. Cái ân nghĩa này, chúng ta không bao giờ mà có thể coi nhẹ hay

bỏ quên đi được.

Mặt khác, chúng ta cũng không quên được những bà con ruột thịt đang còn

phải sống dưới chế độ tham nhũng thối nát và độc tài ác nhân ác đức do

người cộng sản gây ra ở bên quê nhà. Thành ra, bất kỳ người Việt nào ở hải

ngọai cũng đều có cả hai cái nghĩa vụ phải góp phần vun đắp cho quê hương

nguyên quán của mình – cũng như cho quê hương mới hiện đang cưu mang

cho mình – như cha ông chúng ta vẫn thường nhắc nhở trong câu : “Ăn cây

nào, rào cây ấy”. Cả hai nghĩa vụ này đều nặng nề, không thể nào sao lãng bỏ

qua bất kỳ một trách nhiệm bổn phận nào được.

Lại nữa, trong thời đại của thế kỷ XXI hiện nay, thì giữa các quốc gia càng

ngày càng gắn bó liên đới với nhau khăng khít chặt chẽ hơn. Do đó, mà

người Việt hiện đang sinh sống ở hải ngọai, thì cần phải cố gắng hòa nhập

thuận thảo hơn vào với xã hội sở tại – để nhờ đó mà mở rộng được một tầm

nhìn khóang đạt rộng rãi hơn vê bối cảnh chính trị xã hội cũng như văn hóa

trên thế giới hầu đề ra được phương thức hành động thích nghi với tình thế

mới – cũng như giúp chúng ta hòan thành tốt đẹp được cả hai nhiệm vụ đối

với quê hương bản quán, cũng như đối với quê hương mới hiện đang hết sức

chăm sóc cưu mang cho mình vậy.

 

* 2 – Trong phần I ở trên, tôi đã ghi ra cái khẩu hiệu “ Think Globally – Act

Locally “ mà giới trẻ trên thế giới rất tâm đắc. Nay để kết thúc bài viết này,

tôi xin được thêm vào khẩu hiệu đó cái vế thứ 3 cũng chỉ gồm có 2 từ ngữ

nữa – như thế này : “ Love Totally “ (Hãy Yêu Thương Trọn Vẹn). Nói khác

đi, mỗi người trong chúng ta cần phải có được một trái tim thật nhân hậu – để

mà sẵn sàng hy sinh nhẫn nại trong công cuộc xây dựng trường kỳ gian khổ –

hầu đưa đất nước và dân tộc ta tới được một cuộc sống tươi đẹp, văn minh

nhân ái xứng đáng với phẩm giá cao quý của mỗi người và của tất cả mọi

người nữa.

Lọai công việc xây dựng tích cực như thế đòi hỏi phải có một đội ngũ những

người có quyết tâm cùng nhau sát cánh thật chặt chẽ ăn ý nhịp nhàng thuận

thảo với nhau – như là một thứ “perfect team” – thì mới mong đạt tới kết quả

lý tưởng tốt đẹp mong muốn được./

 

Westminster California, đầu tháng Bảy năm 2013

Đoàn Thanh Liêm