Người Trung Quốc Ở Việt Nam Hay Là Chuyện Về Những Nàng An Thị Thời Hiện Đại

Người Trung Quốc Ở Việt Nam Hay Là Chuyện Về Những Nàng An Thị Thời Hiện Đại

Viet-studies

Nguyễn Trọng Bình

15-3-2017

1. Hiện diện trên đất nước Việt Nam hôm nay dĩ nhiên không chỉ có người Trung Quốc. Tuy vậy, phải nói rằng chuyện người Trung Quốc có mặt ở Việt Nam để làm ăn, du lịch hay làm gì khác chưa bao giờ là vấn đề thôi mang tính thời sự, hiểu theo nghĩa nào đó. Đây là đề tài – một sự thật nhiều người biết, nhiều người thấy nhưng để nói ra thì chưa bao giờ là điều dễ dàng, thoải mái.

Còn nhớ cách đây không lâu, chuyện những thương lái Trung Quốc lặn lội vào tận các vùng thôn xóm hẻo lánh ở Việt Nam để thu mua những mặt hàng “độc và lạ”, không ai có thể ngờ tới như: móng trâu, bò, ong bầu, lá điều, cau non, cam non, đuôi chuột, đỉa, ốc bưu vàng…sau đó “lặn” một hơi mất tăm để lại một nỗi buồn vô hạn cho những người dân nghèo nhẹ dạ cả tin. Câu chuyện này sau nhiều lần lặp đi lặp lại ở nhiều địa phương mới nhận được sự quan tâm của dư luận cùng với đó là những quan điểm nhìn nhận, lý giải khác nhau. Trong cái nhìn của người làm kinh tế và nhất là đã lặn lội sang tận Trung Quốc tìm hiểu, tác giả Tony trong sách “Cà phê cùng Tony” cho biết, đây đơn giản chỉ là chiêu trò cấu kết, dùng miệng lưỡi cùng thủ đoạn “mua bán lòng vòng” để tìm cách nâng giá của bọn gian thương nhằm lừa gạt những người dân quê nghèo khó và ít học. Bởi lẽ, trên thực tế không có một món hàng nào chúng thu gom của đồng bào ta được chuyển về xứ họ. Bọn gian thương ấy không chỉ lừa gạt những người dân nghèo ở Việt Nam mà ngay cả những người dân nghèo ở Trung Quốc cũng là nạn nhân của chúng.

Cũng có người lý giải sự việc này góc nhìn khác, thậm chí có cả một “thuyết âm mưu” cho rằng, những chiêu trò ấy về lâu dài nhằm phá hoại nền kinh tế nước Việt. Nhìn chung, dù ở góc độ nào thì những cách lý giải đều gặp nhau ở một điểm: nhắc nhớ mỗi người dân Việt hôm nay chớ quên bài học xương máu về sự lờ là, nhẹ dạ cả tin của nàng An Thị Mỵ Châu cách nay mấy ngàn năm. Khi ấy, chỉ vì tình cảm riêng tư với chàng Trọng Thủy mà nàng Mỵ Châu đã vô tình gây nên họa mất nước.

2. Công bằng và khách quan mà nói, không phải chuyện gì liên quan đến người Trung Quốc hôm nay cũng đều tệ hại, xấu xa để chúng ta lên tiếng dè bĩu, nghi kỵ, bài trừ, lên án…(và nếu tự soi lại mình thì không ít người Việt hôm nay chưa chắc đã tốt đẹp hơn họ). Tuy vậy, trong bối cảnh với vô vàn sự phức tạp và nhạy cảm của đất nước hôm nay, một sự thận trọng và tỉnh táo trong suy nghĩ và hành động để mỗi người Việt không tự biến mình thành những “nàng An Thị” thời hiện đại là vấn đề rất nên được nghiêm túc nhìn nhận. Nhưng, thiển nghĩ để làm được điều ấy, rất cần một sự trao đổi chân thành và thẳng thắn về một vài vấn đề có liên quan. Nói khác đi, nếu nhìn xa hơn, thì đây chính là câu chuyện lớn liên quan đến rất nhiều ban ngành, đoàn thể chính quyền các các cấp trong vấn đề quản lý người nước ngoài nhất là người Trung Quốc sang Việt Nam làm ăn, sinh sống và định cư từ nhiều năm qua.

Nói điều trên để thấy rằng, khi những người dân nghèo bị gian thương Trung Quốc lừa gạt đến nỗi “tiền mất tật mang” có người nói cũng tại dân mình tham lam quá nhưng nếu bình tâm nghĩ lại sẽ thấy dù sao những người dân nghèo ấy vẫn đáng thương hơn là đáng trách. Vì thực ra, người nghèo và ít học thì ở đâu cũng giống nhau ở một vài nét cơ bản nào đó. Thử hỏi trong hoàn cảnh mà cái bao tử lúc nào cũng sôi ùng ục lên vì đói thì làm sao họ có đủ thời gian để suy nghĩ sâu xa hay phân tích cặn kẽ những chiêu trò của bọn gian thương để từ chối những món hời trước mắt?

Không những vậy, theo lẽ thường, những thương lái Trung Quốc trước khi được tự do đi lại thoải mái đến tận các bản làng, thôn xóm nước Việt để thu mua những thứ “trời ơi đất hỡi” như thế nhất định phải hoàn thành các thủ tục tại các cửa khẩu hải quan. Cho dù có kẻ đã vào nước ta bằng đường “tiểu ngạch” đi nữa thì vẫn có cả một hệ thống chính quyền cùng rất nhiều các hội đoàn lớn nhỏ (như Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi, Đoàn thanh niên, Tổ dân phố, Tổ tự quản…) từ trung ương đến địa phương kia mà. Và như thế, câu hỏi trước hể phải đặt ra ở đây là tại sao giữa thanh thiên bạch nhật tại một thành phố lớn mà cả một dãy phố 1.500 mét vuông với hàng loạt ngôi nhà kiến trúc kiểu Trung Quốc được dựng lên trái phép trong nhiều tháng; hay tinh thần trách nhiệm và cảnh giác kiểu gì để một nhóm người khác núp bóng đi du lịch đến thuê cả một doanh nghiệp, thuê luôn ruộng lúa sắp thu hoạch của nông dân để trồng giống “Sen lạ” hay thả nuôi hàng trăm con Tôm hùm đỏ trong một thời gian dài mới bị phát hiện?

Những người dân nghèo vì ít học và nhất là vì miếng cơm manh áo nên vô tình tự biến mình thành những “nàng An Thị” hiện đại đã đành nhưng những người “có học” và nhất là đang giữ trọng trách trong bộ máy công quyền từ trên xuối dưới thì sao? Đây là những câu hỏi nhất định phải cần được trả lời trung thực và thỏa đáng từ những người có trách nhiệm trong vấn đề quản lý. Đặc biệt là với không ít trường hợp những người Trung Quốc đến Việt Nam với một tâm thế và hành tung rất đáng ngờ mà dư luận báo chí ít nhiều đã phản ánh trong thời gian qua.

3. Nàng An Thị Mỵ Châu năm xưa chỉ vì nghe theo “tiếng gọi của tình yêu”, “tiếng nói của con tim” nên đã bị chàng Trọng Thủy lừa đánh tráo Nỏ Thần đưa đến họa mất nước. Tuy vậy, ở phương diện nào đó, rất nên biết rằng những chuyện thuộc về “tiếng nói của con tim” trong nhiều trường hợp rất khó để đưa ra một kết luận đúng “đúng”, “sai” huống hồ đây vốn là âm mưu mà kẻ thù của cha nàng đã rắp tâm sắp đặt từ trước. Nhưng dù thế nào thì nàng An Thị Mỵ Châu cũng đã trả một cái giá rất đắt cho sự nhẹ dạ của nàng. Một cái chết không toàn thây bởi chính lưỡi gươm oan nghiệt của vua cha. Nhưng lẽ nào, suốt mấy ngàn năm qua, mỗi khi nhắc nhớ về bài học mất nước này chúng ta chỉ biết đổ hết lên đầu nàng trong khi đó người chịu trách nhiệm chính trong chuyện này là Thục Phán An Dương Vương cùng những cận thần của ông lại ít khi “đụng” đến? Hình như có gì đó sai sai trong việc diễn giải và tuyên truyền về câu chuyện này từ trước đến nay? Mối tình của nàng Mỵ Châu xưa kia phải chăng chính là tấm bình phong nhằm che đậy và lấp liếm cho nhưng sai lầm trong “ngoại giao” của Thục Phán An Dương Vương –rộng hơn là những người nắm trong tay vận mệnh quốc gia từ trước đến nay nhưng chưa bao giờ họ có đủ dũng khí để thừa nhận những sai lầm ấy. Cũng giống như giờ đây, những người dân ít học nghèo khó, quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, không bao giờ có cơ hội bàn chuyện quốc gia đại sự, nhưng lạ thay, lại được nhắc đến nhiều nhất về tinh thần cảnh giác. Ngoài ra, trong cái nhìn của không ít người, cái danh sách về những “thế lực thù địch” của dân tộc Việt Nam hôm nay lại dễ dàng bỏ qua dòng dõi, cháu con của những Triệu Đà, Triệu Trọng Thủy hiện nay? Phải chăng vì thế mới có chuyện các dự án lớn nhỏ – những “miếng ngon” nhất trên đất nước này bao giờ họ cũng được ưu ái giành phần trước nhất? Theo đà ấy, khắp các hang cùng ngỏ hẻm của dãy đất chữ S hôm nay chẳng có nơi nào mà họ không đặt chân lên trong tư thế của những kẻ “mạnh vì gạo, bạo vì tiền” cùng với đó là thái dộ ngạo mạn, nghênh ngang và bất chấp?

4. Nói cho cùng, đã là con người không ai trong đời không một lần vướng vào cái “cạm bẫy ái tình” như nàng An Thị Mỵ Châu năm xưa. Nhưng dù thế nào thì những người vướng vào cái bẫy tình ái như vậy vẫn đáng được cảm thông hơn những kẻ không vượt qua được cái cạm bẫy về tiền bạc, địa vị và danh vọng!? Phải chăng, bài học về sự cảnh giác trước kẻ thù của nàng An Thị ngàn năm trước rất nên được nhìn nhận lại đặc biệt là phải làm sao phù hợp tinh thần và bối cảnh của thời đại hôm nay: những “nàng An Thị” thời hiện đại vì tiền tài, danh vọng và quyền lực của phe nhóm và bản thân mình đã đan tâm bán rẻ dân tộc, quốc gia một cách tinh vi, hèn hạ nhất?

CT, 15/3/2017

Nguyễn Trọng Bình

—————

Nguồn tham khảo:

– Tony Buổi Sáng – “Chuyện nàng An Thị” (in trong sách “Cà phê cùng Tony”). Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2014.

“Khu phố” 1.500m2 không phép xây bí mật trong nhà kho ở Đà Nẵng”. Xem tại: http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/khu-pho-1-500m2-khong-phep-xay-bi-mat-trong-nha-kho-o-da-nang-3553595.html

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 15-3-17

Vũ Quang Thuận & Mặt Trận Truyền Thông – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

  Vũ Quang Thuận & Mặt Trận Truyền Thông –

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

“Một đêm Vũ Thư Hiên ngủ ở nhà tôi. Sáng hôm sau, tung chăn dậy, nhìn ra cửa sổ, nghe tiếng loa từ Ngã Sáu vọng vào, Hiên nhíu mày bảo:

– Hình như tao đã gặp buổi sáng như thế này ở đâu rồi.

Đúng là tiếng loa đã có từ lâu lắm rồi. Nó đã ngấm vào máu thịt, như là tiền kiếp vậy. Bao nhiêu năm chúng tôi đã nghe những bản nhạc hiệu ấy, những giọng nói đanh thép mở đầu ấy và cả những giọng điệu trong nội dung người viết người đọc nữa. Nó đã biến thành một phần của chúng tôi.” (Bùi Ngọc Tấn. Viết Về Bè Bạn. Hà Nội: Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 2012).

Cứ nghe ra rả cả ngày lẫn đêm (đảng ta, nhà nước ta, xã hội ta, nhân dân ta, quốc hội ta, bộ đội ta, sứ quán ta, người phát ngôn của bộ ngoại giao ta…) suốt “bao nhiêu năm” nên “nó biến thành một phần của chúng tôi” là … phải. Tất nhiên, đây không phải là chuyện ngẫu nhiên hoặc tình cờ – theo nhận xét của nhà bình luận La Thành:

“Trải qua nhiều chục năm thực hành và thực hành rất thành công, ngành tuyên truyền của Đảng Cộng sản đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp và tinh vi vượt xa mọi lĩnh vực còn lại của thực tiễn cầm quyền. Để thí dụ, trong khi đã cân nhắc loại bỏ đi các thuật ngữ ‘nguỵ quyền’, ‘nguỵ quân’ trong sách giáo khoa lịch sử, các sử gia của chế độ vẫn tiếp tục sử dụng các thuật ngữ ‘Đảng ta’, ‘Nhà nước ta’, ‘quân và dân ta’, v.v. với dụng ý đánh đồng các thành phần trong hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản với toàn thể quốc dân và xã hội – một phép nguỵ biện về lô-gích và một sự trâng tráo về hành xử.”

Tuy “trâng tráo” nhưng hiệu quả. Nạn nhân của cách tuyên truyền lì lợm và thô bạo này, với thời gian, có thể biến thành … thủ phạm (dễ) như chơi. Thử nghe đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, trưởng nam của thi sĩ Thế Lữ, nói về bằng hữu của thân phụ ông (trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn) nha:

  • Ta ngặt lắm… Khái Hưng là ta… thịt mà. Bác Tam không trốn kịp thì cũng bị.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù IIWestminster, CA: Người Việt, 2014).

Cũng trong tác phẩm thượng dẫn, chương 44, tác giả viết tiếp:

  • .. Nguyễn Sinh, xưa phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói … anh đã chứng kiến những người ở phía bên Nam kiabị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi lại thấy mọi người lạnh mặt lại.”

Ta thịt người này, ta chôn sống kẻ khác … nhưng chả ai áy náy hay phải chịu trách nhiệm gì ráo trọi về những việc làm tàn bạo đến độ vô nhân tính như thế vì đây là sự tàn ác của cả tập thể mà. Vô số người dân Việt đã vô tình dùng chung căn cước với Đảng CSVN (cái tập đoàn hiếu sát, hiếu chiến, bất nhân, tham lam, ác độc, giảo hoạt …) một cách hết sức hồn nhiên và vô tư: Đảng ta, nhà nước ta, quốc hội ta, bộ đội ta, sứ quán ta, người phát ngôn của bộ ngoại giao ta … Cũng không ít kẻ hễ mở miệng ra là cũng ba hoa (“ta/ta”) cứ y như loa đài của Nhà Nước vậy.

Dù vậy, Nhà Nước vẫn chưa yên tâm nên cả hệ thống truyền thông – gần trăm năm qua – luôn luôn nhắc nhở cho mọi người nhớ “con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã chọn!” Kiểu đánh đồng rất mất dậy và vô cùng trắng trợn này, tuy thế, hầu như đã không gặp phải bất cứ một sự chống đối công khai nào ráo.

Mãi cho đến đầu thế kỷ XXI, vào hôm 24 tháng 7 năm 2016, mới có một công dân Việt Nam – Trần Thị Thảo – đứng giữa phố phường, nói rõ (và nói to, to hơn cả tiếng loa phường) rằng mình hoàn toàn và tuyệt đối không có liên hệ chi với với tập đoàn lãnh đạo của chế độ hiện hành: “Tiên sư cha chúng mày chứ! Lịch sử sẽ lên án chúng mày, cả một chế độ thối nát, từ trên xuống dưới!

Vài tuần sau nữa, vào ngày 17 tháng 9, trong một cuộc phỏng vấn dành cho biên tập viên Mặc Lâm (RFA) giáo sư Tương Lai cho biết thêm là cái “chế độ thối nát” mà bà Trần Thị Thảo vừa đề cập đến (theo thứ tự từ dưới lên trên) gồm những “thằng” sau:

Từ ông thôn ông ấy bảo thằng xã nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng xã bảo thằng huyện nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng huyện bảo thằng tỉnh nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng tỉnh bảo Bộ chính trị nó còn ăn, thằng Tổng bí thư nó còn ăn tại sao tao không ăn…

Giáo sư Tương Lai thản nhiên gọi TBT của Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh bằng “thằng” khiến không ít người phải lấy làm ái ngại. Họ quan ngại rằng (cũng như bà Trần Thị Thảo) ông đã đi hơi xa trong việc biện biệt giữa “chúng ta” và “chúng nó.”

Nỗi lo ngại chính đáng này (bỗng) trở thành viển vông khi một công dân Việt Nam khác, ông Vũ Quang Thuận, đột nhiên xuất hiện như một “dàn đại bác” – theo lời tiên tri của blogger Bà Đầm Xoè:

Với tôi, dù Vũ Quang Thuận là ai thì sự lên tiếng của anh có giá trị khai sáng rất cao cho dân trí Việt Nam. Nó đã như một dàn đại bác liên tục nả vào đầu giới chóp bu cộng sản Việt Nam không trừ một ai, kể cả “linh hồn bất khả xâm phạm” Hồ Chí Minh. Với tôi, những gì Vũ Quang Thuận đã “bắn ra” đã đưa anh vào thế anh có thể biến mất bất kỳ lúc nào trước họng súng của chế độ CSVN đã bủa vây anh từ bốn phía.”

Vũ Quang Thuận. Ảnh: youtube

Quả nhiên, Vũ Quang Thuận và thân hữu của ông trong Phong Trào Chấn Hưng Nước Việt đã bị bắt giam vào hôm 3 tháng 3 năm 2017 vừa qua. Theo blogger Huỳnh Ngọc Chênh  thì “việc bắt giữ hai công dân Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển là vi phạm nhân quyền, là dùng biện pháp bạo lực để dập tắt và chà đạp lên quyền tự do ngôn luận của công dân.” Ông bạn đồng nghiệp của tôi nói không sai nhưng e chỉ đúng  phân nửa mà thôi.

Quả thực là nhà đương cuộc Hà Nội đã “dùng bạo lực chà đạp lên quyền tự do ngôn luận của công dân” nhưng “dập tắt” được công luận thì vô phương, hay nói chính xác hơn là vô vọng. Trên mặt trận truyền thông, ĐCSVN đang phải đối mặt với một cuộc chiến tranh nhân dân mà Vũ Quang Thuận (và Nguyễn Văn Điển) chỉ là hai cảm tử quân ở tuyến đầu thôi!

Dân vây bắt một nghi can xâm hại bé gái 4 tuổi

Dân vây bắt một nghi can xâm hại bé gái 4 tuổi

14/03/2017 

TTO – Ngay khi phát hiện vụ việc, nhiều người dân địa phương đã lập tức tổ chức vây bắt, đồng thời thông báo cho lực lượng công an địa phương.

​Sự việc xảy ra vào khoảng 20g ngày 13-3, tại khu vực xóm Tân Trào, xã Minh Đài, huyện Tân Sơn, Phú Thọ. Nạn nhân là một bé gái 4 tuổi trú ở xã Minh Đài.

Thông tin ban đầu vào khoảng thời gian trên bé gái tên T. đi cùng mẹ đến sân đánh bóng chuyền sau đó bị ông H., người cùng xã đưa ra khu vực sân sau nhà văn hóa để giở trò đồi bại.

Ngay sau đó nhiều người dân địa phương phát hiện nên đã tổ chức vây bắt, đồng thời thông báo cho lực lượng công an địa phương.

Tối 14-3 trao đổi với báo chí lãnh đạo xã Minh Đài cho biết sau khi sự việc xảy ra cháu bé đã được đưa lên Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ để kiểm tra sức khỏe, giám định vùng kín.

Ông H. bị cơ quan chức năng điều tra.

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng.

From facebook:  Hoang Le Thanh added 3 new photos — with Phan Thị Hồng and 5 others.
MỘT PHÓNG VIÊN NGƯỜI ĐỨC VIẾT VỀ VIỆT NAM

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng.

Tác giả: Uwe Siemon-Netto (Đức quốc).

– “Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa.

– “Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra”.
Uwe Siemon-Netto.

Cuốn sách Đức: “A reporter’s love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết “foreword” và endorsements.

Bản dịch cũng đã xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu đoạn kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn cùng với người Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê hương khốn khổ của chúng ta:

Đoạn kết

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng

Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng.”

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.

Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất.

Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt.

Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng.” Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?

Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?

Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân.”

Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.

Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.

Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?

Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Sưllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?

Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội?

Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?

Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ.

Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).

Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!”

Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi… cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố.”

Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.

Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:

Khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.

Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.

Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử.

Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.

Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

Ảnh 1: Tháng Tư gợi lại cho hàng triệu người cảnh hoảng loạn tại miền Nam, nhiều gia đình ly tán, dòng người đổ ra biển trong những tháng, năm sau đó lên tới cả triệu. Hàng trăm ngàn người làm mồi cho cá.

Ảnh 2: Theo Wikipedia: “Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Riêng ở Sài Gòn có 443.360 người ra trình diện, trong số đó có 28 viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người trong các đảng phái “phản động”.

Theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard (Hoa Kỳ) dẫn đầu: Có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn.

Ảnh 3: Xe tăng cộng sản chiếm Dinh Độc Lập vào lúc 11g30 sáng ngày 30/4/1975. Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: one or more people, crowd and outdoor
Image may contain: outdoor

Hệ thống pháp quyền Việt Nam hiện nay

Hệ thống pháp quyền Việt Nam hiện nay

Cát Linh, phóng viên RFA
2017-03-14
Hình ảnh công an tấn công phụ nữ được lan truyền trên mạng xã hội.

Hình ảnh công an tấn công phụ nữ được lan truyền trên mạng xã hội.

Photo: facebook
Những ngày vừa qua, hai tấm ảnh được lan truyền mạnh trên mạng xã hội, cho thấy cảnh một một phụ nữ trong tư thế một tay bị khoá vào khung cửa sổ, gương mặt biểu lộ sự đau đớn vì bị một người mặc sắc phục công an không rõ mặt đạp một chân vào vai, tay ghì chặt cổ.

Vì sao dư luận phản ứng mạnh mẽ về một tấm ảnh truyền trên mạng xã hội?

Hình ảnh đó có liên quan đến những cái chết gần đây được cho là “tự tử trong đồn công an” hoặc những bản án oan sai hay không?

Photoshop hay không photoshop?

Bất kỳ ai nhìn thoáng qua hai tấm ảnh cũng có chung một nhận định, đó là người phụ nữ trong hình đang bị tra tấn và đang chịu đau đớn qua những biểu lộ trên gương mặt.

Như đã nói ở trên, hai tấm ảnh này được lan truyền qua các trang mạng xã hội. Nguồn gốc người gửi ảnh không được nêu ra. Sau đó, cư dân mạng xã hội nhanh chóng đưa ra thông tin người mặc sắc phục công an trong tấm ảnh là một cảnh sát viên công tác tại huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Cũng từ nguồn tin của mạng xã hội, hình ảnh cả khuôn mặt lẫn lúc hành hung hung tra tấn người phụ nữ đều được chụp tại trụ sở Công An Huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Chúng tôi cố gắng liên lạc với trụ sở này nhưng người trực điện thoại từ chối tiếp chuyện.

Tuy đối tượng cũng như sự việc trong hai tấm ảnh chưa được làm rõ, nhưng những người từng bị bắt/mời về đồn công an đều cho rằng họ tin những gì diễn ra trong tấm ảnh trên là hoàn toàn có khả năng xảy ra.

Chị Thu Nguyệt, người từng bị bắt về Trung tâm bảo trợ xã hội khi chị tham gia cuộc biểu tình ngày 5 tháng 6 năm 2016 kể lại sự việc xảy ra trong thời gian ba ngày chị bị bắt giữ.

Hai tấm ảnh đó mình nghĩ là có thật. Mình đi trong con đường này mình thấy công an thật sự có đánh người chứ không phải là không.
– Chị Thu Nguyệt

“Tôi không thể nào vùng vẫy được. Đến 6 người, 2 người mặc sắc phục và 4 người mặc thường phục. Họ bật ngửa tôi ra, đè tay chân tôi, giữ tôi, lục trong người tôi để lấy điện thoại của tôi.”

Do đó, chị nói rằng chị tin những gì chị thấy trên hai tấm ảnh đó là có thật.

“Hai tấm ảnh đó mình nghĩ là có thật. Mình đi trong con đường này mình thấy công an thật sự có đánh người chứ không phải là không. Có nghĩa là những người dân họ chưa hiểu luật, chỉ là một người dân đen rồi bị bắt vì một vấn đề gì đó, rồi “nó” trù dập và đánh khi cãi lại. Có chứ không phải là không có.”

Bùi Vĩnh, một bạn trẻ sống ở Lâm Đồng, từng bị công an  huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng bắt về đồn năm 2011 kể lại qua email với chúng tôi.

“Lúc 12 giờ đêm công an xuống còng tay em về đồn. Em mới bước xuống xe là có ông mặc sắc phục tát em mấy bạt tai sau đó người ta nhốt em cả đêm.”

Chính vì đã gặp phải trường hợp như thế nên Bùi Vĩnh tin rằng hai tấm ảnh đang gây bức xúc trong dư luận là có thật.

“Bản thân em bị rồi nên em dám khẳng định 2 tấn hình đang lan truyền trên mạng không phải photoshop mà đó là sự thật.”

Đó là những nhận định của người dân từng ít nhất một lần bị bắt về đồn công an. Còn đối với những người làm luật như Luật sư Ngô Ngọc Trai, ông cho biết không phải ngẫu nhiên mà người dân bức xúc hoặc hồ nghi. Ông cho biết ý kiến sau nhiều lần tận mắt chứng kiến.

“Việc người dân bị bắt vào đồn, bị đánh là có. Bị đánh đập trong đồn công an là có. Tôi tận mắt chứng kiến rồi. Cũng như nhiều trường hợp trao đổi với luật sư cho biết là đã bị đánh đập.”

Tuy nhiên, ông cũng đưa ra lời khuyên trên cương vị của người hành pháp.

“Phải thận trọng đánh giá hai bức ảnh ấy có phản ánh trung thực chính xác hay không? Dù sao thì nó cũng phản ánh thực tế trong đời sống, là cái có thật.”

Nếu tấm ảnh có thật…

Theo lời kể lại của những người đấu tranh từng bị bị bắt bị đánh ở đồn công an, thì tấm ảnh trên chỉ là một phần nhỏ trong thực trạng xã hội hiện tại. Nếu những gì mọi người thấy trong bức hình ấy là có thật thì có thể thấy rằng quyền hạn của một lực lượng thực thi pháp luật ở Việt Nam vô cùng to lớn. Người mặc sắc phục công an hoàn toàn có quyền xâm phạm lên cơ thể của người công dân, và cuối cùng một bản án, hay một cái chết được cho là “tự tử”.

Phải kể đến những vụ án chấn động dư luận trong vài năm qua. Đó là vụ án ông Hàn Đức Long, 57 tuổi, từng 4 lần bị các tòa ở Việt Nam tuyên án tử hình với các cáo buộc giết người, hiếp dâm trẻ em. Cuối tháng 12 năm 2016, ông được tha sau 11 năm tù oan.

Bản thân em bị rồi nên em dám khẳng định 2 tấn hình đang lan truyền trên mạng không phải photoshop mà đó là sự thật.
– Bùi Vĩnh

Đó là vụ người tù thế kỷ Huỳnh Văn Nén, bị tù hơn 17 năm về hai bản án giết người mà ông không hề liên quan. Ông được trả tự do hồi đầu tháng 12 năm ngoái, sau khi cơ quan điều tra xác nhận ông không phải là thủ phạm của cả hai vụ án.

Luật sư Ngô Ngọc Trai, người tham gia bào chữa cho vụ án Hàn Đức Long cho biết việc một người đã bốn lần bị kêu án tử và ngồi tù suốt 11 năm bất ngờ được trả tự do là liên quan đến rất nhiều vấn đề, trong đó có cả hệ thống cơ quan pháp lý. Đặc biệt, ông nhấn mạnh đến nguyên nhân 11 năm tù của ông Huỳnh Văn Nén.

“Cái vụ đấy, tình trạng bức cung nhục hình tôi cũng nói nhiều rồi. Ông Hàn Đức Long đã được trả tự do và minh oan xin lỗi, thì rõ ràng ông ấy bị oan sai. Tại sao trước đây ông ấy nhận tội cũng như tự viết đơn nhận tội thì ông ấy có nói là nhiều lần bị đánh đập và bị bắt ép viết đơn nhận tội.”

000_D28R1-400.jpg
Nhà hoạt động Lã Việt Dũng bị côn đồ đánh sau khi tham gia một trận bóng của đội bóng No-U tại Hà Nội hôm 10/7/2016. AFP photo

Bùi Vĩnh, thanh niên bị bắt về đồn công an Lâm Đồng năm 2011 kể lại anh đã bị đánh đập để ép nhận tội như thế nào.

“Sáng hôm sau là điều tra viên hỏi cung có cầm dùi cui đập vào tay nói em nhận tội đồng lõa với thằng trộm xe. Trong khi hỏi người ta tìm mọi cách hù dọa bắt ép em nhận nhưng em nhất quyết không nhận. Công an còn lấy dùi cui điện chích vào người để ép em nhận.”

“Hầu như ai bị tình nghi là tội phạm đều bị ép để nhận tội bằng cách tra tấn rất dã man.”

Trong những diễn tiến khác là hàng loạt những cái chết được cho là “tự tử” trong đồn công an.

Vụ việc mới nhất là ngày 6 tháng 2 vừa qua, một người tên Nguyễn Thành Ngôn được trưởng công an xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An thông báo đã tự tử bằng dây giày sau khi người này được mời về trụ sở để làm việc.

Qua những thực tế của chính bản thân mình, bà Thu Nguyệt hoàn toàn phản đối việc chính quyền cho rằng đó là những cái chết do tự tử.

“Đây hoàn toàn là bịa đặt nói là người ta tự tử trong tù. Tôi nghĩ có những bàn tay muốn bịt miệng những người đó để họ không nói ra bên ngoài được.”

Không thể tố cáo

Theo hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam, tra tấn, dùng nhục hình, ép cung nhận tội không được xem là biện pháp nghiệp vụ, trái với luật pháp. Thế nhưng, cho dù người dân dám đứng ra tố cáo, hay bằng cách nói thẳng với luật sư như luật sư Ngô Ngọc Trai từng chia sẻ, thì hy vọng đòi lại công bằng cũng khó được thực hiện, bởi chính sự bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam.

“Trong phạm vi tố tụng giải quyết vụ án hình sự thì người ta không giải quyết việc tố cáo ấy. Hoặc cơ quan giải quyết tố cáo ấy cũng chính là cơ quan để xảy ra những việc như vậy. Đối với những người sau khi bị bắt về đồn bị đánh đập rồi được trả ra ngoài thì người ta vẫn khiếu nại tố cáo. Nhưng thực tế cơ quan tố cáo cũng chính là cơ quan để xảy ra sự việc.”

Đối với những người sau khi bị bắt về đồn bị đánh đập rồi được trả ra ngoài thì người ta vẫn khiếu nại tố cáo. Nhưng thực tế cơ quan tố cáo cũng chính là cơ quan để xảy ra sự việc.
– Luật sư Ngô Ngọc Trai

Một nhận định khác từ Trịnh Bá Tư, con trai của bà Cấn Thị Thêu, một dân oan Dương Nội đang chịu án 20 tháng tù giam vì đấu tranh đòi quyền lợi cho người nông dân bị mất đất, từng bị bắt vào đồn công an và bị đánh đập nhiều lần trong cuộc đấu tranh chống cưỡng chế đất.

“Với những gì mà gia đình và bản thân tôi đã trả qua thì tôi thấy hiện nay rất nhiều công an coi thường sức khoẻ và tính mạng của người dân khi họ ra tay đánh đập người dân. Rất nhiều người biểu tình ôn hoà bị công an đánh đập. Những hình ảnh đấy đều được người dân ghi lại. Tuy nhiên những viên công an ấy không bị xử lý theo đúng pháp luật vì hiện nay họ đang được bao che bởi một chế độ cộng sản độc tài, công an trị.”

Chính quyền phải làm gì?

Trước những thực trạng được xác nhận là có thật, luật sư Ngô Ngọc Trai đề nghị sự sửa đổi từ chính cơ quan chức năng là Bộ Công an.

“Cơ quan chức năng ở đây là Bộ Công an cần phải nghiêm túc nhận diện được vấn đề nghiêm trọng và có những chính sách chấn chỉnh các biện pháp nghiệp vụ, hạn chế tình trạng bạo hành bạo quyền của các đơn vị công an đi.Để tồn tại như thế làm mất đi sự tín nhiệm và sự công minh của cơ quan công quyền.”

Bên cạnh đó, theo ông, các tổ chức xã hội dân sự, người dân, phóng viên báo chí, truyền thông xã hội cần phải phản ánh mạnh mẽ hơn các tệ trạng trong hoạt động của cơ quan công quyền, tạo áp lực cho cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm và chấn chỉnh.

Liên tiếp hai bé gái ở Phú Thọ, Bắc Giang bị xâm hại

Liên tiếp hai bé gái ở Phú Thọ, Bắc Giang bị xâm hại

Trong lúc đi xem bóng chuyền cùng mẹ, bé gái 4 tuổi bị ‘yêu râu xanh’ ngoài 50 tuổi dụ ra sân sau. 

Lãnh đạo UBND xã Minh Đài (Tân Sơn, Phú Thọ) xác nhận vụ việc xảy ra khoảng 20h ngày 13/3. Bé gái 4 tuổi khi cùng mẹ đến xem đánh bóng chuyền ở khu vực nhà văn hóa xóm đã bị một người đàn ông cùng thôn (ngoài 50 tuổi) đưa ra sân sau và giở trò đồi bại.

Mọi người phát hiện vụ việc và báo cảnh sát bắt người đàn ông ngay sau đó. Vụ việc được chuyển giao Công an huyện Tân Sơn tiếp tục điều tra.

Tại Bắc Giang, Công an huyện Tân Yên cũng đang tạm giữ Dương Minh Quân (49 tuổi) để điều tra hành vi hiếp dâm trẻ em. Trước đó, ngày 12/3, lợi dụng bé gái 12 tuổi (cùng địa phương) bị thiểu năng trí tuệ, Quân đã dụ dỗ và giở trò đồi bại. Phát hiện vụ việc, gia đình bé gái làm đơn tố giác gửi công an.

Được sự vận động của gia đình, Quân ra đầu thú. Người đàn ông này đã ly dị, có 3 con.

– Ngày 13/3, Công an Hà Nội khởi tố điều tra vụ việc bé 8 tuổi nghi bị người hàng xóm nhiều lần xâm hại.

– Chủ tịch nước mới đây cũng yêu cầu cơ quan công an làm rõ việc nhiều gia đình ở một chung cư tại Vũng Tàu tố cáo con gái còn nhỏ của họ bị một ông lão xâm hại.

Theo Phạm Dự/Vnexpress.net

Muốn Thoát Trung dứt khoát phải Thoát Cộng

Nguồn facebook: Cầu Hiền Lương shared Nguyễn Quang Duy‘s post.
Image may contain: 1 person, text
Nguyễn Quang DuyFollow

Muốn Thoát Trung dứt khoát phải Thoát Cộng

“Hành động trấn áp những người tưởng niệm các chiến sĩ trận vong trong hải chiến Gạc Ma 1988 hôm nay một lần nữa xác nhận bộ mặt bán nước của chế độ cộng sản toàn trị. Tiến trình Hán hóa giới lãnh đạo cộng sản VN nghiêm trọng hơn chúng ta có thể tưởng tượng.
Có thể khẳng định rằng mô hình phát triển kinh tế-xã hội của Trung Cộng chưa bao giờ là khuôn mẫu của thế giới văn minh, bất kể họ đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể.

Dân tộc Việt Nam vì vậy dứt khoát phải Thoát Trung. Đó là chiến lược phải thực hiện ngay nếu muốn dân chủ hoá và hiện đại hoá đất nước và, quan trọng nhất, không để dân tộc quay lại con đường ngàn năm Bắc thuộc lần nữa.

Muốn Thoát Trung, phải Thoát Cộng, bởi lẽ ĐCSVN từ sau 1941 đã là một tổ chức tay sai của Trung Cộng (tuy có giai đoạn ngắn xảy ra bất đồng giữa đôi bên do sự can dự của Liên Sô).
Muốn Thoát Cộng phải làm sao? Ai đã dẫn dắt ĐCSVN vào con đường thần phục Trung Cộng một cách tuyệt đối như vậy?
AI?” (LS Lê Công Định)

Nguồn Đinh Tấn Lực

Dự án bauxite-nhôm Lâm Đồng lỗ 3.700 tỷ đồng

Dự án bauxite-nhôm Lâm Đồng lỗ 3.700 tỷ đồng

Công trường dự án bauxite khi còn đang xây dựng
Bản quyền hình ảnhAFP
Công trường dự án bauxite khi còn đang xây dựng

Kết quả thanh tra cho biết dự án bauxite-nhôm Lâm Đồng thực hiện chậm và không hiệu quả, trong ba năm lỗ gần 3.700 tỷ đồng.

Theo báo Người Lao Động, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) vừa bị thanh tra nhiều nội dung về hoạt động kinh doanh, đầu tư.

“Các kết quả thanh tra tại Tổ hợp dự án bauxite-nhôm Lâm Đồng và dự án aluminNhân Cơ cho thấy trong thời gian đầu, các dự án này hoạt động chưa hiệu quả, vốn đầu tư tăng quá cao so với dự kiến…”

Sau bốn lần điều chỉnh, tổng mức đầu tư cho dự án này đã tăng lên tới 15.414,4 tỷ đồng (tương đương 805 triệu USD), gần gấp hai lần vốn đầu tư dự kiến ban đầu là là 7.787,5 tỷ đồng (khoảng 493,5 triệu USD).

Kết quả thanh tra cũng cho thấy Tổ hợp bauxite-nhôm Lâm Đồng sau ba năm đi vào hoạt động (tháng 10/2013 – tháng 9/2016) đã thua lỗ 3.696 tỷ đồng. Trong đó, lỗ do hoạt động sản xuất, kinh doanh là 2.520 tỷ đồng và lỗ do chênh lệch tỷ giá khoảng 1.176 tỷ đồng.

Tuy nhiên đoàn thanh tra đánh giá năm 2017, dự án này sẽ hết lỗ.

Thời gian thực hiện dự án bauxite-nhôm Lâm Đồng chậm so với dự kiến là bốn năm.

Trong khi đó, dự án alumin Nhân Cơ được nói thực hiện chậm sáu năm so với quyết định ban đầu. Dự án Nhân Cơ bị đội vốn đầu tư gấp 5 lần và xảy ra sự cố vỡ đường ống dẫn sút nghiêm trọng hồi tháng 7/2016.

Các dự án bauxite và alumin nói trên đã gặp nhiều chỉ trích khi mới xây dựng, nhưng người làm thủ tướng lúc đó là ông Nguyễn Tấn Dũng đã nói việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên là ‘chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước’.

Ngày 1/11/2007, ông Dũng đã ký quyết định 167 phê duyệt quy hoạch phân vùng, thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bauxite giai đoạn 2007-2015 cho dù có cảnh báo các dự án này “làm đâu lỗ đấy và không có lợi gì cho đất nước”.

Hai quan ngại lớn là về môi trường và hiệu quả kinh tế.

Quan ngại thứ ba với câu hỏi được đặt lên sự tham gia của các công ty Trung Quốc, thậm chí có nghi vấn TKV “sập bẫy” nhà thầu Trung Quốc.

Thảm trạng xâm hại tình dục trẻ em tại nước CHXHCNVN

Thảm trạng xâm hại tình dục trẻ em tại nước CHXHCNVN

Danlambao – Thảm trạng này là kết quả không thể tránh khỏi của một nền giáo dục không chú trọng vào việc xây dựng đức tính nhân bản, một nền văn hóa bị hủy hoại bởi hệ thống vô thần cộng sản, một guồng máy chính trị suy tôn đạo đức dựa vào hành vi của một lãnh tụ đạo đức giả.
Theo báo cáo của Cục Cảnh sát hình sự – Bộ Công an được đăng trên Tạp chí Cộng sản (1): “Chỉ trong 3 năm (2005-2007), cả nước đã xảy ra 5.070 vụ án xâm hại trẻ em, đưa tổng số số trẻ bị xâm hại lên tới 5.188 người, trong đó, 1.656 là trẻ nam và 3.532 trẻ nữ. Lực lượng công an đã bắt giữ và xử lý 6.215 đối tượng có hành vi xâm hại trẻ em. Trong tổng số vụ xâm hại trẻ em nói trên có tới 56,3% là án xâm hại tình dục trẻ em, trong đó, số vụ hiếp dâm chiếm 65,5%.”

Trong 3 năm 2005-2007, theo báo cáo này, số vụ xâm hại, bạo lực trẻ em trong gia đình đã tăng gấp 3 lần, số vụ xâm hại trẻ em ở nơi công cộng tăng 7 lần, xâm hại trẻ em ở trường học tăng 13 lần.

Trong buổi hội thảo của Học viện CSND vào ngày 17/04/2015 những con số lại được đưa ra:

Năm 2010 đã xảy ra 867 vụ, 923 đối tượng; năm 2011 xảy ra 940 vụ, 1.025 đối tượng; năm 2012 xảy ra 1.209 vụ, 1.278 đối tượng; năm 2013 xảy ra 1.326 vụ, 1.407 đối tượng. Năm 2014, phát hiện 1.885 vụ xâm hại trẻ em, gồm 2.073 đối tượng gây án. Có 1.931 trẻ em bị xâm hại (281 nam và 1.650 nữ), (2)

Đó là những con số của chuỗi dài 10 năm. Với đà tăng tốc như thế thì vào năm 2017 sẽ có bao nhiêu trẻ thơ bị xâm phạm tình dục?

Và đó chỉ là những con số được ra ngoài ánh sáng – được gọi là “phát hiện”. Một mảng tối lớn gấp trăm lần là những vụ xâm hại tình dục trẻ em đã không được phát hiện hay bị giấu nhẹm vì nhiều lý do khác nhau. Con số trẻ em nam chắc chắn còn cao rất nhiều vì tình trạng bi thảm của các em lại bị chính các bậc phụ huynh giấu giếm nhiều hơn.

Theo bài viết “Thực trạng về tình hình xét xử các vụ xâm hại trẻ em trong năm 2009-2010 của ngành Tòa án nhân dân” (3) thì: từ 01/01/2009 đến 30/9/2010, toàn ngành Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm 1.921 vụ án với 2.206 bị cáo. Trong số bị xét xử này, 10 phạm nhân bị kết án tù chung thân và tử hình; 5 bị cáo bị kết án từ 20 năm đến 30 năm tù, 154 thủ phạm bị tuyên án 15 năm đến 20 năm, 7 năm đến 15 năm tù có 569 bị cáo và dưới 7 năm có 1207 tội phạm.

Tuy nhiên, con số trẻ em bị xâm hại tình dục vẫn ngày càng gia tăng.

Có nhiều trường hợp đã bị cho chìm xuồng. Nổi bật là Vụ án Nguyễn Khắc Thủy, 76 tuổi, cựu Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Vũng Tàu đã xâm hại tình dục với 9 bé gái, có cháu mới 6 tuổi. Trường hợp khác là thủ phạm ấu dâm Cao Mạnh Hùng, cháu của cán bộ cao cấp tỉnh Thái Bình, là ông Nguyễn Hồng Diên, bạn thân với Bộ trưởng Công an Tô Lâm. Gần đây là vụ nhà trường đã khai gian và bao che cho giáo viên Nguyễn Thanh Đông đã ấu dâm bé gái 7 tuổi học lớp 1.

Do đó, thảm trạng xâm hại trẻ em vẫn tiếp diễn.

Vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới. Việt Nam không là ngoại lệ. Nhưng chiều hướng tội ác tại Việt Nam càng ngày càng tăng tốc.

Yếu tố đầu tiên là nền giáo dục đào tạo con người như thế nào. Bên cạnh sự giáo dục, đời sống tâm linh của một người được phát triển ra sao để tin vào sự phán xét của một đấng tối cao đối với những hành vi của mình mà có thể không ai biết. Đời sống tâm linh đó đã và vẫn đang bị thui chột bởi chủ nghĩa vô thần đè nặng lên những thế hệ sinh ra và lớn lên dưới chủ nghĩa đó. Và bài học, biểu tượng về đạo đức mà các thế hệ Việt Nam từ lúc sinh ra và trưởng thành là ai. Lại là Hồ Chí Minh, một kẻ hoang dâm, lừa đảo, đạo đức giả mà ngày nay thông tin mở đã soi rọi tất cả những mảng tối bị đảng giấu giếm của ông ta.

Những nỗ lực giáo dục trẻ em phòng ngừa bị xâm phạm, các bậc phụ huynh cần phải làm gì, sự tranh đấu của các tổ chức xã hội dân sự… đều rất cần thiết và cần phát huy nhiều hơn. Nhưng chúng ta cũng cần nhận thức được cốt lõi của vấn nạn Việt Nam: Thảm trạng xâm hại tình dục trẻ em tại nước CHXHCNVN cũng giống như nhiều thảm trạng khác; nó không thể giải quyết rốt ráo được, cũng khó mà chặn đứng sự tăng tốc của nó khi mọi lãnh vực từ giáo dục, truyền thông, văn hoá, luật pháp… đều bị thống trị bởi một guồng máy cai trị mục rã về đạo đức và tình người.

14.03.2017

Danlambao

danlambaovn.blogspot.com_

Chú thích:

(1) http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=8403&print=true

(2) http://cand.com.vn/thoi-su/Nam-2014-co-hon-1-500-vu-xam-hai-tinh-duc-tre-em-tai-Viet-Nam-348182/

(3) http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=5735871

Nhiều người bị đánh đập khi tưởng niệm tử sĩ Gạc Ma

Nhiều người bị đánh đập khi tưởng niệm tử sĩ Gạc Ma

2017-03-14
Nguyễn Viết Dũng và Đỗ Thanh Vân bị đánh.

Nguyễn Viết Dũng và Đỗ Thanh Vân bị đánh.

Hình: facebook
Tại Hà Nội hôm nay diễn ra cuộc đàn áp, bắt bớ và đánh đập những người tham gia thắp nhang tưởng niệm 64 tử sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến Gạc Ma 29 năm trước, 14 tháng 3 năm 1988.

Tin tức được truyền đi khắp các trang mạng xã hội bởi những người tham gia tưởng niệm cho thấy một số người như nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, blogger Nguyễn Thuý Hạnh, blogger Đặng Bích Phượng bị bắt ngay sau khi đến dâng hoa và thắp nhang tưởng niệm tử sĩ Gạc Mac tại đài Cảm Tử. Những người này được thả ra sau đó.

Trong một diễn biến khác, hai bạn trẻ là Nguyễn Viết Dũng, còn có tên là Dũng Phi Hổ và Đỗ Thanh Vân sau khi tham gia tưởng niệm đã bị lực lượng an ninh bắt và bị đánh ngay trước đồn công an phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Một đoạn video được truyền trực tiếp trước cổng công an phường Bách Khoa cho thấy cả hai bị đánh đổ máu, trong đó, Nguyễn Viết Dũng cho biết:

Mình thì ôn hoà mà họ thì dùng bạo lực. Hành động này chứng tỏ họ không hề cho người dân biết. Sự thật, không phải là 1 cuộc hải chiến mà là một cuộc thảm sát 14 tháng 3 năm 1988.

Đỗ Thanh Vân, từ Hà Nội kể lại sự việc cho đài chúng tôi:

Thành phố Hà Nội đã tung ra rất nhiều công an, an ninh, mật vụ, cảnh sát cơ động để bắt bở những ngườ có ý định tham gia tưởng niệm. Có rất nhiều người bị bắt ngay tại nhà nên không đi được, những người đi giữa đường thì bị bắt. Những người như Vân, Dũng Phi Hổ và nhiều người khác nữa thì không thể tiếp cận bờ hồ. Khi không thể tưởng niệm được ở đó, bọn mình chuyển sang phương án là ra bãi giữa sông Hồng, làm nghi thức tưởng niệm là thả vòng hoa với mong muốn vòng hoa có thể an ủi vong linh người đã khuất.

Sau khi thực hiện việc thả vòng hoa, Đỗ Thanh Vân cho biết cô và Dũng Phi Hổ bị đánh khi đến đòi người ở công an phường Bách Khoa.

Ngay lập tức hai thằng ập vào đạp Dũng Phi Hổ ngã ra. Sau khi đạp Dũng, 4,5 thằng tiếp theo dàn trận sẵn rồi. Hai thằng lao vào đập Dũng, hai thằng lao vào đập mình. Mình bị chúng nó dùng 1 cái ghế nhựa đập thẳng tay chính xác vào đầu. Lẽ ra chúng nó sẽ còn tiếp tục đánh mình nhưng vì cái cú đập quá mạnh và mình bị chảy máu ngay lập tức. Máu chảy suốt một bên mặt và chảy xuống áo, che cả mắt mình.

Chúng nó thấy vậy, có lẽ một phần vì mình là phụ nữ, thứ hai là chúng thấy chảy máu nhiều quá nên không đánh mình nữa, mà tập trung vào đánh Dũng Phi Hổ. Phản xạ đầu tiên mình bị mất bình tĩnh không phải vì mình bị đau mà mình thấy Dũng bị rất là đau, nên mình mất bình tĩnh và chỉ quan tâm xem Dũng có bị nghiêm trọng thế nào hay không.

CanGio-400.jpg
Hình tưởng niệm ở Cần Giờ 14/3/2017. Photo by Nguyễn Phương

Trong lúc đó, ở Sài Gòn, một nhóm bạn trẻ khoảng 6 người thực hiện việc hành động tưởng niệm tại biển Cần Giờ. Nguyễn Phương, người tham gia buổi lễ cho chúng tôi biết mọi người không gặp trở ngại gì.

Sáng nay em đi về phía Cần Giờ nên không bị quấy rối. Ở Sài Gòn thì định tổ chức ở tượng đài Trần Hưng Đạo nhưng bị an ninh và công an chặn nên không ai ra được. Tụi em vì biết trước bị canh nên chọn biển Cần Giờ để làm.

Trịnh Bá Phương, từ Dương Nội cho biết anh cũng bị bắt vào sáng nay nhưng được thả ra ngay sau đó.

Khi bắt em thì họ đưa em về phường công an Lý Thái Tổ. Tuy nhiên khi vào thì họ còn chờ xin ý kiến. trong lúc đó một số viên an ninh của Quận Hà Đông, phường Dương Nội dẫn giải em về tạm giữ phường công an Dương Nội. Sáng nay họ thả em sớm.

Ngày 14 tháng 3 năm 1988, 64 chiến sĩ đã ngã xuống bởi trận thảm sát của quân Trung CỘng tại bãi đá Gạc Ma. Cho đến nay, sự kiện lịch sử này hoàn toàn không được nhắc đến trong sách giáo khoa trong nước. Những cuộc tưởng niệm thắp nhang do người dân tổ chức luôn gặp cản trở từ phía chính quyền trong suốt những năm qua.