ông Nguyễn Phú Trọng và toàn bộ Uỷ viên Ban chấp hành trung ương đảng cầm quyền cần phải bị khởi tố ngay lập tức.

From facebook: Trần Bang
Luật sư Lê Công Định :

Đọc lại Điều 313 về tội che giấu tội phạm và Điều 314 về tội không tố giác tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành, mới thấy ông Nguyễn Phú Trọng và toàn bộ Uỷ viên Ban chấp hành trung ương đảng cầm quyền cần phải bị khởi tố ngay lập tức.

Lý do là vì họ vừa họp kỷ luật cách chức ông Đinh La Thăng về những hành vi vi phạm hoàn toàn hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm của những tội danh trong phạm vi áp dụng của hai Điều 313 và 314 nói trên.

Tuy nhiên, cho đến nay, sau khi hội nghị trung ương 5 kết thúc, họ không những không tố giác tội phạm để cơ quan điều tra khởi tố vụ án và khởi tố bị can, mà còn che giấu tội phạm trong Ban kinh tế trung ương và Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Thanh Hóa.

Cơ quan điều tra nghĩ sao? Có nên bỏ lọt tội phạm trong trường hợp nói trên không? Hay đó là băng nhóm tội phạm được Hiến pháp thừa nhận nên mặc nhiên có quyền tồn tại và hành động ngoài vòng pháp luật?

FB LS Lê Công Định

TÔI ĐANG CHỨNG KIẾN MỘT XÃ HỘI BẤT ỔN.

From facebook: Hằng Lê
TÔI ĐANG CHỨNG KIẾN MỘT XÃ HỘI BẤT ỔN.

Về kinh tế…

Trong nông nghiệp, hết giải cứu dưa hấu, hành tím, lại đến chuối, đến gà, heo… Một đất nước đi lên từ nông nghiệp nhưng người nông dân luôn chịu cảnh chưa ráo mồ hôi đã hết tiền. Chính sách phát triển nông nghiệp bao nhiêu năm vẫn loay hoay phụ thuộc vào một thị trường, mỗi khi có sự thay đổi là hàng triệu người khốn đốn.

Trong công nghiệp, hô hào công nghiệp hoá bao nhiêu năm nhưng vẫn không có ngành chủ lực. Ngay cả khi chạy theo những ngành gây ô nhiễm, thì cũng chẳng có năng lực để làm. Cho đến tận bây giờ, công nghiệp phụ thuộc nhiều vào khối FDI, trong khi nền sản xuất bản địa chỉ loay hoay làm gia công, giá trị gia tăng thấp.

Trong dịch vụ, chi phí logistic chiếm tới 25% GDP quốc gia thì làm sao cạnh tranh nổi? Đất nước là cửa ngõ ra biển nhưng xây dựng mãi vẫn chẳng có một đội tàu hùng mạnh. Đất nước có vô số danh lam thắng cảnh nhưng khách du lịch chẳng muốn quay lại lần thứ hai.

Kinh tế phát triển bằng việc bán than, bán dầu, bằng đào khoét tài nguyên lên ăn dần. Môi trường thì ô nhiễm, tài nguyên thì ngày càng cạn kiệt…

Một nền kinh tế yếu ớt lại phải nuôi một bộ máy cồng kềnh. Khả năng quản trị, giám sát yếu kém dẫn đến đầu tư dàn trải, tham nhũng, lãng phí vô độ. Ngân sách luôn trong tình trạng thu không bù chi. Nợ công ngày càng nghiêm trọng. Người dân phải thắt lưng buộc bụng vì thuế phí ngày càng nhiều lên.

Vì miếng cơm của mình, người ta sẵn sàn cướp đi bát cơm của đồng loại. Mới hôm qua ở Hải Phòng, một phụ nữ bán thịt heo giá rẻ hơn mức giá ở chợ đã bị những người bán hàng khác hắt dầu nhớt trộn phân vào sạp thịt. Nói tình người đen như nhớt thải, quả không sai.

Về giáo dục…

Cô giáo mầm non ngược đãi trẻ. Hiệu trưởng trường tiểu học ngồi xe đâm gãy chân học sinh nhưng gian dối. Ở cấp trung học cơ sở, thầy giáo và học sinh đánh chửi nhau như những kẻ vô học đầu đường xó chợ. Ở cấp trung học phổ thông, tiêu cực thi cử vẫn là một vấn nạn. Cử nhân đại học ra trường không có việc làm. Tiến sĩ thì lạm phát…

Giáo dục loay hoay đổi mới nhưng vẫn mắc căn bệnh trầm kha là chạy theo thành tích, lý thuyết giáo điều, xa rời thực tế.

Rả rả tiên học lễ, hậu học văn nhưng cuối cùng sản phẩm của nền giáo dục là lối sống xu nịnh, hình thức, chạy theo vật chất, quỳ gối trước tiền bạc và quyền lực, bỏ qua những đạo lý làm người và sống thờ ơ vô trách nhiệm.

Về chính trị…

Xã hội nơi tôi đang sống là một không gian đầy sợ hãi.

(Bạch Hoàn)

THƯ PHẢN ĐỐI NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÀN ÁP HAI LINH MỤC ĐẶNG HỮU NAM VÀ NGUYỄN ĐÌNH THỤC

NGƯỜI CÔNG GIÁO VIỆT NAM:

THƯ PHẢN ĐỐI NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐÀN ÁP HAI LINH MỤC ĐẶNG HỮU NAM VÀ NGUYỄN ĐÌNH THỤC

Nhận định rằng:

1- Vụ việc Formosa – xảy ra đã hơn một năm rồi – là thảm họa sinh thái tồi tệ nhất trong Việt sử. Nó đã hủy hoại nặng nề môi trường biển các tỉnh miền Trung, gây ra hậu quả hết sức to lớn về kinh tế và sức khỏe, hàng chục năm nữa mới có thể khắc phục! Nguy hiểm hơn, Formosa tạo nên mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội! Nó chỉ phải bỏ ra 500 triệu đô-la bồi thường (bằng 1% thiệt hại) để rồi khoanh tay nhìn nhà nước và nhân dân đấu đá với nhau! Quan trọng hơn cả, với việc cho Formosa vào Hà Tĩnh, đảng CSVN đã hy sinh môi trường để đánh đổi phát triển kinh tế, chọn đối tác đầu tư một cách mù quáng và giao vị trí chiến lược của đất nước cho kẻ thù.

2- Đến nay, vấn đề Formosa vẫn không được giải quyết ổn thỏa. Tất cả đều bắt nguồn từ chế độ độc tài đảng trị vốn đã tung hoành và tàn hại trên cả nước 42 năm qua: do tính khí tự kiêu cộng sản, hiếm khi nhận lỗi và sửa chữa sai lầm;

3- Hai nhân vật tiêu biểu hiện thời của mọi vấn đề trên là Linh Mục Đặng Hữu Nam, quản xứ Phú Yên và Linh Mục Nguyễn Đình Thục, quản xứ Song Ngọc. Hai Giáo Xứ này đều nằm trên địa bàn tỉnh Nghệ An và đang cùng gánh chịu thảm họa từ Formosa Vũng Áng. Từ gần một năm qua, với lương tâm của công dân trước đất nước, với trách nhiệm của mục tử đối với đoàn chiên, với ý thức thực thi giáo huấn về môi trường của Đức Giáo hoàng Phan-xi- cô qua Thông điệp “Laudato Si’” (Bảo vệ ngôi nhà chung trái đất, 5 năm 2015), hai linh mục đã cùng giáo dân mình một đàng xuống đường nhiều lần đòi lại công lý cho biển cả và cho con người, đàng khác làm đơn khởi kiện công ty Formosa, tên tội phạm môi trường khét tiếng. Riêng cha Thục còn qua tận Quốc Hội Đài Loan (5.12.2016), yêu cầu rút Formosa ra khỏi Việt Nam vĩnh viễn.

4- Đáp lại tấm lòng yêu nước thương dân, phục vụ lợi ích cộng đồng đó của hai vị mục tử, nhà cầm quyền từ trung ương tới địa phương đã không ngừng đánh phá họ một cách đê hèn, thô bỉ và man rợ. Một đàng CS dùng hệ thống truyền thông nhà nước, lực lượng công an mạng, đám dư luận viên liên tục thóa mạ, xuyên tạc việc làm công chính của hai Linh Mục, còn bịa đặt chuyện đời tư hòng vu khống, làm nhục họ.

Đàng khác, CS luôn cho công an chìm nổi và lưu manh côn đồ theo dõi, ngăn cản các cuộc xuống đường phản đối Formosa của hai giáo xứ Phú Yên và Song Ngọc. Ngoài ra, đơn kiện của hai cộng đồng này gởi đến Quốc hội và Tòa án thì hoặc bị bỏ xó hoặc bị trả lại. Đỉnh điểm của việc chà đạp quyền khiếu kiện này chính là cuộc đàn áp đẫm máu đối với đoàn giáo dân Song Ngọc cùng mục tử của họ ngày 14.2.2017.

5- Gần đây, đáp lại lời kêu gọi của nhà cầm quyền Nghệ An hãy kỷ niệm “ngày giải phóng”, Linh Mục Đặng Hữu Nam đã cùng với giáo dân Phú Yên xuống đường hôm 30.4.2017 nhưng là để tưởng niệm “ngày dân tộc Việt Nam mất đi tự do, ngày người dân không có quyền làm người, ngày đã làm cho đất nước tang thương, ngày đã đưa đất nước trở thành lạc hậu, nghèo đói, ngày Việt Nam mất đi cơ hội phát triển, ngày đã tạo nên bất công trên mọi miền đất nước…” ( lời Lm. Đặng Hữu Nam ), còn Giáo Dân thì trưng biểu ngữ “30/4, ngày tưởng niệm đồng bào tử nạn”, “30/4: Đừng nghe những gì Cộng sản nói. Hãy xem những gì Cộng sản làm”. Toàn là những nhận định xác thực, can đảm, hợp với lòng dân.

6- Thế là một chiến dịch đánh phá tổng lực đã được tung ra nhắm vào cha Nam trên hai điểm “xuyên tạc ý nghĩa ngày 30/4” và “dùng vụ Formosa để gây rối, kích động”. Một là qua những trang viết, bài phóng sự, những video clip đầy vu khống, xuyên tạc, ngụy biện và hăm dọa trên báo đài nhà nước và nhất là báo đài Nghệ An; do tay đám bồi bút và dư luận viên, luật sư của đảng, thậm chí do vài kẻ mạo danh tín hữu. Hai là qua những truyền đơn biểu ngữ đầy kích động và mạ lỵ rải giăng khắp địa bàn huyện Quỳnh Lưu cũng như những tuyên truyền trong nhiều trường học ở Nghệ An cho rằng khởi kiện Formosa và biểu tình là sai trái. Ba là qua các công văn từ Ủy Ban Nhân Dân, Hội Cựu Chiến Binh tỉnh gởi đến các Giám Mục và Linh Mục Giáo Phận Vinh để vu cáo, kết án và đòi trừng phạt vị quản xứ vô tội. Bốn là qua các cuộc họp quần chúng, gồm thành viên hội Cựu chiến binh, hội Phụ nữ… bị kích động và được trả tiền để đấu tố Lm. Đặng Hữu Nam như thời Cải Cách Ruộng Đất, với lời lẽ sắt máu, cung giọng hận thù, luận điệu xuyên tạc và kết án thô bạo (4+5/5). Năm là qua các cuộc biểu tình có thù lao, lừa gạt nông ngư dân chất phác và cưỡng bức học sinh ngây thơ đến tận Phú Yên để phản đối vị quản xứ và các giáo hữu, trong ý đồ gây chia rẽ giữa người dân và gieo căm thù đối với tôn giáo (6+7/5/2017).

7- Đáp lại những hành động vi phạm pháp luật trắng trợn như trên của nhà cầm quyền Nghệ An, nhất là màn xúi giục kích động dân lành đến giáo xứ Phú Yên biểu tình (một hoạt động quần chúng mà từ trước tới nay CS luôn tối kỵ và chuyên đàn áp), Lm. Đặng Hữu Nam đã làm một hành động hết sức nhân bản, đầy tính mục tử: ra lệnh cho Giáo Dân chuẩn bị nước nôi mời mọc những kẻ đến phản đối. Một đàng để bày tỏ lòng tôn trọng quyền biểu tình hiến định của người dân, một đàng để nói lên thái độ không xem họ như những kẻ thù mà như những nạn nhân của một nhà nước bạo ngược.

Từ những nhận định trên, các Linh Mục. Tu Sĩ và Giáo Dân ký tên dưới đây tuyên bố:

1- Cùng bày tỏ tinh thần hiệp thông với Linh Mục Đặng Hữu Nam, quản xứ Phú Yên và Linh Mục Nguyễn Đình Thục, quản xứ Song Ngọc cùng với toàn thể đoàn chiên của hai vị. Hoàn toàn tán đồng ủng hộ việc đấu tranh cho công lý và nhân quyền của hai mục tử và hai Giáo Xứ.

2- Phản đối nhà cầm quyền tỉnh Nghệ An và huyện Quỳnh Lưu từ lâu đã thực hiện nhiều hành động đàn áp đối với hai Linh Mục nói trên: từ vu khống đến lăng nhục, từ ngăn chặn đến hành hung, từ đấu tố đến kết án. Toàn những hành động vừa vô pháp luật vừa phi đạo đức.

3- Yêu cầu nhà cầm quyền Cộng sản nói chung và tại địa phương Nghệ An phải tôn trọng thân thể, danh dự và phẩm giá của mọi công dân; đồng thời bảo vệ nghiêm túc các dân quyền cơ bản, như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do biểu tình, quyền tố cáo khởi kiện.

4- Đòi hỏi nhà cầm quyền tỉnh Nghệ An và báo đài nhà nước dừng ngay các hành động vu cáo, bôi nhọ, xuyên tạc và đấu tố đối với Linh Mục Đặng Hữu Nam và Linh Mục Nguyễn Đình Thục; đồng thời phải công khai xin lỗi hai vị này trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Tuyên bố từ Việt Nam và hải ngoại ngày 11.5.2017

Danh sách những người ký tên, sắp theo vần họ tính đến sáng thứ sáu 12.5.2017:

01- Lm. Giuse Đinh Hữu Thoại, Dòng Chúa Cứu Thế.

02- Lm. Giuse Hồ Đắc Tâm, Dòng Chúa Cứu Thế.

03- Lm. Antôn Lê Ngọc Thanh, Dòng Chúa Cứu Thế.
04- Bà Elizabeth Lê Phạm Bích-Trâm Yeung, California, Hoa Kỳ

05- Bà Catherine Lê Nguyễn Diệu Nga, California, Hoa Kỳ

06- Bà Teresa Lê Phạm Mai, California,  Hoa Kỳ

07- Bà Cecilia Lê Phạm Uyên Ly Wight, California, Hoa Kỳ

08- Lm. Giuse Lê Quang Uy, Dòng Chúa Cứu Thế.

09- Ông Gioakim Lê Tinh Thông, California, Hoa Kỳ

10- Ông Patrick Lê Xuân, Philadelphia, Hoa Kỳ

11- Lm. Phaolô Lê Xuân Lộc, Dòng Chúa Cứu Thế.

12- Lm. Giuse Nguyễn Duy Tân, Giáo Phận Xuân Lộc.

13- Lm. Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, Dòng Phanxicô.

14- Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, Dòng Chúa Cứu Thế.

15- Lm. Phêrô Nguyễn Hữu Giải, Tổng Giáo Phận Huế.

16- Ông Antôn Nguyễn Thế Quang, California, Hoa Kỳ

17- Lm. Tađêô Nguyễn Văn Lý, Tổng Giáo Phận Huế.

18- Lm. Phêrô Phan Văn Lợi, Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu.

19- Lm. Phanxicô Xaviê Trần Phương, Tổng Giáo Phận Huế.

20- Ông Võ Ngọc Lục, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, Daklak

Quý Cha xin ghi rõ tên thánh, tên họ, Giáo Phận hay Dòng Tu, Anh Chị Em Tu Sĩ và Giáo Dân xin ghi rõ tên thánh, tên họ, Giáo Phận hay Dòng Tu. Nếu ở hải ngoại thì xin thêm tên quốc gia.

Xin vui lòng gởi về địa chỉ email: phanvanloi@fvpoc.org

Lm. Giuse LÊ QUANG UY
Phòng Bác Ái Xã Hội
Gx. Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp DCCT
38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn
Điện thoại: 
0903.340.914

E-mail: giuselequanguy@gmail.com

Web: www.giesuchanhlongthuong.net

Phản ứng sau việc khởi tố và truy nã ông Bạch Hồng Quyền

Phản ứng sau việc khởi tố và truy nã ông Bạch Hồng Quyền

Bản quyền hình ảnhBACH HONG QUYEN
Nhà hoạt động Bạch Hồng Quyền (áo xám, chính giữa) tại buổi biểu tình với người dân huyện Lộc Hà hôm 3/4

Một số người dân huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh nói “sẽ biểu tình đồng hành” cho nhà hoạt động Bạch Hồng Quyền sau khi nghe tin ông bị công an tỉnh Hà Tĩnh khởi tố.

Hôm 12/5, công an tỉnh Hà Tĩnh chính thức ra lệnh truy nã ông Bạch Hồng Quyền, thành viên nhóm Con Đường Việt Nam, về tội “Gây rối trật tự công cộng” tại UBND huyện Lộc Hà vào ngày 3/4/2017.

Hôm 3/4, ông Bạch Hồng Quyền cùng nhiều người dân hai xã Thạch Bằng, Thạch Kim, đến UBND Lộc Hà yêu cầu chính quyền đối chất về vấn đề bồi thường thiệt hại do Formosa gây ra và vụ nổ súng uy hiếp người dân tối 2/4.

Dân bức xúc?

Trước thông tin ông Bạch Hồng Quyền bị khởi tố và truy nã, một số người dân tại huyện Lộc Hà tỏ ra bức xúc.

Bà Tuyết, chủ cơ sở đông lạnh Anh Tuyết, nói với BBC: “Ở đây giờ không chỉ riêng bản thân tôi mà hàng trăm, hàng nghìn sẽ xuống đường đồng hành cũng anh Quyền.”

“Anh ấy đã giúp đỡ cả giáo dân và những người dân khác mà không tư lợi gì cả. Nếu như ở Việt Nam ai cũng như anh ấy thì mọi việc không có đổi trắng thay đen được.”

“Những cái đen tối của Formosa thì họ che giấu, còn những người tốt, giúp dân thì họ cho là có tội. Không thể để chính quyền muốn làm gì thì làm với người vô tội được.”

Bà Tuyết cho biết sẽ có một buổi tuần hành nhưng không cho biết rõ chi tiết.

Ông Nguyễn Hải Hà, chủ cơ sở đông lạnh Hồng Hà nói: “Bạch Hồng Quyền có làm gì đâu mà bắt!”

tụ tập
Bản quyền hình ảnhBACH HONG QUYEN
Người dân tụ tập tại UBND huyện Lộc Hà yêu cầu chính quyền đối chất hôm 3/4

“Bà con nghe tin vậy thì bức xúc lắm. Bắt người không có tội. Họ làm việc tốt, giúp người, mà bây giờ truy nã thì luật pháp Việt Nam không ra gì nữa!”

Ông Hà còn nói “nếu nhà cầm quyền cứ bắt giữ người vô tội, việc [biểu tình] chắc chắn sẽ xảy ra”.

Trao đổi với BBC hôm 12/5, chị Bùi Hương Giang vợ ông Bạch Hồng Quyền cho biết, hôm 11/5, công an đã đến cả gia đình bên nội và bên ngoại đề yêu cầu “ký biên bản bắt giữ anh Quyền” nhưng gia đình đã không hợp tác.

“Họ nói khích, gài bẫy tôi, nói tôi là vợ thì phải khuyên chồng ra đầu thú,” chị Giang nói.

“Tôi nói chồng tôi không có tội, không việc gì phải ra đầu thú cả.”

Chị Giang cho biết chị luôn ủng hộ chồng.

Anh Quyền
Bản quyền hình ảnhBACH HONG QUYEN
Ông Bạch Hồng Quyền đã tham gia hoạt động nhân quyền 5-6 năm nay

“Từ trước khi yêu Quyền rồi lấy Quyền, tôi đã xác định ủng hộ Quyền trên con đường đấu tranh này. Tôi biết sẽ có những khó khăn như đánh đập, tù đày nhưng không nó sẽ xảy ra sớm như vậy.”

“Chỉ mong mọi người quan tâm, lên tiếng bảo vệ cho Quyền. Hãy giúp Quyền, ủng hộ cho Quyền, cũng như nhân quyền ở Việt Nam.”

Một luật sư, ông Trần Thu Nam, nói rằng”bất cứ tội gì khi khởi tố mà bị can không có mặt, cơ quan thẩm quyền có quyền truy nã.”

“Tuy nhiên, việc công an bắt gia đình anh Quyền ký biên bản bắt giữ là không đúng luật. Vì chỉ ký biên bản đó sau khi đã bị bắt. Gia đình không liên quan gì đến việc bắt giữ.”

Báo Hà Tĩnh đưa tin công an Hà Tĩnh khởi tố vụ án hình sự ngày 12/4, khởi tố bị can và bắt giữ ngày 18/4 và ra quyết định truy nã ngày 12/5.

Tờ báo viết: “Những cá nhân, tổ chức nào che giấu, giúp đỡ người bị truy nã bỏ trốn hoặc biết mà không tố giác thì sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.”

Cuộc họp về Sơn Trà cấm cửa báo chí

Cuộc họp về Sơn Trà cấm cửa báo chí

RFA

2017-05-11
 Bán đảo Sơn Trà.

Bán đảo Sơn Trà.

AFP photo
 
 Một cuộc họp giữa Tổng cục du lịch và Hiệp hội du lịch Đà Nẵng về qui hoạch bán đảo Sơn Trà sẽ được tổ chức tại thành phố Đà Nẵng thay vì ở Hà Nội như dự kiến.

Tuy nhiên báo chí không được tham gia cuộc họp này.

Ông Hà Văn Siêu, Tổng cục phó Tổng cục du lịch nói với một số nhà báo rằng do thời gian ngắn nên không mời báo chí.

Trước đây cuộc họp này dự định tổ chức ở Hà Nội, nhưng Huỳnh Tấn Vinh, Chủ tịch Hiệp hội du lịch Đà Nẵng từ chối vì cho rằng trong cuộc họp không mời các tổ chức hiểu rõ tình hình Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà, như là Hiệp hội Du Lịch, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Đà Nẵng,…

Tuy nhiên ông Hà Văn Siêu cho biết Tổng cục du lịch đã đồng ý chuyển cuộc họp vào Đà Nẵng nhưng vẫn không có các thành phần tham dự như ông Vinh đề nghị.

Vừa qua nhiều công trình xây cất trái phép đã bị phát hiện tại bán đảo Sơn Trà, làm cho dư luận lên tiếng không đồng tình, cho rằng bán đảo Sơn Trà, một khu vực quan trọng về quân sự và bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam đang bị xâm hại.

Công an đe dọa và sách nhiễu Phật tử Giáo hội VN Thống nhất

Công an đe dọa và sách nhiễu Phật tử Giáo hội VN Thống nhất

RFA
2017-05-12
Một số huynh trưởng Gia đình Phật tử và tín đồ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Huế bị công an đe dọa và sách nhiễu nhân dịp lễ Phật Đản năm nay.

Ủy ban Bảo vệ Quyền làm người Việt Nam trụ sở tại Paris vào ngày 12/5 ra thông cáo báo chí cho biết như vừa nêu.

Ủy ban này cho biết vừa nhận được tường trình theo đó vào ngày 28/4 vừa qua, an ninh triệu tập hai huynh trưởng thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tại Huế là Ngô Đức Tiến và Nguyễn Văn Đệ đến làm việc tại đồn công an Phú Vang.

Tại đó họ bị đe dọa sẽ phải vào nhà giam nếu theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất vì đó là tổ chức bất hợp pháp.

Cơ quan an ninh cho rằng tham gia hoạt động của giáo hội này là phạm luật và không được dự lễ Phật đản tổ chức ở của Long Quang tại Huế.

Vào ngày 4/5 vừa qua, huynh trưởng Lê Công Cầu bị an ninh mời đi làm việc suốt ngày. Yêu cầu của phía an ninh là ông này phải chấm dứt mọi liên hệ với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.

Công an và an ninh cũng đến nhà của nhiều Phật tử theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và yêu cầu họ không được dự lễ Phật Đản do giáo hội này tổ chức.

Những tín đồ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cho rằng chưa hề có lệnh chính thức nào cấm giáo hội này hoạt động, do đó giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất không thể bị cho là bất hợp pháp.

Những huynh trưởng bị mời làm việc với cơ quan an ninh đều không ký vào những biên bản mà lực lượng chức năng soạn thảo.

Vị lãnh đạo hiện nay của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, nhiều lần minh định rằng giáo hội của ông sẽ không đăng ký với nhà nước vì theo ông tư cách hợp pháp của giáo hội đã có từ lâu và yêu cầu bắt buộc đăng ký là một vi phạm luật pháp quốc tế.

Hiện nay tại Việt Nam có Giáo hội Phật giáo do Nhà nước lập nên và được mọi ưu đãi; trong khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất từng tồn tại từ trước năm 1975 bị cho là bất hợp pháp.

Giải phóng để làm gì ?

 Giải phóng để làm gì ?

Thống nhất lãnh thổ mà không thống nhất được lòng người thì có ích gì? Nhất là khi phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp đang trỗi dậy. Bài học mất nước của Hồ Quý Ly còn đó.

Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả. Bài được gửi tới BBC sau khi BBC mời độc giả tham gia viết bài vở, đóng góp tư liệu, chia sẻ thông tin, cảm nghĩ về sự kiện 30/04/1975.

Giải phóng để làm gì ?

Tôi không biết các bạn ở miền Bắc thế nào chứ ở trong Nam số người ăn mừng cái ngày “giải phóng” rất ít. Đa số người, như tôi và những người tôi biết, chỉ coi ngày này là ngày nghỉ mệt, không hơn không kém. Tôi rất thấy làm lạ với cái thuật ngữ “giải phóng.” Giải phóng? Giải phóng ai, giải phóng khỏi cái gì. Ai giải phóng ai?

1.Giải phóng để làm gì khi đất nước tôi phải trải qua một cơn đói chưa từng có trong lịch sử.

2.Giải phóng để làm gì khi hàng triệu gia đình bị tan nát và phá hoại.

3.Giải phóng để làm gì khi hàng trăm ngàn người lính vô tội phải đi tù.

4.Giải phóng để làm gì tài sản người dân tích lũy mấy đời mới có bỗng nhiên bị cướp sạch.

5.Giải phóng để làm gì khi hàng triệu người phải bất chấp mạng sống để trốn chạy khỏi đất nước trên những con thuyền nhỏ bé; và hàng trăm ngàn người phải gọi đáy biển là mộ của mình.

6.Giải phóng để làm gì khi dân tôi phải ăn bo bo và khoai mì để khỏi phải đói.

7.Giải phóng để làm gì khi người Việt Nam đi đâu cũng bị khinh thường và soi mói.

8.Giải phóng để làm gì khi cuộc chiến đã chấm dứt 42 năm rồi nhưng dân tộc vẫn bị chia rẽ.

9.Giải phóng để làm gì hàng trăm ngàn người lại đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc hay đi bán thân mình dưới danh nghĩa “xuất khẩu lao động.”

  1. Giải phóng để làm gì khi sau 11 năm thảm họa, đất nước phải bắt đầu trở lại dưới danh nghĩa “Đổi Mới.”
  2. Giải phóng để làm gì khi cái lý tưởng của cuộc chiến chưa bao giờ thành công, cuối cùng thì phải áp dựng lý tưởng của địch để phát triển đất nước.
  3. Giải phóng để làm gì khi du học sinh đi du học không muốn về và kiều bào thì không muốn giữ quốc tịch.
  4. Giải phóng để làm gì khi đi đâu cũng thấy người bán vé số và ăn xin.
  5. Giải phóng để làm gì ngày nào cũng có dân oan than khóc vì bị cướp đất hoặc đền bù với giá rẻ mạt.
  6. Giải phóng để làm gì chính con cháu của những chiến sĩ giải phóng lại muốn từ bỏ đất nước, vậy cái lý tưởng chiến đấu ngày xưa có nghĩa gì?
  7. Giải phóng để làm gì khi chính những thành viên chính trị cũng đang chạy hồ sơ để mua quốc tịch nước ngoài.
  8. Giải phóng để làm gì khi bây giờ công lý chỉ là diễn viên hài và luật pháp có thể được mua chuộc bởi đồng tiền.
  9. Giải phóng để làm gì khi bây giờ lại kêu gọi các công ty tập đoàn nước ngoài vào nước đầu tư. Chứ không phải ngày xưa đã đánh đuổi họ đi sao?
  10. Giải phóng để làm gì khi người Việt Nam chỉ coi đất nước là cái nhà trọ.
  11. Giải phóng để làm gì khi con gái Việt Nam bây giờ hám ngoại, dân thì sính ngoại, cái gì thuộc về “Tây” cũng được sùng bái ở đất nước này.
  12. Giải phóng để làm gì nhà nhà cho con em đi học tiếng Anh, trường quốc tế thì nở rộ như nấm.
  13. Giải phóng để làm gì khi giới trẻ chẳng quan tâm tới đất nước và bị ngu đần bởi hệ thống giáo dục.
  14. Giải phóng để làm gì khi bây giờ người Bắc Nam vẫn còn chửi nhau là “Bắc Kỳ-Nam Kỳ.”
  15. Giải phóng để làm gì khi bây giờ người dân phải ăn đồ hóa chất, ngửi không khí độc hại.
  16. Giải phóng để làm gì khi đất nước này ngày càng bị ảnh hưởng và lệ thuộc ngoại bang?
  17. Giải phóng để làm gì khi người dân không có tự do và công bằng.
  18. Giải phóng để làm gì khi chính những chiến sĩ ngày xưa hy sinh tuổi xuân để giải phóng bây giờ chẳng được gì ngoài tấm bằng khen.
  19. Giải phóng để làm gì khi người dân Việt Nam chỉ là công dân hạng hai trên chính đất nước của mình.
  20. Giải phóng để làm gì khi đất nước Việt Nam này lại thuộc về người khác mà không thuộc về người dân.
  21. Và giải phóng để làm gì để bây giờ chẳng ai còn tin hay tự hào về cái gọi là giải phóng cả.

Như vậy thì giải phóng để làm gì?

Vì lý tưởng? Không thể nào.

Vì tự do? Càng không thể.

Vì dân tộc? Thật vô lý.

Vì độc lập? Càng vô lý nữa.

Giải phóng để làm gì để bây giờ đất nước Việt Nam ngày đang vỡ nát. Tôi chẳng thấy một điều tích cực nào đến từ cái gọi là giải phóng cả. 

Vậy ai giải phóng ai và giải phóng để làm gì?

Vô danh

Kinh tế tư nhân có từ thượng cổ đến nay?!

From facebook: Trần Bang
Kinh tế tư nhân có từ thượng cổ đến nay?!

Ông cố nội trọng, ông nội trọng, bố trọng cũng sống được để đẻ ra trọng là nhờ kinh tế tư nhân, nói thế “có biện chứng” không ?

Khi ĐCS ” giải phóng HN “, từ 1954 miền Bắc tiến lên cả ngày xếp hàng ( CNXH), sau 30-4-1975 ” giải phóng SG” thì cả nước tiến lên xếp hàng cả ngày (XHCN)… ” nhờ” có làm ăn lớn XHCN đã làm cả nước đói dã họng, phải ăn bo bo cầm hơi, ĐCS lại nói người dân “phải tự cứu lấy mình trước khi trời cứu” năm 1986- 1992!

Năm 73 tuổi, đầu thế kỷ 21, trọng mới nhận ra tầm quan trọng của Kinh tế tư nhân, vốn là cội nguồn đã nuôi cả trăm đời nhà trọng, nuôi ông cố nội trọng, bố trọng và chính trọng?

Cái trọng phải mất ” 30 năm đổi mới, nhận thức của chúng ta (ĐCSVN) về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước tiến quan trọng.”, thì bất cứ người nông dân VN có suy tư (không lười nhác, không ỷ lại, không há miệng chờ sung, không có ý gian tham) đếu đã biết từ ngàn năm trước!

Kinh tế tư nhân mới đẻ ra Dân tộc, nuôi dưỡng bản sắc Dân tộc, nuôi dưỡng họ hành hang hốc nhà trọng bao đời chứ không phải Mác Lê Mao, “nói thế có biện chứng” không?

Trọng mang cả cuộc đời đi tôn thờ CNCS mác lê mao, kẻ thù của kinh tế tư nhân,” tư hữu ( bản chất kinh tế tư nhân)”, thì nói trọng là kẻ vô ơn, bạc phước “có biện chứng” không?

(Nhân FB bác Mac Văn Trang viết LÃO AM …)

Linh mục Bác sĩ Augustinô Nguyễn Viết Chung

Linh mục Bác sĩ Augustinô Nguyễn Viết Chung

Ban Biên Tập CGVN

Trọng kính Quý Đức Cha, Quý Cha và Quý Vị,

Với tất cả tấm lòng biết ơn sâu xa, BBT CGVN chúng con thành kính tưởng nhớ một vị linh mục khả kính khả ái của GHVN, và xin được phân ưu cùng Tu Hội Truyền Giáo Vinh Sơn, CM và các Sơ Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn.

Chúng con kính gởi trong file kèm là Cáo Phó của TGM KonTum cùng với bài viết của Nhà Văn Hượng Vĩnh.

Xin chân thành cám ơn.

BBT CGVN

 

 

 

 

 

 

Linh mục AUGUSTINÔ NGUYỄN VIẾT CHUNG, CM

Sinh ngày: 07.09.1955

Rửa tội và Thêm Sức ngày 15 tháng 05 năm 1994

Nhập dòng: 01.10.1994

Vào Nhà Tập: 01.10.1996

Quyết Tâm (Khấn lần đầu): 01.10.1997

Khấn trọn: 25.08.2001

Phó Tế: 25.06.2002

Linh mục: 25.03.2003

đang phục vụ tại Giáo Xứ Đăk Tân, huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum

Được Chúa gọi về vào lúc 18 giờ 18 phút, ngày 10.05. 2017,

Tại Nhà Sài Gòn (Tu hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn – Phụ Tỉnh Việt Nam)

Số 479/15 Nguyễn Kiệm, phường 9, quận Phú Nhuận, Tp. HCM

Hưởng thọ: 62 tuổi.

Nghi thức Nhập Quan lúc 17 giờ 00, ngày 11.05.2017

Tại Nhà Sài Gòn, 179/15 Nguyễn Kiệm, phường 9, quận Phú Nhuận, Tp. HCM

Viếng linh cữu tại Hội Trường nhà xứ Giáo xứ Phát Diệm (Tp. HCM)

Thánh lễ An Táng sẽ được cử hành lúc 8 giờ 00, Thứ Bảy ngày 13.05.2017

Tại Nhà thờ Giáo xứ Phát Diệm (Tp. HCM)

Hỏa táng tại Nhà Hỏa Táng Bình Hưng Hòa (Tp. HCM).

NGUYỄN VIẾT CHUNG VÀ TIẾNG GỌI CỦA CHÂN THIỆN MỸ

 

NGUYỄN VIẾT CHUNG VÀ TIẾNG GỌI CỦA CHÂN THIỆN MỸ

 

cố GS. Trần duy Nhiên 

 

Một con người lặng lẽ.

Tháng 04 năm 2002, linh mục Nguyễn Ngọc Sơn phối hợp với Viện Y Học Dân Tộc Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức một khóa huấn luyện cho những người thiện chí xung phong chăm sóc người nghiện ma túy. Tôi để ý đến một người trung niên khắc khổ, lặng lẽ theo dõi chăm chú và cặm cụi ghi chép những bài học về lý thuyết và chữa trị theo phương pháp cổ truyền do các bác sĩ đông y của Viện Y Học giảng dạy. Tôi hỏi một nữ tu trong ban tổ chức xem người ấy là ai. Câu trả lời làm tôi ngỡ ngàng: Đó là bác sĩ tây y Nguyễn Viết Chung, một chuyên viên về ký sinh trùng và da liễu.

Hai tháng sau, cũng tại Viện Y Học Dân Tộc, cha Sơn tổ chức một khóa cai nghiện mang tên là Khóa Phục Sinh. Các bác sĩ của Viện phụ trách phần chữa trị thể lý. Các linh mục, tu sĩ và một vài giáo dân đến giúp phần củng cố tâm linh. Một hôm, tôi đến dự giờ cầu nguyện buổi tối do một nữ giáo dân hướng dẫn. Sau phần trình bày lý thuyết, vị ấy yêu cầu những ai thấy cần được đặt tay cầu nguyện thì hãy bước lên. Bác sĩ Chung cũng là một người theo giúp khóa ấy. Ông bước đến đầu tiên, quì xuống trước mặt người giáo dân kia, xin đặt tay cầu nguyện cho mình. Cử chỉ khiêm nhường này làm cho nữ tu phụ trách nhóm cai nghiện cảm động nói với tôi: Thầy Chung là phó tế sắp được thụ phong trong một ngày gần đây.

Cuối năm 2002, tôi được dòng Vinh Sơn mời đến dạy tiếng Pháp cho một số thầy chuẩn bị đi học thần học ở nước ngoài. Tại đây tôi gặp lại thầy phó tế bác sĩ Chung. Thế rồi qua những chia sẻ khiêm tốn nhưng đầy chân tình, tôi biết được chiều kích cao vời của một con người mờ nhạt, thậm chí điên rồ, nếu ta nhìn với cặp mắt của xã hội ngày nay. Sau đây là hành trình của một tâm hồn qua những chặng đường hiếm thấy.

Hoàn cảnh và ước mơ.

Khi nói về cuộc di cư năm 1954, người ta nghĩ đến gần một triệu tín hữu công giáo đành rời quê cha đất tổ để đi vào Nam với hai bàn tay trắng hầu tìm một nơi có thể tự do biểu lộ đức tin của mình. Thanh niên Nguyễn Viết Chương vào Nam không vì lý do ấy. Anh không phải là Kitô hữu, và tôn giáo không bao giờ là một vấn đề đối với anh. Như mọi người thuộc giai cấp nông dân thất học và nghèo xơ nghèo xác trong làng mình, anh Chương chỉ có một cái đạo duy nhất, ấy là ‘đạo làm người’ theo truyền thống Việt Nam. Nếu ai hỏi anh theo đạo nào, anh bảo rằng anh theo đạo ông bà, mà không thắc mắc xem ‘đạo ông bà’ có nghĩa là gì một cách cụ thể: đấy có thể là đạo mà ông bà đã theo và truyền lại, hoặc đấy cũng có thể là đạo thờ cúng ông bà tổ tiên. Năm 26 tuổi, nhân biến cố 1954, anh Chương rời thôn Ngô Xá, huyện Ý Yên, Tỉnh Nam Định, dẫn vợ con đi theo bà cô vào Nam với hy vọng tìm một con đường thoát ra cảnh nghèo túng, cái túng thiếu cơ cực khiến cho chị Chương phải mất đi đứa con thứ hai và thứ ba khi chúng mới chào đời. Anh cảm thấy hài lòng khi được nhận làm một bình nhì trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dù bị chuyển lên vùng cao nguyên để đóng quân tại Trạm Hành, nơi vòng đai Dalat, cách trung tâm thị trấn 12 cây số. Năm 1955, người con thứ tư ra đời tại đây. Anh đặt cho con một cái tên gần giống như tên mình: Nguyễn Viết Chung.

Chung không còn nhớ gì về miền núi nơi mình sinh ra, vì năm 1960 cha cậu đã chuyển về Saigon để phục vụ trong một đơn vị không tác chiến. Khi vừa có trí khôn, cậu bé Chung phải đối diện ngay với thảm cảnh của một gia đình nghèo. Đồng lương của một quân nhân cấp hạ sĩ chỉ vừa đủ cho hai vợ chồng và bốn đứa con sống lây lất qua ngày chứ không thể nào có một cuộc sống cho ra sống. Bà Chương là một người phụ nữ bình dân mù chữ, hằng ngày chỉ biết thắp nhang lên bàn thờ van vái ơn trên phù hộ cho chồng cho con. Ông Chương là một người sống rất đúng với đạo đức truyền thống và tôn trọng các phẩm chất trung nghĩa lễ trí tín. Tuy nhiên cái nghèo đã khiến ông trở nên một người cộc cằn, vì thế không ít lần ông đã trút những trận lôi đình xuống vợ con mình. Hình ảnh về ‘mái ấm gia đình’ còn lưu lại trong ký ức tuổi thơ của Chung là nỗi sợ đến khiếp đảm khi phải đứng trong xó nhà chứng kiến cảnh mẹ mình trở thành nạn nhân cho các cơn thịnh nộ của cha. Từ thuở còn là học sinh tiểu học, Chung mơ hồ nghĩ rằng mình sẽ không lập gia đình, vì gia đình đối với cậu là một cái gì khủng khiếp. Cậu sợ gia đình, sợ phải tạo thêm một gia đình bất hạnh.

Sống trong hoàn cảnh này, trí óc non nớt của cậu nảy sinh một ước mơ kèm theo một quyết tâm: phải học cho thật giỏi để cứu gia đình thoát khỏi cảnh nghèo. Thế là cậu cắm cúi học tập trong những trường công lập hạng 2 ở Saigon. Niên khóa 1970-1971, cậu là một học sinh xuất sắc lớp đệ tứ trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6. Sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp, cậu quyết định học ngay lớp đệ nhị mà không theo học đệ tam. Cậu phải làm học bạ giả và ra trường tư mà học. Tuy nhảy lớp nhưng Chung vẫn học giỏi ở lớp đệ nhị và đệ nhất. Cậu đậu tú tài toàn phần năm 1973.

“Khi nhìn lại quá khứ, tôi thấy chương trình của Chúa thật huyền diệu. Nhờ học nhảy lớp đệ tam mà tôi không bị nhập ngũ theo lệnh tổng động viên 1973, sau ‘Mùa Hè Đỏ Lửa’. Nhờ những cơn thịnh nộ của cha mà đến năm 39 tuổi tôi vẫn còn độc thân để tự do đáp lại tiếng gọi triệt để của Thiên Chúa”.

Tiếng gọi của cái Mỹ.

Với bằng tú tài trong tay, con đường tương lai bắt đầu hé mở cho cậu thanh niên 18 tuổi Nguyễn Viết Chung. Một ngày mùa hè năm 1973, cậu tình cờ đọc bản tin trên tờ Chính Luận: một giám mục người Pháp vừa qua đời tại trại cùi Di Linh. Vị giám mục ấy là Jean Cassaigne, mà người công giáo gọi với cái tên quen thuộc là Đức Cha Sanh. Ở trang trong, tờ Chính Luận thuật lại vắn gọn cuộc đời của vị giám mục tuyệt vời ấy. Từ thập niên 40, khi được gửi sang Việt Nam, linh mục trẻ Cassaigne chọn một vùng truyền giáo miền núi của dân tộc ít người, khu Djiring hẻo lánh (hiện nay là thị trấn Di Linh) cách xa trung tâm Dalat 80 cây số. Qua những lần viếng thăm mục vụ, cha nhận thấy rằng những ‘người cùi’ thường bị loại ra khỏi làng để sống dở chết dở trong những cánh rừng lân cận, vì thế cha đã thành lập một ngôi làng cho họ và mời các Nữ Tử Bác Ái lên chăm sóc. Làng phung Kala ở Djiring suốt đời sẽ ở trong trái tim cha. Khi giáo phận Việt Nam tách khỏi Cao Miên, cha Cassaigne được tấn phong giám mục tiên khởi địa phận Sàigòn. Năm 1960, khi Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thành lập, ngài trao tòa giám mục Sàigòn lại cho Đức Cha Simon Hòa Hiền rồi trở về sống với anh em của mình là những người phung hủi ở làng Kala. Ngài yêu thương người phung đến độ chia sẻ mọi sự với họ, và để yêu thương đến cùng, ngài chia sẻ cả bệnh tật của họ để chết dần chết mòn trong thân thể đớn đau của một người đã nhiễm bệnh phong.

Đọc tiểu sử cố giám mục Cassaigne, Chung không để ý đến chức vị của ngài, mà chỉ thấy tấm lòng mênh mông của một mẫu người tuyệt đẹp. Tuổi 18 là tuổi say mê các thần tượng và gửi gắm vào đấy những ước mơ thầm kín chực chấp cánh bay cao. Cái Đẹp trong cuộc sống đức cha Sanh đã biến ngài thành thần tượng của anh. Những thanh niên khác mơ đến tiền tài danh vọng để tìm ra hạnh phúc, còn Chung thì mong tìm hạnh phúc bằng cách sống một cuộc sống có ý nghĩa và chết đi cho những người bất hạnh theo gương của thần tượng mình. Anh quyết định thi vào y khoa: đấy là một nghề có thu nhập cao giúp anh có thể đưa gia đình ra khỏi cảnh túng thiếu, nhưng đồng thời cũng là phương tiện để anh chăm sóc người cùi noi bước đức cha Sanh.

Tiếng gọi của cái Thiện.

Sau một năm SPCN (Sciences Physiques, Chimiques et Naturelles = Lý Hóa Vạn Vật), Chung thấy ước mơ của mình trở thành viển vông. Việc thi vào y khoa nằm ngoài tầm tay của những người thuộc giai cấp cùng đinh như anh. Anh thấy rõ điều này khi nạp đơn thi tuyển. Hầu hết các sinh viên thi vào y khoa đều là con cháu của các bậc có chức có quyền hay của các doanh nhân giàu sụ. Đa số đã tốt nghiệp từ một trường trung học Pháp hay một trường công lập nổi danh. Xuất thân từ một gia đình mà người cha là trung sĩ nhất, với kiến thức học được từ một trường tư thục vô danh, Chung thấy mình toan làm chuyện đội đá vá trời. Gia đình anh nghĩ rằng anh chạy theo một mục tiêu vượt quá sức mình nên khuyên anh bỏ ý định thi vào y khoa. Thế nhưng anh vẫn kiên trì học ngày học đêm mà trong lòng cứ lo sợ miên man. Nhìn thấy mẹ ngày ngày cầu khẩn những người đã khuất phù hộ cho gia đình, anh bỗng tin vào những điều huyền diệu. Anh lên Lăng Ông Bà Chiểu, thắp nhang khấn vái với cụ Lê Văn Duyệt. Anh thầm mặc cả với cụ: “Xin giúp con đậu vào y khoa. Để đáp lại, con hứa, sau khi trở thành bác sĩ, sẽ phục vụ cho người cùi”. Thế rồi anh đậu vào y khoa ngay lần đầu tiên đi thi, năm 1974. Đối với nhiều người khác, thứ hạng 181/213 hẳn không có gì đáng nói, nhưng đối với bản thân anh và đối với gia đình, đấy là một ảo tưởng đã biến thành sự thật một cách thần kỳ.

Ngày 04-11-1974, Chung nhập học tại Đại Học Y Khoa, lúc bấy giờ còn mang tên là Trung Tâm Giáo Dục Y khoa Sàigon. Trong những ngày đầu ngỡ ngàng, anh bị thu hút ngay bởi một người Bỉ, giáo sư Marcel Lichtenberger, dạy môn Mô Phôi Học (histologie et embryologie). Ngoài kiến thức uyên bác, giáo sư Lichtenberger còn tỏa ra tư cách của một người thầy khiêm tốn và tận tụy, cứ như thể ông muốn dạy cho học trò mình một cái gì đó vượt lên hẳn những kiến thức y khoa. Chung tìm được lời giải đáp cho những thắc mắc của mình khi tất cả sinh viên năm thứ nhất, dù công giáo hay không, đều được mời dự một thánh lễ gọi là Maccabée tại nhà thờ Jeanne d’Arc, để cầu nguyện hay tỏ lòng nhớ ơn những người hiến xác cho sinh viên thực tập giải phẫu. Chung hiểu được vì sao giáo sư Lichtenberger luôn toát ra một cái gì thanh thoát: linh mục cử hành thánh lễ ngày hôm ấy chính là vị giáo sư khả kính của mình. Mãi sau này Chung mới biết rằng vị giáo sư ấy là một linh mục từng phục vụ ở Trung Hoa rất nhiều năm và gần gũi với những người bệnh mà không ai cứu chữa. Mang con tim nhạy cảm trước các nỗi bất hạnh, linh mục Lichtenberger, với kiến thức y khoa của một y công, đã phải mổ hàng trăm ca mà không có một bằng cấp nào; để rồi năm 44 tuổi, ngài mới về Bỉ học cho hết chương trình bác sĩ trong vòng 4 năm, thay vì 8 năm như mọi sinh viên y khoa khác. Tấm lòng của vị linh mục đã buộc ngài trở thành một bác sĩ thực thụ năm 48 tuổi. Chung chưa hề biết đến điều đó khi ngồi trên ghế đại học y khoa, nhưng nhìn thấy cha Lichtenberger trong áo lễ màu tím xuất thần cầu nguyện trên bàn thờ, Chung cảm nhận rằng thần tượng thứ hai của mình cũng đã đặt nền móng cho cuộc đời ông trên cùng một cội nguồn như thần tượng thứ nhất. Từ cái Mỹ mà anh đọc qua cuộc đời Đức Cha Cassaigne, chàng sinh viên Chung đã nghe được tiếng gọi của cái Thiện xuất phát từ tâm hồn của vị thầy tốt lành này.

Cái Thiện ấy rất gần mà cũng rất xa đối với anh. Có lần giáo sư Lichtenberger yêu cầu sinh viên điền vào tờ khai báo lý lịch trong đó có một ô ghi: nguyện vọng tương lai của anh (chị). Chung điền vào mọi ô khác một cách nhanh chóng rồi ngồi mãi trước ô ‘nguyện vọng tương lai’ mà không biết phải viết làm sao. Đối với các bạn khác thì không có gì phải suy nghĩ. Khi bước vào y khoa, họ đã có những hoài bão rõ ràng cho ngày mai rồi: trở thành một bác sĩ giỏi, theo học cao hơn ở nước ngoài, có một nơi làm việc xứng đáng, tìm cơ hội để thăng tiến trong nghiệp vụ và trong xã hội con người… Khi hết giờ, Chung nộp tờ khai mà ô nguyện vọng vẫn còn để trống. “Tôi xấu hổ không dám thổ lộ cho giáo sư Lichtenberger biết rằng nguyện vọng tương lai của mình là làm sao trở nên giống như giáo sư”.

Những tháng ngày ray rứt.

Con đường học vấn tưởng chừng đã êm ả thì biến cố 1975 đến đảo lộn mọi sự. Trường Y Khoa là một trong những trường mở cửa lại sớm nhất sau ngày 30 tháng 04, tuy nhiên đối với Chung, điều kiện tài chính ít ỏi để học tập đã biến mất. Cha anh là một trung sĩ nhất trong chế độ cũ nên không phải đi học tập, nhưng người anh cả từng là trung úy thì đang ở trong trại tập trung cải tạo. Chung không thể nào đang tâm nhìn cha hằng ngày đạp chiếc xích lô vắng khách để nuôi nấng năm đứa con đang lớn như thổi ở nhà. Anh thấy mình vừa có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng với cha vừa phải tiếp tục đi học. Hàng đêm, anh thay cha đạp xích lô từ 7 giờ đến 11 giờ khuya. Sau một thời gian, anh không còn sức lực để vừa đi học ban ngày vừa đạp xích lô ban đêm, nên đành phải chấp nhận để cha và em trai mình tìm kế sinh nhai cho cả nhà, còn anh thì theo học để mong tìm một lối ra cho gia đình vào những năm về sau. Ý thức sự thiếu hụt của mọi người, Chung không đòi hỏi một điều gì cả. Đêm đêm, anh xin vào trực bệnh viện mong có cơ hội thực tập qua các trường hợp cấp cứu. Có những đêm phải thức trắng rồi sáng hôm sau không có một đồng dính túi để điểm tâm, anh vào lớp học mà mắt cứ hoa lên vì buồn ngủ và vì đói.

“Phải trung thành với ý nguyện ban đầu, bằng bất cứ giá nào” … Với quyết tâm ấy, chàng thanh niên Chung mỗi năm lên một lớp cho đến 1978. Bước vào năm thứ năm, mọi sinh viên phải theo một chuyên khoa. Các sinh viên trình lên một bản gồm 3 nguyện vọng. Nhớ ơn người mẹ đã cơ cực qua 9 lần sinh con, mà mỗi lần là một biến cố thập tử nhất sinh, Chung chọn ngành ‘sản khoa’ ở nguyện vọng 1. Trong niên khóa ấy, giáo sư Đạt, một bác sĩ chuyên về nội thần kinh, đã làm cho anh thích thú môn học này, vì thế anh ghi ‘nội thần kinh’ ở nguyện vọng 2. Còn nguyện vọng 3, anh đành ghi ‘da liễu’ để có thể trả lời với cụ Lê Văn Duyệt rằng mình không thất hứa. Ngày nghe tuyên bố về chuyên khoa của mình, Chung hụt hẫng. Anh bị phân vào chuyên khoa ‘ký sinh trùng sốt rét’. Anh chẳng vào được khoa nào trong ba nguyện vọng anh ghi. Suốt hai năm còn lại tại trường Y Khoa, anh sống với tâm trạng đằn vặt của một người thất tín thất trung. Anh tự trách: “Vì mình không trung thành với lời hứa phục vụ người cùi, nên đấng bề trên chuyển mình sang khoa ký sinh trùng để xử phạt về tội bội tín!”

Trả món nợ lương tâm…

Anh ra trường năm 1980 và được phân công đến Phân Viện Sốt Rét TPHCM. Quá chán nản với công tác này, anh bỏ nhiệm sở mà về gia đình hành nghề chui, với tư cách là một bác sĩ đến từng gia đình bệnh nhân để chữa trị. Ít ra, anh cũng thực hiện được một trong hai điều mình tự hứa trước kia. Tuy không có phòng mạch như bao nhiêu bác sĩ khác, nhưng được cái là anh dễ mến, mát tay và nhận thù lao tương đối hạ, nên thu nhập cũng tạm đủ để giúp gia đình thoát khỏi cảnh túng thiếu trường kỳ. Cha anh ngưng đạp xích lô. Các em anh có phương tiện học hành hay thực hiện những mong ước của mình. Thế nhưng tự đáy lòng, tiếng trách móc của lương tâm không ngừng dày xéo anh: “Mày là một tên thất trung thất tín!”

Năm 1984, sau khi cưới vợ gả chồng cho các em, cũng như giúp họ ổn định cuộc sống, Chung quyết định trả cho xong món nợ lương tâm bằng cách bỏ lại mọi sự mà đi chăm sóc cho bệnh nhân cùi. Ý nghĩ đầu tiên là phải phục vụ tại Di Linh, nơi mà thần tượng thứ nhất của anh đã thành lập, đã sống, đã chết và hiện nay mộ phần ngài vẫn còn nằm tại đấy, trơ gan cùng tuế nguyệt như một chứng tích tình yêu. Anh lên trại phong Di Linh xin nữ tu phụ trách cho phép anh làm việc ở đấy. Các nữ tu rất trân trọng ý định của anh nhưng không thể đáp ứng yêu cầu, vì Trại Phong lúc bấy giờ đã trở thành một cơ sở của Nhà Nước mà các nữ tu không có quyền tuyển dụng nhân viên. Anh trở về Trường Y Khoa xin chuyển lên Di Linh. Về mặt hành chánh, nhà trường không thể bổ nhiệm anh vào trại phong mà chỉ có thể chuyển anh lên Sở Y Tế Lâm Đồng. Cầm giấy tờ trong tay, anh trình diện với vị trưởng phòng tổ chức Sở Y Tế và nói lên nguyện vọng được về Trại Phong Di Linh. Bà trưởng phòng ngạc nhiên hỏi:

Anh có điên không? Hay là anh bị cùi?

Nếu tôi cùi thì bà đã thấy rồi. Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều tôi biết là tôi mong muốn phục vụ những người cùi.

Anh sẽ nhận việc tại trạm sốt rét, vì chuyên khoa của anh là ‘ký sinh trùng sốt rét’ chứ không phải là ‘da liễu’.

Tôi lên đây vì muốn phục vụ tại trại phong Di Linh. Nếu bà không cho phép thì tôi về lại TP Hồ Chí Minh chứ không làm việc ở bất cứ nơi nào khác.

Về lại Saigon, anh tìm cách thực hiện lời hứa cho bằng được. Không thể nào phục vụ người phong nếu thiếu chuyên khoa da liễu, nên anh xin làm một nơi gần Saigon để có cơ hội bổ túc về chuyên khoa. Ngày 01-07-1986, anh bắt đầu nhận việc tại Trạm Sốt Rét Đồng Nai, trong khi chờ đợi cơ hội. Sau 3 năm làm việc tại đấy, cơ hội đã đưa anh đến Bệnh Viện Da Liễu TP Hồ Chí Minh. Tại đấy, anh vừa phục vụ vừa học chuyên khoa với điều kiện sau này phải chăm sóc người phong của Thành Phố, nghĩa là làm việc tại trại phong Bến Sắn.

Tiếng gọi của cái Chân.

Năm 1992, anh xuống Bến Sắn để nhận nhiệm sở mới. Thế là mãn nguyện. Ước mơ tuổi thanh niên đã trở thành hiện thực. Từ sáng thứ hai đến trưa thứ sáu, anh làm việc tại trại phong Bến Sắn để bước cùng nhịp với các thần tượng hầu trung thành với lời hứa của mình. Từ tối thứ sáu đến chiều chủ nhật, anh về Saigon làm bác sĩ tại gia để tìm một ít thu nhập cho cha mẹ sống qua tuần. Cuộc đời anh dường như đã tới đích, anh không còn ước mơ gì nữa.

Thế nhưng anh lại phải đối diện với những vấn đề mới của cuộc sống. Tại trại phong, anh thấy mình sống ở giữa hai nhóm người hoàn toàn trái ngược trong thái độ hành xử. Nhóm thứ nhất gồm những người thiện chí, mà đa số là các Nữ Tử Bác Ái, chỉ sống tất cả cho bệnh nhân; nhóm thứ hai gồm một số người nghĩ đến tư lợi của mình nhiều hơn là lợi ích người bệnh. Với tư cách là trưởng phòng y vụ, bác sĩ Chung được nhóm thứ hai săn đón để lôi kéo về phe mình, nhưng anh lại bị cuốn hút bởi nhóm thứ nhất, vì qua họ anh hầu như chạm được cái Chân tiềm tàng nơi những người mà anh từng đặt làm khuôn mẫu cho cuộc đời mình: Giám mục Cassaigne và linh mục Lichtenberger. Chính các nữ tu này đã khiến cuộc đời anh dứt khoát rẽ qua một bước ngoặt triệt để.

“Tôi còn nhớ sự kiện sau đây. Có lần hai anh em người Pháp đều là linh mục đưa một bác sĩ cũng quốc tịch Pháp đến cưa chân cho một số bệnh nhân tại trại phong Bến Sắn. Vết thương của một người bị nhiễm trùng, nên anh đã lớn tiếng với tôi: “Ông dùng tôi làm con vật thí nghiệm!”. Tôi quá tức giận nên đã nặng lời với anh. Một xơ cao niên chứng kiến cảnh này mà không nói một lời nào. Vài ngày sau, khi mọi chuyện đã êm, xơ nhẹ nhàng bảo tôi:

Bác sĩ Chung à, bệnh nhân đau chứ bác sĩ có đau đâu! Anh ấy bị cưa chân chứ bác sĩ có bị cưa chân đâu! Những gì bác sĩ làm cho bệnh nhân, bác sĩ đừng cho là nhiều rồi. Những điều bác sĩ làm cho họ không đền bù được nỗi đau cả đời của họ đâu!

Tôi bỗng thấy nơi xơ cao niên ấy một sức mạnh tinh thần họa hiếm. Ai đã giúp cho xơ có được lòng quảng đại thanh thản như thế? Chắc là Chúa của xơ. Nếu Chúa của xơ có thể ban cho xơ một sức mạnh như thế, thì Ngài cũng phải là Chúa của tôi!” 

Ý nghĩ rằng Chúa của các Nữ Tử Bác Ái cũng có thể là Chúa của mình vừa làm cho anh vui, vừa làm anh e ngại. Lời dặn dò của mẹ, từ thuở anh còn là một cậu bé tiểu học cư ngụ trong xóm đạo, cứ văng vẳng bên tai: “Chung không được đi đạo nhé. Người công giáo kỳ cục lắm, cứ dụ người ta theo đạo. Đạo ai nấy giữ chứ!”.

Quả là những người công giáo ở đây thật kỳ cục. Nhất là nữ tu công giáo. Nhưng kỳ cục không phải vì họ dụ dỗ anh theo đạo, mà vì họ sống trên đời nhưng không bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Một trong các nữ tu mà anh có cơ may cộng tác một thời gian ngắn là xơ Maria Phạm Thị Ngọc Loan, được mọi người trong trại gọi với cái tên thân thương là Dì Hai. Khi bác sĩ Chung về trại phong, Dì Hai đang ở đấy với hai tư cách: Phó Giám Đốc trại phong và Xơ Phục Vụ (soeur servante = dì bề trên) cộng đoàn Nữ Tử Bác Ái Bến Sắn. Anh nghe kể lại rằng Dì Hai về đây năm 1976, lúc mà chế độ chăm sóc các bệnh nhân phong hầu như không có gì, trong khi những nhân viên mới đổi tới lấy hết cái này đến cái nọ trong trại về làm của riêng. Dì đã phải đứng ra bảo vệ cho bệnh nhân và cỡi chiếc gắn máy tồi tàn chạy bằng xăng pha dầu lửa về thành phố Hồ Chí Minh mỗi tuần nhiều lần hầu tìm nguồn lương thực cho họ, đồng thời kêu gọi và đưa về Bến Sắn những bệnh nhân bỏ trại lên sống vất va vất vưởng trên vỉa hè Sàigòn. Tim của Dì đập theo từng nhịp của con tim bệnh nhân trong vòng 17 năm trường, để rồi ngưng lại khi người ta phát hiện quá muộn bệnh ung thư trong hình hài của Dì. Dì sợ rằng cho biết sớm thì nhà dòng sẽ cấm dì tiếp tục phục vụ bệnh nhân phong: Dì đã hy sinh mạng sống mình cho họ, theo nghĩa đen.

“Hôm ấy chúng tôi sắp đi công tác từ TP Hồ Chí Minh. Biết rằng Dì Hai đang ở vào những giờ phút cuối đời, tôi ghé lại 36 Tú Xương để chào từ biệt. Tôi nói:

Dì Hai à, chút xíu nữa đây, con với bác sĩ Quang và chị Bích Vân sẽ lên trại phong Di Linh mổ mắt cho bệnh nhân trên ấy.

Nghe tôi nói, đôi môi héo hắt của Dì Hai thoáng nở một nụ cười. Tôi bước ra ngoài chờ xe. Xe chậm đến. Nghĩ rằng đây có lẽ là lần cuối cùng còn gặp mặt Dì Hai, nên tôi luyến tiếc trở lại một vài phút cạnh Dì. Nghe tiếng chân tôi vào, Dì Hai hé mở mắt, nhìn thấy tôi, mấp máy đôi môi để nói lên một điều gì. Xơ chăm sóc ghé tai vào miệng Dì lắng nghe, rồi lặp lại cho tôi: “Chung – Dì Hai hỏi – tại sao chưa đi?” Thế đấy! Đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, Dì Hai vẫn không nghĩ gì đến mình, mà chỉ nghĩ đến bệnh nhân. Không chỉ là bệnh nhân tại Bến Sắn mà còn cả bệnh nhân tại Di Linh nữa!”

Một bước ngoặt triệt để.Chung! Tại sao chưa đi?

Vâng, đã đến lúc bác sĩ Chung quyết định đi đạo, đi theo con đường mà Dì Hai Loan đã từng đi. Sau đám tang của Dì Hai, anh đến gặp Dì Camille Hạnh, giám tỉnh dòng Nữ Tử Bác Ái, và trình lên ý nguyện đi tu để sống trọn vẹn cho bệnh nhân giống như các dì. Dì Hạnh thông cảm từ thâm sâu mong ước của anh, vì dì cũng từng là một người chịu phép rửa vào tuổi trưởng thành trước khi dâng hiến trọn đời mình cho Chúa với tư cách nữ tu. Trong thời gian này, cha bề trên tổng quyền Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn đang có mặt tại Saigon (Thánh Vinh Sơn Phaolô cũng là vị sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái), nên Dì Hạnh đã đứng ra bảo lãnh và xin ngài nhận anh vào dòng Truyền Giáo. Cha tổng quyền chấp thuận nhưng bảo rằng chỉ nhận vào dòng sau khi anh học đạo và chịu bí tích thánh tẩy. Lúc bấy giờ anh chưa có khái niệm gì rõ ràng về Thiên Chúa. Điều duy nhất anh biết: Ngài phải là cội nguổn của Chân Thiện Mỹ, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của những con người sống cuộc đời chân thật, tốt lành và tuyệt đẹp. Vì thế, anh không do dự mảy may: Chúa của Đức Cha Cassaigne, của Cha Lichtenberger, của Dì Hai Loan, sẽ là Chúa của anh. Chỉ còn một vướng mắc nhỏ: cha mẹ anh nghĩ sao? Anh trình với song thân và hai vị bảo:

“Con đã lớn nên toàn quyền chọn con đường có ý nghĩa nhất cho đời mình; các em con cũng đã lớn, chúng có thể chăm sóc cha mẹ, con đừng lo.”

Ngày 28-08-1993, hai mươi năm sau bài báo của Chính Luận, bác sĩ Chung đến dòng Tên tại Bình Dương gặp cha Hoàng Văn Đạt xin học giáo lý tân tòng. Cha vui mừng báo anh hay rằng ngày hôm ấy Giáo Hội mừng lễ thánh Âu Tinh, một người đã chịu phép rửa khi đang là một giáo sư lỗi lạc tại Rôma, để rồi trở thành một linh mục và một giám mục thánh thiện và uyên bác tại Hippone, một thành phố Châu Phi. Để đánh dấu cho bước ngoặt đáng ghi nhớ này, anh chọn thánh Âu Tinh làm quan thầy mình. Âu Tinh Nguyễn Viết Chung lãnh nhận bí tích thanh tẩy từ tay cha chính xứ Bến Sắn, linh mục Trần Thế Thuận, ngày 15-05-1994, tại nhà nguyện Trại Phong Bến Sắn.

Ngày 15-09-1994, anh trở lên Đalat, nhưng lần này không phải đến Sở Y Tế xin phục vụ người phong, mà đến 40 Trần Phú, trụ sở dòng Truyền Giáo Vinh Sơn, để khởi sự tập luyện cuộc sống quên mình trọn vẹn. Muốn thời gian tìm hiểu không gây trở ngại cho tương lai của bác sĩ Chung, nếu ơn gọi linh mục không phải là con đường Chúa dành cho anh, bề trên Tu Hội Truyền Giáo tại Việt Nam đề nghị anh làm quen với nếp sống tu trì tại Túc Trưng. Suốt một năm ròng, mỗi tháng bác sĩ Chung làm việc 3 tuần liên tục ở Bến Sắn, và dành trọn tuần thứ tư để sống tại nhà dòng Túc Trưng. Trong thời gian thử thách này, anh đã chu toàn đúng mức hai vai trò trái ngược của mình: Bác sĩ trưởng tại Trại Phong và em út trong cộng đoàn Vinh Sơn. Sau một năm, bề trên thấy rằng đã đến lúc anh bỏ vai trưởng để chỉ còn sống trong vai út. Anh xin nghỉ việc tại Trại Phong Bến Sắn và chính thức gia nhập Tu Hội Truyền Giáo ngày 01-06-1995.

Thời gian nhà tập hẳn không dễ dàng gì cho một người đã công thành danh toại rồi một sớm một chiều trở nên ‘lính mới’ phải vâng phục mọi người, trong số đó có những thầy bằng nửa số tuổi của anh. Thế nhưng bác sĩ Chung biểu hiện tư cách của một con người đã thực sự tự hủy theo gương Chúa Kitô. Các thầy cùng thời với anh chân thành thổ lộ: “Anh Chung luôn là một mẫu gương khiêm nhường cho tất cả chúng em.” 

Nhà dòng cho phép tu sĩ Chung học dồn chương trình triết học trong vòng một năm, để rồi khởi sự 4 năm thần học kể từ năm 1997. Ngày 25-03-2003, Giáo Hội trao thừa tác vụ linh mục cho thầy Âu Tinh Nguyễn Viết Chung, qua lễ đặt tay của Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống, tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp TP Hồ Chí Minh.

Hành trình của một cuộc đời.

Hành trình của một cậu bé sợ hãi trong xó nhà đã kết thúc nơi bàn thánh. Một người khởi hành trong cái nghèo khó bị áp đặt, đi cả một vòng đời, rồi đến đích trong sự khó nghèo tự nguyện. Một người đi từ nỗi bất hạnh vì phải nghèo đến niềm hạnh phúc được sống nghèo. Một người suốt đời mang trong mình tiếng gọi: Phải trung thành! Và nhờ lòng trung thành ấy mà linh mục Nguyễn Viết Chung nhận được Tin Mừng Cứu Độ, không phải qua những lời rao giảng, mà qua hành động cụ thể của những con người, để rồi từng buớc nghe được cái Mỹ, thấy được cái Thiện, chạm được cái Chân xuất phát từ Chúa Kitô, Đấng Tình Yêu muôn đời tận hiến.

“Nếu tôi có một lời để nhắn nhủ với người trẻ hôm nay, thì tôi chỉ nói với họ điều này: Khi bạn phải sống trong hoàn cảnh của một người nghèo, bạn cần nỗ lực ban đầu để vượt qua, nhưng hãy nhớ rằng mình luôn có những vấp váp. Rồi một ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng tiền không phải là trên hết. Điều làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa, ấy là phải trung thành. Tôi đã từng bất trung. Và đã phải thông qua những kinh nghiệm chua chát.”

“…Tôi còn nhớ hôm cha tổng quyền chấp thuận cho tôi nhập dòng Vinh Sơn là ngày thứ bảy. Qua hôm sau, ngày chúa nhật, các cha Dòng Camillo mở diễn đàn kêu gọi các thanh niên dâng hiến đời mình với tư cách là bác sĩ linh mục. Đây là đặc sủng của dòng ấy, và lời kêu gọi này rất phù hợp với tôi. Thế nhưng tôi đã trốn không tham dự, vì muốn trung thành với Tu Hội Vinh Sơn. Tôi đã biết thế nào là giá phải trả cho sự bất trung rồi.”

Con đường của bác sĩ Chung tưởng chừng như kết thúc tại cung thánh khi lãnh nhận chức linh mục. Tuy nhiên, từ nơi ấy lại khởi đầu cho một hành trình mới. Bác sĩ Chung trở lại với những bệnh nhân Aids ở Mai Hòa, với những người nghiện ma túy ở nhiều tổ chức và trung tâm khác nhau… Nhưng lần này, qua việc chữa trị thân xác, linh mục Chung còn đem lại cho họ bình an tâm hồn, một niềm bình an xuất phát từ Thiên Chúa của những người mình ngưỡng mộ và cảm phục, mà giờ đây đã trở thành Thiên Chúa của chính mình. Với chức linh mục, bác sĩ Chung làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng nghiệp vụ và tác vụ, mà còn bằng cả đời sống của bản thân mình.

Nhìn lại con đường đã qua, bác sĩ Chung thường xuyên lặp lại phương châm mình đã chọn cho ngày thụ phong:

“Tạ ơn Chúa, Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.”

Và nhìn vào ngày mai, linh mục Chung không ngừng trung thành cam kết:

“Điều khấn hứa cùng Ngài, con xin giữ trọn.” 

Con đường Chúa đã dẫn đi…

Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên thế gian, Nguyễn Viết Chung biết chắt lọc một vài khuôn mẫu định hướng cho cuộc đời mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan… đấy là chưa kể đến nhiều người khác, trong đó có thân mẫu của mình, một người mẹ đã suốt đời âm thầm chịu đựng cho đến khi mù lòa. Giữa các gương mặt ấy, có một nhân vật gần giống như Nguyễn Viết Chung: Linh Mục Bác Sĩ Marcel Lichtenberger. Thế nhưng con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược nhau. Năm 25 tuổi, cha Lichtenberger bị tình yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến với những con người bất hạnh tại Trung Hoa; và trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện trên hình hài các bệnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi trở thành một bác sĩ năm 48 tuổi. Ngược lại, Nguyễn Viết Chung tốt nghiệp bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi vì muốn chia sẻ trọn vẹn sự khốn cùng của bệnh nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chịu đóng đinh trong những con người bất hạnh, và điều này khiến cho vị bác sĩ tận tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành linh mục của Chúa vào tuổi 48. Một linh mục trở thành bác sĩ đã là đèn soi cho một bác sĩ trở thành linh mục. Hành trình trái ngược của hai linh mục bác sĩ này bộc lộ cho chúng ta một chân lý. Ai đến với Thiên Chúa một cách chân thật và trung thành thì rồi sẽ liên đới với những con người bất hạnh. Và ai liên đới với người cùng khổ một cách chân thật và trung thành thì rồi sẽ gặp được Thiên Chúa từ nơi thâm sâu của lòng mình.

Theo http://www.ubmvgiadinh.org/

 

 Vị linh mục của bệnh nhân phong cùi

Triết Giang
 27.03.2012 15:23

 

 

Những bệnh nhân phong ở Việt Nam thật may mắn vì có những người bạn gắn bó cả cuộc đời của mình với bệnh nhân như giám mục Jean Cassaigne (1895-1973), như nữ tu Mai Thị Mậu và nay lại có thêm một linh mục nữa. Đó là cha Augustino Nguyễn Viết Chung.
 

Linh mục Nguyễn Viết Chung sinh năm 1955 trong một gia đình nghèo quê gốc ỏ làng Ngũ Xá, Ý Yên, Nam Định và di cư vào Nam năm 1954 và không theo Công giáo. Sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần năm 1973 thì có một sự kiện ảnh hưởng lớn đến tương lai của cậu tú Chung đó là giám mục Jean Cassaigne qua đời. Báo chí lúc đó đã dành rất nhiều lời ca ngợi cho một vị giám mục người Pháp nhưng đã tình nguyện gắn bó đời minh cho đến hơi thở cuối cùng với các bệnh nhân phong ở Di Linh ( Lâm Đồng). Cậu thấy ngưỡng mộ và muốn noi gương vị giám mục của người cùi. Cậu muốn thi vào ngành y khoa vì vậy khi tốt nghiệp trung học đệ nhất, cậu bỏ qua đệ tam mà vào ngay đệ nhị. Nhờ vậy mà cậu thoát được lệnh tổng động viên năm 1973 và trở thành sinh viên ngành y năm 1974 . Trong thời gian học y, có một giáo sư người Bỉ là bác sĩ Lichtenberger dạy về Mô phôi học rất say sưa và nhiệt huyết với sinh viên. Cậu thường tìm cách tiếp xúc với thày để học thêm và biết thêm giáo sư này cũng là linh mục dòng Tên. Cậu và các sinh viên vẫn rủ nhau đến dự lễ do giáo sư Lichtenberg chủ sự dù không phải là người Công giáo. Một câu hỏi cậu đặt ra là có phải tôn giáo mà giám mục J. Cassaigne và linh mục Lichtenberg theo làm nên nhiệt huyết của các vị này? Theo nhiệt huyết đó, khác với nhiều sinh viên y khoa đều muốn chọn chuyên ngành sạch sẽ, dễ kiếm tiền như chuyên khoa mắt, tai mũi họng, nội, ngoại… Chung chọn khoa sản và ký sinh trùng . Kết quả Chung vào chuyên ngành ký sinh trùng học.

Những năm học y khoa, cậu Chung phải đạp xích lô để kiếm sống và còn phụ giúp gia đình. Sau khi tốt nghiệp năm 1980, bác sĩ Chung đi làm ngay và công việc khá tốt, thu nhập khá nên có điều kiện lo cho các em ăn học hơn. Thế nhưng, tấm gương của giám mục J. Cassaigne vẫn thôi thúc bác sĩ đến với những bệnh nhân phong. Năm 1984, khi đó bác sĩ Chung 29 tuổi đã mang hồ sơ lên Sở y tế Lâm Đồng để xin đến phục vụ ở trại phong Di Linh. Bà trưởng phòng tổ chức Sở y tế Lâm Đồng rất ngạc nhiên vì một bác sĩ đang có công việc ở Thành phố Hồ Chí Minh lại xin lên rừng. Bà hỏi:

–   Anh bị phong cùi hay bị điên?

Bác sĩ Chung đáp:

–   Nếu tôi bị phong cùi thì bà đã trông thấy, còn điên hay không thì chưa biết nhưng tôi chỉ muốn phục vụ những người bị bệnh phong cùi.

 Sở y tế Lâm Đồng đồng không chấp chấp nhận nguyện vọng của bác sĩ Chung. Bác sĩ lên thẳng trại phong Di Linh nhưng các nữ tu cũng không thể giúp được vì trại đã thuộc cơ sở Nhà nước quản lý và việc điều động nhân sự vẫn thuộc Sở y tế Lâm Đồng. Anh quay về làm việc tại Trung tâm phòng chống sốt rét của tỉnh Đồng Nai. Tại đây, bác sĩ Chung vẫn không ngừng học hỏi thêm về da liễu nên năm 1993 bác sĩ lại tình nguyện đến công tác tại trại phong Bến Sắn ( huyện Tân Uyên, Bình Dương) . Trại này được thành lập năm 1959 do các nữ tu thừa sai Bác ái Vinh sơn quản lý và năm 1976 thì Nhà nước quản lý. Trại có hơn 800 bệnh nhân. Bệnh nhân ở đây nhiều người đã bị gia đình ruồng bỏ. Một bé gái 12 tuổi khi phát bệnh, đang ở với anh chị đã bị đuổi khỏi nhà nên phải vào trại. Nhiều bệnh nhân thèm khát gặp gỡ người thân. Một cụ già hơn 40 năm ở trại không con cháu vào thăm, nằm mơ thấy con cháu đến thăm, cụ lao ra cửa để gặp, va đầu vào song sắt nên đã tử vong sau đó ít ngày. Bác sĩ Chung lao vào việc phục vụ, chữa trị cho các bệnh nhân với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ và thầm theo gương của giám mục J. Cassaigne. Phục vụ bệnh nhân ở đây cũng có một số nữ tu của tu hội Bác ái Vinh sơn. Họ chăm sóc bệnh nhân như những người ruột thịt và bác sĩ Chung luôn tự hỏi: Vì sao mình đã cố gắng hết sức mà không thể tận tình và chu đáo như họ, không vui vẻ như họ dù công việc hết sức vất vả, nặng nhọc và nguy hiểm. Có lần, một bệnh nhân phải phẫu thuật cắt bỏ chân. Anh ta la lối và chửi rủa các bác sĩ, nữ tu phục vụ rất nặng lời. Bác sĩ Chung nổi cáu mắng lại. Còn các nữ tu thì vẫn nhẹ nhàng khuyên bảo bệnh nhân. Một nữ tu kéo bác sĩ ra ngoài nói:

–   Cắt chân, bệnh nhân đau chứ bác sĩ có đau đâu mà sao bác sĩ lại nổi nóng thế?

Sau này nghĩ lại, bác sĩ Chung dò hỏi các nữ tu:

–   Làm sao các chị phục vụ được bệnh nhân với tinh thần tận tuỵ, yêu thương như thế?

Các nữ tu bảo: Chúa dạy chúng tôi làm thế.

Vậy là bác sĩ Chung quyết tìm hiểu xem Chúa của các nữ tu là ai. Bác sĩ Chung tìm gặp linh mục Hoàng Văn Đoàn ( dòng Tên) ở Bình Dương để tìm hiểu về đạo Công giáo và đến ngày 28-8-1993 được linh mục chính xứ Bến Sắn Trần Thế Thuận làm lễ khai tâm để gia nhập đạo Công giáo với tên thánh là Augustino.

Gia đình bác sĩ nhiều người không tán thành vì cho rằng anh bị tâm thần. Bố anh mắng anh không biết nhục với bạn bè, chúng nó bây giờ đều có nhà lầu và ô tô ở Sài Gòn còn anh vẫn đi xe đạp. Chỉ có mẹ anh dù bị mù loà vẫn thương con nên bảo: thôi, đạo mẹ mẹ giữ, đạo con, con theo. Anh cam kết:

–   Xin mẹ cứ yên tâm mà giữ đạo của mẹ, con không dám khuyên mẹ theo đạo của con đâu.

Theo đạo chưa đủ. Bác sĩ Chung còn muốn dấn thân nhiều hơn cho các bệhh nhân phong nên sau một thời gian suy nghĩ, ngày 15-9-1994, anh đã xin vào dòng Vinh sơn khi bước vào tuổi 40. Ngày 25-3-2003, tại đền thờ Đức Mẹ hằng cứu giúp, Đức giám mục Vũ Duy Thống- giám mục phụ tá giáo phận thành phố Hồ Chí Minh đã truyền chức linh mục cho thày Ausg. Nguyễn Viết Chung. Ngay sau đó, tân linh mục đã về dâng lễ mở tay tại trại phong Bến Sắn . Các bệnh nhân đã vây quanh vị tân linh mục để chúc mừng tân chức nhưng cũng là mừng cho chính họ vì có thêm một linh mục gắn bó với họ.

Do điều động của Bề trên nhà dòng nên năm 2010, linh mục Nguyễn Viết Chung được bài sai về trụ sở chính của dòng ở Nguyễn Kiệm, thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng công việc của nhà dòng vẫn không ngăn được tinh thần phục vụ các bệnh nhân hiểm nghèo của linh mục Augustino. Cha dành thời gian vừa đi làm lễ ở nhà tình thường Bình Lợi để có điều kiện thăm hỏi các cụ già ở đây. Cha cũng sắp xếp lịch hai buổi là thứ ba, thứ sáu đến khám bệnh và chữa trị cho các bệnh nhân HIV/AIDS ở phòng khám bệnh nhà thờ Phú Trung cùng với nhóm Tiếng Vọng rồi còn giành thời gian đi thăm bệnh nhân AIDS giai đoạn cuối ở Trung tâm Mai Hoà. Chỉ cần thấy bóng xe máy của cha ở cổng là lũ trẻ trong Trung tâm chạy ào ra ríu rít: Cha Chung, bố Chung.

Giữa năm 2010, cha Chung nhận được điện thoại của một giáo dân người Sê đê:

–   Cha ơi, có một đứa trẻ bị bệnh sắp mù, Cha có giúp được không?

–   Giúp chứ sao không.

–   Nhưng em đó không phải là người Công giáo.

–   Vẫn giúp, đem xuống Sài Gòn đi, Cha đón.

Thế là Cha chạy vạy bác sĩ quen, tìm kiếm kinh phí đưa bé A Phan đi phẫu thuật. Căn bệnh của em rất phức tạp vì phát hiện muộn. Ba tháng sau, em xin gia nhập đạo và cha Chung rất xúc động khi rửa tội cho em vào ngày 12-8-2010 với tên thánh là Phao lô. Một tháng sau bé A Phan qua đời trong bệnh viện nhưng tấm lòng của cha Chung đã làm cho gia đình em cảm động. 15 gia đình dòng họ của em đã xin học giáo lý Công giáo để gia nhập đạo.

Cha Chung đã truyền giáo không phải bằng lời giảng thuyết mà bằng lòng thương yêu người bệnh nghèo khổ.

Triết Giang

Tác giả:  Gs. Trần Duy Nhiên

Một người nhập viện cấp cứu sau hai ngày bị tạm giam

Một người nhập viện cấp cứu sau hai ngày bị tạm giam

10/05/2017 

Tuoitre.vn

TTO – Chiều 10-5, lãnh đạo Công an tỉnh Đắk Lắk cho biết đã nắm được thông tin một đối tượng bị tạm giam nhưng phải nhập viện cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắk và đã yêu cầu các đơn vị tường trình vụ việc.

 Một người nhập viện cấp cứu sau hai ngày bị tạm giam
Anh Vũ Văn Chiến được cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Đắk Lắk – Ảnh: B.D

Chiều cùng ngày, sau khi Vũ Văn Chiến (trú tại xã Cư Pơng, Krông Búk, Đắk Lắk) được chuyển cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Đắk Lắk, rất đông người nhà của anh Chiến đã có mặt và bày tỏ sự bức xúc, yêu cầu công an phải làm rõ sự việc.

Người không quan tâm đến chính trị

From facebook:  Phan Thị Hồng added 5 new photos — with Hoa Kim Ngo and 15 others.
Người không quan tâm đến chính trị

Khi bạn im lặng, thờ ơ trước những bất công, có nghĩa là bạn đã ra mặt ủng hộ những thế lực bạo quyền, đàn áp dân lành, bạn đã tiếp tay và ủng hộ một chế độ̣ bạo ngược.

Hôm nay bạn không quan tâm đến chuyện bất công của xã hội, coi đó không phải là việc của mình, thì rất có thể ngày mai bạn sẽ trở thành nạn nhân của cái chế độ mà bạn tôn thờ.

Mới đây bạn @Phạm Thái Dương đã viết STT trên trang nhà của bạn ấy, bạn đã chế giễu, xúc phạm và mỉa mai những người đấu tranh đòi nhân quyền.

Bạn @Phạm Thái Dương đã ví những người đấu tranh là đồ chó với sự hả dạ, sung sướng tận cùng, thì hôm nay chính bạn ấy bị côn đồ và những người mặt quân phục CA đánh vỡ mồm.

Bạn cứ tin tưởng vào nhà cai trị độc tài, hôm nay bạn chỉ bị đánh vỡ mồm, ngày kia bạn sẽ bị đánh vỡ mặt hoặc mời vô đồn công an để được tự tử.

Nếu bạn không được nhân dân bảo vệ, thì không một chính quyền hay nhà nước nào có thể bảo vệ được bạn và gia đình bạn!

Đây chỉ là một ví dụ cảnh báo những bạn đã không quan tâm đến chính trị mà còn mỉa mai, dè bĩu những người đã đấu tranh cho chính mình và gia đình mình, cho toàn xã hội kể cả những người là đảng viên cộng sản.

Có nhiều đề tài cần đề cập và hoàn toàn không cố ý viết về trường hợp của bạn Phạm Thái Dương.

Ảnh 1: Bạn @Phạm Thái Dương bị bọn côn đồ đánh trong đó có cả những người công an mặt quân phục.

Các hình ảnh đều copy từ trang nhà và bài đăng của chính bạn @Phạm Thái Dương

https://m.facebook.com/story.php…

Image may contain: 1 person, closeup
Image may contain: one or more people and text
Image may contain: 1 person
Image may contain: 1 person, text and outdoor
Image may contain: one or more people, people sitting and text