Hậu đồng tâm trong bóng đêm & rắn rết

Hậu đồng tâm trong bóng đêm & rắn rết

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) – Sẽ còn nhiều lươn lẹo, mưu mẹo ở Đồng Tâm. – G.S. Tương Lai

Ngay sau biến động Đồng Tâm, vài trang mạng (Đàn Chim ViệtVấn Đề…) đã đăng lại “Báo Cáo Về Vụ Nổi Dậy Ở Thái Bình” của G.S. Tương Lai – khi ông còn đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng Viện Xã Hội Học Việt Nam. Đây là một tập tài liệu khả tín, khách quan – dài 53 trang – với phần kết luận hơi (bị) lạc quan:

“Sự kiện Thái Bình, nếu với cái nhìn tỉnh táo, sẽ là một cơ hội để chúng ta có thể nhìn rõ thực trạng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của nông thôn nước ta, do vậy mà có những chủ trương đúng sách lược đúng, đưa nông nghiệp và nông thôn đi vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.”

Hai mươi năm sau, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Khánh An (VOA) vào hôm 17 tháng 4 năm 2017, G.S. Tương Lai – tiếc thay – đã còn giữ được sự lạc quan và niềm hy vọng (“có những chủ trương đúng sách lược đúng“) như hai thập niên trước nữa. Ông buông thõng: “Sẽ còn nhiều ‘lươn lẹo,’ ‘mưu mẹo’ ở Đồng Tâm.”

Mọi sự “lươn lẹo, cũng như “mưu mẹo” sắp tới – tất nhiên – không đến từ phía những người nông dân Việt Nam chân chất. Nỗi bi quan của G.S. Tương Lai khiến tôi chợt nhớ đến lời tuyên bố của ông, đúng hai năm trước – vào hôm 29/04/2015 – khi trả lời Thụy Mi ( RFI ) về một câu hỏi có liên quan đến vấn đề thời cuộc:

“Chúng tôi khẳng định rằng khả năng tốt nhất, có ý nghĩa lớn nhất là tự những người lãnh đạo trong giới cầm quyền hiện nay tự chuyển biến, để họ biết đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của dân tộc lên trên hết. Từ sự chuyển biến đó, dần dần từng bước thay đổi thể chế chính trị, thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu làm được như thế, họ sẽ lấy lại uy tín.”

Làm thế nào để người dân Việt có thể đặt lại niềm tin vào “giới cầm quyền mưu mẹo” và “lươn lẹo” (rõ ràng) là một nan đề, nhất là riêng với nông dân – giới người vừa lên tiếng kêu than rằng “chúng tôi đã bị lừa quá nhiều rồi.”

Giữa tình cảnh hoang mang, căng thẳng, và lo sợ của hàng vạn con dân chân lấm tay bùn này – tuyệt nhiên – không thấy một vị “lãnh đạo cấp cao” nào “vào cuộc” cả. Chủ Tịch Nước, Chủ Tịch Quốc Hội, Thủ Tướng… đều câm như hến!

Kẻ lên tiếng, mỉa mai thay, chỉ là một thường dân – theo tường thuật của Viễn Đông (VOA) nghe được vào hôm 19 tháng 4 năm 2017:

“Người nông dân nổi dậy” ở Hải Phòng, từng đứng lên chống lực lượng thu hồi đất, cho biết rằng ông “sẵn sàng đứng ra làm trung gian” giữa người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, với chính quyền nhằm giúp làm hạ nhiệt căng thẳng hiện nay…

Người nông dân, từng được hàng xóm láng giềng và người thân ở Hải Phòng đón chào như người hùng sau khi được đặc xá trở về, nhận định tiếp:

“Theo ý kiến cá nhân tôi, chính phủ phải vào cuộc, phải thành lập đoàn thanh tra để làm rõ. Chính phủ phải có kết luận rõ ràng, công bố công khai và xử lý tất cả các quan chức từ xã, huyện, thậm chí cả thành phố Hà Nội. Nếu có dấu hiệu sai phạm phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Sau đó, phải thả khẩn cấp những người mà chính quyền bắt. Cái sai về chính quyền phải xử lý trước”.

Tôi vô cùng trân trọng thiện ý, cũng như thiện chí, của kỹ sư Đoàn Văn Vươn; tuy thế, vẫn không khỏi cảm thấy ái ngại khi đọc lại những sự kiện đã xảy ra tại quê hương ông – theo tường trình của Gia Minh (RFA) vào hôm 2 tháng 10 năm 2012:

“Tin cho biết cuộc làm việc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hải Phòng bắt đầu từ lúc 2 giờ chiều, và đến 5 giờ Chủ nhiệm văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam có cuộc họp báo thông tin về kết luận của Thủ tướng tại Trung tâm hội nghị quốc tế.

Theo ông Vũ Đức Đam thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận hai quyết định giao đất QĐ447 và QĐ220 của huyện Tiên Lãng đều không đúng pháp luật. 

Đến hai quyết định thu hồi 460 và 461 cũng trái pháp luật. Vì quyết định thu hồi không đúng nên việc cưỡng chế cũng không đúng. 

Còn về việc hủy hoại tài sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, thủ tướng yêu cầu xử lý theo đúng qui định của pháp luật.” 

Dù Thủ Tướng “kết luận rõ ràng” như trên nhưng rồi anh em ông Đoàn Văn Vươn vẫn cứ phải đi tù, còn người chỉ huy vụ “trận đánh đẹp” (phá hủy nhà cửa của nạn nhân) Đại Tá Đỗ Hữu Ca – Giám Đốc Công An Hải Phòng thì được thăng cấp!

 

 

 

 

 

 

 

 

Ông Đỗ Hữu Ca – Giám đốc CA TP HP được thăng hàm Thiếu tướng. 
Ảnh & thú thích: báo Pháp Luật

Dù vậy, xét cho cùng, qúi ông Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Qúi vẫn còn được coi là những người may mắn vì đã được công luận biết đến tên tuổi nên không thể tự nhiên mà “mất hút” trong hệ thống lao tù được.

Rất nhiều người dân Việt đã không có được sự “may mắn” tương tự:

“Cách đây chừng một thập kỷ đã xảy ra vụ nổi loạn của nông dân Thái Bình. Những người dân cày đói ăn biểu tình yêu cầu bọn quan chức địa phương hoàn lại những món tiền bị cưỡng đoạt trái phép. Cuộc khởi loạn thoạt tiên xảy ra trên bảy huyện trong tỉnh, trước hết là Quỳnh Phụ, sau đó lan ra các tỉnh lân cận như Hải Hưng, Vĩnh Phú, Quảng Ninh…

Phóng viên nước ngoài rầm rộ đổ đến Hà Nội… Họ đón tiếp niềm nở, nụ cười thường trực gắn trên môi: trà ngon, gà vườn, quà tặng rẻ tiền nhưng lạ mắt… Kèm theo đó là sự hứa hẹn mềm mỏng: ‘chúng tôi sẽ để các ông các bà xuống tỉnh Thái Bình trong thời gian ngắn nhất, với điều kiện đảm bảo được sự an toàn của quý vị’. 

Sự trì hoãn đó có hiệu lực. Một tuần, hai tuần, ba tuần trôi qua. Các ông tây bà đầm không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi. Quỹ thời gian có hạn. Hà Nội chỉ là một quán trọ xoàng. Hành tinh mênh mông còn có biết bao nơi chốn mời gọi… Họ lần lượt ra đi.

Khi phóng viên nước ngoài cuối cùng lên máy bay và các ống kính đã chĩa về hướng khác là lúc cuộc đàn áp bắt đầu. Trong một đêm, hàng nghìn cựu chiến binh đã bị bắt…

Cuộc vây bắt diễn ra êm nhẹ. Hoàn toàn trong bóng đêm. Sót lại là tiếng kêu khóc của đám dân quê đói khổ, thất học, thân nhân của những người bị cùm trói và tống vào xe thùng sắt.

Các cựu chiến binh Thái Bình, những người đã hiến dâng toàn bộ tuổi thanh xuân trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, những thương bệnh binh nạn nhân của chất độc da cam, những người thường được ca ngợi véo von là anh hùng cứu nước. Họ sẽ được đảng Cộng sản thân yêu đối xử ra sao?

Họ bị phân tán vào khắp các trại tù, sống trà trộn giữa đám tội phạm thật sự. Ở đó, họ sẽ chết trong một thời gian rất ngắn bởi chính các bạn tù này. Bọn tội phạm được lệnh thủ tiêu họ. Đương nhiên, ‘lệnh mồm’ và ban bố một cách thì thầm đến tận từng cá nhân. 

Đây chính là ‘phương thức châu Á’, nhóm danh từ tôi tạm mượn ông Karl Marx tôn kính ở phương Tây. Bọn tội phạm được hứa hẹn giảm án theo thành tích: giết một người án 20 năm giảm xuống 18 năm. Giết hai người, 18 năm còn lại 16… Cứ thế mà thực thi.

Khởi sự là các cuộc khiêu khích, gây hấn. Sau đấy là cuộc tàn sát bằng các hình thức khác biệt, trong đó một hình thức đặc biệt hiệu nghiệm và rất ấn tượng: giết người bằng đũa ăn. Người châu Á ăn cơm bằng đũa. Dụng cụ ẩm thực biến thành vũ khí sát nhân là sự ứng biến tuyệt vời. 

Người ta vót những chiếc đũa bằng gốc tre đực, thứ tre cứng như sắt, một đầu đũa được chuốt nhọn như kim đan. Khi các cựu chiến binh Thái Bình đang ngủ, bọn tội phạm bất thình lình đóng chiếc đũa này vào lỗ tai của họ. Với độ dài 25cm, đũa xuyên suốt từ tai nọ sang tai kia. Nạn nhân chết tức khắc không kịp bật một tiếng kêu.

Như thế, trong bóng đêm và trong sự im lặng, những người cầm đầu cuộc biểu tình của dân cày Thái Bình đã chết theo kiểu ấy.” (Dương Thu Hương – “Bóng Đêm Rắn Rết & Nước Mắt.” Paris, tháng 4/2007).

Mai hậu, liệu có cách nào để tránh cho những người dân cầy ở Đồng Tâm khỏi phải “chết theo kiểu ấy,” trong “bóng đêm” đang bao phủ Việt Nam không?

24/4/2017

Biểu tình phản đối công an thu áo No-Formosa

Biểu tình phản đối công an thu áo No-Formosa

2017-04-24
 

Áo thun có biểu tượng phản đối Formosa.

Áo thun có biểu tượng phản đối Formosa.

Courtesy of danlambao
 
 

Hàng ngàn người tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, trong đó có nhiều giáo dân Công giáo hôm 24 tháng tư biểu tình bao vây trụ sở công an huyện Quỳnh lưu.

Lý do của cuộc biểu tình là một số nhân viên an ninh và công an, vào sáng cùng ngày chận đường người dân, tịch thu áo thun có in hình đòi công ty Formosa rút khỏi Việt Nam.

Hai vị linh mục quản xứ gồm linh mục Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục đại diện cho người dân nói chuyện với cơ quan công an huyện.

Vào lúc khoảng 6 giờ chiều tại cổng trụ sở công an huyện Quỳnh Lưu, linh mục Đặng Hữu Nam cho biết:

Hiện tại tôi đang ở hiện trường, cho người dân về. Chúng tôi và chính quyền cũng như công an huyện Quỳnh Lưu đồng ý nhau cách giải quyết. Những gì mà anh  em an ninh làm sai thì họ phải xin lỗi, họ phải đưa xuống giáo xứ Song Ngọc để trả đồ lại cho dân. Chúng tôi đang cho người dân ra về, và công an cũng như chính quyền huyện Quỳnh Lưu hứa trả lời chúng tôi bằng văn bản. Tôi nói với chính quyền cũng như công an trước mặt bà con giáo dân rằng nếu nhà cầm quyền giải quyết không hợp tình hợp lý, thì tôi tiếp tục tổ chức cho bà con đi biểu tình đòi quyền lợi.”

Cuộc biểu tình được cho biết kết thúc trong ôn hòa vào khoảng 6 giờ chiều, không có xô xát hay đụng chạm giữa người biểu tình và lực lượng công an.

Từ khi thảm họa môi trường Fomosa Vũng Áng do nhà máy gang thép Formosa của Đài Loan gây ra làm cá chết hàng loạt dọc theo bờ biển 4 tỉnh bắc miền trung từ Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị đến Thừa Thiên- Huế. Người dân bốn tỉnh và Nghệ An liên tục biểu tình đòi bồi thường và đòi Forrmosa rút khỏi Việt Nam.

Cơ quan chức năng cho rằng Nghệ An không nằm trong vùng chịu tác động bởi thảm họa môi trường Formosa; thế nhưng dân chúng lại nói họ bị ảnh hưởng nặng nề đến sinh kế.

Học chữ để làm gì?

Học chữ để làm gì?

Tạp ghi Huy Phương

(Hình minh họa: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Chưa bao giờ cái học trở nên vất vả cho nhiều học sinh như ở Việt Nam ngày nay. Phải đi bộ mất cả nửa ngày đường mới đến được trường để học “cái chữ,” các học sinh ở các vùng cao nguyên của Bình Định vẫn phải đến trường.

Ai cũng mủi lòng khi trời trở lạnh, mà thấy các em đến trường mong manh trong chiếc áo mỏng, chân đất không giày dép, đầy bùn đất, đỏ ửng. Trường thì bốn bề gió lộng, không có vách che chắn. Phần ăn trưa mang theo chỉ có nắm cơm với muối.

Đến trường, học sinh phải tự đu dây kéo bè, ghe tự vượt sông đến trường và về đến nhà khi trời đã tối mịt. Trong một trường hợp “bi thảm,” 19 em học sinh trong 57 em học sinh trường Lãng Khê, Nghệ An, phần lớn là gái, chết không tìm được xác, trong buổi sáng mùa mưa năm 2007, nước sông chảy xiết, thuyền nhỏ, chở nặng chết máy, bị sóng đánh chìm.

Cha mẹ như vậy, ai không khỏi xót xa chạnh lòng vì thương con, không cho con đến trường thì ngu dốt, mà cho con đi học, mạng treo sợi tóc, khốn khổ trăm bề, trong khi việc đồng áng không ai làm phụ, cơm ngày hai bữa không đủ ăn, tiền trường không đóng đủ, không áo quần cho con trẻ, lấy gì ăn để cho các con đi học.

Kỳ Anh là một trong những địa phương chịu thiệt hại nặng nề do thảm họa cá chết và đổ chất thải do công ty Formosa gây ra, cả nghìn học sinh tại địa phương này không đến trường trong năm học mới. Các phụ huynh cho biết nguyên do là họ không đủ tiền đóng học phí cho con. Mức học phí cho mỗi em là 1.7 triệu đồng, chính quyền cho giảm miễn 400,000 đồng, nhưng lấy đâu ra 1.3 triệu đồng để đóng cho con em, vì ngư dân không kiếm ra tiền, ngay hạt muối làm ra cũng không bán được.

Ở những nơi khác thì không thiếu những tệ nạn vô đạo đức của các giới chức trong ngành giáo dục, từ giáo viên đổi điểm lấy tính dục, hiệu trưởng khai gian, lạm thu nhiều khoản ngoài quy định của học sinh nghèo, cắt xén tiền ăn trưa của học sinh…

Trong tình trạng khó khăn của đời sống và hoàn cảnh xã hội như thế, nhiều phụ huynh học sinh nản chí, không muốn cho con đến trường để kiếm “cái chữ” như cách nói của người thiểu số vùng cao.

Vào thời buổi này, học chữ để làm gì?

Hơn 200,000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp đang được Bộ Lao Động xây dựng đề án xuất khẩu lao động kiếm việc làm ở nước ngoài.

Hàng chục nghìn thanh niên cần có tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật, tiếng Anh… để xuất ngoại kiếm việc làm, liệu có cần học tiếng Việt?

Quyền cao chức trọng trong xã hội này, chỉ cần lươn lẹo, luồn lọt, mềm lưng, phe đảng, hiến vợ, đâu cần đến kiến thức chuyên môn hay văn bằng thích hợp. Hoạn lợn như Đỗ Mười, bẻ ghi đường ray như Lê Duẫn gặp thời cũng là bậc Đế Vương, học luật trong rừng, đọc một tiếng Anh cơ bản “Made” chưa xong, cũng làm được Tể Tướng.

Thời nay có nên dạy con chữ trung tín, thật thà, để con chết đói không, hay nên dạy con mánh mung, luồn lọt!

Thời buổi sản sinh ra nhiều bí thư, chủ tịch, đại gia, thì đàn bà con gái, Trời cho có cái nọ, chẳng cần có thêm “cái chữ” làm gì!

Ở xứ “địa linh nhân kiệt” như đất Thanh Hóa, cô Trần Quỳnh Anh xuất thân chỉ là nhân viên tạp vụ (lao công tạp dịch) của liên đoàn lao động tỉnh, học vấn cỡ lớp Ba trường làng, nhờ nghệ thuật “lên giường” cũng được bí thư tỉnh ủy bổ nhiệm làm trưởng phòng nhà và bất động sản Sở Xây Dựng Thanh Hóa, một chức vụ dành cho những ứng viên có bằng đại học, tài sản không dưới triệu đô la. Nhờ thân xác Quỳnh Anh lại được ưu ái học thạc sĩ “tại chức,” được cử đi học lớp cao cấp lý luận chính trị để “làm hạt giống đỏ,” “cán bộ nguồn” và sắp sẵn vào vị trí phó rồi giám đốc Sở Xây Dựng Thanh Hóa nay mai, mà chẳng thấy đảng nói gì.

Ngay một tờ báo mang tên là Giáo Dục Việt Nam cũng công nhận: “Dù là do gì đi nữa thì phải thấy rằng, từ khi vòng 1 của các kiều nữ Việt căng tròn và đẫy đà hơn thì tên tuổi của họ cũng lên như ‘diều gặp gió.’ Một nhân vật ‘lừng danh’ của Việt Nam là Ngọc Trinh, xuất thân từ thị trấn Tiểu Cầu, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nghèo, học hành dở dang, nhưng nhờ cao 1m72, nhờ vòng số 1, số 3 phổng phao, eo thon, da trắng cũng trở thành “Nữ Hoàng Nội Y,” “Hoa Hậu Trang Sức,” “Người Đẹp Ăn Ảnh,” “ Siêu Mẫu Việt Nam.” Dù thiên hạ có ganh ghét gọi cô là” “chân dài não ngắn” hay “hoa hậu ao làng” gì gì đi nữa, giờ đây Ngọc Trinh cũng là chủ nhân khối tài sản hàng trăm tỷ đồng, nghĩa là có trong tay hằng triệu đô la, có đủ mọi thứ mà mỗi cô thiếu nữ Việt Nam lớn lên đều mơ ước.

Có nhan sắc như hoa hậu Lưu Thị Diễm Hương, thì dù trong thời gian ở Đại Học Hoa Sen, học hành quá tệ, bị 7 môn thi với điểm 0 và nhiều điểm 3, bị báo chí “lắm chuyện, ganh tỵ” phanh phui ra, thì cũng có sao đâu? Hoa hậu Thùy Dung chưa tốt nghiệp phổ thông, làm học bạ giả, cũng có sao đâu? Cái dốt không làm cho vòng eo con gái lớn ra, cũng không làm cho vòng ngực nhỏ lại kia mà.

Học chữ để làm gì, rốt cuộc sinh viên cũng… lên giường!

Các cụ ta ngày xưa vẫn khuyến học con cái bằng lời khuyên: “Ấu bất học, lão hà vi?” (nhỏ không học, lớn lên làm gì!). Ngày nay, dưới chế độ này, “Trí thức không bằng cục phân, chẳng bằng năm năm thẻ đảng!”

Xin các cụ đừng lo, ca dao thời đại lại có câu: “Học cho lắm tắm cũng ở truồng, học bình thường cũng cởi truồng rồi mới tắm!” Thời nay nghề ở truồng lại làm ra nhiều tiền hơn nghề mặc quần áo!

Số Báo Cuối Cùng – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Số Báo Cuối Cùng – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ảnh của tuongnangtien

Tuongnangtien

RFA

 Trong một thời gian không lâu nữa, chúng tôi sẽ phổ biến rộng rãi nguyên bộ Bách Khoa trong dạng điện tử để mọi người khắp nơi có thể đọc dễ dàng.

Diễn Đàn Thế Kỷ (ngày 2 tháng 4 năm 1917)

Với thời gian, trí nhớ của tôi mỗi lúc một thêm bạc bẽo. Tháng 11 năm 1989, Bức Tường Ô Nhục Bá Linh (“Wall of Shame) sụp đổ. Qua năm sau, tạp chí Reader’s Digest (dường như là số tháng 5) có đăng một mẩu chuyện ngăn ngắn – liên quan đến biến cố này – mà tôi chỉ còn nhớ được loáng thoáng như sau:

Giữa đám đông đang hăm hở và hớn hở lũ lượt vượt rào đi từ Đông qua Tây là một ông già, dáng lầm lũi và đơn độc. Ông không dừng chân ở bất cứ quán bar nào, dù tất cả đều mở rộng cửa –  và cung cấp rượu bia miễn phí – để chào đón những kẻ vừa đặt chân đến phần đất tự do.

Và trong khi mọi người đều náo nức xếp hàng chờ được lãnh tiền (gọi là “tiền chào mừng”, khá hậu hĩnh) do chính phủ Cộng Hoà Liên Bang Đức cấp phát thì ông già lặng lẽ tìm đến thư viện để gửi trả một cuốn sách mượn từ tháng Tám năm 1961, cùng với lời trần tình: Tôi chỉ định giữ tác phẩm này vài ngày thôi nhưng không ngờ bị kẹt ở bên kia bức tường tới hai mươi tám năm trời! Để trễ hạn lâu quá, tôi rất lấy làm tiếc và xin được thứ lỗi.

Câu xin lỗi vừa ghi khiến tôi lại nhớ (và cũng chỉ nhớ mang máng thôi) đến lời than thở của học giả Nguyễn Hiến Lê, trong một tác phẩm nào đó của ông: Thưở nhiễu nhương và loạn lạc  thì ngay đến sách báo cũng phải chịu cảnh phong trần, lưu lạc!

Thời gian “lưu lạc” kéo dài gần ba mươi năm của một cuốn sách kể cũng khá dài nhưng so với số phận long đong của một tờ báo (tạp chí Bách Khoa, số cuối cùng – 426 – phát hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1975) thì xem ra vẫn còn hơi ngắn, theo như “tin mừng” vừa được nhà văn Phạm Xuân Đài (chủ bút trang Diễn Đàn Thế Kỷ) hân hoan loan báo:

“Trong công cuộc sưu tầm những tài liệu cũ của miền Nam trước 1975, lâu nay chúng tôi đã hết sức cố gắng tìm kiếm bộ tạp chí Bách Khoa, một tờ báo đã đi gần suốt chiều dài 20 năm của Việt Nam Cộng Hòa. Và xin báo tin mừng với quý độc giả và bè bạn gần xa: cách đây mới hai ngày thôi, chúng tôi đã có được số Bách Khoa cuối cùng còn thiếu, đó là số phát hành 20 tháng 4 năm 1975. Trong một thời gian không lâu nữa, chúng tôi sẽ phổ biến rộng rãi nguyên bộ Bách Khoa trong dạng điện tử để mọi người khắp nơi có thể đọc dễ dàng.

Việc số báo Bách Khoa cuối cùng đến với chúng tôi vào những ngày cuối tháng Ba năm 2017 vừa rồi đã gây cho chúng tôi một xúc động mãnh liệt, vì đó chính là một trong những hình ảnh còn sót lại một cách cụ thể của một miền Nam đang hấp hối, cách đây 42 năm.”

Bìa Giai Phẩm Bách Khoa Số Cuối Cùng. Nguồn ảnh: Diễn Đàn Thế Kỷ

Chúng ta đang sống trong một thế thẳng băng, cùng với những phương tiện giao thông và truyền thông tân kỳ chưa từng thấy trong lịch sử. Cớ sao một số báo Bách Khoa (BK) lại phải “phong trần lưu lạc” đến gần nửa thế kỷ vậy cà?

Đây không phải là một câu hỏi khó nhưng cũng không dễ trả lời ngắn gọn nên tôi xin phép được thưa thêm năm điều/ba chuyện cho nó ngọn ngành:

Từ BK số 1 đến số 425, chắc chắn, đều được gửi đi và lưu giữ trong những thư viện ở Âu Mỹ nên việc sưu tập chả khó khăn gì. Nhưng với số báo cuối cùng, 426, phát hành 10 ngày trước khi miền Nam thất thủ thì số phận của nó lại hoàn toàn khác. Toà soạn BK – vào thời điểm này – chắc chẳng có ai còn lòng dạ nào để lo lắng đến chuyện phát hành, hay gửi báo đến cho độc giả (dài hạn) qua bưu điện nữa.

Giữa lúc “xẩy đàn tan nghé” thì tai họa chả bỏ sót ai, và cũng chả chừa một thứ gì ráo trọi:

“Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế…

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt… Đứa may trốn thoát…  Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói sôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít.  Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ.  Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng. Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.” (Nguyễn Văn Lục, “Sách cũ Miền Nam 1954 – 1975”).

Phần thư. Nguồn ảnh: thbl6869

Trong khi đám trẻ con quàng khăn đỏ hét hò đốt sách thì qúi vị trí thức, nhân sĩ, nhà văn, nhà báo cũng cần mẫn ghi chép và hoàn thành những “công trình biên khảo” để đưa bọn cầm bút (thuộc bên bại cuộc) ra … trước toà án dư luận:

  • Nọc độc văn hóa nô dịch,Trần Trọng Đăng Đàn, gồm 2 cuốn:
    Nọc độc văn hóa thực dân mới Mỹ,  NXB TPHCM 1983
    b.  Lại bàn về nọc độc văn hóa thực dân mới Mỹ,  NXB TPHCM 1987
  • Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy  (2 tập) nhiều tác giả, NXB Văn Hóa 1977
  • Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa/ tư tưởng (2 tập) Nhiều tác giả, NXB Thông tin lý luận 1980
  • Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa thực dân mới,Hà Xuân Trường, NXB Sự Thật 1979
  • Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ ngụy, Lê Đình Kỵ, NXB TPHCM 1987
  • Cuộc xâm lăng văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam VN, Lữ Phương, NXB Văn Hoá 1985

Đó là một “thời nông nỗi” đã qua chăng ? Không đâu, làm gì có chuyện đó! Cuộc “Cách Mạng Văn Hoá” chưa bao giờ ngưng nghỉ cả. Chủ trương “bài trừ văn hóa nô dịch, lai căng” là chính sách triệt để, xuyên suốt và nhất quán của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua mà.

Ngày 20 tháng 3 năm 2017 vừa qua, T.T (đương nhiệm) Nguyễn Xuân Phúc lại vừa ký Nghị Định 28/2017/NĐ-CP: “Phạt tiền từ 20-25 triệu đồng đối với hành vi tàng trữ, phổ biến trái phép bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu có nội dung đã quyết định cấm phổ biến hoặc quyết định thu hồi, tịch thu, tiêu hủy.”

Vậy bằng cách nào mà  cuốn tạp chí BK, số cuối cùng (phát hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1975) đã không bị ném vào mồi lửa, không trở thành giấy gói xôi, không bị thu hồi, tịch thu, tiêu hủy” và vẫn có thể xuất hiện “nguyên con” trên trang web của Tạp Chí Thế Kỷ 21 vào ngày 2 tháng 4 năm 2017 vừa qua? Đây là câu hỏi mà qúi vị lãnh đạo của chính phủ hiện hành … cần “suy ngẫm” để có thể ban hành những nghị quyết, hay nghị định đỡ ngớ ngẩn (và lạc hậu) hơn chút xíu.

Vượt biên, 87 người bị giết chết.

From facebook:   Dominic Pham‘s post.
 
 
Image may contain: one or more people and outdoor
Dominic Pham with Dominic Pham in Saigon, Republic of Vietnam.

 

Vượt biên, 87 người bị giết chết.

Vì đâu nên nỗi.

Bà Nguyễn Thị Thương, 36 tuổi, tốt nghiệp Đại Học Hoa Kỳ, tu nghiệp tại Paris, Pháp. Trước 1975 Bà là Giáo Sư Đại Học Bách Khoa Thủ Đức. Bà Thương vượt biển cùng chồng là Giáo Sư Trần Quang Huy, Phân Khoa Trưởng Văn Khoa Đại Học Sài Gòn, cùng với Mẹ ruột, cậu, 2 em trai, 2 em dâu, 4 cháu gái và một con gái nhỏ 3 tuổi. Nhưng chỉ còn Bà, con gái nhỏ của bà, một người em trai của Bà và một em gái của chồng sống sót.

Ghe mang số SS0646 IA dài 13,5 m, chở 107 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 01/12/1979. Ra khơi được 3 ngày, thuyền chạy về hướng Thái Lan, khi đã gần tới đất liền thì gặp bọn cướp biển vào ngày 03/12/1979. Hai tàu cướp Thái Lan cặp 2 bên hông thuyền tỵ nạn, bọn cướp đã ùa sang với súng và dao. Vì ghe thuyền Việt Nam quá chật hẹp, bọn hải tặc đã lùa 27 người sang tàu của chúng cho dễ lục soát vàng bạc của cải.

80 người còn lại bị khám xét cướp hết vàng bạc, vật quý. Sau đó bọn cướp buộc giây vào ghe Việt Nam vào đuôi tàu của chúng và kéo chạy. Chúng xả hết tốc lực, chạy lượn vòng qua lại làm ghe tỵ nạn nghiêng chìm như một trò chơi. Dân tỵ nạn la khóc, lạy van cho tới khi ghe chìm hẳn. Bọn cướp biển cắt giây nối và chạy bỏ mặc 80 người vùng vẫy tuyệt vọng, trong khi 27 người tỵ nạn trên tàu của chúng vật vã khóc ngất nhìn xuống biển chứng kiến người thân đang dãy dụa chết chìm.

Bọn hải tặc chạy thẳng về đảo sào huyệt KO KRA của chúng mang theo 27 người mà chúng đã tách đem lên thuyền chúng trước đó. Nhưng gần tới đảo, chúng xô đẩy tất cả đàn ông xuống biển, buộc họ bơi vào đảo. 7 người dàn ông này đều bị chết đuối vì không đủ sức bơi hoặc không biết bơi để có thể vào đến bờ, trong số này có Giáo Sư Trần Quang Huy. Còn lại 20 người sống sót sau cùng đã bị bọn cướp đưa lên đảo và lập tức chúng lại lục soát, sờ nắn khắp thân thể để tìm kiếm vật quý con cất giấu trong người. Bà BTD (xin viết tắt, giấu tên) 26 tuổi có con 4 tuổi, bị dẫn ngay vào bụi hãm hiếp mặc dù Bà đang mệt lả không đứng dậy nổi vì đói khát, kinh hoàng.

Sau đó, trong suốt 8 ngày liền bị giam giữ trên đảo, 20 thuyền nhân còn lại này đã bị quần thảo hành hạ bởi nhiều toán cướp biển khác nhau hàng ngày đổ bộ lên đảo. Các phụ nữ, cô gái phải chạy vào rừng hoặc leo lên hốc ẩn tránh. Nhưng vẫn không thoát khỏi tay bọn dâm tặc. Một lần Bà BTD quá mệt mỏi không còn sức chạy trốn nổi, đang nằm ngất ngư và được mọi người săn sóc thì bọn hải tặc lại ùa đến, đuổi tất cả mọi người chung quanh đi chỗ khác và 4 tên Thái man rợ luân phiên hãm hiếp tàn nhẫn ngay tại chỗ, khiến bà ta bị kiệt lực nằm im lìm không nhúc nhích được nữa.

Đến ngày thứ 3 trên đảo, một tàu Thái, bên hông có ghi chữ POLICE số 513 tới đảo. Bọn cướp rút lui, chạy tàu ra xa. Chiếc tàu Cảnh Sát neo sát bờ biển, họ chỉ nhìn vô bờ nhưng không lên đảo. Những người tỵ nạn Việt Nam mừng rỡ tưởng được cứu thoát, một thanh niên tỵ nạn bơi ra mang theo một lá thư cầu cứu bằng tiếng Anh để gởi cho giới chức Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc. Nhưng chưa bơi tới nơi đã bị tàu Cảnh Sát Thái nổ súng bắn xuống biển cảnh cáo. Anh ta hoảng hốt bơi quay trở vào bờ. Sau đó mọi người lại đề cử một thiếu niên 15 tuổi liều mình bơi ra cầu cứu lần nữa. Cậu này đã được Cảnh Sát cho lên tàu, nhưng chỉ cho vài gói mì và đuổi xuống biển ngay. Cuối cùng tàu Cảnh Sát này bỏ đi. Sau này mới biết họ đã không hề báo tin vào đất liền.

Ngay sau khi tàu Cảnh Sát bỏ đi bọn hải tặc lại lên đảo và tình trạng tồi tệ tiếp tục diễn ra. Đến ngày thứ 5, một tàu Hải Quân Thái Lan đi ngang qua đảo, nhóm người tỵ nạn chạy ra sát bờ vẫy gọi, làm hiệu và lần này chiếc tàu Hải Quân đã cho người lên đảo tiếp xúc và nhận bức thư nhờ chuyển về cho Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Ngày thứ tám, Ông SCHWEITZER Đại diện Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan ra đón họ vào đất liền.

Không lâu sau đó Bà Nguyễn Thị Thương sinh thêm đứa con gái út trong trại tỵ nạn Song Khla và Bà sống tại đó với một đứa con gái 3 tuổi và người em trai của Bà và một em gái của Ông Trần Quang Huy. Lúc bắt đầu rời Việt Nam Bà Thương đã có thai gần 9 tháng, chính nhờ vậy trong những ngày trên đảo KO KRA, Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp.

Bà Nguyễn Thị Thương kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói : “Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển. Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng, dù thế nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng sản. Nhưng những đau khổ tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi”.

st

Phần lớn hải tặc Thái xuất phát từ Phuket và phần lớn người dân Phuket theo đạo Hồi !!!

BÍ ẨN ĐỒNG TÂM…

From facebook: Trần Bang

Bác Mac Văn Trang đặt ra những câu hỏi về vụ Đồng Tâm rất hay.

BÍ ẨN ĐỒNG TÂM…

Sự kiện diễn ra ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội (nhất là từ ngày 15 đến 22/4/2017), chắc chắn còn tốn nhiều giấy mực của các nhà nghiên cứu, bình luận. Riêng tôi, theo dõi rất sát tin tức về sự kiện Đồng Tâm, nhưng đến giờ phút này vẫn chưa hiểu được nhiều điều bí ẩn.

1. Chuyện đất đai chỉ trực tiếp liên quan đến một số hộ canh tác trên cánh đồng Sênh, thế thì làm sao cả xã Đồng Tâm hơn 6000 người lại đoàn kết đến mức dám tuyên bố sẽ giữ đất đến chết?

2. Làm sao có một lực lượng lãnh đạo đoàn kết, thống nhất về chủ trương, chiến lược, chiến thuật đấu tranh nhất quán, với mục tiêu trước sau như một, nhưng sách lược đối nội, đối ngọai rất linh hoạt, khi cương, khi nhu, ứng phó với mọi tình huống một cách sáng suốt. Lúc thì cho nhà báo, luật sư vào tiếp xúc; lúc thì cấm tiệt, nội bất xuất, ngoại bất nhập; không đối thoại với cán bộ huyện, phó bí thư thành ủy về cũng không nên cơm cháo gì, chỉ chọn mỗi ông Chung. Nhưng ông Chung về UB huyện, cho 3 xe ca mời 100 người dân lên đối thoại, nhất định không lên… Tất cả những ứng phó ấy lại xảy ra lúc Cụ Kỉnh “lãnh tụ” và mấy người chủ chốt bị CA lừa bắt đi. CA rất “cao tay”, lừa bắt mấy thủ lĩnh, tưởng dân sẽ như rắn không đầu, nhưng “phong trào” không hề nao núng. Thậm chí, chị Phó bí thư Đảng ủy xã còn tuyên bố trước dân: “Bây giờ tôi là Cụ Kỉnh”! Làm sao có một bộ chỉ huy có tâm, có tầm, có bản lĩnh, không mắc vào mưu thâm, kế hiểm của đối phương, hoàn toàn không manh động…

3. Nhưng bí ẩn nhất, là làm sao người dân có thể “tay không bắt giặc”, một lúc bắt 38 cán bộ, CSCĐ nhốt vào Nhà văn hóa? Kỳ lạ? Nếu “binh vận” thì bằng cách nào mà hiệu quả vậy? Nếu dùng vũ lực thì tổ chức lực lượng “dân quân” như thế nào mà thắng nổi ngần ấy CSCĐ được trang bị đầy người, võ nghệ điêu luyện?

4. Bắt rồi cũng chết dở, làm sao canh gác, nuôi dưỡng được 38 anh chàng lực lưỡng (ngày 22/4 còn 19 người). Điều bí ẩn là các CSCĐ không bị còng chân, xích tay; họ được tự do trong nhà văn hóa, chỉ có cửa kính mong manh, rất dễ phá; họ được ra ngoài đi vệ sinh, thay quần áo… thế thì sao họ không nổi dậy, phá “nhà giam”, tự giải thoát? (Nghe nói có 3 CSCĐ tự giải thoát trong ngày 22/4 cùng với 15 người được thả về). Trong những ngày bị giam giữ, người dân đã “tuyên truyên, binh vận” thế nào để lúc ra về anh em thiện cảm với dân, có người cúi đầu vái bà con?…

5. Việc đấu tranh để ông Chung tự tay viết Bản cam kết 3 điểm đáp ứng đúng yêu cầu của dân, lại còn tự tay điểm chỉ vào, cũng là điều chưa từng có dưới chế độ này. Đọc “chuyện bên lề vụ Đồng Tâm” mới thấy đấu tranh để ông Chung chấp nhận viết Bản Cam kết đòi hỏi người dân rất khôn khéo, kiên cường, thậm chí quyết tử! Nhưng cũng khen ông Chung biết lắng nghe, thấu hiểu và can đảm…

Vẫn còn nhiều bí ẩn nữa, nhưng với 5 điều ấy, đã bái phục nhân dân Đồng Tâm lắm rồi. Cái tên Đồng Tâm, Mỹ Đức thật đẹp, xứng với người dân nơi đây, đã nêu tấm gương về đấu tranh cho quyền dân sinh, dân chủ một cách ôn hòa và đã thành công bước đầu. Với những tố chất như đã thể hiện, tôi tin nhân dân nơi đây sẽ tiếp tục đấu tranh thắng lợi, để có cuộc sống dân chủ, tiến bộ hơn nhiều làng quê khác.

23/4/2014

MVT

Công xã Paris Đồng Tâm?

Công xã Paris Đồng Tâm?

 

Công an phải rút lui sau khi dân làng ở Mỹ Đức trực diện đối mặt.

Công an phải rút lui sau khi dân làng ở Mỹ Đức trực diện đối mặt.

Kỷ niệm hai chục năm chẵn của cuộc nổi dậy Thái Bình năm 1997, Bộ Chính trị đảng như “lên ruột” trước một cơn cuồng phong mới: Đồng Tâm 2017.

Cơn cuồng phong mới

Một hình ảnh hoàn thiện tái hiện dĩ vãng. Cũng bùng lên từ nguồn cơn giới nha lại địa phương tham nhũng đất đai, tham ô đủ thứ và nhũng nhiễu nông dân. Cũng đê vỡ toác trước con sóng trào phẫn uất vượt cả giới hạn sợ hãi của người dân. Cũng một tinh thần đoàn kết và đồng lòng, đồng tâm cao độ đến bất ngờ của nông dân, như thể một sự xúc phạm quá lớn đối với cảnh nạn phân hóa rã đám trong hệ thống chính quyền và công an trị thời nay.

Nhưng khác biệt cũng không nhỏ. Giờ đây, không còn là Quỳnh Phụ cách Hà Nội hàng trăm cây số, mà cái tên Đồng Tâm thình lình hiện ra ngay tại thủ đô, tạo dấu ấn chưa từng có kể từ thời “Hà Tây về Hà Nội”.

Hà Nội lại là ngự phủ của toàn bộ giới lãnh đạo chóp bu. Hiểm họa “Cách mạng tháng Tám” đang quá kề cổ.

Và cũng khác hẳn với quá khứ với một số lần người dân các nơi bắt giữ lẻ tẻ vài ba công an viên trong một số vụ việc bất công và bức xúc gây ra bởi chính quyền, cái tên Đồng Tâm đã tạo nên cột mốc lịch sử khi lần đầu tiên người dân dám bắt giữ cả một đơn vị cấp trung đội cảnh sát cơ động của Công an Hà Nội, trong đó có cả “đồng chí Trung đoàn trưởng cảnh sát cơ động” và “đồng chí phó trưởng công an huyện Mỹ Đức mặc thường phục”.

Ở vào thế cùng kiệt về kế sinh nhai lẫn sinh mạng, nông dân chỉ còn biết hành động “người đổi người”.

Hãy đừng bao giờ cho rằng những nông dân hiền hòa ở xã Đồng Tâm ấy chỉ chực chờ nổi loạn chống chính quyền, theo cách mà bộ máy tuyên truyền của công an, tuyên giáo và giới dư luận viên mất sạch liêm sỉ luôn chực chờ tung ra. Thử hỏi khi vùng đất Đồng Tâm đang yên lành, nếu không có chuyện Đỗ Mười – Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng – ký một quyết định thu hồi hơn 47 ha đất nông nghiệp của nông dân Đồng Tâm từ năm 1980 để “phục vụ dự án an ninh quốc phòng và sân bay Miếu Môn”, làm sao có thể phát sinh hậu quả ghê gớm như ngày hôm nay? Thử hỏi, nếu không có chuyện chính quyền huyện Mỹ Đức, sau khi nhận lại số đất nông nghiệp trên từ Lữ đoàn 28 của Quân chủng Phòng không – không quân do sân bay Miếu Môn không làm được, nhưng lại nhập nhèm suốt 10 năm từ 2007 đến nay mà không làm quyết định giao đất cho bà con nông dân, trong khi lại xảy ra hàng loạt vụ việc một số quan chức địa phương bảo kê cho người thân chiếm dụng đất và giờ đây còn định để cho Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel) “cướp” đất của dân, làm sao bà con nông dân lại phải rồng rắn kéo đoàn khiếu kiện đông người trong ròng rã nhiều năm trời? Và thử hỏi, nếu không có chuyện giới công an trị sử dụng “biện pháp nghiệp vụ”, mà thực chất là thủ đoạn “điệu hổ ly sơn”, để bắt giữ trái phép một số đại diện của dân xã Đồng Tâm, làm sao người dân xã này lại phải nghĩ đến việc bắt giữ lại các cảnh sát cơ động và quan chức công an để “trao đổi tù binh”?

Đồng Tâm lại đang trở thành một phiên bản của Ô Khảm. Sáu năm trước, cái làng nhỏ Trung Quốc chưa hề có tên trên địa đồ thế giới ấy thậm chí đã được báo The New York Times ví như “Công xã Paris Ô Khảm”.

Công xã Paris Ô Khảm

Năm 2011, Ô Khảm thuộc huyện Lục Phong, Quảng Đông đã nổi lên đánh đuổi lũ cường hào ác bá cộng sản ăn chặn của dân và tham nhũng đất đai ra khỏi làng này. Ô Khảm còn vùng lên dữ dội hơn nhiều sau khi một người đại diện cho dân làng là Tiết Cẩm Ba bị công an Trung Quốc tống giam và chết thảm trong tù vì bị tra tấn.

Nguồn cơn gây sóng trào phản kháng của dân giữa Ô Khảm và Đồng Tâm là y hệt nhau: chính quyền.

50 lần là chênh lệch giữa giá bán đất ra thị trường mà chính quyền đã toa rập cùng doanh nghiệp để thu lợi bất chính, so với giá bồi thường đất cho nông dân.

Khi đó, cũng như Đồng Tâm đương đại, Ô Khảm bị chính quyền khống chế và cô lập, bên trong thì cắt điện, bên ngoài thì chặn Internet và giới truyền thông, đồng thời sử dụng đến vài ngàn công an và quân đội vây kín.

Chỉ có điều, “Công xã Paris Ô Khảm” đã giành thắng lợi lớn. Cuộc đấu tranh quyết liệt, bền bỉ và sáng tạo của 13 ngàn người dân Ô Khảm, quyết tâm đi bộ đến tận Bắc Kinh để khiếu kiện, đã khiến thủ tướng Trung Quốc thời đó là Ôn Gia Bảo phải ngã lòng chuyên chính. Thế rồi Bộ Chính trị Trung Quốc bắt buộc phải nhân nhượng. Ít ngày sau, Ô Khảm đã ghi danh vào lịch sử dưới ách cai trị của đảng Cộng sản: làng đầu tiên ở Trung Quốc được tiến hành bầu cử tự do, với người phụ trách làng được chính nhân dân bầu ra.

Công xã Paris Đồng Tâm?

Đồng Tâm cũng có thể được như Ô Khảm. Bức xúc lên đến đỉnh điểm, tinh thần đoàn kết cùng ý thức tổ chức cao của 6 ngàn nông dân Hà Nội có thể tạo nên một Công xã Paris ngay trong lòng thủ đô.

Không những thế, tiếp ngay sau phong trào biểu tình phản kháng Formosa và phản đối chính quyền của vài chục ngàn ngư dân, giáo dân ở Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, vụ Đồng Tâm đang phát ra tín hiệu bùng nổ dây chuyền, một vết dầu loang cực lớn ở một số tỉnh thành miền Bắc – những nơi đã tích tụ đủ phẫn uất trước nạn cường hào ác bá và đã tích lũy đủ mầm mống để vào bất cứ lúc nào cũng có thể biến thành “khởi nghĩa”.

Vẫn là một câu ngạn ngữ thời nay: “Nếu cho chính quyền cộng sản cả sa mạc, chính quyền đó vẫn phải nhập khẩu cát”. Trong nhung nhúc các nhóm lợi ích trong một chế độ “ăn của dân không chừa thứ gì”, bao giờ cũng vẫn là quá muộn. Một tác nhân Viettel tiếp tay khiến nông dân bị bần cùng hóa hoàn toàn xứng đáng bị giới tiêu dùng ở Việt Nam và quốc tế tẩy chay.

Để khi đó, đừng mong đợi hão huyền “quân đội sẽ ra tay trấn áp các lực lượng thù địch”.

Không, kể từ thời quả bom Đoàn Văn Vươn nổ tung ở Hải Phòng năm 2012, đã và sẽ chẳng có quân đội nào chịu biến thành công cụ hèn tủi để bảo vệ cho giới quan chức “tiền trên bàn thờ”, đàn áp và chống lại Nhân Dân – những người đã sinh thành mình.

Những ngày cuối cùng ở Việt Nam và phép lạ bị lãng quên

 Last Days In Vietnam full movie

httpv://www.youtube.com/watch?v=iu06xGdvRjY

Last Days In Vietnam full movie 

Những ngày cuối cùng ở Việt Nam và phép lạ bị lãng quên

Đinh Từ Thức

Last days in Vietnam là bộ phim tài liệu mới nhất về những ngày cuối cùng trước khi VNCH tan rã vào 30 tháng 4, 1975. Trước đây đã có 2 bộ phim tài liệu với nội dung tương tự: The fall of Saigon và The lucky few. Bộ phim mới này đã gây tiếng vang trước khi được phổ biến rộng rãi.

Last days in Vietnam do Rory Kennedy, con gái út của bộ trưởng Tư pháp và nghị sĩ bị ám sát Robert Kennedy, sản xuất cho hệ thống PBS, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản. Bộ phim này mới được chiếu ra mắt tại một số rạp ở California, và Washington DC vào tháng 9 và đầu tháng 10, 2014, và sẽ được cho chiếu rộng rãi vào tháng 4, 2015.

Vì nội dung tương tự, có người tưởng lầm đây là một trong hai bộ phim cũ được chiếu lại. Thật ra, The fall of Saigon do Michael Dutfield sản xuất cho Discovery Channel đã ra đời từ 1995, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất Sài Gòn. Còn The lucky few do Hải quân Hoa Kỳ (US Navy) sản xuất năm 2010, vào dịp kỷ niệm 35 năm ngày mất miền Nam Việt Nam, ghi lại vai trò của hộ tống hạm USS Kirk trong cuộc di tản của toàn thể hạm đội VNCH từ Sài Gòn tới Philippines.

“Hậu sinh khả úy”, tuy cùng là những tài liệu và nhân vật thật, nhưng bộ phim mới nhất có những ưu điểm so với hai bộ phim trước. Về mặt kỹ thuật, Last days in Vietnam được chiếu ở rạp, với màn ảnh lớn và âm thanh tốt, làm tăng cảm giác của người xem. Về nội dung, tuy cũng là phim tài liệu như 2 bộ phim trước, nhưng phim này “có đầu có đuôi” như một cuốn phim truyện. Xem xong, ngoài những hình ảnh đặc biệt, có khi lần đầu tiên được thấy, cuốn phim còn để lại trong lòng người xem những điều đáng suy nghĩ, về danh dự, về trách nhiệm, và tình người.

Từ hòa bình không danh dự…

Cuốn phim đã bắt đầu bằng hình ảnh và tài liệu về kết quả hội nghị hòa bình Paris 1973: Chấm dứt chiến tranh trong danh dự. Nhưng những người ký tên vào hiệp định và những người long trọng hứa bảo vệ hòa bình bằng mọi giá đã coi thường danh dự của mình. Sau khi quân chiến đấu Mỹ rút khỏi Việt Nam, và sau khi Tổng thống Nixon phải từ chức vì vụ Watergate, chiến tranh tiếp diễn tàn ác hơn trước khi có hiệp định hòa bình.

Frank Snepp, một cựu nhân viên CIA xuất hiện trong phim, nói hiệp định Paris là một “tuyệt tác mơ hồ”, hàm ý văn bản hiệp định hòa bình thiếu rõ ràng, khiến Cộng sản Hà Nội có thể gia tăng chiến tranh, chiếm trọn miền Nam trong 2 năm. Nhận định này không chính xác. Với Cộng sản, những người theo cơ hội chủ nghĩa, khi đặt bút ký vào một thỏa hiệp, là nắm lấy một điểm tựa đề chờ cơ hội, bất chấp văn bản thỏa hiệp rõ ràng hay mơ hồ. Dù văn bản thiếu rõ ràng, khi cơ hội chưa tới, họ vẫn có thể chờ.

Khi Nixon từ chức vào năm 1974, và quốc hội Hoa Kỳ bác yêu cầu tháo khoán 722 triệu mỹ kim cuối cùng đã hứa viện trợ cho Sài Gòn, là cơ hội trời cho, Hà Nội không còn sợ Mỹ trừng phạt, dù hiệp định hòa bình có rõ ràng hay không, họ vẫn tăng tốc cuộc chiến chiếm trọn miền Nam. Bằng chứng là hiệp định đình chiến Genève 1954 đã qui định rõ ràng các viên chức thuộc chính quyền Quốc gia phải vào phía nam, và phe Việt Minh phải tập kết ra phía bắc vĩ tuyến 17. Nhưng, lãnh đạo hàng đầu của Cộng sản như Lê Duẩn, đã cố tình vi phạm hiệp định ngay khi nó mới được bắt đầu thi hành, đã lên tầu cho mọi người thấy, rồi nửa đêm trốn ở lại, đặt cơ sở cho cuộc chiến sau này.

Với những người cộng sản, và đôi khi cả những người không cộng sản, danh dự chỉ là cái vỏ bọc cho cơ hội.

Chỉ 2 năm sau khi Washington và Hà Nội đạt được “hòa bình trong danh dự” tại Paris, bản đồ Việt Nam dưới vĩ tuyến 17 đã bị nhuộm đỏ trong nháy mắt, đưa tới hồi kết không thể tránh: Mỹ rời khỏi Việt Nam. Nhưng ra đi như thế nào, vào lúc nào, và với ai, là điều không đơn giản.

Đến trách nhiệm của người đi

Quân Mỹ chiến đấu đã rút hết khỏi Việt Nam từ sau hiệp định Paris, tuy vậy, vẫn còn lại mấy ngàn người Mỹ là nhân viên ngoại giao, các chuyên viên kỹ thuật, kiến thiết, doanh nhân, ngân hàng… Mỹ có trách nhiệm đưa hết người Mỹ về nước, và trách nhiệm cả với những người Việt đã tin tưởng, cộng tác, hay làm việc cho Mỹ.

Vào tháng 4, tin tình báo cho biết quân Cộng sản cố lấy Sài Gòn để mừng sinh nhật Hồ vào ngày 19 tháng 5, 1975. Mỹ cố gắng hoàn tất việc ra đi vào cuối tháng 4.

Ngược dòng với những người đôn đáo cố gắng ra đi, có những người từ ngoại quốc liều lĩnh quay lại Sài Gòn, như cựu đại úy Bộ binh Mỹ Stuart Herrington, cố gắng xoay sở đưa bạn bè hoặc thân nhân người Việt ra đi. Có 4 kế hoạch ra đi đã được dự trù: đầu tiên là máy bay thương mại, thứ nhì là máy bay quân sự, kế tiếp là tầu thủy, cuối cùng là máy bay trực thăng ra Hạm đội số 7.

Các kế hoạch trên đã không thể thực hiện như dự tính. Những ngày cuối tháng 4, 1975, có tới 5 ngả di tản khỏi Sài Gòn:

1- Đi theo ngả DAO, diễn ra trong 10 ngày cuối cùng của tháng 4, dành cho nhân viên quân sự người Mỹ, người Việt và thân nhân hoặc những người quen biết. Đây là cuộc di tản sớm nhất, kín đáo nhất, do một số giới chức quân sự Mỹ chủ trương, không qua sự đồng ý chính thức hoặc dưới sự kiểm soát của nhà cầm quyền VNCH. Có người đã dùng chữ “lậu” để chỉ ngả ra đi này, bằng máy bay quân sự Mỹ, lúc đầu là máy bay vận tải C-141 và C-130, bay từ Tân Sơn Nhứt tới căn cứ không quân Mỹ Clark Airbase ở Philippines. Sau khi Tân Sơn Nhứt và khu DAO tại đây bị pháo kích sáng sớm 29-4, trực thăng được sử dụng để chở người ra Hạm đội 7. Rất ít hình ảnh được phổ biến cả từ nơi đi và nơi đến của ngả di tản này.

2- Đi theo ngả tòa đại sứ Mỹ. Đây là cuộc di tản ồn ào nhất, lộ liễu nhất, và được chú ý nhiều nhất, bắt đầu từ sáng 29, chấm dứt sáng sớm hôm 30 tháng 4.

3- Đi bằng tầu Hải quân VNCH, rời Sài Gòn tối 29, tập trung ở Côn Sơn ngày 30 tháng 4, tới căn cứ hải quân Mỹ ở Subic Bay, Phi Luật Tân, ngày 7 tháng 5.

4- Một số cá nhân hoặc nhóm, một mình hoặc cùng với thân nhân đi bằng trực thăng loại nhỏ Huey của VNCH, một số không đủ nhiên liệu bay xa, được cho đáp xuống hộ tống hạm Mỹ USS Kirk, chiếc nầy hoạt động gần đất liền hơn Hạm đội 7.

Vì không đủ chỗ chứa, 13 trực thăng sau khi đáp đã bị đẩy xuống biển. Số đông hơn đủ nhiên liệu bay tới Hạm đội 7, gần 20 tầu, dưới quyền chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, xếp hàng chờ đợi cách Vũng Tầu khoảng trên 30 cây số. Tướng Nguyễn Cao Kỳ tự mình lái trực thăng chở tướng Ngô Quang Trưởng cũng đáp xuống Blue Ridge. Một quân nhân TQLC Mỹ kể lại, nhìn lên trời lúc đó, trực thăng tị nạn đông như đàn ong về tổ Có 5 chiếc bị đụng bể khi đáp, mảnh vỡ bay tứ tung, suýt gây tai nạn. Một chiếc rớt xuống biển.

Điều lạ trong Last days in Vietnam, vào thời máy quay phim còn rất hiếm, không rõ bằng cách nào bộ phim đã có được hình ảnh chuyến đi đầy kịch tính của gia đình Thiếu tá phi công Nguyễn văn Ba, khi ông lái chiếc trực thăng khổng lồ CH-47 đáp xuống sân vận động gần nhà, đón vợ và ba con nhỏ và bay đến USS Kirk. Trực thăng quá lớn, dài hơn 30 mét và nặng trên 10 tấn, nếu đáp xuống, có thể gây tai nạn, hoặc làm đắm tầu. Ông Ba đã tài tình cho máy bay quần rất thấp, hai con và vợ với con gái út 1 tuổi lần lượt nhảy xuống, để những bàn tay thủy thủ đỡ lấy. Riêng ông Ba, đã điều khiển cho trực thăng nghiêng về một phía, tạo thế cho cỗ máy trị giá trên 30 triệu đô la “chỏng gọng” trên mặt biển, cùng lúc phóng ra từ phía kia, lặn xuống để tránh những mảnh vỡ khi máy bay chạm nước. Mọi người hồi hộp căng thẳng chờ đợi, rồi reo hò mừng vui thấy đầu ông nhô lên khỏi mặt nước. Không phải chỉ có mình Thiếu tá Ba và vợ con ông là những người liều lĩnh. Những ai tự nguyện đứng dưới bụng chiếc trực thăng nặng hơn 20 ngàn lbs để đỡ người nhảy xuống cũng là những người can đảm cùng mình; chỉ một sơ sẩy nhỏ cũng toi mạng.

5- Đi bằng tầu buôn vào sáng 30 tháng 4, như Việt Nam Thương Tín, Trường Xuân, xà lan, và nhiều tầu nhỏ khác. Ngả di tản này cũng đầy hiểm nguy gian khổ. Chính trên boong tầu Việt Nam Thương Tín, nhà văn nhà báo Chu Tử đã thiệt mạng vào trưa 30-4 vì mảnh đạn pháo kích của cộng sản bắn đuổi theo người ra đi, trước cửa sông Lòng Tảo, ngang Vũng Tầu. Tầu Trường Xuân chở tới 4 ngàn người, vớt từ nhiều thuyền nhỏ, thiếu thốn đủ thứ, gian nan tới được Hồng Kông.

Còn một cuộc ra đi nữa bằng tầu, từ Cần Thơ, ít người biết tới. Khi được phỏng vấn về cuốn phim Last days in Vietnam, Rory Kennedy cho biết đã có đầy đủ tài liệu về chuyến đi này, nhưng sợ quá rườm rà, đã loại khỏi bộ phim. Ông lãnh sự Hoa Kỳ tại Cần Thơ, khi được lệnh sử dụng 2 trực thăng để ra đi cùng những nhân viên người Mỹ, đã không đành lòng bỏ lại các nhân viên người Việt và thân nhân của họ, sợ họ sẽ bị cộng sản bách hại. Vì tình người, hành động theo lương tâm, ông bỏ trực thăng, dùng tiền của mình mua 2 chiếc tầu, chở tất cả 450 người rời lãnh sự quán theo sông ra biển. Hành trình cũng đầy gian nan, vừa bị bắn, vừa bị phía Hải quân VNCH cản trở. Cuối cùng cũng ra tới biển.

Cuốn phim Last days in Vietnam chỉ chú trọng nhiều tới cảnh ra đi từ tòa đại sứ, không có cảnh tới Hạm đội 7; một phần cảnh tới USS Kirk, và ít hơn về quang cảnh trên hạm đội Việt Nam. Hoàn toàn vắng bóng cuộc ra đi theo các ngả 1 và 5. Ấy là chưa kể cuộc di tản của Không quân VNCH, trước đó các phi công đã được lệnh lái một số phi cơ chiến đấu qua Thái Lan.

Người khổng lồ chậm chạp

Vì tình hình biến chuyển quá nhanh, sau khi phi trường Tân Sân Nhứt bị pháo kích vào đêm 28 rạng sáng 29, phá hư một số máy bay, đường băng, và 2 TQLC Mỹ thiệt mạng tại khu vực DAO, chỉ còn kế hoạch cuối cùng được thi hành: Di chuyển bằng trực thăng từ tòa đại sứ ra Hạm đội 7.

Mật hiệu tập trung để ra đi bằng mẩu tin “thời tiết Sài Gòn nóng 105 độ F và đang tăng”, tiếp theo là bài White Christmas được phát đi trên đài radio quân đội Mỹ vào khoảng hơn 10 giờ sáng 29-4. Những ai đợi lúc đó mới rời nhà coi như quá trễ. Trước tòa đại sứ đã đông nghẹt, khó chen chân vào.

Theo nhân chứng Jim Kean, sĩ quan chỉ huy Đại đội C TQLC có nhiệm vụ canh giữ tòa đại sứ, số đông lúc đó khoảng 10 ngàn người.

Thi hành một công tác lớn, dù là cỡ chiến dịch, thường chỉ do một bộ chỉ huy ra lệnh. Kế hoạch của Mỹ rút khỏi VNCH vào ngày cuối cùng liên hệ tới nhiều cơ quan, nhiều cấp chỉ huy khác nhau, ở rải rác trên nửa địa cầu, trải rộng 12 múi giờ. Vì thế, đã gặp nhiều trục trặc và chậm trễ đáng tiếc.

Tổng thống Ford và ngoại trưởng Kissinger trực tiếp theo dõi, và ra chỉ thị từ Bạch ốc. Đón người là Hạm đội 7, chỉ huy từ soái hạm Blue Ridge, dưới quyền Bộ tư lệnh Thái bình dương ở Hawaii. Phương tiện di chuyển và nhân sự thi hành thuộc Sư đoàn TQLC, chỉ huy từ chiến hạm Okinawa. Người chỉ huy tại hiện trường Sài Gòn là đại sứ Martin.

Sau khi tự mình tới Tân Sơn Nhứt quan sát những thiệt hại do cộng sản pháo kích gây ra vào hồi sáng sớm, đại sứ Martin đồng ý di tản theo kế hoạch cuối cùng bằng 75 trực thăng của TQLC, chở người từ tòa đại sứ ra thẳng Hạm đội 7. Một số người không thể vào được tòa đại sứ đã được bốc từ các địa điểm khác bằng trực thăng nhỏ, đưa vào khu DAO ở Tân Sơn Nhứt, lên trực thăng lớn ra Hạm đội 7. Bức hình nổi tiếng thế giới, chụp những người nối đuôi nhau trên cầu thang dẫn lên trực thăng mà nhiều người vẫn tưởng là đậu trên nóc tòa đại sứ. Thật ra, đó là tòa nhà ở số 22 đường Gia Long, bên dưới là trụ sở USAID, tầng trên cùng do CIA sử dụng.

Kế hoạch “Frequent Wind” được chính thức loan báo bắt đầu vào lúc 10:51 sáng 29-4. Nhưng vì các cấp chỉ huy mỗi thành phần trách nhiệm phải liên lạc, thảo thuận và xác nhận với nhau, rồi cấp thừa hành phải đợi lệnh từ cấp chỉ huy trực tiếp của mình. Kết quả là mãi tới 12:15 PM kế hoạch mới được lệnh thi hành.

Nhưng vẫn còn điều cần làm sáng tỏ, ví dụ, giờ nào là giờ chính thức; giờ GMT, giờ Washington, giờ Hawaii, giờ Okinawa, hay giờ Sài Gòn? Rồi vì quá nhiều thông tin viễn liên được gửi qua gửi lại giữa các cấp chỉ huy, hệ thống truyền tin bị quá tải, trục trặc. Cuối cùng, đến 3 giờ chiều, kế hoạch mới thực sự bắt đầu. Chiếc CH-53 đầu tiên bốc người từ tòa đại sứ đáp xuống tầu Blue Ridge vào lúc 3:40. Nếu không có những trục trặc chậm trễ này, khoảng thời gian phí phạm từ gần 11 giờ sáng đến 3 giờ chiều, đã giúp được hàng ngàn người đi thoát.

Tự mình làm con tin

Qua lời phát biểu của các viên chức xuất hiện trong Last days in Vietnam, cũng như theo quan điểm của một số bài điểm phim, đại sứ Martin là một người thiển cận, không biết rõ tình hình, và cứng đầu. Mãi đến những ngày cuối cùng, ông vẫn không chịu thừa nhận tình trạng tuyệt vọng của VNCH, không chính thức cho thi hành cuộc triệt thoái khỏi Việt Nam. Và cho đến ngày chót, ông vẫn cưỡng lại lệnh ra đi, cố ở lại cho đến lúc không thể trì hoãn thêm.

Người viết bài này nghĩ rằng đại sứ Martin là một người có tinh thần trách nhiệm cao, sáng suốt, và rất nặng tình với người Việt Nam.

Mọi người thừa biết, không có võ khí của Nga, Tầu, miền Bắc không thể đánh miền Nam, và không có sự giúp đỡ của Mỹ, miền Nam không thể ngăn được bước tiến của miền Bắc. Ngay cả những nước mạnh hơn, và trong thời bình, như Tây Đức và Nam Hàn, mỗi nơi cũng cần tới mấy chục ngàn quân Mỹ đồn trú thường trực, để đối phó với Cộng quân khi cần. Cho nên, giây phút Mỹ chính thức cuốn gói rời Sài Gòn, là tín hiệu toàn miền Nam rơi vào tay cộng sản. Xã hội sẽ náo loạn, ngay cả người Mỹ cũng khó rút đi an toàn. Đợi cho đến sáng 29, sau khi có điện văn chính thức của tân Thủ tướng Vũ văn Mẫu, yêu cầu Mỹ rút trong vòng 24 giờ, đại sứ Martin mới chính thức thi hành kế hoạch di tản. Như vậy, trên danh nghĩa, Mỹ ra đi vì bị đuổi, không phải tự ý bỏ đi.

Sau này, qua một cuộc phỏng vấn, được hỏi tại sao đuổi Mỹ trong tình trạng nguy ngập như thế, ông Mẫu cho biết đã làm theo yêu cầu của đại sứ Martin.

Chiều 29-4, tòa đại sứ có hai bãi đáp dành cho hai loại trực thăng CH-46 trên nóc nhà, và CH-53 dưới sân đậu xe, sau khi đã đốn một cây me lớn. Washington chỉ thị đại sứ Martin ra đi sớm, và người Mỹ đi ưu tiên. Ông Martin không chống lại lệnh thượng cấp, nhưng chần chừ không chịu đi. Đồng thời, qui định người đi trên mỗi chuyến bay theo tỉ lệ khoảng 10 người có 1 người Mỹ. Ngoài ra, một số nhân viên tòa đại sứ Nam Hàn, đã vào được tòa đại sứ Mỹ, luôn yêu cầu được ưu tiên ra đi, nhưng chỉ được đối xử như mọi người.

Phi công định ngừng cầu không vận khi trời tối. Tòa đại sứ yêu cầu tiếp tục, cam kết có đủ ánh sáng, bằng cách gom một số xe hơi lại, cùng chạy máy, mở đèn pha chiếu thẳng vào bãi đáp. Hơn 9 giờ rưỡi tối, có lệnh từ Hạm đội 7 chấm dứt kế hoạch vào lúc 11 giờ. Ông đại sứ vẫn yêu cầu tiếp tục. Khoảng nửa đêm, lại có lệnh chỉ còn 20 chuyến bay nữa, trong khi vẫn còn 850 người chờ được bốc, chưa kể 225 quân nhân TQLC. Bên ngoài, vẫn còn hàng chục ngàn người.

Khoảng 4 giờ sáng 30 tháng 4, Đại úy phi công Gerald L. “Gerry” Berry, được lệnh đáp chiếc CH-46 trên nóc tòa đại sứ, và phải đợi đến khi đại sứ Martin lên máy bay, mới được cất cánh. Ông Martin vĩnh biệt nhiệm sở lúc 4:58 phút sáng. Sau ông, chỉ còn những chuyến bay chở TQLC ra đi. Ông Martin đã tự biến mình thành con tin, để Bạch ốc không thể ngừng sớm cuộc di tản. Tuy nhiên, ông đã không thành công hoàn toàn; số người kẹt lại trong khuôn viên tòa đại sứ khoảng trên dưới 400.

Tư lệnh Hạm đội 7, Phó đô đốc George Steele, cũng có cùng quan điểm:

“Một điều không được biết nhiều là đại sứ Martin tìm cách mang đi một số lớn người Việt từ tòa đại sứ. Nó có vẻ như một con số bất tận, và người cùng máy móc của chúng tôi bắt đầu thấm mệt… Tôi không muốn cho lệnh bắt ông. Nhân vật số 3 của đại sứ quán đáp xuống Blue Ridge xác nhận báo cáo rằng đại sứ bệnh và kiệt sức. Qua lòng thành đối với các đồng nghiệp Việt Nam của chúng ta, ông đã cố gắng giữ cho cuộc di tản kéo dài bất tận, và theo quan điểm của tôi, ráng giữ cho nó tiếp tục bằng cách tự mình không ra đi”

Phép lạ bị lãng quên

Trong một bài phổ biến trên RFA sau khi xem Last days in Vietnam, tổng biên tập của đài này là nhà báo lão thành Dan Southerland viết:

Cuốn phim cũng kể câu chuyện về Richard Armitage, khi đó 30 tuổi, sĩ quan cố vấn của Hải quân Việt Nam, về sau đảm nhiệm những chức vụ cao cấp trong Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời các Tổng thống Reagan và Bush.

Armitage làm việc chặt chẽ với hạm trưởng tàu Kirk cùng các sĩ quan Hải quân khác để đưa 30 chiếc tàu của Hải quân Việt Nam cùng với mấy chục tàu đánh cá và tàu vận tải đầy người tị nạn trốn chạy khỏi Việt Nam. Đài truyền thanh quốc gia NPR của Hoa Kỳ, trong phóng sự riêng về chiến hạm USS Kirk, đã viện dẫn thống kê cho thấy có tới 30 ngàn người chen chúc nhau trên những con tàu này. Một số tàu không thể nhúc nhích được, tàu khác phải kéo đi. Nhiều chiếc khác bị vô nước. Thật là một phép lạ khi đoàn tàu ấy, với sự giúp đỡ của người Mỹ, đã vượt được cả ngàn dặm về hướng đông để đến được bờ bến Philippines an toàn.

(Nếu gọi đây là “phép lạ” thì người viết bài này, nhờ may mắn có mặt trên chiến hạm HQ 3, soái hạm của đoàn tầu Việt Nam, có thể nói rõ những ai đã làm được phép lạ này, và họ đã bị lãng quên ra sao)

Sau này, xem các bộ phim The fall of Saigon, Lucky few, và Last days in Vietnam, tôi mới được biết Đại tá Hải quân Đỗ Kiểm, là người được trao trách nhiệm tổ chức đưa toàn bộ hạm đội Việt Nam ra đi, để khỏi rơi vào tay Cộng sản. Trên HQ 3, tôi cứ đinh ninh Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh là người chỉ huy chuyến đi. Trên tầu, còn nhiều tướng lãnh cao cấp hơn, nhưng chỉ thấy tướng Minh (thủy thủ gọi là “Đô đốc Minh” – hình như trong Hải quân, ai đeo sao cũng được gọi là “đô đốc”) qua lại, đôn đốc, ra chỉ thị, hay lên tiếng trên hệ thống loa phát thanh.

Chiều 30-4-1975, 30 chiếm hạm của VNCH tập trung ở Côn Sơn, đa số chở đầy người tị nạn, chưa biết sẽ đi đâu. Được hỏi, tướng Minh nói vẫn chưa biết đi đâu. Ông thêm: “Có một sĩ quan liên lạc sắp đến từ Hạm đội 7, ông này sẽ cho biết mình đi đâu”. Với thái độ phấn khởi, tướng Minh tiết lộ thêm: “Tay này còn trẻ, rất có cảm tình với Hải quân Việt Nam, tên là Richard Armitage, biết nói tiếng Việt, có tên Việt là Trần văn Phú, vì thánh tổ Hải quân Việt Nam họ Trần, Văn là tên đệm của đa số đàn ông Việt Nam, Phú là giầu (từ tên Richard). Khi ông Armitage, thường phục, từ tầu liên lạc nhỏ leo lên HQ 3, đã được tướng Minh chào đón nồng nhiệt.

Sáng 1 tháng 5, sau khi vớt thêm một số người từ Côn Sơn, cũng như một số người xuống tầu nhỏ trở về, đoàn tầu được lệnh nhổ neo, trực chỉ Philippines.

Nhìn toàn cảnh, đoàn chiến hạm VNCH xếp hàng 3, mỗi hàng 10 chiếc, cùng di chuyển trên mặt nước yên lặng xanh như thủy tinh, giống như trong một cuộc thao diễn khổng lồ, rất ngoạn mục. Ban đêm, đoàn tầu lên đèn sáng trưng, như cả một thành phố di chuyển. Nhưng thực trạng, đó là những chiếc tầu rất cũ, Mỹ đã phế thải trước khi viện trợ cho Việt Nam tái sử dụng. Không hiểu trong tài khoản viện trợ, chúng đã được định giá ra sao. Có thể dân Mỹ vẫn tưởng tiền thuế của họ đã được dùng để mua tầu mới viện trợ cho Việt Nam.

Đoàn tầu di chuyển rất chậm, có chiếc phải ròng dây kéo đi. Có chiếc bị nước vào, phải phân chia người tị nạn sang các tầu khác, rồi bị bắn chìm. Đi từ Côn Sơn đến Phi, bình thường, chỉ mất 2 ngày 2 đêm, đoàn tầu Việt Nam đã phải đi ròng rã trong một tuần.

Hộ tống hạm Mỹ USS Kirk đã hướng dẫn, săn sóc, tận tình giúp đỡ, tiếp tế thuốc men và thực phẩm. Nhưng hạm trưởng Jacobs, cũng như sĩ quan liên lạc Armitage, không phải là các nhà phù thủy có tài hô phong hoán vũ, “bốc” cả đoàn tầu với 30 ngàn người tị nạn đem từ Việt Nam qua Phi. Cái “phép lạ” làm được công việc này, chính là đoàn thủy thủ Hải quân VNCH.

Đại tá Đỗ Kiểm cho biết, chủ đích của kế hoạch là đem tất cả đoàn tầu ra đi, và thủy thủ cùng thân nhân đi càng nhiều càng tốt. Nhưng trước ngày đi, trong khi tướng lãnh và sĩ quan cao cấp biết trước để chuẩn bị, tổ chức cho thân nhân và bạn hữu ra đi, tất cả thủy thủ bị cấm trại 100%. Trước khi ra đi, họ chỉ được vài giờ về đón gia đình. Sợ không sửa soạn kịp, hoặc không kịp trở lại sẽ mang tội đào ngũ, nhất là chưa biết sẽ đi đâu, đa số quyết định đi luôn. Hôm sau tại Côn Sơn, sau khi biết lệnh đầu hàng, một số đã xuống tầu nhỏ trở về.

Những thủy thủ còn gắn bó với tầu, trên nguyên tắc, vì quân ngũ không còn tồn tại, họ không còn bổn phận phục vụ và tuân lệnh cấp trên. Không ai còn quyền ra lệnh, sai bảo họ nữa. Họ, đương nhiên biến thành người tị nạn, như bất cứ ai khác, muốn làm thì làm, không muốn thì thôi. Cũng chẳng còn chính quyền để trả lương cho họ. Tập thể thủy thủ này đã làm việc trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, cả về tinh thần và vật chất. Về tinh thần, trong khi cấp trên của họ, và cả những người ngoài không quen biết mà họ đang phục vụ, đem được gia đình, bạn hữu đi theo, riêng họ, nặng trĩu lo âu, không biết gia đình ra sao. Điều kiện làm việc của họ khó khăn hơn, chật chội hơn, thiếu thốn hơn, vất vả hơn, vì phải làm thay cho những người vắng mặt, và giúp đỡ hàng ngàn người tị nạn. Từ người lái tầu tới thợ máy vẫn phải giữ cho mọi việc hoạt động đều đặn. Riêng phần việc nhà bếp gia tăng gấp bội, vừa phải phục vụ các thượng khách và gia đình, vừa phải cung cấp cơm cháo cho đồng bào tị nạn. Trong tình trạng như vậy, các thủy thủ vẫn cố gắng chịu đựng, làm việc trong kỷ luật, trật tự, và tinh thần trách nhiệm, đưa đoàn tầu và người tị nạn tới bến.

Thật ra, chẳng có phép lạ nào hết. Đó chỉ là thành tích đáng kính phục của các thủy thủ Hải quân VNCH, những đơn vị cuối cùng trong quân lực vẫn còn hoạt động theo đội ngũ, một tuần sau lệnh đầu hàng, để phục vụ đồng bào. Trong gần 40 năm qua, đã có những cuộc gặp gỡ của đông đảo người tị nạn, để cảm ơn Hạm đội 7, cảm ơn USS Kirk, nhưng chẳng thấy ai nhắc đến, ghi ơn, hay vinh danh những người lính Hải quân Việt Nam đã tạo thành tích được coi như “phép lạ”

***

Trong một bài đăng trên New York Times ngày 4-9-2014, nhà điểm phim A.O. Scott viết rằng: “Bây giờ, thời gian đã qua lâu, liên lạc Mỹ Việt đã bình thường, sẽ là điều tốt nếu được nghe tiếng nói của một vài người từ phía bên kia, để được biết những người lính đã suy nghĩ như thế nào khi họ vào Sài Gòn lúc người Mỹ ra đi”

Nhà điểm phim này chắc chưa có cơ hội xem The fall of Saigon ra đời cách đây 20 năm. Lúc ấy, Mỹ Việt vừa tái lập bang giao, và hai người phía bên kia đã có cơ hội lên tiếng trong phim, là Trần văn Trà và viên sĩ quan cấp tá chỉ huy đoàn quân tiến vào Sài Gòn. Không cần nhớ rằng chỉ 2 năm trước 1975, phía bên kia đã ký vào hiệp định hòa bình Paris, qui định nhân dân miền Nam sẽ định đoạt tương lai của mình.

Tướng Trà nói rằng: “Mong đợi thương thuyết vào phút chót chỉ là ước mơ tuyệt vọng của những kẻ biết mình thua cuộc, chúng tôi đã dứt khoát đạt chiến thắng bằng quân sự”

Còn viên sĩ quan cấp tá, đề cập việc binh sĩ VNCH cởi bỏ quân phục sau lệnh đầu hàng, nói: “Họ phải làm như vậy, vì biết rằng, đối với những người đã cầm súng bắn vào quân đội nhân dân, thế nào chúng tôi cũng phải tiêu diệt”

Cho nên, trong Last days in Vietnam, không có tiếng nói của phía bên kia lại là điều hay. Nếu không, nó sẽ làm hư cả cuốn phim, như để một vài con ruồi đáp vào tô phở ngon.

Last days in Vietnam, như đã trình bầy, tuy khá hơn 2 bộ phim tài liệu trước có cùng nội dung, nhưng cũng chỉ mới trình bầy được một phần, chừng 30%, về toàn cảnh những gì xẩy ra trong mấy ngày cuối tháng 4 cách đây 40 năm.

Tuy vậy, đối với nhiều người gốc Việt, bộ phim này cũng đáng giữ làm kỷ niệm, và cho con cháu coi, để chúng biết được một phần, ông bà cha mẹ chúng đã ra đi trong hoàn cảnh như thế nào. Chẳng biết 10 năm sau, trong dịp kỷ niệm 50 năm, có còn phim nào, với thêm hình ảnh mới nữa không?

Có một cảnh vào ngày cuối ở Sài Gòn, chưa ai có được, và có lẽ chẳng ai có, đã đươc Larry Berman kể trong Perfect spy. Đó là cảnh diễn ra chiều 29 tháng 4: Sau hai lần đến trước tòa đại sứ Mỹ mà không vào được, theo chỉ dẫn của Dan Southerland, ký giả của báo Christian Science Monitor, “Điệp viên hoàn hảo” của Hà Nội là Phạm Xuân Ẩn chở bác sĩ Trần Kim Tuyến, vốn được coi là “trùm mật vụ” của Đệ Nhất Cộng Hòa, tới trụ sở CIA ở 22 Gia Long. Ông Tuyến đến đúng lúc cánh cổng đang hạ xuống, và chuyến trực thăng chót đang sửa soạn cất cánh Được Ẩn đẩy vào, ông Tuyến chạy vội lên nóc nhà. Một cánh tay từ trực thăng đưa ra kéo bổng ông lên. Đó là tay tướng Trần văn Đôn, thành viên nhóm đảo chánh, đã từng hạ lệnh bắt và đầy ông Tuyến ra Côn đảo.

Anh chị Thụ & Mai gởi

HÀ TĨNH DÙNG NGÀNH GIÁO DỤC LỪA ĐẢO GIẾT DÂN

From facebook:Hoa Kim Ngo shared JB Nguyễn Hữu Vinh‘s post.
 

JB Nguyễn Hữu Vinh : HÀ TĨNH: LỪA ĐẢO GIẾT DÂN

Theo nhiều người dân Hà Tĩnh cho biết:

Cấp ủy các huyện Thạch Hà và Tp đã ra chỉ thị: Tất cả giáo viên và học sinh phải tham gia tắm biển và ăn cá biển làm mẫu cho người dân vào các chủ nhật nhất là ngày 30/4 và 1/5. Họ mặc dân chết dần trong vũng chất độc của Formosa.

Nhà trường và công đoàn sẽ hỗ trợ xe hoặc tiền ăn với mục đích là lừa bằng được dân ăn cá và tắm biển.

Trong khi cho đến giờ này chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm xác định cho dân là biển ở đâu sạch và cá nào ăn được.

Thiết nghĩ ngành giáo dục là ngành cần sự khoa học và trung thực lại ngu xuẩn làm việc này vì lý đó gì?
Cũng có nhiều thông tin là nhiều bộ đội, công an ra chợ mua cá làm mẫu cho dân mua về ăn.

Nhưng hẳn nhiên là gia định họ không ăn.

Khắp nơi đang căng băng rôn kêu gọi lừa đảo người dân Hà Tĩnh công khai.
Kết: MỘT SỰ KHỐN NẠN TẦY TRỜI.

 
Image may contain: sky, tree and outdoor
Image may contain: text
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
+3
JB Nguyễn Hữu Vinh added 7 new photos.Follow

 

NÓNG:
HÀ TĨNH DÙNG NGÀNH GIÁO DỤC LỪA ĐẢO GIẾT DÂN

Trong khi cho đến giờ này chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm xác định cho dân là biển ở đâu sạch và cá nào ăn được. Quan chức Hà tĩnh xúi dân án cá và tắm biển Vũng Áng rồi lặn “không sủi tăm” từ năm ngoái.

Việc người dân ăn phải cá nhiễm kim loại nặng là hết sức nguy hiểm cho sức khỏe và nòi giống.

Theo nhiều người dân Hà Tĩnh cho biết:
Cấp ủy các huyện Thạch Hà và Tp đã ra chỉ thị: Tất cả giáo viên và học sinh phải tham gia tắm biển và ăn cá biển làm mẫu cho người dân vào các chủ nhật nhất là ngày 30/4 và 1/5. Họ mặc dân chết dần trong vũng chất độc của Formosa.

Ngành giáo dục Huyện Thạch Hà đã công phu lập danh sách phân công các trường phải vào ăn ở các nhà hàng cụ thể kèm số điện thoại…

Nhà trường và công đoàn sẽ hỗ trợ xe hoặc tiền ăn với mục đích là lừa bằng được dân ăn cá và tắm biển.

Nhiều người là giáo viên, học sinh và phụ huynh không đồng ý đi lừa đảo thì được cho biết “Đây là nhiệm vị chính trị”.

Thiết nghĩ ngành giáo dục là ngành cần sự khoa học và trung thực lại ngu xuẩn làm việc này vì lý đó gì?

Cũng có nhiều thông tin là nhiều bộ đội, công an ra chợ mua cá làm mẫu cho dân mua về ăn.

Nhưng hẳn nhiên là gia đình họ không ăn.

Khắp nơi đang căng băng rôn kêu gọi lừa đảo người dân Hà Tĩnh công khai.

Kết: MỘT SỰ KHỐN NẠN TẦY TRỜI.

Cần chia sẻ điều này cho mọi người dân hiểu.

VTV 1 vẫn dùng chiêu trò dối trá, bỉ ổi

From facebook:  Hoa Kim Ngo‘s post.
 
Image may contain: one or more people, people standing, suit and indoor

Hoa Kim Ngo

 VTV 1 vẫn dùng chiêu trò dối trá, bỉ ổi. Chúng đưa hình ảnh cuộc họp tại huyện Mỹ Đức ngày 20- 4 nói là hôm nay. Hôm đó không có người dân Đồng Tâm dự, chúng cho một ông cụ nào đó nhân danh dân Đồng Tâm thú nhận là mình sai. Cuối cùng chúng mới đưa hình ảnh người dân thả cscđ ngày hôm nay và nói là người dân đã nhân biết được sai trái , không hiểu biết nên sau khi đối thoại với chú tịch Nguyễn Đức Chung đã đồng ý thả. Và nói ông Nguyễn Đức Chung sẽ xem xét và xứ nhẹ.

Bọn vô lương tâm, bịp bợm này vẫn tiếp tục luận điệu dối trá trắng trợn.

GHÊ TỞM LŨ NÀY.

Nông dân Đồng Tâm thả tất cả cán bộ, công an bị cầm giữ

Nông dân Đồng Tâm thả tất cả cán bộ, công an bị cầm giữ

2017-04-22
 
Chủ tịch thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung đã có mặt bên trong hội trường UBND xã Đồng Tâm sáng thứ Bảy 22/4/2017 để bắt đầu đối thoại với người dân.

Chủ tịch thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung đã có mặt bên trong hội trường UBND xã Đồng Tâm sáng thứ Bảy 22/4/2017 để bắt đầu đối thoại với người dân.

Courtesy of VTC online
 

Ngay sau cuộc đối thoại với người dân Đồng Tâm, Chủ tịch thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung đã được đưa tới Nhà văn hóa thôn Hoành, nơi người dân đang cầm giữ 19 cán bộ, chiến sĩ công an. Tại đây hai bên ký biên bản bàn giao người.

Trong khi đại diện hai bên lập biên bản bàn giao người, Chủ tịch Nguyễn Đức Chung đã vào trong Nhà văn hóa thôn thăm các chiến sĩ đang bị giữ.

Trước đó, trong cuộc đối thoại với đại diện của người dân Đồng Tâm, ông Chung ngỏ lời cám ơn bà con đã đối xử tử tế với các cán bộ chiến sĩ trong tuần lễ vừa qua, và để nghị hãy thả hết các cán bộ, chiến sĩ công an và cảnh sát cơ động còn đang bị cầm giữ:

“Hôm nay bà con đã nhận thức được việc bắt giữ người là trái pháp luật. Tôi tin sau cuộc đối thoại này, bà con sẽ thả nốt những người đang bị giam giữ còn lại”.

NguyenDucChung-Thanguoi-622.jpg
Lán trại được dựng tạm trong sân nhà văn hóa thôn Hoành để làm nơi lập biên bản thả người. Courtesy of Dantri online

Cùng với đề nghị thả người, Chủ tịch thành phố Hà Nội hứa sẽ tiếp tục đối thoại để giải quyết các bức xúc của người dân, và hứa sẽ giải quyết vụ tranh chấp này một cách công tâm. Ông nói:

“Tôi xin cảm ơn sự chân thành của các cụ; cảm ơn tất cả các cụ, các ông, các bà… đã cộng tác với tôi. Tôi hứa với các cụ, tôi sẽ là người chỉ đạo để làm sao giải quyết những vấn đề một cách công tâm, công bằng nhất. Quan điểm nhất quán của Thành ủy, Trung ương là kiên trì đối thoại với bà con”.

Như vậy là sau một tuần lễ bị bắt giữ từ hôm xảy ra vụ cưỡng chế đất 15/4, tất cả 38 cán bộ, công an và cảnh sát cơ động đã được người dân Đồng Tâm thả ra.

TRUNG QUỐC – BÌNH NHƯỠNG ĐANG THAM GIA ĐỐI THOẠI Ở ĐỒNG TÂM

From facebook:  Hoa Kim Ngo shared Lê Nguyễn Hương Trà‘s post.
TRUNG QUỐC – BÌNH NHƯỠNG ĐANG THAM GIA ĐỐI THOẠI Ở ĐỒNG TÂM
 
Image may contain: 6 people, people standing and outdoor 
 

Lê Nguyễn Hương Trà 

 Sáng nay 22.4, đúng 1 tuần xảy ra sự kiện tranh chấp đất, ông chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung đi xuống xã Đồng Tâm cùng với thiếu tướng Hồ Sỹ Tiến (Cục trưởng Cảnh sát hình sự, BCA), thiếu tướng Nguyễn Doãn Anh (Tư lệnh Bộ tư lệnh Thủ đô), thiếu tướng Đoàn Duy Khương (Giám đốc Công an thành phố)…vv…

Cũng trong sáng nay, hai đại biểu Quốc hội là ông Dương Trung Quốc và Lưu Bình Nhưỡng đã về xã Đồng Tâm lắng nghe nguyện vọng của bà con. Ông Quốc đọc số điện thoại của mình trước nhiều người để có gì bà con cứ gọi. Ông Quốc nói mình có lỗi vì đầu tháng nhận được đơn của dân xã nhưng vì bận đi công tác chưa về được thì xảy ra sự việc ^-^

Trong làng, việc dọn dẹp các chướng ngại đã diễn ra khẩn trương. Loa phát thanh xã thông báo cuộc gặp và nội dung trao đổi phát trực tiếp trên loa. Có chị hổng biết thuộc đơn vị nào đã mang… hoa ra đón đoàn xe ông Chung ;v

Tới 10:30, ông Chung đã ngồi ghế chủ tọa nhưng cuộc đối thoại vẫn chưa bắt đầu được, do nhiều người dân ở bên ngoài muốn vô hội trường. Ông Chung sau đó ra tận cửa…tươi cười và xin lỗi việc đến muộn do đoàn gặp…sự cố giao thông trên đường. Cuối cùng, có gần 50 đại diện Đồng Tâm vô hội trường gặp ông Chung.

Túm lại, Hà Nội – Trung Quốc và Bình Nhưỡng đều đang có mặt tại Đồng Tâm ^-^

….

Trong cuộc đối thoại, ông Chung nói ổng có ghi chép 21 đề nghị của người dân. Và bảo: “Bà con đã nhận thức được việc bắt giữ người là trái pháp luật. (…). Tôi ghi nhận việc làm của bà con là từ bức xúc đất đai, từ việc bắt giữ người không công bố lệnh, không mặc trang phục, bắt đưa lên ô tô (…) Tôi tin đất nước ta có truyền thống đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại. Luật pháp có quy định thành khẩn, khắc phục hậu quả, tôi tin bà con sẽ được giảm nhẹ”. Ông Chung cũng ghi nhận việc người dân đối xử tốt, chu đáo với 38 người bị bắt và bảo sẽ báo cáo xem xét các tình tiết trên.

Ngoài ra, ông Chung hứa không dùng biện pháp mạnh và cam kết giám sát thanh tra việc bắt cụ Lê Đình Kình.
..

P/s: Trong một phỏng vấn ngày hôm qua, con gái cụ Lê Đình Kình – chị Lê Thị Hoa, phản ứng khi cho rằng Lệnh của chính quyền là sai sự thật. Chị Hoa bảo, CA nói cụ Kình bị bắt vì gây rối trong khi sáng 15.4 ông cụ bị bắt cóc trong lúc được mời đi chỉnh mốc giới. Chi Hoa còn cho biết, người của CA Hà Nội vẫn canh gác cụ Kình tại phòng hồi sức tích cực Bệnh viện Việt Đức. Cụ hiện vẫn còn yếu, do bị đánh gãy đùi. Người nhà chỉ được vào thăm 10 phút.

Trước đó, sau chuyến đi lần I của ông chủ tịch Chung xuống huyện Mỹ Đức (20.4) Viện KSND Hà Nội đã ra quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn/tạm giam cụ Kình.
——

Trưa 22.4, sau 2 tiếng đối thọai, dân Đồng Tâm dẫn đoàn của chủ tịch Chung đến nhà văn hóa thôn Hoành – nơi người dân đang giữ 19 người của phe cưỡng chế, để chứng kiến việc thả người!

(Clip) Gặp gỡ của Hà Nội – Trung Quốc – Bình Nhưỡng với dân Đồng Tậm. Theo ©VTC1 thì ông Chung đã cam kết không truy cứu trách nhiệm hình sự dân Đồng Tâm. Đồng thời, cam kết sẽ thanh tra việc sử dụng, quản lý đất tại Đồng Tâm, thanh tra việc công an thực thi lệnh bắt dân!

Tan hàng, nhà ai nấy về lúc 14:30 ngày 22.4, sau 8 ngày sự kiện Đồng Tâm!