Nguyễn Viết Dũng: Bộ quân phục VNCH đã đẩy tôi vào tù

Nguyễn Viết Dũng: Bộ quân phục VNCH đã đẩy tôi vào tù

TMCNN

Huyền Trang

13-4-2016

GNsP – “Đúng là họ bắt tôi vì bộ đồ hơn là hành động tôi đi biểu tình bảo vệ cây xanh ở Hà Nội, nhưng tôi không bao giờ hối hận điều này mà còn tự hào về điều đó nữa”.

Cựu TNLT Nguyễn Viết Dũng quả quyết như vậy với GNsP ngay sau khi anh vừa được trả tự do vào sáng ngày 13.04.2016, tại trại giam số 2 – Hà Nội, sau 12 tháng bị cầm tù với tội danh “gây rối trật tự công cộng” theo Điều 245 BLHS.

Bộ đồ mà Nguyễn Viết Dũng đã mặc để tham gia tuần hành bảo vệ cây xanh ở Hà Nội vào tháng 4.2015 có in biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, chính điều đó đã “đẩy” Cựu TNLT trẻ tuổi đầy hoài bão này vào tù. “Đây là bộ đồ mình được tặng và mình yêu mến”. Anh Dũng nhấn mạnh.

Lý giải vì sao Nguyễn Viết Dũng tự hào khi mặc quân phục VNCH, anh Dũng nói: “Mình cảm nhận thể chế VNCH là một thể chế tốt đẹp, đã từng có dân chủ do đó mình đang đấu tranh để đòi lại các quyền này cho người dân VN. Trước đây mình có xem rất nhiều tư liệu về chế độ VNCH không giống như những gì mình đã bị nhồi sọ và cộng sản che giấu sự thật rất nhiều.”

Điểm nổi bật của Viết Dũng sau khi ra khỏi trại giam là anh mặc chiếc áo trắng, bên ngực trái có biểu tượng cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ của thể chế VNCH, trên cánh tay trái của anh xâm chữ “sát cộng” in hoa.

H1Nguyễn Viết Dũng được trả tự do vào sáng ngày 13.04.2016, tại trại giam số 2, Hà Nội. Cựu TNLT Viết Dũng mặc áo trắng, bên ngực trái có biểu tượng cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ của thể chế VNCH. Ảnh: FB Trung Nghĩa

H1“Sát cộng” được sâm trên cánh tay trái của Cựu TNLT Nguyễn Viết Dũng. Ảnh: FB Trung Nghĩa

Anh Dũng cũng cho biết, trong quá trình tạm giam và điều tra xét hỏi, anh đã bị cán bộ đánh đập, bức cung, bẻ cung… Anh Dũng nói:

“Sau khi vừa mới bị bắt, tôi bị công an phường Hàng Trống đánh đập, họ đánh tôi ngã xuống thì họ lại tiếp tục lấy mũi giầy thúc vào mạn sườn tôi và vào mặt. Cho nên, có một tổn thương ở mắt và ở mạn sườn. 6 ngày sau đó, họ mới đưa tôi đi khám bệnh nhưng họ không đưa kết quả khám bệnh cho tôi và không cho tôi bất kỳ một viên thuốc nào để uống trong thời gian này.”

“Trong thời gian [tạm giam], tôi bị ốm nhưng họ vẫn ép tôi đi làm việc cho bằng được. Tôi có một mụn nhọt sưng lên rất to và đau, tôi yêu cầu họ cho tôi đi khám nhưng họ không cho, nhưng họ còn ép tôi đi làm việc, tôi không đi thì họ ép tôi đi cho bằng được. Trong khi điều tra họ dùng nhiều lời lẽ không hay và có hành động mớn cung và bẻ cung.” Anh Dũng nói tiếp.

Sau khi được trả tự do và đoàn tụ với gia đình, Cựu TNLT trẻ tuổi này vẫn chưa có niềm vui trọn vẹn, bởi anh còn trăn trở cho các phạm nhân mà anh đã từng tiếp xúc trong các trại giam – họ đang bị đối xử một cách khắc nghiệp, cán bộ ngang nhiên tước đoạt quyền con người và chà đạp lên phẩm giá của các phạm nhân này. Anh Dũng suy tư nói:

“Điều trăn trở lớn nhất là quyền sống của các can phạm, phạm nhân bị đối xử dưới mức con người. Trong trại, tôi đã đấu tranh các quyền này cho các phạm nhân bởi vì quyền con người phải được tôn trọng và không mất đi [dù người đó là ai]. Việc ăn uống của các phạm nhân rất tệ không đúng như những gì luật quy định, cơm thì lấm đất, rau thì lấm cỏ, một ngày hai bữa ăn thì làm sao mà đảm bảo được sức khỏe trong trại giam.”

“Điều trăn trở thứ hai của tôi là những người đi tù là một gánh nặng cho gia đình, do đó tôi nói với họ rằng, chúng ta không thể trở thành gánh nặng cho gia đình được mà chúng ta có thể tự làm ra và nuôi sống bản thân mình tối thiểu nhất là trong môi trường nhà tù. Thế nhưng trong nhà tù, các phạm nhân bị bóc lột sức lao động, làm việc không có lương thì lấy đâu ra tiền để chi trả cuộc sống hằng ngày ở trong đó. Do đó, tôi đã đấu tranh cho các anh em ở trong đó đi làm là phải có lương.” Anh Dũng nói.

“Tại tòa sơ thẩm, tôi đã đấu tranh quyền lợi cho anh em. Trong phiên tòa đó, tôi không đả động gì đến vụ án của tôi mà tôi chỉ đấu tranh cho quyền lợi của anh em can phạm.” Anh Dũng nói thêm.

Được biết, sáng cùng ngày, một số anh em có tiếng nói khác với nhà cầm quyền đã chào đón Cựu TNLT Nguyễn Viết Dũng tại trại giam số 2, Hà Nội.

Tư Bản Đỏ VN Sôi Sục Đi Mỹ: 500.000 USD Mua 1 Thẻ Xanh

Tư Bản Đỏ VN Sôi Sục Đi Mỹ: 500.000 USD Mua 1 Thẻ Xanh

Việt Báo

10-4-2016

HANOI — Giới nhà giàu Việt Nam rủ nhau tìm đường định cư sang Hoa Kỳ…

Bản tin Zing tựa đề “500.000 USD… một chiếc ‘thẻ xanh’…” hôm 7-4-2016 kê về làn sóng định cư bí ẩn của tư bản đỏ VN.

Hiện tượng các “đại gia Việt” tìm cách đầu tư mua nhà tại Mỹ ngày một nhiều.

Bản tin Zing ghi rằng hôm 6/4, trong một khách sạn sang trọng tại Hà Nội, một công ty của Mỹ chuyên về đầu tư định cư tại Mỹ, Canada, EU tổ chức một cuộc hội đàm về chương trình đầu tư định cư Mỹ EB-5 với lời mời hấp dẫn: Chỉ cần đầu tư 500.000 USD vào Mỹ sẽ được cấp “thẻ xanh”.

Bản tin viết: “Nhà giàu Việt đăng ký đầu tư định cư vào Mỹ đứng… thứ hai thế giới!”

Lâu nay, tất cả đã quen với khái niệm người Mỹ, doanh nghiệp Mỹ tìm cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Thế nhưng thời thế vẻ như đang thay đổi, chính nước Mỹ đang “mời gọi” các nhà giàu Việt.

Theo một giám đốc một công ty bất động sản (BĐS) ở quận 7 (TP SG), chuyên về dịch vụ môi giới mua nhà đất tại Mỹ, trong thời gian qua nhu cầu tìm hiểu, mua nhà ở Mỹ tương đối nhiều, bởi vì khi đã có nhà ở Mỹ, thủ tục xin visa vào nước này sẽ đơn giản hơn nhiều. Tuy nhiên, theo người này, nếu không hiểu rõ quy định khắt khe của luật, nhà đầu tư mua nhà sẽ thất bại và không còn cơ hội đầu tư.

Chẳng hạn như mua nhà ở Mỹ có thể đơn giản, nhưng mua là phải ở, nếu không ở sau một thời gian nhất định ngôi nhà ấy sẽ bị thu hồi. Nếu đầu tư chờ “lướt sóng” như ở Việt Nam thì cũng không ổn, vì khi bán nhà bất luận thắng – thua trong kinh doanh, người bán phải nộp tiền thuế.

Bản tin Zing ho biết theo đường này sang Mỹ định cư đông nhất là dân TQ và VN:

“Tại cuộc hội đàm về đầu tư định cư Mỹ diễn ra hôm qua, con số do công ty tư vấn USIS (công ty tư vấn cho cá nhân và công ty Việt Nam đầu tư vào thị trường Mỹ) đưa ra khiến nhiều người giật mình: Năm 2015, chỉ riêng với loại hình EB-5 tăng chóng mặt so với các loại hình khác như EB-1, EB-2. Cụ thể EB-5 được dành riêng cho các nhà đầu tư và các doanh nhân đầu tư vốn đáng kể vào nền kinh tế Mỹ, từ 6.418 suất năm 2014, đến năm 2015 đã tăng vọt 17.662 suất.

Trong đó, dẫn đầu là Trung Quốc, và Việt Nam hiện đang đứng thứ hai, và bỏ xa hàng loạt các nước khác như các nước ASEAN hay Ấn Độ…

Đầu tư EB-5 là đầu tư 500.000 USD hoặc 1 triệu USD vào dự án EB5. Mỗi suất đầu tư phải tạo ra được tối thiểu 10 việc làm cho người lao động Mỹ. Nhà đầu tư và gia đình được cấp thẻ xanh Mỹ vĩnh viễn…”

Bản tin cũng nói thủ tục phức tạp, chứ không đơn giản chi tiền ra là dọn cả gia đình sang Mỹ.

Bản tin Zing không đưa ra thống kê về số người Việt sang Mỹ trong các năm theo diện đầu tư là bao nhiêu người.

Đấu tố và Lời thề

 Đấu tố và Lời thề

Kính Hòa, phóng viên RFA
2016-04-11

000_9H7LI

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một ứng cử viên độc lập vừa rời buổi hội nghị hiệp thương tại địa phương ở Hà Nội hôm 9/4/2016.

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Những phiên Đấu tố

Ngày 4/4 người ta đọc thấy trên trang mạng xã hội mang tên Vận động ứng cử Quốc hội 2016 một đơn thư gửi Văn phòng chính phủ, ủy ban thường vụ Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng bầu cử quốc gia, và một số cơ quan khác. Tác giả của đơn thư này là các ứng cử viên độc lập cho kỳ bầu cử quốc hội sắp tới. Nội dung lá đơn này nói rằng các cuộc hội nghị hiệp thương ở nơi cư trú của các ứng cử viên đã biến thành những phiên đấu tố.

Blogger Lang Anh nhớ về những phiên đấu tố kinh hoàng thời cải cách ruộng đất, giai đoạn đầu tiên của sự áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên nước Việt Nam, và kéo dài cho đến tận ngày nay:

Văn hoá và các mối liên kết xã hội của Việt Nam cũng chưa bao giờ bị hủy diệt kinh khủng như dưới thời cải cách ruộng đất. Con tố cha, vợ tố chồng, đạo đức xã hội bị băm nát dưới sự thúc đẩy của chủ nghĩa cộng sản dã man và để lại những vết thương không thể hàn gắn đối với xã hội.

Và năm 2016, tại các phiên họp lấy ý kiến cử tri với các ứng viên Đại Biểu Quốc Hội tự ứng cử, tức là ngoài ý muốn và sắp xếp của Đảng, người ta lại thấy bóng ma của các cuộc đấu tố thời cải cách ruộng đất lảng vảng hiện về. Cái quá khứ ghê rợn không ai muốn nhắc đến ấy hoá ra vẫn tồn tại dai dẳng đến tận ngày nay và vẫn là một thứ vũ khí được Đảng cộng sản sử dụng cho mục đích kiểm soát xã hội của nó.

Trên trang mạng xã hội của tổ chức Con đường Việt nam, người ta đọc thấy lời kết án những phiên đấu tố đó:

“ Em không khác gì con cừu giữa bầy sói. Chúng tôi đứng ngoài cổng trường, chung quanh là lực lượng cảnh sát, an ninh mặc thường phục và dân phòng, đông gấp đôi số người đến ủng hộ em.
– Nhà báo Sương Quỳnh “

Những tưởng hoạt động man dã rừng rú là cán bộ dùng dân đấu tố dân đã chết vùi cùng những bi thương của Nhân văn Giai phẩm và Cải cách Ruộng đất, ấy thế mà hôm nay đang sống lại ở xã hội Việt Nam đương đại.

Cảm ơn các ứng viên độc lập đã giúp khai quật lại cho công chúng thấy một loại hình hoạt động phản ánh bản chất nhược tiểu đáng chê cười của những người nắm quyền và những bất cập không thể chối cãi của luật Bầu cử hiện hành:

Các cơ quan đứng ra tổ chức bầu cử hoàn toàn không độc lập, và đơn thuần chỉ là cánh tay nối dài không hơn không kém của đảng cầm quyền.

Sau một phiên đấu tố như vậy, ứng cử viên độc lập Nguyễn Trang Nhung tại Sài Gòn đã bật khóc. Nhà báo Đoan Trang viết về Trang Nhung:

Cô khóc vì uất ức. Vì nhiệt huyết, tình yêu và hy vọng mà cô mang theo trong tim, với hình ảnh bông hồng cài trên áo, đã bị chà đạp không thương tiếc bởi sự độc ác và ngu muội có chỉ đạo.

Một nhà báo khác là Sương Quỳnh mô tả buổi đấu tố đó:

Em không khác gì con cừu giữa bầy sói. Chúng tôi đứng ngoài cổng trường, chung quanh là lực lượng cảnh sát, an ninh mặc thường phục và dân phòng, đông gấp đôi số người đến ủng hộ em.

Quan sát thái độ ứng xử của nhà cầm quyền trước phong trào tự ứng cử, từ chuyện dùng báo chí để tấn công cho đến những phiên “đấu tố”, blogger Minh Văn đưa ra nhận xét:

Đây là lần đầu tiên người ta thấy có nhiều ứng cử viên độc lập tham gia, với khoảng 162 người. Điều này khiến đảng Cộng Sản cầm quyền lúng túng, vì lâu nay họ vẫn quen với việc một mình thao túng quy trình bầu cử. Trước đây, kể cả những ứng cử viên được coi là “Độc lập”, cũng phải do “Mặt trận tổ quốc” sắp đặt và chấp thuận, có nghĩa là nằm trong vòng kiềm tỏa của Đảng. Lúng túng vì bây giờ họ phải học cách sống chung với người khác, chứ không phải là màn độc diễn như trước đây nữa. Họ buộc phải chấp nhận tiếng nói của người dân, vốn là đại diện cho những nhóm lợi ích chính đáng ngoài đảng.

Nhưng những phiên đấu tố đó cũng không nằm ngoài dự đoán của các ứng cử viên độc lập vì nó đã từng xảy ra trong những kỳ bầu cử quốc hội trước đây. Một trong những người bị đấu tố là ứng cử viên Ngô Anh Tuấn viết trên trang Vận động ứng cử quốc hội rằng:

Vẫn xác định tinh thần ngay từ đầu là lần này khoá này mình ứng cử chỉ cốt lấy niềm tin dũng khí cho nhân dân và làm bàn đạp cho khoá tới nhưng những gì xảy ra hôm nay khiến niềm tin rơi rụng, con tim rớm máu. Sĩ diện của gã trai không cho mình rơi nước mắt nhưng nó sẽ chảy ngược vào trong thành những mạch máu căm hờn: căm hờn với cái xấu xa, bỉ ổi của con người, của cuộc đời…

Những lời thề

Trong khi các phiên đấu tố được mở ra ở tổ dân phố, hay ở phường, thì tại Hội trường Quốc hội diễn ra một chuyện chưa có tiền lệ của nước Việt Nam cộng sản, đó là Quốc hội sắp hết nhiệm kỳ bầu những người đứng đầu chính phủ mới chưa hình thành, và cho cả chính Quốc hội của nhiệm kỳ sắp tới, chưa có thành viên nào cả.

000_9A4AZ-400

Tân Chủ tịch nước Trần Đại Quang tuyên thệ nhậm chức trong một buổi lễ tại Quốc hội vào ngày 02 tháng 4 2016. AFP photo

Một điều khác lạ nữa là những vị đứng đầu chính phủ và quốc hội được bầu ra lần này phải đọc lời thề trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp. Nhiều người nhận thấy rằng tên gọi đảng cộng sản trong các lời thề ấy được đặt ở phía sau, và đó là một điều mới.

Tuy nhiên blogger Người Buôn gió đặt câu hỏi là liệu lời thề đó có thành sự thật một khi mà quyền lợi của đảng cộng sản và quốc gia xung đột nhau? Bởi lẽ tất cả những người vừa giơ tay lên thề ở Hà Nội đều là thành viên của đảng cộng sản, và trong thời đại mới này, dường như lợi ích của đảng này không phải lúc nào cũng đồng nhất với Tổ quốc. Người Buôn Gió châm biếm:

Lợi ích đất nước là tối cao nhất, điều thiên liêng nhất trong mỗi tâm khảm con người. Đến thời nay, đã bị đặt ngang bằng lợi ích của Đảng. Như thế đủ hiểu được rằng lợi ích của Đảng sẽ được chọn lựa hơn lợi ích dất nước. Vì tế nhị, e ngại dư luận nên đặt ngang bằng vậy thôi. Còn từ khi họ bước chân vào Đảng, lúc đó họ đã coi trọng lợi ích của Đảng chính là lợi ích của bản thân họ hơn lợi ích của nhân dân đất nước rồi.

Một người cựu tù chính trị là luật sư Lê Công Định nhận xét về lời thề của ông tân chủ tịch nước Trần Đại Quang, mà ông gọi là sắp đứng đầu một Nước-Đảng:

“ Đọc lời tuyên thệ của tân Chủ tịch nước Trần Đại Quang, đến đoạn ông cam kết hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng giao phó, tôi mới ngộ ra rằng ông là Chủ tịch của “nước Đảng”.
– Luật sư Lê Công Định”

Đọc lời tuyên thệ của tân Chủ tịch nước Trần Đại Quang, đến đoạn ông cam kết hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng giao phó, tôi mới ngộ ra rằng ông là Chủ tịch của “nước Đảng”.

Tên của nước Đảng là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Trong nước Đảng đó có hệ thống nhà nước cai trị và tầng lớp nhân dân bị trị.

Vì là nước Đảng, nên Đảng mới lãnh đạo xã hội, chi phối mọi đời sống vật chất và tinh thần của cả xã hội, toàn trị các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của nhà nước, sử dụng quân đội và công an để bảo vệ Đảng, và tiêu xài tiền thuế của tầng lớp bị trị cho hoạt động và mục tiêu của Đảng.

Bởi lẽ trên, các giảng văn về môn luật hiến pháp cần được viết lại theo hướng tồn tại một nước Đảng, một loại siêu nhà nước có cơ cấu tổ chức như các nhà nước thông thường.

Chuyện gì đang xảy ra

Một cây bút người Việt ở nước ngoài là Lê Phan viết rằng có cái gì rất xấu đang xảy ra ở Việt Nam. Blogger, Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy viết về phiên họp chưa có tiền lệ của Quốc hội khóa 13:

000_8T9SE-400

Ca sĩ Mai Khôi, một ứng cử viên độc lập cho kỳ bầu cử Quốc hội tháng 5/2016. AFP photo

Quốc hội 13, bằng sự phục tùng vô điều kiện của mình, bằng việc từ bỏ chức trách của mình khi thực hiện vô điều kiện các đòi hỏi của BCT, đã vừa tạo ra tiền đề cho những khủng hoảng rất có thể sẽ xảy ra về sau ở bộ phận cao nhất của cơ quan quyền lực.

Nếu quả thật như vậy thì chúng ta sẽ phải cảm ơn vị (hoặc một số vị) đạo diễn tài ba, khôn khéo, đang lặng lẽ chuẩn bị cho những khủng hoảng sẽ dẫn tới chuyển biến mang tính lịch sử của chính trị Việt Nam.

Ở thời điểm này, một người quan sát từ xa như tôi không thể nào có câu trả lời cho những câu hỏi này. Chính trị Việt Nam quá mờ đục, nói theo ngôn ngữ của giới phân tích quốc tế, hoặc nói cách khác, chính trị Việt Nam thiếu hoàn toàn sự minh bạch. Đó là nguồn gốc của mọi tệ nạn trong xã hội, cũng có thể là nguồn gốc dẫn tới việc mất độc lập dân tộc và mất chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải. Và mọi thảm họa của dân tộc đều từ đó mà ra, đều từ sự thiếu minh bạch của hệ thống và của các hoạt động chính trị mà ra.

Hoạt động chính trị đó đương nhiên thuộc về trách nhiệm của đảng cộng sản Việt Nam, người giữ quyền cai trị đất nước hơn nửa thế kỷ nay cùng với chủ thuyết cộng sản. Blogger Lang Anh nhận định về tác hại của chủ thuyết này:

Có thể nói, chủ nghĩa cộng sản là thứ có sức tàn phá kinh khủng nhất đối với văn hoá của bất cứ dân tộc nào trên thế giới. Cũng chính nó là thứ có khả năng siêu hạng trong việc làm thoái hoá đạo đức con người. Hãy nhìn vào sự ích kỷ và man rợ đang lan tràn trong những đất nước như Trung Quốc hay Việt Nam để thấm thía sự thật cay đắng này. Những kẻ nắm nhiều quyền lực nhất, những kẻ rao giảng về đạo đức nhiều nhất thì đồng thời là những kẻ đê tiện và giả dối nhất.

Đối mặt với tác hại của chủ nghĩa ấy, mong muốn ngăn chận những điều gì xấu đang diễn ra, tất cả những ứng cử viên độc lập mong rằng hành động của mình sẽ tác động vào dòng thay đổi theo chiều hướng tích cực của xã hội Việt Nam.

” Tôi hy vọng trong một thời gian không xa, thì tôi sẽ khóc như những người dân Miến Điện đã khóc.
– Nguyễn Trang Nhung”

Cô ca sĩ Lâm Ngân Mai, một ứng cử viên độc lập tại Sài Gòn, sau khi bị đấu tố, viết rằng có một ai đó đã bất chấp mọi thứ áp lực để bầu cho cô, và đó là một tia sáng le lói:

Blogger Luân Lê viết rằng Thế giới thay đổi chắc chắn không phải bởi từ những người im lặng, mà thế giới này thay đổi là từ những người biết lên tiếng. Và thế giới cũng thay đổi từ những tư duy khác biệt, chứ không phải những thứ lặp lại theo một cách nghĩ và hành động như cũ.

Những người dân nước Iceland ở Bắc Âu đã không im lặng khi thủ tướng của họ bị phanh phui dính vào một vụ bê bối, và tiếng nói của họ đã làm vị thủ tướng phải từ chức, blogger Nguyễn Lân Thắng kêu gọi:

Quan sát cuộc biểu tình đang dâng lên ở Iceland, tôi thèm thuồng nghĩ không biết đến lúc nào dân ta có thể phản kháng mạnh mẽ như vậy. Chỉ có một con đường mà thôi. Phải khai dân trí. Phải thức tỉnh người dân. Phải hướng dẫn họ tìm cách liên kết đấu tranh. Phải nói, phải viết, phải vạch trần tất cả sự thật cho dù có bị bỏ tù hãm hại. Mỗi người hãy dũng cảm bước ra khỏi bóng tối câm lặng để nói thật. Chúng ta không thể tiếp tục lừa dối nhau. Phải vạch mặt những tên cướp. Họ không thể bỏ tù tất cả chúng ta.

Còn Nguyễn Trang Nhung, người ứng cử viên độc lập đã bật khóc sau phiên đấu tố, hồi tâm hy vọng những giọt nước mắt của mình một này nào đó sẽ không là những giọt nước mắt tức tưởi, mà là hạnh phúc như những giọt nước mắt rơi trên xứ Miến Điện cách đây vài hôm:

Tôi hy vọng trong một thời gian không xa, thì tôi sẽ khóc như những người dân Miến Điện đã khóc.”

Cuộc cải cách ở Miến Điện đã có phần đóng góp không nhỏ của những tướng lĩnh đã từng cầm quyền theo một chế độ độc tài. Nguyễn Lân Thắng kêu gọi các nhà lãnh đạo Việt Nam hãy Buông đao thành Phật… Xin các ông cứ tin như vậy, dù không thành Phật, nhưng buông đao các ông sẽ thành người tự do. Để chúng ta cùng xây dựng lại một thể chế công bằng, một xã hội tôn trọng con người, một đất nước tươi đẹp tự do.

Nỗi Buồn Tháng Tư

Nỗi Buồn Tháng Tư

Mai Thanh Truyết

 Không biết tự lúc nào sau ngày 30 tháng tư năm 1975, mỗi năm vào dịp nầy lòng tôi dường như chùng xuống. Trước khi về hưu vào năm 2012, công việc hàng ngày vẫn chu toàn 8 giờ để trả nợ áo cơm, một vài giờ cho dịch vụ tư vấn về môi trường của tôi, cũng như thì giờ cho các buổi phỏng vấn hay ngồi suy tư và viết bài hoặc đi đó đi đây…tôi đã cảm nhận được một nỗi niềm u uẩn nào đó trong tôi. Nhưng bây giờ, mặc dù đã giã từ nợ áo cơm, nhưng niềm u uẩn trên vẫn tiếp tục còn trong tôi ngày càng…dai dẳng hơn thêm.

Tại sao lại có hiện tượng như vậy trong tôi?

Có lẽ, vì tuổi đời ngày càng cao, và niềm hy vọng về một ngày mùa xuân nở hoa trên quê hương còn xa vời vợi…cho nên nỗi buồn của tôi càng thêm ray rứt và điểm thêm đôi nét tuyệt vọng trong tâm tư?

Bỏ qua những ngày tháng nghiệt ngã còn lại ở Việt Nam trước khi vượt biên sau 30/4/1975, phải thành thật mà nói, lúc đó tôi không có thì giờ để “buồn” như hôm nay, vì miếng cơm manh áo và mãi lo “tìm đường ra đi” (cứu nước?) cho một gánh nặng với 4 đứa con dại…

Bỏ qua những năm đầu tiên sống đời tị nạn, tôi cũng chưa thực sự quan tâm gì mấy cũng như không có thì giờ để buồn…như nỗi buồn hôm nay vì một đời sống tạm dung nơi xứ người.

Nhưng chỉ trong vòng 25 năm trở lại đây, khi gia đình tương đối ổn định và sau khi bắt đầu bước vào con đường tranh đấu cho Việt Nam qua ngã môi trường, tôi mới thực sự cảm thấy buồn. Và mỗi năm nỗi buồn đó càng se sắc hơn, ngậm ngùi hơn.

Buồn để mà buồn một mình!

Không thể nào nói tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn được. Mà tôi hiểu và hiểu rất rõ nỗi buồn thực sự của tôi vì hai lý do: – Đất Nước còn điêu linh, – và Bà con mình vẫn còn chìm đắm trong nỗi nhục nhằn làm công dân hạng hai cho một chế độ phản dân tộc chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.

Nhìn lại những ngày bắt đầu từ giữa tháng tư năm 75, có thể nói cả thành phố Sài Gòn đang lên cơn sốt. Nào là chạy đôn chạy đáo thăm dò tình hình…mặc dù biết rằng miền Nam đang trong cơn hấp hối, nhưng cũng mong tìm và hy vọng một phép lạ. Nào là, đối với những người có chút tiền, lo chạy đi đổi tiền, làm…áp phe, hay do là tin tức tìm đường ra đi.

Tin tức đồn đãi nhiều khi trái ngược nhau, tin vui lẫn với tin buồn.

Nhưng nỗi buồn của tôi thực sự buồn khi rời trụ sở USAID ở đường Lê Văn Duyệt sau khi làm “thủ tục”…ra đi. Cầm tấm thẻ vô tri có hình của một “ông giáo trẻ” đầy nhiệt huyết, mà khi về lại Việt Nam năm 1973, nguyện sẽ làm một cái gì cho thanh niên Việt Nam. Tôi không thiết ăn cơm chiều hôm đó. Nếu tôi nhớ không lầm, đó là ngày thứ tư 09/4/1975.

Tới thứ hai tuần sau đó vào khoảng tuần lễ thứ hai của tháng tư, lên Đại học Cao Đài Tây Ninh, tôi lại được mấy anh chàng “CIA” trẻ đóng trên đài phát tuyến ở đỉnh Núi Bà cho tôi biết rằng ngày mai, họ sẽ rút về Mỹ và khuyên tôi nên rời bỏ quê hương qua một giọng Bắc rất rành rọt. Suốt các buổi lên lớp sau đó, tôi nói như người mất hồn, một tâm trạng mà chính giờ phút viết lên dòng chữ nầy, tôi lại thêm một lần “phiêu diêu” nữa.

Đi hay Ở?

Hai chữ nầy ám ảnh mãi nơi tôi trong suốt thời gian còn lại cho đến ngày 30/4 năm đó.

Hình ảnh Ba tôi lẩn quẩn trong đầu. Hình ảnh một ông giáo già đã về hưu từ lâu, căm cụi viết thư cho con mình đi du học mỗi buổi sáng thứ năm trong tuần, để rồi, sang sáng thứ bảy đem thư ra Bưu diện gữi đi cho kịp chuyến máy bay Air France bay về Pháp, để cho con mình nhận được thư đúng ngày thứ hai. Việc nầy xảy ra đúng như in, không hề sai sót suốt hơn hai năm trời sau khi tôi du học bên Pháp cho đến khi Ba tôi mất. Ba tôi mất ngày chủ nhựt và thứ hai sau đó tôi vẫn nhận được thư ba viết trước khi nhận được điện tín của anh tôi.

Còn Má tôi. Một người mẹ già gặp lại và sống với con chưa đầy hai năm…Mà cũng chính trong thời gian nầy, tôi luôn bận bịu với những “đam mê” cho cuộc sống, chuẩn bị cho con đường “công danh” của mình… thì làm sao tôi có thì giờ chăm sóc hay hỏi han đến mẹ già. Và mỗi khi nhìn lại mình, chính tôi cũng phải tự thú rằng mình cũng không có thì giờ để nghĩ đến mẹ mình nữa trong thời gian nầy. Tôi thật có lỗi với má tôi nhiều và nỗi ân hận vẫn còn ray rứt mãi trong tôi. Và giờ đây, khi viết những dòng chữ nầy, tôi chỉ còn biết mỗi đêm nhìn ảnh mẹ để sám hối.

Trở lại thời gian giữa tháng 4 năm xưa. Tâm trí tôi luôn bị ray rứt với tâm trang nửa Ở nửa Đi.

Đi không đành cũng vì mẹ già đơn côi.

Đi không đành cũng vì bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ níu kéo lại để làm một “cái gì” cho quê hương.

Và đi cũng không đành vì một suy nghĩ non dại (mà chắc cũng có nhiểu người suy nghĩ như tôi), đó là “Mình có thể đối thoại với người cộng sản, vì trước khi họ là cộng sản, họ cũng là người Việt Nam với đầy đủ dân tộc tính; vì vậy mình có thể hợp tác được”.

Khi đã biết sai lầm thì đã muộn, tôi phải trả cái giá gần 8 năm trong nhà tù lớn Việt Nam dưới chế độ nầy. Biết là sai lầm trong giai đoạn đó, nhưng tôi không bao giờ hối hận vì quyết định trên. Vì sao? Vì chính cái sai lầm oan nghiệt nầy đã làm cho tôi hiểu được người cộng sản Bắc Kỳ như thế nào…và chính điều sau nầy làm cho tôi dứt khoát hơn là chúng ta, những người con Việt hiền hòa không thể nào sống chung với những người luôn mang não trạng chuyên chính vô sản và không có tình người.

Cái sai lầm nầy cũng giống như cái sai lầm của người thầy giáo Tạ Ký khi đi học tập về cùng ngồi uống rượu với Gs Tôn Thất Trung Nghĩa và tôi tại Chợ Đuổi nằm tại góc đường Lê Văn Duyệt và Trần Quý Cáp năm 1981 như sau:“Hai mươi năm mới biết chuyện xưa lầm. Thì tuổi trẻ đã biến thành uất hận!”

Chiều thứ hai 28/4, khi một tên phi công (tôi không muốn nhắc tới tên nầy lên đây, vì làm sao tôi quên được tên những kẻ phản bội quê hương) dội bom dinh Độc Lập, và từ đó lịnh giới nghiêm 24/24 được ban hành. Tôi liền chạy lên nhà một người bạn vong niên trên cư xá giáo chức ở đường Tự Đức.

Tôi đã chứng kiến được gì và đã học được gì?

Xin ghi lại vài dòng để chiêm nghiệm nỗi đau thương, nhục nhằn của những đứa con Việt trước cảnh quốc phá gia vong. Đó là:

– Hình ảnh một Trung tá TQLC chạy từ Đà Nẵng về nhà người anh cũng ở cùng cư xá, hình ảnh giọt nước mắt lưng tròng khi anh cổi chiếc áo trận và cắt từng nút áo cũng như hai bông mai bạc trên cầu vai. Anh nói với người anh qua giọt nước mắt và trong từng tiếng nấc “Anh xem như em đã chết ngày hôm nay”.

– Hình ảnh từng đoàn trực thăng Mỹ chiếu đèn sáng rọi vào mặt chúng tôi trên sân thượng của cư xá trong lúc tháo chạy và chở người đi ra hạm đội.

– Hình ảnh những người lính tôi không còn nhớ Dù hay Thủy Quân Lục Chiến tiếp tục chiến đấu ở cầu Phan Thanh Giản trên con đường đi ra Ngã tư Hàng Xanh. Tiếng súng bắt đầu ngay sau khi tướng Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10 giờ 37 phút sáng 30/4. Và tiếng súng chỉ im lặng lúc xế trưa, có nghĩa là tất cả anh em binh sĩ đã chiến đấu cho đến quả lựu đạn cuối cùng.

Chuyện ĐI và Ở đã được tôi quyết định ở khúc quành định mệnh nầy, không khác chi khúc quành của nhân vật Thiệu “phải” rời bỏ khúc quành của con sông Đuống đầy kỷ niệm tuổi thơ với Yến, người bạn thời trẻ thơ mà sau nầy trở thành…người tình muôn thuở cho đến cuối đời, để di cư vào Nam tìm tự do. (trong quyển tiểu thuyết “Dòng sông định mệnh” của nhà văn Doãn Quốc Sĩ).

Qua ngày thứ năm 1/5, lệnh trên radio yêu cầu (bắt buộc thì đúng hơn) mọi công chức phải đến trình diện tại trụ sở làm việc của mình. Sáng đó, tại cư xá có mặt Ông Khoa trưởng, Ông Phó Khoa trưởng và một số giáo sư, tôi và một giảng nghiệm viên tình nguyện vào Trường Sư phạm xem tình hình.

Mọi sự có vẻ êm xuôi vì “họ” chưa có người vào tiếp quản, ngoài một số “cơ sở” địa phương thôi. Nhưng một hình ảnh khác làm bẽ bàng và làm đão lộn những suy nghĩ tốt đẹp trong tôi khi nhìn thấy một số đồng nghiệp của mình mới chỉ vừa cách đây một ngày, nay đã mang “băng đỏ cách mạng” từ cung cách hướng dẫn chỗ để xe, cho tới thái độ trong lúc nói chuyện. Đáng phỉ nhổ nhứt là những người nầy ngày nào thưa anh, xưng em với tôi, mà nay trở mặt dương dương tự đắc tự xưng tôi, tôi, anh, anh một cách trơ trẻn.

Có những chị giáo sư thước tha, dịu hiền trong khi lên lớp mà nay ngoài băng đỏ, thậm chí còn để lá cờ vàng ba sọc đỏ dưới chân bàn đạp ga xe nữa. Và hơn nữa, có giáo sư trong suốt thời gian chưa đầy hai năm ngắn ngũi của tôi, đã xem tôi như “thần tượng” mặc dù biết tôi đã lập gia đình rồi, thường xuyên đi ăn uống chung; thậm chí đã dám cùng tôi “nhậu thịt chó” nữa…Người đó bây giờ là một “công thần” của chế độ.

Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt I ngày 22/9/1975, đổi 1đ tiền “chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam” tức tiền “ngân hàng Việt Nam” lấy 500 đ tiền Việt Nam Cộng Hòa hay “tiền Ngân hàng Quốc gia Việt Nam”. Người dân chỉ đổi được mỗi gia đình 100.000 đ mà thôi.

Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt II ngày 3/5/1978, đổi 1 đ “tiền thống nhứt XHCN” tức tiền “ngân hàng nhà nước” lấy 1 đ tiền “ngân hàng Việt Nam” và mỗi gia đình chỉ được đổi 100 đ mà thôi.

Làm sao tôi quên được lần đổi tiền đợt III ngày 14/9/1985, đổi 1 đ tiền ngân hàng nhà nước cũ lấy 1đ tiền ngân hàng nhà nước mới (tiền thống nhứt Bắc Nam).

Làm sao tôi quên đượt lần đánh tư sản đợt I ngày 11/9/1975, cướp của và tịch thu nhà những người được cho là tư sản cùng bắt đi vùng kinh tế mới. Chiến địch nầy gọi là X1.

Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt II, tức chiến dịch X2, từ tháng 3/1978 tới cuối năm 1990 nhắm vào tư sản tiểu thương, những nhà tiểu thủ công nghệ, ước tính trên 14.000 gia đình tại Sài Gòn.

Làm sao tôi quên được lần đánh tư sản đợt III tức chiến dịch X3, song hành với chiến dịch X2 tại Sài Gòn nhằm mục đích trục xuất người cũ ra khỏi nơi ở và điền khuyết vào bằng gia đình cán bộ ngoài Bắc vào. Đây là một âm mưu thâm độc nhằm “Bắc kỳ hóa” thành phố Sài Gòn. Tính đến tháng 9/1989, ước tính có đến 950.000 người bị đuổi khỏi Sài Gòn, và có khoảng 150.000 gia đình cán bộ Bắc kỳ được điền khuyết vào.

Làm sao tôi quên được những đợt học tập cải tạo, đáng kể nhứt là đợt cuối cùng vào tháng 6/1975, kêu gọi công quân cán chính tập trung mang theo lương thực cho một tháng…để rồi tất cả bị lường gạt và phải chịu lao động khổ sai từ một hai năm cho đến hơn 17 năm đối với những cán bộ hành chánh và quân đội cao cấp của Việt Nam Cộng hòa….

Trên đây, xin diễn lại bức tranh vân cẩu chập chùng những ý nghĩ lộn xộn trong những ngày quốc phá gia vong. Xin chia xẻ cùng bà con.

Đây không phải là lời tự thú hay than thở, hay nói về mình.

Nơi đây tôi chỉ muốn nói lên vài điều suy nghĩ của một người con Việt mà thôi.

Đó là:

-Truyết, mầy đừng bao giờ mơ tưởng những người Việt cộng sản Bắc kỳ là người Việt Nam.

Và để thoát khỏi ý nghĩ tiêu cực trong những ngày đau thương của Đất và Nước, tôi tự điều hướng cho chính mình cần phải hành xử trong tương lai như:

– Đứng trước quá khứ, hãy ngả mũ. Đứng trước tương lai, hãy XẮN TAY ÁO (H.L.Mencken) và chúng ta phải tiếp tục giữ lửa Quê Hương trong lòng mãi mãi.

– Lời ca của cố nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang đã kéo tôi về với thực tại, bài “Không phải là lúc”, bắt đầu bằng “Không phải là lúc ta ngồi đặt vấn đề”, để rồi kết thúc bằng một quyết tâm dứt khoát “…Làm việc đi không lo khen chê, làm việc đi hãy say và mê, cứ bắt tay gan lỳ, chúng ta giải quyết. Mình chậm chân đi sau người ta, mà ngồi đây nghĩ lo viễn vông, thắc mắc ngại ngùng biết khi nào mới làm xong!”

Và cũng chính vì mang quyết tâm trên mà tôi vẫn “Không đặt vấn đề với anh em, nhưng chắc chắn đứa con Việt nầy dứt khoát đặt vấn đề những người đang tàn phá Ðất và Nước của Ông Cha để lại.

Tôi ”đặt vấn đề” với người Cộng sản Bắc Kỳ, kẻ thù ở phương Bắc đang tiếp tay đóng vai trò “thái thú biết nói tiếng Việt” cho Trung Cộng thực thi “Ðại Họa Mất Nước” để hoàn tất công cuộc Bắc thuộc lần thứ V.

Nhưng tôi cũng không quên dứt khoát đặt vấn đề với những kẻ cuối đời vẫn còn bon chen danh lợi, bất kể cố ý hay vô tình, bị rơi vào cái bẫy lợi danh của Cộng sản, cái bẫy của “cây gậy và củ cà rốt” với cây gậy đập trên đầu mà củ cà rốt vẫn không cho ăn, cái bẫy của Cộng sản muốn mượn tay người Quốc gia “bôi đen” người Quốc gia chống Cộng, cái bẫy “gây rối cộng đồng” do những tay ăn bã của cộng sản; những kẻ dễ đánh mất thân phận làm “người” của mình, bất kể đó là loại “người” gì; lắm khi đó là những con “ếch” muốn làm con “bò”, cho dầu “ếch” hay “bò”, “nhỏ” hay “lớn”, vẫn không phải là… “người”.

Xin ghi lại và góp phần vào những Ngày Buồn Tháng Tư của những người con đất Việt.

Mai Thanh Truyết

Nỗi buồn tháng tư năm 2016

Việt Nam và vấn đề minh bạch ngân sách

Việt Nam và vấn đề minh bạch ngân sách

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2016-04-10

tinanhgiang480.jpg

Hội thảo Công bố chỉ số công khai ngân sách 2015 và chia sẻ kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam về thúc đẩy công khai minh bạch ngân sách diễn ra ngày 14 tháng 1 năm 2016.

Courtesy daibieunhandan.vn

Your browser does not support the audio element.

Tại buổi hội thảo hồi cuối tháng Ba, Liên Minh Minh Bạch Ngân Sách Budget Transparency đánh giá Việt Nam có điểm minh bạch ngân sách rất thấp so với mức trung bình toàn cầu.

Sau đây là ý kiến các chuyên gia tài chính và kinh tế trong nước để có cái nhìn và sự nhận định rõ hơn.

Việt Nam xếp thứ 18 trên 100 trong bảng xếp hạng minh bạch công khai ngân sách, do Liên Minh Minh Bạch Ngân Sách Budget Transparency công bố tại buổi hội thảo và tham vấn ý kiến xây dựng nghị định hường dẫn thi hành Luật Ngân Sách 2015 ngày 23 tháng Ba vừa qua ở Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM).

Theo Luật Ngân Sách mới của Việt Nam thì mọi thứ ngân sách phải được công bố. Luật quy định thế nhưng thực chất hiện nay thì ngân sách chưa được công bố một cách rộng rãi.
– tiến sĩ Ngô Trí Long

Tại buổi hội thảo, đại diện Trung Tâm Phát Triển Hội Nhập, gọi tắt là CDI, cho rằng thứ hạng 18 là mức thấp, chứng tỏ công chúng Việt Nam rất ít được nhà nước cung cấp thông tin về ngân sách quốc gia.

Từ Hà Nội, chuyên gia tài chính là tiến sĩ Ngô Trí Long giải thích:

“Theo Luật Ngân Sách mới của Việt Nam thì mọi thứ ngân sách phải được công bố. Luật quy định thế nhưng thực chất hiện nay thì ngân sách chưa được công bố một cách rộng rãi. Qua đánh giá thì ta biết kém rất xa so với trung bình, vì nguyên tắc trong thị trường là mọi thứ phải công khai minh bạch. Ngân sách là tiền của dân, là ngân khố của nhà nước, nên nếu công khai một cách minh bạch và rõ ràng thì chắc chắn là người dân sẽ giám sát, mà có giám sát thì chăc chắn việc sử dụng, thu, chi rất là hiệu quả và có ích nước lợi nhà. Đấy là điều tất yếu.”

long.jpg

Đúc kết từ những số liệu về công khai minh bạch ngân sách của CDI Trung Tâm Phát Triển Hội Nhập, tiến sĩ Ngô Trí Long cho rằng cần thận trọng tìm hiểu những thông tin này, kể cả của CDI, vì có thể trên thực tế đây chỉ là những thông tin nhằm phục vụ báo chí:

“Tôi vẫn chưa cảm thấy yên tâm trong việc đánh giá này lắm, tại vì bản thân anh đã không công khai, mà khi đã không công khai thì người tham gia cũng khó. Thậm chí trong bối cảnh hiện nay thì nhiều đại biểu quốc hội cũng không am hiểu quy luật này lắm. Nếu mà nói mức độ tin cậy thì quả thật tôi cũng chưa tin cậy vấn đề tham gia đóng góp ở mức độ là trên mức trung bình. Điều này trái ngược với điều không công khai rồi. Cái công khai minh bạch đã yếu rồi bây giờ sự tham gia lại cao lại lớn hơn mức trung bình thì tôi thấy hơi nghịch lý, hơi mâu thuẫn.”

Đánh giá mức độ giám sát ngân sách của công chúng, tiến sĩ Ngô trí Long phân tích:

Đúc kết từ những số liệu về công khai minh bạch ngân sách của CDI Trung Tâm Phát Triển Hội Nhập, tiến sĩ Ngô Trí Long cho rằng cần thận trọng tìm hiểu những thông tin này, kể cả của CDI, vì có thể trên thực tế đây chỉ là những thông tin nhằm phục vụ báo chí.

“Tham gia và giám sát hầu như không có, nói thẳng như vậy. Cơ quan nào đánh giá phải xem xét lại vấn đề này. Ngay công khai minh bạch đã không có thì mọi thứ nói chung sẽ hạn chế rất nhiều. Chỉ số rõ ràng nó mâu thuẫn với nhau. Ví dụ minh bạch công khai với mức rất cao và những cái kia thấp thì còn có thể được. Hay có khi người ta thờ ơ người ta không quan tâm tham gia vào giám sát, chứ thông tin đã hẹp, đã ít minh bạch thì người ta giám sát bằng cách nào.”

Nói về ngân sách thì trước hết đó là vấn đề của nhà nước, của chính phủ. Kinh tế gia, chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, cố vấn cấp cao các tập đoàn kinh doanh công và tư ở Hà Nội, nhận định như vậy:

“Ngân sách thì chính phủ trình qua quốc hội, quốc hội xem xét rồi duyệt, quốc hội duyệt rồi thì chính phủ thực hiện.

Trong khi thực hiện ngân sách thì có nhiều vấn đề lắm, thí dụ những công trình này công trình nọ vượt chỉ tiêu, rồi chi dùng không đúng mục đích bao nhiêu là ẩn số trong vấn đề sử dụng ngân sách đấy. Tất cả những chuyện đó có đem ra cho nhân dân biết hay không thì rõ ràng là khó lắm.

Cho nên những việc đấy là chính trong chính phủ, thanh tra chính phủ khi thanh tra từ trung ương đến địa phương cũng chưa tìm được những vấn đề ách tắt trong thông tin ngân sách, thì dân chúng chỉ biết được đến mức nào thôi những gì mà chính phủ có thể thông báo được.”

Công khai mà gọi là dân chúng nhìn vào các tài liệu của ngân sách mà có quyền đòi hỏi công khai hóa cái này cái kia thì Việt Nam chưa có và phải lần lần tiến tới thôi.
– ông Bùi Kiến Thành

Như vậy thì Việt Nam đã có, chưa có hay đang trên đường tiến tới minh bạch công khai ngân sách dù chỉ trong mức độ thấp 18/100 điểm như được đánh giá, là câu hỏi được ông Bùi Kiến Thành giải đáp:

Mỗi năm đều có sự tiến triển và tiến bộ trên vấn đề quản lý ngân sách nhưng chưa được như mong muốn. Trong những năm gần đây, nhất là ngân sách 2015, chính phủ Việt Nam cũng hết sức cố gắng để viết ra những quy tắc về vấn đề sử dụng và quản lý ngân sách. Nhưng mà khi đã ra ngân sách rồi, ra luật rồi, việc áp dụng luật và việc thực hiện ngân sách có nhiều vấn đề khác.

Phận sự của nhà nước là phải thực hiện ngân sách theo đúng quy định của luật và công bố lên cho nhân dân biết. Nếu chưa hoàn toàn minh bạch thì vẫn còn yếu điểm, còn thiếu sót trong việc báo cáo cho quốc hội và báo cáo cho dân chúng.

Chính phủ và thanh tra chính phủ, quốc hội cũng được báo cáo là có vấn đề trong sử dụng ngân sách, có vấn đề móc ruột công trình, có những vấn đề lãng phí. Việt Nam nói mức công khai là tới đó, còn công khai mà gọi là dân chúng nhìn vào các tài liệu của ngân sách mà có quyền đòi hỏi công khai hóa cái này cái kia thì Việt Nam chưa có và phải lần lần tiến tới thôi.”

Nhiều người dân Việt Nam vẫn còn bàng quang với vấn đề chính trị; tuy nhiên khi các vấn đề chi tiêu các khoản tiền thuế mà họ đóng góp không được minh bạch, khiến ngày càng họ phải chịu thiệt dẫn đến sự quan tâm nhiều hơn.

Vừa qua có nhóm xã hội dân sự hoạt động nhằm giúp người dân chú ý hơn đến vấn đề minh bạch ngân sách của chính phủ mang tên Todocabi (Tớ Đố Cậu Biết). Nhóm này được sự cố vấn của chuyên gia kinh tế có tiếng tại Việt Nam là tiến sĩ Lê Đăng Doanh.

Hai tháng, Việt Nam chi $51.6 triệu nhập ‘thuốc độc’ Trung Quốc

Hai tháng, Việt Nam chi $51.6 triệu nhập ‘thuốc độc’ Trung Quốc
Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Đó là thông tin từ Tổng Cục Hải Quan Việt Nam. Chỉ trong hai tháng đầu năm nay, Việt Nam đã trả 51.6 triệu Mỹ kim cho Trung Quốc để nhập cảng thuốc “bảo vệ thực vật.”

“Tưới, tắm, ngâm, tẩm” cây trái, rau củ trong thuốc “bảo vệ thực vật” – thực chất là thuốc độc đã trở thành chuyện bình thường ở Việt Nam. (Hình: Báo Bảo Vệ Pháp Luật)

Thuốc “bảo vệ thực vật” là cách Việt Nam gọi các loại thuốc diệt trừ côn trùng có hại cho cây cối. Tất cả những loại thuốc này đều là thuốc độc đối với con người và môi trường.

Trong một vài thập niên gần đây, số tiền mà Việt Nam chi cho việc nhập cảng thuốc “bảo vệ thực vật” liên tục gia tăng. Đặc biệt là những loại thuốc “bảo vệ thực vật” hoặc nguyên liệu chế tạo những loại thuốc này do Trung Quốc sản xuất.

Chẳng hạn, năm 2005, Việt Nam chỉ nhập cảng khoảng 20,000 tấn thuốc “bảo vệ thực vật” hoặc nguyên liệu chế tạo những loại thuốc này nhưng đến 2012, con số này đã tăng lên thành 55,000 tấn, năm 2013 con số này là 112,000 tấn, năm 2014 con số này khoảng 116,000 tấn…

Đáng ngại là càng về sau này, các công ty kinh doanh thuốc “bảo vệ thực vật” tai Việt Nam càng có khuynh hướng mua thuốc và nguyên liệu chế tạo thuốc “bảo vệ thực vật” của Trung Quốc, cho dù chúng bất chấp những tiêu chuẩn nhằm hạn chế tác hại đối với sức khỏe con người và môi trường. Năm 2015, Việt Nam đã trả đến 376 triệu Mỹ kim cho Trung Quốc để nhập cảng thuốc và nguyên liệu chế tạo thuốc “bảo vệ thực vật” của Trung Quốc.

Riêng hai tháng đầu năm nay, Việt Nam chi tổng cộng 111 triệu Mỹ kim để nhập cảng thuốc “bảo vệ thực vật” và nguyên liệu chế tạo chúng, trong đó có đến 51.6 triệu Mỹ kim được trả để mua sản phẩm hoặc nguyên liệu sản xuất từ Trung Quốc.

Nhiều năm qua, các chuyên gia, đặc biệt là giới chuyên gia về y tế và môi trường đã liên tục cảnh báo về đủ loại nguy cơ cho sức khỏe con người, môi trường do lạm dụng thuốc “bảo vệ thực vật” nhưng chính quyền Việt Nam không thèm bận tâm.

Báo chí Việt Nam khẳng định tại Việt Nam “tưới, tắm, ngâm, tẩm” cây trái, rau củ trong các loại thuốc bảo vệ thực vật đã trở thành trào lưu và một thói quen không thể thay đổi. Dù trào lưu và thói quen đó đã và đang đầu độc nhiều thế hệ người Việt.

Các chuyên gia y tế và môi trường khẳng định, việc chính quyền Việt Nam làm ngơ trước tình trạng nhập cảng ồ ạt và lạm dụng thuốc “bảo vệ thực vật” là một trong những nguyên chính khiến Việt Nam trở thành quốc gia nằm trong nhóm thứ hai theo xếp hạng của Tổ Chức Y Tế Thế Giới về tỉ lệ thiệt mạng do các loại ung thư.

Năm ngoái, bộ phận thực hiện theo thống kê của Dự Án Phòng Chống Ung Thư Việt Nam công bố một thống kê, theo đó, mỗi năm, ở Việt Nam có khoảng 70,000 người chết và có thêm hơn 200,000 người mắc bệnh ung thư. Các chuyên gia thực hiện dự án vừa kể khẳng định, tuy những số liệu đã kể là hết sức kinh khủng nhưng chúng sẽ còn tiếp tục gia tăng chứ không phải chỉ ngừng ở mức đó.

Tuần trước, vừa có một dự báo khác được công bố. Theo đó, đến năm 2020 sẽ có một triệu trong số 100 triệu người Việt bị ung thư. (G.Đ)

Số người Việt Nam đầu tư vào Mỹ để có thẻ xanh tăng vọt

Số người Việt Nam đầu tư vào Mỹ để có thẻ xanh tăng vọt
Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) Nhà nước cố chèo kéo tư bản ngoại quốc đổ tiền vào các dự án đầu tư sản xuất tại Việt Nam, người giàu có tại nước này lại đua nhau đổ tiền vào Mỹ để lấy thẻ xanh sống ở đó.

Một bài viết tường thuật trên tờ Lao Ðộng hôm Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016 về một cuộc hội đàm ở Hà Nội giới thiệu chương trình đầu tư định cư Mỹ EB-5 với lời mời hấp dẫn: Chỉ cần đầu tư $500,000 vào Mỹ sẽ được cấp “thẻ xanh.”


Một chương trình hội thảo giới thiệu đi Mỹ đầu tư trực tiếp EB-5 đổi thẻ xanh vĩnh viễn của 36Visa phát trên mạng YouTube. (Hình: Tuổi Trẻ)

Theo báo Lao Ðộng kể lại về cuộc hội đàm được tổ chức tại một khác sạn sang trọng, “con số do công ty tư vấn USIS (công ty tư vấn cho cá nhân và công ty Việt Nam đầu tư vào thị trường Mỹ) đưa ra khiến nhiều người giật mình: Năm 2015, chỉ riêng với loại hình EB-5 tăng chóng mặt so với các loại hình khác như EB-1, EB-2. Cụ thể EB-5 được dành riêng cho các nhà đầu tư và các doanh nhân đầu tư vốn đáng kể vào nền kinh tế Mỹ, từ 6,418 suất năm 2014, đến năm 2015 đã tăng vọt 17,662 suất.”

Trong đó, dẫn đầu là Trung Quốc, và Việt Nam hiện đang đứng thứ hai, bỏ xa hàng loạt các nước khác như các nước ASEAN hay Ấn Ðộ,…. báo Lao Ðộng kể lại.


Một website quảng cáo đầu tư để nhận “thẻ xanh” định cư tại Mỹ. (Hình: Lao Ðộng)

Hình thức đầu tư EB-5 của chính phủ Mỹ là đầu tư $500,000 hoặc $1 triệu vào dự án EB5. Mỗi “suất” đầu tư phải tạo ra được tối thiểu 10 việc làm toàn thời gian cho người lao động Mỹ. Nhà đầu tư và gia đình được cấp thẻ xanh Mỹ.

Tuy nhiên, luật lệ Mỹ không đơn giản, đặc biệt Hoa Kỳ khá chặt chẽ về “chống rửa tiền.” Nếu người đổ tiền vào Mỹ đầu tư mà không chứng minh được nguồn gốc “sạch” của ngân khoản, sẽ bị trở ngại.

Hồi năm ngoái, có một số bản tin của VNExpress và Tuổi Trẻ viết về những công ty ngoại quốc tới Việt Nam mở văn phòng hoặc sử dụng những công ty môi giới ở Việt Nam để lôi kéo, bắt mối cho dịch vụ đầu tư lấy thẻ xanh EB-5. Trên Internet, người ta có thể tìm thấy một số công ty quảng cáo dịch vụ này.


Thuyết trình tại Sài Gòn về dự án đầu tư và triển vọng tương lai qua chương trình đầu tư EB5. (Hình: VNExpress)

VNExpress ngày 21 tháng 9, 2015 có bản tin tường thuật về cuộc hội thảo tại khách sạn Renaissance Riverside Hotel Sai Gon, số 8-15 đường Tôn Ðức Thắng, quận 1, giới thiệu chương trình mà người ta đổ ra khoảng $500,000 “đầu tư vào dự án Europa Village, bạn có cơ hội nhận được thẻ xanh cho cả gia đình định cư tại Mỹ.”

Ðáng để ý là bản tin này nói dự án Europa Village do thị trưởng thành phố Temecula làm chủ tịch dự án đầu tư. Theo tường thuật, dự án Europa Village là một tổ hợp nhà máy rượu, nằm ngay trên ranh giới thành phố Temecula, quận Riverside, California.

“Dự án có diện tích khoảng 188,000 feet vuông (tương đương 16,920 mét vuông) gồm nhà máy rượu vang, cơ sở nếm rượu vang, 60 phòng khách sạn bổ sung, một spa, nhiều nhà hàng, cơ sở phục vụ tiệc lớn trong nhà, ngoài trời và các địa điểm bán lẻ hàng hóa. Tổ hợp này sẽ nằm trên diện tích 45 mẫu Anh (hơn 18 ha) ngay phía đông lối vào chính của thung lũng rượu vang Temecula. Khu vực này hiện có 44 nhà máy rượu vang và dự kiến mở rộng đến 104 nhà máy trong vòng 20 năm tới,” VNExpress kể.

Trước đó, ngày 17 tháng 8, 2015, tờ Tuổi Trẻ kể lại một số trường hợp đầu tư đổi lấy thẻ xanh với nhiều bấp bênh và “rủi ro cao” vì người đầu tư không nắm vững vấn đề. Nếu việc đầu tư không được chấp thuận, chi phí môi giới dịch vụ hàng chục ngàn có thể mất trắng. (TN)

Cuộc đời và cái chết rất buồn của một con người chính trực

Cuộc đời và cái chết rất buồn của một con người chính trực
Nguoi-viet.com

Bài này của tác giả Mai Thanh Truyết viết sau khi cố BS Dương Quỳnh Hoa mất. Mới mà đã 8 năm rồi. Một số các bạn muốn biết về nữ chí sĩ được xem là người đầu tiên thẳng thắn ra khỏi đảng cộng sản ở Việt Nam vào năm 1979. Bài viết tương đối đầy đủ. Ai chưa đọc thì nên đọc, vì gần đây rộ lên phong trào ra khỏi đảng của những nhân vật một thời sùng kính đảng cộng sản như một tôn giáo. Hôm nay, tôi xin lưu lại ở đây như một nén hương tưởng nhớ 8 năm ngày mất của Bà, một đồng nghiệp đàn Chị, mà tôi đã từng gặp, và tâm sự năm 1986 và vài lần sau đó năm 2001. Vẫn còn nhiều vấn đề về Bà mà một số bài báo phỏng vấn sau này đều bịa đặt để bôi nhọ Bà.

Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa

Mai Thanh Truyết

Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày Thứ Ba, 28 tháng 2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Ðài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28 tháng 2.

Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trải và chia sẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.

ÔB DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Ðà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?).Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Ðảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Ðảng CSVN. Tháng 12, 1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu-Mõ Vẹt xuyên qua Ðồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.

Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như ông chồng là GS HVN cũng được nâng đỡ theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bỏ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ bộ trưởng Kinh Tế nhưng ông từ chối.

ÔB DQH và Ðảng Cộng Sản VN

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vỡ lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ,” Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau “Các ‘toi’ muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Ðừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng.” Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Ðại Học Ðà Lạt), Nguyễn Ðình Long (Nha Hàng Không Dân Sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4, 1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7, 1975, Hà Nội chính thức giải thể Chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Ðịnh… Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Ðông Nam Á.

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: “Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Ðảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả.” Ðến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ thứ trưởng. Dĩ nhiên là Ðảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.

Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Ðảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố: “Trong hiện trạng của Ðất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân” và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9,10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đỡ của hai giới trên để thành lập trung tâm nhi khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các loại vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì… nhân dân (của Ðảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1 tháng 12, 2003 tại Hà Nội: “Hiện Việt Nam có 5.1 triệu người khuyết tật chiếm 6.3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92.3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%.

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳnh Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vừa kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là: “Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẻ thù tiềm ẩn.” Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói: “Ðây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại.”

BS DQH và Vụ kiện Da Cam

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai.

Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn Nhân Chất Ðộc Da Cam/Dioxin Việt Nam ngày 10 tháng 1, 2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội Vụ ngày 17 tháng 12, 2003. Ðây là một hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của hội lúc ban đầu gồm:

– Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;

– Thượng tướng Ðặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QÐND làm Chủ tịch;

– GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;

– Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng: “Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hóa học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp.” Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hóa học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Ðược biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.

Vào ngày 30 tháng 1, 2004, hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Ðược biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Ðại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoản. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:

– Hội Nạn Nhân Chất Da Cam/Dioxin Việt Nam;

– Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Ðại Học Hà Nội;

– Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);

– Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và

– Những người cùng cảnh ngộ.

Ðây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất chánh để: (1) Ðòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) Yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) Ðể hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Ðại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Ðại học Columbia, New York.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).

Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.

Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đầu bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ. Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẫu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).

Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.

Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?

Ðể tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5, 2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì

“Người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli).

“Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam.” Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra.

Bà còn thêm rằng: “Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).”

Ðến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện. Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bõ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quãng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Ðối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Ðất và Nước cả.

Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QÐ-TTg ký ngày 21 tháng 10, 2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta, những người Việt trong và ngoài nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.

Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại.

Ghi chú: Ngày 3 tháng 3, 2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân Y miền Nam, một người bạn chiến đấu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay.

Mong tất cả trí thức Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.

Niềm tin vào cái ác

Niềm tin vào cái ác

Nhạc sĩ Tuấn Khanh, viết từ Sài Gòn
2015-04-09

Con gái nạn nhân Ngô Thanh Kiều hôn di ảnh cha trong phiên xét xử 4 công an đánh chết anh Kiều

Photo courtesy of phapluatdoisong.com

Your browser does not support the audio element.

Trong cùng một buổi sáng đầu tháng 4, khi ông Lê Đức Hoàn, phó thủ trưởng cơ quan Cảnh sát đều tra TP. Tuy Hoà nhìn nhận “chúng tôi đã sai rồi” trước vành móng ngựa về vụ 4 công an đánh đập, tra tấn và bức tử công dân Ngô Thanh Kiều, thì cũng là lúc ở Hưng Yên lại tái diễn một sự kiện tương tự.

Anh Nguyễn Đức Duân, 34 tuổi, khi bị đưa về phòng tạm giam của công an huyện Khoái Châu (Hưng Yên) đã bất ngờ đột tử, dĩ nhiên, trên người xuất hiện nhiều vết đánh đập. Một kiểu chết mà rất nhiều phòng tạm giam, đồn công an trên toàn cõi Việt Nam vẫn nói mình vô can, bất chấp trong 3 năm (2011 đến 2014) có đến 226 người đã chết tương tự như anh Kiều, anh Duân vậy.

Những công dân chưa bị kết án này, được tìm thấy có nhiều chứng cứ đã bị một hoặc nhiều người đánh đến chết, ở khu vực chính quyền quản lý. Trong trường hợp anh Kiều, giám định viên thi thể cho biết họ không thể đếm hết các vết thương tích trên người của nạn nhân. Điều làm người ta kinh sợ là một bộ mặt khác trong đời sống đã lộ diện: có những nơi đã gây nên tội ác và tin cái ác là cần thiết, người dân chỉ còn biết ngửa mặt lên trời cất lên tiếng khóc bi phẫn.

Lời của một công an viên đánh chết đồng bào của mình, nói rằng họ chỉ muốn “giải quyết mọi việc cho nhanh”. Cái “nhanh” đó chưa biết đã đem lại được bao nhiêu đáp án đúng của công lý nhưng đã cướp đi mạng sống của con người, thoả mãn những thú tính và gieo rắc sự sợ hãi trong nhân dân về những nhân vật mặc sắc phục, sẳn sàng bóp chết những người cùng màu da, tiếng nói với mình.

Mới đây (ngày 9-4) thông tin quốc tế cho biết, Dzhokhar Tsarnaev, 21 tuổi, sẽ phải ra toà để chịu phán xét về vụ khủng bố trong cuộc đua marathon ở Boston (Mỹ) vào năm 2013. Tsarnaev đã cùng anh mình nổ bom, làm chết 3 người và hàng trăm người bị thương mà mọi chứng cứ nay đã rõ ràng. Thế nhưng toà án và cảnh sát Mỹ đã phải mất đến 2 năm để điều tra và thu thập dữ liệu, để đưa ra toà một kẻ khủng bố còn khoẻ mạnh và xét xử. Trả lời Q.News, văn phòng công tố nói rằng họ đã tận lực cố gắng để “nhanh” đưa vụ này ra toà.

“Nhanh” của chính quyền ở những nơi khác nhau, rõ ràng cũng khác nhau. Có nơi làm tất cả để trình bày về cái ác. Có nơi thì chính nhân viên công quyền giành nhau để vào vai cái ác, thậm chí tin vào cái ác.

Cũng có ý kiến tiếc thương cho thanh niên 21 tuổi Dzhokhar Tsarnaev, với lý luận rằng “người chết thì đã chết rồi, thôi thì hãy dành chút cơ hội cho người còn sống”. Lập luận này cũng được nghe quanh phòng xử án anh Ngô Thanh Kiều, rằng như thế nào chuyện cũng đã “lỡ” rồi, có xử nặng thì cũng không giúp anh Kiều sống lại. Quả đúng vậy, người chết thì đã chết rồi, nhưng cái ác vẫn nhởn nhơ sống và còn được những cơ hội đẹp, như một dẫn chứng mạnh mẽ cho niềm tin vào cái ác.

3 năm và 226 công dân chết trong nhiều khu vực của chính quyền có nhiều không? Và con số này vẫn không dừng lại. Nếu công lý không được lập lại. Nếu sự nguỵ biện và dung dưỡng cho cái ác vẫn còn mạnh mẽ, người dân chỉ còn có thể suy ra rằng đã có những nơi trên đất nước này, như Phú Yên hay Hưng Yên… công an đã trở thành những bộ phận cát cứ hoành hành trên tính mạng con người. Lịch sử nhân loại vẫn ghi lại rằng việc im lặng gieo rắc sự sợ hãi trong tâm lý dân chúng là một phép tính cai trị, đời đời bị nguyền rủa, như bạo chúa Nero (54-68) khi không còn đủ khả năng đồng hành cùng người dân La Mã đi đến tương lai.

Xã hội Việt Nam có quá nhiều ví dụ cho thấy những kẻ phạm tội trong chính quyền, dù trên danh nghĩa là bị kỷ luật, nhưng sau đó lại được chuyển vào những vị trí bù đắp khác, vị trí có thể còn cao hơn, thậm chí thong dong hơn.

Mọi thứ đang đảo lộn. Lẽ phải bị thử thách như với những người cần phải tử đạo. Cái ác có đang là thứ để tin, để chọn, như một cách để khác biệt với đồng loại mong manh của mình?

Ngày xưa, các bậc cha mẹ vẫn mong con mình thành đạt trong đời, để là bác sĩ, kỹ sư… Nhưng thời nay, không ít gia đình chạy vạy cho con mình vào ngành công an như một bước đi vững chắc và an toàn trong đời. Mọi ngành nghề đều bình thường, và là điều công chính đáng tự hào biết mấy trong xã hội an sinh. Nhưng nếu từ những câu chuyện như của anh Kiều, anh Duân… mà công lý và pháp luật không thể thượng tôn, cái ác trở thành một loại niềm tin, dù chỉ là của một phần rất nhỏ trong dân chúng, thì cũng đó là ngày bất hạnh của dân tộc Việt Nam đã điểm.

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

 

Mua lại nước Việt Nam với giá nào?

Mua lại nước Việt Nam với giá nào?
Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Nhiều độc giả Người Việt đồng ý với đề nghị “Mua lại nước Việt Nam” từ tay đảng Cộng Sản; để họ trả lại cho dân Việt Nam quyền tự mình lo quản trị đất nước mình. Nếu quý vị thấy ý kiến này vô lý, đặt câu hỏi “Tại sao đất nước của mình, mình lại phải mua lại?” thì xin thông cảm. Chúng ta đã thấy cảnh nhiều chủ nhà phải “mua lại” căn nhà của chính mình. Nhà mình cho họ trú ngụ rồi bị chiếm luôn. Ðuổi không ra. Ðòi, không trả. Thưa kiện, không ai xử. Dùng vũ lực càng không được, vì chúng nó du côn hơn mình! Khi một bọn côn đồ lại nắm cả pháp luật trong tay, thì làm sao được? Giải pháp cuối cùng để mời bọn cướp ra khỏi căn nhà mình, là thí cho chúng nó một số tiền. Bao nhiêu người đã phải làm như thế rồi!

Nhưng có độc giả nêu lên nỗi khó khăn: Kiếm đâu ra tiền mà mua lại nước Việt Nam? Bạn TTNV viết: “Dân đen ở Việt Nam (80%) thì trên răng dưới dế, khố rách áo ôm, vốn liếng chỉ có cái mạng cùi! Quan chức, đại gia thì bận lo ‘hốt nhanh, hốt gọn, hốt sạch’ rồi ôm bọc bạc qua Thụy Sĩ (chưa tới được Panama!) Vậy thì lấy cái gì mà ‘mua lại’ đây?”

Một độc giả khác, ký tên Người Buôn Mộng, đưa ra đề nghị người Việt ở nước ngoài phần lớn khá giả hơn đồng bào trong nước hãy gánh lấy việc góp tiền mua lại nước Việt Nam. Theo Người Buôn Mộng thì “hơn ba triệu người Việt ở hải ngoại sẽ đi quyên góp cho đủ 19 tỉ Mỹ kim, để chia tặng đồng đều cho 19 ma đầu trong Chính Trị Bộ mới được bầu lên” với một số điều kiện để họ trả lại nước Việt Nam cho người Việt Nam.

Con số 19 tỷ đô la có lớn quá không? Bạn Người Buôn Mộng đã tính toán, thấy đủ sức kiếm ra. Vì mỗi năm người Việt ở nước ngoài vẫn đem hàng chục tỷ đô la về trong nước! Nhà báo Vũ Kim Hạnh mới viết trên Facebook của cô rằng, “Dòng kiều hối chảy về Việt Nam từ Mỹ khoảng 7-8 tỷ đô la, thì dòng đô la chảy ra cũng không ít.” Nếu chia 19 tỷ cho ba triệu người Việt ở nước ngoài thì mỗi người chỉ góp trên ba ngàn đô la! Những người yêu nước có của sẽ đóng góp gấp đôi, gấp ba, bù cho những người thiếu tiền! Có thể mua được!

Ðề nghị trả giá 19 tỷ rất thực tế, nhưng chúng ta sẽ không cần đến. Thực ra, có thể mua lại đất nước từ tay đảng Cộng Sản mà không cần phải trả tiền mặt. Nghĩa là có thể mua chịu, mua trả góp, giống như ở các xã hội ổn định người ta vay nợ mua nhà vậy. Vậy có thể mua lại nước Việt Nam theo lối trả góp cho đảng Cộng Sản như thế nào?

Xin quay lại với ý kiến của các nhà kinh tế Ba Lan thời 1980. Họ đề nghị mua lại nước Ba Lan từ tay đảng Cộng Sản, sẽ trả tiền cho tất cả các đảng viên Cộng Sản; không trả riêng cho các lãnh tụ trong Bộ Chính Trị hay Trung Ương Ðảng. Dân Ba Lan hứa sẽ trả cho đảng viên Cộng Sản tất số các lợi nhuận mà họ đang được hưởng và sẽ được hưởng nếu vẫn nắm chính quyền. Nghĩa là, dù mất quyền hành nhưng các đảng viên Cộng Sản vẫn hưởng các lợi lộc, lại được bảo đảm hưởng lâu dài, không lo mất.

Như vậy thì cái giá mua lại nước Việt Nam như thế tính ra thành bao nhiêu tiền? Làm sao biết được là giá đắt hay rẻ? Muốn trả lời thắc mắc này, cần tính toán theo lối các ngân hàng: Những món tiền sẽ trả trong tương lai đều có thể tính ngược lại thành một cái giá tương đương trong hiện tại.

Cách tính toán này, trong môn Tài Chánh Học (Finance) gọi là “hiện giá” (present value). Thí dụ, mình có trong tay một trái khoán (giấy nợ), trên đó viết rằng người cầm giấy này sẽ được trả 105 đồng, trong một năm nữa. Nếu lãi suất trong thị trường đang là 5% một năm, thì người ta sẵn sàng trả 100 đồng để mua cái giấy nợ đó. Giá trị 100 đồng này là “hiện giá” của lời hứa trả tiền trong tương lai, tính toán rất giản dị. Khi dân Việt Nam hứa cho các đảng viên Cộng Sản được hưởng lương bổng suốt đời nếu họ bán lại đất nước cho mình, số tiền trả trong tương lai đó cũng có thể tính thành một “hiện giá.” Ðó là cái giá mua lại nước Việt Nam.

Muốn cho dễ hiểu, quý bạn hãy tưởng tượng có một người hứa trả cho bạn 100 đồng mỗi tháng, mãi mãi không bao giờ ngừng, đời con đời cháu vẫn được hưởng. Dòng tiền nhận được trong tương lai đó tương đương với bao nhiêu tiền trong hiện tại? Nói cách khác, quý vị sẵn sàng trả bao nhiêu tiền để mua lời hứa đó? Cái giá này chính là “Hiện Giá.” Hiện giá lớn hay nhỏ tùy theo quý vị nghĩ mình đáng được hưởng lãi suất bao nhiêu. Lãi suất cao hơn thì hiện giá thấp hơn.

Thí dụ, nếu lãi suất là 1% mỗi tháng (như lãi suất trung bình mà các doanh nghiệp ở Việt Nam phải trả bây giờ) thì Hiện Giá của dòng tiền 100 đồng đều đặn này là 10,000 đồng. Tại sao? Giản dị lắm, nếu quý vị vay ai 10,000 đồng với lãi suất hàng tháng là 1% thì quý vị sẽ phải trả chủ nợ 100 đồng mỗi tháng, tức 1% của 10,000 ngàn. Nếu lãi suất cao hơn, thí dụ 2% mỗi tháng, thì hiện giá của dòng tiền 100 đồng mỗi tháng đó chỉ còn là 5,000 đồng. Vì nếu vay ai 5,000 đồng, với lãi suất 2%, mỗi tháng cũng phải trả 100 đồng!

Thực tế hơn, thử tưởng tượng tình trạng một người vay nợ để mua nhà. Vay một số tiền gọi là P đồng (thí dụ, 250 ngàn đồng); hứa trả góp trong n tháng (thí dụ, 25 năm tức là 300 tháng), với lãi suất r% mỗi tháng (thí dụ 5% một năm, chia cho 12). Có thể tính số tiền trả mỗi tháng là M đồng, theo công thức:

M=P nhân với{{r(1+r) lũy thừa{n}} rồi chia cho {(1+r)lũy thừa {n} trừ 1}}}

Với thí dụ trên đây, ngân hàng đã tính ra số tiền M trả mỗi tháng là 1,454 đồng.

Ngược lại, nếu một người nhận được 1,454 đồng đồng đều đặn trong 300 tháng, trong khi lãi suất là 5% một năm, thì “Hiện Giá” của các món tiền tương lai đó là 250 ngàn đồng. Tính toán giống như cho vay số tiền 250 ngàn đồng với cùng lãi suất 5% và thời gian trả góp là 25 năm. Hiện giá này cũng cao hay thấp tùy theo lãi suất trong thị trường cao hay thấp.

Lãi suất phải tính ra sao? Trong thị trường tài chánh, dù cho vay trực tiếp, hoặc mua bán trái phiếu, lãi suất cao hay thấp tùy thuộc số tiền hy vọng nhận được trong tương lai chịu bất trắc, rủi ro nhiều hay ít. Mối rủi ro càng lớn thì lãi suất càng cao, để bù lại cho nỗi bất trắc người đầu tư phải chấp nhận.

Bây giờ trở lại với câu hỏi dân Việt Nam nên trả cho đảng Cộng Sản bao nhiêu tiền để mua lại nước Việt Nam; để dân mình tự lo việc quản trị nước mình, xây dựng dân chủ, phát triển kinh tế, chấm dút tham nhũng, xây dựng lại đạo lý dân tộc và bảo đảm xã hội công bằng? Về phía người bán, đảng Cộng Sản có thể chấp nhận giá cả là bao nhiêu để họ trả lại nước Việt Nam cho dân Việt?

Theo lối các kinh tế gia Ba Lan 30 năm trước, có thể đề nghị cho các đảng viên Cộng Sản, từ Bộ Chính Trị xuống tới các anh chị cán bộ thôn, xã, cam kết cho họ được hưởng tất cả số lương bổng, trợ cấp và quyền lợi về y tế, xã hội, suốt cuộc đời sau này của họ, cho đến khi chết. Tất cả các món tiền đó có thể tính ra thành hiện giá, cho từng đảng viên. Người nắm quyền cao sẽ được hưởng nhiều, cấp thấp sẽ được ít. Nhưng ai cũng có thể tin rằng họ sẽ còn tiền, họ chỉ mất quyền hành sai bảo hoặc bắt giam người khác mà thôi.

Ðổi lại, đảng Cộng Sản sẽ trao trả lại quyền làm chủ đất nước cho hơn 90 triệu người Việt Nam. Dân Việt sẽ bỏ phiếu bầu một Quốc Hội mới, lập chính phủ mới, lo sửa Hiến Pháp và luật lệ để mọi người đều sống trong dân chủ tự do.

Ðộc giả Người Buôn Mộng, ở San Diego, Hoa Kỳ, đã đề nghị diễn tiến việc trao trả quyền hành theo mấy bước sau đây: Thứ nhất, Bộ Chính Trị đồng thanh tuyên bố đảng Cộng Sản Việt Nam là một sai lầm và thảm họa vĩ đại nhất cho nước Việt Nam, sẽ lập tức được giải thể. Thứ hai, quyền “làm chủ, quản trị, và lãnh đạo” nước Việt Nam sẽ được quyết định trong một cuộc bầu cử tự do, phổ thông, do Liên Hiệp Quốc kiểm soát – giống như ở Campuchia hồi năm 1993 vậy.

Ðộc giả TTNV lạc quan, nhắc lại kinh nghiệm dân Tây Ðức “mua lại” Ðông Ðức từ tay đảng Cộng Sản, nhờ thế nước Ðức đã thống nhất. Mai mốt, dân Nam Hàn có thể sẽ mua lại cả Bắc Hàn từ tay gia đình họ Kim.

Tuy nhiên, bài toán trên đây chỉ nói tới tiền bạc, đến giá cả; còn rất nhiều “ẩn số” chưa đề cập tới. Quý vị nào đã trải qua kinh nghiệm “mua lại nhà của chính mình” từ tay các cán bộ chiếm nhà, hoặc quý vị đã sống qua thời kỳ các nước Cộng Sản đổi chủ, xin mời góp thêm ý kiến.

Văn Quang: Những cái chết thầm lặng

Văn Quang: Những cái chết thầm lặng

VienDongDaily.Com

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Vấn đề tôi nêu ra ở đây thật ra chẳng có gì mới. Đó là những chuyện cũ rích nhưng nó vẫn cứ “đổi mới”. Cách đây chừng 5-7 năm, chuyện thực phẩm bẩn đã rộ lên khiến người dân và khách nước ngoài kinh sợ. Bẵng đi một thời gian, đến nay vấn đề đó lại trở nên nóng hơn bao giờ hết. Mặc dù nhà cầm quyền VN đã cố gắng dẹp tệ nạn này, nhưng chặt đầu này, nó mọc đầu kia. Cái đầu mới lại tinh vi xảo quyệt hơn thủ đoạn cũ, bởi nó chịu “đổi mới”, có “tư duy sáng tạo” còn biện pháp thì cứ cũ mèm nên nó mạnh hơn và nó lại thắng. Các cơ quan có trách nhiệm lại ra sức đuổi theo tiêu diệt nó, nhưng nó chạy như ngựa phi đường xa, còn các quan cứ như cầm đèn chạy trước ô tô. Anh đuổi cứ đuổi, anh ngồi đếm tiền cứ ngồi. Thế thì dân làm sao không chết. Có lẽ chỉ vì cái sự thật kinh hoàng là bệnh ung thư đang lan tràn rất mạnh ở VN trong thời gian vừa qua nên các quan mới nháo nhác đi tìm nguyên nhân phát sinh bệnh. Thật ra đó là thứ bệnh ai cũng biết.

Các công nhân nhập viện tại Trung tâm y tế huyện Chợ Gạo vào ngày 10-3.

Con số người chết vì ung thư ở VN tăng nhanh nhất thế giới
Số liệu mới nhất tại hội thảo “Vì thị trường thực phẩm an toàn” do Hội Tiêu Chuẩn và Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Việt Nam tổ chức tại TP Sài Gòn ngày 26/3 vừa qua cho thấy, hằng năm, Việt Nam có khoảng 200.000 ca ung thư mới, với 75.000 ca tử vong, khiến VN trở thành quốc gia có tỷ lệ ung thư ở mức báo động, con số này có xu hướng tăng trong những năm tiếp theo.

Theo báo cáo của Viện Nghiên Cứu Phòng Chống Ung Thư Việt Nam: Nguyên nhân chủ yếu do các loạihóa chất độchại có trong thức ăn hàng ngày. Điều này làm cho Việt Nam là nước có bệnh nhân ung thư nhiều nhất trên thế giới. Một số quốc gia nhỏ chỉ có mấy triệu người dân thôi. Số người chết vì ung thư ở nước ta chỉ trong mấy chục năm có thể bằng cả một quốc gia bị xóa sổ.

Ung thư vú hiện đang trở thành loại bệnh thường gặp nhất ở nữ giới và được dự báo có xu hướng tiếp tục tăng. Lý do là mỗi ngày họ phải sử dụng những chiếc áo ngực Trung Quốc có chứa đủ thứ hóa chất gây bệnh mà không hề hay biết.

Hàng ngày, người dân phải ăn những loại thực phẩm bị tẩm độc bởi những loại hóa chất độc hại từTrung Quốc. Chỉ tính trong năm 2012 đã có hàng ngàn vụ việc liên quan đến thực phẩm bẩn có nguồn gốc từ Trung Quốc hoặc trong nước bị phát hiện và bắt giữ. Trong đó, hầu hết đều có chứa các chất bảo quản gây nguy cơ mắc bệnh ung thư cho người tiêu dùng: táo, khoai tây, lê…

Người tiêu dùng tẩy chay hàng Trung Quốc và lựa chọn thực phẩm trong nước nhưng cũng chẳng được an toàn hơn khi hàng loạt các thực phẩm, hoa quả trong nước được tẩm ướp và chế biến, bảo quản bằng hóa chất như giá đỗ, chuối, đu đủ, cà chua, mít…

Ngay cả những thứ quà vặt cho trẻ em như bim bim, bánh kẹo hay những thứ đồ chơi cho trẻ như thú nhún, cây thông Noel cũng trở nên nguy hiểm đổi với con người bởi bên trong đó là những loại hóa chất trở thành tác nhân gây ra bệnh ung thư. Chỉ trong vòng 5 năm, số bệnh nhân ung thư tăng gấp ba. Chỉ trong năm 2015, người tiêu dùng trên cả nước có thể đã ăn tới 6 tấn chất cấm trong chăn nuôi.
Từ đó đến nay bệnh ung thư vẫn tiếp tục lan tràn. Tại sao?

Hàng chục tấn chất tạo nạc trôi nổi trên thị trường
Theo báo điện tử Vietnam Net, trong khi con số nhập khẩu chất tạo nạc giữa Bộ Nông Nghiệp Phát Triển Nông Thôn (NN&PTNT) và Bộ Y tế đưa ra “vênh” nhau một trời một vực thì nhiều tấn hóa chất nguy hại này vẫn trôi nổi trên thị trường. (Tức là hai bộ mỗi ông nói một phách).

Tại hội nghị trực tuyến về về vệ sinh an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, tổ chức vào tháng 10 năm ngoái, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát cho biết, 9 tháng đầu năm 2015 có tới 68 tấn Salbutamol – chất tạo nạc bị cấm trong chăn nuôi, được nhập khẩu vào Việt Nam.
Bộ trưởng Phát đặt nghi vấn các doanh nghiệp nhập khẩu đã nhập lậu chất này và bán ra thị trường một cách bất chính cho người chăn nuôi sử dụng trộn vào thức ăn để vật nuôi siêu nạc, mau lớn.
Tuy nhiên, ngay sau đó, ông Nguyễn Thanh Phong, Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế) khẳng định, 9 tháng đầu năm 2015 mới chỉ cho phép nhập 3,5 tấn Salbutamol và chỉ những công ty có số đăng ký các sản phẩm này còn hiệu lực mới được nhập, nhà máy đạt GMP mới được sản xuất.. Việc nhập khẩu Salbutamol được căn cứ trên nhu cầu thực tế. Do đó, không có chuyện Bộ Y tế cho phép nhập khẩu đến 68 tấn Salbutamol như thông tin đã đưa.

Hai bộ đốp chát, bên nói có, bên nói không, anh dân đen ngơ ngác chẳng biết tin ông nào. Kết luận chất tạo nạc vẫn nhởn nhơ giữa thị trường bán cho người cần mua dù đó loại chất cấm, chỉ sử dụng cho việc cữa bệnh điều trị hen suyễn hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhờ làm cho người bệnh thở dễ dàng hơn. Salbutamol và Clenbuterol nếu tồn dư trong thịt sẽ gây nguy hại cho sức khỏe con người khi đưa vào cơ thể. Còn kháng sinh tồn dư trong thực phẩm làm tăng nguy cơ vi khuẩn kháng thuốc điều trị cho người. Hiện nay, cả 2 chất tạo nạc này đều bị cấm dùng để trộn vào thức ăn cho gia súc, gia cầm. Tổ chức Lương Nông thế giới (FAO) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cấm sử dụng nhiều năm nay – chất cấm sử dụng trong chăn nuôi. Kết quả giám sát cũng cho thấy, các chất cấm, chất kháng sinh không chỉ bịphát hiện ở thịt lợn mà còn có cả ở thịt gà.

Còn rất nhiều vụ phát hiện chất cấm trên thực phẩm đã bị phanh phui. Ngoài bọn gian thương Tàu tuồn hàng cấm vào VN, chính người Việt cũng nhẫn tâm hại đồng bào mình. Những vụ ngâm tẩm hóa chất độc hại bị phát hiện như thịt trâu tẩm hóa chất độc hại, làm giả thành thịt bò; cà phê làm từ bột đậu nành tẩm hóa chất hương cà phê có khả năng gây ung thư; da heo, mỡ bẩn tẩy trắng bằng hóa chất độc hại; rau tồn dư thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật; heo có chất tạo nạc, uống thuốc an thần. Gần đây, người dân ở Phú Yên sử dụng hóa chất, phẩm màu để nhuộm ruốc theo yêu cầu của thương lái. Việc này đã có từ lâu nhưng chính quyền địa phương và người tiêu dùng nay mới biết!

Tôi chỉ nêu hai thí dụ điển hình đó thôi, bạn đọc có thể hiểu được nỗi nguy rình rập hàng ngày của hầu hết người VN là thế nào.

Như thế người dân ăn gì cũng chết. Còn uống cũng nhiều thứ dễ chết như nhau. Hầu như thức uống nào cũng có thể bị nhuộm xanh nhộm đỏ chứa đầy hóa chất. Thứ mà người dân từ thượng lưu trí thức đến người bình dân ngồi vỉa hè quen dùng hàng ngày là cà phê cũng bị làm giả, bị nhiễm độc nặng. Những hàng quán vỉa hè cũng chứa đầy chất độc, không ai kiểm tra. Người dân vẫn cứ ăn, cứ uống.

Cà phê tẩm hóa chất chế biến ngay giữa TP Vũng Tàu
Sáng 24-3, Đội CSĐT tội phạm về kinh tế Công an TP Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đã bất ngờ kiểm tra cơ sở rang cà phê tại số 268, đường Trương Công Đinh, TP Vũng Tàu và phát hiện một số lượng lớn cà phê, đậu nành và các phụ gia chưa rõ nguồn gốc xuất xứ. Cơ sở rang cà phê trên do ông Nguyễn Văn Hòa (48 tuổi, ngụ TP Vũng Tàu) làm chủ.
Khi cơ quan công an kiểm tra, phát hiện nhiều bao cà phê, đậu nành nằm la liệt ở dưới sàn nhà cáu bẩn, bụi bám đen sì, các dụng cụ dùng để rang cà phê như chảo, muỗng đều đã chuyển màu và nằm dưới sàn nhà. Thùng để chứa bơ bẩn thỉu, dơ dáy, cơ sở bốc mùi khét lẹt. Một số thùng đã qua sử dụng được chất vào bên trong kho của cơ sở trên đều ghi có xuất xứ từ Trung Quốc.
Chủ cơ sở trên cho biết số cà phê trên được ông mua từ các tỉnh như Lâm Đồng, Đắk Lắk; riêng các phụ gia để tẩm ướp thì được mua tại TP Sài Gòn.

Tại nơi sản xuất ra cà phê cũng làm giả
Phóng viên tờ báoNgười Lao Động giả làm chủ cửa hàng,đi mua 50 kg cà phê bột, chúng tôi tới cơ sở rang xay ở phường Hòa Khánh, TPBuôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Tại đây, nhiều bao cà phê bột đóng sẵn chờ tiêu thụ, ngổn ngang can, lọ đựng hóa chất, nguyên liệu toàn bắp và đậu nành để dưới nền nhà. Theo chủ cơ sở này, mấy ngày qua phải tăng 300% công suất nhưng cũng phải làm tới 29 Tết mới đủ hàng.
Trước đó, cuối tháng 1, Phòng Cảnh sátPhòng chống tội phạm về môi trường của công an tỉnh Đắk Lắk kiểm tra cơ sở chế biến cà phê bột của ông Nguyễn Đình Quang (ngụ xã Hòa Khánh). Xưởng chế biến là ngôi nhà cấp 4 lụp xụp, bụi bặm; nguyên liệu cà phê, bắp, đậu nành và hóa chất để dưới nền xi măng cáu bẩn.
Ông Quang không xuất trình được các giấy tờ liên quan đếnhoạt động sản xuấtcà phê bột nhưng thừa nhận mỗi ngày cung cấp ra thị trường khoảng 100 kg cà phê bột. Cà phê bột của ông Quang chỉ có 10% cà phê, còn lại là bột bắp, đậu nành rang cháy và các loại hóa chất không rõ nguồn gốc.

Theo Hội Bảo vệngười tiêu dùngĐắk Lắk, qua khảo sát 30 cơ sở chế biến thì có 73,3% cơ sở ngoài cà phê còn dùng thêm đậu nành; 46,7% cơ sở dùng thêm bắp; 6,7% dùng thêm đậu đỏ và 4/27 mẫu cà phê không đạt chất lượng. Tuy nhiên, việc khảo sát chỉ tập trung ở các cơ sở có tên tuổi; còn các cơ sở chế biến chui, nhỏ lẻ thì chắc chắn còn nhiều.

Theo bà Nguyễn Thị Lý,chủ quán cà phêBảo Tàng (đường Lê Duẩn,TP Ban Mê Thuột), hiện rất ít người dùngcà phê nguyên chất dù loại cà phê này chỉ hơn cà phê pha sẵn 3.000 đồng/ly. Trung bình mỗi ngày, quán bán hơn 200 ly, trong đó chỉ khoảng 20-30 ly là cà phê nguyên chất xay pha trực tiếp.
Còn theo chủ mộtdoanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hiện sản phẩm cà phê bột của doanh nghiệp chủ yếu phục vụ xuất khẩu chứ không cạnh tranh nổi ởthị trường nội địa. Nguyên nhân là do sản phẩm cà phê bột của doanh nghiệp có hàm lượng cà phê khoảng 80% nên giá cao hơn, không đắng và sệt so với các loại cà phê mà các quán thường bán.

Bà Nguyễn Thị Phương Lan, Chủ tịch Hội Bảo vệ người tiêu dùng Đắk Lắk, cho rằng cà phê bẩn tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng. Bột đậu nành, bột bắp cháy đen tẩm hóa chất nếu dùng lâu ngày sẽ rất nguy hại.

Nguy hại tới người khác thì mặc kệ, miễn có thêm tiền là cứ làm. Như thế còn dã man hơn cả trộm cướp. Chính ông Phó thủ tướng Vũ Đức Đam cũng cho rằng “Vệ sinh an toàn thực phẩm không chỉ là vấn đề thực thi pháp luật, điều hành của các cấp mà còn là minh chứng của xuống cấp đạo đức xã hội”.
Văn hóa suy đồi, xã hội tham nhũng đầy rẫy là hiện tượng rõ rệt lương tâm đang chết dần. Chẳng cơ quan nào cứu được, xã hội không thay đổi thì đạo đức loạn là đúng.

Sự thật là những cái chết thầm lặng không có tiếng súng kia ngày ngày vẫn âm vang khắp nơi. Chẳng ai quan tâm, còn mải… đếm tiền!

Văn Quang

 01 tháng 4-2016

ĐÁNG TIẾC VÀ ĐÁNG GIẬN !

ĐÁNG TIẾC VÀ ĐÁNG GIẬN !

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Trích EPHATA  688

 Hôm nay ngày 7 tháng 4, Hội Thánh kính nhớ Thánh Gioan Lasan, vị sáng lập “Dòng Sư huynh các trường Công Giáo”, còn gọi là “Trường Chúa Kitô”. Ở Việt Nam các Tu Sĩ Dòng Lasan mở thêm Dòng Nữ Lasan, Trước năm 1975, Dòng Nữ Lasan chỉ có ở Việt nam và Thái Lan. Sau năm 1975 các Nữ Tu Dòng Nữ Lasan đến Hoa Kỳ và thiết lập cộng đoàn tại đây. Đây là một Hội dòng chuyên lo việc giáo dục cho thanh thiếu niên, đặc biệt là các trẻ em nghèo. Tên Dòng Lasan được viết từ tên vị sáng lập Dòng người Pháp là Thánh Gioan Lasan ( Jean-Baptiste de La Salle, 1651 – 1719 ). Các Tu Sĩ Dòng Lasan được gọi là Sư Huynh, ở Việt Nam nhiều người vẫn gọi các vị là Frère ( tiếng Pháp, nghĩa là anh, huynh ), vì họ tuy khấn Dòng nhưng không phải là Linh Mục. Lâu lắm mới có một lần được mừng đúng ngày, vì lễ kính Thánh nhân ( 7 tháng 4 ) thường rơi vào Tuần Thánh hoặc Tuần Bát Nhật Phục Sinh.

Thánh Gioan Lasan có ý tưởng mở trường nghĩa thục dạy miễn phí cho trẻ em nghèo nên quy tụ một số bạn đồng ý chí để thành lập những trường như vậy, với tâm nguyện mọi người vừa điều khiển trường, vừa dạy học, vừa sống luôn trong cộng đồng của các em học sinh. Các Tu Sĩ của Dòng Lasan tuy có khấn dòng, nhưng họ không lãnh nhận Chức Thánh nên họ không phải là Phó Tế hoặc Linh Mục, Giám Mục. Dòng Lasan là Dòng Tu Nam đầu tiên của Giáo Hội Công Giáo không có Linh Mục. Dòng Lasan được cho là tổ chức đầu tiên trên thế giới áp dụng những phương pháp sư phạm hiện đại. Thí dụ, ngay từ thời sơ khai, Gioan Lasan đã có khái niệm đặt lợi ích học sinh lên trên hết, và cấm thầy giáo không được phạt học trò bằng cách đánh đòn.

Trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam, hệ thống trường do Dòng Lasan tổ chức lan rộng trên nhiều tỉnh thảnh Bắc Trung Nam, và đạt được tin cậy của các vị phụ huynh rất cao. Ở Sàigòn nổi tiếng có trường Lasan Taberd ( Quận 1 ) và Lasan Mossard ( Thủ Đức ) với cơ sở hiện đại, quản lý giáo dục và đội ngũ giảng dạy rất có uy tín, nhiều vị học giả, chuyên gia và giới chức cao cấp trong nhiều lãnh vực tốt nghiệp từ trường này ra. Việc được tuyển vào học trong ngôi trường danh tiếng này không dễ dàng chút nào, ngoài khả năng học tập, thành phần học sinh ở đây đều xuất thân từ các gia đình khá giả vì học phí rất cao. Tuy nhiên với loại gia đình trung trung như chúng tôi thì đã có trường Lasan Hiền Vương ( ngã Sáu ), Lasan Đức Minh ( Tân Định ), phẩm chất giảng dạy không kém Taberd, chỉ khác biệt về môi trường sinh hoạt mà thôi, dĩ nhiên học phí ở hai trường này mềm hơn. Tôi được biết them Trường Mù Lasan Hiền Vương được tổ chức để lo cho các em khiếm thị, Trường Dạy Nghề Đức Minh để giúp người lao động nghèo có nghề nghiệp. Cùng với hệ thống trường Dòng Lasan, các trường học khác của cả Công Giáo lẫn Phật Giáo trên cả nước phải đóng cửa bàn giao lại cho Nhà Nước vào năm 1975, đáng kể ở Sàigòn có các trường nổi tiếng: Nguyễn Bá Tòng 1 và 2, Saint Thomas, Lê Bảo Tịnh, Bồ Đề, Cứu Thế… Các trường đại học có uy tín không kém, có khi hơn cả trường công lập, như Viện Đại Học Đà Lạt, Viện Đại Học Minh Đức, Viện Đại Học Vạn Hạnh… Ở các tỉnh cũng có những trường nổi tiếng không thua gì Sàigòn, như trường Thánh Tâm ( Đà Nẵng ), trường Thiên Hựu ( Huế ), Trường Bùi Chu ( Dốc Mơ, Gia Kiệm ),… Trước năm 75 hệ thống trường tư thục do Giáo Hội thiết lập dày đặc khắp nơi, gần như bên cạnh một Nhà Thờ, dù ở bất cứ nơi đâu đều có một nhà trường trung học, ít nữa cũng là trường tiểu học. Về phẩm chất của giáo dục trước năm 75 ở miền Nam, đăc biệt là ở các trường Công Giáo ra sao ngày nay không cần phải bàn nữa, mọi người đã từng được nghe và nhận thức được sự thật này

Năm 75 người ta phá vỡ hoàn toàn hệ thống giáo dục ở miền Nam thay vào đó là một nền giáo dục mang danh Xã Hội Chủ Nghĩa mà kết quả là thảm trạng hôm nay.

Những con người được đào tạo ra trong nền giáo dục Xã Hội Chủ Nghĩa ít nhiều đã bị thấm

nhiễm những điều không tốt của chủ trương Tam Vô ( vô tổ quốc, vô tôn giáo, vô gia đình ), cho dù con người ấy là ai, dấn thân trong đường hướng nào. Thí dụ về bằng cấp, chúng ta than phiền về bằng giả , bằng mua, bằng thật mà lại học giả…

Tôi có người quen học tiến sĩ, hoàn cảnh không mấy khả giả nhưng anh học rất giỏi và sống

đủng đỉnh nhờ vào nghề viết bài thuê cho các vị học giả mong lấy bằng thật, kết quả là các ông tiến sĩ thuê viết luận văn này khi thời cơ đến, leo được lên ghế lãnh đạo, sẽ cho xã hội những sản phẩm ra sao, sẽ điều khiển các học viện, các viện nghiên cứu như thế nào !?!

Chúng ta đã từng được nghe các vị đi du học, du nhiều hơn là học, khi về cũng được kể là đã du học. Hoặc chúng ta cũng được nghe về các vị đi ra nước ngoài, bon chen ghi danh học một chương trình nào đó, về nước vênh vang bịp người khác cái mác tiến sĩ, xem ra thì chỉ là cái giấy chứng nhận có dự khóa vậy thôi. Cái đáng sợ là những tệ hại kiểu như thế không dừng lại ở bất cứ lãnh vực nào của xã hội chúng ta, nó len lỏi cả vào trong Giáo Hội !

Ông Đinh La Thăng, Bí Thư Thành Ủy thành phố, vừa có những phát biểu gây sóng gió trên các phương tiện truyền thông. Ông nói về “khát vọng đưa thành phố này trở lại vị trí số một” ( trang 1 và trang 2 báo Tuổi Trẻ ra ngày thứ tư 30 tháng 3 ), có nghĩa là thành phố này phải tiến lên dành lại danh hiệu “Sàigòn, Hòn ngọc viễn đông” của hơn 40 năm trước. Trước đó, ông có đề cập đến việc phải chấm dứt nạn cướp giật và lang thang ở thành phố này.  Báo Tuổi Trẻ ngay lập tức mở diễn đàn hiến kế để thực hiện ý muốn của vị Bí Thư. Sau khi suy nghĩ rất nhiều, tôi quyết định không hiến kế, vì nghĩ rằng kế của mình có hiến người ta cũng không dám thực hiện. Kế của tôi liên quan đến 3 mảng quan trọng của đời sống: Xã hội – Giáo dục – Y tế:

– Giao cho các tôn giáo quyền tự do làm công tác xã hội từ thiện, chắc chắn sẽ giảm bớt nạn

cướp giật, móc túi, và chấm dứt cảnh sống lang thang cơ nhỡ…

– Trả lại hệ thống giáo dục cho các tôn giáo được tham gia, trở về với cách thức miền Nam đã thực hiện trước năm 75, cộng thêm phần canh tân theo khuynh hướng hiện đại của các nước đang phát triển trong khu vực…

– Mời gọi các tôn giáo mở lại các cơ sở y tế từ phòng khám đến nhà thương, để các y bác sĩ gốc là các nam nữ Tu Sĩ, là Linh Mục có thể tham gia khám, chữa bệnh, đặc biệt chú ý đến người nghèo…

Tôi nghĩ họ không dám thực hiện nhiều điều ấy, vì vừa rồi có một vị giảng viên đại học tâm sự với tôi: “Con mới có like một bài trên facebook nói về việc ‘nuối tiếc một nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa’ thì hôm sau bị gọi lên Phòng Tổ Chức với lời nhắc nhở: lưu ý vấn đề nhạy cảm !”

Không dám nhìn sự thật, còn lâu mới đổi mới ! Thật đáng tiếc và đáng giận !

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

7.4.2016